Bài văn mẫu số 1
Trong sự nghiệp sáng tác của Hồ Chí Minh, thơ và truyện chỉ chiếm một phần nhỏ còn chủ yếu là văn nghị luận, những tác phẩm chủ yếu phục vụ cho sự nghiệp chính trị của Người. Trong số những tác phẩm của Bác có những kiệt tác sánh ngang với các thiên cổ hùng văn của dân tộc thì Tuyên ngôn Độc lập là tác phẩm tiêu biểu nhất. Tác phẩm có giọng văn hùng hồn thống thiết, có lí luận chặt chẽ sắc bén, có sức thuyết phục cao đối với người đọc và người nghe – Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh của những con người anh hùng Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. “Bản tuyên ngôn Độc lập” là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam (Trần Dân Tiên).
Tuyên ngôn Độc lập mở đầu là nêu thẳng vấn đề. Người nêu những căn cứ pháp lý, “những lẽ phải không ai chối cãi được”. Đó là những câu tuyên bố nổi tiếng được Bác rút ra từ hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mĩ. Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ: “Tất cả mọi người đều sinh ra… mưu cầu hạnh phúc”. Để làm nổi bật tính phổ biến của những lẽ phải, Người còn nêu những lời trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra… về quyền lợi”). Cách nêu dẫn chứng như thế vừa khéo léo vừa kiên quyết. Khéo léo vì tỏ ra tôn trọng chân lý chung dù chân lý ấy của các nước đang là kẻ thù gây ra. Cách nêu dẫn chứng ấy cũng hàm chứa một sự phê phán. Thực dân Pháp và đế quốc Mĩ – những kẻ xâm lược đã chà đạp lên chân lý, chà đạp lên lương tâm và lý tưởng của cha ông chúng. Đó là cách dùng lí lẽ của kẻ thù để chống lại kẻ thù, dùng gậy ông đập lưng ông. Hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ đều nhấn mạnh quyền con người, Bác nói thêm về quyền dân tộc. Câu nói của Người mở đầu cho trào lưu giải phóng dân tộc trên khắp thế giới. Đồng thời, đặt Bản tuyên ngôn của nước ta ngang hàng với hai bản tuyên ngôn đã nêu.
Bác lập luận như vậy là để kết tội thực dân Pháp. Những lời bất hủ trong hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ đã trở thành cơ sở pháp lý để Bác kết tội thực dân Pháp: “Thế mà đã hơn 80 năm nay… nhân đạo và chính nghĩa”. Sau khi kết thúc một cách khái quát tội ác của thực dân Pháp, bản tuyên ngôn nêu lên những dẫn chứng cụ thể để lật mặt nạ “bảo hộ” của thực dân Pháp trước toàn thể nhân loại: “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho… dân chủ nào”. Lời kể tội của tác giả hùng hồn và đanh thép. Cách lập luận trùng điệp như: “Chúng thi hành…”, “Chúng lập ra…”. “Chúng thẳng tay chém giết…” thể hiện được tội ác chồng chất của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Cách dùng hình ảnh của tác giả làm nổi bật sự tàn bạo của thực dân Pháp: “Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước … chúng tắm các cuộc… bể máu”.
Về kinh tế, Bác cũng kết tội thực dân Pháp từ khái quát đến cụ thể “Chúng bóc lột dân ta đến… tiêu điều”. Bác quan tâm đến những hạng người như: “dân cày và dân buôn trở nên bần cùng”, “chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên”. Lập luận như vậy là Bác muốn tranh thủ sự ủng hộ của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc bảo vệ nền Độc lập. Cả đoạn văn tác giả chỉ dùng một chủ ngữ “chúng” để chỉ thực dân Pháp, nhưng vị ngữ thì luôn thay đổi: “thi hành”, “lập ra”, “thẳng tay chém giết”, “tắm”… chỉ một kẻ thù là thực dân Pháp những tội ác của chúng gây ra trên đất nước ta vô cùng nhiều. Cách lập luận đanh thép cùng với những dẫn chứng cụ thể khiến kẻ thù hết đường lẩn tránh tội ác.
Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp gây ra là nạn đói khủng khiếp năm 1945: “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh đồng minh thì thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó, nhân dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, nhân dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói”.
Tác giả cũng không bỏ sót những tội ác khác của bọn thực dân Pháp như “trong năm năm chúng bán… cho Nhật”, tội thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa, tội “giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.”
Người kết tội thực dân Pháp một cách hùng hồn và đanh thép như vậy nhằm phơi bày bản chất tàn bạo, dã man của thực dân Pháp, lột mặt nạ “khai hoá”, “bảo hộ” của chúng trước nhân dân thế giới, khơi lòng căm thù của nhân dân ta với thực dân Pháp.
