Dàn ý chi tiết cảm nhận vẻ đẹp tình yêu trong các khổ thơ đầu và cuối bài thơ Sóng
1.Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Xuân Quỳnh và tác phẩm “Sóng”, nêu vấn đề chính: Cảm nhận về vẻ đẹp tình yêu qua khổ 1-2 và 8-9.
- Nêu ý phụ: rút ra nhận xét về sự vận động giữa hình tượng sóng và em.
2.Thân bài:
a. Khái quát sơ lược về tác phẩm cần cảm nhận
b. Cảm nhận vẻ đẹp của tình yêu
* Khổ 1 – 2: Nhân vật trữ tình soi mình vào sóng để nhận thức về tình yêu.
- Những dạng thức tồn tại của sóng cũng là những trạng thái tâm hồn đầy mâu thuẫn, phức tạp trong tình yêu của em: dữ dội – dịu êm; ồn ào – lặng lẽ...
- Con sóng luôn muốn tìm đến đại dương bao la để thỏa sức vẫy vùng vì không chịu được sự nhỏ bé hạn hẹp của những dòng sông. Em cũng thế, cũng luôn muốn tìm thấy một tình yêu bao dung, rộng lớn để có thể “hiểu nổi mình”.
- Sóng luôn tồn tại như một quy luật bất biến trên cõi đời, khi nào trái đất còn quay thì đại dương vẫn còn bao la, xanh thẳm, dù xưa hay nay “vẫn thế”. Tình yêu cũng trở thành quy luật bất biến trong đời sống nhân loại nhất là tình yêu luôn gắn với tuổi trẻ hồn nhiên, sôi nổi, nhiệt thành như tình yêu của em.
* Khổ 8 – 9: Tình yêu tan vào sóng để dâng hiến và bất tử
- Khi đứng trước đại dương, em – cái tôi trữ tình của người con gái đang yêu – nhận ra rằng biển cả dù lớn thì cũng đều có giới hạn: bến bờ. Từ đó trong lòng em gợn lên những suy tư, trăn trở, lo âu khi nhận ra sự ngắn ngủi, hữu hạn của đời người (khổ 8 “Cuộc đời tuy dài thế...”).
- Biển cả dẫu có giới hạn như cuộc đời mỗi người nhưng những con sóng lại không bao giờ ngơi nghỉ cũng như tình yêu đã trở nên bất diệt, song hành mãi mãi cùng nhân loại. Từ những chiêm nghiệm ấy, em đã ao ước, khát khao hướng đến một tình yêu trường tồn, vĩnh hằng; cái tôi yêu đương đã sẵn sàng dâng hiến để trở nên bất tử. (khổ 9 “Làm sao được tan ra...”).
* Những đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ năm chữ nhịp ngắn, giàu nhạc điệu; hình ảnh ẩn dụ đồng hiện giữa “sóng” và “em”; từ ngữ, hình ảnh khơi gợi nhiều cảm xúc.
c. Bàn luận mở rộng: Nhận xét về sự vận động của hình tượng sóng và em 1.0đ
* Sự vận động của hình tượng sóng.
- Ở hai khổ đầu sóng chỉ đơn thuần là một chi tiết nghệ thuật được nhân vật trữ tình chiêm ngưỡng với những suy ngẫm sâu xa để từ đó phát hiện giữa sóng và em có những tương đồng đến kì lạ: đầy phức tạp, bí ẩn nhưng đã khái quát hóa thành quy luật trường tồn.
- Đến hai khổ cuối, sóng không còn đóng vai một đối tượng khơi gợi cảm xúc nữa mà thật sự đã trở thành một hình tượng song hành, đồng hiện cùng với hình tượng “em”. Khát vọng của em đã tan ra thành “trăm con sóng”; giai điệu của sóng cũng là lời bài hát ca ngợi một tình yêu trường tồn để âm giai của cả em và sóng cùng hòa nhịp đến vĩnh hằng “ngàn năm còn vỗ”.
* Sự vận động của hình tượng “em”.
- Em ở hai khổ thơ đầu là một cái tôi đang nung nấu một tình yêu cháy bỏng, đầy cung bậc cảm xúc. Cái tôi ấy dễ dàng rung động trước hình ảnh giàu tính biểu cảm với tình yêu như sóng và cái tôi ấy cũng ẩn chứa bao giai điệu đẹp của khát vọng, của những nỗi bồi hồi trong trái tim của một cô gái trẻ.
