Nhân vật trung tâm của "Mùa Lạc" là Đào. Đây là một thành công đáng kể của tác phẩm này nói riêng, của đời văn Nguyễn Khải nói chung. Nguyễn Khải đã chọn một phụ nữ bình thường như vô vàn phụ nữ khác trong cuộc đời. Và đây cũng là một cách điển hình hóa rất riêng của ngòi bút Nguyễn Khải
Phải nói ngay rằng Đào có một ngoại hình không mấy hấp dẫn. Chỉ bằng vài nét, Nguyễn Khải đã dựng lên một người phụ nữ vất vả trong cuộc đời, lận đận trong tình duyên: dáng người thấp, chân ngắn bàn tay có những ngón thô, khuôn mặt thô, gò má cao, nhiều đốm tàn nhang, đôi mắt nhỏ hẹp, đưa đi đưa lại rất nhanh Những đường nét ấy cho thấy Đào khỏng phải là người xinh xắn. Rất may trên khuôn mặt ấy ta thấy có một cái miệng tươi, một chiếc răng khểnh. Những nét đó nói rằng Đào là người thông minh, sắc sảo.
Quả thực, những đặc điểm bên ngoài đó đã hé mở cho chúng ta đôi điều về tính cách của chị. Đào là một người yêu chồng thương con, chịu thương chịu khó, đảm đang, tháo vát. Những nét nổi bật và độc đáo ở người phụ nữ này là thông minh sắc sảo, cứng cỏi đến mức đáo để. Dào tuy ít học, nhưng bù lại, chị có một vốn hiểu biết văn hoá dân gian dồi dào, thuộc nhiều tục ngữ ca dao. Chị lại vận dụng vốn kiến thức của dân gian ấy một cách rất linh hoạt. Nhất là những lần đối đáp, trả đũa những người hoặc vô tình hoặc hữu ý chạm đến những rủi ro, mất mát, chua xót của đời mình. Khi nói về nhan sắc tuổi trẻ thì:
"Trâu quá xa, mạ quá thì
Hồng nhan bỏ bị còn gì là xuân"
Khi nói đến sự luống tuổi của mình thì:
"Mỗi năm một tuổi, cái tuổi nó đuổi xuân đi”
Đặc biệt là cái lần trả đũa ai đó đã đem mình - một người goá chồng xấu xí gắn cho Huân - một chàng thanh niên đẹp trai, lại là con cán bộ, thỉ lời lẽ của chị trở nên gai góc, sắc nhọn. Vốn hiểu biết văn hóa dân gian ở chị đã thực sự trở thành "vũ khí" để phản công lại đối phương. Chị Đào đến trước mặt Huân:
''Huệ thơm bán một đồng mười
Huệ tàn nhụy rữa giá đôi lạng vàng.
Giá đôi lạng vàng chứ chửa vị tất đã bán đâu anh Huân ạ!"
Những câu nói như thế đã trở thành một thứ vũ khí lợi hại sắc bén của một người phụ nữ đau khổ. Song điều quyết định đến tư tưởng của câu chuyện cũng như giá trị của tác phẩm là ở những diễn biến trong thân phận của Đào.
Cuộc đời của người đàn bà này diễn ra trên hai chặng lớn và hoàn toàn tương phản nhau. Nếu trước khi lên Điện Biên chị là người đàn bà gặp nhiều bất hạnh đã chán sống, thỉ sau khi lên Điện Biên, lòng yêu đời trở lại và chị tìm thấy niềm vui hạnh phúc của mình. Cuộc sống mới đã đền bù lại những gì mà chị đã bị số phận cướp đi
Như muôn vàn người phụ nữ nông thôn bình thường khác, chị có ước mơ về một hạnh phúc thật giản dị. Đó là một tổ ấm gia đình. Và chị đã từng có một hạnh phúc như thế. Chị đạt được ước mơ này cũng muộn và không phải hoàn toàn như ý. Chị đã có một gia đỉnh, có chồng, có con, đã từng được làm vợ, làm mẹ, từng được chăm sóc, vun vén cho cái tổ ấm ấy. Nhưng chẳng may chồng chị lại vướng vào cờ bạc, và vì cờ bạc nên đã bỏ chị mà đi, đến lúc hối cải trở về, thì chỉ sống với chị được vài năm rồi chết. Bao nhiêu tình cảm của người đàn bà chị dồn hết cho đứa con. Những đứa con cũng chỉ sống một thời gian ngắn rồi cũng cướp công chị. Chị thành người đàn bà trắng tay. Những gì chị chắt chiu gìn giữ, vun xới đều bị số phận cướp đi hết. Chị sa vào tình trạng khủng hoảng.
