Dàn ý phân tích nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Minh Châu và tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
- Giới thiệu nhân vật Phùng
2. Thân bài
2.1. Một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm, say mê với cái đẹp
- Phùng là người say mê nghệ thuật, có trách nhiệm với công việc: sẵn sàng bỏ cả vài tuần để đi săn lùng một bức ảnh đẹp, loay hoay suốt mấy ngày vẫn chưa tìm được bức ảnh ưng ý.
- Tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với cái đẹp: trong một thoáng nhìn anh đã phát hiện ra cảnh đắt trời cho để chớp lấy,
+ Nhận xét “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một vẻ đẹp toàn bích.
+ Bối rối trước cái đẹp: “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”, nhận ra rằng “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”
- Nhận xét: Không chỉ nhạy bén trước cái đẹp, Phùng còn có cả những suy tưởng sâu sắc về quan hệ giữa cái đẹp với cái thiện: cái đẹp thực sự phải có khả năng thanh lọc tâm hồn con người.
2.2 Một tấm lòng luôn trăn trở về thân phận con người
- Trước cảnh bạo hành trong gia đình hàng chài, lúc đầu Phùng kinh ngạc tột độ: “chỉ biết há mồm ra mà nhìn”, nhưng sau đó đã vứt máy ảnh xuống chạy nhào tới. Khi chứng kiến thêm một lần nữa, Phùng đã can ngăn, rồi bị thương phải vào viện điều trị.
- Sau câu nói của người đàn bà ở tòa án (xin không bỏ chồng), Phùng cảm thấy bức xúc, “cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt” nên đã vén màn bước ra ngoài như muốn đòi lại công lí cho chị ta.
- Khi nghe câu chuyện của người đàn bà, trăn trở, ám day dứt trong lòng cho số phận những gia đình giống như gia đình Phác, anh xách máy ảnh đi lang thang.
- Nhận xét: Mặc dù chưa quen nghịch lí trong cuộc đời nhưng trong anh vẫn là phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ căm ghét những bất công, sẵn sàng hành động vì lẽ công bằng.
2.3. Là nhân vật tự ý thức
- Ban đầu, Phùng là người nghệ sĩ có thái độ dễ bằng lòng, nhìn đời bằng con mắt đơn giản một chiều (nghĩ đơn giản rằng những kẻ đi theo ngụy là xấu “lão ta hồi 75 có đi ính ngụy không?”), không sẵn sàng đối mặt với nghịch lí cuộc đời.
- Phùng cảm thông cho số phận của người đàn bà hàng chài, cuộc đời và câu chuyện của chị ở tòa án đã giúp Phùng vỡ lẽ ra nhiều điều, anh biết chấp nhận những điều nghịch lí ở đời.
- Thông qua những cảm nhận của Phùng, nhà văn gửi đến người đọc những nhận thức sâu sắc về cuộc đời, về nghệ thuật: cần phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều để phát hiện ra bản chất sau vẻ đẹp của hiện tượng
3. Kết bài
- Khái quát lại vấn đề
Bài văn mẫu số 1
Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp".
Có thể nói Chiếc thuyền ngoài xa là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khám phá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.
Hiện thực của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa không phải là bức tranh hoành tráng của mảnh đất chiến trường xưa A So từng ghi dấu bao chiến công, cũng không phải là những con người tạc dáng đứng hào hùng của mình vào lịch sử. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khỏe khoắn tươi rói của những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh. Thế nhưng, những gì anh chứng kiến đã khiến anh và những người bạn của mình nhận ra một sự thật gắn với cuộc sống của những người dân chài lam lũ:
"Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào".
Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn khiến con người phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn giản nhưng đã chứa đựng những phát hiện mới mẻ hàm chứa quan niệm văn chương hướng về con người của Nguyễn Minh Châu. Nếu chỉ nghĩ suy một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ xóa tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ cho chúng ta : cách mạng không phải giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung hòa với nó. Cách lý giải về con người của Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải qua những khổ đau để đối diện với hiện thực bao thách thức.
Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ như anh đã phát hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng, hướng người xem về cái đẹp có thể làm quên đi những phiền não cuộc sống: "Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời." . Và những người dân vùng biển ấy hiện lên thật đáng yêu, đáng ca ngợi: cuộc sống lao động đầm ấm khoẻ khoắn, những con người gặp gỡ thật đáng yêu...
Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của chiếc - thuyền - ngoài - xa. Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quật thẳng tay vào người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này "người yêu người, sống để yêu nhau" (Tố Hữu). Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như "gã đàn ông "độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian", còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: "Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh".
Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh choáng váng: "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...". Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt nhưng "các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc". Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.
Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đằng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh.
Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục súc nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếc thuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào...Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho "một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển". Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung...mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.
Nếu như trước kia, trong văn học 1945 - 1975, khi đề cập đến số phận con người thì bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con người, các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy không tránh khỏi có phần giản đơn và phiến diện. Nguyễn minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu.
Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: "Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người" (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ), "Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực" (Ngồi buồn viết mà chơi). Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía: "cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời."(Lê Ngọc Chương- Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu).
Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia?
Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: "Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông."
Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.
Bài văn mẫu số 2
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắt nhất trong việc thể hiện quá trình đổi mới về tư duy nghệ thuật chuyển từ cảm hứng sử thi lãng mạn sang cảm hứng thế sự đời thường.. “Chiếc thuyền ngoài xa “ là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng này. Ở tác phẩm này ông thực sự thành công với nghệ thuật miêu tả nhân vật, ông đã xây dựng được các nhân vật, để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người độc và phùng chính là một nhân vật như thế.
Phùng là một người quý trọng, say mê với nghề nhiếp ảnh của mình, anh đã được trưởng phòng giao cho nhiệm vụ chụp một bức ảnh về thuyền và biển trong sương mù vào giữa tháng bảy để in trong bộ lịch năm sau. Phùng đã tìm đến với biển miền Trung nơi chiến trường xưa. Anh đã bỏ cả tuần để tìm kiếm để suy nghĩ, rồi phục kích mãi mới chụp được một bức ảnh ưng ý, có thể xem là một cảnh đắt trời cho. Anh còn là người nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm, yêu tha thiết cái đẹp. Trước vẻ đẹp toàn bích của cảnh vật, tâm hồn của người nghệ sĩ như rung lên nhiều cảm xúc rất khó tả: “tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì đó bóp thắt vào…tôi tưởng như chính mình vừa tham gia vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Trong giờ phút thăng hoa cùng cái đẹp anh cảm nhận cái đẹp chính là đạo đức”.
Phùng còn là người căm ghét áp lực bất công, dám đối diện với cái ác và hành động chống lại các ác. Sau những phút ngỡ ngàng thấy cái ác cùng cái xấu diễn ra ở ngay trước mắt, ngay trên chính chiếc thuyền đẹp như mơ mà anh vừa thấy. Theo phản xạ tự nhiên như một sự yêu công bằng, đó là vứt máy ảnh xuống đất chạy tới ngăn cản người đàn ông vũ phu. Là một người từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng của đất nước, anh vẫn luôn giữ vững quan điểm “cái xấu ắt là từ phía địch”, vì thế anh đã ngộ nhận “gã đàn ông vũ phu kia hẳn là từng đi lính ngụy”, rồi đặt ra một câu hỏi “ lão ta trước hồi 75 có đi lính ngụy không?”, người đàn ông kia ắt hẳn là một người độc ác nhất thế gian còn người đàn bà ắt hẳn là nạn nhân hết sức đáng thương của bạo lực gia đình. Anh đã cho rằng hành động của anh chính là hành động của một anh hùng “tôi nện hắn ta bằng tay không nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay của một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay của một người lính đã từng mười năm cầm súng”..
Sau khi hiểu ra câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện đã giúp cho Phùng hiểu ra được nhiều điều. Lúc đầu anh phẫn nộ nhưng lại trở nên thông cảm, chua xót cho số phận của người đàn bà. Anh đã hiểu được đằng sau vẻ đẹp lãng mạn của chiếc thuyền đó là sự thật đầy tăm tối, gai góc của cả cuộc đời. Người đàn ông độc ác kia cũng chỉ là một trong những nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh, người đàn bà thô kệch, xấu xí đầy cam chịu đó lại là người hiểu sâu sắc lẽ đời. Từ đây anh đã hiểu ra được môi quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Nghệ thuật không thể tách rời cuộc sống mà phải chính là cuộc sống, gắn bó mật thiết với cuộc sống.
Nổi bật lên trong con người Phùng là một tấm lòng lo âu, trắc ẩn về con người. Sau khi nhiệm vụ đã hoàn thành thì Phùng khoác chiếc máy ảnh đi lang thang tới tận khuya nhằm để suy ngẫm. Anh nhìn thấy một chiếc thuyền lưới vó đang đậu ở giữa phá trong cơn bão. Đó là suy nghĩ trăn trở của anh về cuộc sống nhân sinh, về người đàn bà lam lũ bước ra từ bức tranh hoàn toàn tĩnh vật.
Phùng còn là một người nghệ sĩ khát khao đi tìm kiếm cái đẹp nhưng anh không vì thế mà quay lại sự thật của cuộc đời. Điều đáng quý nhất ở phùng đó là tấm lòng giành cho con người trong cuộc sống.
Đọc truyện ngắn, ta thấy nổi bật lên ở Phùng đó là những nét đẹp của một nghệ sĩ đam mê cái đẹp, yêu tha thiết về sự công bằng. Qua câu chuyện của người đàn bà ở toàn án huyện, anh đã nhận ra được nhiều điều về hiện thực cuộc sống và từ đó có những phát hiện mới mẻ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.
