Dàn ý mẫu số 1
I. Mở bài:
- Sơ lược về tác giả và tác phẩm, giới thiệu nhân vật anh hùng Tnú.
II. Thân bài:
* Lai lịch, xuất thân và số phận đau thương:
- Mồ côi, được sống và lớn lên trong vòng tay bảo bọc, nâng đỡ của dân làng Xô Man, một ngôi làng có truyền thống đánh giặc.
- Tnú được thừa hưởng từ cái nôi truyền thống nhiều phẩm chất tốt đẹp và trở thành một con người mang vẻ đẹp kết tinh của cộng đồng, mà theo lời cụ Mết nói: “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
- Phải tận mắt chứng kiến cái chết thương tâm của người vợ trẻ và đứa con chưa đầy tháng dưới tay giặc.
- Bị giặc bắt, tra tấn, dùng nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay của anh, khiến anh mất đi đôi bàn tay khỏe mạnh, đủ đầy.
=> Thử thách để giúp Tnú trưởng thành trong sự nghiệp cách mạng, cũng như củng cố và làm sáng rõ hơn lý tưởng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
* Vẻ đẹp của tinh thần dũng cảm, lòng gan dạ, sự nhanh nhẹn, nhạy bén, không sợ hy sinh và tinh thần giác ngộ cách mạng sớm:
- Khi còn bé đã xung phong làm nhiệm vụ nuôi giấu cán bộ, khi được anh Quyết hỏi có sợ bị bắn không, Tnú rất khảng khái nhắc lại đúng lời cụ Mết rằng: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn núi nước này còn!”, thể hiện tấm lòng kiên trung, sớm giác ngộ cách mạng từ những ngày còn thơ bé của Tnú.
- Quyết tâm học chữ cho thật giỏi để làm cách mạng, có lần vì không nhớ nổi chữ mà Tnú đập vỡ bảng, thậm chí lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.
- Gan dạ và mưu trí khi đi liên lạc“Không bao giờ đi đường mòn...leo lên cây cao nhìn quanh một lượt rồi mới xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây”, rồi qua sông không chọn chỗ nước êm mà cứ chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang để tránh khỏi tầm mắt của lũ giặc.
- Khi bị giặc bắt, Tnú nhanh trí nuốt luôn cả thư, khi bị bắt giam Tnú cũng tìm cách vượt ngục để trở về buôn làng.
* Vẻ đẹp từ tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, sự căm thù giặc sâu sắc và ý thức tổ chức kỷ luật cao
- Ngày bé khi đi đưa thư, chúng tra tấn Tnú dã man nhưng anh hề hé răng lấy nửa chữ, sau 3 năm anh vượt ngục rồi trở về lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí đánh giặc.
- Khi trưởng thành, Tnú lần nữa bị giặc bắt, châm lửa đốt mười đầu ngón tay, nhưng Tnú vẫn không hề hé răng kêu lấy một tiếng, “người cộng sản không thèm kêu van” .
- Sự khiếm khuyết của đôi bàn tay chính là động lực, là lời nhắc nhở, là ký ức đau thương về những gì kẻ thù đã để lại trong cuộc đời anh. Cũng chính đôi bàn tay ấy trở nên mạnh mẽ, kiên cường dẫu rằng thiếu đi một đốt, nhưng bàn tay ấy vẫn cầm được súng, vẫn bóp được cò, thậm chí Tnú còn chính tay bóp chết được một thằng giặc khỏe mạnh.
* Vẻ đẹp từ tình cảm gắn bó sâu sắc với quê hương, với gia đình:
- Tấm lòng yêu thương mẹ con Mai, cũng như nỗi đau đớn tột cùng khi không thể cứu kịp vợ con, quyết hy sinh thân mình để cứu mẹ con Mai.
- Khi Mai mới sinh con, Tnú đã xé đồ của mình làm đôi để cho làm tấm địu con, đó là tấm lòng hy sinh, lòng yêu thương của một người cha đối với đứa con bé bỏng.
- Có tình cảm sâu sắc với quê hương, anh yêu dân làng, yêu làng, nhớ từng kỷ niệm gắn bó với làng Xô Man, anh đi chiến đấu không chỉ vì mối thù của bản thân mà còn là để bảo vệ làng, bảo vệ mảnh đất quê hương.
III. Kết bài:
- Nêu cảm nhận.
Dàn ý mẫu số 2
a) Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
+ Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với Tây Nguyên.
+ Rừng xà nu là một trong những tác phẩm thành công viết về mảnh đất này.
- Giới thiệu hình tượng nhân vật Tnú: Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm - người anh hùng kết tinh vẻ đẹp của cộng đồng.
b) Thân bài
* Luận điểm 1: Tnú – người chiến sĩ gan lì, quả cảm, gắn bó và tuyệt đối trung thành với cách mạng
- Lúc còn bé đến khi trở thành chiến sĩ
+ Cha mẹ mất sớm, Tnú được người dân làng Xô man cưu mang, nuôi lớn.
+ Tnú đã sớm có lòng yêu thương nhân dân, làng xóm
+ Tnú từ nhỏ đã tỏ ra gan góc, táo bạo và nỗ lực hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao
Hăng hái xung phong vào rừng bảo vệ cho bộ đội, bất chấp sự khủng bố dã man của địch.
Khi bị kẻ địch bắt, bị tra tấn dã man, bị tra hỏi, Tnú nuốt luôn lá thư vào bụng rồi chỉ tay lên bụng mình mà nói “cộng sản ở đây này”
- Tnú khi trưởng thành và bi kịch gia đình
+ Sau thời gian 3 năm ở tù, Tnú đã vượt ngục để trở về lãnh đạo dân làng Xô man đánh giặc.
+ Tnú bị bắt trói, bị đốt 10 đầu ngón tay, vợ con bị giặc giết chết trước mặt
+ Nỗi đau trào dâng lên trong người nhưng Tnú không kêu van “người cộng sản không hề kêu van”, “trợn mắt nhìn thằng Dục”, .... nén nỗi đau lại để đứng lên đánh giặc.
- Sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, tính kỉ luật cao
+ Còn nhỏ đã tin tưởng vào Đảng, vào cách mạng “Cán bộ là Đảng, Đảng ... này còn”.
+ Sau đêm kinh hoàng (vợ con bị giết), anh không bi quan mà gia nhập lực lượng giải phóng quân trả thù cho dân làng, gia đình.
+ Khi lập được chiến công, được nghỉ 1 ngày phép về thăm làng, anh đã chấp hành đúng quy định.
- Hình ảnh đôi bàn tay Tnú:
+ Bàn tay yêu thương: anh Quyết nắm lấy tay Tnú, Mai nắm lấy tay Tnú khi anh trở về, ...
+ Bàn tay đau thương: chứng kiến cảnh vợ con chết, chịu sự tra tấn của kẻ thù.
+ Bàn tay căm thù: chứng tích của lòng hận thù.
+ Bàn tay báo thù: giết giặc trả thù cho Mai, cho con, cho dân làng Xô Man.
+ Là nhân chứng cho con đường của dân làng Xô Man: “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.
=> Lòng căm thù giặc và quyết tâm đánh bại kẻ thù trong Tnú đã trở thành động lực to lớn, thúc đẩy Tnú hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một người chiến sĩ.
* Luận điểm 2: Tnú – người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ con
- Tnú và Mai đã cùng nhau lớn lên trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt, rồi trở thành vợ chồng và chào đón đứa con đầu lòng trong niềm hạnh phúc ngập tràn.
- Tuy nhiên, niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, bình dị ấy đã bị kẻ thù tàn bạo phá vỡ:
+ Chúng đã bắt vợ và con anh rồi tra tấn, đánh đập dã man
+ Chúng tin rằng “bắt được con cọp cái và cọp con tất sẽ dụ được cọp đực trở về” nhưng rồi đến cuối cùng chúng đã giết chết mẹ con Mai.
- Tnú đã chứng kiến cái chết của vợ con mình, anh “đã bứt đứt cả hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy (…) ở chỗ con mắt Tnú bây giờ là hai cục lửa lớn.”
=> Hành động của Tnú xét đến cùng là biểu hiện của người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ con.
* Luận điểm 3: Tnú – người con đầy nghĩa tình với dân làng Xô-man.
- Khi tham gia lực lượng giải phóng quân, anh rất nhớ nhà, nhớ quê hương
- Dù chỉ được về phép một đêm anh vẫn trở về.
- Trở về thăm quê sau ba năm đi chiến đấu, anh vẫn nhớ như in từng hàng cây, từng con đường, từng dòng suối.
* Đặc sắc nghệ thuật
- Xây dựng nhân vật bằng bút pháp sử thi
- Sử dụng nhiều chi tiết có giá trị biểu tượng (đôi bàn tay Tnú)
- Ngôn ngữ kể chuyện mang đậm màu sắc Tây Nguyên
- Ngôn ngữ của nhân vật có tính cá thể hóa, thể hiện được khẩu khí của những người anh hùng
- Nghệ thuật trần thuật điểm nhìn từ nhân vật cụ Mết
- Kết cấu truyện lồng trong truyện.
c) Kết bài
- Khái quát lại vẻ đẹp của nhân vật Tnú
- Nêu cảm nhận, đánh giá của em về nhân vật.
Bài văn mẫu số 1
Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm đã thể hiện sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng trẻ trung, mưu trí. Kiên cường, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng tiêu biểu cho cốt cách, linh hồn của mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nổi bật nhất là nhân vật Tnú, nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Ngay từ nhỏ Tnú đã là cậu bé thông minh, lanh lợi, gan dạ. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, Tnú được dân làng Xô Man đùm bọc, nuôi dạy lớn khôn. Tnú đã chứng kiến bao cảnh đau thương của dân làng Xô Man: “Giặc treo cổ anh Sút lên cây vả đầu làng, chúng giết bà Nhan chặt đầu, cột tóc treo đầu súng” chỉ vì họ đã dám nuôi giấu cán bộ cách mạng. Tnú đến với cách mạng như một lẽ sống tự nhiên.
Mới 10 tuổi, Tnú đã thay người lớn vào rừng tiếp tế cho cán bộ. Tnú nhớ như in lời cụ Mết: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn thì núi nước này còn”. Khi đi liên lạc, Tnú không đi đường mòn, “cứ xé rừng mà đi lọt qua tất cả các ổ phục kích của giặc. Khi qua sông, Tnú không thích qua chỗ nước êm, cứ chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang, cưỡi trên thác băng băng như một con cá kình”. Trong một lần đi liên lạc, không may Tnú bị giặc bắt giam cầm 3 năm, bị tra tấn dã man song vẫn cương quyết không khai nửa lời.
Khi trốn thoát khỏi ngục trở về với dân làng, Tnú đã trở thành một cán bộ cách mạng, trưởng thành về mọi mặt. Anh trở thành người lãnh đạo của dân làng Xô man. Cùng với dân làng Tnú chuẩn bị giáo mác cho cuộc chiến đấu sắp tới. Tnú cũng gặp lại Mai - cô bạn gái năm xưa cùng đi liên lạc, đi tiếp tế cho cán bộ nay trở thành bạn đời của anh.
Tnú đã phải chịu đựng và vượt qua một bi kịch lớn về tình cảm. Bọn giặc kéo đến làng Xô man lùng bắt Tnú nhưng không được. Chúng bắt Mai và đứa con vừa đầy tháng tuổi ra tra tấn. Bọn giặc dùng một cây sắt tra tấn mẹ con Mai: “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”.
Tnú đã không kìm nén được lòng mình, anh chồm lên xông vào bọn giặc với một tiếng thét dữ dội. Nhưng Tnú không cứu được mẹ con Mai, không bảo vệ được tình yêu và giọt máu của mình bởi anh chỉ có hai bàn tay trắng. Cả vợ và con đã bị giặc giết hại, Tnú đã phải chịu đựng nỗi đau mất mát lớn lao.
Tnú đã phải chịu đựng và vượt qua sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù. Bọn giặc đã quấn giẻ tẩm dầu xà nu đốt 10 ngón tay Tnú để dập tắt cái “mộng cầm giáo mác” của dân làng Xô man. Trong cuộc đối đầu quyết liệt này, phẩm chất kiên cường của Tnú càng tỏa sáng hơn bao giờ hết. “Mười ngón tay anh cháy như 10 ngọn đuốc. Lửa như cháy trong lồng ngực. Máu mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”.
Nhưng Tnú vẫn không kêu một tiếng “Người Cộng sản không thèm kêu van”. Tnú mở mắt nhìn vào kẻ thù trừng trừng đầy căm hận. Hình ảnh 10 ngón tay Tnú rừng rực cháy như 10 ngọn đuốc đã trở thành biểu tượng của một nỗi đau thương và tinh thần bất khuất của con người và mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Mười ngọn đuốc từ tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy đấu tranh của dân làng Xô man.
Tnú thét lên một tiếng, chỉ một tiếng thôi nhưng đã vang dội thành nhiều tiếng thét rung chuyển cả núi rừng. Cả làng Xô man đã đứng dậy. “Cả rừng Xô man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng”. Đau thương và căm thù đã chuyển hóa thành sức mạnh quật cường như một quy luật tất yếu “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Tnú trở thành một anh bộ đội của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam.
Lửa xà nu đã tắt trên 10 đầu ngón tay Tnú. Tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt như một chứng tích đầy căm hận mà anh mang theo suốt đời. Nhưng “tay còn hai đốt vẫn bắn súng được”. Tnú đi bộ đội lực lượng tham gia chiến đấu. Chính bàn tay có những ngón chỉ “còn hai đốt” ấy sau này đã bóp cổ thằng Dục (thằng ác ôn đã giết mẹ con Mai).
Trong ánh đèn soi vào mặt thằng Dục, Tnú đã cho nó nhìn rõ bàn tay trừng phạt. Đối với anh bây giờ “bọn giặc đứa nào cũng là thằng Dục” bởi mối thù riêng của anh đã hòa vào mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước. Đó cũng là sự trưởng thành về nhận thức mà Tnú đã rút ra được từ nhiều nỗi đau của gia đình, của quê hương trong cuộc chiến khốc liệt này.
Tnú còn là một người có tính kỉ luật rất cao và giàu tình yêu thương. Trong ba năm đi lực lượng vũ trang, xa làng Xô Man, nỗi nhớ về quê hương day dứt trong lòng anh. Nhưng phải được cấp trên cho phép Tnú mới về thăm làng và chỉ được về đúng một đêm. Con người kiên nghị, gan góc, không biết run sợ, khuất phục trước bạo tàn cũng lại là con người rất giàu tình cảm.
Bài văn mẫu số 2
Nguyễn Trung Thành hay còn có bút danh là Nguyên Ngọc là một trong những nhà thơ nổi tiếng trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, không chỉ sáng tác văn chương phục vụ cách mạng mà ông còn trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam, đặc biệt là những năm giặc Mỹ bắn phá ác liệt nhất. Quá trình sống và chiến đấu nhiều năm trên mảnh đất Tây Nguyên đầy nắng và gió, gắn bó cùng với những con người nơi đây đã để lại trong trái tim tác giả nhiều ấn tượng sâu sắc. Điều đó trở thành tiền đề giúp tác giả viết nên nhiều tác phẩm xuất sắc về đề tài “chiến tranh cách mạng - lực lượng vũ trang” dựa trên hình tượng chiến trường Tây Nguyên đầy máu, lửa cùng những người con anh hùng, mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Trong tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc nhất của mình - Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành xung quanh việc khắc họa hình ảnh dân làng Xô-man đánh Mỹ và hình tượng cây xà nu kiên cường giữa mưa bom bão đạn, thì nhân vật Tnú chính là điểm sáng rực rỡ mà tác giả tập trung khai thác, khắc họa thông qua nhiều hình thức khác nhau, để làm nổi bật nên những phẩm chất anh hùng của con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy gian khổ.
Trong Rừng xà nu nhân vật Tnú hiện lên với đầy đủ những phẩm chất và vẻ đẹp của một người anh hùng theo khuynh hướng sử thi, là hình tượng chung, vẻ đẹp tinh thần chung mà cả cộng đồng dân tộc đều hướng tới. Tính sử thi trước hết là bắt nguồn từ lai lịch và số phận của Tnú, anh từ nhỏ đã là đứa trẻ mồ côi, được sống và lớn lên trong vòng tay bảo bọc, nâng đỡ của dân làng Xô Man, một ngôi làng có truyền thống đánh giặc bất khuất từ bao đời nay. Chính vì thế bản thân Tnú từ khi còn đỏ hỏn cho đến khi trưởng thành đều được thừa hưởng từ cái nôi truyền thống nhiều phẩm chất tốt đẹp và trở thành một con người mang vẻ đẹp kết tinh của cộng đồng, mà theo lời cụ Mết nói: “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Tuy nhiên việc thiếu tình thương của cha mẹ từ nhỏ mới chỉ là một trong những mất mát nhỏ của Tnú, những ký ức đau thương của nhân vật này chủ yếu tập trung vào giai đoạn trưởng thành. Khi lớn lên Tnú yêu và lấy Mai, cô bạn cùng chơi từ thuở tấm bé về làm vợ, những tưởng hai người sẽ có cuộc sống hạnh phúc cùng đứa con mới chào đời, thì tai họa ập đến. Tnú làm cách mạng, trốn trên rừng, giặc bắt Mai và con anh làm mồi nhử, chúng tra tấn hành hạ dã man hai mẹ con đến chết. Tnú không thể cứu kịp vợ, phải tận mắt chứng kiến cái chết thương tâm của người vợ trẻ và đứa con chưa đầy tháng, nó trở thành đả kích và nỗi đau không thể nào nguôi trong lòng người anh hùng này. Không chỉ vậy, sau khi mất vợ, mất con, bi kịch vẫn không buông tha cho Tnú, anh bị giặc bắt, tra tấn, dùng nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay của anh, khiến anh mất đi đôi bàn tay khỏe mạnh, đủ đầy. Như vậy có thể thấy rằng trong một khoảng thời gian ngắn nhân vật này đã phải nhận cả hai nỗi đau mạnh mẽ đả kích cả thể xác lẫn tâm hồn. Đó là số phận bi thương và bất hạnh, đồng thời cũng là những thử thách để giúp Tnú trưởng thành trong sự nghiệp cách mạng, cũng như củng cố và làm sáng rõ hơn lý tưởng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bởi lẽ giờ đây trên vai người anh hùng không chỉ mang mối nợ nước, nợ quê hương mà hơn cả đó còn là mối thù nhà sâu sắc, mối thù của cá nhân, nó trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy người anh hùng hoàn thiện bản thân và kiên cường hơn trong công cuộc đấu tranh chống giặc thù.
Bên cạnh những ấn tượng về lai lịch và số phận đầy đau thương thì nhân vật Tnú còn hiện lên với những phẩm chất, tính cách vô cùng tốt đẹp. Đầu tiên đó là tinh thần dũng cảm, lòng gan dạ, sự nhanh nhẹn, nhạy bén, không sợ hy sinh và tinh thần giác ngộ cách mạng sớm. Điều đó bộc lộ ra ngay từ những ngày Tnú còn là một cậu bé, khi các thanh niên trong làng tham gia chống Mỹ bị giặc lùng bắt phải ẩn nấp trong rừng, anh Xút đi nuôi cán bộ bị chúng giết treo cổ trên cây vả, bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo súng ở đầu làng. Thanh niên và người già không thể đi, thì Tnú cùng Mai đã trở thành những chiến sĩ nhỏ tuổi xung phong làm nhiệm vụ nuôi giấu cán bộ, khi được anh Quyết hỏi có sợ bị bắn không, Tnú rất khảng khái nhắc lại đúng lời cụ Mết rằng: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn núi nước này còn!”, thể hiện tấm lòng kiên trung, sớm giác ngộ cách mạng từ những ngày còn thơ bé của Tnú. Không chỉ vậy sự giác ngộ cách mạng của Tnú còn thể hiện ở việc anh quyết tâm học chữ cho thật giỏi để làm cách mạng, có lần vì không nhớ nổi chữ mà Tnú đập vỡ bảng, thậm chí lấy đá đập vào đầu đến chảy máu. Trong việc đi liên lạc, Tnú cũng thể hiện là một người gan dạ và mưu trí khi “Không bao giờ đi đường mòn...leo lên cây cao nhìn quanh một lượt rồi mới xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây”, rồi qua sông không chọn chỗ nước êm mà cứ chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang, “cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình” để tránh khỏi tầm mắt của lũ giặc. Khi bị giặc bắt, Tnú nhanh trí nuốt luôn cả thư để tránh là lộ bí mật cách mạng, khi bị bắt giam Tnú cũng tìm cách vượt ngục để trở về buôn làng.