Tác giả biểu dương sức mạnh dân tộc trong công cuộc chống thực dân phong kiến và giành lấy nền Độc lập “Pháp chạy, Nhật hàng…chế độ dân chủ cộng hoà”. Đoạn văn này diễn tả đầy hào khí. Chỉ có 9 chữ “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, Bác dựng lại cả một giai đoạn lịch sử đầy biến động và cực kì oanh liệt của dân tộc ta. Biểu dương truyền thống bất khuất của dân tộc, tác giả nhằm kích thích tinh thần tự hào dân tộc, kích thích ý chí chiến đấu để nhân dân ta quyết tâm chống lại âm mưu của thực dân Pháp.
Tiếp theo, Người nêu cơ sở chính nghĩa của việc thành lập nước Việt Nam mới. Việt Minh là tổ chức cách mạng của toàn bộ dân tộc Việt Nam. Việt Minh đã đứng về phe đồng minh, đã chống lại thực dân Pháp và phát xít Nhật và đã giành chính quyền từ tay Nhật. Hai lần Người nhấn mạnh nền Độc lập của đất nước bẳng những câu văn điệp ngữ mạnh mẽ: “Sự thật là…”.
Trên cơ sở ấy, Người tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tuyên bố “thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xoá bỏ trên đất nước Việt Nam…”
Cuối cùng thay mặt cho cả một dân tộc vừa giành được tự do độc lập, Người nêu lời thề “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do Độc lập ấy” – Tuyên ngôn Độc lập là kiệt tác của Hồ Chí Minh. Bằng tâm huyết và tài hoa, Người đã thể hiện được khí phách của một dân tộc đang vùng dậy chống đế quốc, thực dân phong kiến, giành Độc lập tự do cho nước nhà. Với Tuyên ngôn Độc lập, lần đầu tiên Việt Nam hiện diện trên trường quốc tế với tư cách là một nước tự do độc lập và nhân dân thế giới cũng thấy được tinh thần quyết tâm bảo vệ nền Độc lập của dân tộc Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập trước hết là một văn kiện lịch sử. Nó là văn bản quan trọng bậc nhất của nước ta. Để có được Tuyên ngôn Độc lập, biết bao đồng bào, đồng chí đã hy sinh trong suốt 80 năm chống Pháp. Tuyên ngôn Độc lập là một cột mốc lịch sử, nó chấm dứt giai đoạn mất nước, giai đoạn nhân dân ta sống kiếp ngựa trâu, nô lệ của dân tộc, nó mở đầu một kỉ nguyên mới: kỉ nguyên Độc lập tự do.
Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, thống thiết, Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng sánh ngang với các bản tuyên ngôn trên thế giới và các thiên cổ hùng văn của các dân tộc khác như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
Bài văn mẫu số 2
Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử, thay mặt Chính phủ lâm thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bản tuyên ngôn độc lập không chỉ là một văn kiện lịch sử quan trọng, khẳng định nền độc lập tự do của nước nhà mà còn mang giá trị nghệ thuật văn chương.
Bản tuyên ngôn độc lập được Bác viết không chỉ cho đồng bào cả nước mà còn viết cho bọn thực dân đế quốc Mỹ, Pháp đang lăm le bờ cõi nước ta. Bản tuyên ngôn ra đời với mục đích chấm dứt chế độ thực dân phong kiến, mở ra kỉ nguyên độc lập tự do cho dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và qua đó khẳng định quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do, đập tan mọi luận điệu xảo trá của kẻ thù.
Trước tiên, bản Tuyên ngôn độc lập đi vào những cơ sở pháp lý. Bác đã nêu ra những căn cứ pháp lý “những lý lẽ không ai chối cãi được”, đó là bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ, và bản tuyên ngôn nhân quyền dân quyền năm 1791 của Pháp. Trong dó tuyên ngôn độc lập của Mỹ nêu rõ “Tất cả mọi người đều sinh ra… mưu cầu hạnh phúc” và bản tuyên ngôn nhân quyền dân quyền của Pháp “Người ta sinh ra… về quyền lợi”. Hai bản tuyên ngôn được Bác trích dẫn đều nhấn mạnh quyền con người, điều mà chúng đang xâm phạm nghiêm trọng trên mảnh đất chữ S. Đề cập đến 2 bản tuyên ngôn lớn của thế giới, không chỉ thể hiện thái độ trân trọng của Bác với những danh ngôn bất hủ mà còn là nghệ thuật lấy “gậy ông đập lưng ông” được Bác sử dụng rất khéo léo ở phần này.
