Dàn ý vì sao tác giả Nguyễn Khải lại gọi nhân vật bà Hiền là hạt bụi vàng của Hà Nội?
A, Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề cần giải quyết: Giải thích vì sao Nguyễn Khải lại gọi bà Hiền là hạt bụi vàng trong tác phẩm Một người Hà Nội
B, Thân bài
Nói đến hạt bụi, người ta nghĩ đến vật nhỏ bé, tầm thường và chẳng ai để ý. Nhưng có điều nó lại là hạt bụi vàng thì dù nhỏ bé nhưng có giá trị quí báu. Cô Hiền là một người Hà Nội bình thường nhưng cô thấm sâu những cái tinh hoa trong bản chất người Hà Nội.
Luận điểm 1: Bà hiền qua việc thu xếp việc nhà
– Việc hôn nhân: Là phụ nữ có nhan sắc, yêu văn chương, thời con gái giao du với nhiều văn nhân nghệ sĩ nhưng không chạy theo những tình cảm lãng mạn viển vông, bà Hiền “chọn bạn trăm năm là một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc”. Người ta kinh ngạc vì nghĩ theo thói thường, còn bà Hiền lại vượt qua thói thường ấy. Bà không ham danh, không cơ hội, sự tính toán, chọn lựa của bà cho thấy bà có thái độ nghiêm túc với hôn nhân, đặt trách nhiệm “làm vợ”, “làm mẹ” lên trên mọi thú vui khác. Ông giáo tiểu học (mẫu người mô phạm, khiêm nhường) hiền lành, chăm chỉ là người thích hợp với quan niệm của bà về tổ ấm gia đình.
– Việc sinh con: ở cái thời người Việt Nam thích đẻ nhiều con thì quyết định của bà Hiền chấm dứt sinh đẻ vào năm bốn mươi tuổi cũng là một quyết định khác người. Bà không tin “Trời sinh voi trời sinh cỏ” mà bà tin con cái phải được nuôi dạy chu đáo để chúng “có thể sống tự lập”. Như vậy, trách nhiệm làm cha mẹ không phải chỉ ở việc sinh con mà quan trọng hơn là cho con một nhân cách, chuẩn bị cho con một tương lai sống, không bị lệ thuộc. Tình yêu con của bà Hiền là tình yêu sáng suốt của người mẹ giàu tự trọng, biết “nhìn xa trông rộng”.
– Việc quản lí gia đình: bà Hiền luôn luôn là người chủ động, tự tin vì bà hiểu rõ vai trò quan trọng của người vợ, người mẹ. Khi phê bình thói “bắt nạt vợ” quá đáng của người cháu, bà bảo: “Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chả ra sao”. Quan niệm về “bình đẳng nam nữ” của bà xuất phát từ thiên chức của phụ nữ – đấy là một chân lí tự nhiên, giản dị.
– Việc dạy con: bà Hiền dạy con là phải dạy khi chúng còn nhỏ và dạy từ những cái nhỏ nhất. Bà dường như không coi chuyện ngồi ăn, chuyện cầm bát, cầm đũa, múc canh, v.v. đó cũng chỉ là chuyện sinh hoạt vặt vãnh mà coi đấy là văn hoá sống, văn hoá người, hơn thế, đấy là văn hoá của người Hà Nội: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không thể sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Cái “chuẩn” trong suy nghĩ của bà là “lòng tự trọng”. Lòng tự trọng không cho phép con người sống hèn nhát, ích kỉ cá nhân. Bà bằng lòng và cho Dũng đi chiến đấu vì “không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè”. Bà cũng đã lại chấp nhận khi đứa em Dũng muốn tiếp bước anh: “… bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Con người một khi đã đánh mất lòng tự trọng thì cũng coi như chết về nhân cách. Có lòng tự trọng sẽ có lòng yêu nước, có ý thức trách nhiệm với cộng đồng. Có thể nói, với những người như bà Hiền, lòng yêu nước cũng là một nhu cầu tự nhiên, xa lạ với những gì ồn ào, giả tạo.
