Bài văn mẫu số 1
Thi đề Đất nước là một cảm hứng chủ đạo của nền văn học Việt Nam qua các thời đại. Đặc biệt trong văn học cách mạng, cảm hứng ấy lại càng sục sôi, cuốn hút người thi sĩ. “Đất nước” trở thành tiếng gọi thiêng liêng, cao quý nhất đốì với mỗi con người khi vận mệnh dân tộc được đặt lên hàng đầu. Với “Đất nước”, Nguyễn Đình Thi đã xây dựng được một tứ thơ độc đáo, cái nhìn đất nước được cảm nhận trong cái nhìn về mùa thu dân tộc. Trong phần đầu của bài thơ, mùa thu đất nước được tái hiện qua một lăng kính cảm xúc đầy xúc động, thiết tha của tác giả:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Những buổi ngày xưa vọng nói về”.
Hà Nội được tái hiện trong nỗi nhớ của nhà thơ bằng khoảng thời gian buổi sáng, bắt đầu từ mùa thu hiện thực ở chiến khu Việt Bắc, gợi cảm nhận về không gian thu khoáng đạt, cao vời, sáng trong, mát lành. Hai chữ “sáng” lặp lại khiến người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tinh khôi, bừng sáng của đất trời vào thu. Biện pháp so sánh gợi nét đẹp cổ kính của mùa thu xưa và mùa thu nay cũng với tiết trời như thế, không gian như thế, với vẻ đẹp bền vững như thế.
Ghi những câu thơ rất ngắn nhưng cũng gợi được nét đẹp đặc trưng của mùa thu muôn đời: một buổi sớm mai, một làn gió thổi, mùi hương cốm mới,... tạo thành nét vẽ đẹp đẽ, dịu dàng, ấm áp trong lòng người. Nguyễn Đình Thi gợi nhiều hơn tả, tạo những trường liên tưởng sâu xa, chỉ cần gợi dậy một mùi hương cốm cũng đủ đánh thức hình ảnh của một mùa thu trong lòng người. Đó là hình ảnh của một mùa thu đẹp, một mùa thu muôn đời.
“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội”, câu thơ bản lề đầy xúc cảm của tác giả hướng về mùa thu xưa, nhịp thơ chậm hơn, gợi sự bâng khuâng, mang đầy nhung nhớ. Có cảm giác như Nguyễn Đình Thi nhả chữ, mỗi chữ nhả ra đều khắc sâu tình yêu, đong đầy nỗi nhớ. Hình ảnh mùa thu Hà Nội được gợi về rất ấn tượng. Bức tranh thu mang theo hơi lạnh của tiết thu. Cái “chớm lạnh” của cảnh báo hiệu hình ảnh một mùa thu bắt đầu. Trong cảm nhận tinh tế về tiết thu còn chứa đựng cả cái chớm lạnh của hồn người. Nghe được một chút lạnh để đón cả một mùa thu về. Từ láy “xao xác” gây ấn tượng thẩm mĩ sâu sắc cho người đọc. Không gian vốn rộng lại gợi ra một chiều xa, chiều sâu thăm thẳm. Người đọc cảm nhận được một không gian rất vắng lặng, thanh tĩnh của mùa thu Hà Nội với những nét gợi rất riêng biệt. Không chỉ gợi âm thanh nhẹ khẽ của gió thu mà còn nghe được âm thanh của lòng người. Một chút xôn xao, một chút xáo động của con người vào độ thu về. Đó chính là những nhịp đập tâm hồn, nhói lên sự nhung nhớ, lưu luyến, bịn rịn của con người.