Khi người đàn bà đã mất đi cái hạnh phúc của mình đang có trong tay, thì dường như họ cũng mất luôn nhiệt tình sống. Đào bắt đầu bước vào những ngày chán chường, cùng cực. Dường như, Dào cũng muốn vào hùa với số phận để tàn phá nốt phần đời còn lại của đời mình. Chị đã chọn công việc hoàn toàn trái ngược với bản tính người phụ nữ, đó là nghề buôn xa. Nay Cao Bằng, mai Lạng Sơn, mùa vải về thì Hưng Yên, mùa nhãn thì sang Nam Định, cứ đòn gánh trên vai, ngày nắng cũng như mưa, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường, không gìn giữ... Rõ ràng chị đã sống như một người tiêu cực, lao vào công việc, tự dấn thân vào vất vả để quên đi nỗi bất hạnh
Và Nguyễn Khải tỏ ra rất am hiểu tâm lý phụ nữ trong việc miêu tả nhân vật của mình. Nhà văn đã thể hiện được một quy luật trớ trêu, chua xót: khi người ta rơi vào bất hạnh thì sẽ sa vào chán chường và khi nỗi chán chường đến cùng cực thì người ta cũng mất luôn cái tài sản của giời mình ấy là nữ tính. Chị Đào đã sống như là ném mình vào sự dầu dãi để cho nỗi cực nhọc tàn phá quăng đời còn lại của mình. Đồng thời chị cũng mất luôn nhu cầu chăm sóc đến hình thức, nhan sắc. Một thời gian sau. tóc chị đỏ quạch như chết, răng phai không buồn nhuộm
Như vậy. trước khi lên Điện Biên, Đào đã bị những mất mát đau khổ riêng đè nặng, khiến chị hoàn toàn thụ động trước số phận. phó mặc cho hoàn cảnh đưa đẩy. Có thể nói đó là một cơn khủng hoảng kéo dài. Chị đang trải qua những ngày đen tối nhất của đời mình.
Cuộc đời của Đào cứ như thế tiếp diễn không biết đến bao giờ. nếu như không có những ngày lên Điện Biên. Có thể nói, lên Điện Biên là bước ngoặt mở ra cuộc đời mới cho chị. Và ngòi bút của Nguyễn Khải cũng thực sự sâu sắc. tinh tế trong việc tập trung mô tả đoạn đời thứ hai này của Đào
Thực ra, Đào lên Điện Biên hoàn toàn không phải với một động cơ tích cực mà vẫn theo tâm lý của kẻ chán đời. Với tâm lý "con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân”, Đào đã tỉm lên Điện Biên để mà quên đời. Lên một nơi xa lạ, không gặp bất kì người quen nào để khỏi phải nhớ lại quá khứ đau khổ và bất hạnh của mình. Trong đoàn người hồ hởi lên Điện Biên để xây dựng cuộc sống mới thì Đào mang một động cơ riêng, một nỗi niềm riêng có vẻ như lạc lõng.
Nhà văn Nguyễn Khải khi mô tả nhân vật Đào đã rất am hiểu và tôn trọng quy luật tâm lý của cuộc sống. Ngay cả những người có khả năng thích ứng với môi trường mới, thì cũng khó có thể thay đổi một sớm một chiều. Mà mọi sự thay đổi đểu phải có quá trình có thời gian của nó. Đào cũng vậy, những ngày đầu lên Điện Biên, chị là người mang nặng mặc cảm. Những ý nghĩ xưa cũ, những định kiến lạc hậu đã cầm tù chị, làm cho chị luôn xa lánh mọi người, không dễ hòa nhập. Chị vẫn sống, vẫn làm việc nhưng không phải bằng sự gắn bó, bằng một niềm hứng khởi. Mà trái lại, chị lao vào công việc cũng chỉ để mà tìm quên Đào sống thu mình thui thủi một mình một bóng, tự cô lập mình trước tập thể.