- Đến hai khổ cuối, qua một hành trình đồng hành cùng sóng với những bí ẩn không lời đáp, với nỗi nhớ, với khát khao vượt qua tất cả để hướng về nhau, cái tôi tình yêu trong em dường như đã có sự trưởng thành. Không còn là một cái tôi đầy xúc cảm phức tạp nữa mà suy tư của em đã tập trung cho những lo âu, trăn trở về một cuộc đời ngắn ngủi, hữu hạn có thể biến tình yêu thành điểm chết tuyệt vọng. Đó vẫn là một cái tôi đầy mãnh liệt, khao khát nhưng không phải từ một ái tình liều lĩnh, bất chấp mà là cái tôi muốn hòa vào sự bất tử của thiên nhiên để hát mãi khúc tình ca.
=> Em và sóng từ hai hình tượng tách bạch, đơn lẻ đã có sự hòa quyện, đồng điệu trong ngòi bút đầy tinh tế. Sự vận động của hai hình tượng cũng là sự chuyển biến trong mạch cảm xúc của Xuân Quỳnh, nhà thơ vốn dĩ đã đầy khao khát yêu thương.
3.Kết bài:
- Khẳng định lại ý nghĩa, giá trị của tác phẩm.
- Nêu bài học liên hệ: hướng tới tình yêu trong sáng; sự trưởng thành trong tình yêu.
Bài văn mẫu số 1
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ trẻ xuất sắc trưởng thành từ kháng chiến chống Mỹ và là một trong số ít những nhà thơ nữ viết rất nhiều và rất thành công về đề tài tình yêu. Một trong những thành công xuất sắc về đề tài này của nữ sĩ là bài thơ “Sóng”, hai khổ thơ đầu bài thơ nữ thi sĩ viết:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc ẩn, vần thơ của bà vừa chân thành đằm thắm, vừa nồng nàn mãnh liệt và hơn hết luôn bật lên khát vọng da diết về hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ “Sóng” ra đời năm 1967 trong chuyến đi thực tế của nhà thơ về vùng biển Diêm Điền tỉnh Thái Bình và lúc này thì bản thân nhà thơ cũng vừa trải qua một sự đổ vỡ trong tình yêu. Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” năm 1968. Tình yêu là điều bí ẩn nên ngàn đời vẫn cuốn hút con người, tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh chính là những bông hoa dọc chiến hào làm dịu đi sự khốc liệt của chiến tranh.
Trong bài thơ “Sóng”, nhà thơ sử dụng thể thơ năm chữ, đây là thể thơ có nhịp điệu nhanh, mạnh, dồn dập. Thể thơ này thường dùng để diễn tả những dòng cảm xúc ào ạt, hối hả, mãnh liệt . Bài thơ sử dụng cách hiệp vần giãn cách, hiệp vần chân ở những tiếng cuối của các câu chẵn. Hơn nữa bài thơ có sự luân phiên về thanh điệu ở các tiếng cuối của các câu thơ. Như vậy những thủ pháp nghệ thuật sáng tạo đã tạo nên âm hưởng nhịp nhàng, uyển chuyển cho cả bài thơ. Âm hưởng của bài thơ là âm hưởng dạt dào của những con sóng mà mỗi câu thơ là một con sóng, chúng gối lên nhau chạy đều, chạy đều đến cuối bài thơ. Những con sóng là sự trào dâng mãnh liệt của dòng cảm xúc ào ạt trong lòng nữ sĩ. Có lẽ vì thế mà ấn tượng về con sóng trong bài thơ không chỉ là của sóng biển mà còn là của sóng tình. Đây cũng chính là hai hình tượng nghệ thuật mà tác giả đã tập trung xây dựng trong bài thơ. Sóng biển và sóng tình có lúc tồn tại song song để soi chiếu, tôn vinh vẻ đẹp cho nhau, có lúc lại hòa làm một, trong sóng biển có sóng tình, trong sóng tình ta lại thấy nhịp dào dạt của sóng biển. Suy cho cùng sóng biển và sóng tình là hai hình tượng nghệ thuật để biểu đạt cho cái tôi trữ tình của nhà thơ.
