Ngay sau khi tác giả "Những ngày thơ ấu", “Bỉ vỏ”… qua đời, Nguyễn Đăng Mạnh đã viết bài "Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng” đăng trên báo Nhân dân số 10189, ra ngày 16-5-1982.
Có người cho rằng bài viết của Nguyễn Đăng Mạnh là một điếu văn thương tiếc một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam vừa quá cố.
Tác giả không nói về tiểu sử mà chỉ nói về văn chương, con người và vị trí của Nguyên Hồng trong lịch sử văn học dân tộc.
Phần đầu, Nguyễn Đăng Mạnh nói về giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo trong tác phẩm Nguyên Hồng. Lời đánh giá vừa sâu sắc vừa chí tình: "Văn Nguyên Hồng bao giờ cũng lấp lánh sự sống. Những dòng chữ đầu chi tiết cứ cựa quậy, phập phồng. Một nhà văn bám riết lấy cuộc đời, quấn quýt lấy con người”. Cái tâm của Nguyên Hồng rất nồng hậu, ông luôn luôn đặt cái “tâm” nóng hổi của mình trên trang sách. Tác giả nhắc lại cái chết đau đớn của người đàn bà nông dân theo đạo Thiên Chúa được nói đến trong truyện ngắn Linh hồn, tác phẩm đầu tay của Nguyên Hồng đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy năm 1936 để chỉ rõ: Nguyên Hồng bước vào nghề văn là “để nói lên nỗi khổ đau oan ức không cùng của dân nghèo thấp cổ bé họng trong xã hội cũ, đặc biệt là người phụ nữ lao động”. Từ Bỉ vỏ đến Những ngày thơ ấu, từ Quán Nải đến của Cửa biển..., hình ảnh người đàn bà oan khổ, đau khổ theo đuổi, ám ảnh ngòi bút của ông.
Chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm trên trang văn Nguyên Hồng là “chủ nghĩa nhân đạo thống thiết", có lẽ vì thế mà ông "cứ đổ dồn dập lên đầu nhân vật của mình đủ thứ tai hoa trên đời". Là nhà văn cùng khổ, ông đã dành tất cả tình yêu thương, niềm tin mãnh liệt đối với "thiện căn" bền vững của nhân dân lao động. Nguyễn Đăng Mạnh đã thấu hiểu Nguyên Hồng, đã dành cho nhà văn Ngõ Cấm ngày xưa và những đứa con tinh thần của "cậu giáo "những lời tốt đẹp nhất: “từ vực thẳm tối tăm ngày trước, từ đống bùn rác ngập ngụa trong xã hội cũ, những Tám Bính, những mẹ La của tiểu thuyết Nguyên Hồng vẫn giữ chắc bản chất hiền hậu, trong sáng của mình mà vươn lên, như những mầm cây căng nhựa, xuyên thủng lớp lớp bùn đất dày đặc để nhô lên đón lấy ánh sáng mặt trời".
Thật thú vị khi ta được nghe tác giả so sánh giữa Go-rơ-ki với Nguyên Hồng. Hai nhà văn của hai dân tộc Nga, Việt tuy "khác nhau về tầm cỡ” nhưng có những nét tương đồng. Cả hai "từng lăn lộn" với những con người "dưới đáy” xã hội cũ, cùng viết với một trái tim tha thiết yêu tin con người, cùng sớm giác ngộ lí tưởng cộng sản chủ nghĩa. Cả hai đều viết đủ thể loại, viết rất hay, rất cảm động về tầng lớp lưu manh, xây dựng hình tượng bà mẹ rất đẹp. Họ đều có tài viết về đám phu phen thợ thuyền... Đặc biệt "họ đều thuộc số những nhà văn dẫn đầu trong việc ca ngợi lao động, phát hiện ở lao động một đối tượng thẩm mỹ thật sự”. Phải có “con mắt tinh đời", và phải có một tấm lòng "tri âm" ,tác giả mới viết và so sánh tinh tế như vậy.
Văn Nguyên Hồng dào dạt chất lãng mạn, "đầy cảm xúc, đầy chất thơ”.. Không phải là chất thơ từ mây, gió, trăng, hoa, mà là chất thơ được “chế tạo”, được “luyện bằng than bụi nhà máy, những bến tàu, bằng sỏi đá những đồi khô cỏ cháy, hoà với chất mồ hôi mặn chát và nóng bóng của những người lao động".
Con người Nguyên Hồng, nhà văn Nguyên Hồng là “một tấm gương rất đẹp về sự gắn bó chặt chẽ giữa nghệ thuật và lao động", “sinh ra từ môi trường lao động, tự rèn đúc thành chất người lao động, vì nhân dân lao động mà cặm cụi viết không ngừng, không nghỉ, cho đến hơi thở cuối cùng". Lời bình luận vừa sâu sắc vừa chí tình.
