Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân hay nhất (11 dàn ý mẫu)

Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Dàn ý mẫu số 1

I. Mở bài

- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.

- Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945, nhân vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này.

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh

- Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, ...

- Hoàn cảnh bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, ...

2. Tâm trạng và hành động

a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ

- Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.

- Lần gặp 2:

+ Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.

+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.

+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

b. Trên đường về:

+ Vẻ mặt “có cái gì phơn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”. Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diễn.

+ Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

c. Khi về đến nhà:

+ Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.

+ Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.

+ Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.

+ Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:

+ Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, ...), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.

+ Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.

- Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.

III. Kết bài

- Nêu suy nghĩ về nhân vật Tràng.

- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.

- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Dàn ý mẫu số 2

Tràng là nhân vật chính trong Vợ nhặt. Câu chuyện ở đây là câu chuyện của chính anh. Đề yêu cầu phân tích nhân vật, có nghĩa là phân tích toàn diện một con người tron văn học, từ lai lịch, diện mạo cho đến ngôn ngữ, hành động, tâm trạng... Tuy nhiên, anh Tràng là một người lao động rất bình thường, thân phận thấp kém nên khác với bà cụ Tứ, anh ít có những suy nghĩ bên trong. Khi phân tích, tập trung vào mấy điểm:

Lai lịch, ngoại hình:

Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Dân cư ngụ là nhưng người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân cư ngụ không có ruộng đất, những thứ vô cùng quan trọng đối với người nôn dân thời xưa. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là “nhà” thì luôn vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Hơn nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.

Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn... Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch.

Tính cách:

Tràng là người vô tư, nông cạn.

+ Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn dốc chợ đi xuống là ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên. Rồi chúng, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Anh với lũ trẻ con như anh em, bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.

+ Ngay cả chuyện quan trong như lấy vợ, Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát. Đó là lần gò lưng kê cái xe thóc vào dốc tỉnh, Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Chủ tâm của anh ta là vui đùa. Thế rồi, một người đàn bà đang đói bám lấy để được ăn bánh, Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Lần thứ hai, cô ta tới ăn vạ, Tràng chấp nhận đưa về nhà để thành… vợ chồng! Thật, xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh chóng như Tràng!

Tràng là người đàn ông nhân hậu phóng khoáng.

+ Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Tràng lấy vợ trước hết vì lòng thương đối với một con người đói khát hơn mình.

+ Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê… Anh còn mua 2 hào dầu thắp để vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí.

+ Lấy nhau chẳng phải vì tình, lại “nhặt vợ” một cách dễ dàng, nhưng không vì thế mà Tràng coi thường người vợ của mình. Anh muốn làm cho người ấy được vui (khoe mua dầu về thắp sáng), có lúc muốn thân mật nhưng không dám suồng sã. Tràng trân trọng, nâng niu hạnh phúc mà mình có được: Trong lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt ve nhẹ trên sống lưng.

Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm.

+ Anh ngoan ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Đặc biệt, đối với Tràng, có vợ là bước sang một quãng đời khác: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra.

+ Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ cua anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm keo nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới... Tràng đã mở đầu cho câu chuyện Vợ nhặt bằng những bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào buổi chiều chạng vạng mặt người và cũng chính anh đã kết thúc câu chuyện ấy vào buổi sớm mai với một hình ảnh mới lạ về đoàn người nghèo đói vùng lên dưới bóng lá cờ đỏ bay phất phới.

Số phận:

Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Khi chưa có nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ (con trai lão Hạc trong tác phẩm cùng tên Nam Cao cũng vì nghèo không lấy vợ, phẫn chí mà bỏ đi làm mộ phu), trong nạn đói lại lấy vợ, niềm hạnh phúc đan xen với bất hạnh.

Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn

Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động, đặc biệt là diễn biến tâm trạng của Tràng bằng ngòi bút sắc sảo. Anh chàng phu xe cục mịch nhưng có một đời sống tâm lý sống động, khi hãnh diện cái mặt vênh vênh tự đắc với mình bởi vừa mới nhặt được vợ, lúc lật đật chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn, hay lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia, cũng có khi lòng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, chie còn tình nghĩa. Anh thô kệch nhưng không sỗ sàng, trái lại biết ngượng ngiụ, biết sợ, nhất là biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau.

Qua nhận vật Tràng, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn cua họ. Kim Lân đã tiếp nối những trang viết giàu chất nhân bản về người lao động bình thường của những nhà văn trước đó như Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nam Cao...

Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Dàn ý mẫu số 3

a) Mở bài

- Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện ngắn Vợ Nhặt:

+ Kim Lân (1920 - 2007) là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.

+ “Vợ Nhặt” (1955) đã khắc họa rất thành công bức tranh của nạn đói năm Ất Dậu, nạn đói lịch sử của nước ta năm 1945.

- Giới thiệu khái quát về nhân vật Tràng:

+ Nhân vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này, nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một tấm lòng giàu tình thương người, giàu khát vọng hạnh phúc.

b) Thân bài

* Khái quát về hoàn cảnh sáng tác

- “Vợ nhặt” viết năm 1955 được in lần đầu trong tập truyện ngắn “Con chó xấu xí” (1962). 

- Truyện có tiền thân là tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" tác phẩm viết sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại (1954) tác giả dựa vào cốt truyện cũ đặt tên là Vợ nhặt.

* Hoàn cảnh nhân vật Tràng

- Hoàn cảnh xã hội : Năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra tràn lan khắp nơi, người chết như ngả rạ, người sống cũng dật dờ như những bóng ma.

- Hoàn cảnh gia đình: là dân ngụ cư, làm nghề đẩy xe bò, cha mất sớm, sống cùng với mẹ già, bị khinh bỉ, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh,...

- Hoàn cảnh bản thân: ngoại hình xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về,...

=> Tràng là một người nông dân bình dị, nghèo khổ lại xấu xí.

* Tình huống nhặt vợ và tâm trạng, hành động của Tràng

- Tình huống nhặt vợ: Tràng – anh nông dân nghèo thô kệch, dân ngụ cư bỗng “nhặt” được vợ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

+ Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.

+ Lần gặp 2:

·         Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.

·         Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.

    + Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

=> Trong cái nạn đói khủng khiếp của năm 1945, người ta nuôi thân còn chả xong vậy mà trong cái đói khổ ấy Tràng lại đem vê một người vợ.

- Tâm trạng và hành động của Tràng:

+ Lúc đầu Tràng tỏ ra lo lắng trước cảnh nghèo “… thóc gạo này mà còn đèo bòng” sau cũng tặc lưỡi "chậc, kệ".

+ Trên đường về:

·         Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”

·         “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, ... -> hạnh phúc, hãnh diện.

·         Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

+ Khi về đến nhà:

·         Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà -> Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.

·         Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.

·         Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. -> Biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.

·         Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

+ Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:

·         Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo,...)

·         Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình.

·         Thấy mình trưởng thành hơn, có trách nhiệm hơn với gia đình, với mẹ, với vợ và những đứa con sau này.

·         Lúc ăn cơm hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới trong suy nghĩ. -> Hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.

=> Từ khi nhặt được vợ, nhân vật Tràng đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp : hào phóng, quên đi hết những cay cực tăm tối trên đời, chấp nhận cuộc sống khốn khó cùng vợ vượt qua tất cả, tin tưởng sự đổi đời ở tương lai.

* Đặc sắc nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn

- Phân tích, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật

- Nghệ thuật dẫn truyện

- Đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách

- Ngôn ngữ bình dị, gần gũi.

c) Kết bài

- Đánh giá, cảm nhận chung của em về nhân vật Tràng.

- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật.

Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Dàn ý mẫu số 4

1. Vài nét về tác gỉả, tác phẩm, nhân vật

- Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông là người một lòng đi về với đất, với những thuần hậu nguyên thủy của đời sống nông thôn Việt Nam.

- “ Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc thể hiện sự thấu hiểu của nhà văn về đời sống và con người nông thôn.