Qua hai khổ thơ đầu nữ sĩ đã cho chúng ta cảm nhận được đặc điểm của những con sóng biển và những con sóng tình yêu, những con sóng luôn chứa đựng những trạng thái đối lập và luôn có những khát khao vươn tới những sự vĩ đại, bao la. Mở đầu, nhà thơ viết:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Trong hai câu thơ mở đầu tác giả đã sử dụng tới hai cặp tính từ trái nghĩa để miêu tả đặc điểm của sóng biển: “dữ dội – dịu êm”, “ồn ào – lặng lẽ”. Thông thường đứng giữa những cặp tính từ trái nghĩa là quan hệ từ biểu đạt sự tương phản “tuy – nhưng”, thế nhưng ở đây nhà thơ nữ Xuân Quỳnh lại sử dụng quan hệ từ “và” vốn biểu đạt quan hệ cộng hưởng, cộng thêm, nối tiếp. Như vậy những đặc điểm tưởng như đối lập lại thống nhất với nhau và luôn tồn tại trong một chỉnh thể là sóng. Trong cái dữ dội có cái dịu êm, trong sự ồn ào lại chứa đựng sự lặng lẽ.Những trạng thái đối lập của sóng cũng chính là những trạng thái đối lập trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Trong tình yêu, tâm hồn người phụ nữ không hề bình lặng mà đầy biến động: có khi sôi nổi cuồng nhiệt, cũng có khi e lệ, kín đáo, có lúc đằm thắm, lúc hờn ghen…
Tác giả tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa trong hai câu thơ tiếp theo, con sóng được nhân hóa qua động từ “tìm” trong hành trình từ sông ra tới biển:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Tác giả đã khéo léo sử dụng động từ “tìm” trong việc nhân hóa con sóng đã cho ta thấy được sự chủ động của con sóng, con sóng chủ động chối bỏ những phạm vi chật hẹp “sông” để vươn tới những phạm vi rộng lớn bao la “bể”. Như vậy trong bốn câu thơ đầu nhà thơ đã giúp ta nhìn lại hai đặc điểm tự nhiên, vốn có của những con sóng và chính tác giả cũng đã phải sử dụng tới hai câu thơ để khẳng định sự hiển nhiên, vốn có này:
“Ôi con sóng ngày xưa
và ngày sau vẫn thế”
Nữ sĩ đã khẳng định đặc điểm ngàn đời vốn có của sóng, từ quá khứ “ngày xưa” cho đến tương lai “ngày sau” con sóng vẫn luôn chứa đựng những trạng thái đối lập, vẫn luôn vận động theo quy luật trăm sông đều đổ về với biển. Trạng từ khẳng định “vẫn thế” một lần nữa biểu đạt một chân lý không bao giờ đổi thay.
Thơ ca, nghệ thuật là những sự sáng tạo mang đến cho người đọc những cảm xúc mới, đem đến cho tâm hồn con người những sự trải nghiệm phong phú. Ta tự hỏi vì sao trong sáu câu thơ đầu tác giả chỉ cho chúng ta hai đặc điểm tự nhiên, vốn có của con sóng? Để giải đáp cho điều này nữ sĩ viết tiếp hai câu thơ:
“Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Đến đây ta đã cảm nhận được sự xuất hiện của một con sóng nữa đó là con sóng của tâm hồn, là con sóng của tình yêu, mà lại là tình yêu của tuổi trẻ đang bồi hồi, đang thổn thức trong trái tim, trong lồng ngực. Khát vọng tình yêu cháy bỏng mãnh liệt đang trào dâng trong lòng nữ sĩ. Như vậy đứng trước biển, trước những con sóng ào ạt ạt vỗ bờ dòng cảm xúc trong lòng nữ sĩ cũng trào dâng. Những con sóng biển ở sáu câu thơ đầu đã gọi những con sóng tình trong lòng nhà thơ. Sóng biển đã gọi sóng tình hay sóng biển chính là yếu tố khơi nguồn cảm xúc trong lòng thi sĩ.
Vì sao sóng biển lại gọi được sóng tình, lại có sức khơi gợi cảm xúc mãnh liệt như vậy? Có lẽ giữa sóng biển và sóng tình có sự tương đồng, nếu sóng biển biển chứa đựng những trạng thái đối lập thì tâm trạng người con gái đang yêu cũng có những lúc giận dỗi, hờn ghen, có những lúc yêu thương dịu dàng đằm thắm:
“Em bảo anh đi đi
Sao anh không đứng lại?