Vẻ đẹp thứ hai của Tnú chính là tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, sự căm thù giặc sâu sắc và ý thức tổ chức kỷ luật cao. Sự trung thành với cách mạng thể hiện từ việc Tnú bị giặc bắt ngày bé khi đi đưa thư, chúng tra tấn Tnú dã man nhưng anh hề hé răng lấy nửa chữ, sau 3 năm anh vượt ngục rồi trở về lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí đánh giặc. Khi trưởng thành, Tnú lần nữa bị giặc bắt khi cố cứu mẹ con Mai, chúng lấy vải quấn quanh mười đầu ngón tay Tnú, tẩm nhựa xà nu rồi châm lửa đốt, dù “nghe lửa cháy rừng rực trong lồng ngực, lửa cháy trong bụng”, dù cắn nát cả đầu lưỡi, nghe thấy vị máu mặn chát, răng đã cắn nát cả môi vì đau đớn thế nhưng Tnú vẫn không hề hé răng kêu lấy một tiếng. Lòng trung thành với cách mạng, lời dạy của anh Quyết “người cộng sản không thèm kêu van” đã ăn vào máu vào tâm hồn Tnú, rèn cho Tnú một ý chí kiên cường, thêm vào đó mối căm thù giặc những kẻ gây nên cái chết của vợ con lại càng khiến Tnú trở nên kiên cường, quyết không chịu nhục nhã, cúi đầu trước bọn giặc tàn ác. Vượt qua tất cả những nỗi đau mất mát đầy bi thương, Tnú đã trưởng thành, lý tưởng sống và chiến đấu càng trở nên mạnh mẽ, anh quyết chiến đấu đến cùng với giặc để trả mối nợ nước thù nhà đang hừng hực cháy trong trái tim từng ngày. Thế nên với Tnú, sự khiếm khuyết của đôi bàn tay chính là động lực, là lời nhắc nhở, là ký ức đau thương về những gì kẻ thù đã để lại trong cuộc đời anh. Cũng chính đôi bàn tay ấy trở nên mạnh mẽ, kiên cường dẫu rằng thiếu đi một đốt, nhưng bàn tay ấy vẫn cầm được súng, vẫn bóp được cò, thậm chí Tnú còn chính tay bóp chết được một thằng giặc khỏe mạnh. Như vậy có thể thấy rằng vẻ đẹp của Tnú không chỉ đơn giản nằm là sự dũng cảm, ý thức giác ngộ cách mạng cao mà đó còn là vẻ đẹp mang khuynh hướng sử thi, vẻ đẹp của sự từng trải, sự trưởng thành trong kháng chiến, vẻ đẹp của người anh hùng bước ra từ những đau thương mất mát, tột cùng, trở thành tượng đài của nền văn học kháng chiến.
Một vẻ đẹp nữa không thể không nhắc đến ở Tnú đó là tình cảm gắn bó sâu sắc với quê hương, với gia đình. Phải nói rằng vẻ đẹp mang khuynh hướng sử thi của người anh hùng Tnú sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến phương diện tình cảm, tình nghĩa của nhân vật này. Nổi bật nhất và thấy rõ nhất đó chính là tình cảm của Tnú dành cho gia đình, tấm lòng yêu thương mẹ con Mai, cũng như nỗi đau đớn tột cùng khi không thể cứu kịp vợ con. Tnú dù lúc ấy biết rõ rằng nếu anh nhảy ra thì sẽ bị giặc bắt, thế nhưng trước sự nguy nan của người thân Tnú không nghĩ được nhiều như thế, anh quyết hy sinh thân mình để cứu mẹ con Mai. Đôi vòng tay vững vàng rắn chắc như lim ấy của Tnú ôm lấy vợ con đang hấp hối, thể hiện tấm lòng yêu thương sâu sắc và trách nhiệm bảo vệ gia đình của một người đàn ông. Một chi tiết nữa cũng thể hiện tình cảm của Tnú với gia đình, ấy là khi Mai mới sinh con, Tnú đã xé đồ của mình làm đôi để cho làm tấm điu con, đó là tấm lòng hy sinh, lòng yêu thương của một người cha đối với đứa con bé bỏng. Bên cạnh tình cảm với gia đình, thì Tnú còn có những tình cảm sâu sắc với quê hương, anh yêu dân làng, yêu làng, nhớ từng kỷ niệm gắn bó với làng Xô Man, anh đi chiến đấu không chỉ vì mối thù của bản thân mà còn là để bảo vệ làng, bảo vệ mảnh đất quê hương nơi đã nuôi anh khôn lớn, cho anh giác ngộ cách mạng.
Bài văn mẫu số 3
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông là nhà văn có công đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Truyện ngắn Rừng xà nu là tác phẩm tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tnú, người con kết tinh mọi vẻ đẹp của nhân dân Tây Nguyên trên nền tập thể nhân dân anh hùng và hình tượng rừng xà nu hùng vĩ trong những ngày kháng chiến chống Mỹ gay go, ác liệt.
Rừng xà nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung bộ (số 2-1965), sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đất nước chia làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối. Đầu năm 1965, Mỹ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Rừng xà nu được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh Mỹ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ.Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù tàn ác.
Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Câu chuyện về cuộc đời anh là câu chuyện được sử thi hóa qua lời kể của cụ Mết. Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời làng Xô Man. Âm hưởng sử thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này. Tác giả xuất phát từ vấn đề cộng đồng để phản ánh đời tư của Tnú. Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lý tưởng. Nhà văn lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ở Tây Nguyên. Năm 1959, anh Đề đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang.
Tnú là con của dân làng Xô Man. Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu mang anh. "Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta". Chính tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống, tin vào chính mình, gắn bó sâu sắc với bản làng quê hương, với những gì thân thuộc như tiếng chày giã gạo của những cô gái, con nước mát lạnh đầu bản, những cụ già, những em nhỏ,... sau ba năm đi lực lượng, được về thăm làng, Tnú thấy bồi hồi, xúc động trước cảnh vật thân thuộc quê hương.
Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực cho cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện. Và cũng từ đấy Tnú bộc lộ một trí tuệ hơn người. "Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình" bởi theo Tnú "Qua chỗ nước êm thằng Mĩ - Diệm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó không ngờ". Giặc vây các ngả đường thì Tnú leo lên một cây cao, nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt qua tất cả các vòng vây. Tnú nghe theo anh Quyết, cố học chữ để sau này thay anh lãnh đạo cách mạng. Quyết tâm học chữ của Tnú thể hiện dứt khoát trong hành động tự đạp hòn đá vào đầu, máu chảy ròng ròng khi cậu thua Mai trong việc nhớ những con chữ. Tnú từ nhỏ đã tâm niệm trong đầu câu nói của cụ Mết: Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn.
Tnú là hiện thân của sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, với Đảng, là hiện thân của sự khỏe mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khỏe chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày của kẻ thù. Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn. Tnú không hề biết sợ hãi, không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng. Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện, Tnú bị giặc bắt. Họng súng chĩa vào tai lạnh ngắt, Tnú kịp nuốt luôn cái thư. Giặc giam cầm, tra khảo Tnú dã man, lưng Tnú dọc ngang vết dao chém nhưng anh quyết không khai một lời. Anh tìm cách vượt ngục về làng và tiếp tục sự nghiệp lãnh đạo dân làng chuẩn bị chiến đấu. Sức mạnh của anh dường như tăng thêm bởi sự hun đúc của một tình yêu lớn với một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhượng nhìn, của một gia đình hạnh phúc cùng Mai và đứa con nhỏ.
Vậy mà bằng ấy cái có, Tnú đã không cứu được mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù giết hại. Cuộc đời Tnú gắn liền với những đau thương mà không chỉ riêng anh gánh chịu. Cái đau đớn mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh Mái ấm gia đình từng là mơ ước của biết bao đôi thanh niên ấy bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù. Mai và con anh bị kẻ thù giết chết ngay trước mắt anh. Tnú không cứu được vợ, được con, đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng. Vì Tnú cũng chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí. Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng mà còn nói lên một chân lý sâu sắc và tàn nhẫn : khi một Tnú có ý chí mà tay không thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào ngạt và như đọng nắng quê hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt chính những bàn tay vẫn hằng ngày chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy.
Bài văn mẫu số 4
Mỗi nhà thơ, nhà văn đều có cho riêng mình một vùng đất gắn bó thiết tha. Đó là Tô Hoài yêu mến và trân trọng những vẻ đẹp của rừng núi và con người Tây Bắc hay Nguyễn Quang Sáng sống trọn đời mình với vùng đất Nam Bộ bình dị mà thân thương. Đến với Nguyễn Trung Thành, ta bắt gặp một tâm hồn gắn bó máu thịt với vùng đất Tây Nguyên, nơi có những đồi xà nu đại ngàn và những con người anh dũng, kiên trung. “Rừng xà nu” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành con người và mảnh đất anh hùng ấy. Bằng ngòi bút tài hoa và thấm đẫm yêu thương của mình, tác giả đã xây dựng hệ thống nhân vật vô cùng phong phú, đại điện cho lớp lớp những con người Tây Nguyên kiên cường, bất khuất trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, trong đó Tnú là hình tượng tiêu biểu nhất.
Sinh ra trong thời buổi đất nước bị giặc ngoại xâm lăng, từ nhỏ Tnú sớm chịu nhiều thiệt thòi khi mô côi cha mẹ, lớn lên trong sự yêu thương và chở che, đùm bọc của dân làng Xô Man. Có lẽ, cũng chính vì vậy mà tình yêu thương, gắn bó với làng quê luôn thường trực trong tâm hồn Tnú. Những ngày được cụ Mết truyền dạy về cách mạng, về Đảng, tuy còn nhỏ nhưng trong lòng luôn sục sôi khát khát ý chí làm cách mạng và đánh giặc cứu nước. Tnú muốn học chữ để giỏi giang, rồi lớn lên sẽ là người cán bộ thay anh Quyết, người cán bộ mà cậu luôn khâm phục. Ngày ngày học chữ, dù học thua Mai nhưng cậu không nản chí, ra suối lấy đá đập lên đầu tự nhắc nhở bản thân phải quyết tâm học hành, Tnú rất ý thức được tầm quan trọng của con chữ với đời sống chính mình và với cách mạng.
Khi còn bé, Tnú cũng rất thông minh, nhạy bén và dũng cảm khi đã giúp cho bao nhiêu cán bộ thoát khỏi tầm ngắm của địch. Khi làm nhiệm vụ, đi qua con suối, Tnú không chọn chỗ nước êm để đi vì tin rằng quân địch sẽ phục sẵn ở đó, cậu bé lựa những nơi có dòng nước thác chảy mạnh, bơi ngang mà tránh giặc. Trong lần bị giặc bắt, Tnú chấp mọi hiểm nguy, nuốt mảnh giấy ghi thông tin vào bụng chứ quyết không đưa cho giặc. Dù bị tra tấn dã man song vẫn không hề khai một mạnh mối nào, đứng hiên ngang chỉ vào bụng mà nói: “Cách mạng ở đây !". Dường như, bên trong vẻ ngoài bình thường của một cậu bé là một tâm hồn lớn, một con người dũng sĩ với những khí chất, tính cách của con người Tây Nguyên. Cậu như những cây xà nu của núi rừng, giữa bom đạn vẫn hiên ngang, là thế hệ tiếp nối những người đi trước mang theo cả niềm tin và sự tự hào của buôn làng.
Khi trưởng thành những phẩm chất anh hùng trong Tnú ngày càng được bộc lộ rõ nét hơn. Sau khi vượt ngục tìm về với buôn làng, Tnú chọn người bạn tuổi thơ từng gắn bó với mình làm vợ, những tưởng sẽ hạnh phúc bên gia đình nhưng ngờ đâu bọn địch dã man đã tàn nhẫn vùi lấp thứ hạnh phúc ấy. Bọn chúng tìm đến và bắt vợ con anh nhằm khiến anh phải ra mặt, chứng kiến sự dày vò người thân của bọn địch khiến anh đau khổ vô cùng. Khi mẹ con Mai chết, lòng Tnú như thắt lại, chẳng còn điều gì mất mát và đau đớn hơn là cái chết của những người mà mình yêu thương nhất: "Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay… Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn". Nỗi đắng cay giờ đây hóa thành nỗi căm phẫn, bọn giặc kia đã phá nát gia đình anh. Giặc bắt Tnú, chúng nhẫn tâm hành hạ anh một lần nữa, dùng dây rừng trói người lại, chúng tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười ngón tay anh. Mười ngón tay cháy rực như mười ngọn đuốc kia thực đau đớn biết nhường nào, nhưng Tnú không hề gì mà chỉ thấy nhói đau trong lòng "không cảm thấy cháy ở mười đầu ngón tay mà nghe lửa cháy ở trong lòng ngực, ở bụng". Bao sóng lòng giờ đây dồn lên trong tiếng thét "giết" như một lời căm phẫn tột cùng, một lời hiệu triệu tất cả nhân dân phải đứng lên hành động, giết chết lũ giặc bạo ngược kia, "chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo", không thể để yên cho một lũ ngang ngược hoành hành trên đất của buôn làng, của những ngôi nhà rông yên bình giữa núi rừng bạt ngàn, trù phú.
Bài văn mẫu số 5
Nguyễn Trung Thành là gương mặt tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam, sinh ra ở Quảng Nam nhưng nhà văn lại có tình cảm sâu đậm với mảnh đất Tây Nguyên. Nếu kháng chiến chống Pháp ông đã từng có tiểu thuyết đất nước đứng lên viết về mảnh đất và con người Tây Nguyên anh hùng được trao giải nhất giải thưởng Văn học Việt Nam 1945 - 1955 thì thời kì kháng chiến chống Mỹ ông lại có truyện ngắn Rừng xà nu thể hiện một cách hào hùng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Trong tác phẩm nhà văn thành công trong việc xây dựng một số hình tượng nghệ thuật trong đó hình tượng nhân vật Tnú là một biểu tượng đẹp đẽ, là một thành công nghệ thuật góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng tác phẩm.
Tnú là nhân vật chính của truyện ngắn. Vốn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, Tnú lớn lên nhờ sự đùm bọc nuôi dưỡng của dân làng Xô Man có lẽ vì thế mà hơn ai hết "Tnú gắn bó với dân làng và có những phẩm chất của dân làng". Bản chất của Tnú: chân thật, tốt bụng. Đúng như lời cụ Mết nói "đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta".
Ngay từ khi còn nhỏ Tnú đã thể hiện là một cậu bé gan góc, bướng bỉnh, rắn rỏi, mạnh mẽ. Những ngày ấy làng Xô Man bị kẻ thù khủng bố điên cuồng "không bữa nào nó không đi lùng, không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang rừng". Anh Xút bị giặc treo cổ lên cây vả đầu làng, bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo đầu súng vì đã vào rừng nuôi cán bộ nhưng những điều ấy không khiến cho Tnú sợ hãi. Tnú và Mai là hai đứa trẻ hăng hái nhất vẫn trốn ra rừng nuôi anh Quyết thậm chí đêm chúng còn ngủ lại rừng đề phòng giặc lùng còn có người dẫn cán bộ chạy. Được anh Quyết dạy học chữ, Tnú học thua Mai, nó tức đập vỡ bảng bỏ ra suối ngồi lấy đá đập lên đầu cho máu ròng ròng, làm liên lạc với anh Quyết, Tnú thường xé rừng mà đi, lựa chỗ thác mạnh mà bơi. Vượt lên trên mặt nước cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình. Khi rơi vào sự đột kích của giặc Tnú nuốt luôn lá thư vào bụng kiên quyết không khai, bọn giặc trói, đánh, tra khảo. Mỗi lần chúng hỏi Tnú lại đặt bàn tay lên ngực dõng dạc trả lời: "Nó nằm ở đây". Sau những lần như thế, tấm lưng nhỏ của Tnú lại vằn thêm những vết dao chém. Ba năm ở tù Tnú chịu đủ mọi đòn tra tấn nhưng không đau đớn bằng khi anh chứng kiến cảnh lũ ác ôn dùng gậy sắt đánh vợ và đứa con trai đánh ngã ngửa cho đến chết. Lòng căm thù khiến cho hai mắt của Tnú như hai ngọn lửa lớn, anh hét lên lao thẳng vào lũ lính bóp cổ thằng Dục, rồi dang rộng cánh tay như hai cánh lim che chở cho mẹ con Mai nhưng Tnú đã không cứu được vợ con vì anh chỉ có hai bàn tay trắng. Bản thân anh cũng bị bắt bị trói, bị cuốn giẻ tẩm dầu xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay như mười ngọn đuốc, lửa cháy đến đâu cái đau cái nóng trên mười đầu ngón tay lan đến từng thớ thịt của cơ thể. Cả về thể xác lẫn tinh thần, nỗi đau của Tnú lên đến đỉnh điểm. Vợ chết con chết bi thảm mười đầu ngón tay của Tnú không ngón nào không mất một đốt, bao nhiêu đau thương, bao nhiêu uất hận nén thành lòng căm thù. Đôi bàn tay đầy thương tích của Tnú vẫn có thể cầm được súng, bóp được cò, giết được giặc, anh vào bộ đội giải phóng quyết trả thù cho vợ con, cho lũ làng, cho quê hương.
Căm thù mãnh liệt nhưng con người của Tnú không chỉ có thù hận anh còn là người giàu tình cảm, biết yêu thương sâu sắc, ba năm đi bộ đội Tnú luôn nhớ da diết cảnh vật, con người, buôn làng, quê hương. Đạt danh hiệu chiến sĩ diệt Mỹ, được thưởng cho thành tích anh chỉ xin cấp trên cho về thăm làng Xô Man một đêm để được ăn bữa cơm độn củ, được rửa mặt bằng nước suối mát lạnh của làng, được thưởng thức một đêm cùng với dân làng – những người mà anh coi còn hơn cả ruột thịt. Hình ảnh Tnú chắc khác nào một cây xà nu trưởng thành của đất rừng Tây Nguyên từ đau thương mà mọc lên vững chãi, rắn rỏi, mạnh mẽ, cường tráng không bom đạn nào có thể tiêu diệt được.
Số phận và tính cách của nhân vật Tnú tiêu biểu cho người dân làng Xô Man với những phẩm chất đẹp đẽ của con người Tây Nguyên. Anh xứng đáng là một tấm gương cho cụ Mết giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Nhân vật Tnú là một hình tượng đẹp góp phần tô đẹp chủ đề và làm nên màu sắc sử thi cho truyện ngắn Rừng xà nu.