Hình ảnh người ra đi được lồng vào bức tranh mùa thu Hà Nội với tư thế oai hùng, ngạo nghễ, tráng chí ngất trời. Nghệ thuật ngắt dòng khá độc đáo, với hình ảnh “thềm nắng lá rơi” giàu thẩm mĩ. Nét bút tài hoa của người nghệ sĩ đã dựng nên một bức tranh thu đẹp như một tấm thảm được dệt bằng nắng và lá. Câu thơ như dồn tụ được vẻ đẹp tinh túy nhất của đất trời mùa thu Hà Nội, lắng đọng trong xúc cảm Nguyễn Đình Thi. Hà Nội đẹp, thơ mộng và quyến rũ được hiện lên sinh động trong thơ Nguyễn Đình Thi. Câu thơ vừa có sự dứt khoát của ý chí, vừa có sự bịn rịn, lưu luyến trong tình cảm. Sự giằng xé trong tâm trạng của người ra đi được miêu tả hết sức tinh tế, kiên quyết trong ý chí, mạnh mẽ trong bước chân nhưng lưu luyến trong cảm xúc thương nhớ. Đằng sau họ là cả một Hà Nội thơ mộng, đẹp đẽ, là cả một tình yêu, nỗi nhớ đong đầy. Hình ảnh người ra đi có sự hòa quyện sâu sắc giữa chí và tình, chất chứa một tình yêu Hà Nội sâu thẳm. Nhịp câu thơ chính là nhịp tiếng lòng của con người, thiết tha, sâu lắng.
Nguyễn Đình Thi viết về mùa thu hay là tỏ lòng với quê hương, dân tộc? Yêu mùa thu, nhớ Hà Nội hay cũng chính là bộc bạch tình yêu đất nước, quê hương của mình. Mùa thu trong cảm nhận của Nguyễn Đình Thi không chỉ đẹp và thoáng buồn mà còn là mùa thu lên đường, mùa thu ra trận.
Hình ảnh mùa thu mới của đất nước được miêu tả đầy sinh động trong niềm tự hào và ý thức làm chủ sâu sắc của người nghệ sĩ. Giọng thơ, nhịp thơ được chuyển đổi nhanh mạnh, khỏe khoắn, thể hiện một tinh thần phấn chấn, háo hức, mê say. Hình ảnh mùa thu hôm nay được viết bằng những câu thơ ngắn, khỏe để diễn tả sự đổi thay mạnh mẽ. Mùa thu nay “khác” rồi, sự khác ở đây không chỉ đánh dấu, phân biệt giữa xưa và nay, giữa quá khứ và thực tại mà còn là sự đổi khác trong nhận thức, tư tưởng của con người. Mùa thu của một đất nước nô lệ, lầm than đã qua, mùa thu bây giờ tự do, độc lập. Niềm vui của đất trời hòa quyện niềm vui của con người trong ngày độc lập. Những câu thơ biểu hiện sự hân hoan, vui sướng tột độ của lòng người.
Tác giả bộc lộ trực tiếp những xúc cảm của mình. Không gian đất trời mở rộng trước mặt tác giả, hiển hiện một tư thế chủ động, kiêu hãnh của con người dân tộc, con người tự do, của một dân tộc tự do. Tác giả đứng giữa cái rộng dài của đất trời để lắng nghe, thu nhận thanh âm của cuộc đời mới trong niềm vụi bất tận. Niềm vui cuộc đời mới như tràn vào trong tâm hồn nhà thơ.
Khung cảnh đất trời mùa thu độc lập được gợi lại trong một “rừng tre phấp phới”. Vạn vật đất trời như cũng quyện hòa trong niềm vui chung của con người, của đất nước. “Phấp phới” không chỉ gợi sự xôn xao của cây lá mà còn diễn tả những nỗi xốn xang, mừng vui của lòng người. Mượn hình ảnh cây tre là linh hồn, bản sắc dân tộc, tác giả đã tinh tế khẳng định sự thay da đổi thịt kì diệu, sự hồi sinh hết sức mạnh mẽ của đất nựớc hôm nay.
Khái quát về vẻ đẹp đặc trưng của mùa thu độc lập, Nguyễn Đình Thi hình dung trời đất như khoác tấm áo mới, đẹp đẽ, rạng ngời. Biện pháp so sánh, ẩn dụ kín đáo đã vẽ nên một mùa thu với một tấm áo của ngày tự do, độc lập, một mùa thu trong biếc, một mùa thu nói cười, một mùa thu thiết tha. Mùa thu nay vừa có nét trong trẻo, mát lành của mùa thu muôn đời, vừa tưng bừng một niềm vui, hân hoan một niềm hạnh phúc trong ngày đất nước độc lập, vừa chất chứa độ lắng sâu, thiết tha đầy nhung nhớ. Nguyễn Đình Thi đã diễn tả được nét đặc trưng của mùa thu độc lập, bởi thế, trong mùa thu này, người đọc không chỉ cảm nhận được một niềm vui rạng rỡ mà còn thấu cảm được sự ngọt ngào, lắng sâu.