- Tràng là nhân vật chính của truyện. Qua câu chuyện nhặt vợ của Tràng, Kim Lân đã gửi đến người đọc những thông điệp ý nghĩa về cuộc sống con người.

2. Phân tích nhân vật

a,  Lai lịch

- Xuất thân: dân ngụ cư, làm nghề đẩy xe bò thuê, cha và em gái đã mất.

b,  Ngoại hình: 

 - Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Đầu trọc nhẵn, hai con mắt nhỏ tí, gà gà, quai hàm bạnh ra, cái lưng to rộng như lưng gấu, đi thì cứ chúi đầu về phía trước lại hay nói lầm bầm trong miệng, khi cười thì  ngửa mặt lên cười hềnh hệch.

=> Qua cách miêu tả, ta thấy Tràng như kết tinh cái phần tự nhiên, hoang dã của con người.

c, Tính cách:  

* Là một người lao động nghèo, tốt bụng, hiền lành, cởi mở  

- Tràng nghèo khổ:

+ Thể hiện qua cảnh ngộ gia đình, công việc làm thuê bấp bênh, chấp chới, nhưng đó là kế sinh nhai cho hai con người - Tràng và mẹ già

+ Căn nhà vắng teo "đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm nhổm những búi cỏ dại", trong nhà thì bát đĩa, áo sống vứt bừa bộn trên giường, dưới đất,....

+ Thân phận dân ngụ cư tức là vì nghèo đói mà phải đi tha phương tứ xứ, bị khinh rẻ, nên chỉ được sống ở bìa làng, hay bị lũ trẻ con trêu chọc,... 

- Nhưng tốt bụng, hiền lành, cởi mở, hào phóng:

+ Không có ý định tìm vợ nhưng khi mấy cô gái trêu chọc, ghép đôi, anh cũng đáp lời tình tứ "Muốn ăn cơm trắng..."

+ Với người đàn bà vừa xấu, vừa đanh đá, vừa vô duyên, chao chát, chỏng lỏn, Tràng rất hiền từ, hào phóng: đãi thị 4 bát bánh đúc, mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt, ra hàng cơm đánh một bữa no nê, lại mua hai hào dầu. Giữa thời đói, bấy nhiêu cũng thật là một sự xa xỉ!

+ Chấp nhận thị về làm vợ bởi tình thương. Tràng băn khoăn "đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng" nhưng rồi gạt đi ngay "Chậc, kệ!"

=> Tấm lòng nhân hậu của Tràng.

*  Là một người khao khát hạnh phúc, có ý thức xây dựng hạnh phúc:  

-  Niềm vui của Tràng trên suốt dọc đường về: "Hắn tủm tỉm cười", khi lại "bật cười" , tỏ ra lúng túng tay nọ xoa xoa vào vai kia, ngượng ngùng nói như đứa trẻ "có mỗi mình tôi mấy u",... Và trong phút chốc, Tràng quên đi tất cả những tối tăm, đói khát phía trước, lòng Tràng chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên... Tất cả những điều đó chính là biểu hiện của khát vọng hạnh phúc lứa đôi.

- Ý thức về sự việc đặc biệt trong cuộc đời, Tràng đã đánh dấu ngày trọng đại ấy bằng việc mua hai hào dầu "vợ mới vợ miếc cho nó sáng sủa chứ"

- Nếu trước đây, Tràng sống như tạm bợ, không chăm chút nhà cửa, gia đình, nhưng ngay buổi sáng hôm sau khi có vợ, Tràng đã thay đổi hẳn: thấy yêu thương, gắn bó với căn nhà, ý thức được trách nhiệm "phải lo lắng cho vợ con sau này"...

 * Là người có khát vọng sống mãnh liệt, có niềm tin vào tương lai tươi sáng

- Trong bữa cơm ngày hôm sau, nghe tiếng trống thúc thuế dồn dập, không khí ảm đạm dễ gây tâm lí chán nản, nhưng Tràng lại nghĩa đến đoàn người đi phá kho thóc Nhật, đến lá cờ Việt Minh,... Như vậy, ở Tràng có niềm tin, hi vọng mãnh liệt vào tươi lai, cách mạng. Có thể sau này, ta sẽ gặp chính Tràng trong những đám người đi dưới lá cờ đỏ sao vàng kia...

d, Nghệ thuật xây dựng nhân vật: 

-  Nhân vật được đặt trong tình huống truyện độc đáo;

-  Diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật.

 3. Đánh giá

- Hình ảnh tiêu biểu cho số phận, tích cách, cuộc đời của người nông dân trước cách mạng tháng 8.

- Là một sáng tạo nghệ thuật thành công của Kim Lân trong việc xây dựng nhân vật, góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Dàn ý mẫu số 5

1, Mở bài

– Giới thiệu khái quát về tác giả Kim Lân và những đặc điểm nổi bật trong sáng tác của ông.

– Giới thiệu khái quát về truyện ngắn Vợ nhặt (xuất xứ, khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật,…)

– Giới thiệu khái quát về nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt

2, Thân bài

Ngoại hình và nơi ở của Tràng

– Ngoại hình:

+ “dáng người thô kệch, cái cười khềnh khệch”,

+ “lưng Tràng như con gấu”,

+ “quai hàm bạnh ra”

– Tràng lại còn là dân xóm ngụ cư

– Nơi ở của Tràng với mẹ chính là “căn nhà đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc đầy những búi cỏ dại”.

=> Như vậy, Tràng là một người nông dân, một người lao động nghèo khổ,ở dưới đáy của xã hội. Tràng mang trên mình một ngoại hình xấu xí, một gia cảnh cơ cực, vất vả, lam lũ nhưng ẩn sau tất cả vẻ bề ngoài ấy là những nét đẹp tâm hồn ở trong Tràng.

Diễn biến tâm lí của Tràng

– Chỉ từ một câu hò vui, một câu nói bâng quơ, một lời tỏ tình đầy hài hước “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ đằng ấy có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà Tràng đã có vợ

=> Sự kiện này đã có tác động sâu sắc tới những nét diễn biến tâm lí ở Tràng.

– Khi thị đồng ý theo Tràng về làm vợ:

+ Tràng “chợn nghĩ”, bởi giữa cái nạn đói khủng khiếp ấy, Tràng “không biết thân mình có nuôi nổi không mà lại còn đèo bòng

+ Tràng “tặc lưỡi: chậc kệ”, cái tặc lưỡi ấy của Tràng không phải là cái tặc lưỡi buông xuôi, chán nản mà là cái tặc lưỡi đầu tình yêu thương, trách nhiệm giữa Tràng với những người đồng cảnh ngộ.

– Trên đường đưa vợ về nhà:

+ “vẻ mặt có cái gì đó phớn phở”,

+ “hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười nụ một mình”,

+ “mắt sáng lên lấp lánh” với “cái mặt vênh lên tự đặc với mình”.

=> Niềm hạnh phúc, vui sướng khi lấy được vợ đang ngập tràn tâm trạng, cảm xúc của Tràng. Tràng như đang lửng lơ trong men say của tình yêu, của hạnh phúc.

– Khi về đến nhà:

+ ngượng nghịu, lo sợ, lúng túng, Tràng “đứng tây ngây ra giữa nhà”,

+ Tràng cứ lóng ngóng, hết chạy vào nhà rồi lại ra ngõ chờ mẹ.

+ lời giới thiệu của Tràng với mẹ thật chan chứa bao nỗi niềm tâm trạng của hắn “kìa nhà tôi nó chào u”. Đó vừa là lời xác nhận của Tràng với mẹ mình về việc mình đã có vợ vừa thể hiện tâm trạng phấn chấn, vui vẻ, đầy phấn khởi của Tràng.

– Sáng hôm sau: Khi tỉnh dậy, chứng kiến sự thay đổi của quang cảnh nhà cửa, vườn tược trong Tràng có một cảm giác rất đặc biệt và khác lạ.