Bài văn mẫu số 6
Là một trong những nhà văn nổi bật trong nền văn học Việt nam qua thể loại truyện ngắn, Nguyễn Trung Thành đã mang tới độc giả những hình ảnh hùng vĩ, oai hùng nhất cả về khung cảnh và con người vùng đất Tây Nguyên qua tác phẩm Rừng Xà nu. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình ảnh của những cây xà nu “luôn hướng về phía ánh sáng” tựa như con người của Tnú. Tnú được xem là hình ảnh người con tiêu biểu của nhân dân Tây Nguyên luôn kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Trong giai đoạn đất nước trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt, đã có biết bao người anh hùng, chiến sĩ cán bộ không quản ngại xả thân vì sự nghiệp nước nhà. Nhân dân khắp nơi trên đất nước đều hòa chung không khí chiến đấu, từ vùng đất “Việt Bắc“ đáng mến, cho tới Tây Nguyên bạt ngàn, người dân trên dải đất hình chữ S đều luôn mang cao tinh thần chiến đấu, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù của dân tộc.
Nhân vật Tnú là một trong những nhân vật trung tâm của câu chuyện, bên cạnh cụ Mết, Mai, Dít tới bé Hen. Tnú lớn lên cùng dân làng Xô man. Dân làng đã nuôi dưỡng, đùm bọc và tiếp lửa tinh thần chiến đấu trong tâm trí của Tnú. “nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô man này nuôi nó”. Tuy anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, nhưng cuộc đời anh vẫn dành trọn tình thương của cả dân làng. Anh lớn lên trong những cánh rừng xà nu bạt ngạt, trong tiếng chày giã gạo của những cô gái, của những cụ già lão làng. Được thấm nhuần tư tưởng của Đảng, Tnú lớn lên đã luôn ý thức được con đường đi của Cách Mạng. Từ khi còn nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra là một người chiến sĩ nhí gan dạ. Tnú đã cùng Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết - một cán bộ cốt cán của nhà nước. Tuy nhỏ nhưng tiềm thức không hề bị khiếp sợ trước quân thù. Có lần vượt thác, chuẩn bị lên bờ thì họng súng đen ngòm đã chĩa vào gáy anh, thế nhưng anh quyết giữ bí mật của bức thư mà anh Quyết đã trao. Có lần anh bị giặc bắt, quân thù tra tấn dã man để hỏi “Cộng sản ở đâu”. Tnú đã quả quyết, ngang nhiên trả lời rằng “Cộng sản ở đây này”. Chẳng hề một chút lung lay, run sợ, anh kiên cường trả lời với tư tưởng tự hào nhất vì được đứng trong hàng ngũ của những người làm cách mạng.
Tnú còn là một người rất ham học, để thể hiện quyết tâm học lấy con chữ, Tnú đã dứt khoát hành động tự đập đá vào đầu, máu chảy ròng ròng khi anh thua Mai trong việc học hành. Thật đáng quý biết bao khi đất nước ta có những người con như Tnú, luôn luôn biết phấn đấu để trau dồi hiểu biết, phục vụ con đường giải phóng đất nước. Những tính cách ấy đã góp phần tạo nên một người anh hùng Tnú. Tnú lớn lên cường tráng như một cây xà nu. Mang trong mình tinh thần cứng rắn, kiên cường như cây xà nu, dù trên thân mình đã phải chịu biết bao đòn roi, dọc ngang vết chém nhưng anh quyết không lùi bước.
Phía sau lưng anh còn có một gia đình ấm êm, khi anh lớn lên và kết hôn cùng Mai - người bạn thời niên thiếu. Nhưng tiếc thương thay, những kẻ thù bạo tàn ấy đã cướp đi hạnh phúc của Tnú khi chúng đã giết hại vợ con anh. Nỗi đau này biết kể sao cho xiết. “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. .. bụng anh có lửa đốt”. Nỗi đau của riêng anh nhưng cũng là nỗi đau chung của biết bao nhân dân, khi đất nước loạn lạc, chiến tranh thì nỗi chia ly, tang tóc càng tăng lên. Tnú không cứu được vợ, phải chứng kiến cái chết của vợ con anh ngay trước mắt càng làm khắc sâu nỗi đau ấy. Hình ảnh mười đầu ngón tay bị đốt cháy bởi nhựa rừng xà nu như mười ngọn đuốc sáng, nhưng anh vẫn không lùi bước. Đó là ý chí sức mạnh của một người lính cách mạng đã được tôi luyện, rèn rũa bởi Đảng.
Không đắm chìm trong đau thương mất mát, nỗi đau thương ấy càng trở thành động lực đẩy cao tinh thần căm thù giặc của anh. Bị giặc bắt sau khi Mai chết, Tnú càng trở nên lo lắng khi không có ai tiếp tục lãnh đạo dân làng khi Đảng có lệnh. Anh vùng lên chiến đấu, khi bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn sẵn sàng cầm giáo, cầm súng để chiến đấu. Thà chết chứ không chịu đầu hàng, đôi tay anh vẫn kiên cường chiến đấu, xiết chết cổ họng tất cả những thằng Dục tàn ác hơn cả cầm thú. Anh đã trở thành điểm tựa cho cả dân làng Xô man, không hề khuất phục trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tnú từ khi còn là thiếu niên cho tới lúc trưởng thành, chưa bao giờ ngọn lửa cách mạng vụt tắt trong anh. Đôi tay anh đã chăm sóc, bảo ban biết bao thế hệ nhỏ. Đôi tay ấy đã kiên trì cầm phấn học con chữ, cầm đá ghè vào đầu vì trách bản thân mình kém cỏi, chỉ hiên ngang lên bụng để tuyên bố “Cộng sản ở đây”. Đôi tay ấy dù có mất đi mười ngón tay cũng vẫn không chịu từ bỏ, khi máu ngập tràn, mặn chát ở đầu lưỡi bởi nỗi đau, nhưng tay anh vẫn chiến đấu, vẫn vững vàng trên con đường đánh đuổi quân thù.
Nhân vật Tnú dưới tài năng bút pháp của Nguyễn Trung Thành đã trở thành một tượng đài trong lịch sử văn học và lòng độc giả. Anh là những kết tinh đẹp nhất của vẻ đẹp anh hùng, hào kiệt của người dân Tây Nguyên. Tinh thần “vì nước quên mình, thà chết chứ không chịu khuất phục” luôn sống mãi trong tinh thần của các anh chiến sĩ. Truyền thống tinh thần ấy mãi mãi là nét đẹp đáng quý, đáng phát huy trong muôn đời sau.
Bài văn mẫu số 7
Tnú là nhân vật trung tâm trong phẩm Rừng xà nu, đây là hình tượng nổi bật nhất, làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Tnú vừa là đại diện số phận, vừa là kết tinh của lòng yêu nước và những phẩm chất đẹp đẽ của người dân Tây Nguyên. Dù chỉ trong dung lượng ngắn ngủi, nhưng bằng nội lực dồi dào, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công hình tượng Tnú.
Tnú sớm mồ côi cha mẹ và lớn lên nhờ sự cưu mang của dân làng, bởi vậy Tnú là con của buôn làng, của núi rừng. Bởi vậy, tất cả những hành động anh hùng, dũng cảm của Tnú sau này đều là tình yêu thương và sự tri ân mà anh cho nguồn cội đã nuôi dưỡng, che chở cho mình.
Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng Tnú sớm bộc lộ những phẩm chất đẹp đẽ. Tnú giác ngộ cách mạng từ sớm, cậu sớm nuôi giấu cách mạng từ khi còn nhỏ. Không chỉ vậy Tnú còn hết sức dũng cảm, gan dạ, điều này được thể hiện trong cả cuộc sống cũng như khi hoạt động cách mạng. Trong cuộc sống, Tnú không bao giờ chọn chỗ bằng phẳng, dễ dàng để đi, mà lựa những chỗ thác mạnh bơi ngang, vượt lên mặt nước… Đặc biệt lòng dũng cảm được thể hiện rất rõ trong cách mà anh đối diện với kẻ thù. Khi bị giặc bắt trên đường liên lạc, Tnú lập tức nuốt thư vào bụng, thách thức sự đánh đập, tra tấn dã man của địch. Mặc dù tỏ ra lì lợm, ít nói, nhưng Tnú lại là một người giàu tình cảm và lòng yêu thương. Trong đêm anh Quyết ôm Tnú vào lòng, dù giả vờ ngủ nhưng những dòng nước mắt đã đong đầy nơi mắt. Những giọt nước mắt đó cho thấy sự nhận thức cũng như sự trào dâng lòng yêu nước mãnh liệt.
Khi đi lực lượng trở về lòng yêu nước, cũng như sự dũng cảm của Tnú càng được bộ lộ rõ hơn nữa. Ba năm rèn rũa, hoạt động cách mạng, đã tôi luyện và làm cho Tnú thực sự trưởng thành. Kết duyên với Mai, Tnú là trụ cột của gia đình đồng thời sau khi đi lực lượng về Tnú còn là trụ cột của dân làng Xô Man. Chính Tnú là người đã đi gùi đa về cho dân làng mài vũ khí. Tnú đã thổi bùng và mài sắc tinh thần đấu tranh, ý thức phản kháng để chống lại đế quốc Mĩ. Từ sự dũng cảm trong cá nhân mà Tnú đã khơi dậy và biến Tây Nguyên thành mảnh đất anh hùng.
Việc dân làng Xô Man mài vũ khí đã trở thành mối đe dọa với kẻ thù, bởi vậy chúng đã kéo đến làng hòng đàn áp. Và nhằm bắt được Tnú chúng đã bắt Mai và đứa con mới sinh của Tnú để uy hiếp anh. Chứng kiến vợ và con oằn mình chống lại những cơn mưa roi của kẻ thù, Tnú không thể kiềm chế đã xông ra để cứu vợ con dù biết chắc mình sẽ rơi vào cái bẫy của kẻ thù. Nỗi đau của những người thân, đã thổi bùng trong Tnú ngọn lửa căm thù: “Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn” đó là ngọn lửa lòng căm hận sâu sắc, đó cũng là khơi nguồn sức mạnh trong Tnú.
Nhưng dù mang trong mình sức mạnh Tnú cũng không thể cứu được vợ con, dưới cơn mưa roi tàn ác của kẻ thù, hai mẹ con Mai đã chết, đây là bi kịch, nỗi đau lớn nhất trong cuộc đời Tnú. Không bảo vệ được gia đình, mà chính Tnú cũng phải chịu sự tra tấn, hành hạ dã man. Kẻ thù thâm độc, đã sử dụng nhựa cây xà nu để đốt cháy những ngón tay anh. Hình thức tra tấn dã man, không để Tnú chết một cách nhanh chóng mà bắt anh chịu đựng nỗi đau về thể xác. Mười đầu ngón tay của Tnú trở thành ngọn đuốc rực sáng. Nhưng khi nỗi đau đã vượt ngoài giới hạn chịu đựng, anh không còn cảm thấy đau nữa: “Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón nay nữa … Nhưng trời ơi! Cháy, chết cả ruột gan đây rồi”. Sử dụng câu cảm thán với điệp từ đã diễn tả chân thực nỗi đau của Tnú phải chịu đựng. Nhưng đối lập với nỗi đau này là khả năng chịu đựng phi thường. Nếu ở trên tội ác của kẻ thù được tô đậm bao nhiêu thì ở dưới sự kiên trung bất khuất của Tnú được nhấn mạnh bấy nhiêu. Chính lúc tưởng như không thể chịu đựng được Tnú nghĩ đến đảng, cách mạng, lời hứa của mình với kháng chiến. Đó chính động lực tiếp thêm sức mạnh để Tnú vượt qua thử thách này.
Chính nỗi đau đó là chất xúc tác mạnh mẽ làm bật lên quyết tâm và sức mạnh của Tnú. Ngọn tử lan dần ra mười đốt cả mười ngón tay, rồi thấu tận tâm can Tnú. Chính lúc này ngọn lửa đã gặp lòng yêu nước, lòng căm thù giặc làm bật lên ý chí chiến đấu và tinh thần quật khởi ở Tnú thong qua tiếng thét dữ dội: “Giết”. Tiếng thét của Tnú là mệnh lệnh tiến công, là kết tinh từ ý chí, nguyện vọng chung của cộng đồng.
Sau khi bị tra tấn dã man, Tnú tiếp tục đi lực lượng, trở lại hoạt động cách mạng, dù mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt, anh vẫn hoạt động bên bỉ, anh dũng. Đến cuối tác phẩm, tác giả đã ghi lại chiến công hiển hách của Tnú khi chỉ bằng đôi tay ấy anh đã giết chết tên chỉ huy địch. Đôi bàn tay Tnú là một hình tượng nghệ thuật ám ảnh, giàu sức biểu tượng. Đó là đôi bàn tay tín nghĩa, trách nghiệm khi bỏ thư vào miệng, bảo đảm bí mật cách mạng. Là đôi bàn tay tình nghĩa khi cầm lấy tay Mai để tạo dựng hạnh phúc gia đình, để yêu thương, bao bọc mẹ con Mai khi bị giặc tra tấn. Đôi bàn tay còn là biểu tượng của những chiến công, khi Tnú giết chết tên chỉ huy giặc. Để Tnú giết chết tên giặc bằng đôi bàn tay đã bị hủy hoại, tác giả đã cho thấy kẻ thù có thể hủy hoại thể xác nhưng không thể hủy hoại lòng căm thù giặc, cũng nhưng quyết tâm đánh giặc của nhân dân ta. Qua hình ảnh đôi bàn tay Nguyễn Trung Thành viết lên số phận, tâm hồn, con đường đi của cả cộng đồng Tây Nguyên.
Nhân vật Tnú kết tinh đầy đủ số phận đau thương, tinh thần quật khởi và những phẩm chất tốt đẹp của người dân Tây Nguyên. Ở anh vừa có vẻ đẹp và những đặc điểm chung của người chiến sĩ cộng sáng lại vừa có điểm riêng khỏe khoắn, hồn hậu và có phần hoang dã, do mảnh đất Tây Nguyên hun đúc mà thành. Bước ra từ câu chuyện của cụ Mết, Tnú như một người anh hùng trong sử thi, được người dân yêu quý. Nhưng người anh hùng đó không xa xôi mà hòa nhập, gần gũi, bắt nhịp vào thời đại mới, mang sức mạnh của dân tộc.
Bài văn mẫu số 8
Khi đất nước lâm nguy, làng mạc hoang tàn, nhà cửa đổ nát thì đâu đó lại xuất hiện những anh hùng vùng lên chống giặc. Không một ai có thể nhìn giặc tràn đến phá quê hương, cướp lãnh thổ mà ngồi yên được. Lòng căm thù giặc đã thấm vào tận xương tủy của con người Việt Nam ta, chỉ chờ khi có cơ hội làn sóng yêu nước ấy lại nổi lên, quyết tâm đánh giặc bảo vệ Tổ quốc, giữ từng tấc đất, từng đồng lúa mùa ngô. Và trong những năm tháng đất nước khó khăn như thế ở vùng Tây Nguyên lại xuất hiện những con người gan dạ, kiên cường, mang tình yêu quê hương đất nước sâu sắc, ta có thể thấy rõ qua nhân vật Tnú trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Nguyễn Trung Thành là một nhà văn trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp và giai đoạn chống Mỹ. Ông gắn bó mật thiết với vùng đất Tây Nguyên, yêu mến, hiểu một cách sâu sắc về con người và mảnh đất này. Ông cũng là người đầu tiên khai thác "vỉa ngầm" văn hóa Tây Nguyên, là cây bút văn xuôi hay nhất về miền đất rừng núi ấy. Rừng xà nu là bản hùng ca đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của người dân Tây Nguyên. Tác phẩm ra đời năm 1965 ở khu căn cứ của quân giải phóng ở miền Trung Trung Bộ. Đây là thời điểm diễn ra cuộc đổ quân đầu tiên của đế quốc Mỹ, ngày bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam. Rừng xà nu được viết trong những ngày sôi sục, nghiêm trang, nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt, hào hứng, hào hùng: dân tộc ta bước vào cuộc chạm trán mất còn trực tiếp với đế quốc Mỹ (Nguyên Ngọc). Tác giả viết Rừng xà nu như một biểu tượng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của đồng bào Tây Nguyên nói riêng và dân tộc ta nói chung. Tác phẩm được in trong tập "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc".
Tại sao có thể nói tính cách số phận và con đường đi của nhân vật Tnú mang ý nghĩa đại diện cho cộng đồng, cho nhân dân, số phận mỗi cá nhân thống nhất với cộng đồng? Bởi vì Tnú điển hình cho con người Tây Nguyên. Cuộc đời Tnú như một cây xà nu đã trưởng thành giữa đại ngàn: đạn bắn không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Tnú sớm mồ côi cha mẹ, lớn lên bằng tình yêu thương, bao bọc của buôn làng dưới những tán xà nu. Ngay từ thuở nhỏ, Tnú đã có phẩm chất của một chiến sĩ dũng cảm. Tnú được sống gần anh Quyết một cán bộ cách mạng, đó là điều kiện có ý nghĩa định hướng cho cuộc đời cách mạng Tnú. Chính điều đó khiến Tnú có ý chí rèn luyện, phấn đấu để đạt được ước mơ của mình là thay anh Quyết làm cán bộ lãnh đạo cách mạng ở địa phương. Ở chàng trai này còn hội tụ những phẩm chất để trở thành người anh hùng trong thời đại cách mạng, đúng như cụ Mết nói "đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta. Khi giặc khủng bố gắt gao, cán bộ Quyết phải dạt vào rừng. Bà Nhan, anh Xút đi tiếp tế bị giết thế nhưng Tnú và Mai vẫn hăng hái vào rừng tiếp tế, làm liên lạc cho anh Quyết. Học chữ thua Mai thì Tnú bỏ ra suối và tự trừng phạt mình bằng cách cầm một hòn đá đập vào đầu, chảy máu ròng ròng. Đằng sau hành động trẻ con bồng bột ấy là một cá tính quyết liệt, mạnh mẽ rất đặc trưng của người Tây Nguyên. "Học chữ thì Tnú hay quên nhưng đi đường thì đầu sáng lạ lùng. Khi đi rừng, Tnú không bao giờ đi đường mòn… khi đi qua suối nó chọn chỗ nước chảy xiết vì qua chỗ nước êm thằng Mỹ Diệm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó không ngờ. Đi liên lạc bị giặc bắt, anh kịp nuốt bức thư để phi tang. Mỗi lần bọn giặc hỏi...cứ như vậy máu trên lưng Tnú thẫm đẫm, đặc quện như nhựa xà nu". Từ đó chúng ta cảm nhận được một tấm lòng trung thành, tận tụy với cách mạng của cậu bé Tây Nguyên. Phải chăng đó cũng là tấm lòng của người Tây Nguyên dành cho cách mạng.
Tnú mang theo lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng. Trái tim vời vợi yêu thương và tinh thần anh dũng ấy lại được soi đường bởi ngọn đuốc của Đảng. Thuở nhỏ, nghe lời anh Quyết, Tnú đã quyết tâm học chữ để làm cách mạng, cậu đi tiếp tế cho cán bộ, cùng dân nuôi cán bộ. Niềm tin sắt son vào Đảng, vào cách mạng đã dẫn dắt Tnú từng bước trưởng thành để rồi một ngày kia anh thực sự hòa mình vào dòng thác cách mạng, trở thành cán bộ chủ lực của lực lượng giải phóng quân miền Nam. Tnú điển hình cho tính cách con người Tây Nguyên nghĩa là tính cách, phẩm chất Tnú có nhiều điểm tương đồng với tính cách và phẩm chất con người Tây Nguyên. Nói đến Tây Nguyên người ta lại nghĩ đến những con người dũng cảm và giàu tình cảm gắn bó.
