Thật thú vị, đọc truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” (in trong tập truyện Những vùng trời khác nhau” – 1970) của Nguyễn Minh Châu, ta lại được sống trong những phút giây hạnh phúc của sự kiếm tìm đó – kiếm tìm vẻ đẹp nhân vật Nguyệt qua sự cảm nhận của Lãm – nhân vật người kể chuyện trong hành trình Nguyễn Minh Châu đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người.
Chiến tranh không chỉ có bom đạn, không chỉ có chiến công mà còn có tình yêu – những tình yêu làm con người ta lớn cao hơn, đẹp đẽ hơn. “Mảnh trăng cuối rừng” là câu chuyện lãng mạn về một tình yêu chân thành trong chiến tranh, ở đó có những con người đi tìm nhau, ngồi cạnh nhau mà không hề hay biết… Viết truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu muốn khẳng định sức mạnh bất diệt của tình yêu trong bom đạn khốc liệt của kẻ thù và ca ngợi những tâm hồn ngọc. Tác giả đã gửi gắm ý tưởng đó qua nhân vật Nguyệt. Có lẽ không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Minh Châu để vẻ đẹp của Nguyệt cứ hiện dần lên qua cái nhìn của Lãm cũng như không phải ngẫu nhiên ông lại đặt tên nhân vật như thế (Lãm cũng là ngắm nhìn).
Lãm là một chàng lính lái xe nghiêm túc, đầy trách nhiệm với công việc. Lúc đầu, biết có một cô gái đi nhờ xe, anh không chút thiện cảm và có ý nghĩa coi thường cô khi hình dung ra cảnh xin nhờ xe quen thuộc: “một bên là cái vẻ nũng nịu của một nàng ôm cái nón trắng đứng sát cửa xe, một bên là những câu hỏi ỡm ờ của anh tài phụ”… Nhưng nghe những câu trả lời với giọng bình tĩnh, cứng cỏi, tiếng nói trong lắm, khiến anh thầy trong bụng phát hoảng lên vì cái cách con gái ăn nói đối đáp bạo dạn nhường ấy. Tiếng nói ấy để lại ấn tượng về một cô gái đầy nữ tính sống cũng đầy bản lĩnh. Dịu dàng, sáng trong như mảnh trăng non đầu tháng, Nguyệt bộc lộ vẻ đẹp của mình khiến cảm giác khó chịu của Lãm mất dần trên từng chặng đường.
Trước hết là vẻ đẹp của ngoại hình – từ “đôi gót chân trắng hồng”, từ “vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt lời nói và tấm thân mảnh dẻ: qua ánh đèn tù mù của đoàn xe xích đến vẻ đẹp rạng rỡ “ngời lên dưới ánh trăng. Trên lớp sương bồng bềnh lòng chàng lái xe như họa lòng thi sĩ trong linh cảm người con gái mình cần tìm gặp đang ngồi cạnh mình. Rất tự nhiên, vẻ đẹp của Nguyệt càng hiện lên lung linh huyền diệu, như thực mà như hư, hòa lẫn với trăng: “… Từng sợi tóc của Nguyệt đều sáng lên. Mái tóc thơm ngát, dày và trẻ trung làm sao!”. Lòng lâng lâng, Lãm tưởng như vừa trông vào ảo ảnh… Người đọc thoáng mỉm cười trìu mến trong tâm tư rất thật của chàng lính trẻ. Không, chàng lái xe ơi, Nguyệt không phải là một Hằng Nga hay một nàng tiên xa lạ trong cổ tích, Nguyệt là Cô gái mở đường đang ngồi cạnh anh – trong đêm trăng, Nguyệt vốn đẹp, cô lại càng đẹp hơn trong ánh nhìn dâng đầy trìu mến của chàng trai.
Từ trìu mến đến cảm phục, Nguyệt đã chinh phục trái tim Lãm trong khung cảnh đạn bom dữ dội với tất cả lòng dũng cảm, thông minh lòng vị tha quên mình vì người khác… Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm niềm yêu mến của mình bằng cách soi sáng vẻ đẹp của Nguyệt từ nhiều góc nhìn khiến,vẻ đẹp ấy “lung linh kì ảo như được nhìn qua một ống kính vạn hoa”. Đẹp biết bao hình ảnh một người con gái mảnh mai nhường ấy mà thản nhiên như không trước đoạn trường bom đạn. Điều duy nhất cô áy náy thanh minh là “Chúng nó ném bom luôn, chúng em đã phải rải bao nhiêu đá mà đường sá còn ra thế. Một câu nói đơn sơ nhưng là cả ý thức trách nhiệm với công việc. Có lẽ cũng bởi vậy mà cô thông thuộc giang sơn của mình ở từng hố bom, từng cái dốc có cua… Nhỏ nhắn mảnh dẻ nhưng cũng thật cứng cỏi, dày dạn kinh nghiệm, Nguyệt bình tĩnh, thông minh giúp Lãm lái xe qua ngầm bảo vệ xe.
