Dàn ý chi tiết Phân tích về nhân vật Hạ Du
1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm, nhân vật: Truyện ngắn Thuốc được sáng tác tác theo quan điểm “ chữa bệnh tinh thần còn quan trọng hơn chữa bệnh về thể xác”, truyện không chỉ phản ánh sự u mê, lạc hậu của người dân Trung Quốc trong xã hội đương thời mà còn thể hiện bi kịch của người làm cách mạng nhưng không nhận được sự ủng hộ của nhân dân, thể hiện trực tiếp qua nhân vật Hạ Du.
2. Thân bài
– Nhân vật Hạ Du không được miêu tả trực tiếp mà chỉ xuất hiện gián tiếp qua những câu chuyện, những dòng suy tư của các nhân vật trong truyện.
–> nhân vật có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của truyện ngắn.
– Nhân vật Hạ Du được xây dựng dựa trên nguyên mẫu là người chiến sĩ Thu Cận
– Hạ Du là người sớm được giác ngộ cách mạng, có lí tưởng cách mạng rõ ràng, cao đẹp: lật đổ ngai vàng, đánh đuổi ngoại tộc, giành độc lập, tự do cho nhân dân.
– Với người trong xã hội ngoài kia thì Hạ Du chỉ là “thằng quỷ sứ”, “thằng khốn nạn”, là một kẻ điên. Mọi người xung quanh đều hiểu lầm về người chiến sĩ ấy.
– Những người trong quán trà vui sướng khi nghe kể chuyện Hạ Du bị tên cai ngục giáng cho hai cái tát vì đã tuyên truyền “thiên hạ Mãn Thanh là của chúng ta”
– Khi đã bị xử tử, máu của anh nhỏ xuống pháp trường cũng trở thành thứ “hàng hóa” có thể mang ra kinh doanh, để trở thành thứ thuốc thần kỳ có thể chữa bệnh cho thằng Thuyên, con trai độc đinh của vợ chồng lão Hoa.
– Bi kịch lớn nhất trong cuộc đời làm cách mạng của Hạ Du là bi kịch bị hiểu lầm, bị nhân dân quay lưng.
+ Mẹ của Hạ Du cũng hiểu lầm về con, tỏ ra xấu hổ với những việc con mình đã làm
+ Chú ruột của anh lại là người “bán đứng”, tố cáo anh để đổi lấy mấy đồng bạc.
– Khi đã chết, mộ của Hạ Du cũng bị xếp về phía bên phải của nghĩa trang, nơi dành riêng cho những người tử tù và những người bị xử án chém.
3. Kết bài: Hình ảnh Vòng hoa hồng hồng, trắng trắng trên mộ của Hạ Du phần cuối tác phẩm đã thể hiện sự trân trọng của tác giả Lỗ Tấn cũng như hàng triệu độc giả trước sự hy sinh cao cả của người chiến sĩ ấy.
Bài văn mẫu số 1
Lỗ Tấn là nhà văn lớn, người đặt những viên gạch đầu tiên cho văn học cách mạng Trung Quốc, bàn về vai trò, vị trí của Lỗ Tấn trong văn học Trung Quốc, Quách Mạc Nhược đã từng khẳng định “Trước Lỗ tấn, chưa hề có Lỗ Tấn, sau Lỗ Tấn, có vô vàn Lỗ Tấn”. Bằng tài năng và tấm lòng của mình, Lỗ Tấn hướng ngòi bút đến phản ánh những hiện thực nóng bỏng của xã hội, chủ trương dùng văn chương như một thứ thuốc tinh thần để chữa bệnh cho người dân Trung Quốc “ chữa bệnh tinh thần còn quan trọng hơn chữa bệnh về thể xác”. Truyện ngắn Thuốc được sáng tác tác theo quan điểm đầy nhân văn đó, truyện không chỉ phản ánh sự u mê, lạc hậu của người dân Trung Quốc trong xã hội đương thời mà còn thể hiện bi kịch của người làm cách mạng nhưng không nhận được sự ủng hộ của nhân dân, thể hiện trực tiếp qua nhân vật Hạ Du.