Song, Tnú còn là nhân vật điển hình cho con đường đấu tranh Cách mạng. Khi lớn lên, chính Cách mạng đã hun đúc ý chí và nghị lực phi thường cho Tnú để từ đó Tnú trở thành người anh hùng của buôn làng. Trong một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc bắt, tra tấn trong tù ngục. Tnú ở tù ba năm sau đó vượt ngục để trở về cội nguồn, trở thành một chàng trai rắn chắc và đẹp đẽ như chàng dũng sĩ trong truyền thuyết như cây xà nu cường tráng nhất của đại ngàn. Chàng trai anh hùng ấy đã có mối tình lãng mạn với Mai- cô gái xinh đẹp, dịu dàng. Tưởng chừng như đã hạnh phúc cho đến một ngày bọn giặc bắt vợ con anh đánh đập, hành hạ dã man để anh phải lộ diện. Chứng kiến cảnh giặc tra tấn lúc đó sự sống của bản thân không thể ngăn nổi bước chân của tình yêu thương và trách nhiệm. Có lẽ đó là một quá trình tự nhận thức chân lý, khi nỗi đau lên đến đỉnh điểm con người ta không thể đứng nhìn hạnh phúc phải nhỏ máu.
Tnú bị kẻ thù bắt và đốt mười ngón tay bằng nhựa xà nu "Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc". Trong một đêm, Tnú đã phải chịu sự tra tấn kinh khủng về tinh thần và nỗi đọa đày về thể xác. Đó là bi kịch đau thương nhất của một con người có thể phải trải qua. Khi bị địch bắt trói chuẩn bị tra tấn, anh vẫn nghĩ cho cách mạng. Kẻ thù đốt mười ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt ruột gan nhưng Tnú quyết không kêu nửa lời . Tnú có thừa lòng dũng cảm, tình yêu thương và sức mạnh thể chất nhưng anh không bảo vệ được hạnh phúc của mình vì chỉ có hai bàn tay trắng. Nhưng với sự gan góc, kiên cường của người dân Tây Nguyên thì không có gì là không thể vượt qua.
Qua miêu tả Tnú Nguyễn Trung Thành chạm khắc vào tâm trí người đọc hình ảnh con người ưu tú nhất của Tây Nguyên mang tầm vóc sử thi hiện thân cho vẻ đẹp của một thời đại chống Mỹ cứu nước. Lòng căm thù giặc của Tnú mang đậm chất Tây Nguyên. Tnú mang trong mình ba mối thù: mối thù bản thân, mối thù gia đình và mối thù của quê hương.mà sau này ngón tay chỉ còn hai đốt anh vẫn quyết tâm trả thù. Cuối cùng với sự kiên cường, dũng cảm, lòng quyết tâm cùng nhau đánh giặc Tnú và nhân dân Tây Nguyên đã đuổi được kẻ thù.
Bài văn mẫu số 9
Tác phẩm Rừng xà nu thành lập trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt năm 1965. Tác phẩm tựa bản anh hùng ca đậm màu sắc sử thi về con người Tây Nguyên trong kháng chiến. Nguyễn Trung Thành đã dựng lên một vài hình tượng nhân vật điển hình cho các lớp thế hệ dân làng Xô Man. Trong đó, hình tượng nhân vật Tnú là tiêu biểu và được tác nhái xây dựng rất thành công.
Tnú là người Strá, anh mồ côi bố mẹ từ nhỏ, anh lớn lên trong vòng tay yêu thương bao bọc của người dân làng Xô man. mang anh, dân làng Xô man và cụ Mết đã trở thành gia đình thứ hai của anh.
Tnú được xem là nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm, cũng như hình tượng của rừng xà nu đại nghìn. Nguyễn Trung Thành đã khéo léo xây dựng nhân vật này với các tính cách thức, đặc điểm mang đậm dáng dấp Tây Nguyên. Tnú là người sở hữu số phận đau thương, mang cả những nỗi đau thương riêng và nỗi đau chung của dân làng Xô Man. Tnú mang ba mối thù lớn, của bản thân, gia đình và của quê hương. Tnú tựa một cây xà nu trưởng thành giữa đại ngàn xà nu. khi người dân làng Xô Man chịu mất mát đi anh Quyết, anh Xút, bà Nhan… thì Tnú cùng với nỗi đau chứng kiến người thân, gia đình bị sát hại. “Tnú không cứu được vợ con”, cụ Mết nhấn mạnh phổ quát lần nỗi đau đó. rút cuộc, Tnú còn với nỗi đau quê hương. Tnú chứng kiến quê hương bị chà đạp, khi không bị tàn phá. Tnú cùng con người và cánh rừng xà nu đều “nằm trong tầm đại bác của giặc”. cho nên, anh là tụ hội của đa số nỗi đau thương của mảnh đất Tây Nguyên.
Tnú dù rằng học rất chậm “học chữ o thì quên chữ a” nhưng lại với được sự bền chí và kiên nhẫn. Tnú quyết tâm ghi nhớ lấy lời của anh Quyết “Phải học chuyên nghiệp mới khiến được cán bộ giỏi” nên Tnú đã phấn đấu để học hành thật phải chăng. Sau khi Tnú vượt ngục tù trở về làng, anh như 1 cây xà nu lớn lớn, vạng vỡ vạc. Anh biểu trưng cho cả dân tộc xô man, cho rừng xà nu vẫn kiên cường đến cộng để chống lại sự tàn phá rùng rợn của kẻ thù. chốc lát Tnú chứng kiến cảnh vợ và con chết trước mặt mình, lòng căm hờn trong anh sôi lên sùng sục, “hai mắt như 2 ngọn lửa lớn”. Anh đã lao tới để cứu mẹ con Mai nhưng không cứu được, anh còn bị bắt và tra tấn dã man. Hình ảnh đôi bàn tay Tnú bị thiêu cháy làm người đọc bị khiếp sợ “một ngón, hai ngón, ba ngón cháy rồi lại bén rất nhanh, trong tích tắc mười ngón tay Tnú như mười ngọn đuốc sống”. Anh chịu đựng bao nhiêu đau đớn về thân xác và ý thức nhưng lòng căm thù trong anh vẫn còn cháy rừng rực.
khi đã được tham gia lực lượng của cách mạng, Tnú là 1 người tôn trọng kỉ luật đề ra. Tuy rất nhớ quê hương, nhớ dân bản nhưng Tnú chỉ trở về thăm quê hương khi sở hữu giấy phép, trong giấy ghi được về bao nhiêu ngày thì anh chỉ về vỏn vẹn đúng số ngày quy định. mang anh tôn trọng kỉ luật, tôn trọng cấp trên là đang tôn trọng chính mình.
Hình ảnh Tnú được Nguyễn Trung Thành vun đắp cùng lúc kế bên hình ảnh rừng xà nu ngút ngàn, kiên cường bất khuất chắc chắn mang dụng ý. Bởi Tnú chính là biểu trưng của mảnh đất Tây Nguyên anh hùng, của rừng xà nu văng mạng. Tác kém chất lượng đã dựng nên 1 hình tượng người lính đầy anh dũng, kiên cường. Người đội viên đấy được nuôi dưỡng và to lên trong mẫu nôi cách mệnh. Người chiến sĩ với tên Tnú ấy đã để lại trong lòng người đọc một sự thán phục về tinh thần chống chọi và tình yêu quê hương quốc gia.
sở hữu việc xây dựng hình tượng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng và biểu đạt diễn biến tâm lí nhân vật. Qua nhân vật Tnú, người đọc càng hiểu hơn về tinh thần tranh đấu kiên cường , bất khuất của con người Tây Nguyên những năm kháng chiến chống Mỹ.
Bài văn mẫu số 10
"Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành là một kiệt tác văn chương thời chống Mỹ in đậm khuynh hướng sử thi hào hùng.
Trong thế trận chiến tranh nhân dân thần kì của làng Xô Man, nhân vật Tnú mang tầm vóc một dũng sĩ phi thường đã để lại trong lòng ta nhiều rung cảm và ngưỡng mộ.
Có thể nói, nhân vật trung tâm của truyện "Rừng xà nu" là Tnú. Trong nhà ưng, xung quanh bếp lửa hồng, một đêm mưa có mặt đông đủ lũ làng, cụ Mết đặt bàn tay chắc nịch lên vai Tnú giới thiệu: "... nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm... Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng "bụng nó sạch như nước suối làng ta". Tnú vốn là một chú bé giàu cá tính. Ở trong rừng học chữ với anh Quyết, nó học không bằng Mai..., nó nổi nóng "đập bể cái bảng nứa...", bỏ ra ngồi ngoài suối suốt ngày, rồi nó cầm một hòn đá "tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng". Chữ thì Tnú hay quên, nhưng đi rừng, đi đường núi thì "đầu nó sáng lạ lùng". Giặc vây ráp, phục kích, Tnú trèo lên cây cao nhìn khắp mọi phía, "xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây". Vượt sông vượt suối, Tnú lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, nó "cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình", và Tnú biết, "qua chỗ nước êm thằng Mĩ - Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ". Khi chẳng may sa vào tay giặc, họng súng của thằng giặc phục kích "chĩa vào tai lạnh ngắt", Tnú đã nhanh trí "nuốt luôn cái thư" của anh Quyết gửi về huyện trong một ngọn lá dong. Lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của bọn giặc, nhưng Tnú vẫn bất khuất hiên ngang. Ba năm bị tù trong ngục Kông Turn, Tnú đâ vượt ngục trở về. Tnú đã đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi dân làng Xô Man trước lúc anh tử thương. Anh Quyết đã dặn? "Tnú phải học chữ giỏi, thay tui làm cán bộ". Lần thứ hai, Tnú lại lên núi Ngọc Linh, không phải đi lấy đá trắng về làm phấn như ba năm trước, mà là đi lấy một gùi đá mài. Làng Xô Man đã chuẩn bị khởi nghĩa: phát rẫy trồng pom-chu xanh cả núi rừng, đêm đêm cả làng thức, mài giáo mác. Tnú đã trở thành chỉ huy đội du kích, làm cho thằng Dục ác ôn lồng lên, gầm lên. "Con cọp đó mà không giết sớm, nó làm loạn rừng núi này rồi!". Vợ con anh đã bị giặc bắt, tra tấn dã man cho đến chết. Tnú cùng đội du kích rút vào trong rừng, anh đã nghiến răng "bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay". Đôi mắt của anh trở thành "hai cục máu lớn". Thương xót và căm thù tột độ, Tnú không kìm nổi lòng mình nữa, với hai bàn tay không, anh đã nhảy xổ vào lũ giặc mong cứu được vợ con. Tnú là một con người gang thép. Lũ giặc đã trói anh bằng dây rừng, dùng giẻ tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay Tnú. Ngọn lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu mặn chát ở đầu lưỡi "cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi? Cháy, không, Tnú sẽ không kêu? Không?" Ngọn lửa xà nu và độ nóng của nó đã soi sáng lòng trung thành vô hạn, đã tôi luyện khí phách lẫm liệt của Tnú lên tầm vóc phi thường vĩ đại? Khi Tnú thét lên một tiếng dữ dội cũng là lúc tiếng chân "rầm rập" quanh nhà ưng, nhiều tiếng thét dữ dội hơn... Nhà ưng ào ào chuyển động. Tiếng hô của cụ Mết vang lên: "Chém! Chém hết!". Và lửa đã cháy khắp rừng...
Mẹ con Mai đã bị giặc giết. Lưng Tnú đầy vết dao của giặc chém. Mười ngón tay của anh, ngón nào cũng bị thằng Dục đốt cháy mất một đốt. Bà Nhan, anh Xút, anh Quyết,... những người thân yêu của anh đã bị giặc giết. Vết thương lành, Tnú đi tìm cách mạng, đi Giải phóng quân để tìm diệt những thằng Dục ác ôn, đứa thì ở trong đốn, đứa thì ngoan cố chui xuống hầm ngầm...
Tnú còn có một tâm hồn đẹp, chất phác, trong sáng. Tâm hồn anh vẫn ôm ấp hình bóng quê hương. Sau ba năm đi Giải phóng quân đánh giặc về thăm làng một đêm, cái gốc cây bên đường gợi lên trong lòng anh một kỉ niệm về Mai, "kỉ niệm đó cắt vào lòng anh một nhát dao nứa". Tnú yêu làng, yêu những hố chông, những giàn thò sắc lạnh của làng anh, yêu con nước mát lạnh,... Anh nhớ nhất làng, nhớ day dứt lòng anh suốt ba năm chính là "tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi...".
Tnú mang tầm vóc như một dũng sĩ trong sử thi. Lòng trung thành, khí phách anh hùng, tinh thần lẫm liệt bất khuất của Tnú làm chúng ta ngưỡng mộ; tâm hồn chất phác, trong sáng, thủy chung của anh đã làm cho chúng ta xúc động, yêu thương. Nguyễn Trung Thành xây dựng nhân vật Tnú bằng tất cả sự chắt lọc tâm hồn, tưởng như ông không viết, ông không tả... mà hình như, ông là một nghệ sĩ đúc tượng Tnú, một anh hùng thời đại bằng một chất liệu siêu kim loại!
"Rừng xà nu" là một truyện ngắn thấm đẫm màu sắc sử thi, huyền thoại. Hình thức kể chuyện qua nhân vật cụ Mết già làng gợi lên không khí thiêng liêng cổ truyền. Mái nhà ưng là nơi tụ hội của dân làng Xô Man, cũng là nơi để họ trừng trị lũ ác ôn khát máu, lũ tay sai Mỹ-Diệm. Rừng động, lửa cháy, tiếng cồng âm vang, đại bác giặc, cây xà nu đổ ào ào như một trận bão, tiếng mài giáo mác... Tất cả thật hào hùng, bi tráng. "Rừng xà nu"đã nêu cao một chân lí cách mạng: "rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy. Sau này tao chết rồi,bay còn sống phải cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!". Qua chủ đề ấy, cây xà nu, Tnú và những người dân làng Xô Man hiện lên mang tầm vóc dũng sĩ, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng trong thời đại Hồ Chí Minh.
Bài văn mẫu số 11
Nhà văn Nguyễn Trung Thành như một người con của mảnh đất Tây Nguyên với những cánh rừng đại ngàn. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất phải kể đến là truyện ngắn “Rùng xà nu”, tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Nhân vật Tnú hiện lên, đại diện cho lớp người Xô Man kiên cường, bất khuất trước chiến tranh xâm lược.
Tnú từ nhỏ đã mồ côi, thiếu thốn tình cảm của cha mẹ. Nhưng bù lại, Tnú được dân làng bao bọc, chăm sóc. Bởi vậy mà Tnú sớm có lòng yêu thương nhân dân, làng xóm: “có cái bụng thương núi, thương nước”. Từ khi còn là một cậu bé, Tnú được cụ Mết truyền dạy: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn nước non này còn”. Bởi thế, cậu bé con ngày nào luôn ý thức được lí tưởng sống của buôn làng, luôn tin tưởng đi theo con đường Cách mạng.
Vì vậy dù còn nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra là một người chiến sĩ nhí gan góc táo bạo, đầy quả cảm. Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù,, Tnú đã cùng với Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết – một cán bộ trung kiên của Đảng. Tnú có cái đầu sáng lạ lùng trong việc tìm đường rừng để đưa thư cho anh Quyết. Có lần vượt qua thác, chuẩn bị lên bờ thì họng súng đen ngòm đã chĩa vào gáy lạnh ngắt.
Tnú kịp nuốt lá thư của anh Quyết vào bụng bảo đảm bí mật. Tnú bị giặc giam cầm ở ngục tù với biết bao đòn roi, thương tích. Địch tra tấn hỏi “Cộng sản ở đâu?” Tnú đã không ngần ngại đặt tay lên bụng và nói: “Cộng Sản ở đây này!”. Và lưng Tnú lại hằn lên những vết dao chém ngang dọc của kẻ thù. Công việc khó khăn và đầy nguy hiểm là vậy nhưng Tnú đã làm rất tốt để dân làng Xô man mãi tự hào ”Năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt hoặc bị giết ở trong rừng”.
Trong việc học, Tnú còn là một người nghiêm khắc với bản thân, có ý chí, nỗ lực, quyết tâm không ngừng nghỉ. Khi học chữ thua Mai, Tnú đã tự trừng phạt cái tội hay quên của mình: “cầm hòn đá tự đập vào đầu mình máu chảy ròng ròng”. Tnú thực sự đã mang trong mình những tố chất cần có để mai này trở thành một người chiến sĩ Cộng Sản trung kiên, anh dũng.
Ba năm sau, Tnú vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô man đánh giặc. Mai – người bạn từ thuở thiếu thời – nay đã là vợ của Tnú và đứa con là kết quả của mối tình đẹp ấy. Song kẻ thù tàn bạo đã dập tan mái ấm bé nhỏ của Tnú.
Chúng đã giết vợ con Tnú. Tnú trước cái chết của vợ con hoàn toàn trở nên bất lực: “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy… bụng anh có lửa đốt. Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Căm thù, Tnú nhảy vào giữa đám lính, hai cánh tay như cánh gỗ lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.
Nhưng không còn kịp nữa! Tnú bị bắt. Trước cái chết cận kề, Tnú không hề run sợ mà anh cảm thấy mình thật bình thản vì giờ gia đình anh đã không còn. Duy còn một điều làm Tnú day dứt và băn khoăn nhất chính là làng Xô man của mình. Ai sẽ cùng dân làng đánh đuổi quân giặc? Ai sẽ cùng dân làng đi theo lí tưởng của cụ Hồ? Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình nữa. Giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của Tnú.
Đó là bàn tay của trung thực, tình nghĩa, từng cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho; từng đặt lên bụng mình mà nói: Cộng sản ở đây này”. Bàn tay ấy cũng đã từng được Mai nắm chặt mà khóc bằng những giọt nước mắt nóng bỏng yêu thương đồng cảm, lúc Tnú vượt ngục trở về… Giặc đã đốt mười đầu ngón tay Tnú để thiêu rụi ý chí đấu tranh của dân làng Xô man. Nhưng ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô man lại bùng cháy.
Tnú không kêu van khi bị lửa thiêu ngón tay, mà Tnú đã thét lên một tiếng “Giết”. Người Xô Man nhất nhất đồng loạt vùng dậy giết giặc. Đó là sự nổi dậy đồng khởi làm rung chuyển núi rừng, bàn tay trở thành chứng tích của tội ác và lòng hận thù mà Tnú mang theo suốt cả cuộc đời. Lòng hận thù ấy đã biến bàn tay Tnú thành ngọn đuốc châm bùng lên ngọc lửa nổi dậy của dân làng Xôman.
Bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng để Tnú lên đường rửa hận. Và cuối cùng với chính bàn tay ấy, Tnú đã xiết vào cổ họng tất cả những thằng Dục tàn ác hơn cả dã thú. Từ đây, Tnú đã vượt qua mọi đau thương và bi kịch cá nhân, tham gia lực lượng giải phóng quân để quét sạch tất cả những thằng Dục, kẻ thù không đội trời chung với vợ con anh – còn tồn tại trên mảnh đất quê hương. Khi đã trở thành chiến sĩ giải phóng quân, Tnú là một cán bộ có tinh thần kỷ luật cao: tuy nhớ quê hương gia đình, nhưng phải cấp trên cho phép mới về đúng một đêm như quy định trong giấy phép.
Nhân vật Tnú tiêu biểu của người anh hùng đại diện cho số phận và con đường đi của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại đấu tranh giải phóng. Xây dựng nhân vật Tnú cho thấy được nét tài hoa của nhà văn Nguyễn Trung Thành khi viết về con người Tây Nguyên.
Bài văn mẫu số 12
Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng, với Nguyễn Trung Thành đó là Tây Nguyên. Ông đã có rất nhiều những tác phẩm viết về mảng đề tài này, đặc biệt là hình ảnh của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rừng Tây Nguyên.
Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành là truyện ngắn “Rừng xà nu”, tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Trong số những con người hiên ngang bất khuất của làng Xô Man nổi bật lên là hình ảnh Tnú. Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thể qua lời kể của già làng bên bếp lửa nhà ưng.
Nhìn lại chặng đường đời của Tnú, chúng ta có thể dễ dàng thấy hiện lên hình ảnh một Tnú trước và sau khi đứng lên cầm vũ khí. Trước khi cầm vũ khí, ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan góc, dũng cảm biểu lộ một tính cách táo bạo mạnh mẽ. Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm. Cậu thật sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ nguỵ ít khi phục kích ở chỗ nước chảy xiết.
Người đọc cảm thấy một cái gì thật đáng yêu ở sự quan tâm học chữ không chịu thua kém ai của Tnú. Cậu bé này dám lấy đá đập vào đầu mình khi học cái chữ không sáng bằng Mai. Và đặc biệt sự gan dạ dũng cảm của Tnú khi bị giặc bắt, chú bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và nói: “Cộng sản ở đây này”. Mặc cho những vết dao chém dọc ngang trên tấm lưng bé nhỏ Tnú vẫn không khai báo, vẫn gan dạ kiên cường. Trước những trận đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù, Tnú thật may mắn khi được học cái chữ và được giác ngộ cách mạng từ rất sớm.
Khi thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu biết được tôi luyện qua nhiều thử thách. Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng. Theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần nữa anh đã đi 3 ngày đường lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà là để mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy.
Không chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi, Tnú còn có một cuộc sống hạnh phúc với tình yêu của Mai, với đứa con mới chào đời. Nhưng quãng thời gian hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, buôn làng còn chưa kịp cầm vũ khí. Tnú và thanh niên trong làng phải trốn vào rừng để rồi một mình Tnú lại xông ra mong che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của kẻ thù, nhưng cả hai đều không sống được.
Cảnh tượng về cái chết đau thương trong đêm ấy cứ trở đi trở lại trong lời kể của già làng và dòng hồi ức đau đớn của anh. Không những không cứu được vợ con, Tnú còn bị kẻ thù đốt cháy mười đầu ngón tay “Mỗi ngón chỉ còn hai đốt…. không mọc lại được”. Nỗi đau thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản dị vừa sâu sắc của cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn lao biết bao. Hình ảnh Tnú hiện lên như những anh hùng thời nào trong các khan, trong các trường ca Tây Nguyên. Khi đốt cháy 2 bàn tay của Tnú kẻ thù muốn dập tắt ý chí phản kháng, muốn tiêu diệt khát vọng chiến đấu của người dân Xô Man. Chúng muốn người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay trong kiếp nô lệ thấp hèn dưới lưỡi gươm và nòng súng tàn bạo của chúng.
Nhưng Tnú và người dân làng Xô Man không cam chịu khuất phục, mà ngược lại họ đã phản kháng quyết liệt. Họ đã biết vượt lên đau thương để vùng lên cầm vũ khí tự giải phóng mình. Lửa đã thiêu cháy mười đầu ngón tay Tnú, lửa bùng cháy trên mười đầu ngón tay tẩm nhựa xà nu. Nhưng Tnú không thấy đau đớn, anh chỉ thấy lửa cháy ở trong lòng - ngọn lửa chiến đấu sẽ thiêu cháy kẻ thù. Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã vang vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng hét ấy như khơi dậy cao độ lòng căm thù giặc của cả buôn làng.
Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất. Đêm ấy lửa cháy suốt trong bếp lửa nhà ưng. Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cái đêm nổi dậy ấy thật hào hùng, sôi động: “Tiếng chiêng nổi lên, đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn suốt đêm nghe cả rừng Xôman ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng. Cái đêm nổi dậy ấy đâu chỉ là của dân làng Xôman mà là sự lớn dậy phi thường của cả 1 cộng đồng, dân tộc. Dường như trong đêm ấy đang sống lại cái không khí linh thiêng hào hùng của những thiên sử thi Tây Nguyên”
.
Một điều không thể thiếu khi nhắc tới cuộc đời của Tnú đó chính là hình ảnh hai bàn tay của anh. Đôi bàn tay bị đót cháy của Tnú đã nhóm lên ngọn lửa căm thù giặc sâu sắc của dân làng Xôman, nó còn soi sáng cuộc đời anh. Anh đã thay mặt người dân làng Xôman lên đường theo kháng chiến đi tìm những thằng Dục khác.
Bởi lẽ không phải ngẫu nhiên tác giả lại để cho Tnú kể với dân làng mình sự đối đầu của anh với kẻ thù sau này: “Tôi nói: này tao có súng đây, tao có cả dao găm đây nhưng tao không giết mày súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục. Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ mày thôi”. Nhà văn đã cố tình tô đậm hình ảnh đôi bàn tay Tnú - đôi bàn tay có cả một lịch sử, một số phận.
Lúc còn nhỏ, đôi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù làm nương phát rẫy. Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chứ không sáng dạ bằng Mai. Và đôi bàn tay ấy dám chỉ vào bụng mình mà nói với quân giặc “Cộng sản ở đây này” khẳng định lòng trung thành với cách mạng. Lớn lên đôi bàn tay xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu thương và cũng đôi bàn tay ấy xé tấm đồ làm nịu cho đứa con thơ dại.
Lửa đốt cháy mười đầu ngón tay để rồi mãi mãi chỉ còn hai đốt không bao giờ mọc lại được….. cho nên Tnú muốn dùng đôi bàn tay ấy để giết chết kẻ thù. Bao uất hận căm hờn đã dồn lên đôi bàn tay kia, nó đã trở thành biểu tượng cho ý chí bất khuất, cho sức sống mãnh liệt của Tnú và người dân làng Xôman.
Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đôi bàn tay nhưng không thể tiêu diệt được sức mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người họ. Đó là ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng. Đó là một dân tộc kiên cường dũng cảm như những khu rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào bị thương mà vẫn xanh tươi bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời.
Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu biểu của con người mang đạm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên. Và qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.
Có thể nói qua thiên truyện ngắn xuất sắc này của Nguyễn Trung Thành, người đọc càng thêm hiểu và thêm trân trọng con người Tây Nguyên với biết bao phẩm chất thật đẹp, thật cao quý.
Bài văn mẫu số 13
Rừng xà nu của tác giả Nguyễn Trung Thành được nhiều người đánh giá là bản sử thi bi tráng và anh hùng của dân tộc. Trong chiến tranh kháng chiến chống Mĩ của làng Xô Man, Tnú nhân vật chính để lại nhiều ấn tượng cho người đọc về con người Tây Nguyên anh hùng, bất khuất.
Tnú có tuổi thơ bất hạnh khi đã mồ côi ngay từ khi lọt lòng, anh được nuôi dưỡng bởi dân làng. Từ khi còn là một cậu bé, Tnú được cụ Mết truyền dạy: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn nước non này còn”. Cậu bé luôn thấm hiểu được lí tưởng sống buôn làng, tin tưởng đi theo Cách mạng.
Dù tuổi còn nhỏ nhưng Tnú không thua kém các chiến sĩ khác, rất dũng cảm và đầy quả cảm. Dù có sự vây lùng của kẻ thù, Tnú, Mai nuôi dưỡng và bảo vệ anh Quyết (cán bộ Đảng). Tnú trong một lần vượt qua thác thì bị địch bao vây, nhanh trí Tnú nuốt lá thư của anh Quyết vào bụng. Mặc dù địch bắt tra tấn làm cơ thể trầy xước, thương tích nhưng anh kiên quyết không hé răng nửa lời về cách mạng, góp phần giữ bí mật cho cuộc chiến.
Tnú đã hoàn thành công việc của mình một cách xuất sắc góp phần bảo vệ cán bộ đảng an toàn. Không chỉ dũng cảm, gan dạ, anh còn có ý chí, nỗ lực trong học tập. Khi học chữ thua Mai, Tnú trừng phạt mình bằng cách đầy bất ngờ “cầm hòn đá tự đập vào đầu mình máu chảy ròng ròng”. Tnú toát lên vẻ gan lì, dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng. Trải qua một quãng đường từ nhỏ đến lớn rèn luyện cộng với ý chí sắt đá Tnú trở thành chiến sĩ trung thành với cách mạng.
Trở về làng sau quãng thời gian dài, Tnú lãnh đạo dân làng Xô man chống lại bọn ác ôn, Mai nay đã trở thành vợ của Tnú, hai người đã có chung một đứa con. Thế nhưng lại một lần nữa kẻ thù lại cướp đi mái ấm của anh, chúng đã giết vợ con Tnú. Tnú trở nên bất lực trước cái chết thảm thương của vợ con, không chỉ vậy anh còn bị bắt và vũng vẫy như một con thú hoang bị thương. Giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của Tnú, mười đầu ngón tay đã cháy nhưng Tnú không hề kêu than một lời.
Trước sự dã man, ác ôn của kẻ thù ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô man bùng cháy. Người Xô Man nổi dậy đồng loạt giết chết giặc. Lòng hận thù biến bàn tay Tnú thành ngọn đuốc châm bùng lên ngọc lửa nổi dậy của dân làng Xôman. Tnú đã xiết vào cổ họng của kẻ thù trả thù cho vợ con và cả những người đã bị bọn chúng giết.
Tnú vượt mọi đau thương cá nhân, tham gia lực lượng giải phóng quét sạch kẻ thù ra khỏi mảnh đất quê hương mang lại độc lập, tự do cho ngôi làng. Tnú thể hiện cho ý chí chiến đấu và khát vọng tự do cho chính mảnh đất Tây Nguyên.
Cuộc đời của Tnú cũng như chính vận mệnh của dân tộc Việt Nam, trải qua mọi đau thương từ kẻ thù nhưng vẫn bất khuất kiên cường để đi đến bến bờ của tự do, hạnh phúc. Tác phẩm ”Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ca ngợi mảnh đất, con người Tây Nguyên trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước, đó cũng là hình ảnh thu nhỏ của đất nước Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ xâm lược.
Bài văn mẫu số 14
Truyện ngắn Rừng xà nu của tác giả Nguyễn Trung Thành được đánh giá như một bài “Hịch Tướng Sĩ” thời kì đánh Mĩ để động viên, cổ động nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ trường kì gian khổ. Trong truyện ngắn này, nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật Tnú - biểu tượng cho sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.
Hình ảnh Tnú và hình ảnh rừng xà nu đại ngàn là hai hình ảnh trung tâm xuyên suốt chiều dài tác phẩm. Nhà văn Nguyễn Trung Thành không tự mình kể về Tnú mà ông lựa chọn một cách rất khéo léo để cho chính già làng - Cụ Mết kể về Tnú. Cụ là người đã sống cùng Tnú những ngày khi anh còn bé, đã dõi theo mọi chặng đường anh đi cùng anh trải qua mọi buồn vui khó khăn. Cụ Mết là nhân chứng sống về cuộc đời Tnú. Hình ảnh người anh hùng Tnú hiện lên qua giọng kể ồm ồm của cụ Mết sao thật hào hùng và đậm chất sử thi.
Tnú là người Strá, anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, anh lớn lên trong vòng tay yêu thương bao bọc của người dân làng Xôman. Với anh dân làng Xôman và cụ Mết đã trở thành gia đình thứ hai của anh. Anh luôn một lòng gắn bó với dân làng và sau này khi lớn lên chính cậu bé mồ côi người Strá được dân làng nuôi nấng ngày nào đã trở thành người chiến sĩ cách mạng cầm súng bảo vệ dân làng.
Tnú cũng giống như rừng xà nu đại ngàn kia luôn ôm áp bao bọc người dân làng Xôman. Cụ Mết từng nói về Tnú “Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” chính là một lời khen hoàn toàn xứng đáng. Tnú như một tấm gương phản chiếu cho sự bản lĩnh, gan góc và không ngại khó khăn, thử thách của người dân Xôman nói riêng và đồng bào Tây Nguyên nói chung.
Khi còn nhỏ Tnú đã tỏ ra là một đứa trẻ gan dạ. Khi nhìn thấy những tấm gương làm liên lạc như anh Xút, bà Nhan bị bọn địch kia chặt đầu treo cổ thì Tnú vẫn không hề run sợ, anh vẫn dũng cảm xung phong nhận làm liên lạc. Với anh cái chết của anh Xút và bà Nhan như tiếp thêm động lực để anh tiến đến gần hơn với cách mạng, tiến đến gần hơn với con đường có Đảng và cách mạng soi đường chứ không làm anh phải run sợ và chùn bước như chúng nghĩ.
Anh cũng giống như rừng xà nu đại ngàn kia dù có chịu đau thương đến nhường nào vẫn không chịu buông tay người dân Xôman “bên cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tnú đã dùng trí thông minh của mình để tìm ra con đường liên lạc an toàn và “lọt qua hết vòng vây của giặc”, anh “không chọn đường mòn, không chọn quãng nước êm mà chọn con đường gai góc.
Hình ảnh người anh hùng Tnú càng hiện lên oai hùng và đầy mưu trí khi bị giặc bắt, Tnú cũng không hề sợ hãi mà nhanh trí nuốt bức thư mật vào bụng. Đã thế, Tnú còn thách thức lại với bọn giặc khi chỉ tay vào bụng và nói: “Cộng sản ở đây này”. Ngay cả khi bị giặc trói bắt đốt mười đầu ngón tay, Tnú vẫn không kêu lên một tiếng, không van xin chúng đến nửa lời.
Tất cả những đau đớn ấy chỉ làm cho lòng căm thù trong anh ngày một lớn dần, không hề làm anh nhụt chí mà đó như ngọn lửa châm ngòi cho ngọn lửa nghĩa khí trong anh bùng cháy. Người ta thường nói tuổi trẻ thường gắn liền với sự nông nổi, bồng bột nhưng ở người anh hùng trẻ tuổi Tnú người đọc không hề thấy chút nào của sự bồng bột mà thay vào đó là một tinh thần chiến đấu quả cảm, một người chiến sĩ liên lạc gan dạ và đầy mưu trí.
Chắc hẳn người đọc không thể nào quên được hình ảnh Tnú cầm viên đá đập vào đầu để có thể nhớ được chữ. Cậu bé ấy cứ nghĩ rằng có thể nhét được những con chữ loằng ngoằng kia vào trí óc bằng cách bạo lực ấy. Nhưng khi được anh Quyết giải thích và động viên thì Tnú đã hiểu ra và học hành chăm chỉ hơn. Tinh thần học hỏi và cố gắng vượt lên chính mình của Tnú không phải ai cũng có được và điều đó càng làm cho mọi người tin tưởng và yêu mến đứa con người Strá này hơn.
Động lực nào đã giúp Tnú gan dạ đến vậy. Bởi chính cuộc sống đã dạy anh, đã bồi đắp cho anh những phẩm chất của một người chiến sĩ ngay từ khi còn nhỏ. Ngay từ nhỏ, anh đã mồ côi cha mẹ nhưng được dân làng nuôi nấng vậy nên với anh dân làng chính là cuộc sống là dòng máu đang chảy trong con người anh. Anh đã lớn lên trong vòng tay dân làng, cùng dân làng bảo vệ cán bộ. Anh đã được sống cùng với cán bộ, đã cùng dân làng nuôi và che chở cán bộ nên anh hiểu làm cách mạng là như thế nào, và từ đó lòng yêu nước thù giặc trong anh đã lớn lên từng ngày.
Cậu bé ấy đã lớn lên trong vòng tay của những người dân lương thiện, trong vòng tay của những chiến sĩ quả cảm vì nước quên thân thì không có lí gì lại không thể trở thành đứa con của cách mạng, đi theo con đường mà Đảng và cách mạng đã chỉ đường soi lối. Từ khi còn nhỏ, bị giặc bắt, bị đày đọa: “tấm lưng chằng chịt những vết chém” nhưng Tnú chưa bao giờ khai lấy nửa lời.
Khi xông ra cứu mẹ con Mai, Tnú bị giặc bắt đốt mười đầu ngón tay và tận mắt chứng kiến giặc tra tấn giết chết người vợ yêu quí và đứa con hết mực yêu thương của vợ chồng anh nhưng không làm anh khuất phục. Lúc đó ai cũng hiểu nỗi đau trong lòng Tnú lớn đến nhường nào, trái tim anh như vỡ òa bởi những người thân duy nhất của anh, chỗ dựa vững chãi nhất của người chiến sĩ ấy đã bị hành hạ cho đến chết ngay trước mắt anh mà anh không thể làm gì được.
Anh đã “bứt đứt hàng chục trái vải mà không hay” và nổi đau đã biến “hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Chúng nghĩ đánh một đòn tâm lí trí mạng như vậy với Tnú chắc anh không thể đứng dậy được nhưng không ngờ nỗi đau không từ ngữ nào tả hết ấy như tiếp thêm động lực để người con làng Xôman ấy ấy có thêm ý chí và động lực để gia nhập quân đội, để cầm súng giết giặc trả nợ nước báo thù nhà, bảo vệ dân làng và quê hương.
Không chỉ dành tình yêu cho gia đình nhỏ của mình, Tnú còn có một tình yêu lớn lao với quê hương với bản làng. Trên đường trở về với bản làng đi qua cụm cây, ngọn cỏ hay suối nước nào mọi kỉ niệm trong anh đều ùa về. Dường như mọi thứ nơi đây vẫn thuộc về anh như ngày nào. Khi đã được tham gia lực lượng của cách mạng, Tnú là một người luôn tôn trọng kỉ luật đã đề ra.
Tuy rất nhớ quê hương, nhớ dân bản nhưng Tnú chỉ trở về thăm quê hương khi có giấy phép, trong giấy ghi được về bao ngày thì anh chỉ về vỏn vẹn đúng số ngày đã được ghi. Với Tnú tôn trọng kỉ luật, tôn trọng cấp trên là đang tôn trọng chính mình. Mọi tình cảm riêng tư được anh dồn nén ở trong lòng và không cho chúng được phép chi phối tới công việc, ảnh hưởng tới niềm tin mà cách mạng và cán bộ đã dành cho anh.
Bằng những ngôn từ sinh động tác giả Nguyễn Trung Thành đã dựng nên một hình tượng một người lính đầy gan dạ, kiên cường. Người chiến sĩ ấy được nuôi dưỡng và lớn lên trong cái nôi cách mạng. Chính người chiến sĩ mang tên Tnú ấy đã để lại trong lòng độc giả sự thán phục về tinh thần chiến đấu và tình yêu quê hương đất nước.
Anh như những cây xà nu bất khuất kia, lấy thân mình che chở cho dân làng, góp xương máu của mình cho cách mạng và dâng hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho lí tưởng quang vinh.
Bài văn mẫu số 15
Rừng xà nu là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Trung Thành viết về thiên nhiên và con người Tây Nguyên anh dũng, bất khuất, kiên cường. Đó là bao thế hệ cách mạng đầy bản lĩnh chiến đấu, giàu lòng yêu nước, là đại diện tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm, theo lý tưởng, ánh sáng cách mạng của dân tộc. Tnú là một nhân vật nổi bật trong truyện hiện lên với những vẻ đẹp đại diện cho người anh hùng sử thi của thời đại, kết tinh mọi phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên.
Cuộc sống của Tnú từ nhỏ đã chịu nhiều bất hạnh, sớm mồ côi cha mẹ, anh lớn lên trong sự yêu thương, che chở và đùm bọc của dân làng Xô man. Từ khi còn nhỏ, Tnú đã bộc lộ những phẩm chất ánh hùng, gan góc của mình. Được truyền dạy về cán bộ, về Đảng, giác ngộ sớm về cách mạng nên luôn có lòng tin tưởng tuyệt đối vào lý tưởng cách mạng.
