Phân tích nỗi nhớ của người cán bộ Cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc trong bài Việt Bắc-Tố Hữu hay nhất

Bài văn mẫu số 1

Bài thơ Việt Bắc là bài thơ được trích trong tập thơ Việt Bắc (1947 - 1954) của Tố Hữu. Tên bài thơ đã trở thành tên chung của cả tập thơ vì bài thơ đã thể hiện được những tình cảm tiêu biểu cho cả tập thơ. Bài thơ đã bộc lộ những tình cảm thiết tha, mặn nồng, gắn bó, thủy chung, son sắt của Việt Bắc đối với người cán bộ về xuôi và ngược lại người cán bộ cách mạng về xuôi cũng bộc lộ những tình cảm ấy đối với Việt Bắc trong buổi chia ly bằng sự khẳng định nỗi nhớ của mình đối với Việt Bắc.

Mở đầu bài thơ, Việt Bắc đã hỏi người cán bộ cách mạng về xuôi:

Mình về, mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Câu hỏi này của Việt Bắc có nghĩa là: Anh về anh có nhớ tôi không? Nhớ anh và tôi đã gắn bó thiết tha mặn nồng suốt mười lăm năm ở Việt Bắc không? Và sau đó là hàng loại câu hỏi của Việt Bắc cũng mang nội dung này:

Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai

Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng măng mai để già

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son

Mình về còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh Việt Bắc cứ sợ người cán bộ cách mạng về xuôi quên mình nên cứ gợi lại những hình ảnh ở Việt Bắc, với bao hình ảnh thân thương đậm đà tình nghĩa. Việt Bắc vừa bộc lộ yêu thương vừa

khao khát được yêu thương, nên cứ hỏi: "Mình đi có nhớ...", "mình về có nhớ... "Mình về còn nhớ...?"...

Để trả lời cho những câu hỏi này của Việt Bắc, người cán bộ cách mạng về xuôi đã khẳng định với Việt Bắc một điều thật chắc chắn rằng sẽ không bao giờ quên Việt Bắc, vẫn trước sau như một, không bao giờ thay đổi:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

"Ta" với "mình" gắn bó, xoắn xuýt, quyện chặt vào nhau làm nồng ấm cả một mối tình. Lòng người cán bộ cách mạng về xuôi đã chan chứa bao nhiêu tình cảm với Việt Bắc. Câu thơ "nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu" đã nói lên tất cả điều ấy.

Để làm nổi bật nỗi nhớ da diết của người cán bộ Cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc nhà thơ đã sử dụng điệp từ "nhớ" lặp đi, lặp lại rất nhiều lần và đặc biệt là nhà thơ đã so sánh nỗi nhớ ấy như nỗi nhớ trong tình yêu "Nhớ gì như nhớ người yêu". Đây là một sự so sánh thật độc đáo của Tố Hữu, bởi trong muôn ngàn nỗi nhớ của con người trên cuộc đời, có lẽ nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ ray rứt nhất quay quắt nhất. Ông cha ta ngày trước cũng đã bộc lộ khá độc đáo tâm trạng này:

Đêm nằm lưng chẳng tới giường

Trông trời mau sáng ra đường gặp em

(Ca dao)

Hay:

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than

(Ca dao)

Cho nên, ở đây nhà thơ chỉ có mượn nỗi nhớ trong tình yêu mới nói hết được nỗi nhớ của người cán bộ Cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc. Hình ảnh cảnh vật ở Việt Bắc và con người Việt Bắc cứ sống dậy mãnh liệt trong tâm hồn kẻ ra đi. Nỗi nhớ Việt Bắc của người cán bộ cách mạng hiện lên trong từng màu sắc, từng hình ảnh của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Những hình ảnh này như hòa quyện vào nhau, cảnh Việt Bắc đẹp và con người Việt Bắc cũng đẹp.