Nhân vật Hạ Du không được miêu tả trực tiếp mà chỉ xuất hiện gián tiếp qua những câu chuyện, những dòng suy tư của các nhân vật trong truyện nhưng nhân vật lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của truyện ngắn.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Hạ Du trong truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn
Nhân vật Hạ Du được xây dựng dựa trên nguyên mẫu là người chiến sĩ Thu Cận, như Lỗ Tấn từng tâm sự “ Viết Hạ Du là để kỉ niệm Thu Cận, một nữ chiến sĩ cách mạng của Quang Phục hội”, nữ chiến sĩ này là người khai sáng cho từ Trung Quốc nữ báo để tuyên truyền giải phóng phụ nữ, bà là người có nhiều đóng góp cho cách mạng nhưng lại có cuộc đời ngắn ngủi khi phải lên đoạn đầu đài khi 36 tuổi.
Hạ Du là người sớm được giác ngộ cách mạng, có lí tưởng cách mạng rõ ràng, cao đẹp: lật đổ ngai vàng, đánh đuổi ngoại tộc, giành độc lập, tự do cho nhân dân. Mang trong mình những lí tưởng cao đẹp nhưng trong mắt của vợ chồng lão Hoa, những người trong quán trà và rất nhiều người trong xã hội ngoài kia thì Hạ Du chỉ là “thằng quỷ sứ”, “thằng khốn nạn”, là một kẻ điên. Mọi người xung quanh đều hiểu lầm về người chiến sĩ ấy.
Những người trong quán trà vui sướng khi nghe kể chuyện Hạ Du bị tên cai ngục giáng cho hai cái tát vì đã tuyên truyền “thiên hạ Mãn Thanh là của chúng ta”, theo họ thì Hạ Du bị xử tử là rất đáng, không có gì phải thương hại. Ngay cả khi đã bị xử tử, máu của anh nhỏ xuống pháp trường cũng trở thành thứ “hàng hóa” có thể mang ra kinh doanh, để trở thành thứ thuốc thần kỳ có thể chữa bệnh cho thằng Thuyên, con trai độc đinh của vợ chồng lão Hoa.
Bi kịch lớn nhất trong cuộc đời làm cách mạng của Hạ Du là bi kịch bị hiểu lầm, bị nhân dân quay lưng. Ngay mẹ của Hạ Du cũng hiểu lầm về con, tỏ ra xấu hổ với những việc con mình đã làm, chú ruột của anh lại là người “bán đứng”, tố cáo anh để đổi lấy mấy đồng bạc.
Khi đã chết, mộ của Hạ Du cũng bị xếp về phía bên phải của nghĩa trang, nơi dành riêng cho những người tử tù và những người bị xử án chém. Con đường mòn đi vào nghĩa trang cũng trở thành biểu tượng cho sự ngăn cách giữa sự hiểu lầm, cách li của nhân dân với sự nghiệp cách mạng cao cả của người chiến sĩ ấy. Sự ngăn cách này cũng đã phản ánh thực trạng mê muội, lạc hậu của quần chúng nhân dân khi xa rời chính trị, một phần do sự xa rời quần chúng của những người làm cách mạng.
Hình ảnh Vòng hoa hồng hồng, trắng trắng trên mộ của Hạ Du phần cuối tác phẩm đã thể hiện sự trân trọng của tác giả Lỗ Tấn cũng như hàng triệu độc giả trước sự hy sinh cao cả của người chiến sĩ ấy. Chiếc vòng hoa không chỉ làm cho người mẹ Hạ Du xúc động vì cuối cùng cũng phần nào hiểu được con mà còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của cách mạng.
Bài văn mẫu số 2
Lỗ Tấn là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Trung Quốc. Ông chủ trương lấy tác phẩm của mình để chữa trị căn bệnh tinh thần cho người dân Trung Hoa lúc bấy giờ. Thuốc là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, được sáng tác năm 1919 khi cuộc vận động Ngũ Tứ bùng nổ. Trong truyện ngắn này, bên cạnh hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu đầy ám ảnh, ta còn ấn tượng sâu sắc với nhân vật Hạ Du, người cách mạng nhưng lại chịu cái án xử tử đầy bi thảm.