Cậu làm giao liên rất giỏi, táo bạo, không sợ hiểm nguy, luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Tnú học chữ thua Mai, nhưng không vì thế mà cậu nản chí, khi nghe anh Quyết dặn dò, cậu tự lấy đá đập vào đầu chính mình để nhắc nhở bản thân cố gắng học hành. Không chỉ vậy, Tnú còn rất thông minh và nhanh trí, khi trong một lần giặc bắt đã kịp trở tay nuốt lá thứ của cách mạng vào bụng, che giấu bí mật cách mạng.
Trải qua bao đau đớn khi bị tra tấn dã man, vẫn không quên đảm bảo bí mật nhiệm vụ của mình, thậm chí còn thách thức bọn giặc khi chỉ tay vào bụng và bảo: "Cộng sản ở đây này!". Nhờ sự giỏi giang và nhanh trí của mình, Tnú đã giúp nhiều cán bộ thoát khỏi vòng vây của địch "Năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt hoặc bị giết ở trong rừng". Tnú mang trong mình những phẩm chất cần có của một người chiến sĩ làm cách mạng: sự dũng cảm, kiên trì, cẩn thận và yêu nước.
Sau khi vượt ngục trở về, Tnú ngày càng trưởng thành hơn. Khi anh Quyết hi sinh, Tnú nhận nhiệm vụ thay anh, đứng lên lãnh đạo cuộc chiến của dân làng. Anh kết đôi cùng Mai - người bạn chí cốt thời niên thiếu của mình và có một đứa con minh chứng cho tình yêu đẹp. Những tưởng sẽ được hạnh phúc bên gia đình nhỏ thì quân giặc tràn xuống buôn làng, đàn áp phong trào giải phóng.
Vợ và con anh bị giặc bắt để dụ Tnú ra mặt, chứng kiến cảnh vợ con đập đánh dã man, không chịu được, đã xông vào cứu vợ con, nhưng không được. Bọn giặc tàn ác đã nhẫn tâm phá hoại hạnh phúc bình yên của một gia đình nhỏ. Một lần nữa, đau đớn lại bủa vây Tnú, chúng dùng nhựa xà nu đốt đi mười ngón tay anh.
Nhưng anh không hề có một chút sợ hãi nào trong ánh mắt, bởi vợ con đã mất rồi, gia đình không còn nữa thì có nghĩa lý gì đâu, trong Tnú bây giờ là nỗi thù hận ngập tràn, " Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay… hai con mắt anh bây giờ là một cục lửa lớn". Mắt anh hướng về thằng Dục, cái thằng đã thẳng tay giết chết đi người mà anh thương nhất, nỗi căm hờn lan toả trong anh.
Từ nỗi đau thương vô hạn, Tnú càng căm thù bọn giặc, nỗi căm thù ấy biến thành hành động, một lần nữa đứng lên, gia nhập quân giải phóng trả mối thù lớn cho gia đình cho dân làng Xô man. Vượt lên những nỗi đau thương của số phận, của cuộc đời, sức mạnh mẽ đã giúp Tnú giết chết những kẻ như thằng Dục còn tồn tại.
Lập được nhiều chiến công hiển hách, Tnú xin nghỉ phép một đêm để trở về quê nhà bởi nỗi nhớ quê hương da diết, anh đã chấp hành đúng quy định của cấp trên, thực sự là người cán bộ mẫu mực, mang gương sáng cho những Dít, bé Heng,... là niềm tự hào của thế hệ cha anh và buôn làng Tây Nguyên. Đôi bàn tay của Tnú minh chứng cho sự đau thương và tội ác của chiến tranh. Đôi bàn tay ấy còn là nhân chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng lợi của nhân dân, đôi bàn tay cầm giáo mác chiến đấu với súng đạn của kẻ thù để giành lại tự do cho dân tộc, đôi bàn tay yêu thương và ấm áp tình người.
Tnú là một con người với số phận đầy đau khổ nhưng vượt lên tất thảy là nhân cách bao la, ngời sáng. Anh chính là đại diện vô cùng tiêu biểu cho những người anh hùng, cho vẻ đẹp của người con núi rừng Tây Nguyên. Có thể nói, bằng tài năng trong ngòi bút, tinh tế trong cảm nhận, đặc biệt là vận dụng khéo léo những biện pháp nghệ thuật đặc sắc, tác giả Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật vô cùng độc đáo.
Đọc xong tác phẩm, em càng thêm khâm phục những người chiến sĩ đã hy sinh xương máu, hy sinh cả những hạnh phúc tốt đẹp nhất để bảo vệ dân tộc, càng thêm trân quý những hòa bình hôm nay. Tấm gương của Tnú cũng như của hàng vạn những anh hùng liệt sĩ dũng cảm đã thôi thúc em học tập, cố gắng trở thành người công dân tốt cho xã hội, phấn đấu vào hàng ngũ của Đảng cộng sản Việt Nam thân yêu.
Bài văn mẫu số 16
Nguyễn Trung Thành (còn gọi là Nguyên Ngọc) được xem là nhà văn của Tây Nguyên, bởi lẽ, cả cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông đều gắn bó với mảnh đất này. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất của nhà văn mà chúng ta phải để đến là truyện ngắn “Rừng xà nu”. Với tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật Tnú – biểu tượng cho Tây Nguyên hùng hồn, bi tráng.
Có thể nói Tnú là nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm, song song bên cạnh hình tượng rừng xà nu đại ngàn. Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nên hình tượng một người anh hùng của mảnh đất Tây Nguyên với màu sắc sử thi rất rõ nét qua câu chuyện của cụ Mết kể trong một đêm nhân khi Tnú về làng.
Tnú là người Strá, anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lớn lên nhờ sự đùm bọc và cưu mang của dân làng Xô Man. Chính vì thế, Tnú luôn gắn bó với buôn làng và sau này còn trở thành người chiến sĩ gan góc bảo vệ quê hương mình. Cụ Mết từng nói: “Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” chính là một lời khen hoàn toàn xứng đáng.
Tnú là một người có bản lĩnh, gan góc và không ngại khó khăn, thử thách. Ngày từ khi còn nhỏ, Tnú đã tỏ ra là một đứa trẻ gan dạ. Ngay cả khi những người như anh Xút, bà Nhan đi liên lạc bị chặt đầu treo cổ thì Tnú không hề sợ hãi mà vẫn dũng cảm xung phong nhận làm liên lạc. Để tránh giặc phát hiện, Tnú “không chọn đường mòn, không chọn quãng nước êm mà chọn con đường gai góc, chọn quãng nước chảy xiết” để đi và vì thế cậu đã nhiều lần “lọt qua hết vòng vây của giặc”. Khi bị giặc bắt, Tnú cũng không hề sợ hãi mà nhanh trí nuốt bức thư mật vào bụng. Đã thế, Tnú còn thách thức lại với bọn giặc khi chỉ tay vào bụng và nói: “Cộng sản ở đây này”. Ngay cả khi bị giặc tró bắt đốt mười đầu ngón tay, Tnú vẫn không kêu lên một tiếng. Tất cả những hành động này đã cho thấy một bản lĩnh kiên cường, gan góc của một thanh niên trẻ tuổi. Trẻ nhưng không bồng bột, ngược lại, anh rất bình tĩnh và thông minh.
Không chỉ gan dạ, Tnú còn là một người có ý chí và quyết tâm cao. Tnú học chữ thua Mai vì hay quên thì lấy đá đập vào đầu, những tưởng nhét được con chữ vào trí nhớ. Nhưng khi được anh Quyết giải thích và động viên thì Tnú đã hiểu ra và học hành chăm chỉ hơn. Tinh thần học hỏi và vượt lên chính mình như vậy không phải ai cũng có và cũng làm được. Chính tính cách ấy của Tnú càng khiến cho chúng ta yêu mến anh hơn.
Mặc dù cuộc đời của Tnú phải chịu quá nhiều nỗi bi kịch nhưng anh vẫn kiên cường vượt lên tất cả, trở thành người anh hùng, trở thành một hình tượng đẹp mà ai cũng phải ngưỡng mộ. Ngay từ nhỏ, anh đã mồ côi cha mẹ nhưng được dân làng nuôi nấng, chính vì thế anh yêu buôn làng của mình, cùng dân làng bảo vệ cán bộ và sẵn sàng hy sinh thân mình để bao vệ quê hương nếu cần. Từ khi còn nhỏ, bị giặc bắt, bị đày đọa: “tấm lưng chằng chịt những vết chém” nhưng Tnú chưa bao giờ nói khai lấy một lời. Khi xông ra cứu mẹ con Mai, Tnú bị giặc bắt đốt mười đầu ngón tay và tận mắt chứng kiến giặc tra tấn vợ con đến chết, trong lòng Tnú thật không còn nỗi đau nào lớn hơn. Lòng căm hận trong anh sôi lên sùng sục, và chính lòng căm thù giặc sâu sắc ấy mà khiến cho anh càng kiên cường, bền gan, ý chí gia nhập quân đội để cầm súng giết giặc trả nợ nước báo thù nhà, bảo vệ dân làng và quê hương.
Lòng căm thù giặc cũng được xuất phát từ tình yêu đối với quê hương và đối với con người của Tnú. Tận mắt chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù đánh đập rất tàn bạo, anh không thể kìm được nỗi đau đang đốt cháy lòng mình: “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy (…) ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Bất chấp cả việc bọn chúng có giáo gươm, còn mình thì tay trắng, anh vẫn xông ra để cứu mẹ con Mai bởi anh không thể đứng nhìn nín nhịn thêm được nữa. Chính tình yêu thương và căm hận đã khiến cho đôi mắt anh “nảy lửa” vừa dữ dội vừa tràn đầy nỗi căm hờn.
Không chỉ dành tình yêu cho vợ con mình, Tnú còn yêu tha thiết quê hương bản làng. Trên đường trở về thăm làng, Tnú nhớ từng kỉ niệm bên gốc cây, nhớ tiếng chày giã gạo của buôn làng đầy thương yêu. Cũng chính vì để bảo vệ quê hương mà Tnú mới chăm chỉ học hành, tham gia cách mạng và vượt lên trên mọi khó khăn đau khổ. Có thể nói rằng, tình yêu thương với vợ con, với buôn làng quê hương và lòng căm thù giặc sâu sác đã trở thành động lực, biến thành quyết tâm cao độ và hành động cụ thể hơn: dù hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng Tnú vẫn đi lực lượng để cầm súng chiến đấu giải phóng quê hương.
Tham gia lực lượng rồi, Tnú còn thể hiện rõ là một người có ý thức và tinh thần trách nhiệm kỷ luật cao. Tuy xa quê hương ba năm, rất nhớ nhà, nhớ buôn làng nhưng chỉ khi được cấp trên cho phép thì anh mới trở về làng và cũng chỉ về đúng một đêm như quy định trong giấy phép. Ta thấy rõ ở đây một người chiến sĩ cách mạng không chỉ gan dạ, dũng cảm mà còn rất nghiêm túc trong tác phong.
Tất cả những tính cách và phẩm chất của Tnú đã làm nên một người anh hùng kiên trung bất khuất. Chính vì thế không chỉ có dân làng Xô Man mà tất cả mọi người đều yêu mến và ngưỡng mộ anh. “Những cặp mắt tròn xoe, rồi những tiếng ré lên và những tiếng reo” của mọi người vừa thể hiện niềm vui mừng khi đón Tnú về làng vừa cho thấy sự quý trọng, yêu mến của tất cả mọi người dành cho anh.
Bằng những hình ảnh chân thực, sinh động và giàu chất sử thi, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã tạc nên bức tượng kì vĩ về con người Tây Nguyên kiên cường bất khuất trong cuộc đấu tranh chống Mĩ đầy gian lao. Qua nhân vật Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu”, tác giả đã gửi gắm những thông điệp mang tính cá nhân và cộng đồng sâu sắc.
Bài văn mẫu số 17
Xây dựng ngân vật để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc chính là yếu tố quan trọng góp phần làm nên sự thành công của tác phẩm. Và Nguyễn Trung Thành đã làm được điều đó với việc xây dựng thành công nhân vật Tnú. Dưới đây là bài văn phân tích nhân vật Tnú của một bạn học sinh lớp 12 trường THPT huyện Đông Hưng, Thái Bình.
Tây Nguyên miền đất đỏ ba dan với những văn hóa phi vật thể nổi tiếng, có bản anh hùng sử Đăm Săn. Nơi đây đã chịu bao mất mát bởi sự tàn phá dã man của kẻ thù, nhưng với phẩm chất gan dạ bất khuất họ đã đứng lên từ đau thương để chiến đấu. Trong kháng chiến chống Pháp ta biết đến Núp với những đứa tính kiên cường, không sợ nguy hiểm của kẻ thù để chiến đấu. Đến cuộc kháng chiến chống Mĩ thì Nguyễn Trung Thành đã cho ta thấy vẻ đẹp của người dân Tây Nguyên thông qua hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm “Rừng xà nu” năm 19Qua nhân vật này tác giả đã cho ta thấy phẩm chất anh hùng của con người Tây Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung, không chỉ vậy mà còn là nhân vật gửi gắm những lời phát ngôn mang tính tư tưởng sâu sắc.
Đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành người đọc sẽ dễ dàng nhận thấy nhân vật Tnú là trung tâm là linh hồn của truyện ngắn này, nhân vật được nhà văn khắc họa bằng ngòi bút sắc sảo giàu tính sử thi, nghĩa là nhân vật có một đời tư nhưng không được tác giả quan sát miêu tả từ góc nhìn của đời từ mà xuất phát từ vấn đè cộng đồng để phản ánh đời tư của Tnú. Vì vậy vẻ đẹp của nhân vật là vẻ đẹp của cộng đồng, vẻ đẹp người dân bất khuất kiên cường anh hùng trong chiến đấu. Còn nỗi đau của đời anh chính là nỗi đau của người dân Tây Nguyên trong trận chiến đẫm máu của kẻ thù. Tất cả đề được thể hiện qua hai chặng đời của Tnú lúc còn nhỏ và lúc trưởng thành. Qua nhân vật này nhà văn muốn thể hiện tư tưởng:” nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Vì vậy nhân vật Tnú còn gánh vai trò là nhân vật tư tưởng của tác giả.
Mặc dù mồ côi cả cha lẫn mẹ nhưng Tnú được sống trong sự đùm bọc chở che của dân làng. Và từ đây anh được giác ngộ lí tưởng cách mạng và từ đây anh ý thức được cách mạng, sống với một tuổi thơ phi thường đầy ắp những chiến công và kì tích. Tuổi thơ của một tiểu anh hùng nhỏ dũng cảm, gan góc và tuyệt đối trung thành với cách mạng.
Thật vậy phẩm chất anh hùng Tây Nguyên như ngấm vào máu của Tnú. Ngay từ khi còn nhỏ Tnú và Mai đã tham gia nuôi dấu cách mạng:” như cây xà nu vươn lên”. Đấy là con đường đầy máu lửa và hy sinh, địch khủng bố dã man những người nuôi dấu cán bộ. Anh Sút bị treo cổ ở cây vả đầu làng, lớp thanh niên bị lộ già làng đi thay bà Nhan cũng bị chặt đầu. Đó chính là hành động man dợ của kẻ thù hòng khuất phục tinh thần ý chí của dân làng xô man. Nhưng với tinh thần dũng cảm và ý chí đấu ranh thì Tnú cũng không sợ mà bước tiếp con đường mà dân làng đã đi. Khi anh Quyết hỏi Tnú:” em không sợ giặc bắt à? Nó giết như anh Sút bà Nhan đó” Tnú đã khẳng khái trả lời:” cụ Mết bảo cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn”.
Mặc dù Tnú chỉ nhắc lại câu nói của cụ Mết nhưng qua đó ta thấy được sự lựa chọn của anh, giữa sinh mệnh của cá nhân và vận mệnh của dân tộc Tnú luôn sẵn sàng quên mình để bảo vệ cho cái chung đó. Như vậy Tnú không phải chỉ là một cậu bé gan góc, dũng cảm mà còn sớm có tinh thân yêu nước, yêu cách mạng. Người anh hùng nhỏ tuổi Tnú không chỉ sống một cuộc đời bình thường mà sống một cuộc sống phi thường. Ngay từ cách học của Tnú, Tnú cũng chọn cách học phi thường. Từ việc học chữ hay quên mà để trừng trị cái tính ấy của mình và thể hiện ý chí quyết tâm Tnú lấy đá đập vào đầu mình khiến cho máu chảy dòng dòng. Lúc giận mình tưởng như phải bỏ cuộc anh Quyết đã khuyên:” không học chữ thì làm sao làm cách mạng được”. Vậy là tinh thần cách mạng đã thôi thúc quyết tâm học chữ của Tnú. Vẻ đẹp của Tnú đặc biệt được thể hiện ở việc làm tiếp tế cho cách mạng. Khác với những đứa trẻ khác, Tnú luôn xe rừng vượt thác mà đi.
Bằng sự thông minh và tài chí đã sớm dạy cho Tnú hiểu những chỗ đi dễ dàng rất dễ gặp phục kích. Và thế là Tnú:” không đi chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên như thác băng băng như một con cá kình”. Câu văn giàu hình ảnh so sánh ấy đã cho ta thấy cá tính mạnh mẽ của chàng trai lớn lên từ núi rừng. Trong một lần không may bị giặc bắt:” Tnú nuốt vội lá thư” và khắc sâu lời cụ Mết dạy:” Đảng còn núi nước này còn”. Chúng bắt và tra hỏi anh cộng sản ở đâu? Anh đặt tay lên bụng đầy kiêu hãnh “cộng sản ở đây”. Và lập tức người vằn ngang vằn dọc vết chém của kẻ thù. Dù vậy chúng không thể khuất phục được anh, đói chính là tính cách của người anh hùng “ uy vũ bất đăng khuất”.
Cuộc đời của Tnú điển hình cho con đường đấu tranh của nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ. Qua cuộc đời anh ở giai đoạn này để làm sáng tỏ chân lí:” chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Khi trưởng thành là lúc Tnú vượt ngục trở về với dân làng và lãnh đạo dân làng tiếp tục chiến đấu. Khi trở lại làng anh trở thành một chàng trai hoàn hảo. Anh cường tráng như một cây xà nu lớn nồng căng sự sống với hai cánh tay khỏe khoắn, chắc như lim, chứa đầy trong bọ ngực rộng rãi của anh là sứ mạnh mênh mông man dại của đại ngàn. Chảy trong huyết quản của anh là dòng máu anh hùng của xứ sở Tây Nguyên truyền lại từ thời Đăm Săn. Tính cách của anh bướng bỉnh kiêu hãnh là tính cách của Tây Nguyên dữ dội, quyết liệt. Anh đã trở thành đội trưởng đội du kích làm cho bọn giặc phải khiếp sợ kinh hoàng:” con cọp đó mà không giết sớm nó làm loạn núi rừng này rồi”.
Bi kịch của Tnú cũng là bi kịch chung của dân làng Xô man khi chưa dùng vũ khí. Sau khi trở về làng Tnú gặp lại Mai, họ đã có mối tình đẹp nên vợ nên chồng. Tnú được sống với người mà mình yêu thương và có đứa con đầu lòng. Tưởng như đó là cái kết tốt đẹp cho những gian khổ mà Tnú phải trải qua, nhưng ai đó đã từng nói:” còn thằng Mĩ sẽ không ai có được hạnh phúc cả”. Cuộc đời của Tnú cũng vậy, nếu như ở đoạn đời trước của anh người đọc cảm phục với sự gan dạ dũng cảm kiên cường, thì đến đây câu chuyện cụ Mết kể cho lũ làng nghe về cuộc đời Tnú khiến chúng ta không khỏi bàng hoàng trước nỗi đau quá lớn mà anh phải chịu. Chuyện bắt đầu từ khi anh Quyết hy sinh Tnú trở thành đội trưởng đội du kích làng Xô man, sức ảnh hưởng của anh đến phong trào cách mạng khiến bọn chúng phải khiếp sợ, chúng đưa quân về bao vây làng nhằm tiêu diệt phong trào nổi dậy. Để truy tìm Tnú chúng đã dùng đến hành vi hèn hạ dã man:” bắt được con cọp cái và cọp con tất dụ được con cọp đực trở về”. Vì thế vợ con anh bị bắt và tra tấn bằng gậy sắt, làm cho người sản phụ mới sinh và đứa con chưa đầy tháng tuổi phải chết gục.