Bài văn mẫu số 3
Nguyễn Minh Châu thuộc trong số những nhà văn mở đường tài năng, tinh anh nhất cho văn học nước ta hiện nay. Sự tinh anh và tài năng ấy trước hết thể hiện ở quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật chuyển từ cảm hứng sử thi lãng mạn sang cảm hứng thế sự đời thường. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng này. Ở tác phẩm này ông thật sự thành công với nghệ thuật miêu tả nhân vật, ông đã xây dựng được các nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc và Phùng là một nhân vật như thế.
Phùng là một người quý trọng và say mê nghề nghiệp nhiếp ảnh của mình, anh được trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp một bức ảnh thuyền và biển trong sương mù vào giữa tháng bảy để in trong bộ lịch năm sau. Phùng đã tìm về vùng ven biển miền Trung nơi chiến trường xưa. Anh đã bỏ ra một tuần lễ suy nghĩ tìm kiếm, phục kích mới chụp được một bức ảnh ưng ý, một cảnh đắt trời cho. Phùng còn là người nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm, yêu tha thiết cái đẹp. Trước vẻ đẹp toàn bích của cảnh vật, tâm hồn người nghệ sĩ rung lên nhiều cảm xúc khó tả: “tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì đó bóp thắt vào…tôi tưởng như chính mình vừa tham gia vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Trong giờ phút thăng hoa cùng cái đẹp anh cảm nhận cái đẹp chính là đạo đức”.
Phùng còn là người căm ghét áp bức bất công, dám đối diện với cái ác và hành động chống lại cái ác. Sau phút ngỡ ngàng thấy cái ác, cái xấu diễn ra ngay trước mắt, ngay trên chính chiếc thuyền đẹp như mơ mà anh vừa thấy lúc trước. Phùng đã phản xạ một cách tự nhiên như một người yêu sự công bằng. Đó là hành động vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy đến ngăn cản người đàn ông vũ phu. Là người từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người. Anh vẫn giữ quan điểm từ thời chiến tranh “cái xấu ắt là từ phía địch”, vì thế anh đã ngộ nhận “gã đàn ông vũ phu kia hẳn là từng đi lính ngụy”, rồi đặt ra một câu hỏi “ lão ta trước hồi 75 có đi lính ngụy không?”, người đàn ông kia ắt hẳn là người độc ác tàn nhẫn nhất thế gian, còn người đàn bà ắt hẳn là nạn nhân đáng thương của bạo lực gia đình. Anh cho rằng hành động của anh là hành động của một người anh hùng “tôi nện hắn ta bằng tay không nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay của một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay của một người lính đã từng mười năm cầm súng”.
Nhưng câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện đã giúp Phùng hiểu ra nhiều điều. Lúc đầu anh phẫn nộ sau đó lại cảm thông chua xót cho số phận của người đàn bà. Anh hiểu ra đằng sau vẻ đẹp lãng mạn của chiếc thuyền là sự thật đầy tăm tối, gai góc của cuộc đời. Người đàn ông độc ác kia cũng chỉ là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh, người đàn bà thô kệch, xấu xí đầy cam chịu ấy chính là người hiểu sâu sắc lẽ đời. Đồng thời ai cũng nhận ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, Nghệ thuật không thể tách rời cuộc sống mà phải chính là cuộc sống, gắn bó mật thiết với cuộc sống.
Nổi bật lên ở nhân vật Phùng là tấm lòng âu lo, trắc ẩn về con người. Sau khi nhiệm vụ đã hoàn thành Phùng khoác chiếc máy ảnh đi lang thang tới tận khuya để suy ngẫm. Anh nhìn thấy một chiếc thuyền lưới vó đang đậu giữa phá trong cơn gió bão cấp 11. Đó chính là biểu tượng của tấm lòng âu lo, trăn trở của Phùng về cuộc sống nhân sinh, cũng chính về tấm lòng đó mà Phùng luôn nhìn thấy người đàn bà lam lũ bước ra từ bức tranh hoàn toàn tĩnh vật.
Phùng còn là người nghệ sĩ khát khao tìm kiếm cái đẹp nhưng anh không về thế mà quay lưng lại với sự thật cuộc đời cho dù sự thật ấy phũ phàng, trần trụi. Điều đáng quý nhất ở Phùng là tấm lòng dành cho con người trong cuộc sống, cái nhìn của anh về người đàn bà hàng chài, chị em thằng Phát vì thế thấm thía niềm cảm thông trân trọng.
Đọc truyện ngắn, ta thấy nổi bật lên ở Phùng là những nét đẹp của một nghệ sĩ đam mê cái đẹp, yêu tha thiết sự công bằng. Qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện, anh nhận ra được nhiều điều về hiện thực cuộc sống và từ đó có những phát hiện mới mẻ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.