Việt Nam ta có rất nhiều tác giả nổi tiếng với nhiều tác phẩm hay, không thể không nhắc đến một tác giả nổi tiếng trong những năm của thế kỷ XX gắn liền với nhiều hoàn cảnh lịch sử đó là Ngô Tất Tố, nhắc đến truyện kí Việt Nam trước cách mạng tháng Tám nhớ đến ngay ông, một cây bút lỗi lạc của văn học hiện thực đương thời.
Ngoài tác phẩm “tắt đèn” của Ngô Tất Tố rất nổi tiếng của ông thì còn các công trình nghiên cứu, dịch thuật, tiểu thuyết như “Lều chõng” còn để lại hai tập phóng sự viết về nông thôn Việt Nam trước năm 1945: “Tập án cái đình” và “’Việc làng”. Ông xuất thân là một nhà nho gốc nông dân, là một học giả với nhiều công trình triết học và văn học cổ có giá trị, không những vậy ông còn là một nhà báo nổi tiếng với nhiều bài mang khuynh hướng dân chủ tiến bộ và giàu tính chiến đấu, bài viết của ông miêu tả lên được hiện thực xuất sắc chuyên viết về nông thôn trước cách mạng và sau cách mạng
Trong đó “Việc làng” gồm có 16 bài phóng sự; “Góc chiếu giữa đình” là bài số VI của tác phẩm, được trích ra. Qua nội dung câu chuyện kể về ông Lũy tổ chức lễ ăn khao vì mua được cái chức lý cựu mà trở thành khánh kiệt, nợ nần, tác giả đã châm biếm hủ tục nơi “cái làng xôi thịt” ngày xưa, chỉ mặt vạch tên bọn chức dịch là đầu trò của mọi hủ tục, tệ nạn ấy, chúng chỉ muốn ăn chơi, vung tiền để mua chức, mua quyền rồi để thấy được một bộ máy chính quyền mục nát, không có đức tính của một vị quan, và ông Lũy chính là nạn nhân của bọn chức quan quyền ấy.
Đọc nội dung câu chuyện ta mới thấy được những mặt trái mà vợ chồng ông Lũy làm ra thật đáng thương, hai vợ chồng luôn mang những đức tính tốt đẹp của người dân cày lam lũ, tính nết “thật thà, chăm chỉ”, cần cù tiết kiệm làm ăn không chỉ riêng làng đó mà còn là của người nông dân Việt Nam. Suốt một thời gian dài mười lăm năm, chồng làm nghề cày thuê, vợ chuyện đi ở vú sữa. Nhờ thế mà ông bà đã đưa nhà mình “lên đến bậc có máu mặt”, có cái lưng vốn kha khá “có gần mẫu ruộng và nửa con trâu”. Như biết được sự vất vả ấy mà nhờ trời mấy năm được mùa liên tiếp, thóc lúa đủ ăn từ vụ nọ đến vụ kia, trong chuồng lúc nào cũng có lợn lớn, như vậy quá là tốt đối với mỗi gia đình.
Ví như chẳng đâu xa tác giả chính là người chứng kiến tình cảnh này, nên khi viết nhà văn đã viết một cách tinh tế nói lên được sự thực của xã hội phong kiến, thuở ấy chỉ là một nho sinh đến ở trọ gần nhà ông Lũy thế mà trong lễ ăn khao, ông đã sai người nhà mời đến tận ba lần. Khi được mừng một đồng bạc, ông Lũy “ra ý không thích” không phải ông ham muốn mừng tiền nhiều mà vì ông chỉ muốn mua đôi liễn nhờ nhà nho “viết chữ vào cho” để lấy được may mắn chứ ông không muốn lấy tiền của nhà nho. Chi tiết ấy đã thể hiện ông Lũy là một con người rất tình nghĩa chứ không phải có quan là ông không còn những đức tính vốn có ấy.