+ “êm ái lửng lơ như người trong cõi mơ đi ra”,

+ “cảm động, thấy yêu thương, gắn bó và thấy mình phải có trách nhiệm với cái gia đình này”.

3, Kết bài

Khái quát lại về nhân vật Tràng, phong cách nghệ thuật của Kim Lân và cảm nghĩ của bản thân về nhân vật Tràng nói riêng và truyện ngắn Vợ nhặt nói chung.

Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Dàn ý mẫu số 6

I. Mở bài

– Nêu vấn đề.

II. Thân bài

1. Khái quát

          – Kim Lân – nhà văn chuyên về truyện ngắn. Ông rất am hiểu văn hóa nông thôn và tâm lý người dân quê.

          – Ngòi bút Kim Lân thường thiên về cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người nhân hậu, giàu nghĩa tình, biết yêu thương, đùm bọc, sẻ chia và giàu niềm tin vào tương lai.

          – Truyện ngắn “Vợ nhặt” trích từ tập “Con chó xấu xí” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm là bức tranh chân thực và cảm động về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Thông qua các nhân vật bà cụ Tứ, Tràng, cô vợ nhặt tác giả Kim Lân đã làm bừng sáng vẻ đẹp nhân văn của tác phẩm – đó là vẻ đẹp tình người trong nạn đói.

2. Phân tích nhân vật

2.1. Tràng là anh nông phu nghèo khổ, kém duyên

– Anh hiện lên với thân phận nghèo hèn: là dân ngụ cư bị khinh rẻ; nhà cửa thì “rúm ró” lụp xụp, rách nát, tuềnh toàng. Nghề nghiệp thấp kém, bấp bênh, chỉ là anh phu xe với đồng lương chẳng đáng là bao.

– Đã vậy, anh còn có một ngoại hình thô kệch, xấu xí: “đầu trọc nhẵn”, “mắt nhỏ tý lại còn gà gà”, “quai hàm bạnh”, “lưng to như lưng gấu”. Tính cách thì ngờ nghệch, vô tư, chỉ thích chơi với trẻ con.

– Nghèo khổ cộng với ngoại hình xấu xí đã khiến Tràng chẳng còn có gì để hấp dẫn.

2.2. Tràng là người đàn ông nhân hậu, tốt bụng, cởi mở, sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn trong tình huống truyện độc đáo – tình huống Tràng nhặt vợ. 

– Gặp lại người con gái đẩy xe bò giúp anh lần trước, Tràng không khỏi ái ngại, xót xa. Bởi trước mắt anh là hình ảnh thê thảm của người đồng cảnh ngộ: “quần áo rách như tổ đỉa, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cái đói cũng khiến người con gái chẳng còn biết giữ thể diện là gì, cứ thế mà trơ trẽn, nanh nọc, thô thiển, bất chấp tất cả để được ăn. Tràng động lòng thương, bởi Tràng cảm nhận được sự đói khát cùng đường ở người đàn bà ấy.

– Lòng thương đã đánh thức con người nhân hậu trong Tràng. Anh hào hiệp, cởi mở, phóng khoáng, đãi người đàn bà xa lạ đến bốn bát bánh đúc. Đó là lòng thương người đồng cảnh ngộ, là vẻ đẹp tình người trong nạn đói. Tài liệu thầy Phan Danh Hiếu

– Khi lời bông đùa của Tràng trở thành cái phao cứu sinh của người đàn bà giữa biển đời mênh mông; Tràng có “chợn”, có lo lắng, có hoang mang về tương lai của mình. Nhưng lòng thương người, khát vọng được gắn bó với người đàn bà xa lạ đã khiến anh chiến thắng cả lý trí của mình, để rồi nhanh chóng trở thành chỗ dựa cho người đàn bà. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.

2.3. Tràng là người đàn ông có khát vọng hạnh phúc, có ý thức chăm sóc, vun vén cho hạnh phúc gia đình.

– Đồng ý cưu mang người đàn bà xa lạ khiến Tràng trở nên chín chắn, biết lo lắng, quan tâm chăm sóc. Anh “bỏ tiền mua cho thị cái thúng con, trong đựng vài thứ lặt vặt”. Chăm sóc từ cái nhỏ nhặt như thế cũng chứng tỏ Tràng rất tâm lý. Mua cho thị cái thúng là để thị tự tin hơn khi về nhà chồng, vả lại ai lại để vợ mình về nhà bằng tay không bao giờ. Anh còn mua hai hào dầu thắp sáng. Hai hào dầu có thể là “hoang phí” vào lúc này, nhất là khi “chẳng có nhà nào có ánh đèn lửa”.  Nhưng nó mang lại giá trị tinh thần rất lớn, cho thấy, Tràng rất trân trọng giá trị của hạnh phúc, trân trọng người vợ. Với hai hào dầu phải chăng Tràng cũng muốn thắp sáng cả tương lai của mình. Điều đó cũng cho thấy, Tràng không còn hời hợt nông cạn nữa mà đã thực sự nghiêm túc, chu đáo trước quyết định lấy vợ.

– Trên đường “dẫn dâu về nhà chồng”: Tràng hiện lên với hình ảnh “mắt sáng lên lấp lánh”, cái mặt “phớn phở”. Tất cả đều biểu lộ niềm vui, niềm hạnh phúc lâng lâng của một con người lần đầu tiên được đón nhận tình yêu.

– Khi thưa chuyện với mẹ, Tràng tạo ra không khí gia đình ấm áp, thiêng liêng. Tràng cảm nhận được việc lập gia đình là việc hệ trọng, là chuyện cả đời. Anh khéo léo khi gọi người đàn bà xa lạ là “nhà tôi”; tránh làm vợ tổn thương bằng cách gọi mối lương duyên này là “do số”. Anh cũng khéo léo “ép” mẹ mình phải chấp nhận cuộc hôn nhân.

– Tràng không còn thô kệch, vụng về nữa mà trở thành người có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình. Điều đó thể hiện rõ ở tâm trạng của anh vào sáng hôm sau:

+ Tâm trạng lâng lâng hạnh phúc: “lửng lơ êm ái như vừa đi từ trong giấc mơ ra”. Chuyện lấy vợ của Tràng giống như cổ tích, giống như giấc mơ nhưng là giấc mơ có thật. Tài liệu thầy Phan Danh Hiếu

+  Quan sát xung quanh, Tràng cảm nhận được sự thay đổi mới mẻ. Nhà cửa được bàn tay đảm đang của người vợ vun vén đã trở nên gọn gàng. Người mẹ đang giẫy những búi cỏ dại, người vợ đang quét lại cái sân. Cảnh tượng sinh hoạt gia đình bình dị khiến Tràng cảm động. 

+ Tình cảm, suy nghĩ của Tràng có nhiều thay đổi. Lần đầu tiên ở người nông phu ấy thấy yêu thương gắn bó với căn nhà; thấy cần có trách nhiệm với gia đình. Đó là những suy nghĩ chín chắn của người đàn ông trưởng thành chứ không còn là một anh Tràng ngốc ngếch, khờ khạo trước đó.

+ Tràng trở nên lễ phép, ngoan ngoãn, luôn biết vâng lời trước mẹ là biểu hiện của lòng hiếu thảo. Điều này cũng đã được Kim Lân nhắc đến trong tác phẩm “chưa bao giờ mẹ con lại đầm ấm hòa hợp đến thế”.

+ Tràng có niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng. Trong hình ảnh “đoàn người đói, lá cờ đỏ”, tác giả Kim Lân đã gián tiếp nói về nhận thức cách mạng và nhận thức về sự đổi đời của Tràng. Tác giả dự báo, Tràng sẽ xuất hiện dưới lá cờ đó, trong đoàn người đó. Bởi muốn thay đổi được cuộc sống hiện tại, không còn con đường nào khác ngoài con đường đi theo cách mạng, bởi chỉ có cách mạng mới có thể mang lại sự đổi đời cho những người nông dân.  