Câu trả lời của bà Hiền “Tao đau đớn mà bằng lòng…” đã diễn tả đầy đủ mà ngắn gọn những giằng xé âm thầm giữa tình yêu con với tình yêu nước, giữa nỗi lo âu với ý thức về danh dự. Không bà mẹ nào muốn con gặp hiểm nguy, gian khổ, nhưng cũng không bà mẹ nào muốn thấy con phải sống đớn hèn, nhục nhã. Bà Hiền tôn trọng danh dự của con, hiểu con nên chấp nhận để con đi chiến đấu, nhưng bà không che giấu nỗi đau lòng, không vờ vui vẻ ồn ào. Với bà, đây là quyết định khó khăn nhưng hợp lí nhất. Qua chi tiết này, tác giả muốn khẳng định cá tính và bản lĩnh của bà Hiền: không tạo uy tín, danh dự bằng lời nói không thành thực, luôn dám là mình.
Bà tin và sự trường tồn của hóa Hà Nội: kể lại chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị bão đánh bật rễ rồi lại hồi sinh.
Như vậy, bà Hiền là người có bản lĩnh, trung thực, giàu tự trọng. Những phẩm chất đó được nhào nặn từ truyền thống gia đình, từ năng lực tự ý thức, từ kinh nghiệm sống mà bà đúc rút được trong chính cuộc sống đời thường của một người vợ, người mẹ, và đó là “người Hà Nội”. Tình yêu Hà Nội ở bà không hời hợt hay cảm tính mà sâu sắc vì nó gắn với một niềm tin: Hà Nội là chuẩn mực về văn hoá của người Việt. Mỗi công dân Hà Nội phải có ý thức giữ gìn và phát huy chuẩn mực đó.
Luận điểm 2: Bà Hiền và văn hóa Hà Nội
Còn với người như bà Hiền, người đọc có thể nhận ra nhiều nét đẹp trong lối sống. Nói “lối sống” là nói đến quan niệm, nguyên tắc làm cơ sở cho những ứng xử có ý thức của con người. Qua việc làm và suy nghĩ của bà Hiền, có thể thấy nổi lên bản lĩnh một con người luôn luôn dám là mình: là mình khi đề cao lòng tự trọng, là mình trong quan hệ với cộng đồng, đất nước, là mình trong những chiêm nghiệm lẽ đời,… Đặt tên truyện là “Một người Hà Nội”, có lẽ tác giả muốn khắc đậm bản lĩnh, cốt cách của người Hà Nội, họ luôn “là mình” với ý thức là “người Hà Nội”, là sự đại diện cho cả nước, là tinh hoa (“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài – Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” – ca dao). “Chất Hà Nội” ở bà Hiền biểu lộ qua nét văn hoá lịch lãm, sang trọng (phòng khách của bà như luư giữ cái hồn Hà Nội: cổ kính, quý phái và tinh tế mà “suốt mấy chục năm không hề thay đổi”), qua thái độ ung dung, tự tại (trước những biến động bên ngoài, trước lời nhận xét “hơi nghiệt” của người cháu), qua sự khôn ngoan, sâu sắc của trí tuệ (bà nói về luật tự nhiên, về niềm tin: Hà Nội “Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi”). Bà “khiêm tốn và rộng lượng”, bà hoà mình vào cảnh sắc Hà Nội “trời rét, mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ẩm áo chứ không làm ướt”, bà đang lau chùi cái bát cổ để cắm hoa thuỷ tiên,… Sự hài hoà đó là cái duyên riêng Hà Nội, nét quyến rũ của Hà Nội khiến người xa Hà Nội luôn luôn nhớ về và phải kêu thầm lên “thấy tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái tết Hà Nội”.