Tác giả diễn tả cụ thể niềm vui bất tận của mình trong mùa thu độc lập. Không gian mở ra vô tận, khoáng đạt, rợn ngợp, đây là trời xanh, núi rừng, kia là những cánh đồng, ngả đường, dòng sông,... Bao nhiêu cảnh sắc quê hương như phơi trải trước mắt tác giả, trong tình yêu, niềm kiêu hãnh tột độ. Mỗi lời thơ là một lời vui, mỗi câu thơ là một câu hạnh phúc. Điệp từ “những”, phép liệt kê, cùng với cách ngắt nhịp ngắn gọn, sự chuyển đổi trong cách hô gọi, từ tôi đến chúng ta, đã thể hiện sinh động niềm vui của tất cả mọi người, niềm hạnh phúc, tự hào của tất cả mọi người dân Việt trong ngày độc lập. Nguyễn Đình Thi đã dùng tiếng nói cá nhân người nghệ sĩ để nói hộ tiếng lòng của cái ta cộng đồng, của nhân dân, cách mạng.
Nhịp thơ lại có sự thay đổi, chậm .lại, sâu lắng hơn. Cảm xúc nhà thơ quay về với truyền thống của cha ông, lí giải chiều sâu của lịch sử đất nước. Câu thơ lắng lại trong cảm xúc thành kính, linh thiêng. “Rì rầm” lời căn dặn của cha ông trong quá khứ như còn vang vọng đến tận hôm nay, vừa gợi sự thiêng liêng, thành kính, vừa gợi nét gần gũi, thân thiết. Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng từ “vọng”, chất chứa đầy hoài niệm. Quá khứ của cha ông như kéo gần về thực tại, câu thơ thật sự bắc được cầu nối giữa hiện tại và quá khứ, một cầu nối tri âm.
Đất nước trong ngày độc lập không chỉ được lí giải bằng sự hồi sinh của cảnh vật, con người mà còn được bắt rễ sâu xa từ tinh thần quá khứ oai hùng của cha ông. Quá khứ là bệ phóng cho hiện tại và tương lai. Hình tượng đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Đình Thi tạo được chiều sâu khôn cùng, không chỉ được đo bằng cái dài rộng của không gian, thời gian, bởi địa lí, lịch sử mà còn được soi chiếu bởi chính quá khứ anh hùng của con người dân tộc. Bởi vậy, hình ảnh Đất nước được hiện lên là đất nước muôn đời bền vững.
Bài văn mẫu số 2
"Tháng tám mùa thu, lá rơi vàng chưa nhỉ? Từ độ người đi, thương nhớ âm thầm, ..." Nhắc về mùa thu của non sông Việt Nam thì chẳng đâu hơn mùa thu của Hà Nội, cái mùa mà mỗi con người Việt Nam luôn cảm thấy bồi hồi, thân thương nhất. Mùa thu của một Hà Nội - Thăng Long ngàn năm văn hiến cứ vấn vương, da diết trong ta biết bao điều. Thu Hà Nội thật đẹp, thật nên thơ, trữ tình. Chẳng vậy mà bất cứ người con nào của Hà Nội đi xa cũng đều nhớ về quê hương, nơi có Hồ Tây chiều hôm, có hương sen thơm, có "hương cốm mới" và có một mùa thu thật dịu dàng. Với Nguyễn Đình Thi cũng vậy, Hà Nội trong ông, quê hương đất nước trong ông là một mùa thu của Hà Nội thật bình yên, vương vấn tâm hồn người:
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những con phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy."
Chẳng phải mùa xuân với những đóa hoa thơm rực rỡ khoe sắc màu, không phải mùa hạ với tiếng ve kêu râm ran, cũng chẳng phải mùa đông với những vạt sương bảng lảng trên mặt hồ Gươm buổi sớm, mùa thu của Hà Nội mới là thứ khiến cho Nguyễn Đình Thi luôn bâng khuâng mỗi khi nhớ về. Bởi Hà Nội đẹp nhất, dịu dàng nhất có lẽ chính trong những ngày với sắc trời thu này. Mang tâm sự của một người ra đi, Nguyễn Đình Thi đã vẽ lại mùa thu ly biệt thật đặc sắc đã từ nửa thế kỉ trước thế mà vẫn khiến tâm hồn người đọc chúng ta vương vấn mãi không thôi.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi đã viết trong nỗi nhung nhớ đến cháy lòng, nhớ một mùa thu đã xa. Ông đã xúc động mà viết lên cái hồn của đất nước muôn đời để mở đầu cho bài thơ "Đất nước":
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới".