Em bảo anh đừng đợi
Sao anh vội về ngay?”
Con gái khi yêu luôn là như thế, luôn mâu thuẫn, đối lập trong lời nói và hành động. Nếu yêu một người con gái mà không biết nhìn thẳng vào mắt người đó thì chắc chắn một điều rằng anh chàng sẽ khó lòng hiểu và yêu thương cô gái trọn vẹn.Hành trình của sóng chính là hành trình của tình yêu. Nếu con sóng luôn luôn chủ động chối bỏ những chật chội hẹp hòi để vươn tới những điều rộng lớn thì người con gái đang yêu cũng luôn luôn có khát khao như thế .Họ dũng cảm từ bỏ những ích kỉ, nhỏ nhen để vươn tới tình yêu bao dung . Việt Nam là một nước có lịch sử ơn một nghìn năm phong kiến và chế độ phong kiến đã đè nặng tư tưởng phụ nữ Việt. Thời kỳ những năm 1967 ảnh hưởng của tư tưởng hệ phong kiến chắc chắn còn, mà thậm chí còn rơi rớt đến một số thế hệ trẻ hiện nay thế nhưng ở Xuân Quỳnh ta bắt gặp một con người hiện đại, thông minh và sắc sảo,luôn khát khao hướng tới một tình yêu vĩ đại.
Bài văn mẫu số 2
Đã có bao nhiêu người đã yêu, bao nhiêu người đang yêu và bao thơ tình yêu trên thế gian này! Vậy mà mỗi ngày lại mới. Tình yêu không có tuổi, thơ tình yêu lại càng không có tuổi bao giờ. Trên thế gian có biết bao nhà thơ tình yêu nổi tiếng: Rimbaud, Verlaine rồi Puskin, Byron... và mỗi người một vẻ, một sắc thái. Từ thuở thơ Đường, thơ Tống, từ thuở Nguyễn Du rồi Thế Lữ, Xuân Diệu và chúng ta ngày nay..., tình yêu vẫn là cái gì khiến người ta đam mê, khát khao. Xuân Quỳnh, nhà thơ của nỗi niềm yêu đương, với bài Sóng đã thể hiện được nhiều cung bậc tình yêu. Bài thơ của Xuân Quỳnh cất lên tình yêu nồng nàn của tuổi trẻ và khát vọng của con người đối với tình yêu. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không còn dừng lại ở quá độ tình yêu buổi đầu giản đơn, hò hẹn, non nớt, ngọt ngào mà là tình yêu hạnh phúc gắn với cuộc sống chung.
Trong những đoạn đầu của bài thơ, nhà thơ miêu tả "sóng" với những sắc thái, những cung bậc khác nhau để rồi từ đó nói tới quy luật của tình yêu. Tình yêu là sự dung hòa những sắc thái tình cảm tưởng chừng như đối lập. Tình yêu có quy luật tự nhiên của nó mà lý trí không giải thích được. Người ta tìm đến với tình yêu, soi mình vào tình yêu để tự nhận ra chính bản thân mình:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Bốn câu thơ mở đầu bài thơ chẳng có chữ nào dính dáng đến tình yêu, nhưng đọc khổ thơ lên thì bao trùm tất cả là cảm xúc yêu đương. Dường như tình yêu ẩn náu đằng sau câu chữ ấy. Có gì thật là xôn xao nhiệt thành mà thật là trầm lắng. "Dữ dội", "ồn ào" để rồi "dịu êm", "lặng lẽ" - tình yêu là ở đấy và tình yêu là như thế. Tưởng như đối lập, tưởng như mâu thuẫn mà lại là thống nhất trong tâm trạng yêu đương. Đâu chỉ là sóng, là nước - hồn người đang yêu đó.. và tình yêu mãi là cái gì mà người ta không hiểu nổi:
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Rõ ràng đó không phải là tình yêu buổi đầu giản đơn, hò hẹn, non nớt, ngọt ngào nữa. Đây là con đường tất yếu trong thiên nhiên, sóng phải tìm ra bể nhưng đây cũng là quy luật tất yếu của tình cảm: con người đi tìm "cái nửa" lớn lao để họ hoàn thiện mình. Đến khổ thơ sau, ý tứ rõ ràng hơn:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Khổ thơ này là sự khai triển tứ thơ trước. Bao nhiêu thế hệ đã qua, những cuộc hành trình đau khổ, vui sướng những niềm xót xa cùng hạnh phúc ngập tràn - tất cả điều đó vì khát vọng tình yêu. Thuở Adam - Eva, thuở con người mông muội và hiện đại... tình yêu là điểm sáng vĩnh cửu cho con người hướng tới mà sống, chiến đấu, lao động. Có gì trên cõi đời này thay được trái tim cũng như tình yêu có bao giờ không còn nữa!