3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

  Xây dựng nhân vật bằng bút pháp miêu tả, phân tích tâm lý chân thực, tinh tế. Khắc họa nhân vật bằng ngôn ngữ đối thoại sống động, giàu cá tính. Xây dựng tình huống truyện độc đáo, bất ngờ. Ngôn ngữ kể tự nhiên, mộc mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông dân. Giọng kể hồn hậu, hóm hỉnh, giàu chất trữ tình.

III. KẾT BÀI

Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Dàn ý mẫu số 7

Nội dung: Đề yêu cầu phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân. Tràng là nhân vật trung tâm, khi phân tích học sinh cần làm nổi bật phẩm chất, tình cảm, tâm trạng của nhân vật để từ đó rút ra giá trị tư tưởng của tác phẩm. Có thể xây dựng các luận điểm như sau:

+ Giới thiệu nhân vật Tràng: từ ngoại hình, ngôn ngữ đến phẩm chất, tính cách.

+ Tâm trạng của Tràng khi quyết định đưa người đàn bà về làm vợ (luận điếm này tách ra nhiều luận điếm nhỏ tương đương với mỗi đoạn văn).

·         Tâm trạng Tràng lần đầu tiên được đi bên một người đàn bà.

·         Tâm trạng Tràng khi giới thiệu nàng dâu mới với mẹ.

·         Tâm trạng Tràng trong buổi sáng đầu tiên anh có vợ.

·         Nhận thức của Tràng bắt đầu có sự đổi thay qua hình ảnh “Lá cờ đỏ bay phấp phới” trên con đê Sộp cùng đoàn người đói khát đi phá kho thóc của Nhật.

=> Rút ra giá trị tư tưởng tác phẩm.

·         Phương pháp lập luận: Phân tích và chứng minh.

·         Tư liệu: Chủ yếu dẫn chứng trong tác phẩm.

Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Dàn ý mẫu số 8

Mở bài

·         Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân. Văn ông chân thật, xúc động khi viết về cuộc sống, cảnh ngộ và đời sống tâm lí của họ.

·         Truyện ngắn Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập Con chó xấu xí (1962). Truyện gây xúc động lòng người qua lối viết chân thực, dựng lại tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra. Nhưng dù ở trong hoàn cảnh nào, ngay cả khi cận kề bên cái chết, họ vẫn yêu thương đùm bọc, cưu mang lẫn nhau, vẫn khao khát hạnh phúc và có niềm tin bất diệt vào tương lai. Những phẩm chất tốt đẹp ấy được nhà văn thể hiện rất tiêu biểu qua nhân vật Tràng.

Thân bài

*Giới thiệu nhân vật Tràng

Nhà văn xây dựng nhân vật Tràng có ngoại hình thật xấu xí, người thô, to lớn, đôi mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, khi cười ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch, lại thêm cái tật vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ. Đáng buồn hơn Tràng lại rất nghèo, dân ngụ cư, ế vợ.

·         Ngôn ngữ của Tràng được thể hiện cũng suồng sã, thô kệch: “rích bố cu”, “làm đếch gì có vợ’…

·         Phẩm chất của Tràng hiền lành, nhân hậu, tốt bụng.

+ Thấy người đàn bà đói rách, anh không chê mà cho ăn.

+ Thấy cách cư xử cong cớn, bốp chát, suồng sã của chị, anh không coi thường mà chấp nhận đưa về nhà làm vợ.

·         Tràng đưa ngươi đàn bà lạ về nhà làm vợ là một tình huống bất ngờ. Bất ngờ cho cả xóm ngụ cư, cho người mẹ già của anh và ngay chính cả anh cũng không ngờ tới. Tình huống ấy với mọi người thì buồn nhiều hơn vui, còn với anh có lẽ đó là hạnh phúc.

*Tâm trạng của Tràng khi quyết định đưa người đàn bà về làm vợ

·         Tâm trạng của Tràng từ khi quyết định đưa người đàn bà về làm vợ được nhà văn miêu tả rất mộc mạc mà tinh tế, sâu sắc.

Trên đường về nhà, lúc đầu tâm trạng của Tràng cũng thấy “chợn”. Vì thời buổi đói khát, thóc cao gạo kém, đến cái thân mình còn không lo nổi, lại còn đèo bòng. Nhưng rồi anh: “Chặc, kệ!”. Cái tặc lưỡi không phải là sự phó mặc liều lĩnh, dễ dãi mà đó là tình thương yêu của anh với người cùng khổ. Anh chấp nhận đương đầu với những khó khăn hiện tại và cả sắp tới. Hơn nữa, đó là niềm khát khao hạnh phúc gia đình. Niềm khát khao ấy mạnh hơn tất cả, nhà văn đã diễn tả thật chính xác và cảm động niềm hạnh phúc đang diễn ra trong tâm lí của Tràng: “Trong một lúc, Tràng quên tất cả cuộc sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói, cái khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn giờ chỉ còn tình nghĩa giữa người đàn bà đi bên, một cái gì đó lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, nó mơn man khắp da thịt Tràng…”

=> Những câu văn thật tha thiết, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc niềm cảm xúc sâu xa. Phải chăng sự đói khát đã làm giảm đi giá trị tình người? Không! Dù thế nào thì cái được hạnh phúc, được yêu thương là quý hơn tất cả, ngay cả khi người ta tưởng cuộc sống không còn gì ngoài bát cơm manh áo…

·         Kim Lân miêu tả tình cảm, cảm xúc của Tràng lần đầu tiên được đi bên một người đàn bà mà trong cuộc đời nghèo khó của anh chưa bao giờ dám mơ ước thật xúc động.

+ Vốn là người thô kệch, vụng về, Tràng lại càng vụng về, ngượng nghịu hơn, tay nọ xoa vào vai kia lúng ta lúng túng.

+ Tràng muốn nói một câu gì đó với người đàn bà nơi vắng vẻ mà chịu không sao nói nổi. Cuộc đối thoại giữa hai người thật rời rạc, nhát gừng, cộc lốc, Tràng ngây thơ đến ngờ nghệch. Người đàn bà hỏi: “Sắp đến nhà chưa? — Sắp. Nhà có ai không? — Có một mình tôi mấy u. Đã một mình lại còn mấy u. Bé lắm đấy! – À nhỉ !”.

+ Tràng khoe với người đàn bà chai dầu thắp (hai hào), Tràng muốn cho đêm tân hôn của mình sáng lên một chút trong cái thảm cảnh tối tăm ấy, và phần nào để người đàn bà đêm đầu tiên về nhà chồng đỡ tủi. Điều đó thể hiện dù chỉ theo nhau về thành vợ thành chồng không có mâm cao cỗ đầy, nhưng cái hạnh phúc đời thường tối thiểu nhất là chút ánh sáng trong đêm tân hôn cũng phải có và được trân trọng.

+ Niềm hạnh phúc tuy đơn sơ, nhưng đã làm cho tâm hồn anh lâng lâng vui sướng, xúc động đến ngỡ ngàng. Nhìn người đàn bà ngồi ngay giữa nhà mà anh vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế: “Hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Việc xảy ra nhanh quá, chính người trong cuộc cũng chưa ngờ tới, khiến người đàn ông thô vụng thành đứa trẻ hiền lành, ngờ nghệch,

-Tràng giới thiệu với mẹ về nàng dâu mới: “Kìa! Nhà tôi nó chào u!” một lời tưởng giản đơn nhưng đầy yêu thương và trân trọng. Đón một người đàn bà về làm vợ không có rước dâu, không cỗ bàn đình đám. Cô dâu không có lấy cả bộ quần áo lành lặn, ngược lại rách như tổ đỉa. Vậy mà mấy tiếng “Nhà tôi nó chào u” ,“Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… chẳng qua nó cũng là cái số cả…” nghe mà gần gũi thân thương. Thế là họ đã nên vợ nên chồng. Kim Lân chẳng nhiều lời gọt giũa, chỉ vài câu đơn giản, mộc mạc mà vẫn giới thiệu được một cuộc đại lễ trịnh trọng, nghiêm túc của những con người khốn khổ về với nhau trong ngày đói.

