Phân tích tính sử thi tác phẩm Rừng xà nu hay nhất (11 bài văn mẫu)

Dàn ý Phân tích tính sử thi tác phẩm Rừng xà nu – Dàn ý mẫu chi tiết

I. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, chất sử thi của tác phẩm.

II. Thân bài

1.Khái niệm Sử thi

Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, miêu tả và ca ngợi những thành tựu, những sự kiện có tính chất toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng, ca ngợi những anh hùng bộ tộc mang sức mạnh thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của bộ tộc. Ở Việt Nam có người anh hùng Đam San trong Bài ca Đăm Săn của người Ê Đê…)

Mỗi bộ sử thi chính là niềm tự hào to lớn của dân tộc đó. Sử thi thời cổ đại là thể loại một đi không trở lại. Nền văn học hiện nay không còn thể loại sử thi nữa nhưng cái không khí, tính chất của sử thi vẫn được người cầm bút mang vào trong các sáng tác. Và chất sử thi đã làm nên giá trị, làm nên sức sống cho từng trang viết, làm sống lại không khí hùng tráng của một thời đại anh hùng. Một số truyện ngắn tiêu biểu minh họa cho sự tồn tại của nền văn học sử thi trong Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 như: Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình, Người mẹ cầm súng của nhà văn Nguyễn Thi, truyện ngắn Rừng xà nu, tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyễn Trung Thành, tiểu thuyếtHòn Đất của Anh Đức…

2. Hoàn cảnh sử thi

Truyện ngắn Rừng xà nu được in trong tập truyện ngắn Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.Tác phẩm được viết vào năm 1965. Đây là thời điểm Mỹ đổ quân tham chiến ở miền Nam

. Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam ở vào hồi quyết liệt: giặc Mỹ điên cuồng đánh phá Cách mạng miền Nam. Trước sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù, tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân (từ miền ngược đến miền xuôi) càng kiên cường và bất khuất “Họ đã xuống đường và đem cả lương tâm và nhân phẩm bắn tỏa lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai)

3. Chất sử thi thể hiện trong tác phẩm Rừng Xà Nu

Ý 1: Chất sử thi được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên hùng vĩ , tráng lệ vừa đậm chất thơ của núi rừng Tây Nguyên.

Thiên nhiên trong Rừng xà nu thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây”, thì kết túc tác phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Đó chính là bức tranh thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta.

Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật như: nhân cách hóa, ẩn dụ, tượng trương, so sánh, bi tráng hóa… nhà văn đã dựng nên bức tranh rừng xà nu ở nhiều góc độ:

- Rừng xà nu chịu nhiều đau thương mất mát do bom đạn của kẻ thù gây ra.

- Sức sống mãnh liệt của cây xà nu không bom đạn nào có thể khuất phục được (So sánh với sức sống của con người Xô Man)

- Cây xà nu ham ánh sáng, yêu tự do, luôn vươn lên đón ánh nắng và khí trời.

- Cây xà nu vững chãi với thế đứng “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho cả dân làng”.

Ý 2: Tnú – hình ảnh người anh hùng bất tử của dân làng Xôman.

Đến với truyện ngắn “Rừng xà nu”, chúng ta được thả hồn theo những cánh rừng xà nu bát ngát, xanh rờn đến tận chân trời, được chứng kiến sức sống mãnh liệt không gì hủy diệt được của những cây xà nu. Mặt khác chúng ta lại khâm phục biết bao người anh hùng Tnú với những phẩm chất tốt đẹp. Xây dựng hình tượng người anh hùng này cũng là biểu hiện chất “Sử thi”.

• Tnú: Cuộc đời đầy đau khổ, cay đắng, bị kẻ thù giết hại cả gia đình, anh đã biến đau thương thành hành động trở thành anh lực lượng đi đánh giặc trả thù nhà nợ nước.

- Tnú và chặng đường đầu của cách mạng (Nuôi giấu cán bộ, làm liên lạc, bị giặc bắt)

- Vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc.

- Cùng một lúc phải hứng chịu hai tấn bi kịch do tội ác của giặc gây ra (vợ con bị giặc giết, bản thân anh bị giặc đốt cụt mười đầu ngón tay)

- Hình tượng đôi bàn tay Tnú (đôi tay cần cù lao động, đôi tay chứng nhân tội ác kẻ thù, đôi tay chưa bao giờ biết phản bội…)

“Gấp trang sách lại, hình ảnh Tnú với bao phẩm chất tốt đẹp vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Tnú tiêu biểu cho hình mẫu người anh hùng dân tộc Tây Nguyên và cũng mang những nét chung của hinh mẫu anh hùng dân tộc thấm đượm chất “Sử thi”. Cùng với Trần Quốc Toản, La Văn Cầu, Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn Trỗi và biết bao anh hùng, liệt sĩ khác các anh ca lên bài ca khải hoàn chiến thắng cho dân tộc Việt Nam yêu dấu” (Phan Huy Dũng)

Ý 3. Tính cộng đồng trong tác phẩm:

Bên cạnh việc miêu tả,làm nổi bật lên hình ảnh của người anh hùng Tnú, người ta còn thấy được hình ảnh của những con người khác xung quanh nhân vật này, những người gan dạ dũng cảm trong cộng đồng làng Xô man. Mỗi con người là một sức mạnh, mỗi ngọn giáo đứng lên là thể hiện một lòng căm thù. Sức sống mãnh liệt đó được truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ các cụ già đến những em bé còn ngây thơ nhưng đã có ý thức về nỗi đau mất nước, mất người thân, mất chủ quyền dân tộc. Tính chất cộng đồng được thể hiện trong tác phẩm rất rõ:

- Đó là hình ảnh sum vầy, quây quần bên nhau, nương tựa vào nhau “cơm nước xong từ phía nhà ưng có ai đấy đánh lên một hồi mõ dài ba tiếng , dân làng lũ lượt kéo tới nhà cụ Mết”. Tất cả mọi người từ các cụ già các cô gái, những đứa trẻ sum tụ bên nhau để nghe câu chuyện cuộc đời Tnú.

- Cụ Mết, thế hệ đi trước, một con người từng xông pha trong kháng chiến chống Pháp, nay lại tiếp tục sứ mệnh tiếp thêm sức mạnh cho con cháu, là người chỉ đường dẫn lối, là người truyền lại kinh nghiệm cho thế hệ mai sau “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

- Dít, một cô gái với lòng dũng cảm, sự thông minh, ấn tượng bởi “đôi mắt mở to và bình thản”. Bình thản trước súng gươm của kẻ thù. Phẩm chất kìm nén đau thương để biến thành hành động, nhanh chóng trở thành cô bí thư chi bộ, cấp chỉ huy cao nhất của làng Xô Man.

- Rồi đến Heng “đội cái mũ sụp xin được của một anh giải phóng, mặc chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một người lính thực sự.”, cũng dũng cảm, cũng nhanh nhẹn như Tnú. Cũng là một cây xà nu con mọc lên, tiếp bước với cây lớn làm nên rừng xà nu, làm nên bản làng Xô man mạnh mẽ.

• Có thể nói chất anh hùng tự ngàn đời đã chảy vào huyết quản của già làng Mết, từ già làng chảy qua Tnú, Tnú chảy qua Mai, Mai chảy qua Dít, Dít chảy qua Heng, Heng chảy vào những cây xà nu con mới mọc đã nhọn hoắt như những mũi lê chóc thẳng lên bầu trời. Dân tộc Việt Nam dù có hy sinh, dù có mất mát nhưng vẫn không bao giờ lùi bước trước quân thù:

Ý 4. Nghệ thuật trong truyện ngắn Rừng Xà Nu.

- Hình thức kể chuyện với cách tạo không khí truyện rất Tây Nguyên đậm đà màu sắc sử thi truyền thống. Bao trùm lên toàn bộ thiên truyện là một khung cảnh nghiêm trang, hào khí lại vừa mang đậm chất lãng mạn cuốn hút về làng Xô man bất khuất kiên cường.

- Giọng văn trong Rừng Xà Nu là giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính sử thi hoàng tráng của tác phẩm.

- Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.

- Biện pháp nhân cách hóa, miêu tả cây xà nu như con người Xô Man. Vì vậy cây xà nu hiện ra như một nhân vật của câu truyện. Nguyễn Trung Thành đã biến rừng xà nu thành cả một hệ thống hình ảnh được miêu tả song song với hệ thống hình tượng nhân vật.

- Sử dụng kiểu thời gian gấp khúc “đau thương nuôi con người vụt lớn lên” (Tnú ngày bị bắt mới chỉ đứng ngang bụng cụ Mết, 3 năm sau trở về đã là chàng thanh niên lực lưỡng; Dít ngày Tnus đi còn bé, 3 năm sau anh trở về Dít đã là bí thư chi bộ)

III. Kết bài

Khẳng định vẻ đẹp sử thi của tác phẩm, của thời đại. Liên hệ “Những đứa con trong gia đình”.

Phân tích Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thể hiện qua tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành hay nhất – Bài văn mẫu số 1

“Rừng xà nu” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành và của văn học thời chống Mĩ. Trong tác phẩm, với hình tượng cây xà nu, Nguyễn Trung Thành đã làm nổi rõ khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, một đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975. Khuynh hướng này đã chi phối sự sáng tạo nghệ thuật của các nhà văn trong giai đoạn văn học này.

Đọc “Rừng xà nu” những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai... tạo nên ấn tượng sâu sắc nơi độc giả. Nổi bật hình ảnh cây. xà nu được lặp đi lặp lại gần hai mươi lần một hình tượng đặc sắc bao trùm tọàn bộ thiên truyện ngắn này. Hình tượng ấy đã tạo nên vẻ đẹp hùng tráng, chất sử thi và lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô-man bất khuất, kiên cường. Qua tác phẩm, cây xà nu, rừng xà nu đã được Nguyễn Trung

Thành miêu tả thật cụ thể, thật chi tiết với ngôn ngữ giàu chất thơ, bằng những “lời văn có cánh” trong một cảm xúc thật say mê và mãnh liệt. Cây xà nu trong truyện xuất hiện rất nhiều lần và đường như rất quen thuộc với con người nơi núi rừng Tây Nguyên, nó tham dự vào tất cả những sinh hoạt, những tâm tình, những buồn vui của người dân nơi đây trong cuộc chiến đâu chống Mĩ thật anh dũng của họ. Tác phẩm “Rừng xà nu” là một bản anh hùng ca về cuộc đời anh dũng, đau thương, bất khuất của Tnú cũng như của tất cả dân làng Xô-man. Câu chuyện ấy được kể trên nền tảng chính của hình tượng cây xà nu — một hình tượng hàm chứa rất nhiều ý nghĩa tượng trưng và khái quát. Những cây xà nu, rừng xà nu như những con người, những tâm hồn sống, vừa là nhân chứng, vừa tham gia bản anh hùng ca, cũng vừa chịu đựng mọi vất vả, đau thương dưới tầm đạn kẻ thù. Nhưng bất chấp tất cả, rừng xà nu vẫn tràn đầy sức sống, vẫn vươn mình lên cường tráng vượt lên mọi thương đau. Cây xà nu là một hình ảnh mang tính chất tượng trưng cho khát vọng tự do, khát vọng giải phóng, cho phẩm chất anh hùng và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của dân làng Xô-man.

Mở đầu câu chuyện là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây” và kết thúc vẫn là “những rừng xà nu nốì tiếp chạy đến chân trời”. Hình ảnh ấy như một nét nhạc trầm hùng, một bản đàn dạo, là cái “phông” cho cả một câu chuyện khiến thiên truyện càng mang đậm tính sử thi và lãng mạn hơn. Rừng cây xà nu được xem như là biểu tượng cho con người Xô-man. Với hình ảnh nhân hóa, Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cây xà nu như những con người, chúng cũng có “vết thương”, biết “ham ánh sáng” và “ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng”. Cây xà nu còn là một hình ảnh so sánh với con người “ngực căng bằng cây xà nu”. Rừng xà nu năm tháng đứng dưới tầm đại bác kẻ thù chịu đựng biết bao tàn phá, cũng như những đau thương mà dân làng phải gánh chịu trước ách kìm kẹp của giặc. “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. “Cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình nhựa ứa ra, tràn trề”., rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn”. Hình ảnh đó gợi lên lòng căm thù và kết tụ một ý chí phản kháng.

Nhưng hơn hết vẫn là sức sống mãnh liệt đầy sức trẻ của rừng xà nu bạt ngàn. “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, “có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắc như những mũi lê” “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng”. Thế mới biết sức trẻ của cây xà nu mãnh liệt đến dường nào! Sức trẻ ấy còn mang tính tượng trưng cho thế hệ trẻ của làng Xô-man. Đó là những Mai, Dít, Tnú, Heng, những con người luôn gắn bó với cách mạng, bất khuất từ tuổi thơ, lớn lên trong lửa đạn, trưởng thành trong đau thương và sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì tự do của dân tộc.