Khi “đứng bám bên cánh cửa” hướng dẫn Lãm “đi đúng giữa hai hàng cọc tiêu”, khi “để cả quần áo thế, nhanh nhẹn lội phăng sang bên kia bỏ giúp Lãm “cột dây tời vào gốc cây”, khi nói “rành rọt như người bên cạnh” Anh ngoặt sang trái… trước mặt có hố bom đấy… Trên đầu địch cứ quây tròn như xay lúa, Lãm cứ chạy, Nguyệt cứ hướng dẫn dường như lúc này trong suy nghĩ của họ không còn có một suy nghĩ nào cho riêng mình. Tiếng nói rành rọt trong trẻo của người con gái mở đường ấy có lẽ không chỉ có ý nghĩa với Lãm lúc ấy, mà sẽ còn vang vọng mãi qua bom đạn, qua thời gian… Tiếng nói trong trẻo vút lên trên nền trầm đục của chiến tranh. Và tình yêu cũng vút lên từ đây, trước khi yêu nhau họ đã sống với nhau trong tình đồng chí. Trước khi biết mặt nhau Nguyệt đã cảm mến Lâm qua câu chuyện Làm trốn nhà đi bộ đội. Đến lượt mình trước khi Lãm biết xác thực về mình, cô đã vô tình “dậy lên trong Lãm” một tình yêu gần như mê muội lẫn cảm phục trước sự hi sinh cao cả, nghĩa tình biết nhận phần khó khăn về mình để bảo vệ anh lái xe, bảo vệ xe. Nguyệt đã không xuống xe chỗ cô cần xuống mà đưa Lãm đi tiếp sang bên kia sông bởi Không thể bỏ Lãm lúc khó khăn. Khi máy bay ném bom, Nguyệt nhanh nhẹn đẩy Lãm ngã giúi vào một cái khe an toàn, không chịu vào khe, bởi một lý do rất đơn giản:
Anh bi thương thì xe cũng mất, anh cứ nấp đó! Người ta chỉ có thể hi sinh vì nhau khi là những người gắn bó máu thịt với nhau. Nguyệt mới chỉ quen Lãm trên một chặng đường, chưa biết tên, chỉ biết Lãm là một anh lái xe. Thế mà cô sẵn sàng hi sinh vì Lãm, để bảo vệ xe. Lý do đơn giản từ tâm hơn chân thành, từ ước nguyện dũng cảm hết mình vì Tổ quốc. Nhiều người hôm nay nhìn lại có lẽ sẽ không thể tin vào chuyện đó – chuyện sống chết chứ có phải thường đâu. Chỉ có trong hoàn cảnh chiến tranh mới có những sự hi sinh như thế. Nguyệt bị thương, “máu chảy xuống đỏ cả cánh tay áo xanh. Chết thật cô ta bị thương rồi! Không biết Nguyệt bị thương từ loạt bom đầu tiên hay khi cô cùng chạy theo tôi trở về xe?”. Dường như trong lời kể lại của Lãm vẫn còn rạo rực một niềm xúc động bâng khuâng, một tình yêu gần như mê muội lẫn cảm phục.
Nguyệt vốn đẹp, nhưng dường như lúc này càng đẹp hơn khi cô nhìn vết thương cười. Khuôn mặt hơi tái nhưng vẫn tươi tỉnh và xinh đẹp. Vâng, đúng như một nhà văn đã nói “Trong chiến tranh hạnh phúc phải định nghĩa bằng hi sinh tranh đấu, nhiều khi phải viết bằng máu và nước mắt; Nguyệt bị thương nhưng với cô, “vết thương chỉ sướt da thôi”. Nụ cười tươi tỉnh, Nguyệt trấn tĩnh Lãm để Lãm khỏi lo cho mình hay vui vì đã đưa được xe qua ngầm, anh lái xe vẫn an toàn, trong thực tế đã có biết bao cô thanh niên xung phong như Nguyệt? Nụ cười trên khuôn mặt hơi tái của cô cứ như một bông hoa mãi nở tươi trong lòng người đọc – một bông hoa trong đạn bom. Chiến tranh không thể tàn phá mỗi con người, không thể dập tắt đi nụ cười tuổi thơ, không thể dập tắt tình yêu đằm thắm thủy chung. Ngược lại, “cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy không những không đứt, không thể nào tàn phá mà như càng óng ánh hơn trong lòng người. Hiện thực thật khốc liệt – Nguyễn Minh Châu đã thừa nhận điều đó, đã để hiện thực đó biểu hiện trên con đường đầy bom đạn trong vết thương dẫu mới chỉ rất nhẹ của Nguyệt nhưng đó không phải là mục đích chính của tác giả. Hiện thực khốc liệt chỉ là cái nền để từ đó vứt bay lên một tình yêu đầy lãng mạn – tình yêu của những con người chân chính.