C, Kết bài
Trong “Một người Hà Nội”, Nguyễn Khải đã có những khám phá sâu sắc về bản chất của nhân vật trên dòng lưu chuyển của hiện thực lịch sử: Là một con người, bà Hiền luôn giữ gìn phẩm giá người, Là một công dân, bà Hiền chỉ làm những gì có lợi cho đất nước. Là một người Hà Nội, bà đã góp phần làm rạng rỡ thêm cái cốt cách, cái truyền thống của một Hà Nội anh hùng và hào hoa- tôn thêm vẻ đẹp thanh lịch quyến rũ của “người Tràng An”.Chất nhân văn sâu sắc của ngòi bút Nguyễn Khải chính là ở đó.
Tác giả lại gọi nhân vật bà Hiền là hạt bụi vàng của Hà Nội, em hãy giải thích điều trên
Nguyễn Khải là nhà văn mà tài năng và tên tuổi đã được khẳng định trong văn học Việt Nam hiện đại. Tác giả nhạy bén với những vấn đề thời sự xã hội và có khả năng phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo. Ở giai đoạn đổi mới của đất nước, ông đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần và số phận cá nhân trong cuộc sống đời thường. Giọng văn Nguyễn Khải đôn hậu, trầm lắng, nhiều chiêm nghiệm về những triết lý nhân sinh. Truyện ngắn Một người Hà Nội sáng tác năm 1990 phát hiện vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách của người Việt Nam qua bao biến động thăng trầm của đất nước ; đồng thời thể hiện cảm nhận của tác giả về những nét đáng quý của người Thủ đô, thông qua nhân vật cô Hiền, một người họ hàng xa mà ông trân trọng gọi là hạt bụi vàng của Hà Nội.
Tác giả với vai trò là người cháu họ xa đứng ra kể chuyện về cô Hiền. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả, cô Hiền có lối sống của tầng lớp trung lưu ở Hà Nội vào thời kì miền Bắc chưa giải phóng. Chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội thế giới đã chấm dứt gần trăm năm đô hộ của thực dân Pháp, mở ra một trang sử mới cho đất nước Việt Nam. Nhân dân miền Bắc nô nức, hăng hái bắt tay vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cuộc sống sau chiến tranh thật gian nan, thiếu thốn. Vì thế mà cô Hiền phải tìm cách để thích nghi dần dần với chế độ mới. Cô vốn khéo tay nên đã chọn nghề làm hoa giấy và mở cửa hàng bán tại nhà. Theo cô thì cái nghề này không giàu nhưng cũng đủ ăn: Hoa làm rất đẹp, bán rất đắt, nhưng chịu thuế rất nhẹ, chỉ có một mình cô làm, các con thì chạy mua vật liệu, hoặc làm giúp phần cuống lá vào dịp Tết ta và Tết tây…
Người cháu tức tác giả khách quan nhận xét là cô khôn hơn các bà bạn của cô và cũng thức thời hơn chồng. Cô biết trong chế độ mới, việc gì làm được, việc gì không làm được nên đã khuyên chồng không nên mua máy in vì sẽ bị quy là thành phần tư sản. Cô Hiền đảm đang, tháo vát và rất có ý thức về vai trò của người vợ trong gia đình. Cô bảo với người cháu: …Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chả ra sao. Việc giáo dục con cái vào nề nếp được cô rất quan tâm: Khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn, cô thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát cầm đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn, Cô vẫn răn lũ con tôi: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Có lần, người cháu tranh luận với cô về cách dạy dỗ lớp trẻ. Chúng tôi là người của thời loạn, các cụ lại bắt dạy con cái theo thời bình là khó lắm. Cô ngồi ngẩn ra một lúc, rồi bảo: “Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ, còn sau này muốn ra sao là tùy”. Theo cô thì lòng tự trọng là cơ sở của đạo đức, nó chi phối mọi suy nghĩ, hành động và làm nên giá trị, danh dự của mỗi con người.
Sự trung thực, lòng tự trọng và bản lĩnh cứng cỏi của cô Hiền khiến người cháu cảm phục. Khi cuộc chiến tranh chống Mĩ đến thời điểm gay go, ác liệt, anh con trai lớn của cô tình nguyện vào Nam chiến đấu. Người cháu hỏi cô: “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?” Cô trả lời: "Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Anh Dũng vào chiến trường, ba năm liền gia đình không nhận được tin tức gì, đứa em kế lại làm đơn xin tòng quân. Người cháu lại hỏi: Cô cũng đồng ý cho nó đi à? Cô trả lời buồn bã: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó… Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay ho gì”.