Bên cạnh đó, sức sống bất khuất kiên cường của cây xà nu còn được tạo bởi hàng vạn cây ở những đồi xà nu nối tiếp nhau tới chân trời ở tấm ngực lớn của rừng ưỡn ra che chở cho làng. Đó là những cây xà nu thật vững chắc, xanh tốt đã vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum suê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã”, một cây ngã xuống tức thì bốn năm cây con lại mọc lên cứ thế trở thành cả một rừng cây xà nu nối tiếp đến chân trời. Những cây xà nu, rừng xà nu ấy là hình ảnh của dân làng Xô-man kiên cường chống giặc, bất chấp mọi hi sinh, một lòng đi theo Đảng, đi theo kháng chiến hết thế hệ này đến thế hệ khác. Đó là những cụ Mết, anh Xút, Tnú, Mai, Dít, anh Brơi... mà tiêu biểu là hình ảnh cụ Mết. Nhà văn đã ví cụ “như một cây xà nu lớn”. Hơn ai hết, cụ là người hiểu rất rõ sự gắn bó của cây xà nu và mảnh đất đang sống, hiểu được sức mạnh tiềm tàng bất khuất của rừng xà nu cũng như của dân làng Xô-man. Chính cụ Mết đã nói với Tnú “không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “cây mẹ chết cây con lại mọc lên”.

Cây xà nu còn là người chứng kiến sự giác ngộ, sự hi sinh thầm lặng, lòng đũng cảm và ý chí quật khởi của dân làng Xô-man. “Đứng trên đồi cây xà nu gần con nước lớn, cả vùng Xô-mạn ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng”. Ánh lửa xà nu soi sáng lời căn dặn của anh Quyết: “Người còn sống phải chuẩn bị dao, mác, vụ, rựa, tên, ná... Sẽ có ngày dùng tới”. Lửa xà nu thử thách ý chí cũng như lòng can đảm của Tnú: “Không có gì đượm bằng nhựa cây xà nu. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc... máu anh mặn chát ở đầu lưỡi...”

Thoạt đầu là “hai bàn tay anh lúc ấy còn lành lặn”, bàn tay chú bé Tnú dắt cô bé Mai lên rẫy trồng tỉa, xách xà lét giấu vài lon gạo đi nuôi cán bộ Quyết trốn ở rừng; bàn tay cầm viên phấn bằng đá trắng, lấy từ núi Ngọc Linh về, viết lên bảng đen đan bằng nứa hun khói xà nu, để học chữ y dài, chữ 0 thêm móc thành a; bàn tay cầm đá đập vào đầu vì học dốt; bàn tay mang công văn đi làm liên lạc; hai bàn tay mà Mai đã cầm lấy, ở gốc cây to đầu rừng lách, khi Tnú thoát ngục Kon Tum, bàn tay duyên nợ Mai vừa cầm vừa “ứa nước mắt khóc, không phải vì như một đứa trẻ nữa mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa thương yêu”.

Bàn tay nguyên vẹn đó không còn. Cụ Mết có bàn tay nặng trịch nắm chặt như kìm sắt, hỏi: “Mười ngón tay mày vẫn cụt thế à? Không mọc ra được nữa à!... Ừ!.”... Câu hỏi đó rất đột ngột, như người sực tỉnh, chợt nhớ đến một điều hệ trọng. Ông cụ hỏi và tự trả lời. Sự thật đau đớn không tin là thật, cụ ngạc nhiên sao ngón tay lại cụt, cụt rồi sao không mọc lại? Một tiếng “ừ” cam chịu và đe doạ. Cụ giận dữ nói tiếp: “...Được! Ngón tay còn một hai đốt cũng bắn súng được. Mày có đi qua chỗ Rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sống đây”. Đúng thế, con người, thiên nhiên, đất nước vẫn sống, vượt lên mọi đoạ đày, chém giết.

Cây xà nu ở Xô Man mọc thành rừng “ươn tấm ngực lớn che chở cho làng”. Nhựa nó “thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt”, nó “sinh sôi nảy nở khoẻ... một cây mới ngã gục, đã có bốn năm cây mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời” như thế hệ trẻ Dít, Heng nối tiếp Tnú, Mai, lớp người này đã từng thay thế Quyết. Xà nu đốt lên làm ngọn lửa thổi cơm, xông khói sưởi ấm, lem luốc cả lũ trẻ không áo mặc, làm đuốc soi cho Dít giã gạo, cháy giần giật trong gió, trong mưa soi đường cho cụ Mết dẫn dân làng vào rừng lấy giáo mác, vụ rựa giấu kỹ đem ra nổi dậy. Cây mọc bên con nước lớn, bên con suối nhỏ, cây ham ánh nắng còn Tnú ham tự do, đi đâu cũng nhớ trở về làng. Đạn đại bác rót thành lệ mỗi ngày, sát thương hàng vạn cây. Cây bị chặt đứt ngang thân, đổ xuống ào ào, chết lập tức tại trận, giữa tuổi xanh cây. Như Mai chết đang sinh nở. Cây bị thương ứa nhựa tràn trề như máu xối. Máu đổ bao giờ cũng gây một cảm giác thiêng liêng, máu chả là sự sống đang bị rời đi từng giọt từng giây, là giao điểm tiếp cận cái hư vô vĩnh cửu. Nhựa xà nu “bầm đen lại và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn”, cục máu không tan như một di hận đòi trả thù. Nhưng có thân cây, có bàn tay vượt qua thử thách, lành lại vết thương, lên da non, cường tráng như cũ.

Bàn tay Tnú là bàn tay tín nghĩa, không biết bội phản. Cũng là một bàn tay chỉ đường. “Lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém - Cộng sản đâu, chỉ ra! Tnú nói nhỏ: - Cởi trói đã, tay mới chỉ được. Chúng nói cởi trói tay, Tnú để bàn tay ấy lên bụng mình: - ở đây này!”. Lại thêm những nhát dao băm lên lưng Tnú, máu ứa đông lại, tím thâm như nhựa xà nu. Chất nhựa, chất dầu xà nu xưa nay vẫn giúp ích cho dân làng. Con người trồng cây, cây phục vụ cuộc đời. Lẽ tự nhiên thuận trời thuận đất là như vậy. Nhưng có sự can thiệp của lực lượng phản động, quy luật bị đảo ngược. Thằng Dục tẩm dầu xà nu vào giẻ rồi quấn lên mười đầu ngón tay Tnú, mười điểm chót vót, bén nhậy nhất của hệ thần kinh. Dầu xà nu bắt lửa rất nhanh. Nó châm đốt dần từng ngón tay Tnú, như muốn thong thả nhấm nháp cái thích thú đao phủ đó. “Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”. Dầu xà nu rất thơm nay khét lẹt mùi thịt cháy. Thằng Dục không phải là người Mỹ, dầu xà nu không phải là xăng dầu nhập cáng, kẻ thù thâm hiểm hằng giấu bàn tay diệt chủng, dùng người của chúng ta giết chúng ta.

Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú. Nhưng mười ngọn đuốc thịt da đó đã kịp làm mồi châm ngọn lửa nổi dậy. Sau tiếng thét của Tnú, dân làng bộc phát giết sạch mười tên giặc... Rồi vết thương lành lại. Mỗi ngón tay cụt một đốt. Còn lại hai đốt vẫn có thể cầm giáo, bắn súng. Như cây xà nu bị mảnh đạn ứa nhựa tím bầm còn vương cánh đứng đó. Bàn tay không như cũ, nhận thức không thể như cũ. Tnú đã trả giá đắt nhưng có một kinh nghiệm lớn: “Chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục”. Và tình cảnh anh cũng đứng ngang tầm kinh nghiệm đó. Căm thù trong anh cháy giần giật như nhựa xà nụ bén nhạy. Có súng, anh không bắn. Có dao, anh không đâm. Những thằng Dục mờ mắt trắng dã nhìn tang chứng tội ác hiển hiện của chúng, nhìn bàn tay quá báo, bàn tay cụt mười ngón đang xoè ra bóp cổ chúng, không ngờ sự trừng phạt lại đến nhanh chóng và ghê gớm như vậy.

Giọng điệu sử thi của “Rừng xà nu” bắt đầu từ câu chuyện kể của cụ Mết dưới ánh lửa xà nu, một câu chuyện, phảng phất phong vị anh hùng ca. Và cây xà nu không chỉ gắn với quá khứ, hiện tại anh hùng mà còn gắn bó với mọi sinh hoạt, phong tục và đời sống vãn hóa của người Xô-man, của các dân tộc Tây Nguyên.

Đến cuối truyện, hình ảnh cánh rừng xà nu lại trở về, “những rừng xà nu nối tiếp chạy đến tận chân trời” với “vô số những cây con đang mọc lên” bất chấp đêm qua đạn đại bác lại bắn. Ta đường như nghe thấy âm thanh của sự sống mới, một sức sống vô hạn và không gì có thể tàn phá nổi của một dân tộc thương đau, là chiến thắng của tuổi trẻ, lời hứa hẹn của tương lai. Ta nghĩ đến Dít - một Mai khác không chi biết yêu thương mà còn biết chiến đấu bảo vệ những gì thân yêu, Ta nghĩ đến bé Heng, rất có thể sẽ còn đi xa hơn Tnú… Cứ thế, câu chuyện nói rất nhiều đến súng, đao, chết chóc đã khép lại trong một điệp khúc dịu dàng, ngọt nhẹ. Đó dường như là cảm xúc sử thi hoành tráng. Hoàng tráng trong hình ảnh, với vóc dáng vạm vỡ, cao cả của núi rừng Tây Nguyên, hoành tráng trong âm hưởng, với lời văn đầy âm điệu, khi vang động khi thiết tha, trang nghiêm.

Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được Nguyễn Trung Thành thể hiện một cách xuất sắc qua hình tượng cây xà nu, đó thật sự là một sáng tạo nghệ thuật đáng kể của nhà văn. Ông đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới những lớp ý nghĩa rất khác nhau qua cách viết vừa gợi vừa tả. Qua hình tượng này người đọc không chỉ thấy rõ sức sống kiên cường, mãnh liệt của dân làng Xô-man,của con người Tây Nguyên nói riêng mà còn là của dân tộc Việt Nam nói chung trong những tháng năm chống Mĩ.

Phân tích Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thể hiện qua tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành  – Bài văn mẫu số 2

Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu. Ông vốn là nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ông là ngòi bút gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, có nhiều thành tựu nhất khi viết về Tây Nguyên. Truyện ngắn Rừng xà nu là tác phẩm đặc sắc của ông trong kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm mang đậm chất sử thi, viết về những vấn đề trọng đại của dân tộc; nhân vật trung tâm mang những phẩm chất chung tiêu biểu cho cộng đồng; giọng điệu ngợi ca, trang trọng, hào hùng.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đất nước chia làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối. Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Rừng xà nu được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ. Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại. Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù tàn ác.

Trước hết nên hiểu thế nào là khuynh hướng sử thi trong văn học. Đó là một khuynh hướng trong sáng tác nghệ thuật thiên về việc phản ánh những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính cách toàn dân. Nhân vật trung tâm trong những tác phẩm viết theo khuynh hướng sử thi thường là những con người đại diện cho giai cấp, cho dân tộc với những phẩm chất cao cả, kết tinh những gì cao đẹp nhất của cộng đồng. Và khi khẳng định, ngợi ca những anh hùng, những kì tích sáng chói ..., người nghệ sĩ không nhân danh cá nhân mà nhân danh dân tộc, nhân danh cộng đồng. Khuynh hướng sử thi thường gắn liền với khuynh hướng lãng mạn.

Trong tác phẩm "Rừng xà nu", khuynh hướng sử thi được thể hiện khá rõ ở việc lựa chọn đề tài, việc xây dựng nhân vật, việc sử dụng hình ảnh lẫn giọng điệu của tác phẩm ... Đề tài của truyện "Rừng xà nu" nói đến vấn đề sinh tử hết sức hệ trọng không chỉ của cả cộng đồng dân làng Xô Man mà của cả dân tộc Việt Nam. Truyện viết về một thời điểm lịch sử trọng đại của cách mạng Miền Nam những năm đen tối sau Hiệp định Giơ-ne-vơ cho đến lúc Đồng khởi, nhưng đây là thời điểm tức nước vỡ bờ, nhân dân Miền Nam chuẩn bị vũ trang chiến đấu. Chủ đề của tác phẩm mang đậm tính sử thi: trước sự tàn ác của kẻ thù, nhân dân Miền Nam chỉ có một con đường duy nhất là cầm vũ khí vùng lên chiến đấu giải phóng quê hương.

Những nhân vật trong tác phẩm, tiêu biểu như Tnú, cụ Mết, thực chất là những kết tinh cao độ những phẩm chất tiêu biểu của cả cộng đồng (gắn bó với dân làng, trung thành với cách mạng, căm thù giặc sâu sắc, kiên cường bất khuất, dũng cảm chiến đấu hi sinh ...). Lí tưởng sống của những nhân vật này luôn gắn liền với vận mệnh của cả cộng đồng. Hơn nữa, các nhân vật ở đây cũng được xây dựng thể hiện sự tiếp nối giữa các thế hệ cách mạng làng Xô Man. Cụ Mết đại diện cho thế hệ cách mạng từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp, cụ truyền lại cho con cháu truyền thống oanh liệt đó của dân làng; Tnú tiêu biểu cho ý chí và sức mạnh của cả cộng đồng; Dít, Heng là thế hệ non trẻ tiếp nối cha anh ... Vì thế, tất cả số phận của mọi nhân vật đều thống nhất với nhau, thống nhất với số phận của cả cộng đồng. Điều đó cũng thể hiện rõ nét tính sử thi của tác phẩm.