Cảnh vật Việt Bắc và con người Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của người cán bộ qua bốn mùa. Mùa nào cũng đẹp, cũng nên thơ, cũng sinh động và dạt dào sức sống:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Hình ảnh Việt Bắc trong trí nhớ của người cán bộ về xuôi còn là một thiên nhiên hùng vĩ. Thiên nhiên ấy đã trở thành một nhân vật che chở cho bộ đội, đã vây lá quân thù, cùng nhân dân đánh giặc, trở thành một vùng chiến khu mênh mông:

Nhớ khi giặc đến, giặc lùng

Rừng cây, núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng

Càng nhớ Việt Bắc, người ra đi càng tự hào về Việt Bắc, bởi chính Việt Bắc là nơi ghi nhận những hình ảnh hào hùng của quân và dân ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Dấu chân nát đá muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

Việt Bắc còn là nơi ghi dấu, mở ra nhiều chiến công của quân và dân ta, đem lại bao niềm vui chiến thắng của dân tộc ta:

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng

Người ra đi nhớ Việt Bắc cũng chính là nhớ nơi ghi dấu bao hoạt động của Trung ương Đảng và Chính phủ:

Ai về ai có nhớ không

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

Điều quân chiến dịch thu đông

Nông thôn phát động giao thông mở đường

Giữ đê phòng hạn thu lương

Gửi dao miền ngược thêm trường các khu

Người cán bộ cách mạng về xuôi nhớ Việt Bắc không những chỉ nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc mà còn nhớ những con người Việt Bắc chân chất, đậm đà tình nghĩa, cần cù trong lao động và rất thủy chung, son sắt.

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ Việt Bắc, người cán bộ về xuôi không thể nào quên hình ảnh của Bác Hồ trong những năm tháng Người sống nơi đây, bởi Người là ánh sáng, là niềm tin của cả dân tộc.

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa

Tóm lại, nỗi nhớ của người cán bộ Cách mạng về xuôi qua nghệ thuật diễn đạt của nhà thơ đó là một nỗi nhớ ray rứt, quay quắt như nỗi nhớ trong tình yêu, một nỗi nhớ có nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều góc độ khác nhau. Nỗi nhớ ấy là cả một tấm lòng yêu thương, gắn bó, thủy chung, son sắt của người cán bộ cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc. Mối quan hệ tình cảm thắm thiết này đã nói lên được những tình cảm cách mạng cao đẹp của con người Việt Nam.

Bài văn mẫu số 2

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng và tháng 10 năm 1945 các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ về chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.

Việt Bắc gồm hai phần: phần đầu tái hiện những kỷ niệm cách mạng và kháng chiến; phần sau gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước khi hòa bình lập lại và ngợi ca công ơn của Đảng của bác Hồ với dân tộc. Đoạn trích thuộc phần đầu của bài thơ.

Nội dung chính diễn tả những tình cảm cách mạng cao quý của nhân dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tố Hữu đã dùng lối hát giao duyên đối đáp giữa nam và nữ trong các hội hè đình đám ở miền Bắc nước ta. Trong ca dao, motip cặp từ mình ta rất phổ biến:

- Mình về có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

- Mình về ta chẳng cho về

Ta nắm vạt áo, ta đề bài thơ

- Mình về mình có nhớ chăng

Ta về như lạt buộc khăn nhớ mình.

- Ta về ta cũng nhớ mình

Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.

Tố hữu thay vào nội dung tình yêu đôi lứa của dân ca bằng tình nghĩa cách mạng, tấm lòng son sắt thủy chung với Đảng, với nhân dân, qua cách nói cách xưng hô Mình - Ta. Tình cảm cao quý đó trở nên gần gũi, thắm thiết hơn:

- Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

- Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

- Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...

Nhân vật trữ tình trong bài thơ là người cán bộ cách mạng về xuôi. Họ là tượng trưng cho dân tộc kinh và người dân Việt Bắc, tượng trưng cho dân tộc miền ngược. Do đó tình cảm cách mạng ở đây còn là tình đoàn kết gắn bó giữa hai vùng miền xuôi- miền ngược, thể hiện chính sách dân tộc của Đảng ta và nhà nước ta.