Đau đớn thay tất cả sự việc kia đều diễn ra ngay trước mặt Tnú, anh đúng gần đó và chứng kiến:” anh nấp sau gốc cây vả, tay dứt hàng 10 quả vả mà không hay”. Chứng kiến cảnh vợ con bị đánh cho tới chết, nhưng anh không thể ra bởi nếu anh bị bắt sẽ ảnh hưởng đến cách mạng. Nhưng khi chứng kiến đứa con thét lên một tiếng và chết trong tay mẹ trong anh lúc này chỉ còn lòng hận thù và đau đớn. Nỗi đau ấy đã khiến mắt anh thành:” hai cục lửa lớn”, bởi nỗi đau và lòng căm thù. Anh thét lên dữ dội và lao vào lũ giặc để cứu vợ con.
Nhưng anh cứu làm sao nổi vì anh chỉ có hai bàn tay không.”ừ Tnu không cứu được mẹ con Mai” tác giả đã lặp đi lặp lại câu của cụ Mết về nỗi đau của anh như một điệp khúc đau thương đầy ám ảnh day dứt. Tnu không cứu được vợ con cũng không bảo vệ được chính bản thân mình anh đã bị giặc bắt, chúng dùng nhựa xà nu tẩm vào giẻ:” quấn vào 10 đầu ngón tay của Tnú”, “ một ngón tay Tnú bốc cháy, 2 ngón, 3 ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu lửa bắt rất nhanh.
Mười ngón tay đã trở thành 10 ngọn đuốc”. Đây là một hình ảnh vô cùng sáng tạo không dễ sinh ra hai lần trong một cuộc đời viết văn. Hình ảnh bàn tay Tnú bốc cháy tố cáo tội ác dã man của quân giặc, chúng thâm hiểm độc ác đã đốt và mười đầu giây thần kinh nhạy bén của con người. Lửa cháy trên 10 đầu ngón tay của anh lại là nhựa xà nu- thứ nhựa xà nu ngọt ngào như đọng nắng quê hương đã trở thành ngọn lửa hủy diệt chính đôi bàn tay đã từng chăm sóc nó. Đồng thời hình ảnh này cũng cho bạn đọc thấy được lòng gan trường dũng cảm của Tnú đối với cách mạng.
Lửa có thể cháy trên 10 đầu ngón tay, nhưng không thể thiêu cháy được ý chí căm thù giặc của Tnú. Anh đang bị cháy ở 10 đầu ngón tay, nhưng:” anh nghe như đang cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Mà đau đớn đến mức răng anh cắn nát môi anh. Với bản lĩnh kiên cường bất khuất của người cộng sản, anh không thèm kêu, anh nhớ lời của anh Quyết:” người cộng sản không thèm kêu van”. Anh ngã xuống rồi ngất đi, thét lên tiếng thét căm hờn của núi rừng “giết”.
Vậy là qua bị kịch của Tnú và cả gia đình, nhà văn Nguyễn Trung Thành muốn nêu cho chúng ta đâu là nguyên nhân của những bị kịch ấy: anh đã có tất cả tình yêu của gia đình, tình yêu đất nước, lòng căm thù quân giặc, tinh thần bất khuất kiên cường nhưng tại sao anh lại thất bại? Tác giả đã để cho lịch sử phán truyền qua lời cụ Mết:” Tnú không cứu được mẹ con Mai vì mày chỉ có hai bàn tay trắng” dù có thương Tnú đến đâu thì cụ Mết vã dân làng Xô man cũng không thể cứu anh:” tau không nhảy ra cứu mày vì tau cũng chỉ có hai bàn tay không”.
Và từ đó nhà văn cho thấy hậu quả sẽ như thế nào khi kẻ thù đã cầm súng mà mình chưa cầm giáo? Câu chuyện về cuộc đời Tnú chỉ có một mình tay không xông vào giữa kẻ thù thì ngay cả thứ nhựa xà nu thân thiết cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt. Cuộc đời Tnú là bằng chứng sống cho quy luật nghiệt ngã đó. Và từ đó cụ Mết cũng ghi tạc chân lí:” chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Sau tiếng thét của Tnú đầy căm hờn là tiếng nói của cụ Mết như sấm dậy vang truyền cả núi rừng:”chém, chém hết…thế là bắt đầu rồi.
Đốt lửa lên”. Đó là quy luật tất yếu của lịch sử” có áp bức phải có đấu tranh”. Bằng hình tượng nghệ thuật của mình nhà văn đã cho ta thấy khi chúng ta cầm giáo mác để đứng lên chống lại kẻ thù là súng đạn sẽ phải thay đổi. Lúc này ngọn lửa đã tắt trên 10 đầu ngón tay của Tnú. Những ngọn đuốc xà nu soi xác 10 thằng giặc nằm ngổn ngang và Tnú được cứu sống. Những thằng giặc gian ác cũng phải trả giá bằng tính mạng của mình.
Khi xây dựng hình tượng nhân vật Tnú, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã đặc biệt thành công khi đưa chi tiết bàn tay Tnú để làm lên hình tượng nhân vật. Đây là một chi tiết nhỏ nhưng lại có ý nghĩa tư tưởng lớn lao. Từ hình ảnh này ta thấy hiện lên cuộc đời và tính cách của nhân vật. Bàn tay của Tnú khi còn lành lặn là bàn tay trung thực tình nghĩa, bàn tay cầm phấn viết chữ mà anh Quyết dạy cho, bàn tay cầm đá đập vào đầu để trừng phạt thói hay quên khi học, bàn tay đặt lên bụng và nói” cộng sản ở đây này”, nó còn là bàn tay lao động và gây dựng phong trào cách mạng.
Lúc Tnú thoát ngục Kon Tum trở về gặp Mai ở đầu rừng núi vào làng, Mai cầm hai bàn tay Tnú mà giàn giụa nước mắt. Đó là bàn tay của sự yêu thương của tình yêu với những kỉ niêm chân tình. Không chỉ vậy bàn tay ấy đã cầm súng đi bắn giặc, bàn tay chở che cho mẹ con Mai, bàn tay lên núi Ngọc Linh lấy đá. Vẫn hai bàn tay ấy nhưng bị quấn giẻ tẩm nhựa xà nu rồi đốt. Mười ngón tay trở thành mười ngọn đuốc, đã thiêu đốt gan ruột và hệ thần kinh của anh. Mười ngọn đuốc trên mười ngón tay ấy đã châm bùng ngọn lử cách mạng, ngọn lử nổi dậy của dân làng Xoman.
Bàn tay của Tnú đã được dập lửa nhưng mỗi ngón chỉ còn hai đốt, ngón tay anh không thể mọc lại. Bàn tay cụt đó như chứng tích đầy căm hờn mà Tnú mang theo suốt cuộc đời, ghi lại những tội ác tàn bạo dã man của kẻ thù. Nhưng bàn tay mỗi ngón còn hai đốt ấy vẫn cầm giáo cầm súng được và Tnú đã lên đường đi tìm những thằng Dục để trả thù. Đế cuối chuyện bàn tay Tnú lại một lần nữa xuất hiện, dùng đôi bàn tay cụt đốt ấy anh đã bóp chết tên chỉ huy đồn địch ngay trong hầm ngầm cố thủ của nó. Soi ánh đèn pin vào mặt nó để nó nhìn rõ đôi bàn tay trừng phạt của anh, đôi bàn tay quả báo. Mặc dù còn hai đốt nhưng đôi bàn tay ấy đã đem lại chiến thắng.
Tác phẩm” Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành đã thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật. Trong tác phẩm sử dụng bút pháp sử thi một cách nhuần nhuyễn mang ý nghĩa biểu tượng cho cộng đồng, sức mạnh, vẻ đẹp và những đau thương mất mát của con người Tây Nguyên “sau này tau chết rồi phải kể cho con cháu về Tnú”. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật nói ít nhưng bộc lộ một cách trực tiếp thẳng thắn. Những hành động trong chuyện thì quyết liệt mạnh mẽ và dứt khoát. Tnú hiện lên qua lời kẻ của cụ Mết bên cạnh bếp lửa, nó cho ta thấy vẻ đẹp của anh hùng thoại dũng sĩ thời xưa.
Bằng ngòi bút tinh tế và cái nhìn nhạy cảm Nguyễn Trung Thành đã khắc họa thành công nhân vật Tnú vừa mang vẻ đẹp trữ tình và những tư tưởng của tác giả muốn gửi gắm. Không những vậy vẻ đẹp của Tnú còn có tính sử thi và thời đại lúc bấy giờ. Qua nhân vật này tác giả đã thể hiện được thông điệp mang tính cá nhân và cộng đồng.
Bài văn mẫu số 18
Đọc truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, sáng tác năm 1965 rút từ tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc – Điều để lại ấn tượng khó quên trong tâm hồn độc giả không chỉ là hình tượng cây xà nu giàu sức sống, ham ánh sáng, thân cây thẳng tắp vươn lên bầu trời đón lấy nắng vàng toả chất nhựa thơm mỡ màng… mà còn là hình ảnh những con người Tây Nguyên bất khuất, kiên trung, thuỷ chung, trong sáng, giàu tình nghĩa, trọn đời gắn bó với cách mạng và quyết không đội trời chung với kẻ thù Mỹ – Ngụy như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, anh Xút, bà Nhan… Nổi bật nhất trong số đó là Tnú, một hình tượng vừa kết tinh được phẩm chất tốt đẹp của người Tây Nguyên, vừa được tác giả viết với bút pháp mang đậm màu sắc sử thi.
Vào một đêm ngoài rừng mưa rì rào như gió nhẹ, dưới ánh lửa xà nu bập bùng, tất cả dân làng Xô Man già trẻ gái trai đã nghe cụ Mết, một già làng có thân hình vạm vỡ quắc thước, mắt sáng xếch ngược, râu dài ngang ngực kể về cuộc đời đầy bi hùng của Tnú.
Tnú hiện lên dưới ngòi bút của nhà văn là người có lòng yêu nước thương dân, trung thành với cách mạng, gan góc, táo bạo… Tnú là người con của dân làng Xô Man, cha mẹ mất sớm và được dân làng cưu mang, nuôi dưỡng. Cũng như người dân làng “có cái bụng thương núi, thương nước”, Tnú đã sớm có lòng yêu thương nhân dân, làng xóm. Từ tấm lòng này, Tnú đã mở rộng thành tình yêu gắn bó trung thành thuỷ chung sâu nặng với cách mạng, cán bộ cách mạng. Bởi ngay từ khi còn là một cậu bé, Tnú được cụ Mết, người gìn giữ và truyền ngọn lửa cách mạng từ thế hệ này sang thế hệ khác cho hay: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn nước non này còn”. Vì vậy ngay từ chặng đầu của cuộc đời, Tnú đã xuất hiện với tư cách của người anh hùng Tây Nguyên thời chống Mỹ. Dù còn nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra gan góc táo bạo, đầy quả cảm như Kim Đồng, Lê Văn Tám, Vừ A Dính… Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù: chặt đầu những người đi nuôi cán bộ – đầu anh Xút, bà Nhan đang bị chúng treo lủng lẳng đầu bản xóm, Tnú đã cùng với Mai vẫn xung phong gương mẫu vào rừng bảo vệ nuôi dưỡng anh Quyết, một cán bộ trung kiên của Đảng. Đây là một công việc vô cùng khó khăn và đầy hiểm nguy, vốn là con người nhanh trí, táo bạo thích mạo hiểm, Tnú không vượt qua suối những nơi nước cạn dễ đi mà thường băng qua những con thác hiểm như cưỡi lên lưng con cá kình. Có lần vừa vượt qua thác, chuẩn bị bước lên bờ thì hai họng súng đen ngòm đã chĩa vào tai lạnh ngắt của Tnú. Địch tra tấn hỏi “Cộng sản ở đâu?” Tnú đã không ngần ngại dặt tay lên bụng: “ở đây này!”. Và lưng Tnú lại hằn lên những vết dao chém ngang dọc của kẻ thù. Đúng Tnú là con người rất giàu phẩm chất thuỷ chung, trung thành với cách mạng mà bất khuất hiên ngang trước kẻ thù “Uy vũ không thể khuất phục”.
Tnú không chỉ có lòng yêu nước thương dân, trung thành với cách mạng mà anh còn là con người chính trực, thẳng thắn, trong sáng như cây xà nu. Tnú quyết tâm học cho được cái chữ để trở thành cán bộ giỏi thay anh Quyết, nếu không may anh Quyết bị hy sinh. Tnú có cái đầu sáng lạ lùng trong việc tìm đường rừng để đưa thư cho anh Quyết từ huyện về xã, đảm bảo an toàn, vượt qua tất cả vòng vây của giặc. Nhưng Tnú học chữ hay quên. Bởi vậy, khi học chữ thua Mai, Tnú đã tự trừng phạt cái tội hay quên của mình bằng cách “cầm hòn đá tự đập vào đầu mình máu chảy ròng ròng”. Hành động này có cái gì đó hoi nóng nảy nhưng nó biểu lộ ý chí, quyết tâm sắt đá của một người anh hùng mới “Trung với Đảng, hiếu với dân, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” (Lời dạy của Bác).
Tnú còn có một tình yêu đẹp: trong sáng, thủy chung… Tnú lớn lên đã trở thành một chàng trai kết tinh được những phẩm chất cao đẹp của người dân Xô Man. Anh là thần tượng, là niềm ngưỡng mộ của nhiều cô gái làng. Trong số đó có Mai, người bạn từ thuở thiếu thời, một cô gái dịu dàng xinh đẹp, có đôi mắt đen long lanh chất chứa biết bao tình yêu thương mà đầy kiên nghị, cứng rắn. Mối tình của họ rất thơ mộng và trưởng thành qua năm tháng đầy thử thách khốc liệt của chiến tranh. Rồi họ trở thành vợ chồng. Đứa con trai kháu khỉnh vừa đầy tháng là hoa trái đầu mùa của mối tình thơ mộng và thuỷ chung ấy. Hạnh phúc gia đình lứa đôi của Tnú đang đẹp như trăng rằm lung linh tỏa sáng cả núi rừng Tây Nguyên.
Càng yêu nước thương dân bao nhiêu thì Tnú càng căm thù giặc bấy nhiêu. Kẻ thù tàn bạo dã man đã phá vỡ tổ ấm hạnh phúc của Tnú một cách không hề tiếc thương. Chúng đã giết vợ con anh bằng cây gậy sắt, hòng uy hiếp tinh thần cách mạng của Tnú, người cầm đầu, linh hồn của cuộc nổi dậy và nhân dân làng Xô Man. Đoạn văn diễn tả sự bất lực của Tnú trước cái chết của vợ con thật bi thương tràn đầy xúc cảm và ấn tượng. “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy…. bụng anh có lửa đốt. Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Căm thù đau nhói trong tim và bừng cháy trong hai con mắt – một chi tiết thật dữ dội – đã đột nhiên biến thành tiếng thét của Tnú. Tiếng thét ấy trở thành ngòi nổ làm bùng cháy cả khối thuốc nổ căm hờn của dân Xô Man. Trong phút chốc họ đã: “Chém! chém hết!”, xác 10 tên giặc nằm ngổn ngang quanh đống lửa.
Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lý giản dị mà sâu xa của cuộc sống được cụ Mết truyền dạy cho con cháu: “Tnú không cứu được vợ, được con… nhớ không… Tao cũng chỉ có hai bàn tay không… nhớ lấy, ghi lấy… sau này, tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là chân lý của cách mạng được nảy sinh từ mảnh đất Tây Nguyên thấm máu và nước mắt. Đó là một chân lý thật nghiệt ngã nhưng tất yếu: Phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu để tự giải phóng của nhân dân.
Vượt qua bi kịch cá nhân Tnú đã cầm vũ khí tham gia giải phóng quân. Tnú cũng như cả dân làng Xô Man vùng dậy cầm lấy giáo mác… làm vũ khí chống lại súng đạn tối tân tàn bạo của Mỹ – Ngụy. Và chặng đường cầm vũ khí của Tnú được nối tiếp bằng việc “đi lực lượng”. Tnú đã vượt qua mọi đau thương và bi kịch cá nhân, tham gia lực lượng giải phóng quân để quét sạch tất cả những thằng Dục, kẻ thù không đội trời chung với vợ con anh – còn tồn tại trên đất nước Việt Nam này. Khi đã trở thành chiến sĩ giải phóng quân, Tnú là một cán bộ có tinh thần kỷ luật cao: tuy nhớ quê hương gia đình, nhưng phải được cấp trên cho phép mới về và cũng chỉ về đóng một đêm như quy định trong giấy phép.
Nhân vật Tnú không chỉ hấp dẫn độc giả chúng ta bởi những phẩm chất, tính cách anh hùng; bởi bút pháp mang đậm màu sắc sử thi bi tráng và tính chất triết lý của nó, mà còn hấp dẫn bởi tính chất hình tượng của tác phẩm. Một trong những hình tượng giàu nghệ thuật, ý nghĩa thẩm mỹ và tạo nên một sức ám ảnh đặc biệt cho độc giả là hình ảnh bàn tay của Tnú. Đây là một hình tượng như có một số phận riêng, gắn bó mật thiết với cuộc đời Tnú, góp phần tô đậm thêm những nét phẩm chất, tính cách cao đẹp của anh. Đó là bàn tay của sự trung thực, tình nghĩa, từng cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho; từng đặt lên bụng mình mà nói: “Cộng sản đây này”. Bàn tay ấy cũng đã từng được Mai nắm chặt mà khóc những giọt nước mắt nóng bỏng yêu thương đồng cảm, khi Tnú vượt ngục trở về… khi giặc đốt 10 đầu ngón tay Tnú, bàn tay trở thành chứng tích của tội ác và lòng hận thù mà Tnú mang theo suốt cả cuộc đời. Lòng hận thù ấy đã biến bàn tay Tnú thành bàn tay quả pháo – 10 ngọn đuốc từ ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của dân làng Xô Man. Bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng để Tnú lên đường rửa hận. Và cuối cùng với chính bàn tay ấy, Tnú đã xiết vào cổ họng tất cả những thằng Dục tàn ác hơn cả dã thú.
Câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú vừa có ý nghĩa cụ thể, cá thể, vừa có ý nghĩa điển hình tiêu biểu của người anh hừng đại diện cho số phận và con đường đi của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại đấu tranh giải phóng. Nhân vật Tnú còn có cái gì đó phảng phất như những anh hùng trong các trường ca Đăm Săn,..
Bài văn mẫu số 19
Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành chấp bút vào năm 1965 khi đế quốc Mĩ xâm lược miền Nam nước ta. Tác phẩm là câu chuyện về mảnh đất anh hùng, con người Tây Nguyên anh hùng. Vả nổi bật nhất trong tập thể anh hùng đó ta không thể không nhắc đến nhân vật Tnú.