Những rung động sâu thẳm trong tâm hồn tác giả đã khiến ông tái hiện lên một mùa thu trong nỗi nhớ miên man của mình. Những sáng mùa thu với hương gió lạnh se se áo, với những chùm hoa sữa ngất ngây lòng người, với bầu trời xanh, với khí trong lành, ... Như Nguyễn Khuyến cũng đã gợi tả:
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt"
Phải, bầu trời ấy thật trong lành, "mát trong" biết bao nhiêu như những ngày tháng "năm xưa". Chỉ với hai từ "mát trong" dường như khiến cho tâm hồn của chúng ta được đắm trong cái không khí của làn gió thu mơn man khắp da thịt, thổi mát của tâm hồn con người khiến cho ta thật lâng lâng. Chỉ với hai chữ này thôi, cả một mùa thu với khí thu, hồn thu của sông núi được tóm lại thật gọn gàng, với màu sắc thật đẹp đẽ. Ở đây, Nguyễn Đình Thi đã sử dụng phép so sánh giữa hiện tại và quá khứ "sáng mát trong" của ngày hôm nay với "sáng năm xưa". Đặt vào thời điểm sáng tác bài thơ này, chúng ta mới thật hiểu được ý của tác giả. Bài thơ được sáng tác trong vòng tám năm, tám năm trời thai nghén từ 1948 đến 1955, biết bao mùa thu đã đi qua Hà Nội, có những năm tháng chiến tranh tàn khốc, có những năm tháng thật êm dịu. Thế nhưng, sáng mùa thu này, thu Hà Nội trở lại là thu Hà Nội, dịu dàng, trong trẻo như xưa, như những ngày thu êm đềm, chiến tranh chưa bắt đầu. Hay cũng có thế là mùa thu độc lập đầu tiên sau những năm tháng dài của chiến tranh khi Bác Hồ thân yêu của chúng ta đứng giữa quảng trường Ba Đình lịch sử dõng dạc đọc bản Tuyên Ngôn khai sinh ra một nước Việt Nam độc lập tự do? Nhưng dù là gì thì mùa thu Hà Nội vẫn "mát trong" như thế, vẫn đẹp và bình yên như thế.
Câu thơ thứ hai, Nguyễn Đình Thi đã viết:
"Gió thổi mùa thu hương cốm mới"
Nếu nhắc về thu Hà Nội mà không nhắc tới món cốm gói trong lá sen thì có lẽ sẽ là một thiếu sót lớn. Thế nên, trong cái nhớ lưu luyến của một người sắp đi xa, thức quà đặc sản mà Nguyễn Đình Thi nhớ nhất là món cốm làng Vòng. Hương gió thu thoang thoảng thổi qua đây mang theo "hương cốm mới". Cái hương cốm ấy quyện sánh lại trong làn gió thu, lướt qua những con phố, phả vào lòng người nỗi nhớ bâng khuâng mùi lúa nếp non, mùi cốm mới thơm nồng. Nó khiến cho con người bừng lên nỗi nhớ da diết không thôi cái hương vị đậm đà của quê hương xứ sở. Người Hà Nội đi đâu cũng không thể nào quên được cái vị thơm nồng của những hạt cốm được gói trong từng lớp lá sen. Cũng như Hữu Thỉnh, ông nhận ra cái thứ mùi riêng biệt, đặc trưng của mùa thu - "hương ổi", cái mùi hương ấy quấn quýt trong làn gió thu khiến cho ai cũng phải vương vấn:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió thu
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Chẳng phải đến thơ Nguyễn Đình Thi ta mới biết đến món đặc sản ấy của Hà Nội, mà từ trong những bài văn xuôi của Vũ Bằng, của Thạch Lam cũng luôn nhắc nhở rằng: cốm vòng Hà Nội là "thức quà riêng của đất nước", "thức quà thanh nhã và tinh khiết". Nhưng đến với thơ Nguyễn Đình Thi, người ta lại cảm nhận được nét đẹp thoáng chút buồn của hồn quê hương đất nước, của Hà Nội trong hương cốm mùa thu.