Rừng xà nu là tác phẩm in đậm tính sử thi. Đây là câu chuyện của một người, một làng. Nhưng đặt vào hoàn cảnh Rừng xà nu được viết ra, thì đó cũng là câu chuyện của một thời đại, một đất nước, một cuộc cách mạng..Như vậy, đây là chân lí mang tầm lịch sử. Vì lẽ đó, nhà văn đã để cho nó được nói lên bằng giọng nói thiêng liêng, như để mãi mãi khắc sâu vào kí ức. Chất sử thi toát lên qua đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật, hình ảnh thiên nhiên, các chi tiết nghệ thuật, giọng điệu, ngôn ngữ của tác phẩm.

Trong tác phẩm, hình tượng cây xà nu – rừng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn, được xây dựng với cảm hứng sử thi hoành tráng, bút pháp lãng mạn, kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.

Mở đầu tác phẩm, nhà văn tập trung giới thiệu về rừng xà nu, một rừng xà nu cụ thể được xác định rõ: "nằm trong tầm đại bác của đồn giặc", nằm trong sự hủy diệt bạo tàn: "Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn". Truyện mở ra một cuộc đụng độ lịch sử quyết liệt giữa làng Xô Man với bọn Mĩ- Diệm. Rừng xà nu cũng nằm trong cuộc đụng độ ấy. Xà nu hiện ra với tư thế của sự sống đang đối diện với cái chết, sự sinh tồn đối diện với sự hủy diệt. Cách mở của câu chuyện thật gọn gàng, cô đúc mà vẫn đầy uy nghi tầm vóc.Với kĩ thuật quay toàn cảnh, Nguyễn Trung Thành đã phát hiện ra: "cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương". Tác giả đã chứng kiến nỗi đau của xà nu: "có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão". Rồi "có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loóng, vết thương không lành được cứ loét mãi ra, năm mười hôm sau thì cây chết". Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù gợi nghĩ đến những mất mát đau thương mà đồng bào Xôman đã phải trải qua trong thời kì cách mạng miền Nam bị khủng bố khốc liệt. Trong bom đạn chiến tranh, thương tích đầy mình cây xà nu vẫn hiên ngang vươn lên mạnh mẽ như người dân Tây Nguyên kiên cường bất khuất, không khuất phục trước kẻ thù. Cây xà nu rắn rỏi, ham ánh nắng mặt trời tựa như người Xô man chân thật, mộc mạc, phóng khoáng yêu cuộc sống tự do. Rừng xà nu bạt ngàn, rừng xà nu trùng trùng lớp lớp các thế hệ nối tiếp cũng chính là thể hiện sự gắn bó, sức mạnh đoàn kết và sự nối tiếp bất tận của các thế hệ, gợi liên tưởng đến sức sống vô tận, bền bỉ, bất diệt của con người Xô man. Rừng xà nu tạo thành một bức tường vững chắc hiên ngang trước bom đạn cũng là biểu trưng cho sức mạnh đoàn kết của người dân Tây Nguyên khiến kẻ thù phải kiếp sợ.

Truyện còn xây dựng thành công một tập thể những người dân anh hùng của núi rừng Tây Nguyên.

Cụ Mết là cội nguồn, là lịch sử, "là Tây Nguyên của thời Đất nước đứng lên còn trường tồn cho đến hôm nay". Cụ như một nhân vật huyền thoại từ hình dáng cho đến tính cách: quắc thước như xưa, râu dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng xếch ngược, ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn. Một con người trầm tĩnh, sáng suốt, bền bỉ và vững chãi.Ngôn ngữ: cách nói của cụ cũng khác lạ (không bao giờ khen tốt, lúc vừa ý nhất cũng chỉ nói được). Tấm lòng của cụ với buôn làng, với Tnú, với cách mạng là tấm lòng thuỷ chung, cưu mang đùm bọc, tình nghĩa. Cụ Mết là khuôn mẫu của người già Tây Nguyên, yêu buôn làng, yêu nước, yêu cách mạng, tuổi cao chí càng cao. Hình ảnh cụ còn sống mãi với câu nói bất hủ: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo".

Tnú là thế hệ nối tiếp của cụ Mết. Cuộc đời Tnú đã phải trải qua bao thử thách khốc liệt từ thuở ấu thơ. Anh đã được hoàn cảnh hun đúc thành một con người có nhiều phẩm chất đáng quý. Tnú có chữ, có văn hoá, lại sớm được giác ngộ cách mạng, một con người gan góc, trung thực. Dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng. Ngoài tình thương vợ con, Tnú còn là người nặng tình với buôn làng. Tnú cũng chịu bao đau thương dưới bàn tay tội ác của kẻ thù. Cuộc đời Tnú là một minh chứng hùng hồn rằng: "phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng".

Dít là cô gái có vẻ đẹp trẻ trung, trong sáng. Gan góc, dũng cảm. Một cán bộ Đảng trẻ, có năng lực, nghiêm túc, tình cảm trong sáng, cao đẹp. Từ nhỏ cô đã gan dạ một mình mang cơm tiếp tế cho thanh niên du kích trong sự lùng bắt ráo tiết của giặc. Cô cũng có cái nhìn bình thản khi bị trói vào gốc cây và những viên đạn bay sượt qua người.

Phác hoạ thành công một tập thể nhân vật anh hùng, Nguyễn Trung Thành đã làm nên thành công của Rừng xà nu. Họ là hiện thân của những phẩm chất anh hùng, đẹp đẽ của các thế hệ nhân dân, tượng trưng cho các thế hệ tiếp nối nhau của dân làng Xô Man. Thông qua hệ thống nhân vật đó, tác giả đã thể hiện sinh động và nghệ thuật quy luật: có áp bức có đấu tranh, một chân lí của cách mạng miền Nam: "chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo". Đó là vấn đề mang tính trọng đại của dân tộc, góp phần thể hiện tính sử thi sâu sắc của tác phẩm.

Rừng xà nu mang vẻ đẹp của một khúc sử thi trong văn xuôi hiện đại. Đó là câu chuyện bi tráng về cuộc đời của một người anh hùng đại diện cho cộng đồng được già làng kể lại cho dân làng nghe trong một đêm rừng Tây Nguyên, bên bếp lửa chung của làng với giọng kể trang nghiêm và hùng tráng. Lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh tái hiện vẻ đẹp tráng lệ hào hùng rất riêng của cảnh vật và con người, truyền thống văn hoá Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đau thương mà anh dũng.

Phân tích Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thể hiện qua tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành  – Bài văn mẫu số 3

Sử thi là loại văn học đẹp đẽ, vàng son ra đời từ buổi bình minh lịch sử nhân loại. Nội dung tác phẩm thường ca ngợi chiến công của những người anh hùng trên con đường dìu dắt dân tộc mình thoát khỏi thời đại tăm tối dã man sang thời đại văn minh tiến bộ. Đây là thể loại đi không trở lại của lịch sự văn hóa nhân loại. Những tác phẩm sau này kể về chiến tích của người anh hùng, đề cập đến vấn đề cốt yếu của lịch sử không còn được gọi là tác phẩm sử thi mà chỉ được xem có dáng dấp sử thi, mang tính sử thi. Văn học Việt Nam thời kì 1945 – 1975 mà đặc biệt là những tác phẩm viết về chiến tranh cách mạng rất giàu tính sử thi, trong đó có truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Tính sử thi của truyện được thể hiện qua chủ đề, bức tranh thiên nhiên, hình tượng nhân vật và qua ngôn ngữ trần thuật.

Cốt truyện Rừng xà nu kể về cuộc đời của Tnú và chuyện chiến đấu của làng Xô Man. Xung đột chính của truyện là xung đột giữa nhân dân cách mạng với kẻ thù Mỹ ngụy. Dưới sự kìm kẹp của bọn ác ôn, dân làng Xô Man sống trong những ngày đen tối, ngột ngạt, căng thẳng vì bị khủng bố: chúng treo cổ anh Xút, chặt đầu bà Nhan, đánh chết mẹ con Mai. Nỗi đau thương, lòng căm thù tích tụ dần thành ý chí chiến đấu bất khuất. Xung đột đã lên đến đỉnh điểm, cao trào nên đã bùng nổ thành cuộc chiến đấu dữ dội ở cuối truyện. Đó là đêm bọn giặc đánh mẹ con Mai cho đến chết, Tnú người – cán bộ chỉ huy du kích bị rơi vào tay giặc. Dưới sự chỉ đạo của cụ Mết, bằng vũ khí thô sơ, dân làng đã trỗi dậy. Ngòi bút sử thi miêu tả cuộc chiến đấu hào hùng với những hình ảnh kì vĩ: ngàn tiếng thét vang dữ dội, tiếng chân người đạp trên sàn nhà ưng rào rào, ánh rựa vung lên sáng loáng, tiếng chiêng trống vang lộng núi rừng. Đêm ấy cả làng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng. Bằng những chi tiết hoành tráng, nhịp văn nhanh, tác giả đã miêu tả khí thế thần tốc, dựng lên không khí cuộc chiến đấu: khẩn trương, náo nức, dữ dội, quyết liệt, ngời sáng sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trong thoáng chốc bọn giặc nằm ngổn ngang dưới lưỡi mác của dân làng. Dân làng đã vùng lên chiến đấu để giải phóng cuộc đời, chấm dứt thời kì đen tối mở ra cuộc chiến đấu trường kì, tự chủ.

Đó là câu chuyện chiến đấu của dân làng Xô Man, một sự kiện lịch sử trọng đại liên quan đến vấn đề sống còn của cộng đồng được kể với giọng văn hào hứng. Chủ đề của cốt truyện này là vấn đề cốt yếu của lịch sử được kể lại với cảm hứng say mê ca ngợi nên mang đậm tính sử thi.

Hòa nhập và tương ứng với tầm vóc của chủ nhân là bức tranh thiên nhiên rừng xà nu hùng vĩ mang vẻ đẹp sử thi.

Hình tượng cây xà nu được miêu tả xuyên suốt tác phẩm. Tác giả đã dành trọn phần mở đầu truyện để miêu tả rừng xà nu. Trong khu rừng từng luồng nắng trên cao rọi xuống những thân cây sóng lớp thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra thơm ngào ngạt, mỡ màng. Tác giả đã dựng được khung cảnh có không gian ba chiều, tạo được không khí, làm sống dậy bức tranh thiên nhiên có vẻ đẹp tràn đầy chất thơ, tráng lệ. Thế nhưng dưới tội ác của kẻ thù, rừng đã mang trên mình những vết thương chiến tranh đau đớn, càng đau đớn rừng xà nu càng trào lên sức sống mãnh liệt: cạnh một cây đã ngã, có bốn năm cây con mọc lên ngọn xanh rờn, nhanh chóng liền lại vết sẹo trên cơ thể cường tráng. Và khúc vĩ thanh của truyện: cả khu rừng lớn bạt ngàn, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời. Bám rễ sâu trong lòng đất, những thân cao vươn lên đón nắng trời, ngàn năm như vẫn còn hát ru với gió... Thiên nhiên được miêu tả với sức sống to lớn, hùng mạnh, bất diệt. Vẻ đẹp hào hùng, tráng lệ và bi thương của rừng hòa nhập với cuộc đời bi tráng của dân làng, nên rừng xà nu góp phần tạo ra vẻ đẹp sử thi, chất thơ của thiên truyện.

Khi tái hiện một đoạn trường lịch sử đánh giặc ngoại xâm, tác giả đã xây dựng một tập thể anh hùng trong đó nổi bật tính cách anh hùng. Cụ Mết là nhân vật lịch sử. Cụ là biểu tượng của sức mạnh tinh thần và có tính truyền thống của dân tộc Strá. Trong một tài liệu khác, tác giả bảo rằng: Ông là lịch sử bao trùm, gắn kết giữa quá khứ với hiện tại. Cụ là người đại diện cho quần chúng cách mạng, là gạch nối giữa Đảng với đồng bào dân tộc. Và vai trò của cụ Mết thể hiện rất rõ trong đêm đồng khởi và là người phát lệnh chiến tranh: Thế là bắt đầu rồi... đốt lửa lên. Chân lí đấu tranh cách mạng được rút ra từ thực tiễn chiến đấu giản dị mà sâu sắc: chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo. Cụ Mết đại diện cho sức mạnh, ý chí chiến đấu, trí tuệ và nguyện vọng của cộng đồng, là pho sử sống của cộng đồng, có ý thức giữ gìn lịch sử và là người đại diện cho lịch sử nên nhân vật này mang đậm tính sử thi.

Đại diện cho tập thể anh hùng là Tnú – đứa con của dân làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên. Ngay từ nhỏ, Tnú đã tự thể hiện mình là con người gan góc, dũng cảm: xung phong đi nuôi cán bộ. Khi đi làm giao liên Tnú đã dũng cảm vượt qua bao khó khăn, Tnú không đi theo đường mòn, đường nước êm, mà bao giờ cũng chọn lối đi mà bọn giặc không ngờ tới.