Hai mươi câu thơ đầu là lời trao gửi ân tình thắm thiết của Việt Bắc đối với cán bộ cách mạng về xuôi. Một loạt câu hỏi tu từ và điệp kiểu câu:

- Mình về mình có nhớ ta?

- Mình về mình có nhớ không?

- Tiếng ai tha thiết bên cồn?

- Mình đi, có nhớ những ngày?

Tác giả gửi cho người đọc cảm nhận được tình cảm lưu luyến không muốn rời trong buổi chia tay người đi kẻ ở. Nhớ Việt Bắc là nhớ quê hương cách mạng, nhớ ngọn nguồn cách mạng, nơi để bao bọc những người cán bộ, chiến sĩ cách mạng trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến còn nhiều sóng gió:

- Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Hình ảnh mười lăm năm ấy là một hình ảnh cụ thể, nhắc nhở thời kỳ đầu thành lập lực lượng vũ trang, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, cho đến ngày kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Cả một thời gian dài gian khổ, đắng cay ấy, Việt Bắc đã ân tình, ơn nghĩa với cách mạng như thế, cho nên: nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.

Người ra đi làm sao tránh khỏi tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng? Hai tính từ láy "bâng khuâng", "bồn chồn" cùng hiện diện trong câu thơ đổi ý càng khắc họa đậm nét tâm trạng ấy:

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

Niềm vui nỗi buồn của những tháng ngày cùng nhau vào sinh ra tử gửi lại miền đất. Nhưng sự ghi nhớ công ơn cưu mang của đồng bào Việt Bắc mãi mãi sẽ còn ở trong trái tim của người cách mạng khi về xuôi. Những câu hỏi của của người ở lại cũng là lời tự nhắc nhở mình của người đi:

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Nhớ Việt Bắc còn là những kỷ niệm gian khổ, khó khăn trong thời kỳ kháng chiến. Câu thơ thơ liệt kê "mưa nguồn suối lũ" được nhấn mạnh thêm bằng từ ngữ, cùng "những mây cùng mù" để tạo một loạt, nhấn mạnh thêm ý gian khổ, vất vả của cuộc kháng chiến. Hình ảnh "miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai" có sức khái quát cao. Ý thơ nói lên tình đoàn kết chiến đấu, chia sẻ gian lao giữa hai vùng miền xuôi miền ngược là thấm thía, là sâu sắc, bền chặt.

Nhớ Việt Bắc cũng là nhớ tình nghĩa đồng bào. Bằng cách nói mộc mạc, diễn tả tình cảm kín đáo mà tha thiết, tác giả bộc lộ niềm thương nhớ nỗi nhớ của người ở lại:

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

Trám bùi để rụng, măng mai để già là cách nói bình dị mà sâu sắc vô cùng. Trám và măng là đặc sản quen thuộc của Việt Bắc. Đặc sản ấy từng là nguồn thức ăn của nhân dân và bộ đội trong những ngày kháng chiến. Ngày nay, qua rồi thời kỳ đói khổ, khó khăn, nhắc nhở những sản phẩm này với tấm lòng thiết tha trìu mến đối với Việt Bắc; xem đó là kỷ niệm sâu sắc trong đời. Qua đó làm nổi bật tấm lòng son sắt, thủy chung của người miền ngược và người miền xuôi.

Đoạn sau là lời đáp tiếp theo tình nghĩa của cán bộ cách mạng trước lúc chia tay. Tố Hữu đã tái hiện thành công cảnh và người Việt Bắc bằng những chi tiết tiêu biểu nhất, đẹp đẽ nhất:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa...

Tuy thiếu thốn, gian khổ nhưng cảnh và người Việt Bắc đẹp và tình nghĩa chan hòa. Tình nghĩa sâu đậm ấy thể hiện qua hình ảnh tượng trưng "chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" kết hợp với cách dùng từ cùng nghĩa chia sẻ. Cách dùng từ mượt mà diễn tả được mối tình cảm chia ngọt sẻ bùi giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui" mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc

Hình ảnh thơ được chọn lọc kỹ lưỡng khi nói về nỗi vất vả và hi sinh của con người Việt Bắc đối với cách mạng. Hình ảnh người mẹ nắng cháy lưng gợi cho người đọc liên tưởng đến sự tảo tần chắt chiu, sự cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến đã đùm bọc,cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong ký ức của người về xuôi.