Dòng hồi tưởng miên man đưa Nguyễn Đình Thi trở về những năm tháng của quá khứ, nhắc ông nhớ tới những hoài niệm xưa kia. Lòng ông trải ra với bao xúc cảm dồn nén, những kỉ niệm xưa ùa về, dâng tràn trong nỗi lòng người thi sĩ:
"Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may"
"Những ngày thu đã xa" mà Nguyễn Đình Thi nhắc tới phải chăng là những ngày thu trước ngày giã biệt quê hương, Hà Nội ra đi vì sông núi non sông, vì dân tộc yêu dấu. Những ngày thu đó giờ đã trở thành miền kí ức "đã xa", hằn in dấu lên tâm hồn người con của Hà Nội. Ra đi vì chí lớn, nhưng nỗi lòng mang nặng niềm thương với Hà Nội thân yêu, để đền giờ đây bao nhiêu nỗi nhớ cứ ùa về trong lòng thi sĩ, nhắc ông nhớ về sáng thu "chớm lạnh" của thành phố quê hương. Cái "chớm lạnh" se se của đầu thu ấy đã gieo vào lòng người biết bao nhung nhớ. "Chớm lạnh" nghe sao mà gợi tả gợi tình, nó không chỉ diễn tả những cơn gió vừa se se hiu hắt của những buổi sáng mùa thu mà còn ẩn trong đó là cảm nhận của con người. Vậy giữa những ngày "chớm lạnh trong lòng Hà Nội" ấy, ta có gì để nhớ? Ta nhớ "những con phố dài xao xác hơi may". Hà Nội ba mươi sáu phố phường, mỗi con phố lại gợi lên những cảm giác riêng, không khí riêng, để làm lên cái riêng khác biệt của Hà Nội.Chẳng vậy mà Nguyễn Đình Thi lại nhớ da diết "những con phố Hà Nội" lúc mùa thu "chớm lạnh" đến thế! Bởi hình ảnh của những con đường với những chiếc lá vàng bay trong gió thu, mang theo cái hơi thu hiu hiu, khiến cho lòng người thêm se sắt. Nguyễn Đình Thi đã khéo léo lồng vào trong câu thơ một từ Hán Việt "hơi may", vừa tinh tế lại quá đỗi giàu sức tưởng. "Hơi may", cũng có nghĩa là gió lạnh, thế nhưng đọc lên hai tiếng "hơi may", người ta thấy nó sao tình tứ, ngọt ngào quá! Nếu đặt hai từ "gió lạnh" ở đây để thay thế thì không khí của câu thơ chẳng phải cái không khí se se kia sẽ nhuốm màu lạnh giá hay sao?
Trong thơ xưa, Nguyễn Khuyến cũng đã có lần dùng từ "hơi may" để gợi tả những cơn gió thu, cái từ mà chỉ gợi lên cái không khí lành lạnh, se se chứ không phải cái lạnh giá mang hơi thở của mùa đông:
"Lác đác ngô đồng mấy lá bay
Tin thu heo hắt lọt hơi may".
Không những vậy, tác giả còn đặt ở đây từ láy "xao xác". Chỉ nghe thôi người ta đã cảm nhận được âm thanh của những chiếc lá bay, đang nhẹ cuốn trên từng vỉa hè, con phố. Đó là tiếng lá rơi, âm thanh của những nhánh cây đang khẽ rùng mình trong cái "chớm lạnh" đầu thu.
"Những con phố dài xao xác hơi may"
Phố Hà Nội xưa nay luôn nổi tiếng với những vẻ đẹp cổ kính và thu Hà Nội cũng vậy, cũng khiến cho người ta man mác buồn, bâng khuâng một nỗi nhớ tha thiết. Chỉ với vài nét bút, Nguyễn Đình Thi đã vẽ lên một Hà Nội của "những ngày đã xa" với cái chớm lạnh se sắt đầu thu của những cơn gió thu, với cái âm thanh "xao xác hơi may" của những chiếc lá vàng. Ông đã để lại trong lòng chúng ta một cảm nhận rất riêng về thu Hà Nội. Phải yêu thương Hà Nội đến thế nào, hiểu rõ Hà Nội thế nào, ông mới trân quý, mới gợi tả được mùa thu Hà Nội đẹp đến như thế?