Theo tác giả, cái ngôi làng khi đó đã biến thành một triều đình phong kiến thu nhỏ, mà ở đây, lợi dụng sự mê tín của dân chúng, vì người dân Việt Nam vốn rất tin vào thần linh nên bọn chúng đã bày mưu để nhân dân ta u mê về tín ngưỡng như vậy, bọn thực dân phong kiến đã giở mọi trò lừa đảo nhằm thực hiện chính sách ngu dân khiến cho nhân dân ta không làm gì chỉ tin vào thần linh, bóc lột của chúng: “Bày ra một cái triều đình giả dối, lấy ông thần gỗ tôn lên ngai báu, lấy tổng lý làm công khanh, lấy thịt xôi làm bổng lộc để họ đam mê áo mũ xênh xang, trống giong cờ mở”.
Cái sai lầm đó chính là triều đình phong kiến nên đời sống nhân dân như thế nào thì các quan cũng không quan tâm họ chỉ nghĩ cách nào để hại dân, và chính quyền thực dân phong kiến vẫn chủ trương duy trì lấy nó, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng ngu tối, lạc hậu, không cho đất nước phát triển, người dân lúc nào cũng luẩn quẩn trong cúng bái. Và rồi ông Lũy chính là hình ảnh đại diện cho nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ, như con còn hiền lành lâm nạn, bị sập bẫy của bọn lý dịch làng giương lên, cũng chỉ biết nghe theo không chống lại được. Vốn ông Lũy biết mình “rất lấy làm bất mãn” về thân phận bạch đinh đầu chày đít thớt thấp hèn, chúng đã gọi ông ra giữa đình bán cho ông cái chức lí cứu lấy một trăm bạc chi tiêu vào công việc tu bổ ngôi đình bị dột mấy chỗ. Khi ông Lũy còn đang phân vân , ông nghĩ sẽ không được ai quý trọng thì họ “nói rất bùi tai” khiến cho ai nghe cũng muốn mua ngay: “chỉ mất trăm bạc mà được ngồi ngang hàng với lý trưởng, phó lý, với các chức dịch trong làng, được “ăn biếu ăn xén”…
Khi đã mua được chức “lý cựu” rồi lại còn phải tổ chức ăn khao, riêng đối với bọn chức quan thì một khi đã tổ chức phải thật linh đình không được sơ sài, trong khi đất nước thì đang khó khăn, dân làng thì nghèo. Ông Lũy muốn hoãn đến tháng mười có lúa gạo đỡ phải vay mượn nhưng bọn hương lý không nghe, vì “để lâu không tiện dân làng đã vậy còn qủy thần”.
Chỉ sau năm ngày cuộc ăn khao,chính tác giả gặp bà cựu cắp nón đi ra cổng làng, với một dáng vẻ không vui. Cái cơ ngơi chắt bóp suốt mười lăm năm trời đã tan biến. Cái giá mua chức lý cựu và cuộc ăn khao đâu có rẻ: “gần mẫu ruộng và nửa con trâu đã bán hết cả, lại còn nợ thêm hơn bảy chục đồng”, cả công sức, và tài sản của hai vợ chồng dành dụm, làm lụng sau mấy ngày đều đi hết lại còn ngập trong nợ nần, đó là một bài học đắt giá cho việc mua chức lý, khiến hai vợ chồng có chức có quyền cũng chỉ là nạn nhân của bọn thực dân phong kiến mà thôi.
Tác phẩm “Góc chiếu giữa đình” là một bài phóng sự đặc sắc, hay, mang giàu giá trị tố cáo hiện thực của Ngô Tất Tố. Sự việc được kể lại một cách chi tiết, cụ thể, sinh động. Khiến cho người đọc cũng cảm thấy như mình được tham dự, sự việc và con người trong cuộc châm biếm hủ tục, vạch mặt chỉ tên bọn chức dịch trong cái làng ngày xưa, để thấy tội ác của bọn thực dân phong kiến. Hủ tục và bọn lý dịch đã xô đẩy bao người dân lương thiện vào khuynh gia bại sản, sống trong nợ nần, cho xã hội đi vào nơi tối tăm.