Nguyệt đẹp bởi vẻ đẹp ngoại hình, bởi vẻ đẹp của sự dũng cảm, hy sinh. Nhưng nếu chỉ dừng ở đó, Nguyệt sẽ lẫn lộn trong vô vàn cô nữ thanh niên xung phong khác. Ấn tượng để lại sâu sắc nhất, khiến người đọc mãi trân trọng mà hướng tới nhớ về – đó là sợi chỉ xanh óng ánh cô gìn giữ qua bom đạn, trong đáy sâu tâm hồn thủy chung, trong sáng – đó là tình yêu là niềm tin mãnh liệt vào một tình yêu chân chính. Cô yêu Lãm qua lời kể của chị Tính dẫu chưa hề biết mặt Lãm nhưng cô vẫn nguyện chung thủy với anh, “chỉ chờ được gặp anh”. Dẫu có lúc Lãm đã quên lời hẹn ước. Nhưng với Nguyệt, Nguyệt không hề quên và bom đạn thời gian không bao giờ và không thể nào tàn phá nổi tình yêu trong tâm hồn người con gái ấy. Là người trong cuộc, chính Lãm phải hai lần ngạc nhiên trước tình yêu, trước sự chờ đợi mãnh liệt của Nguyệt, khi anh chưa gặp Nguyệt cũng như khi đã gặp, đã nghe kể nhiều về Nguyệt anh vẫn chưa hết ngạc nhiên. “Thật kỳ lạ! qua bấy nhiêu năm sống giữa bom đạn và thời gian, cái sợi chỉ xanh nhỏ và óng ánh ấy vẫn không hề phai nhạt, không hề đứt ư. Đọc lại truyện, không hiểu sao tôi cứ liên tưởng đến sự chờ đợi của cô bé Axôn trong truyện cổ tích “Cánh buồm đỏ thắm”.
Câu nói đùa của một ông lão vô tình trở thành nỗi chờ đợi, nỗi khao khát rất thật của Axôn trong suốt những năm tháng tuổi thơ. Nguyệt không hề biết mặt Lâm nhưng vẫn nguyện thủy chung chờ đợi. Nếu sự chờ đợi của miền cổ tích thì với Nguyệt, đó là sự chờ đợi của thời chiến tranh, đạn bom? Sự chờ đợi ấy làm không ít người ngạc nhiên. Chính Nguyễn Minh Châu cũng ngạc nhiên, ông đã gửi gắm điều đó qua nhân vật Lãm – người trong cuộc. Nguyễn chủ trương đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người nhưng có ai dám tự nhận mình đã hiểu hết, đã đi hết được hồn người? Và bởi vậy, mãi mãi nhà văn được hành trình vào tâm hồn nhân vật, được đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, để trong lòng dâng lên niềm cảm phục tin yêu đối với con người, đối với cuộc đời.