·         Tâm trạng của Tràng trong buổi sáng đầu tiên khi anh có vợ được tác giả miêu tả thật tinh tế mà chân thực.

+ Một cảm giác lạ chưa từng thấy tràn ngập trong anh, anh thấy trong người êm ái, lơ lửng như người ở trong giấc mơ đi ra, việc có vợ vẫn hình như không phải.

+ Tràng chợt nhận ra xung quanh mình “có cái gì vừa thay đổi mới lạ”. Nhà cửa, sân vườn, lối đi được quét dọn sạch quang. Những chiếc quần áo rách như tổ đỉa khươm mươi niên vắt trong góc nhà nay đã được đem phơi phóng. Hai cái ang nước mọi ngày há miệng khô khốc giờ đây đã ăm ắp nước.

+ Bà mẹ lúi húi giẫy cỏ; nàng dâu quét tước, nấu nướng, cảnh tượng diễn ra thật bình thường mà đối với Tràng, nó cảm động và thấm thía, ấm áp biết bao.

+ Có lẽ giờ đây Tràng mới thực sự hiểu được giá trị của một gia đình đầy đủ, hạnh phúc. Niềm vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập tâm hồn anh, anh bỗng thấy yêu và gắn bó với ngôi nhà dù còn bao thương khó. Nhưng nó là nơi che mưa che nắng cho cả gia đình anh. Tràng thấy mình phải có trách nhiệm với người mẹ già cả cuộc đời dằng dặc khổ đau, với người vợ mới dù nghèo nhưng chăm chỉ hiền thục.

=> Trong khung cảnh đói khát chết chóc thê thảm của đất nước những năm bốn nhăm ấy, người nông dân khôn khổ như Tràng đã biết vượt lên hoàn cảnh, tìm đến hạnh phúc trong niềm vui nương tựa đùm bọc lẫn nhau. Chỉ có tấm tình chân thực mới giúp họ có sức mạnh vượt qua sự thật nghiệt ngã của cuộc đời. Và không có gì ngăn nổi niềm tin, hi vọng của họ vào tương lai, đó chính là giá trị nhân văn đầy cảm động của truyện ngắn này.

·         Để nhân vật của mình thực sự sẽ vượt lên hoàn cảnh và được sống hạnh phúc, nhà văn đã để cái đầu “ngờ nghệch” của Tràng phút chốc vụt đên trong ý nghĩ: “Cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên con đê Sộp”, cùng hình ảnh “lá cờ đỏ bay phấp phới’’ đi phá kho thóc của Nhật như dẫn mở Tràng vào một bước ngoặt mới trong cả nhận thức và con đường đi lên. Đó là tín hiệu của sự đổi đời, nhất định anh và bao người nông dân đói khổ khác sẽ được sống trong hạnh phúc nếu biết đứng dậy đoàn kết đấu tranh. Đó không phải là một mơ ước viển vông mà thực tế đã chứng minh ở cuộc Cách mạng tháng Tám của dân tộc.

Kết bài

Kim Lân sinh ra từ một miền quê, ông rất hiểu đời sống vật chất cũng như tinh thần của người nông dân. Viết về nhân vật Tràng, đặt nhân vật vào một tình huống vừa kì quặc, vừa oái oăm, vừa bi hài, nhưng nhà văn đã cảm thông, sẻ chia, đồng điệu cùng nhân vật để cất lên bài ca nhân bản mạnh mẽ, làm thiết tha lòng người về cái hạnh phúc đời thường. Con người dù có nghèo khổ đến đâu, họ vẫn có quyền mơ ước một cuộc sống gia đình hạnh phúc. Có lẽ thiên truyện hấp dẫn người đọc bởi những trang phân tích và diễn tả tâm lí sắc sảo, tinh tế mà đầy hóm hỉnh này của Kim Lân.

Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Dàn ý mẫu số 9

1.   Mở bài

Kim Lân là nhà văn sớm nhập cuộc xã hội. Ông là tấm gương lớn về sự nỗ lực tự học. Do hoàn cảnh gia đình khó khắn Kim Lân chỉ học hết bậc tiểu học. Cuộc đời rộng lớn chính là trường đại học của ông. Đấy là cơ sở cho những trang viết vừa bề bộn chất sống, vừa rất đỗi tinh tế, tài hoa. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Truyện ngắn này không chỉ hấp dẫn người đọc bởi tình huống truyện độc đáo, bất ngờ, mà còn ở chỗ nhà văn đã xây dựng thành công những nhân vật chính như anh cu Tràng để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng sâu sắc. Diễn biến tâm trạng của nhân vật cũng thể hiện giá trị nhân đạo và vẻ đẹp của tình người trong tác phẩm.

1.   Thân bài

·         Khái quát hoàn cảnh ra đời và hoàn cảnh sống của các nhân vật

“Vợ nhặt” được lấy bối cảnh từ nạn đói khủng khiếp năm 1945 với hai triệu người chết đói. ( Nhân dân Việt Nam cùng lúc bị áp bức, bóc lột bởi phát xít Nhật và thực dân Pháp. Ở miền Bắc, Nhật bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, trong khi đó thực dân Pháp ra sức vơ vét thóc gạo. Hậu quả là cuối năm 1945 dân ta rơi vào thảm cảnh bi cùng. Đó là nạn đói chưa từng có trong lịch sử.) Nhưng điều kì lạ là trong đói khát tăm tối ấy, cận kề bên miệng vực của cái chết, những người lao động Việt Nam không nghĩ đến cái chết mà luôn hướng về sự sống, ánh sáng, hạnh phúc, tương lai. Đó là chất người kì diệu, là khát vọng sống mạnh mẽ của con người Việt Nam đã khơi nguồn cảm hứng cho Kim Lân sáng tác nên thiên truyện ngắn đặc sắc này.

2: Thân phận nhân vật Tràng

Xuất thân: ngụ cư, lép vế

Gia cảnh: nghèo khó, ngôi nhà rúm ró, chiếc áo nâu tàng

Nghề nghiệp: kéo xe bò thuê

Ngoại hình: đầu trọc lốc, mắt gà gà, thân hình to lớn, …

Tính cách: dở tính,

Lời văn:

Tràng là một gã trai nghèo khổ, cái nghèo khổ đến tột cùng. Cái nghèo ấy hiện hữu trong “chiếc áo nâu tàng”, cái nhà Tràng thì “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm nhổm những búi cỏ dại”, và Tràng chỉ là người kéo xe bò thuê. Đến cái tên cũng thể hiện sự thô kệch, nghèo khó: Tràng – một dụng cụ dùng trong nghề mộc. Ngòi bút của Kim Lân đã vô cùng sống động khi khắc họa bức chân dung của Tràng: ” hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạch ra”, bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn, vạp vạm, cái đầu thì trọc lốc … Dưới ngòi bút của Kim Lân Tràng hiện lên như một bức chân dung vẽ vội, một hình hài mà tạo hóa đẽo gọt, quá ư sơ sài, cẩu thả. Không chỉ xấu xí, nghèo khổ, ở tầng lớp cùng đinh mà Tràng còn là người dở tính, “hắn có tật vừa đi vừa nói”, “hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ” thỉnh thoảng còn ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch.

3: Diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng: 4 chặng

– Chặng 1: “Chợn” (sợ). Nhưng rồi tặc lưỡi “chậc” (kệ)

=> Một sự táo bạo liều lĩnh, đánh cuộc với cái đói để đi đến hạnh phúc đời thường.