Cuộc sống ở nông trường Điện Biên được Nguyễn Khải mỏ tà có thể nói là cuộc sống lí tưởng đối với những người như Đào. Bởi đây là một cuộc sống sôi động, vô tư, nó cuốn con người đi với nhịp sống hăng say, không ai còn bị gánh nặng của quá khứ đeo đẳng. Họ sống hết mình với hiện tại và tha thiết với tương lai. Đồng thời, đội sản xuất của Đào còn là một tổ ấm, mỗi thành viên đều được quan tâm, được chăm lo, ai cũng biết giúp đỡ, nâng niu. san sẻ cho nhau. Chính vì thế mà tâm lí của Đào dần dần thay đổi. Từ một người mang nặng mặc cảm, Đào dần dần đã tự giải phóng khỏi những mặc cảm của mình. Hàng ngày được chứng kiến nhịp sống vô tư và sôi động, Đào thấy sự lạc lõng của mình thật sự vô lí. Càng ngày chị càng thấy những định kiến của mình không phù hợp một chút nào với nhịp sống mới. Mặt khác những người trong đội sản xuất đã chủ động gần gũi với chị, động viên khuyên bảo, thuyết phục làm cho cách nghĩ cũ của chị cứ lung lay dán. Chị mới nhận ra một chân lý giản dị nhưng mới mẻ đối với chị: người ta không thể chỉ sống với quá khứ mà cần phải sống với hiện tại và tương lai. Người ta sinh ra ở đời như đôi đũa có đôi, không ai sống một mình mãi mãi được. Cứ thế, quan niệm mới ngày một ngày hai đã hình thành trong đầu óc của chị.
Tuy nhiên, sự tác động của môi trường chỉ là nhân tố khách quan, nếu thiếu yếu tố chủ quan thì cũng không thể có sự thay đổi. May thay, khát vọng hạnh phúc ở người đàn bà quá lứa lỡ thì này, té ra chưa hoàn toàn tắt hẳn. Những ngày chán chường, chị không dám mơ đến hạnh phúc, nhưng khát khao ấy vẫn âm ỉ cháy trong lòng chị. Nhiều hôm ốm đau phải nằm nhờ nhà bạn, nâng bát cơm bốc khói do bạn đưa cho, nhìn thấy gia đình bạn ấm cúng, chị lại nhớ tiếc cái gia đình đã mất của mình. Nếu không còn khao khát, hẳn lòng chị sẽ không gợn lên một chút tiếc nuối nào. Rồi những buổi đứng máy tuốt lạc với Huân, nhìn bộ ngực và đôi vai để trần đỏ như đồng hun dưới ánh nắng cao nguyên, lòng chị lại dây lên một nỗi thèm khát về một gia đình có người chồng khỏe mạnh như thế. Rõ ràng, tác động của cuộc sống chung quanh chỉ là sự khơi dậy, là sự thổi bùng lên cái ngọn lửa âm ỉ trong lòng chị. Và cuối cùng, trong mùa thu hoạch lạc, con người này đã thực sự thay đổi
Qua việc mô tả nhân vật Đào trong quá trình đổi thay căn bản về tính cách và thân phận, Nguyễn Khải đã ca ngợi cuộc sống mới mà cách mạng và nhân dân đang nhen lên trên khắp đất nước. Cuộc sống ấy thực sự là một quan hệ xã hội tốt đẹp mà mỗi thành viên trong đó đều cảm nhận được hạnh phúc rất cụ thể. Đó là cuộc sống mà mỗi thành viên đều được chăm lo nâng đỡ, ai cũng tìm được hạnh phúc cho riêng mình. Bằng cách ấy nhà văn đã ca ngợi công ơn đổi đời to lớn của cach mang. Cuộc sống mới đã đền bù được nhưng mất mát của số phận mà cuộc sống cũ không thể nào làm được
Nội dung câu chuyện còn chứa đựng một triết lý sâu xa Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Khải mô tả sự đổi thay của Đào diễn ra trên mảnh đất Điện Biên. Đây là mảnh đất chiến tranh từng ngự trị. trước kia chỉ có đạn bom và cái chết. Trước, mảnh đất ấy đã chết trong lòng chị Đào thì nay đang sống lại. Trước kia Đào tưởng mình đã đến cái bước tận cùng của đời mình. Nhưng không phải. cái chết khổng tiêu diệt được sự sống. Trái lại, sự sống đang nảy sinh từ cái chết ở nông trường Điện Biên, người ta tặng nhau những dây dù để làm võng, những vỏ mìn cóc làm bình hoa, vỏ pháo sáng làm ống đựng giấy khai sinh. Những phương tiện vốn dùng để tiêu hủy sự sống này đang trở thành những đồ vật chăm lo cho cuộc sống. Trong lòng Đào cũng có một đổi thay như thế, chị đã phá bỏ mối mặc cảm của mình để hòa nhập với cuộc đời, bước qua giới hạn của mình để đến bến bờ hạnh phúc mới. Đúng là "ớ đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy". Đó thực sự là một triết lí nhân sinh được rút ra từ cuộc đời nhân vật Đào, nhưng ý nghĩa của nó thỉ không chỉ dừng lại ở riêng "Mùa lạc". Bởi vì đời người là gì, nếu không phải là một nỗ lực không ngừng để liên tục bước qua những ranh giới của riêng mình? Đó cũng chính là ý nghĩa nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.