Ta xúc động trước tình yêu chân chính của Nguyệt, tâm hồn như được thanh lọc, trong trẻo thiết tha hơn trong cảm nhận về con người, về cuộc đời. Sự chờ đợi bao giờ và lúc nào cũng xanh thắm trong lòng người, giúp người ta sống ý nghĩa hơn bởi trong họ có một niềm tin, có một tình yêu chân chính, Với niềm tin ấy, con người có thể vượt qua tất cả. Họ chiến đấu vì niềm tin, phấn đấu vì niềm tin. Có lẽ, nếu không có niềm tin ấy, con người không thể vượt qua những cam go khốc liệt của chiến tranh. Nếu người phụ nữ Nga từng tâm niệm:
“Dù gió mưa dầm dề
Ngấy có dài lê thê
Anh ơi, em vẫn đợi…”
(Đợi anh về – Ximônốp)
thì trong chiến tranh, biết bao cô gái Việt Nam đã mang trọn lòng sự chờ đợi ấy. Nguyệt, người ngoài cuộc có thể còn mãi ngạc nhiên. Nhưng với Nguyệt, điều ấy thật đơn giản. Hình ảnh Nguyệt đứng cheo leo giữa lưng núi, trên vai vác một cái máy khoan đôi mắt ngây thơ nhìn ra xa? không chỉ đẹp với riêng Lãm mà đẹp mãi với mọi người. Đôi mắt ngây thơ chan chứa, lấp lánh, sáng trong như tâm hồn Nguyệt. Sự liên tưởng của Lãm thật có ý nghĩa, nó nói với người đọc bao điều: “Nhìn bức ảnh ấy, tôi không khỏi nhớ tới những ngày rộn ràng xây dựng những chiếc cầu… chiếc cầu làm trong gần hai năm mới xong, xanh biếc và đẹp như một giấc mộng nhưng vừa khánh thành mấy tháng thì máy bay Mĩ đã đem bom tới phá sập. Vâng, sự tàn ác của kẻ thù có thể tàn phá được thành quả lao động của con người nhưng không thể tiêu diệt niềm tin, tiêu diệt được sức sống bất diệt trong tâm hồn con người". Thêm một lần, cùng với niềm xúc động dạt dào của Lãm, trong ta tươi thắm một niềm tin vào sức mạnh tình yêu: tình yêu có thể chiến thắng tất cả; có thể giúp con người vượt qua tất cả. Tấm ảnh Nguyệt sống mãi trong lòng người đọc, trong tình yêu dâng trào mãnh liệt hơn bao giờ của Lãm. Nguyệt đó hay chính là hiện thân vẻ đẹp của con người, của tình yêu chân chính, vẻ đẹp ấy rất lãng mạn, nhưng cũng rất thực bởi trước hết, nó được xây dựng bằng niềm tin yêu con người của chính tác giả.
Nếu như sự chờ đợi của Nguyệt mang lại xúc động cho người đọc thì vẻ đẹp lung linh, huyền ảo cao vời của cô lại có sức hấp dẫn khác như một mảnh trăng cuối rừng, gần gũi mà xa xôi, thoáng ẩn hiện mà luôn ngoài tầm tay với. Nguyệt dường như đẹp hơn dưới ánh trăng. Trồng lồng đầy phía khung cửa xe cô gái ngồi. Cô gái hay chính mảnh trăng kín đáo, êm dịu? vẻ đẹp ánh sáng của trăng như nhập vào người con gái tên trăng, thú vị ở chỗ, cảm giác về trăng cứ hòa điệu với cảm giác của Lãm về Nguyệt. Trong nỗi phân vân của Lãm: “Hai người con gái, một trẻ trung xinh đẹp ngồi bên cạnh và một người đã chết anh dũng, ai là người đã từng mang canh cánh trong trái tim tuổi trẻ mối tình đầu đội với tôi trong suốt mấy năm…” Trăng trước anh như “một ngọn đèn pháo xanh lét run rẩy lòe nhòe ở trên đầu”, trăng chập chờn trong một trò ú tim giữa một thứ ánh sáng tái ngắt giữa những đám mây và khoảng tối mịt mù của rừng già.
Khi Lãm có một niềm tin vô cớ nhưng chắc chắn từ không gian mà tới rằng người con gái đang ngồi cạnh anh chính là Nguyệt… thì trăng đẹp một vẻ đẹp thật sang trọng: “mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời, sáng trong như một mảnh bạc, Lãm chỉ cần hỏi Nguyệt có biết chị Tính không, mọi sự sẽ rõ ràng. Họ sẽ nhận ra nhau, nhưng Lãm không hỏi thế, với một lý do rất chính đáng anh không muốn nói chuyện riêng tư trong khi làm nhiệm vụ — để rồi, hai người yêu ngồi cạnh nhau mà không hay biết… Đến khi Lâm biết đích xác đó là Nguyệt thì Nguyệt đã về dưới rồi, để lọi trong Lãm nỗi ước ao về ngày gặp lại. Có người đọc tiếp cho Lãm, nhưng đồng thời lại thấy câu chuyện tình yêu của họ thật hấp dẫn – như một trò chơi ú tim, họ mãi kiếm tìm nhau không mỏi.