Thế nhưng, trong một lần Tnú rơi vào ổ phục kích, bị giặc bắt, tra tấn rất dã man nhưng Tnú không khai, vẫn hiên ngang và dám thách thức kẻ thù. Tnú là một chiến sĩ có phẩm chất đẹp đã được thử thách qua máu lửa: kiên trường, bất khuất, gan góc, dũng cảm, thủy chung với cách mạng, tinh thần sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp cứu nước. Những vẻ đẹp ấy tiêu biểu cho phẩm chất của cộng đồng.

Sau ba năm ở tù, Tnú vượt ngục trở về làng và đã có một mái ấm gia đình hạnh phúc với Mai. Nhưng thời gian sau bi kịch đã xảy ra, bọn giặc hung bạo đã giết mẹ con Mai, Tnú một lần nữa rơi vào tay giặc, bị tra tấn dã man. Tnú thà hi sinh chứ không chịu đầu hàng, cắn răng chịu đựng đau đớn, mất mát chứ không để kẻ thù khuất phục. Hình tượng Tnú trước giặc thù sừng sững hiên ngang như cây xà nu. Cuộc đời Tnú là khúc ca bi tráng. Số phận cuộc đời và tính cách của Tnú có ý nghĩa tiêu biểu cho cộng đồng nên nhân vật này mang đậm tính sử thi.

Ngoài ra, nhân vật Dít, bé Heng cũng có nét đẹp sử thi. Họ đại diện cho các thế hệ anh hùng nhanh chóng trưởng thành lớn mạnh như cây xà nu, thay thế lớp người đi trước, gánh vác nhiệm vụ lịch sử nối tiếp bước chân cha anh trong cuộc kháng chiến trường kỳ.

Vẻ đẹp sử thi còn thể hiện qua hình thức trần thuật của truyện. Truyện có cách tổ chức trần thuật rất hấp dẫn, hai cốt truyện được lồng vào nhau: chuyện Tnú sau ba năm đi lực lượng về thăm làng và chuyện chiến đấu cách đó ba năm. Cốt truyện chính kể về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của làng Xô Man được đẩy vào thời kì quá khứ. Nó được ghi nhớ trong hồi ức của cộng đồng, được soi chiếu bởi kỉ niệm, hoài niệm nên thật đẹp. Khi đẩy câu chuyện chiến đấu về thời quá khứ, tác giả đã tạo ra khoảng cách sử thi, để cho người hôm nay ngưỡng mộ, chiêm bái câu chuyện lịch sử hào hùng và nhân vật anh hùng của cộng đồng ngày xưa. Cách kể giống như cách kể khan (trường ca) của đồng bào Tây Nguyên, bên bếp lửa chung, già làng kể cho đám con cháu nghe suốt đêm không chán. Không khí kể chuyện rất trang nghiêm, mọi người ngồi tại nhà ưng im lặng lắng nghe, chỉ tiếng suối rì rào xa xa. Thái độ và giọng điệu của người kể rất trang trọng, như muốn truyền vào thế hệ con cháu những trang sử của cộng đồng. Cách trần thuật, giọng điệu, ngôn ngữ trang trọng làm cho câu chuyện được kể càng mang đậm tính sử thi.

Tác giả đã xây dựng những hình tượng có vẻ đẹp lớn lao, hùng vĩ, mang âm hưởng tráng ca: rừng xà nu, đêm đồng khởi... nhờ vậy mà đã tái hiện lại một thời lịch sử oai hùng, tô đậm chất sử thi. Câu chuyện lịch sử, câu chuyện về người anh hùng đánh giặc được miêu tả, kể lại bởi bút pháp sử thi là thành công của Nguyễn Trung Thành. Rừng xà nu là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi, anh hùng ca của văn xuôi thời kì 1945 – 1975.

Phân tích Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thể hiện qua tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành  – Bài văn mẫu số 4

“Rừng xà nu” là một truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Trung Thành viết về đất và người Tây Nguyên hùng vĩ. Đây cũng là một tác phẩm mang đậm nét tính sử thi của văn học Việt Nam 1945 – 1975.

Sử thi (hay trường ca) là một thể loại văn tự sự (có thể là văn vần hoặc văn xuôi) có quy mô hoành tráng, nội dung thường miêu tả và ca ngợi những chiến công, những sự kiện mang tính chất toàn thẻ cộng đồng, ngợi ca những vị anh hùng bộ tộc có sức mạnh thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và ước vọng của cả cộng đồng đó.

Tác phẩm sử thi có tính đặc trưng về ngôn ngữ, giọng điệu, cảm hứng chủ đạo, nội dung tác phẩm… “Rừng xà nu” là một truyện ngắn chứ không phải là tác phẩm sử thi nhưng tính sử thi lại được thể hiện khá rõ nét. Âm hưởng sử thi cũng là một phần quan trọng góp phần làm nên thành công cho tác phẩm.

Trước hết, tính sử thi trong tác phẩm “Rừng xà nu” được biểu hiện ở việc nhà văn xây dựng những sự kiện có tính chất cộng đồng chứ không phải chỉ của cá nhân riêng lẻ. Những chuyện của làng Xô Man cũng là những chuyện chung của Tây Nguyên, của cả miền Nam và cả đất nước của chúng ta. Bọn Mĩ – Diệm đi tới đâu là chúng chèn ép người đến đấy. Chúng thà giết nhầm chứ quyết không để cho cộng sản của chúng ta có đường chạy thoát. Thế nhưng dân tộc ta là một dân tộc yêu nước đồng bào ta là một đồng bào kiên cường cho nên ngày giặc càn quét, toàn thể nhân dân đã đồng lòng đứng dậy chống Mĩ. Chuyện làng Xô Man mài gươm giáo, nổi dậy và sẵn sàng đánh giặc chính là hình ảnh, là tinh thần của toàn thể dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ hào hùng.

Bên cạnh việc xây dựng những sự kiện mang tính cộng đồng thì “Rừng xà nu” còn xây dựng hình ảnh một tập thểanh hùng.Đây cũng là một phương diện thể hiện tính sử thi rõ nét trong tác phẩm. Nhà văn đã dựng lên bức chân dung những người anh hùng mang những nét tính cách và phẩm chất của người làng Xô Man, của những người con Tây Nguyên gan trường bất khuất. Những người anh hùng trong “Rừng xà nu” tuy đa dạng lứa tuổi, đa dạng về số phận riêng nhưng đều chiến đấu vì một mục đích cách mạng, góp phần làm nên chiến thắng, đem lại bình yên và hạnh phúc cho tất cả mọi người.

Tuy rằng chiến công của mỗi người là khác nhau nhưng nó cùng làm nên chiến thắng chung cho tất cả mọi người. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên là do tất cả mọi người cùng viết ra chứ không phải chỉ riêng của một người làm ra. Bản trường ca vì thế đa thanh đa sắc, nó là sự tổng hoà của rất nhiều giọng điệu khác nhau. Anh Quyết, cụ Mết, Tnú, Mai, cô Dít, bé Heng là những người tiêu biểu nhất. Nhưng bên cạnh họ còn có dân làng, có những người phía sau cùng đồng lòng để làm nên chiến thắng vang dội. Tất cả cùng góp phần vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc.

Tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” còn được thể hiện ở việc miêu tả những sự kiện, những vị anh hùng từ góc độ kính phục và ngưỡng mộ. Trong tác phẩm, các chi tiết đời thường ít được nhắc tới, thay vào đó, nhà văn chí chú ý chọn lọc những chi tiết tiêu biểu nhất để làm nổi bật phẩm chất anh hùng của nhân vật.

Hình ảnh cụ Mết với giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực”, nghe tưởng như là âm vang của cồng chiêng, của núi rừng Tây Nguyên, của lịch sử hào hùng vọng lại. Mà quả thật, cụ Mết chính là hình tượng của truyền thống, của lịch sử vững bền. Cụ từng nói: “Đảng còn, núi nước này còn”. Câu nói ấy như một chân lý và một niềm tin sắt đá vào cách mạng, vào sự chiến thắng của dân tộc mình. Chẳng thế mà cả làng Xô Man lắng nghe như uống từng lời cụ nói và cả rừng xà nu cũng “ào ào rung động” như một sự hoà điệu, tạo nên âm hưởng vang vọng khắp không gian.

Câu chuyện của cụ Mết về cuộc đời của Tnú không đơn giản chỉ là cuộc đời của một con người. Nó là một câu chuyện đã được lịch sử hóa và nhuốm màu huyền thoại cho nên đã trở thành cuộc đời chung của toàn thể dân tộc. T nú yêu quê hương đất nước, gan dạ dũng cảm bảo vệ cán bộ cách mạng và dân làng. Anh cũng từng trải qua những mất mát đau đơn nhưng vượt lên trên tất cả là tình yêu với gia đình, quê hương đất nước và lòng căm thù giặc sâu sắc đã giúp anh trở nên mạnh mẽ, có thể chiến thắng kẻ thù, hướng đến giải phóng cho dân tộc, cho nhiều người hơn nữa. Câu chuyện về một người anh hùng cao cả lại được cụ Mết kể lại trong một đêm bên bếp lửa nhà ưng đã khiến cho Tnú trở thành niềm tự hào của làng, trở thành biểu tượng anh hùng sống động để cho tất cả mọi người ngưỡng mộ và noi theo.

Với giọng văn hào hùng, đanh thép và bộc trực, “Rừng xà nu” đã đem đến cho người đọc một bản trường ca về người anh hùng, về tinh thần bất khuất kiên cường của đất và người Tây Nguyên. Hình ảnh rừng xà nu bạt ngàn vươn lên đón ánh nắng mặt trời chính là một biểu tượng cho sức sống bất diệt của con người, của Tây Nguyên. “Đạn bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên thân thể cường tráng”. Chính những lời văn như thế này đã cho người đọc thấy hình ảnh tập thể dân làng Xô Man nói riêng và toàn thể nhân dân ta nói chung đều một lòng kiên định vững vàng trước thử thách để chiến đấu và chiến thắng.

Có thể thấy rằng truyện ngắn “Rừng xà nu” mang tính sử thi rất rõ nét. Yếu tố sử thi đã khiến cho tác phẩm để lại nhiều dư âm mạnh mẽ trong lòng người đọc. Và sự thành công của tác giả chính là thể hiện được tinh thần bất khuất kiên cường của một dân tộc trong những năm tháng chiến tranh, khơi gợi lên tinh thần sôi sục đấu tranh để hướng đến giải phóng dân tộc, bảo vệ bình yên cho Tổ quốc.

Phân tích Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thể hiện qua tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành  – Bài văn mẫu số 5

Trong 2 cuộc kháng chiến, những tác phẩm văn học viết về đề tài miền núi đã đạt những thành tựu xuất sắc bởi nó không chỉ phản ánh được những đặc điểm về con người, cuộc sống của một vùng, miền mà qua một cánh cửa nhỏ nó cho thấy được cả một bức tranh chung của đất nước trong một thời kỳ lịch sử.

Tiếp theo Đất nước đứng lên, 10 năm sau, Nguyên Ngọc – Nguyễn Trung Thành lại thành công xuất sắc trong một tác phẩm viết về đề tài miền núi: Rừng xà nu. Truyện ngắn này đã nhận giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu năn 1965. Cũng mang đậm cảm hứng và màu sắc sử thi như trong Đất nước đứng lên, song Rừng xà nu đã gây kinh ngạc cho người đọc bởi chỉ với một truyện ngắn mà nhà văn đã đề cập tới những vấn đề lớn của dân tộc, của đất mước Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Chất sử thi đậm đặc trong Rừng xà nu, biểu hiện trong chủ đề, cách xây dựng hình tượng và cả ngôn ngữ của tác phẩm.

‘”Tính sử thi” là đặc điểm của văn học sáng tác trên nên tảng của ý thức cộng đồng toàn dân, xuất hiện vào thời kì có đấu tranh chống ngoại xâm, có phong trào xã hội bảo vệ lợi ích toàn dân. Tác phẩm được coi là có tính sử thi khi nó khai thác và phản ánh xung đột của dân tộc với kẻ xâm lược, thể hiện những vấn đề lớn của cả cộng đồng trên lập trường vì lợi ích chung của dân tộc, -xây dựng nhân vật anh hùng đại diện cho phẩm chất, ý chí và sức mạnh của dân tộc bằng giọng ngợi ca, tự hào, thể hiện được những tình cảm chung của toàn dân tộc…

Những tác phẩm mang tính sử thi đều hướng tới triển khai những chủ đề mang nghĩa cộng đồng, thời đại chứ không phải là những vấn đề mang tính đời. Truyện ngắn Rừng xà nu đã hướng tới điều này khi nó không những đã phản ánh được cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân miền Nam, nhân dân Tây Nguyên mà còn khẳng định một chân lí của thời đánh Mĩ: ‘”Chúng nó đã cầm súng, minh phải cầm giáo” – phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng. Chân lí này được phát biểu trực tiếp bằng lời của cụ Mết đồng thời cũng được thể hiện qua cuộc đời bi tráng của Tnú:

Dù đã huy động tất cả sức mạnh của cá nhân nhưng khi Tnú tay không đứng trước kẻ thù tàn bạo thì anh vẫn thất bại đau đớn: kẻ thù đã bắt vợ con Tnú, tra tấn vợ con anh bằng những đòn đánh tàn bạo. Lòng căm thù, tình yêu thương bùng cháy trong Tnú, thôi thúc anh xông vào lũ giặc. Sức mạnh trong con người Tnú đã giúp anh quật ngã được thằng lính giặc. Song Tnú chỉ có tay không giữa kẻ thù đông đảo và đầy vũ khí. Vì thế, Tnú đã không cứu được mẹ con Mai (cụ Mết nhắc lại 3 lần chuyện đó khi kể câu chuyện bi thảm này). Bản thân Tnú cũng bị giặc bắt, bị trói, mười đầu ngón tay đã bị đốt cháy rừng rực như mười ngọn đuốc. Thất bại của Tnú đã chứng minh rằng: khi kẻ thù cầm súng mà ta chưa kịp cầm giáo, mọi sức mạnh của cá nhân cũng không đủ để chống lại kẻ thù, thất bại là một tất yếu. Thất bại của Tnú là bài học cay đắng của không chỉ riêng anh mà của làng Xô Man, của cả đất nước những năm chống Mĩ.

Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xô Man đã cầm vũ khí đứng lên tiêu diệt kẻ thù. Chính ngọn lửa đốt đôi bàn tay Tnú đã làm bùng lên ngọn lửa căm hờn, ngọn lửa khởi nghĩa của dân làng Xô Man. Sau bao ngày mài giáo, mài rựa chuẩn bị vũ khí, người Strá đã ào ạt xông lên, đi đầu là cụ Mết. Họ đã chém gục thằng Dục, giết 10 thằng ác ôn cứu Tnú, giải phóng cho dân làng. Con đường của Tnú từ đấu tranh tự phát đến tham gia lực lượng đánh Mĩ đã phản ánh hiện thực về con đưòng đi đến với cách mạng, vũ trang đánh Mĩ của người dân Tây Nguyên.

Tnú thuộc kiểu nhân vật sử thi bởi nhân vật này tiêu biểu đại diện cho cộng đồng về cả sức mạnh, phẩm chất cũng như lí tưởng, lẽ sống. Cũng như cụ Mết, Tnú tiêu biểu cho phẩm chất, tính cách của người dân Tây Nguyên:

Tnú là con người trung thực, gan góc, dũng cảm. Cái chất Tây Nguyên này có trong Tnú từ khi còn nhỏ. Lúc còn dẫn đường cho cán bộ, Tnú và Mai được anh Quyết dạy chữ. Học chữ thua Mai, Tnú đã đập vô bảng, lấy đá ghè vào đầu đến chảy máu. Để đưa được chữ vào sau vầng trán rắn như đá núi, Tnú cần cả tình yêu lẫn sự gan góc và nghị lực phi thường. Sự gan góc dũng cảm của anh càng lớn càng bộc lộ rõ khi phải đôi diện với kẻ thù. Để khủng bô tinh thần anh, giặc chĩa súng vào anh và hỏi “Cộng sản ở đâu?” Tnú đã bình thản đặt tay lên bụng “Cộng sản ở đây này”.

Tnú có tình yêu thương sâu sắc, mãnh liệt đối với núi nước quê hương. Khi hiểu rằng theo Đảng sẽ bảo vệ được núi nước quê hương Tnú không sợ hi sinh vì “Đảng còn là núi nước này còn”. Anh gắn bó với quê hương, với từng cánh rừng xà nu, từng khúc sông, con suối, thuộc hiểu rừng núi và thiết tha nhớ những âm thanh mang nhịp sông quê mình.

Phân tích Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thể hiện qua tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành  – Bài văn mẫu số 6

Để dẫn ra một tác phẩm tiêu biểu có thể minh hoạ cho sự tồn tại của "nền văn học sử thi" trong văn học Việt Nam 1945 - 1975, tưởng không có tác phẩm nào tiêu biểu hơn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Quả đây là một truyện ngắn mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn (thực ra, với các tác phẩm thuộc loại này, chỉ nói đến tính sử thi là đủ, bởi cảm hứng lãng mạn đã trở thành một phần tất yếu của nó).

Tính sử thi của Rừng xà nu được biểu lộ trước hết ở những sự kiện có tính chất toàn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô man hoàn toàn không có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Tình thế bị o ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc sống đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ - Diệm thi hành luật 10-59, khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người kháng chiến cũ. Khi làng Xô Man đứng dậy thì gương mặt của làng lúc này lại chính là gương mặt của cả nước trong những ngày quyết tâm đánh Mĩ và thắng Mĩ - một gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh đón nhận những thử thách mới.

Biểu hiện thứ hai của tính sử thi trong Rừng xà nu là truyện ngắn đã xây dựng thành công hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể tới trong đó đều có tính đại diện cao, mang trong mình hình ảnh của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong Rừng xà nu là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng trong cuộc đời chung. Tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản : gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng. Chiến công của mỗi người tuy đa dạng mà thống nhất. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một người mà do tất cả mọi người viết ra. Bản trường ca của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hoà của nhiều giọng. Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng là những nhân vật tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa cũng không chịu sống mờ nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập công, đều muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Dĩ nhiên, hình tượng văn học nào cũng là sự thống nhất giữa cái cá biệt và cái phổ quát, nhưng ở Rừng xà nu, cảm hứng hướng về cái chung đã mang tính chất chi phối.

Biểu hiện thứ ba của tính sử thi ở truyện ngắn Rừng xà nu là nó đã miêu tả các sự kiện, các nhân vật anh hùng từ một cái nhìn chiêm ngưỡng, khâm phục. Các chi tiết đời thường ít được nhắc tới. Nhà văn chỉ tâm đắc với những chi tiết nào có khả năng làm phát lộ được phẩm chất anh hùng của nhân vật. Tả cụ Mết, nhà văn chú ý tới giọng nói "ồ ồ dội vang trong lồng ngực" của cụ. Tưởng như trong tiếng cụ nói có âm vang của tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng của núi rừng, của lịch sử. Và quả thật, cụ là hình ảnh tượng trưng của truyền thống vững bền. Mỗi lời cụ thốt ra kết tinh trải nghiệm của cả một dân tộc. Nó cô đúc, sâu sắc, vang vọng như những chân lí. Chả thế mà cả làng Xô Man nghe như uống từng lời cụ nói và cả rừng xà nu cũng "ào ào rung động" như một sự hoà điệu, một sự tạo nền. Ngay cuộc đời của Tnú, một cuộc đời trải ra trong chính thời hiện tại cũng đã được lịch sử hoá và nhuốm màu huyền thoại. Đêm đêm bên bếp lửa nhà ưng, cụ Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng, cho thế hệ con cháu nghe. Anh đã trở thành niềm tự hào của làng, là một biểu tượng sống động của người anh hùng được tất cả ngưỡng vọng, học tập.

Tính sử thi của Rừng xà nu còn thể hiện ở giọng văn tha thiết, trang trọng mà tác giả đã sử dụng khi kể về sự tích của làng Xô Man. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác say sưa. Ta bị cuốn theo câu chuyện không gì cưỡng nổi, tưởng mình đang được tắm trên một dòng sông mênh mang, tràn trề sinh lực, hoặc tưởng mình đang bị thôi miên bởi một bản nhạc giao hưởng hùng tráng.

Phân tích Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thể hiện qua tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành  – Bài văn mẫu số 7

Nguyễn Trung Thành được coi là nhà văn của vùng đất Tây Nguyên. Ông đã có thời gian gắn bó với vùng đất này, nên hiểu biết sâu sắc về cuộc sống cũng như tinh thần của nhân dân các dân tộc thiểu số, nên có những trang viết rất hay về đất và người Tây Nguyên. Tác phẩm Rừng xà nu là tất cả tình cảm của tác giả đối với người dân Tây Nguyên. Một tác phẩm đạm chất sử thi của người dân Tây Nguyên.

Sử thi là những áng văn tự sự có thể bằng văn vần hoặc văn xuôi, có quy mô hoành tráng, có tính chất toàn dân và có ý nghĩa lớn lao trọng đại đối với cộng đồng, dân tộc, ca ngợi những người anh hùng tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của dân tộc. Nền văn học hiện nay không còn thể loại sử thi, nhưng tính chất sử thi vẫn được người cầm bút mang vào các sáng tác và làm nên giá trị và sức sống cho từng trang viết, làm sống lại không khí hùng tráng của một thời đại anh hùng.

Tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” nằm ở bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng làm bối cảnh cho câu chuyện. Chủ đề mà tác phẩm đặt ra có ý nghĩa sống còn với cách mạng Việt Nam qua cuộc đời đầy bi tráng của nhân vật. Giọng kể, ngôn ngữ, hình ảnh trang trọng, giàu âm hưởng hào hùng, ngân vang.

Tác phẩm có ý nghĩa sống còn với cách mạng Việt Nam, những sự kiện có tính chất toàn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô man hoàn toàn không có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Tình thế bị o ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc sống đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ - Diệm thi hành luật 10-59, khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người kháng chiến cũ. Trước sự tàn ác của kẻ thù, nhân dân miền Nam chỉ có một con đường duy nhất là cầm vũ khí vùng lên chiến đấu giải phóng quê hương

Hành động dũng cảm của cả làng Xô Man giám đứng đấu tranh chống lại kẻ thù, chính là gương mặt của cả nước trong những ngày quyết tâm đánh Mĩ và thắng Mĩ - một gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh đón nhận những thử thách mới.

Một biểu hiện khác nữa chứng minh tính sử thi trong “Rừng xà nu” là xây dựng thành công hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể đến trong tác phẩm đều có tính đại diện cao, mang trong mình phẩm chất của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong “Rừng xà nu” là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng. Tuy nhiên, tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản: gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng, yêu núi nước, yêu buôn làng, quyết tâm đánh giặc đến cùng. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một người mà do tất cả mọi người viết ra. Bản trường ca của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hoà của nhiều giọng: Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng là những nhân vật tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa cũng không chịu sống mờ nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập công, đều muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Đặc biệt là Tnú - cuộc đời đầy đau khổ, cay đắng, bị kẻ thù giết hại cả gia đình; nhưng anh đã biến đau thương thành hành động, trở thành anh lực lượng đi đánh giặc trả thù nhà nợ nước. Hình ảnh hai bàn tay bị đốt của Tnú là hình ảnh nhiều ý nghĩa. Cuộc đời Tnú là cuộc đời chung của biết bao người trong thời đại ấy. Người anh hùng Tnú với những phẩm chất tốt đẹp, đậm chất “sử thi”. Có thể nói, chất anh hùng tự ngàn đời đã chảy vào huyết quản của mọi người. Dân tộc VN dù có hy sinh, dù có mất mác nhưng không bao giờ lùi bước trước kẻ thù:

Nước VN từ trong biển máu

Người vươn lên như một thiên thần. (Tố Hữu).

Tác giả đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên trong “Rừng xà nu” thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu và kết thúc tác phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Hiện lên trước mắt người đọc là rừng cây xà nu ngút ngàn, hiên ngang trước nắng trước gió. Nguyễn Trung thành đã rất thành công khi chọn cây xà nu- một loại cây mang đậm dấu ấn Tây Nguyên để làm nổi bật vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên, núi rừng Tây Nguyên. Nhà văn đã tạo nên sức hấp dẫn của truyện ngắn này bằng cách đưa người đọc đến một cảm giác mới lạ về một hương vị dậy lên từ rừng núi, thiên nhiên chốn cao nguyên. Rừng xà nu chịu nhiều đau thương mất mát nhưng xà nu vẫn vươn lên với sức sống mãnh liệt. Đó chính là bức tranh thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến traanh nhân dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta. Cây xà nu, rừng xà nu là biểu tượng cho con người ở Tây Nguyên:

“Một cây ngả cả rừng cây lại mọc

Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân (Nguyễn Trung Thành).

Tác giả đã dùng ngôn ngữ và giọng điệu rất trang trọng khi kể về sự tích của làng Xô Man. Giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính sử thi hoàng tráng của tác phẩm. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác say sưa. Ta bị cuốn theo câu chuyện không gì cưỡng nổi, tưởng mình đang được tắm trên một dòng sông mênh mang, tràn trề sinh lực, hoặc tưởng mình đang bị thôi miên bởi một bản nhạc giao hưởng hùng tráng.

Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng đặc biệt. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu truyện. Câu truyện mở ra bằng hình ảnh rừng xà nu được đặc tả kỹ lưỡng và sắc nét. Cuối tác phẩm rừng xà nu cũng xuất hiện để khép lại câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.

Trong tác phẩm, tác giả đã sử dụng các phép chuyển nghĩa, các hình ảnh so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, nhân hoá nhất là khi thể hiện hình tượng xà nu. Lời văn của tác phẩm rất giàu hình ảnh, giàu nhạc tính có nhịp điệu, với nhiều cấu trúc thành trùng điệp, những hình ảnh tương phản có giọng điệu khi hào hùng khi tha thiết nhất là lối cấu trúc vòng tròn với hình tượng xà nu trở đi trở lại ở đầu và cuối tác phẩm. Cách sử dụng ngôn ngữ như thế cũng mang dấu ấn của thể loại sử thi cũng đem lại cho tác phẩm nhiều chất sử thi.

Sự kiên cường bất khuất trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ của người dân đã thúc đầy nhà văn làm lên tác phẩm có giá trị sâu sắc như vậy. Đó là một tác phẩm rất cô đọng nhưng cũng hết sức bay bổng, gợi nên những cảm xúc vừa trầm lắng vừa say mê. Một tác phẩm xuất sắc rất xứng tầm với thời đại đánh Mĩ oanh liệt, hào hùng. Chính vì thế mà truyện ngắn này đậm đà chất sử thi.