Nguyễn Đăng Mạnh nhắc lại lời khen của Nguyễn Tuân về cái tài tả nắng của Nguyên Hồng, rồi ông chấm phá: "một thứ nắng vùng cửa biển có sức sống, có linh hồn,... như reo lên, hát lên hoà với nhịp sống tưng bừng, náo nhiệt của thành phố Hải Phòng rực rỡ màu phượng vĩ”. Tâm hồn của Nguyên Hồng “đấy ánh sáng, đầy ánh nắng"; “mọi cảnh vật ông miêu tả đều tươi tốt, nở nang, màu mỡ, tràn đầy sức sống"... Tác giả nhắc lại khoảnh khắc “hơi thở tàn” của ông già nghèo khổ nơi nhà thương làm phúc, rồi trích câu văn của Nguyên Hồng: "Ánh nắng lại đón chào ông. Ánh nắng vàng ngời như lửa đốt của sáng mùa hè lúc đó gió còn mát dịu, thổi chờn vờn những lá cây, lá cỏ lấp lánh sương”. Đủng là thứ “ánh nắng có sức xua tan cả âm khí, tử khí trên những xác chết". Thứ ánh nắng ấy đã tạo nên chủ nghĩa lạc quan trong văn nghiệp Nguyên Hồng.
Nguyễn Đăng Mạnh đã chỉ ra những nguyên nhân và nguồn gốc sâu xa tạo nên một chủ nghĩa lạc quan vững khoẻ của Nguyên Hồng: "Đó là lý tưởng cách mạng mà nhà văn đã tiếp thu được ngay từ thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương. ..Đó là bản tính yêu đời, yêu sống của nhân dân lao động đã thấm vào máu thịt, tâm hồn ông. Đó là sức mạnh tinh thần của một con người bao giờ cũng sống hết mình vì cuộc sống, với mọi người, mọi việc xung quanh".
Phần tiếp theo, Nguyễn Đăng Mạnh đánh giá sự nghiệp văn chương của Nguyên Hồng. Nguyên Hồng đã sống 64 năm trên cõi đời (1918-1982) đã có 46 năm bền bỉ liên tục sáng tác (1936-1982), cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng “chưa hề có dấu hiệu gì vơi cạn; tập hai tiểu thuyết lịch sử "Núi rừng Yên Thế” còn chưa “ráo mực".
Nguyên Hồng "không có những kiệt tác hoàn chỉnh nhưng có những trang viết gọi là kiệt tác". Tác giả nhắc đến cảnh mẹ La vượt ngục, cảnh Huệ Chi bước dần tới cái chết với những kỉ niệm đầy chất thơ của tình mẫu tử, tình quê hương...; nhắc đến những quỷ sứ như Tây Cậu, Nguyễn Kim Tú để khẳng định: “Nguyên Hồng thường tạo nên sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiên đường và địa ngục".
Xuân Diệu đã có lần nói, Nguyên Hồng có năng khiếu của một nhà văn lớn. Nguyễn Đăng Mạnh ca ngợi: "Đối với lịch sử văn học nước ta năm mươi năm qua. Nguyên Hồng có một vị trí chắc chắn lắm, bền vững lắm”. Quá trình sáng tác của Nguyên Hồng "không có lúc nào xuống tay hẳn”.
Phần cuối bài văn, tác giả nói về chuyện Nguyên Hồng “rất dễ xúc động, rất dễ khóc". Nhiều nhà văn đã nói về chuyện này. Hai câu hỏi thật sự gợi cho người đọc bao suy nghĩ và cảm xúc:
“Nguyên Hồng đã sống hơn sáu mươi năm, đã viết hơn bốn mươi năm, ai biết được ông đã đổ ra bao nhiêu nước mắt cho đời và cho nghệ thuật?. Bây giờ nằm dưới ba thước đất, nguồn nước mắt ấy, liệu có bao giờ khô cạn được không?”
Ở nước ta, đã có nhiều người viết chân dung văn học. Nhưng phần lớn những bài viết đó đều nhạt và mờ, thậm chí có bài rất vô duyên. Bài “Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng" của Nguyễn Đăng Mạnh là một áng văn mang vẻ đẹp hoàn hảo. Sự đánh giá, bình luận sắc sảo, chí lí, chí tình. Một cách viết đằm thắm, chặt chẽ. Ngôn từ trang trọng. Trang trải trên trang văn là cả một tấm lòng “thương tiếc" mà tác giả đã gửi gắm ở đầu nhan đề. Nén tâm hương Nguyễn Đăng Mạnh thắp lên chắc sẽ làm cho hương hồn Nguyên Hồng rơi lệ!