Đoạn thơ còn lại dựng lên những khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh và âm thanh theo suất tiêu biểu cho sinh hoạt trong kháng chiến ở Việt Bắc. Câu thơ đối ý về nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn rất gian khổ, khó khăn:

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Âm thanh tiếng "mõ rừng chiều" và "chày đêm nện cối đều đều suối xa" là âm thanh đặc trưng của Việt Bắc, phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi rừng, gợi nhớ một thời đã qua.

Đặc sắc nhất là đoạn thơ hồi ức về cảnh đẹp rừng núi Tây Bắc qua bốn mùa trong năm tươi xanh:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Một loạt từ chỉ màu sắc: xanh, đỏ tươi, trắng, vàng tạo một cảm giác tươi mát, vui mắt các bức tranh phong cảnh. Mùa xuân với hoa mai nở trắng rừng. Mùa hè với âm thanh ra kêu tạo thành một bạn học tới của rừng xanh. Mùa thu với ánh trăng hòa bình êm đềm trong sáng. Giữa cây cỏ thiên nhiên, con người Việt Bắc xuất hiện với sự hiền hòa, nhân hậu, trong tư thế lao động cần cù, tự tin. Hình ảnh "dao gài thắt lưng", "đan nón chuốt từng sợi giang", "hái măng một mình" mang sức sống mạnh mẽ, khiến bức tranh thiên nhiên trở nên sinh động và có ý nghĩa hơn.

Việt Bắc còn ghi lại những chiến công của bộ đội, nhân dân ta trong kháng chiến chống Pháp. Đoạn thơ toát lên vẻ đẹp hào hùng của dân quân ta:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Bằng những điệp từ điệp điệp, trùng trùng và từ ngữ láy phụ âm đầu rầm rập diễn tả được hào khí ngút trời của bộ đội, dân công trên đường ra mặt trận. Với lối nói thậm xưng, bước chân nát đá tác giả cũng muốn nhấn mạnh sự lớn dậy và kiên cường, bất khuất của bộ đội ta thời kì này. Họ bước đi trong ánh sáng của lí tưởng yêu nước và cách mạng dẫn đường. Họ đưa dân tộc bước đến tương lai tươi sáng. "Ánh sao đầu súng" là một hình ảnh tuyệt đẹp. Nó khiến ta nhớ đến hình ảnh "đầu súng trăng treo" trong bài thơ đồng chí của Chính Hữu khi nói về người lính thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Cũng là ánh sáng ấy, nhưng giờ đây nó lớn mạnh và rực rỡ vô cùng.

Quê hương Việt Bắc còn là đầu não của cuộc kháng chiến toàn quốc, là niềm tin vững chắc của nhân dân về lãnh tụ:

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà

Đoạn thơ nhấn mạnh uy tín của Bác, của Đảng đối với toàn dân, toàn quân trong thời kỳ kháng chiến gian khổ.

Việt Bắc là bài thơ thành công của Tố Hữu và của nền thơ cách mạng Việt Nam. Bằng thể thơ lục bát mang âm hưởng ngọt ngào, thiết tha của ca dao dân ca, Tố Hữu đã ghi lại những lời giao đối, những câu hỏi da diết, những tiếng vọng thủy chung của người đi kẻ ở trong một cuộc chia tay đầy lưu luyến. Từ lẽ sống và tình cảm lớn lao đến giọng điệu tâm tình ngọt ngào, từ những bút pháp nghệ thuật đậm đà tính dân tộc cho đến những thi liệu, thi tứ phảng phất âm hưởng của ca dao dân ca hết sức chân tình. Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với Bác Hồ là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc.