Dàn ý phân tích triết lý sống trong Hồn Trương Ba da hàng thịt hay nhất

A. Mở bài:

– Lưu Quang Vũ là một trong những cây bút tài hoa bậc thầy để lại những dấu ấn trong rất nhiều thể loại như thơ, văn xuôi và đặc biệt là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.

- Là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, đánh dấu sự đột phá trong sáng tác của Lưu Quang Vũ.

– Nhân vật Trương Ba – thể hiện một triết lý sống cao đẹp.

B. Thân bài

1. Giới thiệu chung

– Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ của tác phẩm.

– Đây là một vở kịch mà tác giả Lưu Quang Vũ đã dựa vào cốt truyện dân gian, tuy nhiên chiều sâu của vở kịch hay cái mới chính là phần phát triển sau của truyện dân gian.

2. Phân tích

– Hoàn cảnh éo le, bi đát của ông Trương Ba

+ Trương Ba với là một ông lão làm vườn yêu thiên nhiên, cỏ cây, sống chan hòa với mọi người

+Trương Ba chết một cách oan uổng do sự vô tâm, tắc trách của Nam Tào. Lại được Bắc Đẩu “sửa sai” một cách vô lí là đã cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt mới mất sau đó. Đã không sai khiến được còn bị xác thịt điều khiển, dẫn đến linh hồn bị nhiễm độc bởi cái tầm thường. Ý thức được điều đó, hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định bằng cách tách ra để sống độc lập, hướng tới sự hoàn thiện về nhân cách.

+ Ban đầu hồn Trương Ba tỏ vẻ coi khinh xác anh hàng thịt :”Mày không có tiếng nói mà chỉ là cái xác thịt âm u, đui mù” . Xác thịt đã cười nhạo , chế giễu, bác lại hồn Trương Ba mà không biết sức mạnh âm u, đui mù của mình sẽ chiến thắng. “Lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy”

+ Trong cuộc đối thoại với xác Hàng Thịt, Hồn Trương Ba rơi vào tình cảnh yếu thế, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải mặc nhiên thừa nhận (cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì…”. Đó chính là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là “phàm”. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”,…)

+ Xác thịt đã tìm cách thỏa hiệp bằng cách nêu cụ thể những nhu cầu mang tính bản năng của con người ( các món tiết canh cổ hũ…), khẳng định vai trò của mình :” Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới , nhìn ngắm trời đất, cây cối, người thân…”

+ Xác Hàng Thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện.

+ Xác Hàng Thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…”.

+ Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn lúc này chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.

+ Trước lí lẽ ti tiện của xác thịt, hồn Trương Ba nổi giận mắng mỏ, khinh bỉ xác thịt hèn hạ và cố chống lại nhưng phần nào cũng ngậm ngùi vì hắn có lí, hồn TB bị dồn vào thế yếu. Thấm thía nghịch cảnh, Trương Ba trở lại xác thịt trong tuyệt vọng.

Qua màn hội thoại của hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt cho thấy rằng Trương Ba được Bắc Đẩu trả lại cuộc sống, nhưng cuộc sống đó là cuộc sống không đáng sống vì cái thanh cao phải dung hòa với cái thấp hèn, dung tục, thì đó chẳng phải là bi kịch hay sao? Thể xác và linh hồn con người là 2 thực thể có mối quan hệ hữu cơ, không thể vênh lệch, tách rời. Xác thịt có nhu cầu sự sống, nhu cầu mang tính bản năng. Hồn mang tính chất thanh cao góp phần điều chỉnh thể xác hòa hợp, vươn tới sự hoàn thiện nhân cách. Cuộc tranh cãi giữa hồn ông Trương Ba và xác hàng thịt là bi kịch thứ nhất của Trương Ba vì xác đã thắng. Tác giả đã cảnh báo, khi con người phải sống trong cái tầm thường, dung tục thì tất yếu sẽ bị nhiễm độc bởi cái xấu, cái đẹp sẽ bị lấn át, tàn phá.

+ Hồn là biểu tượng cho sự thanh nhã, cao khiết, trong sạch, đạo đức nhưng tất cả hoàn toàn trái ngược qua phần đối thoại với xác. Hồn Trương Ba để lại trong mắt xác hàng thịt là một kẻ phàm ăn, tục uống ; mê rượu và háo sắc ; cư xử thô bạo với mọi người,…

+ Những biểu hiện ngay trong đối thoại khi Hồn Trương Ba không còn là chính mình : cư chỉ, điệu bộ lúng túng, khổ sở ; giọng điệu có khi yếu ớt, lời thoại ngắn ; khi đuối lý lại dùng lời lẽ thô bạo để trấn áp “Ta… Ta… đã bảo mày im đi”

– Bi kịch của sự tồn tại riêng rẽ: con người không thể chỉ sống bằng thân xác mà cũng không thể sống bằng tinh thần.

– Nỗi đau khổ của Hồn Trương Ba khi tìm về những người thân trong gia đình

+ Người vợ vừa hờn ghen vừa dằn dỗi chồng, có cảm giác ông là người sống xa lạ với mọi người.

+ Đứa con trai cả quyết định bán khu vườn để đầu tư vào sạp thịt.

+ Cái Gái, đứa cháu nội mà ông yêu quý nhất, không thừa nhận ông là ông nội, thậm chí nó còn cự tuyệt đến quyết liệt “Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông”. Trong mắt nó, Hồn Trương Ba chỉ là một tên đồ tể, tay chân vụng về, luôn phá hoại.

+ Con dâu tỏ ra thông cảm, hiểu và đau cho nỗi đau sống nhờ và sự thay đổi của Hồn Trương Ba.

– Bi kịch bị người thân xa rời, khước từ cuộc sống.

– Khát vọng giải thoát khỏi thân xác người khác.

+ Trương Ba tự ý thức bi kịch của mình : “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.

=) Bi kịch sống nhờ vào thân xác người khác

– Trương Ba trước cái chết của cu Tị

+ Trước đề nghị đổi thân xác của Đế Thích, tính cách TB từ chỗ lưỡng lự, suy nghĩ rồi quyết định dứt khoát.

+ Trương Ba muốn chết thật là để cho mình được sống mãi hoài nhớ của mọi người.

- Giải thoát bi kịch của một sự giả tạo trong con người Hồn Trương Ba.

3. Đánh giá

– Hồn Trương Ba là một nhân vật quá chú trọng đời sống tinh thần mà coi nhẹ thân xác.

– Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba là bi kịch về nỗi đau của sự vênh lệch giữa thể xác và tâm hồn trong một con người. “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Tôi muốn là tôi toàn vẹn”- Đây cũng chính là triết lý sống của tác phẩm

– Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, nghệ thuật tạo tình huống và diễn tiến kịch kích độc đáo.

C. Kết luận

– Đánh giá chung về nhân vật và triết lý sống được gửi gắm qua nhân vật.

– Khẳng định tài năng viết kịch của Lưu Quang Vũ và sức sống của tác phẩm.