Và hai câu cuối của khổ thơ, Nguyễn Đình Thi lại cất lên nỗi lòng của mình trong tâm trạng của người ra đi. Giọng thơ ông vẫn vậy, vẫn buồn thương da diết, nhưng ở đây, cái buồn ấy như nhân lên gấp bội lần vừa sâu lắng lại vừa thiết tha, non nỉ:
"Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy".
"Người ra đi" vì chí lớn non sông, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, biết là thế nhưng sao trong lòng còn vấn vương, còn lưu luyến quá đỗi thế này. Mang trong lòng biết bao kỉ niệm về Hà Nội, về mùa thu của Hà Nội với hương cốm mới, với cái chớm lạnh, cái xao xác của những lá sấu, lá me bay, đó là hành trang để người chiến sĩ bước ra đi. Câu thơ vang lên mà ta nghe thấy cả tiếng lòng quyết tâm đến tột độ của người chiến sĩ. "Không ngoảnh lại" phải chăng đó là sự quyết tâm ra đi để đem về hòa bình, đem về những sáng mùa thu trong mát "như sáng năm xưa"? Nghe đâu đây âm vang của những lời thề "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" của những người lính năm nào!
Câu thơ sau tiếp nối quả là một câu thơ đặc sắc. Người ra đi để lại sau lưng là những giọt nắng thu vương vãi trên thềm nhà, là lá thu rơi trên nền đất, trải rộng trên "những phố dài". Câu thơ không chỉ dùng để tả cảnh mà còn dùng để nói lên nỗi lòng của chính tác giả. Đó là sự lưu luyến, sự ngập ngừng chẳng muốn rời xa. Mặc dù ra đi với quyết tâm "đầu không ngoảnh lại", khí thế là thế, nhưng chẳng thể tránh khỏi những phút lưu luyến, nghẹn ngào nhớ thương. Cái quay lưng của người chiến sĩ quyết tâm là thế, nhưng nghe sao bâng khuâng quá đỗi, bởi người thi sĩ - chiến sĩ ấy còn lưu luyến với quê hương, với mùa thu quê nhà. Cảm xúc ấy dường như là cảm xúc chung của lứa thanh niên trí thức ra đi vì Tổ quốc thời ấy bởi Quang Dũng cũng đã từng viết:
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Từ chiến khu xa xôi, người chiến sĩ nhớ về quê nhà với bao tình thương mến, nỗi nhớ man mác sâu nặng chứa chan cả niềm tự hào.
Đoạn thơ trên là đoạn mở đầu của tác phẩm "Đất nước" được thai nghén trong vòng tám năm của tác giả Nguyễn Đình Thi. Đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông, không chỉ về mặt ý nghĩa mà là cả nghệ thuật nữa. Đã bao người viết về thu Hà Nội, nhưng chưa ai có cái nhìn vừa cảm quan lại sâu sắc như ông, bởi ông là người con của Hà Nội, gắn bó với Hà Nội suốt những tháng năm tuổi thơ. Mùa thu Hà Nội trong ông mang nỗi buồn day dứt, khó tả, mang theo cả hồn thơ sông núi muôn đời nữa. Một chút "xao xác hơi may", "hương cốm mới", cái "chớm lạnh" trên "những phố dài" cổ kính, tất cả đều làm nên một mùa thu khó quên trong lòng người ly biệt. Vậy nên, dù quyết tâm ra đi vì chí lớn non sông, người khách ly biệt cũng chẳng thể nào thôi lưu luyến nắng thu, lá thu đang "rơi đầy" ngoài "thềm" trong gió thu kia.
Đoạn thơ đã gợi tả xuất sắc hình ảnh của mùa thu Hà Nội trong nỗi nhớ của người ly biệt. Nguyễn Đình Thi đã giúp cho chúng ta càng thêm yêu hơn dáng hình non sông quê hương mình, yêu thêm những con phố cổ kính của Hà Nội -Thăng Long ngàn năm văn hiến.