Đây đều là những lời lẽ của tổ tiên Mỹ, Pháp, nhưng hiện tại, con cháu của họ đang đi ngược lại với những gì tổ tiên đề cao, đó là quyền con người, quyền được sống, được hưởng tự do và độc lập. Việc lấy dẫn chứng là hai bản tuyên ngôn lớn này, còn là ẩn ý của Bác, thể hiện niềm tự hào dân tộc sâu sắc của Người khi đặt 3 nền dân tộc, 3 cuộc cách mạng ngang hàng nhau, đặt bản tuyên ngôn của nước ta ngang hàng với 2 bản tuyên ngôn lớn đã nêu trên. Với giá trị lâu đời và uy tín của 2 bản tuyên ngôn Pháp – Mỹ, là chân lý đã được thừa nhận không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trên toàn thế giới đã trở thành cơ sở pháp lý vững chắc cho bản tuyên ngôn độc lập mà Bác viết cho nước Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở sự trích dẫn, Bác còn “suy rộng ra…”, ý nghĩa của việc này đã nâng quyền con người lên thành quyền dân tộc, đây là một đóng góp lớn đầy sáng tạo cho lý luận của phong trào cách mạng trên thế giới.
Nếu như trong bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ viết “Tất cả mọi người đàn ông đều sinh ra có quyền bình đẳng” thì Bác viết trong tuyên ngôn độc lập “tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng” sự thay đổi câu chữ này của Người “đã giải phóng cho một nửa nhân loại” (Lady Botton – nhà văn Mỹ). Như vậy, phần đặt vấn đề nêu ra những cơ sở lý luận của Bản tuyên ngôn độc lập được đặt ra một cách khéo léo. Hồ Chí Minh đã tạo một cơ sở vững chắc làm nền tảng cho bản “Tuyên ngôn độc lập”. Đoạn văn thể hiện nổi bật những nét đặc sắc trong nghệ thuật lập luận của tác giả.
Sau khi đặt vấn đề nêu cơ sở lý luận, bản tuyên ngôn đi đến giải quyết vấn đề, nêu cơ sở thực tế. Đầu tiên là nêu lên tội ác của thực dân Pháp với một hệ thống tội ác trên mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Về kinh tế, Bác đã khái quát tội ác của chúng trong một câu “Chúng bóc lột dân ta đến… tiêu điều”. Bác quan tâm đến những hạng người như: “dân cày và dân buôn trở nên bần cùng”, “chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên”. Với cách lập luận như vậy, Người muốn tranh thủ sự ủng hộ của khối đại đoàn kết dân tộc đặc biệt là liên minh công nông, nền tảng cốt lõi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Cả đoạn văn, tác giả lặp lại từ “chúng” để chỉ thực dân Pháp đây là điệp từ điệp âm tạo sự mạnh mẽ hùng hồn. Chỉ một từ chúng nhưng vị ngữ thì luôn thay đổi “thi hành”, “lập ra”, “thẳng tay chém giết”, “tắm”… cho thấy chỉ một kẻ thù thôi nhưng tội ác chúng gây ra nhiều không kể siết, tội ác trên mọi bình diện. Một từ chúng nhưng lại kết hợp với “tuyệt đối không cho” “thi hành” “ngăn cấm” cho thấy tội ác thủ tiêu tự do đối lập với cách chúng mị dân về “tự do” “dân chủ” “bình đẳng”.
Một từ chúng kết hợp với “lập nhà tù” “thẳng tay chém giết” cho thấy bản chất tàn bạo dã man đối lập với ngọn cờ “bác ái” “nhân đạo” mà chúng giương lên. Một từ chúng kết hợp với “dùng thuốc phiện rượu cồn” “ràng buộc dư luận” “thi hành chính sách…” cho thấy chính sách ngu dân bịp bợm xảo trá đối lập với “khai hóa, văn minh” thậm tệ hơn là “cướp” “bóc lột” “giữ độc quyền”. Đặc biệt là khi Nhật tiến vào Đông Dương, những kẻ tự xưng là nước mẹ ấy đã lộ rõ bản chất hèn nhát dã man tàn bạo khi dâng nước ta cho Nhật thậm chí chúng còn hèn nhát tàn bạo đến mức “quỳ gối” “bỏ chạy” “bán nước ta hai lần” “thẳng tay khủng bố” “giết nốt”. Cách lập luận đanh thép này đã khiến cho kẻ thù không thể chối bỏ tội ác mà chúng đã gây ra. Tội ác lớn nhất mà chúng đã gây ra là nạn đói cuối năm 1944 – đầu năm 1945.
“Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh đồng minh thì thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó, nhân dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, nhân dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói”. Tác giả cũng không bỏ sót những tội ác khác của bọn thực dân Pháp như “trong năm năm chung bán… cho Nhật”, tội thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa, tội “giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.”
Người kết tội kẻ thù một cách hùng hồn đanh thép như vậy nhằm phơi bày bộ mặt tàn bạo, vạch trần chiêu bài “bảo hộ” của những kẻ cướp nước trước toàn thể đồng bào, và trước dư luận toàn thế giới. Lời lẽ kết tội kẻ thù sắc bén của Người làm ta nhớ đến Nguyễn Trãi năm xưa với Bình ngô đại cáo:
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm…
…Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Đoạn văn là tội ác, bản chất phi nghĩa, vô nhân đạo của thực dân Pháp trước dư luận thế giới.
Không chỉ vạch trần tội ác của thực dân pháp, Bác còn nêu lên cuộc cách mạng chính nghĩa anh hùng của dân tộc, sử dụng từ tuy vậy để chuyển sang ý này cho thấy hành động của nhân dân ta hoàn toàn đối lập với thực dân Pháp, đây là cách lập luận chặt chẽ mạch lạc. Điệp từ “sự thật là…” mang lại âm hưởng mạnh mẽ thuyết phục người nghe bằng những lý lẽ không thể chối cãi khẳng định công lao to lớn của nhân dân những người chủ chân chính của đất nước. Sau khi nêu lên cuộc cách mạng chính nghĩa của dân tộc, Người khẳng định tự do độc lập, quan hệ từ “bởi thế nên” đã chỉ rõ quan hệ nhân quả, bên cạnh đó là những câu dài “thoát ly hẳn… xóa bỏ hết….kiên quyết chống lại …” đã tuyên bố chấm dứt hoàn toàn quan hệ thuộc địa với thực dân Pháp và khẳng định quyết tâm chống lại chúng.
Vạch trần tội ác của thực dân Pháp trước toàn nhân loại đồng thời ca ngợi cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, Hồ Chí Minh đã nêu ra cơ sở thực tế chính đáng để hưởng tự do độc lập của nước Việt Nam.
Cuối cùng, Bản tuyên ngôn độc lập kết lại với phần tuyên bố độc lập. Câu kết “Toàn thể nhân dân quyết giữ vững…” là lời tuyên bố chính thức trịnh trọng hùng hồn về độc lập dân tộc là lời thề thiêng liêng trước toàn dân tộc, đồng thời là lời cảnh cáo kẻ thù đang lăm le phá hoại đất nước ta. Đoạn văn ngắn gọn, súc tích, lời lẽ hùng hồn, trang trọng, là một lời tuyên bố đanh thép với toàn thể đồng bào, nhân dân thế giới và cả kẻ thù đang lăm le phá hoại thành quả Cách mạng về nền độc lập tự do của dân tộc ta.
“Tuyên ngôn độc lập” là một áng văn chính luận mẫu mực: lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, thuyết phục, hùng hồn, dẫn chứng cụ thể, chính xác,… Tác phẩm là lời tuyên bố trước toàn quốc dân và thế giới, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, khẳng định quyết tâm sắt đá bảo vệ nền tự do độc lập của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Bài văn mẫu số 3
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, tổng khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” trước năm vạn nhân dân thủ đô Hà Nội.
Bản “Tuyên ngôn độc lập” là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản “Tuyên ngôn độc lập” là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam” (Trần Dân Tiên).
Mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập”, Bác đã nêu lên “những lẽ phải không ai chối cãi được”. Bất ngờ nhất là “những lẽ phải” ấy Bác rút ra từ hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của nước Pháp và nước Mĩ. Không phải chỉ người Việt Nam, mà ngay cả người Mĩ cũng bàng hoàng khi nghe lời mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là một “lời bất hủ” trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Để làm nổi bật tính phổ biến của những lẽ phải, Bác còn nêu lên một câu trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Bác mở đầu bản Tuyên ngôn như vậy vì mấy lẽ:
Trước hết, bản “Tuyên ngôn độc lập” không phải nói với đồng bào trong nước mà còn tuyên bố trước nhân dân thế giới, tuyên bố cho bọn đế quốc thực dân đang lăm le cướp nước ta một lần nữa.
Một lẽ nữa là Bác muốn cho nhân dân ta và nhân dân thế giới biết là dân tộc Việt Nam đứng về phía “lẽ phải”, về phía văn minh của nhân loại.