– Chặng 2: Tự đắc, niềm vui, hồi hộp, nhưng vẫn sống và sống trong cảm giác nghi hoặc + Trên đường đưa vợ về nhà (tự đắc, niềm vui)

+ Khi vợ vào nhà (hồi hộp nhưng vẫn lấy lại được sự bình tĩnh cần thiết, nghi hoặc)

– Chặng 3: Ý thức và hạnh phúc: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”….”Hắn xăm xăm chạy ra….căn nhà”

+ Phân tích từ “nên người” và “xăm xăm”

=> Hành động nhanh, mạnh, quyết định, thể hiện sự chủ động của Tràng.

– Chặng 4: Dự cảm đổi đời

+ Phân tích câu cuối cùng và hình ảnh lá cờ.

Lời văn:

Tràng là một thân phận thấp hèn nhưng lại là một chú rể thực sự hạnh phúc. Trước tình huống “nhặt” vợ, tâm lý của Tràng diễn biến thành những chặng sau:

Chặng một là Tràng đến với người vợ nhặt trong một quyết định vừa tầm vơ tầm phào, liều lĩnh, bởi ban đầu chủ tâm Tràng hò một câu cho đỡ nhọc:

“Muốn ăn cơm trắng với giò này

Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!”

Mọi sự mời mọc nhất nhất là đùa, về phía cô vợ nhặt, bàn đầu chủ yếu cũng là đùa. Tràng mới đầu cũng “chợn” nghĩa là sợ, nhưng rồi tặc lưỡi:”Chậc! kệ” – một quyết định có vẻ như đùa đối với sự kiện trọng đại của đời người. Song hoàn cảnh ấy, cái tặc lưỡi của Tràng là một sự táo bạo liều lĩnh. Tràng đã dám đánh cuộc với cái đói, cái nghèo để đi đến miền hạnh phúc của đời thường.

Chặng hai của diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng là những cảm xúc tự đắc, hồi hộp xen lẫn niềm vui khi “nhặt” được vợ. Hạnh phúc tạo niềm vui lớn cho Tràng , nhà văn Kim Lân nhắc ta nhớ đến hình ảnh đôi mắt của Tràng lúc này sáng lên lấp lánh, nụ cười tủm tỉm. Đó là ánh mắt nụ cười của con người đang sống trong cảm giác hạnh phúc. Lần đầu tiên đi bên cạnh người đàn bà, Tràng lấy làm hãnh diện vô cùng, mốn nói một câu cho thật tình tứ nhưng chẳng biết nói thế nào thành ra những câu đối đáp với vợ trở nên cộc lốc, nhát gừng, rời rạc, bởi hạnh phúc đến với Tràng quá bất ngờ. Tràng đã sống trong cảm giác hạnh phúc: “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở”. Kim Lân đã chọn được một từ chân quê nhưng rất chính xác “phớn phở” để diễn tả tâm trạng sung sướng, hồ hởi, hân hoan được biểu lộ ra ngoài gương mặt nhân vật. Khi chứng kiến hình ảnh những người dân ngụ cư tò mò quan sát sự xuất hiện của mình với người đàn bà lạ, Tràng lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh vênh tự đắc. Càng về gần nhà thì dường như chất men tình say sưa trong Tràng càng ngấm nhiều hơn và trở thành cái nghĩa tình hết sức thấm thía: “Trong một lúc, hình như Tràng quên hết những cảnh sống khổ cực ê trề…trong lòng hắn lúc đó chỉ còn lại cái nghĩ tình giữa hắn và người đàn bà đang đi bên cạnh. Có cái gì mới mẻ, lạ lắm “ở người đàn ông nghèo khổ này”. Cũng trên đường về nhà, hình tượng Tràng cũng được nhà văn Kim Lân khắc họa rất chân thực, người đàn ông ấy hình như cũng có cái nhìn bối rối khi thấy người dân xóm ngụ cư quan tâm. Nhưng có lẽ, cùng với niềm vui hạnh phúc, người ta bắt gặp ở Tràng một người đàn ông đã trưởng thành, chững trạc, điều đó bộc lộ ở cách ứng xử. Trước lời trên đừa của đám trẻ con Tràng đã mắng yêu: “Bố ranh”. Tràng khéo léo từ chối những lời chèo khéo mời mọc của những người dân xóm ngụ cư để đưa vợ về một cách khéo léo. Tràng khoe chai dầu mới mua bằng hai hào với lí do “vợ mới vợ miết cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ”. Lời nói giản dị nhưng chứa đựng trong đó bao nhiêu nhận thức, tình cảm của nhân vật: có được vợ một cách dễ dàng nhưng không vì thế mà Tràng coi thường vợ, ngược lại vẫn trân trọng hạnh phúc.

Khi vào nhà, với người đàn ông, lấy vợ là một việc hệ trọng trong cuộc đời, quyết định tương lai hạnh phúc. Thông thường việc này phải được hai bên cha mệ cho phép. Nhưng việc lấy vợ của của Tràng hoàn toàn bất ngờ. Bởi vậy ban đầu Tràng cũng có tâm lý lo âu hồi hộp. Tràng bước ra sân, khi gặp mẹ, Tràng như một đứa trẻ, reo lên: “U đã về đấy!….sao u về muộn thế! Làm tôi đợi nóng cả ruột”. Nhưng sau thoáng lo âu hồi hộp ấy,

Tràng lấy lại được sự bifh tĩnh cần thiết, giới thiệu vợ với mẹ bằng một câu ý nghĩa “kìa nhà tôi nó chào u”. Thấy mẹ vẫn chưa hiểu Tràng lại nói: “nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ…chẳng qua nó cũng là cái số cả…” Bằng câu nói ấy, Tràng đã xác định rõ ràng mối

quan hệ của mình với người phụ nữ đẩy người nghe và bà cụ Tứ buộc phải chấp nhận. Không chỉ vậy câu nói còn lý giải mối quan hệ với vợ là duyên số – một cách lý giải của một người từng trải, chín chắn, chững chạc.

Bên cạnh cảm giác tự đắc, phớn phở, hạnh phúc, Tràng vẫn còn tâm lý nghi hoặc, bàng hoàng. Nhìn cô vợ ngồi ngay giữa nhà mà Tràng vẫn không thể tin là vợ mình. “Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?” Chao ôi hạnh phúc giữa năm đói như một điều xa xỉ, cầm mắm ở trong tay mà vẫn không tin đó là sự thật.

Những cảm xúc hồi hộp, lo lắng, hạnh phúc lẫn lộn Tràng dần chuyển sang ý thức được hạnh phúc bản thân. Con người mong hạnh phúc đến và hạnh phúc đến lượt nó có thể làm thay đổi con người. Trước hạnh phúc Tràng như lột xác, lần đầu tiên, anh ta run rấy sống trong một cảm giác rất người: “bỗng nhiên hắn thấy thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Hắn đã có một gia đình: Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy…”Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”. Hai chữ “nên người” hạ xuống như một điểm nhấn xác nhận sự biến đổi về chất ở Tràng. Cái gốc của sự biến đổi ấy chính là gia đình. Nó là nền tảng của xã hội. Cái gốc của sự biến đổi ấy chính là gia đình. Nó là nền tảng của xã hội. Là căn cốt của nhân tính. Tràng phục sinh nhân tính nhờ vươn tới ý thức về gia đình.

Song chi tiết đắt nhất của Kim Lân không phải ở đó mà có lẽ là ở câu văn này:” Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn là một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Hai chữ “xăm xăm” gợi lên bao nhiêu là hăm hở, háo hức trong bước chân của Tràng tìm đến hạnh phúc. Nhưng điều quan trọng hơn đấy là dấu hiệu một bước ngoặt lớn ở Tràng. So với cái dáng “ngật ngưỡng” ở mở đầu tác phẩm, hành động xăm xăm này là một đột biến không chỉ

·         dáng đi mà còn là thay đổi cả số phận, tính cách của Tràng: từ đau khổ sang hạnh phúc, từ ngây dại sang ý thức. Nàng Kiều xưa từng “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Gót chân đến với hạnh phúc của Kiều táo bạo thế mà cứ chênh vênh, đơn độc khiến cho người đọc lo lắng bởi chỉ có một mình giữa đêm trăng trung cổ. Còn cái “xăm xăm” của Tràng mới vững khỏe, tự tin làm sao, bởi Tràng có cả một gia đình. Và đó là cái xăm xăm của con người trong hạnh phúc.