Nguyệt vừa đẹp vẻ đẹp rất thực của sự dũng cảm, gan dạ, vừa lung linh huyền ảo để Lãm mãi mãi kiếm tìm. Có lẽ đó cũng là một ý vị riêng của tình yêu. Hãy cứ tìm nhau – tìm hoài tìm mãi để thấy ẩn số của nhau, càng tìm càng thấy đẹp. “Bí ẩn rất đơn sơ, bí ẩn rất nồng nàn”. Nguyễn Minh Châu dắt người đọc cùng Lãm đi tìm vẻ đẹp của Nguyệt. Và bằng một cảm hứng lãng mạn, đã diễn tả thật hóm hỉnh, sinh động, hấp dẫn đến ám ảnh một sự thật: Tình yêu là cái đẹp kì lạ ở trên đời. Có khi nó ở ngay bên cạnh ta mà ta hề biết, đến khi gặp nó ta không khỏi bàng hoàng sửng sốt tưởng chừng như sống giữa chiêm bao.
Nó lung linh huyền ảo, chập chờn ấn hiện như Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Đăng Mạnh). Nguyệt là ánh sáng diệu huyền, là tình yêu trong Lãm, là tình yêu của tác giả và trở thành tình yêu của chính người đọc. Ta cứ để ánh sáng ấy lung linh trong tâm hồn và càng thấy Nguyệt đẹp hơn, mảnh trăng cuối rừng thơ mộng hơn, huyền ảo hơn. Nguyệt làm trăng đẹp hơn hay trăng làm Nguyệt đẹp hơn, ta không biết rõ, trong lòng ta cứ thấy lâng lâng bồng bềnh như đi vào thế giới diệu huyền – thế giới của một tình yêu yên tĩnh, vĩnh hằng trong chiến tranh – thế giới mãi sáng trong vẹn nguyên như buổi đầu qua bom đạn thời gian trong tâm hồn Nguyệt…
Mảnh mai và trong sáng, dũng cảm, hy sinh hết mình và chung thủy đợi chờ với tình yêu, với niềm tin mãnh liệt về một người thương chưa biết mặt, Nguyệt như “Mảnh trăng cuối rừng” sáng đẹp mãi trong tình yêu của người đọc, rất chung mà cũng rất riêng, rất độc đáo, Nguyệt là cô gái thanh niên xung phong tiêu biểu trong chiến tranh, là chân dung của thế hệ trẻ anh hùng trong kháng chiến chống Mĩ. Niềm trân trọng, tình yêu con người, tin vào sức mạnh mãnh liệt của tình yêu đã được Nguyễn Minh Châu gửi gắm qua những cảm nhận của nhân vật Lãm, câu chuyện về Nguyệt được kể bằng lời của người đang hạnh phúc, đang yêu. Bởi vậy sẽ không thật đáng ngạc nhiên nếu cái điểm nhìn trữ tình ấy đã khiến cho hình ảnh Nguyệt trở nên đẹp ngời ngợi, đến mức Nikulin cảm thấy tác giả đã bao bọc cô trong bầu không khí vô trùng. (Đỗ Kim Hồi).
Nguyệt cứ hiện dần qua lời kể của Lãm, lung linh như một thế giới huyền diệu. Bút pháp lí tưởng hóa của Nguyễn Minh Châu đã thật tài tình duyên dáng trong cải cách; nhà văn diễn tả sự thi vị hóa người yêu – sự thực của tình yêu. Nguyệt đẹp, dường như càng đẹp hơn khi được đặt trong đêm trăng, trong đạn bom khốc liệt từ nhiều góc nhìn khác nhau… Hiện thực làm nền để vẻ đẹp lãng mạn cất cánh bay bổng, đó chính là sức hấp dẫn riêng của ngòi bút Nguyễn Minh Châu và cũng là của văn học một thời. Gắn bó hết mình với đất nước, với những con người trong kháng chiến chống Mỹ, tác giả đã khai thác chất thơ của thời đạn lửa, chất thơ của những con người lớn lên từ huyền thoại, từ ca dao cổ tích..
Và chúng ta hôm nay đọc “Mảnh trăng cuối rừng” cứ tưởng như mình đang được sống trong một câu chuyện “cổ tích diệu huyền” – câu chuyện về một “Mảnh trăng cuối rừng” lung linh ánh sáng… cuộc sống càng ồn ào phức tạp, câu chuyện ấy càng có ý nghĩa hơn. Bởi lẽ, vẻ đẹp của tình yêu, của niềm tin trong sáng mãi có ý nghĩa với muôn người. Nó đưa lại cho ta những khoảng lặng cần thiết – những khoảng lặng khi ta sống với chính mình, để tâm hồn bay bổng cùng “sợi chỉ xanh óng ánh qua thời gian, qua bom đạn”