Bác lập luận như vậy còn là để sửa soạn kết tội thực dân Pháp. Những “lời bất hủ” trong bản tuyên ngôn của Mĩ và Pháp đã trở thành cơ sở pháp lý để Bác kết tội thực dân Pháp.
“Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Sau khi kết tội một cách khái quát như vậy đối với thực dân Pháp, Bác còn đi sâu vào từng mặt để lột mặt nạ bảo hộ của thực dân Pháp trước toàn thể nhân loại. “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”. Lối kể tội của tác giả hùng hồn và đanh thép. Cách lập luận trùng điệp như: “Chúng thi hành…”, “Chúng lập ra…”, “Chúng thẳng tay chém giết…” thể hiện được tội ác chồng chất của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Cách dùng hình ảnh của tác giả làm nổi bật sự tàn bạo của thực dân Pháp. “Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”.
Về kinh tế, Bác cũng kết tội thực dân Pháp từ khái quát đến cụ thể:
“Chúng bóc lột dân ta đến xương tuỷ, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”. Bác quan tâm đến tất cả các hạng người như “dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng”, “chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên”. Lập luận như vậy là Bác muốn tranh thủ sự ủng hộ của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc bảo vệ nền độc lập.
Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp là đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945: “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”.
Tác giả cũng không bỏ sót những tội ác khác của bọn thực dân Pháp như “trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”, tội “thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa”, tội “giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
Kết tội thực dân Pháp một cách hùng hồn và đanh thép như vậy, tác giả nhằm đạt được mấy ý nghĩa sau đây:
Phơi bày bản chất tàn bạo, dã man của thực dân Pháp, lột mặt nạ “khai hoá”, “bảo hộ” của chúng trước nhân dân toàn thế giới.
Khơi dậy lòng căm thù của nhân dân ta đối với thực dân Pháp để nhân dân ta quyết tâm bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được.
Tác giả biểu dương sức mạnh của nhân dân ta trong công cuộc chống thực dân phong kiến để giành lấy nền độc lập “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị“. Dân ta đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà.
Biểu dương truyền thống bất khuất của dân tộc, tác giả nhằm kích thích tinh thần tự hào dân tộc, kích thích ý chí đấu tranh để nhân dân ta quyết tâm chống lại âm mưu của thực dân Pháp. Mặt khác, nhằm cảnh cáo những kẻ thù ngoại bang mà nguy hiểm nhất là đế quốc Pháp bấy giờ (thực dân Pháp chưa từ bỏ mộng “bảo hộ” nước ta một lần nữa). Đoạn văn này, tác giả diễn tả đầy hào khí chỉ có 9 chữ (“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”), Bác dựng lại cả một giai đoạn lịch sử đầy biến động và cực kì oanh liệt của dân tộc ta. Lời tuyên bố của Bác thật là hùng hồn: “Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.
Bác cũng khéo léo tranh thủ sự ủng hộ của Đồng minh đối với nền độc lập mà dân tộc ta đã đổ xương máu để giành lại: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”.
Sau khi trình bày những lí lẽ hùng hồn và đanh thép, thấu lẽ, đạt tình, Người tuyên bố độc lập: “Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Với lời tuyên bố hùng hồn và đanh thép đó, một lần nữa, Người dẹp tan mối hoài nghi của một số người trong nước và nhân dân thế giới về nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Người cũng nêu lên nhiệm vụ trọng đại của dân tộc ta trong giai đoạn này là “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
“Tuyên ngôn Độc lập” là kiệt tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng tâm huyết và tài hoa, Người đã thể hiện được khí phách của cả một dân tộc đang vùng dậy chống đế quốc, thực dân phong kiến, giành độc lập tự do cho nước nhà. Với “Tuyên ngôn Độc lập”, lần đầu tiên nước Việt Nam hiện diện trên trường quốc tế với tư cách là một nước tự do độc lập và nhân dân thế giới cũng thấy được tinh thần quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc Việt Nam.
“Tuyên ngôn Độc lập” là một tác phẩm chính luận mẫu mực, kết cấu chặt chẽ, lí lẽ đanh thép hùng hồn, thấu tình đạt lý. Câu văn gọn gàng, trong sáng một cách kỳ lạ, thuyết phục người nghe, người đọc vừa bằng lí lẽ hùng hồn, vừa bằng hình ảnh sinh động. Và kì tài là Người giải quyết nhiều vấn đề trọng đại của lịch sử trong một bản Tuyên ngôn khoảng chỉ 1000 chữ.