Khi ý thức được tương lai hạnh phúc của riêng mình, tâm trạng Tràng chuyển biến sang một dự cảm đội đời. Khi miếng cám đắng chát, ngậm ứ xuất hiện trong âm thanh tiếng trống thu thuế, dồn dập, tự là lúc cuộc sống đã bị đẩy đến miệng vưc của cái đói, cái chết thì cũng là lúc hình ảnh lá cờ đỏ hiện lên làm nên một câu rất quan trọng của tác phẩm. “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Lá cờ đỏ – hình tượng thoáng qua ấy khi được đặt vào đoạn kết mang bao sức nặng về tư tưởng và nghệ thuật cho thiên truyện. Nếu vắng chi tiết này tác phẩm sẽ xa lối kết cấu khép của văn học hiện thực phê phán. Sự có mặt của chi tiết nghệ thuật này khiến cho câu chuyện có một cái kết mở nhờ thế thiên truyện đã đóng lại. Nhưng số phận nhân vật vẫn tiếp tục được vận động theo hướng lạc quan, đi lên chứ không bế tắc như anh Pha của Nguyễn Công Hoan, chị Dậu của Nguyễn

Tất Tố, Chí Phèo của Nam Cao…Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng đã vẫy lên như một tín hiệu đổi đời, một tương lai tươi sáng.

III. Kết bài

Qua hình tượng nhân vật Tràng, Kim Lân còn khẳng định hiện thực cuộc sống có ngột ngạt, tăm tối đến đâu thì sự sống vẫn trỗi dậy, vươn lên mãnh liệt, con người vẫn cố gắng vật lộn với hoàn cảnh để khẳng định tư cách Người ngời sáng của mình. Xét cho cùng, hình tượng nhân vật Tràng đã giúp Kim Lân thể hiện được thành công một khúc ca chứa đựng niềm tin mãnh liệt của con người vào sự sống: “sự sống chẳng bao giờ chán nản” (Xuân Diệu), chính là biểu hiện giá trị nhân đạo mang những nét nhân văn cao cả và rất riêng của Kim Lân. Nó giúp người đọc nhận ra được nét đặc sắc riêng của tác phẩm khi đặt bên cạnh những sáng tác viết về người nông dân trước sự thử thách của cái nghèo, cái đói.

Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Dàn ý mẫu số 10

1. Giới thiệu tác phẩm Vợ nhặt

a. Hoàn cảnh sáng tác

Bối cảnh của truyện ngắn là nạn đói năm 1945. Do mất bản thảo nên đến 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ của tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” để viết thành truyện ngắn “Vợ nhặt” in trong tập “Con chó xấu xí”.

b. Nhan đề

Ý nghĩa nhan đề

Theo phong tục của người Việt Nam, dựng vợ gả chồng là việc trọng đại trong cuộc đời của mỗi con người. “Nhặt” là nhặt nhạnh những cái nhỏ bé, ít giá trị. Vậy mà trong năm đói khát , một hiện tượng oái oăm, đầy nghịch lí xảy ra: vợ cũng có thể nhặt nhạnh vu vơ ngoài đường như cọng rơm, cọng rác. Phân tích bài văn Vợ nhặt thấy được nhan đề này gợi sự cảm thương trước thân phận bèo bọt, rẻ rúng của con người và bày tỏ sự bất bình, căm giận xã hội phong kiến thực dân tàn bạo đã đẩy con người bước vào đường cùng, vừa thể hiện được giá trị hiện thực lại vừa mang giá trị nhân đạo.

Nhan đề còn thể hiện rõ luận điểm bài Vợ nhặt là hướng tới khát vọng yêu thương, hạnh phúc, đùm bọc của những người nông dân trước Cách mạng.

c. Tình huống truyện

Tràng là một nhân vật có ngoại hình xấu. Đã thế còn dở tính. Gia cảnh của Tràng cũng rất ái ngại. Nguy cơ “ế vợ” rất rõ. Đã vậy lại gặp năm đói khủng khiếp, cái chết luôn luôn đeo bám. Trong lúc không một ai (kể cả Tràng) nghĩ đến chuyện vợ con của anh ta thì đột nhiên Tràng có vợ. Trong hoàn cảnh đó, Tràng “nhặt” được vợ là nhặt thêm một miệng ăn cũng đồng thời là nhặt thêm tai họa cho mình, đẩy mình đến gần hơn với cái chết. Vì vậy, việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt. Qua phân tích bài văn Vợ nhặt, tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ lại vừa hợp lí. Qua đó, tác phẩm thể hiện rõ giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật.

2. Phân tích bài văn Vợ nhặt: Nhân vật Tràng

Nhân vật Tràng

Tuy có ngoại hình xấu xí, thô kệch nhưng Tràng là một chàng trai hiền lành, tốt bụng, luôn khao khát có được hạnh phúc và có trách nhiệm với gia đình, người thân của mình.

2.1. Lai lịch

Qua phân tích bài văn Vợ nhặt, Tràng hiện lên là một chàng trai với ngoại hình xấu xí, thô kệch: lưng như lưng gấu, hai mắt nhỏ tí gà gà, quai hàm bạnh,… Anh là dân ngụ cư nghèo khổ, làm nghề đẩy xe bò thuê, sống với một người mẹ già là bà cụ Tứ.

Tràng là một con người vô tư, nông cạn. Anh hay chơi đùa với lũ trẻ con trong xóm. Đến chuyện lấy vợ Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát và qua vài lần suy nghĩ nhanh lẹ.

Chẳng mấy ai thèm nói chuyện cùng anh ta, trừ lũ trẻ con hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.

2.2. Phẩm chất

a. Tràng là một người hiền lành, tốt bụng

Lúc đầu, anh chỉ đùa vui cho đỡ nhọc, ai ngờ có người đẩy xe giúp thật. Anh động lòng thương khi gặp lại người đàn bà bị cái đói tàn phá cả nhân hình lẫn nhân cách. Vì thế anh cho Thị ăn những bốn bát bánh đúc.

Tràng hỏi đùa “có về với tớ thì khuân hàng lên xe rồi cùng về”, vậy mà “nhặt” được vợ thật. Anh chợt nghĩ đến cái đói, cái chết thì trót “đèo bòng”. Thế rồi Tràng vẫn “Chậc, kệ” và dẫn Thị về nhà.

b. Tràng là một người có khao khát mãnh liệt về hạnh phúc

Diễn biến tâm lý của Tràng hiện rõ lên qua từng hành động nhờ việc phân tích bài văn Vợ nhặt ở từng giai đoạn.

Trên đường về nhà Tràng có những hành động, cử chỉ lạ thường: mặt phởn phơ, vênh lên tự đắc; miệng cười tủm tỉm, mắt sáng lên lấp lánh. Sự thay đổi tâm lí của Tràng: ngượng ngập, lúng túng, định nói với Thị một vài câu thật tình tứ nhưng chẳng biết nói thế nào.

Khi về đến nhà thì Tràng lại bối rối, ngượng nghịu; nôn nóng, háo hức chờ mẹ về để thưa chuyện; nóng lòng, hồi hộp khi thưa chuyện với mẹ và thở phào vui mừng khi mẹ đồng ý.