Phân tích Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thể hiện qua tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành  – Bài văn mẫu số 8

Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) là nhà văn có thời gian dài gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên hung vĩ nên ông được gọi là nhà văn của núi rừng Tây Nguyên. Những trang viết của ông đậm chất Tây Nguyên, là tiếng nói, là nỗi lòng của người dân nơi đây. Truyện ngắn “Rừng xà nu” là tình cảm, tấm lòng của tác giả đối với thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Cái làm nên sự khác biệt và thành công của tác phẩm này nằm ở tính sử thi rõ nét, không thể lẫn lộn được.

Sử thi là một thể loại văn tự sự, có quy mô hoành tráng, mang ý nghĩa của cộng đồng, dân tộc, ngợi ca những người anh hung tiêu biểu với những tính cách tiêu biểu cho một dân tộc. Sử thi toát lên từ ngôn ngữ, giọng điệu, cảm xúc chủ đạo, nội dung của tác phẩm. “Rừng xà nu” không phải tác phẩm sử thi nhưng yếu tố sử thi được làm nền rất rõ nét. Âm hưởng sử thi lan rộng ra toàn bộ tác phẩm nhưng linh hồn và sự bất diệt của mảnh đất Tây Nguyên.

“Rừng xà nu” lấy bối cảnh cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra mạnh mẽ ở miền Nam; khởi nghĩa Đồng Khởi đang sôi sục diễn ra và cảnh tang thương khi quân Mỹ le máy chém đi khắp miền Nam. Hiện thực đau lòng, mất mát ấy dội lên ý chí quât cường, đứng lên khởi nghĩa của người dân Tây Nguyên nói riêng và cả nhân dân miền Nam nói chung. Tính sử thi vì thế mà được “thế” trỗi dậy phát huy hết tác dụng của mình.

Tính sử thi của truyện ngắn “Rừng xa nu” trước hết nằm ở thiên nhiên, núi rừng hung vĩ, bao la, rộng lớn làm nền cho câu chuyện phát triển. Thiên nhiên ấy góp phần ngợi ca những con người kiên cường, anh dung bất khuất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thiên nhiên nơi đây chính là một biểu tượng cho một dân tộc hung mạnh, không khuất phục trước kẻ thù và hình ảnh “rừng xà nu” là tượng trưng tiêu biểu ấy.

Bối cảnh lịch sử của câu chuyện dẫn người đọc đi từ đau thương mất mát này đến đau thương mất mát kia. Đất nước lầm than, nhân dân cùng cực khi chứng kiến cảnh Mỹ ngang tàng lê máy chém đi khắp miền nam tàn sát nhân dân vô tội. Hành động gian ác ấy khiến nhân dân vô cùng căm phẫn và cách mạng Đồng Khởi năm 1959 đang sôi sục được chuẩn bị. Cuộc cách mạng này là cả một quá trình dồn nén đau thương, máu và nước mắt của toàn dân tộc, sẽ là sự bùng lên của một thời gian dài chìm trong cảnh nô lệ cay nghiệt. Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nên hình ảnh làng Xô man anh hung, bất khuất.Hình ảnh cả một ngôi làng ấy biểu tượng cho cả một dân tộc thu nhỏ không chịu đầu hàng và khuất phục trước kẻ thù gian ác. Con người Tây Nguyên và con người dân làng Xô man chìm vào cảnh máu lửa, bị o ép, bi dồn vào bước đường cùng. Chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, máu loang thành sông, những người nơi đây chỉ còn cách đứng dậy đấu tranh, cầm vũ khí tự cứu lấy mình. Âm hưởng sử thi từ đó mà vang lên thật hào hung, oanh liệt. Tinh thần, sự kiên cường dung cảm đã là âm hưởng chủ đạo của toàn tác phẩm.

Hơn hết trong tác phẩm này Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công một tập đoàn người, không phải một người riêng lẻ mà là sự cộng dồn rất nhiều người. Đây cũng chính là chủ ý của tác giả, vì họ tượng trưng cho một dân tộc, tượng trưng cho tinh thần và ý chí quật cường, không gục ngã của dân tộc Việt Nam. Mỗi người, mỗi tình cách, một ý chí sắt đá, một số phận bi thảm riêng nhưng đều chung một tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất. Có thể nói cả dân tộc Xô man như trong truyền thuyết bước ra, sự hào hùng vang lên dữ dội như một cơn sóng cuộn trào dữ dội và mãnh liệt. Họ là con người Tây Nguyên, là anh T Nú, chị Mai, cụ Mết, bé Heng…Bản hùng ca của Tây Nguyên bắt đầu được vẽ nên từ những con người kiên cường, dung cảm, gan dạ ấy. Họ đóng góp sức lực của mình vào công cuộc đánh đuổi giặc ngoại xâm. Họ biến suy nghĩ thành hành động, biến máu và nước mắt thành lòng căm thù sôi sục, chỉ có con đường đấu tranh mới có thể mang lại tự do cho họ.

Đặc biệt hơn nữa tác giả đã khắc họa đậm nét hình ảnh nhân vật T nú, người con của Tây Nguyên chịu nhiều mất mát, đau thương, gia đình anh bị kẻ thù giết sạch, anh bị tra tấn dã man. Hình ảnh hai bàn tay của T nú bị đôt, cháy lên như một lời cảnh tỉnh mang ý nghĩa sâu xa nhất, buộc người Tây Nguyên phải vùng lên đấu tranh.

Hình ảnh “rừng xà nu”gắn với hình ảnh dân làng Xô man có ý nghĩa cộng hòa nhau hỗ trợ cho nhau cũng làm nên sự thành công của tính sử thi trong tác phẩm này. Tác giả mở đầu là hình ảnh rừng xà nu và kết thúc cũng là hình ảnh rừng xà nu bạt ngàn. Rừng xà nu chính là biểu tượng của cả dân tộc Xô man, sức sống mạnh mẽ của loại cây này cũng là sức sống của người dân Tây Nguyên.

Khi đọc tác phẩm “rừng xà nu” của nguyễn Trung Thành âm hưởng chủ đạo chính là giọng hào hùng, đanh thép. Mặc dù mất mát đau thương nhưng không hề bi lụy. Bởi rằng âm hưởng chính đã lân át đi những mất mát đau thương đó

Có thể thấy rằng “rừng xà nu” là một câu chuyện vang dội tính sử thi từ đầu câu chuyện cho đến khi kết thúc câu chuyện; lắng lại trong lòng người đọc nhiều dư ấm vang dội nhất. Sự thành công của tác giả chính là làm sống dậy một dân tộc có ý chí quật cường, làm sôi sục lên tinh thần đấu tranh không ngừng nghỉ khi có áp bức bóc lột.

Phân tích Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thể hiện qua tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành  – Bài văn mẫu số 9

Rừng xà nu được viết ra vào giữa năm 1965, trong những ngày bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam nước ta. “Đó là những ngày sôi sục, nghiêm trang, nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt, hào hứng, hào hùng: dân tộc ta bước vào cuộc chạm trán mất còn trực tiếp với đế quốc Mĩ” (1). Tuy kể về những sự kiện xảy ra trước đó mấy năm nhưng truyện ngắn này đã tiếp được hơi thở hào hùng của thời hiện tại, và hiện thực được mô tả mang đậm ý nghĩa phổ quát. Chuyện làng Xô Man trở thành chuyện của cả “Đất nước đứng lên” trong cuộc đối đầu lịch sử.

Hình tượng lớn lao bao trùm toàn bộ tác phẩm là hình tượng những cây xà nu. Chính nó đã đem lại cho tác phẩm sức khái quát lớn cũng như sự sinh động, chân thực như cuộc đời. Và trước hết nó khơi lên nguồn cảm hứng dạt dào ở người viết, trở thành điểm tựa điểm gợi tứ để nhà văn suy ngẫm về mạch sống của đất nước và sức sống của nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà có một câu văn được lặp lại gần y nguyên đến hai lần ở phần đầu và phần kết thúc của tác phẩm: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời”. Đấy là một điệp khúc trầm hùng làm nền cho toàn bộ câu chuyện. Tác giả chưa bao giờ để gián đoạn mạch kể về rừng xà nu. Cây xà nu khi thì tách ra, khi thì hòa nhập với con người. Tả cây xà nu tác giả ưa dùng thủ pháp nhân hóa, còn khi là con người ông lại thường xuyên liên hệ, so sánh với cây xà nu. “Xà nu”, “xà nu” – tác phẩm trùng trùng điệp điệp với những “xà nu” và đó chính là điểm khá cơ bản quy định chất thơ hào hùng của nó (thơ, như có người nhận xét, là một kết cấu trùng điệp đầy âm vang).

Hãy trở lại với đoạn mở đầu của truyện ngắn. Nhà văn đã đem hết bút lực của mình ra để tả một khu rừng xà nu. Đấy không phải là một khu rừng xà nu chung chung mà là khu rừng xát cạnh làng Xô Man, kế bên con nước lớn (nguồn sống của con người) và lọt trong tầm đại bác của đồn giặc. Ngay từ đầu ta đã thấy rừng xà nu phải đối diện với những thử thách ác liệt, dữ dội. Thương tích là không thể tránh khỏi: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ngang như một trận bão”. Nhưng sức sống mãnh liệt của cây xà nu mới là điều tác giả muốn nhấn mạnh: “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nẩy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Chúng khỏe vì chúng tha thiết với mặt trời: “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tấp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”. Thật là một đoạn miêu tả sống động, giàu chất tạo hình nhưng không chỉ có ý nghĩa tả thực. Rừng xà nu, đấy chính là một ẩn dụ về con người: con người đau khổ, con người bất khuất, con người khát khao tự do, con người của truyền thống anh hùng lớp trước lớp sau liên tục đứng lên bảo vệ phẩm giá của mình … Thêm nữa, rừng xà nu ở đây còn là một hình tượng tượng trưng, một biểu tượng cho con người Tây Nguyên, cho cả một dân tộc hiệp sĩ : “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Trong hành động ưỡn tấm ngực lớn chứa đựng biết bao nhiêu là kiêu hãnh, nó biểu thị một phẩm chất phóng khoáng, hào hiệp và là một hành động tự nguyện do xác định được đúng vị trí đứng đầu bão táp của mình. Để diễn tả một nội dung phong phú như vậy qua hình tượng cây xà nu, tác giả đã sử dụng một giọng văn thiết tha pha chút cường điệu. Nhiều lúc như không nén nổi những xúc động đang tràn ngập vì yêu thương, vì yêu thương và cả kính trọng nữa, nhà văn đã thốt lên những lời nhận xét trực tiếp, để lộ cái tôi của mình “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nẩy nở khoẻ như vậy”, “Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế”. Hàng loạt động từ, trạng từ gây cảm giác mạnh được huy động cho mục đích miêu tả: ào ào, ứa, tràn trề, ngào ngạt, long lanh, gay gắt, bầm, ngã gục, lao thẳng, phóng, vượt, ưỡn .v.v. Đặc biệt, tác giả đã sử dụng rất đắt cái nhìn của điện ảnh để cho sự vật hiện lên động và nét hơn. Ống kính của ông khi thì lùi ra xa để ghi lấy toàn cảnh rừng xà nu, khi lại rà sát, soi kỹ dáng vươn lên kiêu dũng của những cây xà nu con. Có lúc tác giả quay chếch ống kính để trước mắt ta, màn ảnh như chao đảo: một cảnh tượng tuyệt vời nên thơ, tráng lệ hiện ra: “ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp …”.

Mạch cảm xúc đã được khơi lên. Hướng đi của ngòi bút đã được hình dung. Điểm “neo” những ấn tượng và quan sát phong phú đã được xác định với một cái làng cụ thể. Từ đây toàn bộ câu chuyện cứ thế mà tuôn chảy và hiện rõ trước mắt người viết, người đọc mồn một từng chi tiết từng hình ảnh.

Chuyện làng Xô Man được bắt đầu từ thời điểm hiện tại: “Ba năm đi lực lượng bữa nay Tnú mới có dịp ghé về thăm làng. Thằng bé Heng gặp ở con nước lớn dẫn anh về” đấy là những lời kể cô đúc hé lộ một lịch sử và báo hiệu một đổi thay. Quả thực làng Xô Man đã đổi thay nhiều lắm so với ngày Tnú ra đi. Khắp núi rừng đâu cũng có cạm bẫy chờ sẵn “chờ đón” quân thù. Một lớp người mới trưởng thành đứng ra gánh vác công việc kháng chiến. Sinh hoạt trong một làn vui tươi và có quy củ. Tất cả toát lên một vẻ hồ hởi tự tin khiến cho Tnú không khỏi có chút ngỡ ngàng. Phải nói rằng sự lựa chọn thời điểm bắt đầu câu chuyện hết sức thích hợp. Tất cả phải từ hôm nay và cho hôm nay, cũng y như mục đích kể chuyện tại nhà Ưng của cụ Mết. Đó là sự chuẩn bị tinh thần để bước vào một thử thách to lớn mới. Những lời nhắc nhở trầm vang như tiếng chiêng, cồng của cụ Mết: “Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ …” cũng chính là lời nhắn gửi của độc giả, trước hết là độc giả của thời kỳ lịch sử ấy.