Ở tác phẩm trước hết là sự xuất hiện của nhân vật đám đông, họ xuất hiện lần đầu tiên vào buổi sáng sớm, ở pháp trường, khung cảnh diễn ra vô cùng náo loạn. Trong họ mang niềm phấn khích tột cùng, háo hức đến xem cảnh hành hình người chiến sĩ cách mạng Hạ Du. Lần thứ hai đám đông được tác giả khắc họa khi trời đã sáng hẳn, lúc này không gian có sự thay đổi, từ pháp trường dịch chuyển về quán trà của lão Hoa, họ bàn tán, bình luận về người tử tù, về cái chết của tử tù, về những việc Hạ Du đã làm.
Nhân vật Hạ Du không được trực tiếp xuất hiện trong đoạn trích này mà chỉ được xuất hiện trong những lời bàn tán của những người khách bên quán trà của nhà ông Hoa. Nhân vật này có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành ý nghĩa tư tưởng của đoạn trích, bởi nó là mắt xích chi phối toàn bộ sự việc trong tác phẩm. Nhân vật Hạ Du là nhân vật biểu hiện cho lý tưởng cách mạng, là người chiến sĩ giác ngộ cách mạng rất sớm khi nhận ra dân tộc mình đang sống trong bóng tối của sự u mê. Thậm chí có người còn nói anh là điên, là khùng, dở hơi đi làm những chuyện đó.
Hạ Du dành cả cuộc đời, tuổi xuân của mình để hoạt động cách mạng, thậm chí khi bị giam giữ trong trại giam đợi ngày tử hình thì Hạ Du vẫn hiên ngang tuyên truyền lý tưởng cách mạng. Tuy nhiên, mọi nỗ lực của anh lại không được đền đáp, đấu tranh, dâng hiến cả sự sống cho sự nghiệp đấu tranh của nước nhà nhưng điều Hạ Du nhận lại chỉ là sự miệt thị, coi thường của quần chúng. Ngay cả mẹ của anh cũng không thể hiểu được những điều anh đang làm và từng có lúc xấu hổ vì có người con là kẻ phản tặc, chú ruột của anh vì cái lợi trước mắt mà bán đứng anh cho chính quyền.
Bộ mặt tàn bạo của xã hội phong kiến Trung Quốc, họ không thấy được cái giá trị, việc làm của Hạ Du. Tác giả phê phán, vạch rõ sự u mê, mù quáng, lạc hậu của quần chúng, những kẻ không có tinh thần dân tộc, tư tưởng mất gốc, lạc hậu về chính trị. Qua dư luận của quần chúng, nhà văn Lỗ Tấn cho ta hiểu nhiều điều gì về các chiến sĩ cách mạng ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Qua biểu hiện của dư luận và sự ghẻ lạnh của quần chúng cho thấy sự thoát li quần chúng của nhân vật Hạ Du. Hoạt động cách mạng của hạ Du quá đơn độc theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Điều đó thức tỉnh con người rằng nếu các chiến sĩ cách mạng không giác ngộ quần chúng để khi chết không ai hiểu gì về ý nghĩa về việc làm của mình thì mọi lý tưởng cao đẹp cũng trở thành vô nghĩa lý.
Qua hình ảnh nhân vật Hạ Du, tác giả bày tỏ sự kính trọng, cảm phục nhân cách, lòng yêu nước của người chiến sĩ cách mạng Hạ Du, đồng thời bộc lộ lòng thương cảm sâu xa đến những chiến sĩ tiên phong của cách mạng Tân Hợi.
Ở cuối truyện, hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du chính là niềm lạc quan của tác giả về con người và tương lai của dân tộc. Mẹ Hạ Du thăm mộ vào tiết Thanh minh và phát hiện có vòng hoa trên mộ, bất giác bà giật mình. Rõ ràng có một vòng hoa, rồi bà ngạc nhiên đến sững sờ. Vòng hoa không có nhiều hoa nhưng được đặt rất chỉnh tề, trang trọng. Với hình ảnh vòng hoa trên mộ thể hiện một niềm mơ ước, nguồn an ủi, niềm tin của tác giả vào sự hi sinh của người chiến sĩ cách mạng, không phải mọi người đều hững hờ.
Bài văn mẫu số 3
Lỗ Tấn đã rất thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Hạ Du. Một nhân vật không hề nói lời nào nhưng có tác động lớn lao đối với các nhân vật khác và sự phát triển của cốt truyện.