Tnú là nhân vật hội tụ đầy đủ nhất những vẻ đẹp phẩm chất và tính cách của con người Tây Nguyên. Ở nhân vật này vừa có những nét chung nhưng đồng thời lại có những đường nét hết sức khu biệt, tạo nên một chân dung anh hùng hoàn hảo. Nhân vật Tnú được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những nét độc đáo, giàu tình chất sử thi. Tính sử thi đó được biểu hiện rõ nhất trong cuộc đời anh. Cuộc đời anh nhìn qua tưởng đó là cuộc đời riêng nhưng kì thực lại là đại diện cho số phận của cộng đồng. Cuộc đời Tnú gắn với những sự kiện lớn của cộng đời, từ đó là biểu tượng đẹp đẽ nhất cho phẩm chất và số phận nhân dân Tây Nguyên nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.
Vẻ đẹp đầu tiên có thể nhận thấy ở nhân vật này chính là sự kiên cường, gan góc, dũng cảm. Điều này là bản chất, ăn sâu trong cốt cách của Tnú. Ngay từ tấm bé bản chất này của anh đã dần dần được bộc lộ. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng Tnu đã dũng cảm nuôi giấu bộ đội trong rừng. Hàng ngày chuyển thư liên lạc. Trong quá trình đi liên lạc, Tnú thường “xé rừng mà đi, lựa thác mạnh mà vượt” bởi những con đường đó mới an toàn, tin tức mới không bị kẻ thù bắt được. Tnú và Mai cùng học với nhau, nhưng Tnú học chữ chậm, cảm thấy vô cùng tức giận với bản thân, đã lấy đá đập vào đầu đến nỗi chảy mà ròng ròng. Ngay cả khi bị giặc bắt, giặc tra tấn, sự kiên cường đó vẫn không hề thuyên giảm, anh quyết không khai, mà chỉ vào bụng mình mà nói “cộng sản ở đây”. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng khí chất kiên trung, dũng cảm của con người ấy đã được bộc lộ từ khi còn rất nhỏ.
Những biến cố trong cuộc sống, dần dà lớn lớn, sự dũng cảm trong Tnú cũng ngày càng được biểu lộ rõ hơn. Khi vợ con bị tra tấn, hành hạ, lòng Tnú đau như cắt, và đến giây phút cuối cùng không thể nhẫn nhịn được nữa, Tnú đã đi ra để cứu hai mẹ con. Tay của Tnú bị đốt cháy bùng bùng, nhưng anh không hề cảm thấy đau đớn, không hề kêu than. Ấy chính là sự gan dạ, dũng cảm và kiên cường của Tnú.
Không chỉ vậy, anh cũng là người hết sức kỉ luật. Thời gian nghỉ phép ít ỏi, chỉ có một ngày, nhưng anh vẫn hết sức thu xếp công việc trở về thăm bản làng, thăm mọi người. Và sáng sớm ngày hôm sau Tnú từ biệt mọi người lên đường. Anh là người tôn trọng kỉ luật của đơn vị, chấp hành kỉ luật của buôn làng. Ý chí kiên cường, hết lòng hi sinh vì sự nghiệp lớn đã giúp anh chiến thắng sự mềm yếu trong lòng, để hướng đến một sự nghiệp lớn hơn.
Ngoài ra, Tnú còn là người biết vượt lên những đau khổ, bi kịch của cá nhân để sống một cuộc đời tốt đẹp, có ý nghĩa hơn. Trong cuộc đời Tnú đau đớn nhất không phải là giây phút không học được chữ, đập đầu vào đá, cũng không phải là giây phút bị giặc bắt và truy hỏi. Mà đau đớn nhất là khi thấy vợ con mình bị hành hạ mà bất lực không thể làm gì khác. Nhìn cảnh Mai vì che chắn cho đứa con mà không biết bao lần phải chịu đòi roi của kẻ thù, có lẽ long Tnú đau thắt lại và nhất là khi đứa con bé bỏng, vô tội của anh bị đánh, chết ngất đi. Đến lúc này nỗi đau đớn, sự căm thù đã dồn nén bấy lâu bùng phát dữ dội. Không chỉ vợ con, mà chính anh cũng là nạn nhân của những đòn tra tấn dã man đó. Chúng quấn dẻ và nhựa vào mười đầu ngón tay anh, đốt cháy như một ngọn đuốc. Nhưng dù bị đốt cháy, dù gia đình li tán nhưng Tnú vẫn kiên cường vượt qua mọi mất mát, thương tổn. Dùng khả năng của bản thân đi bộ đội, để giết giặc trả thù cho bản thân, cho gia đình, lớn hơn là cho những người bỏ mạng dưới sự độc ác của kẻ thù. Nếu không phải là người có nghị lực, bản lĩnh thì có lẽ đã suy sụp mà không sống nổi.
Ngoài ra anh còn là một con người giàu tình nghĩa. Những ngày còn nhỏ, anh hết long với cách mạng, gắn bó và nghe lời anh Quyết. Anh chăm chỉ học hành cũng chỉ bởi một câu anh Quyết nói “không học chữ làm sao làm được cán bộ giỏi”. Chỉ với câu nói đó thôi nhưng đã truyền bao sức mạnh cho anh. Khi nhìn vợ con bị ành hạ, dù không cứu được nhưng Tnú vẫn anh dũng xông ra, để đánh giặc, đây chính là biểu hiện của tình yêu thương sâu sắc. Không chỉ vậy, anh là một đứa trẻ mồ côi, được dân làng nuôi lớn, bởi vậy ngày nghỉ phép tuy ngắn ngủi nhưng Tnú vẫn tranh thủ về thăm buôn làng, thăm mọi người.
Tnú là kết tinh nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Nhân vật được xây dựng trên khung nền sử thi kì vĩ. Bởi vậy nhân vật cũng chình là đại diện cho số phận của cộng đồng. Tuy mang nhưng bản thân Tnú vẫn có những nét khu biệt, chính điều đó đã đem lại sự mới mẻ cho hình tượng và sự thành công cho tác phẩm.
Bài văn mẫu số 20
Nguyễn Trung Thành là một trong các cây bút tài năng của nền văn học Việt Nam đương đại mang các tác phẩm chuyên viết về mảnh đất Tây Nguyên mang đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn. Rừng xà nu là 1 trong các tác phẩm lừng danh, có độ rộng rãi mang công chúng độc giả sâu sắc nhất của tác nhái.
Tác phẩm nhắc về câu chuyện đem đến phổ thông cảm hứng đậm chất nhân bản cho người đọc về ái tình, tình người, tình cảm có quê hương đất nước của những con người trên mảnh đất Tây Nguyên. Nhân vật chính trong câu chuyện là Tnú, con người với đầy đủ những tinh thần của vùng đất Tây Nguyên.
Tác phẩm được Nguyễn Trung Thành sáng tác năm 1965 – là các năm tháng đang diễn ra cuộc đương đầu chống Đế quốc Mĩ rất ác liệt. hiệp định Giơ-ne-vơ ko được thi hành, quân thù ra công khủng bố. Mĩ cho quân ồ ạt tiến vào miền Nam và mở rộng trận mạc ra Bắc. dân chúng ở mọi nơi đặc thù là Tây Nguyên đã phấn đấu chiến đấu đến cùng để giữ đất, giữ bản làng. hồ hết các gì diễn ra mà tác fake được nhìn nhận và chứng kiến đã thẩm thấu vào trí nghĩ của ông, thôi thúc ông viết lên tác phẩm này. một tác phẩm sở hữu giá trị hiện thực cũng như nhân đạo hết sức sâu sắc. Tư tưởng tác phẩm được tác phẩm gửi gắm qua việc vun đắp nhân vật Tnú.
Nhân vật Tnú mang 1 số mệnh tương đối đặc thù khi sớm biết tự lập, trưởng thành ngay bắt đầu từ còn nhỏ vì ba má mất sớm. Tnú lớn lên trong tình yêu thương của bản làng, sự chở che của những con người trong buôn làng Xô -Man và cụ Mết. Tnú ăn nhằm tình cảnh sống của mình, dành rộng rãi sự hàm ân, gắn bó có buôn làng. Ngay từ nhỏ, Tnú đã trở nên chú bé liên lạc mưu trí, dũng cảm và dũng cảm , chú được học từ cách mạng. Được học chữ, sở hữu tinh thần sau này to lên sẽ thay anh Quyết khiến cán bộ, lãnh đạo phong trào cánh mạng của quê hương. Tnú với những phẩm chất, với các nhận thức của 1 người anh hùng lí tưởng.
Tnú mang ái tình làng, yêu nước khôn xiết sâu sắc. Hiểu được những đau thương, mất mát tới từ chiến tranh, Tnú căm thù giặc vô cùng. Tnú sớm theo cách mệnh, trong khoảng nhỏ tà tà 1 cậu bé giao thông gan góc, anh dũng, đảm bảo bí hiểm cho cách mệnh. Là một cán bộ nhí chủ lực trong việc tiếp tế cho những cán bộ cách mạng trong rừng, anh dũng lúc bị tra tấn. Tnú thực thụ trưởng thành khi vượt ngục tù trở về làng.
từ nhỏ, Tnú sở hữu tình cảm đẹp sở hữu quê hương và sở hữu tình cảm đẹp mang Mai. khi trưởng thành Tnú là một chàng trai hoàn hảo: rắn chắc, cao lớn, đẹp đễ như một cây xà nu cường tráng nhất của khu rừng này. Tnú chan hòa trong niềm hạnh phúc mang ái tình của Mai, với đứa con mới chào đời. mang sự giác ngộ cách mệnh từ nhỏ, được sống và chiến đấu cộng anh Quyết. Tnú và cụ Mết chuẩn bị cho kế hoạch khởi nghĩa. Tin đó đến tai bọn giặc, chúng bắt , tra tấn Mai và con. Sự việc diến ra trước mắt Tnú. Tnú đã không thể cứu được vợ và con: Tnú hot lòng, sốt ruột. Đau thương xé lòng căm hận tột cùng: “hai con mắt là 2 cục lửa lớn”. Câu văn trên được lặp đi lặp lại đến bốn lần nhằm nhấn mạnh sự bất lực ở một con người đầy gan dạ và dũng mãnh. Nó sẽ mãi là vết thương lòng trong Tnú và người dân Xô man. Điệp khúc đấy mãi mãi day dứt khôn nguôi khiến cho nỗi đau xoáy vào tâm tư Tnú, tâm tình cụ Mết- người nói chuyện và dân làng.
Tnú đau đớn hết sức vì bi kịch của chính mình, của gia đình mình. Nhưng Tnú cũng hiểu được rằng, mang ái tình thương vợ con, mang lòng quả cảm, dám hy sinh đó nhưng Tnú cũng không thể cứu được vợ con, thậm chí chẳng thể giữ được tính mệnh cho bản thân mình và còn tác động tới phong trào cách mạng của buôn làng. Tnú không thể tay ko chống giặc, làm cho cách mạng không thể tự phát. Đây chính là duyên cớ dẫn đến thảm kịch, sẽ thế nào giả dụ quân thù cầm vũ khí mà ta lại tay ko. Đây chính là mặt bên kia của chân lí mà cụ Mết đã muốn ghi lòng tạc dạ vào lòng của những thế hệ con cháu: “ Chúng nó đã cầm súng thì chúng ta phải cầm giáo”
từ thảm kịch của Tnú dân chúng Xô Man đã thức tỉnh Tnú bị chúng tẩm dầu Xà Nu đốt cháy 10 đầu ngón tay, Tnú đã hình dong loại chết. Nhưng chính khi này, chính khi thảm kịch Tnú tới cao trào thì 10 đầu ngón tay của Tnú trở nên 10 ngọn đuốc soi trục đường giúp dân chúng XôMan vùng dậy cầm vũ khí chống lại kẻ thù và họ đã thắng.
Tnú phát triển thành tượng trưng đẹp về sức mạnh và lí tưởng, là người anh hùng ngay trong thời đại của chúng ta. Anh phát triển thành niềm kiêu hãnh của dân làng Xô man, câu chuyện của một đời cụ Mết đề cập trong 1 đêm ấn tượng. rút cuộc Tnú được mua lại những gì đã mất. Lần trở về làng này anh được sống trong tình yêu thương của buôn làng.Anh đã tìm thấy niềm tin trong Dít và Heng…TNú trở nên biểu trưng đẹp đẽ nhất về người anh hùng trong thời đại chống Mĩ.
Hình tượng cây Xà nu trong tác phẩm sở hữu mối quan hệ gắn bó sâu sắc sở hữu Tnú. 2 hình tượng đó ko tách rời nhau mà gắn bó khăng khít mang nhau, bổ sung cho nhau để cộng phát triển thành hoàn chỉnh. Rừng Xà Nu sẽ chẳng thể trải dài mãi tới chân trời trong màu xanh văng mạng lúc con người chưa ăn thua bài học cách mệnh. Mặt khác phải sở hữu các con người như tnú thì mới mang đến sự sống cho cánh rừng, cho dân chúng, cho tổ quốc ta.
Rừng xà nu là ngôn ngữ của lịch sử và thời đại, gắn liền với sự vận động và các biến cố sở hữu ý nghĩa trọng đại đối sở hữu toàn dân. các bức tranh bất chợt, các hình thượng anh hùng trong tác phẩm, chung quy đều là sự kết tinh của các lí tưởng cao quý nhất của cùng đồng. Rừng xà nu có mọt hình thức sử thi hoành tráng. Hoành tráng trong hình ảnh, dáng vóc lực lưỡng, cao cả của rừng núi cũng như con người. Hoành tráng trong âm hưởng lời văn được gọt giũa để không những giàu sức tạo hình mà còn giàu về giai điệu khi vang động lúc tha thiết, hoặc trang nghiêm.
Tnú gắn bó mang dân làng, gắn bó sở hữu những cánh rừng xà nu mông mênh tạo nên một bức tranh đẹp về cuộc đời và căn số anh hùng vẻ vang của chính anh. Anh là niềm tự hào của mảnh đất Tây Nguyên.
Bài văn mẫu số 21
Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành viết vào mùa hè 1965 khi đến quân Mỹ bắt đầu đổ quân ào ạt vào miền Nam nước ta. Câu chuyện trở về những năm 60 nói về sự kiện đồng khởi của nhân dân Tây Nguyên với chân lý "chúng nó cầm súng, ta phải cầm giáo mác". Việc nhắc lại sự kiện xảy ra trước 1965 có ý nghĩa cảnh tỉnh và vạch ra con đường duy nhất: phải cầm vũ khí để chống lại đội quân viễn chinh của Mỹ. Rừng xà nu là bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh thần thánh chống đế quốc Mỹ. Nhân vật tiêu biểu nhất trong tác phẩm là Tnú.
Đây là một nhân vật anh hùng, là người con vinh quang của làng Xô Man đã được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những đường nét độc đáo giàu chất sử thi. Tính chất sử thi được thể hiện rõ nhất ở chỗ cuộc đời ngỡ như có số phận riêng nhưng thực ra Tnú lại đại diện cho số phận và con đường đi lên của dân tộc. Đời Tnú sống chết với cộng đồng, gắn bó với những sự kiện có ý nghĩa nhất của cộng đồng. Anh là một cây xà nu trong muôn vàn những cây xà nu khác nằm dưới tầm đại bác của giặc. Không cây nào không bị thương vì thế mà số phận của cây xà nu - Tnú cũng phải chịu những thương tích do giặc gây ra. Làng Xô Man có bao nhiêu người đã trở thành nạn nhân của tội ác quân thù. Làng Xô Man có bao nhiêu người đã trở thành nạn nhân của tội ác quân thù: " Bà Nhan bị chặt đầu, anh Xút bị bắn chết, cô bé Dít đã trở thành bia cho bọn giặc nhắm bắn vui cười... Tnú cũng có số phận như cộng đồng nhưng nghiệt ngã và cay đắng hơn, tiêu biểu hơn: Anh chứng kiến cảnh giặc dùng roi sắt quật cho vợ con mình chết, và chính mình khi lao vào cứu vợ con cũng bị giặc tẩm lửa xà nu vào mười đầu ngón tay... rồi Tnú cũng lên đường tham gia lực lượng cũng như cộng đồng người Xô Man của anh nhất tề cầm vũ khí và xây dựng làng chiến đấu.
Trước hết anh là một thanh niên gan góc, dũng cảm kiên cường có tính kỷ luật cao. Lúc nhỏ anh đã vào rừng nuôi cán bộ dù biết rằng bà Nhan, anh Xút đã bị bắt sát hại để cảnh cáo. Tnú đi liên lạc "thường xé rừng mà đi, lựa thác mạnh mà vượt", học chữ chậm thua Mai, Tnú đã lấy "đá đập vào đầu máu chảy ròng ròng". Bị giặc bắt tra khảo anh đã quyết không khai, anh đã chỉ vào bụng mình - nói "Cộng sản ở đây". Ghê gớm nhất đó là khi giặc đốt mười đầu ngón tay, mình vẫn cắn răng không kêu van. Hành động xông ra cứu vợ con với hai bàn tay trắng phần nào cũng biểu hiện được sự gan góc bất chấp cái chết của Tnú.
Câu chuyện về Tnú được cụ Mết kể trong một đêm nhân sự kiện anh nhớ làng xin đơn vị về nghỉ phép trong một ngày, sáng mai Tnú đã lên đường, điều này chứng tỏ anh chấp hành rất đúng kỷ luật của đơn vị, tôn trọng kỷ luật của làng, ý chí kiên cường đã chiến thắng được tình cảm yếu mềm của anh.
Tính cách thứ hai của Tnú đó là con người giàu ý chí biết vượt lên bi kịch cá nhân để sống đẹp.
Từ nhỏ Tnú đã đi nuôi cán bộ, vượt ngục về anh lại cùng cộng đồng mình mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc chiến đấu dữ dội ác liệt hơn trong nay mai.
Không gì đau đớn hơn có người vợ hiền thục có đứa con bụ bẫm, thế mà Tnú lại chứng kiến những đòn roi man rợ cùng với cái chết của vợ con. Không những thế, Tnú còn là nạn nhân của bọn giặc man rợ. Mười ngón tay tàn tật nhưng anh đã tình nguyện đi bộ đội chủ lực để giết được nhiều giặc hơn.
Nét tính cách thứ ba của Tnú là con người giàu tình nặng nghĩa. Anh gắn bó với cách mạng, hết lòng với anh Quyết, nghe theo lời anh Quyết năng học hành để làm cán bộ.
Đứa con vừa mới sinh, Tnú đã xé tấm chăn của mình làm địu. Dù không cứu được vợ con nhưng anh xông ra trong tuyệt vọng để giặc bắt là một biểu yêu thương vợ con hết mức.
Tnú mồ côi cha mẹ lại mất vợ con cho nên buôn làng, cộng đồng đối với giờ đây là tất cả. Được về phép anh bồi hồi xao xuyến khi nghe một tiếng chày giã gạo khi nhận ra từng mặt người, từng sự thay đổi của quê hương.
Nói đến Tnú người ta thường nghĩ về chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa tay Tnú. Đó là bàn tay đã từng cầm đá đập vào đầu mình, bàn tay dắt Mai làm nương rẫy, bàn tay chỉ vào bụng mình nói đó là cộng sản, bàn tay sau vượt ngục đã run run nắm lấy tay Mai ở đầu con nước lớn của làng, bàn tay mài rìu, rựa, giáo mác... và rồi cũng bàn tay ấy đã ngắt những trái vả. Hai cánh rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh đã ôm chặt lấy mẹ con Mai lần cuối, rồi mười đầu ngón tay của Tnú bốc lửa. Bàn tay thương tật ấy đã tham gia trận đánh đã giết những thằng chỉ huy đồn giặc, bàn tay ấy lại cầm đèn pin soi rõ mặt xác quân thù (bởi Tnú luôn coi mỗi cái xác thù mà anh giết là một thằng Dục).
Rừng xà nu dạt dào âm hưởng sử thi, nó đã sáng tạo ra một nhân vật sử anh hùng. Cuộc đời bi tráng của Tnú chính là cuộc đời của dân tộc Việt Nam một thời điểm lịch sử trọng đại.