Ra đời trong một thời điểm hào hùng của lịch sử, lại kể về những sự việc có tầm vóc thời đại, giọng điệu trần thuật có màu sắc anh hùng ca đã được sử dụng rất đắc địa. Lời kể của tác giả đã hoà lẫn với lời kể của cụ Mết và dòng hồi tưởng của Tnú một cách hết sức tự nhiên. Cái bi tráng của một giai đoạn cách mạng cùng khí thế chiến đấu bừng bừng của buôn làng Tây Nguyên ngày nổi dậy đã được tái hiện với đúng “chất” của nó. Trên dài đất cao nguyên hùng vĩ này từng có người dân sống nghẹt thở dưới ách áp bức, khủng bố bạo tàn của Mĩ Diệm.

Khắp nơi đều có dấu vết tội ác của chúng. Thiên nhiên bị tàn phá. Nhân dân bị chém giết. Chúng “đi trong rừng xà nu như con beo” với những “lưỡi lê dính máu”. Quả là chúng đang làm chủ cả núi rừng, nhưng là cách làm chủ của beo sói. Khi kể chuyện Tnú hồi nhỏ đi liên lạc bị giặc bắt, có đến ba lần tác giả nói đến vết dao trên lưng em. Đó là một chi tiết nghệ thuật tiêu biểu tố cáo tội ác man rợ của kẻ thù. Ngay tấm lưng nhỏ bé, non trẻ “rộng chưa bằng bề ngang của cái xà lét mẹ để lại” dường như sinh ra để cha mẹ vuốt ve cũng phải hứng chịu những sự vùi dập tàn bạo, phũ phàng nhất. Ở một đoạn khác, khi nói đến tình thế bị o ép dữ dội của dân làng Xô Man trước ngày khởi nghĩa, tác giả đã có dụng ý mô tả môt loạt âm thanh kinh khủng, đó là tiếng cười sằng sặc, giần giật của thằng Dục ác ôn, tiếng roi vun vút, tiếng gậy sắt nện hừ hự xuống thân người …

Nhưng sự việc đã diễn ra theo đúng quy luật có áp bức có đấu tranh, và một chân lí cách mạng dần dần được làm sáng tỏ: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Rừng xà nu không chỉ chuyện làng Xô Man trong đau thương mà chủ yếu là chuyện làng Xô Man đứng dậy. Tác giả đã rất thành công khi xây dựng chân dung một tập thể anh hùng. Họ gồm những cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng … mỗi người mỗi vẻ nhưng đều giống nhau ở sự gan góc, ở lòng trung thành với cách mạng. Sự gan góc, trung thành ấy không biểu hiện ồn ào. Nó ít lời mà dồn nén biết bao dữ dội. Tnú bị bắt, cụ Mết chỉ nói: “Tnú đừng làm xấu hổ làng Xô Man”. Tnú trả lời bằng bằng một cái nhìn. Giặc cởi trói cho Tnú để em chỉ chỗ người cộng sản, Tnú để bàn tay lên bụng mình nói “Ở đây này”. Rồi đôi mắt của Mai, cái nhìn của Dít .. rõ ràng đó là cái im lặng của những người đã chịu nhiều đau khổ, cái im lặng đầy sức mạnh, đầy đe dọa với quân thù, nó báo trước sự bùng nổ ghê gớm của lòng căm giận. Trong tác phẩm còn có một đoạn rất đáng chú ý khác nói về sự dũng cảm của Dít trước quân ác thú. Có thể nói trong khoảnh khắc, Dít đã lớn rất nhiều, thoạt đầu Dít khóc thét lên khi bị chúng bắn dọa. Nhưng đến viên đạn thứ mười, Dít đã chùi nước mắt, bình thản nhìn về bọn giặc. Đây là một chi tiết giàu tính tượng trưng. Không thể nói sự thay đổi đó của Dít như nói về một sự trấn tĩnh bình thường. Trong tình thế khó khăn con người phải tự lớn vượt lên mau chóng nếu không sẽ bị đè bẹp. Dềnh dàng là chết. Điều đó đúng với cả làng Xô Man, cả Tây Nguyên và cả cách mạng miền Nam ngày ấy.

Trong nhiều nguyên nhân tạo nên sức quật khởi của làng Xô Man mà tác giả có ý thức nêu lên, nguyên nhân thuộc về truyền thống lịch sử đã được biểu hiện qua một hình tượng sinh động: cụ Mết. Đúng là tác giả viết trong một bài hồi ức: “Ông là cội nguồn. Là Tây Nguyên của thời Đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm, nhưng không che lấp sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn sành sỏi và tự giác hơn của thế hệ sau”. Để tả cụ Mết tác giả thường mượn những đặc tính của cây xà nu làm đối tượng so sánh: ngực cụ “căng như một cây xà nu lớn”, còn bàn tay “nặng như sắt” của cụ thì “sần sùi như vỏ cây xà nu” tiếng nói của cụ cũng thật đặc biệt: “nặng trịch”, “ồ ồ” “dội vang trong lồng ngực” tưởng như tiếng âm vọng của núi rừng. Đúng là không thể hình dung nổi cuộc sống chiến đấu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên mà lại thiếu hình ảnh cụ Mết. Riêng đối với phương diện hình thức nghệ thuật của tác phẩm, hình ảnh đó tạo nên màu sắc Tây Nguyên đậm đà trên từng trang viết và tạo những điểm nhấn góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề, những điểm nhấn gắn liền với các câu nói mang ý nghĩa tông kết, giáo dục và kêu gọi của cụ: “Nghe rõ chưa, các con rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bây còn sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo! …” có thể nói thêm: nếu thiếu hình ảnh cụ Mết, tác phẩm sẽ thiếu đi một cơ sở quan trọng để sử dụng cái giọng trầm hùng vang vọng rất sử thi như nó đã có.

Nhiều đêm bên bếp lửa trong nhà ưng, cụ Mết đã kể cho con cháu nghe chuyện về anh Tnú. Đó là câu chuyện của thời hiện tại nhưng đã được lịch sử hoá bởi nó quá tiêu biểu cho hành trình số phận của các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mĩ. Cuộc đời của Tnú đã trải qua biết bao thử thách khốc liệt ngay từ thuở còn thơ. Chính những thử thách ấy đã hun đúc nên một con người mang nhiều phẩm chất tốt đẹp: gan dạ, trung thưc, một lòng một dạ gắn bó với cách mạng. Khi lớn lên, hạnh phúc riêng vừa đánh chết ngay trước mắt anh mà anh không làm gì được. Bản thân anh bị giặc bắt và bị chúng đốt cụt mười đầu ngón tay. Từ nỗi đau thương và căm thù đó, anh tham gia lực lượng quân giải phóng góp phần bảo vệ quê hương, trở thành niềm tự hào của buôn làng, thánh tấm gương cho cụ Mết dùng để giáo dục thế hệ sau. Khắc hoạ nhân vật Tnú, tác giả rất chú ý miêu tả hai bàn tay của anh – hai bàn tay biết kể với chúng ta về số phận một con người. Nhìn chung, với nhân vật Tnú cũng như với hầu hết các nhân vật khác, tác giả thường nhắc đi nhắc lại một đặc điểm nỗi bật nào đó của họ. Phải chăng ở đây có dấu vết của cách giới thiệu nhân vật trong sử thi? Dù sao đây cũng là một trong những đặc điểm hình thức khá nổi bật của truyện ngắn này.

Rừng xà nu là trải nghiệm một đời văn, một đời chiến sĩ được nhốt chặt trong một khuôn khổ hẹp. Niềm xúc động thiêng liêng về hình ảnh kì vĩ của tổ quốc giữa những ngày thử thách đã thôi thúc Nguyễn Trung Thành viết nên thiên truyện này. Đó là một tác phẩm rất cô đọng nhưng cũng hết sức bay bổng, gợi nên những cảm xúc vừa trầm lắng vừa say mê. Một tác phẩm xuất sắc khá xứng tầm với thời đại đánh Mĩ oanh liệt, hào hùng.

Phân tích Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thể hiện qua tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành  – Bài văn mẫu số 10

Văn học Viêt Nam giâi đoan 1945 – 1975 là văn học sử  thi. Cảm hứng anh hùng ca (sử thi) xuất hiện trong hầu hết các sáng tác văn xuôi thuộc giai đoạn này. Nhưng có lẽ, tác phẩm thể hiện đầy đủ nhất và sinh động nhất tính chất sử thi của văn xuôi cách mạng Việt Nam là truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

Tác phẩm này có nhiều điểm đặc biệt so với các truyện ndắn cùng thời. Khi nói đến khái niệm sử thi trong văn học hiện đại, người ta hiểu thuật ngữ này theo nghĩa rộng, tức là “tính chất sử thi”. Rừng xà nu không chỉ mang đặc điểm của sử thi hiện đại mà còn có dáng dấp của “thể loại” sử thi cổ điển. Câu chuyên đã gợi cho người đọc nghĩ về một thế giới xa xưa với phương thức sản xuất cổ truyền, với một bộ lạc (dân tộc) sống trong núi rừng và đứng đầu là một vị thủ lĩnh đạo cao đức trọng. Vẫn là những hoạt động thu hút được sự tham gia của toàn thể cộng đồng mà ta vẫn thường thấy trong các sử thi Tây Nguyên như lao động và sinh hoạt văn hoá… Nhưng đề tài nổi bật nhất của các sử thi hiện đại vẫn là chiến tranh. Hêghen cho rằng: “Tình huống phù hợp nhát với sử thi là các xung đột của trạng thái chiến tranh. Thực vậy, trong chiến tranh, chính toàn bộ dân tộc dang vận động” (Mĩ học). Truyện Rừng xà nu lại ra đời vào một thời điểm quan trọng: năm 1965, Mì đổ quàn vào Việt Nam. Bởi vậy, có thể nói, truyện ngắn này đã phản ánh một xung đột mang “tầm cỡ sử thi”.

Biểu hiện của tính sử thi trong truyện Rừng Xà nu

Bối cảnh câu chuyện lùi vẻ trước đó một chút, là thời điểm mang tính bước ngoặt trong việc lựa chọn giữa hai con đường “chết vinh hay sống nhục”. Dân làng Xô Man ủng hộ cách mạng. Giặc tàn sát dã man, treo cổ anh Xút, chặt đầu bà Nhan, dùng “trận mưa cây sắt” để giết Mai và đứa trẻ sơ sinh, đốt mười ngón tay Tnú… ‘Tức nước” ắt phải “vỡ bờ”, dưới sự lãnh đạo cùa “tù trưởng”, các dũng sĩ của dân tộc Strá cầm giáo mác lao vào chém giặc, “tiếng chiêng nổi lên (…). Suốt đêm nghe cả rừng Xồ Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng”. Thông qua nỗi đau ghê gớm của Tnú và dán làng xỏ Man, tác giả muốn khảng định con đường tất yếu của họ là đến với cách mạng. Ngoài ra, cũng giống như chủ đề của nhiều sử thi khác, tác phẩm này có mục đích ổn lại truyền thống hào hùng, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp và lòng dũng cảm của những anh hùng đại diện cho lợi ích dân tộc và kêu gọi nhân dân sẵn sàng vùng lên đánh đuổi giặc thù (cụ Mết kể lại cho mọi người, nhất là lũ trẻ nghe “kì tích” về anh hùng Tnú cũng là nhằm mục đích đó).
 