Ta bắt gặp trong bài thơ một tình yêu khỏe khoắn, hồn nhiên. Tình yêu của tuổi trẻ ngập tràn sức sống vô bờ bến. Không phải thứ tình yêu bi lụy thê lương "yêu là chết trong lòng một ít" như thơ Xuân Diệu trước Cách mạng mà đây là một tình yêu dám sống, dám yêu, tình yêu chan chứa tình yêu nhiệt thành. Chẳng để tượng trưng cho tình yêu của mình:
Sóng bắt đầu từ gió
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Đây là thơ tình của người đang yêu chứ không phải là thơ tình của người nhìn người khác yêu, bởi chỉ có người đang yêu mới diễn tả những xúc cảm tình yêu đúng như vậy. Nỗi nhớ nhung, rồi nơi tình yêu đến... có ai biết được yêu khi nào và có ai biết được sóng từ đâu đến! Xuân Quỳnh nói hộ tâm trạng đang yêu của bao người:
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Hình ảnh "sóng" tượng trưng rất độc đáo mà vô cùng sâu lắng. Chỉ có sóng mới đêm ngày trào dâng, trái tim yêu đêm ngày cũng vậy. Cái hồn hậu, cái đắm say, cái tha thiết nhất được biểu hiện bằng hình tượng thơ này. Lấy sóng để nói nỗi nhớ, nói tình yêu thì không hẳn chỉ có Xuân Quỳnh nhưng quả là đến Xuân Quỳnh thì hình tượng thơ này trở nên mới mẻ bao nhiêu. Con sóng ấy có tình yêu, có niềm nhớ nhung nhưng mang lại thêm nhân hậu, dịu dàng của người phụ nữ và đấy là bản sắc riêng của Xuân Quỳnh. Nỗi nhớ nhung của con sóng cũng là nỗi nhớ nhung của bao người mình yêu. Tâm trạng nhớ nhung của Xuân Quỳnh cũng là tâm trạng của bao người đang yêu:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Cuộc sống của Xuân Quỳnh cũng giống cuộc sống của bao người khác, hạnh phúc của Xuân Quỳnh cũng là hạnh phúc của bao người khác:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Hướng về anh một phương.
Đọc khổ thơ cuối làm ta nghĩ về khổ thơ khác của Xuân Quỳnh:
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có,
Biết ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi
Có gì rất gần gũi giữa những câu thơ ấy vì cả hai khổ thơ tuy không cùng bài nhưng lại là sự khẳng định tình yêu. Một tình yêu đẹp thì bao giờ cũng là một tình yêu biết vượt qua những khó khăn, thử thách, biết đấu tranh để bảo vệ những ước mơ, những khát vọng chân chính, biết tin tưởng vào tương lai của cuộc sống, tin tưởng vào hạnh phúc của mình và của mọi người. Và một tình yêu thủy chung son sắt thì bao giờ nỗi nhớ cũng có một điểm dừng, đó là người mình yêu:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vàn cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn qua đi
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Xuân Quỳnh ý thức được những vất vả nhọc nhằn trong cuộc hành trình đến với hạnh phúc, nhưng là người có trái tim lớn nên Xuân Quỳnh lại có niềm tin mãnh liệt vào tình yêu. Đây là sức mạnh tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh, cái sức mạnh mà chẳng phải tình yêu nào cũng có được, sức mạnh của niềm tin. Tin yêu rồi không phải hết mơ, dẫu tận cùng con đường kia là hạnh phúc, và Xuân Quỳnh đã đi hết con đường đó thì chị vẫn ước mơ. Niềm tin trong thơ chị lớn lao bao nhiêu thì ước mơ cũng lớn bấy nhiêu.