Sáng hôm sau cả người Tràng êm ái, lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra. Yêu thương, gắn bó với ngôi nhà và gia đình.

c. Tràng là một người sống có trách nhiệm

Anh nhận thức và ý thức được trách nhiệm của mình với vợ con. Anh muốn làm gì đó để tu sửa lại căn nhà. Anh cảm thông với nồi chè khoán của mẹ, ý tứ không nhìn mặt nhau và cố gắng nuốt miếng chè cám dù nghẹn bứ cổ.

d. Tràng là người luôn có niềm tin vào tương lai

Phân tích bài văn Vợ nhặt ta thấy hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới xuất hiện trong đầu Tràng ở cuối truyện thể hiện niềm tin của anh vào Cách mạng, vào tương lai tươi sáng. Anh muốn đi phá kho thóc Nhật cùng mọi người. Chi tiết này thể hiện sự thức tỉnh của người nông dân về nỗi khổ của mình và ý thức đấu tranh nhưng vẫn còn mờ nhạt.

Tràng là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu, tình nghĩa, biết nâng niu, trân trọng hạnh phúc, có ý thức, trách nhiệm với gia đình, có niềm tin, hi vọng đổi đời.

3. Phân tích bài văn Vợ nhặt: Nhân vật người vợ nhặt

Nhân vật người vợ nhặt

3.1. Lai lịch

Người đàn bà không được giới thiệu rõ ràng: không tên tuổi, không quê quán, không tài sản, không nghề nghiệp,…

Ngoại hình thị trong mắt Tràng là điều duy nhất được miêu tả nhưng lại thảm hại đến đáng thương: Lần đầu gặp thì gầy yếu, xanh xao; Lần hai gặp thì quần áo tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp, mặt lưỡi cày xám xịt lại.

Phân tích bài văn Vợ nhặt nhận thấy chị là điển hình cho những con người tội nghiệp, đói nghèo của xã hội trong nạn đói năm 1945.

3.2. Tính cách

a. Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người chua ngoa, đanh đá

Lần đầu nghe Tràng cất tiếng hò bông đùa, thị đã cong cớn, ton ton chạy lại. Lần thứ hai gặp lại Tràng, thị sầm sập chạy đến, sưng sỉa nói: “Điêu, người thế mà điêu”. Được Tràng mời ăn thì mắt sáng lên, ngồi sà xuống và cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc. Qua phân tích bài văn Vợ nhặt ta thấy thị là người chao chát, chỏng lỏn, chua ngoa và có phần vô ý tứ.

Người vợ nhặt là điển hình cho con người trong năm đói. Cái đói đã tàn phá cả ngoại hình lẫn nhân phẩm của con người. Nhưng với khao khát hạnh phúc và khao khát sống mãnh liệt, người vợ nhặt đã thay đổi hoàn toàn. Từ một con người chao chát, chỏng lỏn, vô ý, thị đã biết ý tứ, thẹn thùng, biết vun vén và chăm sóc mái ấm bằng bàn tay một người vợ hiền, dâu thảo.

b. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã thay đổi, là một người khao khát hạnh phúc

Khi theo Tràng về nhà, người vợ nhặt rón rén, ý tứ đi sau chồng, lấy cái nón che nửa mặt. Khi về đến nhà, thị đảo mắt nhìn xung quanh nhà và ý tứ nén một tiếng thở dài khi chứng kiến hoàn cảnh gia đình chồng bần túng. Thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường chứ không dám thoải mái. Thị lễ phép chào khi gặp bà cụ Tứ.

Sáng hôm sau người vợ nhặt dậy từ sớm để dọn dẹp sân vườn, nhà cửa. Đón lấy bát chè khoán từ bà cụ Tứ, điềm nhiên cho vào miệng chứ không hề tỏ thái độ dù đó là phản ứng rất tự nhiên. Qua phân tích bài văn Vợ nhặt, ta thấy người vợ đã biết khao khát và gìn giữ tình yêu, hạnh phúc và sự sống.

Sự xuất hiện của người vợ nhặt vô danh nhưng không hề vô nghĩa đã đem tới cho xóm ngụ cư và gia đình Tràng một luồng gió mới để xua đi những u ám bủa vây. Qua cách phân tích bài văn Vợ nhặt, nhân vật người vợ nhặt đã thể hiện sâu sắc tấm lòng đồng cảm, xót thương và trân trọng của nhà văn.

Vẻ đẹp tâm hồn của những con người nghèo đói trong xã hội cũ

Qua phân tích bài văn Vợ nhặt ta đã hiểu rõ được tính cách và diễn biến tâm lý của hai nhân vật Tràng và người vợ nhặt. Họ đều là những người có tâm hồn đẹp, khao khát sự hạnh phúc và có niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Dù họ có phải sống trong thời kỳ tối tăm nhất của xã hội. Ánh sáng tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Đọc tác phẩm Vợ nhặt lớp 12 để hiểu được Kim Lân đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung và đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người.

Dàn ý Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Dàn ý mẫu số 11

§  Mở bài: Giới thiệu chung:

– Khái quát về tác giả Kim Lân, về tác phẩm Vợ nhặt
– Khái quát về hình tượng nhân vật Tràng

§  Thân bài: Phân tích:

a. Khái quát sơ lược về số phận, gia cảnh của Tràng:

– Hình dáng: áo nâu tàn, đầu trọc nhẵn, lưng to bè như lưng gấu ® ngoại hình xấu, thô kệch
– Hoàn cảnh : quá nghèo, lại là dân ngụ cư.
– Tình huống Tràng nhặt vợ (lấy vợ) đã khiến cho người dân xóm ngụ cư phải ngạc nhiên thậm chí ngay cả Tràng
→tình huống truyện độc đáo, vừa lạ, vừa éo le và cũng là đầu mối cho sự phát triển của truyện tác động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật và làm nổi bật chủ đề của tác phẩm

b. Tâm trạng của Tràng:

– Lúc đầu: “Mới đầu anh chàng cũng chợn nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng” → có chút phân vân, do dự

– Sau đó: anh tặc lưỡi : “Chậc, kệ” → quyết định đưa người đàn bà xa lạ ấy về nhà, chấp nhận cưu mang, phẩm chất nhân hậu của Tràng. Đồng thời cho thấy niềm khao khát hạnh phúc gia đình người nông dân nghèo khổ này.

– Trên đường dẫn vợ về Tràng như thành một con người khác:

+ “Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”
+ Trước con mắt tò mò của dân xóm ngụ cư, người đàn bà càng thêm “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả chân kia” thì Tràng lại “ thích ý lắm, cái mặt cứ vênh vênh lên tự đắc” ”

– Về đến nhà: “chợt hắn thấy sờ sợ. Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ”→ sự căng thẳng của Tràng

→ Nhà văn đã diễn tả vừa sinh động, vừa cụ thể, vừa tinh tế vừa sâu sắc niềm khao khát hạnh phúc, tổ ấm gia đình và tình thương giữa những con người nghèo khổ dã vượt lên tất cả, bất chấp cả cái đói và cái chết

– Buổi sáng đầu tiên khi có vợ:

+Tràng cảm thấy: “trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra” (tr 30)
+ Chợt nhận ra: “xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ”
+ “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu, gắn bó với cái nhà hắn lạ lùng”
+ “một niềm vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”
+ “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”

→ trong giờ phút có tính chất bước ngoặt ấy, Tràng cảm thấy mình trưởng thành hơn. Niềm vui sướng hạnh phúc của Tràng đã gắn liền với ý thức và bổn phận và trách nhiệm

– Tương lai: trong óc anh hai lần hiện ra hình ảnh là cờ đỏ của Việt Minh→hướng tới cách mạng

⇒ Tràng là con người có chất tốt đẹp và sức sống kì diệu ngay trên bờ vực của cái chết, Tràng vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau .Đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm

§  Kết bài: Đánh giá – khẳng định

Với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật một cách sống động và chân thực tác giả đã làm nổi bật được hình tượng nhân vật Tràng – một đại diện tiêu biểu cho số phận của người nông dân trong nạn đói lịch sử kinh hoàng 1945. Đó là giá trị hiện thực của tác phẩm. Tuy nhiên, trong Tràng còn có chất tốt đẹp và sức sống kì diệu, ngay trên bờ vực của cái chết, Tràng vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.