 Nhân vật chính của sử thi là những anh hùng có phẩm chất cao cả hiện thân cho lợi ích cộng đồng. Tnú là người có đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ của dân làng và cách mạng. Đức tính nổi bật nhất của anh là lòng dũng cảm. Tham gia cách mạng từ nhỏ, bị bắt, vượt ngục, anh lại đến với cách mạng. Nhờ sự mưu trí và gan dạ mà anh hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Ngọn lửa bốc cháy trên mười đầu ngón tay Tnú là một bằng chứng thiết thực nhất về lòng trung kiên với cách mạng. Anh còn có tình yêu thương sâu sắc. Vì thương vợ con mà phải liều mình cứu vợ con, vì thương dân làng mà phải đi đánh giặc để dân làng được bình yên. Đi chiến đấu, “nỗi nhớ day dứt lòng anh” là “tiếng chày chuyên cần, rộn rã” của dân làng. Có thể nói, Tnú là người anh hùng thuộc về quần chúng. Nói như Biêlin xki: “nhân vật của anh hùng ca phải là người đại diện xứng đáng của tinh thần dân tộc”.
Văn học cách mạng rất chú trọng đến vai trò của tập thể quần chúng. Trong Rừng xà nu, nói đến sự thành công của cách mạng là phải kể đến vai trò của dân làng, mà đứng đầu là cụ Mết. Tất cả họ đều “muôn người như một” chung một lí tưởng, cùng tự hào về truyền thống vẻ vang của buôn làng Cụ Mết là hiện thân cho truyền thống bất khuất đó. Qua các hoạt động và lời ăn tiếng nói của họ, ta thấy phảng phất hình ảnh của thời Đam San,
 
Xinh Nhã. Khi cộng đồng đã quyết làm chuyện gì thì không ai đứng ngoài. Ngay cả lối tư duy cũng giống nhau. Một thằng Dục chết rồi, cả dân làng còn cố gắng giết nhiều thằng Dục hơn nữa. Vì họ tin rằng “chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục”. Khi bắt được một thằng lính khác, Tnú hỏi: “Dục, mày có nhớ tau không?”. Nguyễn Trung Thành đã rất tài tình khi thể hiện được bản sắc riêng độc đáo của đổng bào dân tộc miển núi Tây Nguyên. Ông không chỉ chú ý đến cái chung mà còn khắc hoạ được cả nét riêng sinh động của một cộng đồng hoặc một cá nhân. Cụ Mết có những nét khác người: Thân hình quắc thước, râu dài tới ngực, mắt sáng xếch ngược, vết sẹo trên má láng bóng, bàn tay nặng trịch như cái kìm sắt! Giọng nói “ồ ổ”, “vang vang”, và chỉ nói “được” những lúc cho là tốt nhất. Tnú có một số phận cũng chẳng giống ai trong buôn làng: Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, vợ con chết, bị cụt mười đầu ngón tay. Tác giả còn miêu tả cả nhược điểm của anh là học chữ thua kém Mai (nhét chữ vào đầu không vô) đã nổi nóng đập bể bảng nứa và “đòi đánh Mai”, rồi”… cầm một hòn đá, tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng”. Đưa ra chi tiết gân guốc này, tác giả muốn cho nhân vật có sức thuyết phục bạn đọc. Cũng như chúng ta nhớ đến Asin là nhớ đến cơn giận dữ điên cuồng của chàng, nhưng như Hêghen bênh vực: “Chúng ta không cần tha lỗi cho chàng về chỗ đã nổi giận, bởi vì chàng có nhiều ưu điểm khác” (Mĩ học).
Ngôn ngữ của Rừng xà nu cũng mang đậm tính sử thi. Đó là giọng điệu ngợi ca, thành kính trước vẻ đẹp của những anh hùng (Tnú, cụ Mết…). Tác giả dùng những lời trang trọng nhất để nói về họ. Cũng giống như sử thi ôđixê, phần lớn câu chuyện được thể hiện thông qua lời kể của nghệ nhân sử thi (cụ Mết). Với mục đích kêu gọi chiến đấu, ngôn ngữ của người kể chuyện mang âm hưởng sôi nổi hào hùng: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất ca người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”. Lời kêu gọi của cụ Mết thể hiện rất rõ lối điệp từ ngữ quen thuộc của sử thi. Vì ngày xưa, sử thi tồn tại ở dạng nói, nên người kể phải thường xuyên lặp lại những chi tiết quan trọng để khắc sâu vào tâm trí người nghe. Rừng xà nu thể hiện rất rõ âm hưởng trùng điệp, hùng tráng của sử thi. Tác giả lặp lại ít nhất 20 lần hình tượng cây xà nu dưới nhiều góc độ khác nhau: đường nét, màu sắc, mùi vị,công dụng… Mở đầu tác phẩm là rừng xà nu bạt ngàn, kết thúc cũng là rừng xà nu chạy đên chân trời. Điều đó cho thấy tác giả đặt niềm tin vào sự lớn mạnh, đông đảo của cách mạng. Mỗi chiến sĩ là một cây xà nu trong khu rừng bạt ngàn đó. Cụ Mết được ví như một cây xà nu lớn. Nếu như thơ xưa lấy cây thông (cùng họ với xà nu) tượng trưng cho người quân tử thì Nguyễn Trung Thành lấy cây xà nu tượng trưng cho sức sống bền bỉ quật khởi của dân làng Xô Man. Cây xà nu cũng như con người, biết thể hiện khí thế tiến công ngay từ lúc còn nhỏ: Có những “cây con mọc lên ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Cây cũng biết bảo vệ con người: “Rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng” và chấp nhận “bị thương” “thành từng cục máu lớn”. Tác giả đã sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ như tượng trưng, nhân hoá, so sánh… để tô điểm chất thơ cho khung cảnh và tạo không khí huyền thoại cho câu chuyện. Nếu tác giả sử thi Đam San tin rằng cây Smuk là cây thần thì các nhà sử thi cách mạng dùng yếu tố kì ảo chí là để thể hiện ý tưởng “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây” (Tố Hữu).

Có thể nói, Rừng xà nu là một thành tựu xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Cùng với tiểu thuyết Đất nước đứng lên, nó đã khái quát được hiện thực đau khổ nhưng vĩ đại của dân tộc. Nguyên Ngọc đã thành công trong việc chạm khắc tượng đài kì vĩ, chói lọi của các anh hùng cách mạng: Núp (chông thực dân Pháp), Tnú (chống đế quốc Mĩ)… Tác dụng to lớn của hai sáng tác này là cổ vũ chiến đấu, lưu giữ lại âm hưởng hùng tráng một thời của dân tộc và góp phần giáo dục tình cảm yêu nước cho các thế hộ sau. Bởi vậy, có thể coi đây là những bản hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn vẻ cuộc chiến đấu của đồng bào Tây Nguyên, nói rộng ra là về hai cuộc chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc ta.

Phân tích Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thể hiện qua tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành  – Bài văn mẫu số 11

Truyện ngắn Rừng xà nu được in trong tập truyện ngắn Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Tác phẩm được viết vào năm 1965. Đây là thời điểm Mỹ đổ quân tham chiến ở miền Nam . Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam ở vào hồi quyết liệt: giặc Mỹ điên cuồng đánh phá Cách mạng miền Nam. Trước sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù, tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân (từ miền ngược đến miền xuôi) càng kiên cường và bất khuất “Họ đã xuống đường và đem cả lương tâm và nhân phẩm bắn tỏa lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai)

Thiên nhiên trong Rừng xà nu thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây”, thì kết túc tác phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Đó chính là bức tranh thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta.

Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật như: nhân cách hóa, ẩn dụ, tượng trương, so sánh, bi tráng hóa… nhà văn đã dựng nên bức tranh rừng xà nu ở nhiều góc độ. Rừng xà nu chịu nhiều đau thương mất mát do bom đạn của kẻ thù gây ra. Sức sống mãnh liệt của cây xà nu không bom đạn nào có thể khuất phục được (So sánh với sức sống của con người Xô Man). Cây xà nu ham ánh sáng, yêu tự do, luôn vươn lên đón ánh nắng và khí trời. Cây xà nu vững chãi với thế đứng “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho cả dân làng”.“Một cây ngã cả rừng cây lại mọc. Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”

“Người hi sinh đất hồi sinh
Máu người hóa ngọc lung linh giữa đời”

(Phan Thị Bích Hằng)

Nhà văn nguyễn trung Thành xây dựng nhân vật Tnú – hình ảnh người anh hùng bất tử của dân làng Xô-man mang đậm tính sử thi. Đến với truyện ngắn “Rừng xà nu”, chúng ta được thả hồn theo những cánh rừng xà nu bát ngát, xanh rờn đến tận chân trời, được chứng kiến sức sống mãnh liệt không gì hủy diệt được của những cây xà nu. Mặt khác chúng ta lại khâm phục biết bao người anh hùng Tnú với những phẩm chất tốt đẹp. Xây dựng hình tượng người anh hùng này cũng là biểu hiện chất “Sử thi”.

Cuộc đời Tnú đầy đau khổ, cay đắng, bị kẻ thù giết hại cả gia đình, anh đã biến đau thương thành hành động trở thành anh lực lượng đi đánh giặc trả thù nhà nợ nước.

Tnú trong chặng đường đầu của cách mạng đã nuôi giấu cán bộ, làm liên lạc, bị giặc bắt. Rồi anh vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc. Cùng một lúc, Tnú phải hứng chịu hai tấn bi kịch do tội ác của giặc gây ra (vợ con bị giặc giết, bản thân anh bị giặc đốt cụt mười đầu ngón tay)

Hình tượng đôi bàn tay Tnú là một chi tiết nghệ thuật đậm chất sử thi. Đôi tay là đôi tay cần cù lao động, là đôi tay chứng nhân tội ác kẻ thù. Đôi tay chưa bao giờ biết phản bội…

“Gấp trang sách lại, hình ảnh Tnú với bao phẩm chất tốt đẹp vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Tnú tiêu biểu cho hình mẫu người anh hùng dân tộc Tây Nguyên và cũng mang những nét chung của hinh mẫu anh hùng dân tộc thấm đượm chất “Sử thi”. Cùng với Trần Quốc Toản, La Văn Cầu, Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn Trỗi và biết bao anh hùng, liệt sĩ khác các anh ca lên bài ca khải hoàn chiến thắng cho dân tộc Việt Nam yêu dấu” (Phan Huy Dũng)

Truyện ngắn Rừng xà nu có tính cộng đồng sâu sắc trong tác phẩm. Bên  cạnh việc miêu tả,làm nổi bật lên hình ảnh của người anh hùng Tnú, người ta còn thấy được hình ảnh của những con người khác xung quanh nhân vật này, những người gan dạ dũng cảm trong cộng đồng làng Xô man. Mỗi con người là một sức mạnh, mỗi ngọn giáo đứng lên là thể hiện một lòng căm thù. Sức sống mãnh liệt đó được truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ các cụ già đến những em bé còn ngây thơ nhưng đã có ý thức về nỗi đau mất nước, mất người thân, mất chủ quyền dân tộc. Tính chất cộng đồng được thể hiện trong tác phẩm rất rõ:

Đó là hình ảnh sum vầy, quây quần bên nhau, nương tựa vào nhau “cơm nước xong từ phía nhà ưng có ai đấy đánh lên một hồi mõ dài ba tiếng , dân làng lũ lượt kéo tới nhà cụ Mết”. Tất cả mọi người từ các cụ già các cô gái, những đứa trẻ sum tụ bên nhau để nghe câu chuyện cuộc đời Tnú.

Cụ Mết, thế hệ đi trước, một con người từng xông pha trong kháng chiến chống Pháp, nay lại tiếp tục sứ mệnh tiếp thêm sức mạnh cho con cháu, là người chỉ đường dẫn lối, là người truyền lại kinh nghiệm cho thế hệ mai sau “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

Dít, một cô gái với lòng dũng cảm, sự thông minh, ấn tượng bởi “đôi mắt mở to và bình thản”. Bình thản trước súng gươm của kẻ thù. Phẩm chất kìm nén đau thương để biến thành hành động, nhanh chóng trở thành cô bí thư chi bộ, cấp chỉ huy cao nhất của làng Xô

Rồi đến Heng “đội cái mũ sụp xin được của một anh giải phóng, mặc chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một người lính thực sự.”, cũng dũng cảm, cũng nhanh nhẹn như Tnú. Cũng là một cây xà nu con mọc lên, tiếp bước với cây lớn làm nên rừng xà nu, làm nên bản làng Xô man mạnh mẽ.

Có thể nói chất anh hùng tự ngàn đời đã chảy vào huyết quản của già làng Mết, từ già làng chảy qua Tnú, Tnú chảy qua Mai, Mai chảy qua Dít, Dít chảy qua Heng, Heng chảy vào những cây xà nu con mới mọc đã nhọn hoắt như những mũi lê chóc thẳng lên bầu trời. Dân tộc Việt Nam dù có hy sinh, dù có mất mát nhưng vẫn không bao giờ lùi bước trước quân thù:

“Nước Việt Nam từ trong biển máu
Người vươn lên như những thiên thần”

(Tố Hữu)

“Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

(Nguyễn Đình Thi)

Hình thức kể chuyện với cách tạo không khí truyện rất Tây Nguyên đậm đà màu sắc sử thi truyền thống. Bao trùm lên toàn bộ thiên truyện là một khung cảnh nghiêm trang, hào khí lại vừa mang đậm chất lãng mạn cuốn hút về làng Xô man bất khuất kiên cường.

Giọng văn trong Rừng Xà Nu là giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính sử thi hoàng tráng của tác phẩm.

Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.

Biện pháp nhân cách hóa, miêu tả cây xà nu như con người Xô Man. Vì vậy cây xà nu hiện ra như một nhân vật của câu truyện. Nguyễn Trung Thành đã biến rừng xà nu thành cả một hệ thống hình ảnh được miêu tả song song với hệ thống hình tượng nhân vật.

Sử dụng kiểu thời gian gấp khúc “đau thương nuôi con người vụt lớn lên” (Tnú ngày bị bắt mới chỉ đứng ngang bụng cụ Mết, 3 năm sau trở về đã là chàng thanh niên lực lưỡng; Dít ngày Tnú đi còn bé, 3 năm sau anh trở về Dít đã là bí thư chi bộ).

Có thể nói, Rừng xà nu là một thành tựu xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Cùng với tiểu thuyết Đất nước đứng lên, nó đã khái quát được hiện thực đau khổ nhưng vĩ đại của dân tộc. Nguyên Ngọc đã thành công trong việc chạm khắc tượng đài kì vĩ, chói lọi của các anh hùng cách mạng: Núp (chông thực dân Pháp), Tnú (chống đế quốc Mĩ)… Tác dụng to lớn của hai sáng tác này là cổ vũ chiến đấu, lưu giữ lại âm hưởng hùng tráng một thời của dân tộc và góp phần giáo dục tình cảm yêu nước cho các thế hộ sau. Bởi vậy, có thể coi đây là những bản hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn vẻ cuộc chiến đấu của đồng bào Tây Nguyên, nói rộng ra là về hai cuộc chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc ta.