Đạo lí truyền thống là nền tảng giúp cô Hiền có thể sống tốt, sống đẹp ở mọi thời, trong mọi mối quan hệ gia đình và xã hội. Cô Hiền khôn ngoan mà tự trọng, thức thời mà chu đáo, linh hoạt là trung thực, đôn hậu mà bản lĩnh, đảm đang trọn vẹn cả việc nước lẫn việc nhà. Tính cách cô Hiền vừa có những nét đặc trưng của người Hà Nội gốc, vừa có phẩm chất chung của người Việt Nam; giản dị mà lịch lãm, thiết thực mà sang trọng, cần mẫn mà tài hoa, chân thực mà tinh tế, sâu sắc, Ngày thường, cô ăn mặc giản dị như bao phụ nữ khác, nhưng trong bữa tiệc mừng con trai lớn bình yên trở về sau chiến tranh, cô Hiền xuất hiện trước khách mời như diễn viên trên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hạt lấp lánh… Trong niềm vui đoàn tụ của cô còn có niềm tự hào to lớn của một người mẹ có đứa con xứng đáng với gia đình, xã hội vì đã làm tròn bổn phận công dân đối với đất nước.
Đất nước mở cửa được dăm năm, đời sống vật chất đã sung túc hơn hẳn thời bao cấp. Nhiều người giàu lên nhanh chóng nhờ thích ứng với cơ chế thị trường. Cách nghĩ, cách sống, cách ứng xử của người Hà Nội lúc này cũng thay đổi đáng kể. Sau một thời gian dài chuyển vào Nam sinh sống, người cháu, tức tác giả ra Hà Nội công tác và đến thăm cô Hiền. Lúc này, cô Hiền đã ngoài bảy mươi tuổi nhưng vẫn là người của hôm nay, một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Ngắm cô Hiền đang chăm chú lau đánh cái bát bày thủy tiên, người cháu thấy Tết quả, Hà Nội quả, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội. Quả là cô Hiền vẫn cố gắng gìn giữ những gì là tinh hoa trong nếp sống thanh lịch của người Hà Nội. Trong suy nghĩ của cô Hiền, Hà Nội thời nào cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi. Hà Nội đã thực sự trở thành máu thịt, thành không gian sống gắn bó với cô suốt cả cuộc đời.
Tác giả đã bỏ công phu tìm hiểu, phân tích chiều sâu đời sống tâm hồn của cô Hiền để rồi bất chợt nảy ra một hình ảnh so sánh vô cùng thú vị: cô Hiền là hạt bụi vàng của Hà Nội. Đây là sáng tạo nghệ thuật chứa đựng nhiều ý nghĩa. Hạt bụi vàng là hình ảnh một sự vật nhỏ bé, khiêm nhường mà đẹp đẽ, quý báu. Nhưng nhiều hạt bụi vàng hợp lại sẽ thành ánh vàng chói sáng. Đó là phẩm giá, là bản sắc truyền thống của người Hà Nội nghìn năm văn hiến.
Hạt bụi vàng là ẩn dụ nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, thể hiện thái độ trân trọng và tự hào của tác giả đối với nhân vật của mình. Nguyễn Khải cô đúc toàn bộ phẩm chất tốt đẹp của nhân vật vào một hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng: Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hay mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ảnh vàng! Nhân vật cô Hiền đã chiếm được thiện cảm của người đọc qua cách kể chuyện, miêu tả tự nhiên, linh hoạt và tinh tế của tác giả. Đọc tác phẩm, chúng ta hiểu thêm về tính cách thanh lịch, hào hoa của con người và lối sống Hà Nội, từ đó càng yêu mến, tự hào về Thủ đô – trái tim của Tổ quốc Việt Nam yêu dấu.