Nhân vật Hạ Du không xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm mà được giới thiệu thông qua các nhân vật khác và qua thái độ của người kể chuyện .
Hạ Du là một người yêu nước , một nhà cách mạng tiên phong , dũng cảm xả thân vì nghĩa lớn. Anh là người ôm mộng “cải tạo nhân sinh”. Để tìm kiếm con đường cứu nước, Hạ Du sang Nhật để học hỏi công cuộc Duy tân, rồi gia nhập tổ chức cách mạng. Khi trở về nước, Hạ Du bắt đầu tuyên truyền cách mạng và bị khủng bố, bị tàn sát
Qua đó, có thể nhận thấy, Hạ Du là nhà cách mạng tiên phong, có lý tưởng cao đẹp, luôn đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Hạ Du có tính cách dũng cảm, hiên ngang, xả thân vì nghĩa lớn nhưng lại rất cô đơn, không ai hiểu được việc làm đến nỗi mẹ anh cũng gào khóc kêu anh chết oan.
Số phận của Hạ Du giống như những chiến sĩ cách mạng khác cùng thời của mình. Cuộc đời và số phận của Hạ Du cũng là cuộc đời và số phận của Từ Tích Lân, Thu Cận, những chí sĩ cách mạng yêu nước. Đặc biệt là Thu Cận – nhà nữ cách mạng tiên phong bị bắt và hành hình lúc 32 tuổi. Thu Cận cũng bị hành hình tại Cổ Hiên Đình Khẩu.
Nhà văn đã không chỉ một lần nhắc đến Thu Cận. Số phận bi thảm của nhà nữ cách mạng này trẻ tuổi này đã khắc sâu trong tâm khảm nhà văn. Nhà văn đã nhắc nhiều đến nữ cách mạng Thu Cận vì Thu Cận là biểu tượng của một lớp thanh niên giác ngộ sớm thời đại bấy giờ.
Hạ Du đã hết mình chiến đấu vì đất nước nhưng dưới con mắt của mọi người (những người đang ngủ mê), anh chẳng khác gì một tên phản loạn. Họ háo hức chờ đợi mua máu anh làm thuốc chữa bệnh. Cả Khang – đao phủ thì giành lấy cái áo của người bị xử chém, bán máu. Cụ ba Hạ thì phát giác cháu để được 25 lạng bạc như một căn bệnh bệnh hám tiền, trục lợi. Còn bọn thanh niên thì gọi Hạ Du là thằng quỷ sứ, “thằng nhãi ranh….làm giặc, “cái thằng khốn nạn điên rồ”.
Bộ mặt tàn bạo của xã hội phong kiến Trung Quốc. Họ không thấy được cái giá trị, việc làm của Hạ Du. Tác giả phê phán, vạch rõ sự u mê, mù quáng, lạc hậu của quần chúng, những kẻ không có tinh thần dân tộc, tư tưởng mất gốc, lạc hậu về chính trị…
Qua dư luận của quần chúng, nhà văn Lỗ Tấn cho ta hiểu nhiều điều gì về các chiến sĩ cách mạng ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Qua biểu hiện của dư luận và sự ghẻ lạnh của quần chúng cho thấy sự thoát li quần chúng của nhân vật Hạ Du. Hoạt động cách mạng của hạ Du quá đơn đọc theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Điều đó thức tỉnh con người rằng nếu các chiến sĩ cách mạng không giác ngộ quần chúng để khi chết không ai hiểu gì về ý nghĩa về việc làm của mình thì mọi lý tưởng cao đẹp cũng trở thành vo nghĩa lí.
Qua hình ảnh nhân vật Hạ Du, tác giả bày tỏ sự kính trọng, cảm phục nhân cách, lòng yêu nước của người chiến sĩ cách mạng Hạ Du, đồng thời bộc lộ lòng thương cảm sâu xa đến những chiến sĩ tiên phong của cách mạng Tân Hợi.
Hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du chính là niềm lạc quan của tác giả về con người và tương lai của dân tộc. Mẹ Hạ Du thăm mộ vào tiết Thanh minh và phát hiện có vòng hoa trên mộ, bất giác bà giật mình. Rõ ràng có một vòng hoa.. rồi bà ngạc nhiên đến sững sờ. Vòng hoa không có nhiều hoa nhưng được đặt rất chỉnh tề, trang trọng. “Thế này là thế nào? Câu hỏi vang lên trong lòng người mẹ đáng thương vừa nói lên sự bàng hoàng, sửng sốt, vừa ẩn dấu một niềm vui: có người hiểu và kính trọng con mình.
Bà Hoa nhìn về mộ con bỗng thấy lòng trống trải. Chi tiết có tác dụng làm nổi bật sự chăm sóc đặc biệt của ai đó trên mộ Hạ Du. Điều đó khiến mẹ Hạ Du suy nghĩ “Hoa không có gốc..”. Bà thắc mắc tự hỏi và dần hiểu ra mọi việc và khóc thương xót cho Hạ Du “Oan cho con lắm… cảm thấy nhẹ người đi”.
Với hình ảnh vòng hoa trên mộ thể hiện một niềm mơ ước, nguồn an ủi, niềm tin của tác giả vào sự hi sinh của người chiến sĩ cách mạng, không phải mọi người đều hững hờ.
Truyện không đặt nhân vật cách mạng vào vị trí chủ yếu mà chỉ đặt ở tuyến ngầm phía sau. Điều này có dụng ý khi quần chúng chưa giác ngộ thì máu của người cách mạng đổ ra thật vô nghĩa, không được ai chú ý. Truyện đặt số đông quần chúng chưa được giác ngộ vào vị trí chủ yếu để chỉ rõ ràng, mục đích của tác phẩm vẫn là vạch trần sự đầu độc của tư tưởng phong kiến, nhằm thức tỉnh quần chúng đang mê muội.
Hạ Du chính là hình ảnh tượng trưng của cuộc cách mạng Tân Hợi, một cuộc cách mạng góp phần đánh đổ chế độ phong kiến Trung Quốc nhưng lại xa rời quần chúng nên thất bại.Qua hình tượng Hạ Du ,Lỗ Tấn muốn bày tỏ lòng kính trọng với cuộc cách mạng này. Qua hình tượng nhân vật Hạ Du, truyện ngắn Thuốc là tiếng nói phê phán quyết liệt sự lạc hậu của quần chúng và mong ước quần chúng sẽ tiến bộ hơn, có cái nhìn đúng đắn hơn về người chiến sĩ cách mạng.
Bài văn mẫu số 4
Lỗ Tấn (1881-1936), là một nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc, đại diện cho thành tựu của nền văn học hiện đại nước này, được Mao Trạch Đông vinh danh là "là thánh nhân của vô sản cũng như Khổng Tử là thánh nhân của phong kiến", với gia tài những tác phẩm mang giá trị thời đại xuất sắc. Bắt đầu bằng khao khát cứu chữa bệnh tật cho con người, nhưng sau nhiều trải nghiệm và ánh nhìn sâu sắc, rõ ràng Lỗ Tấn đã nhận ra rằng vào thế kỷ thứ 20, người Trung Quốc đều mắc chung một thứ bệnh mà không thuốc men nào có thể chữa được, đó là căn bệnh hèn yếu, dốt nát và mê tín. Lỗ Tấn nhận thấy rằng bản thân phải tìm ra một thứ "thuốc" khác, chữa lành cái tinh thần u mê của dân tộc mình lúc bấy giờ, và còn gì thích hợp hơn là những giá trị tinh thần được truyền tải trên các trang văn nữa. Ông chính thức bỏ nghề y, theo nghiệp văn vô sản, khai sáng đồng bào từ đó. Thuốc là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Lỗ Tấn, cũng đồng thời truyền bá được tư tưởng của nhà văn về một thứ "thuốc" làm cho dân chúng giác ngộ được cách mạng và gắn bó với cách mạng, chứ không phải tiếp tục u mê, dốt nát với những hủ tục và các phương thuốc điên rồ được nữa. Trong tác phẩm nhân vật Hạ Du là một trong hai khía cạnh của xã hội mà Lỗ Tấn muốn đề cập đến, anh đại diện cho cách mạng Trung Quốc lúc bấy giờ.
Hạ Du xuất hiện trong tác phẩm trong một sự kiện thật khiến người ta phải trăn trở suy nghĩ. Anh không một lần nào xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm mà chỉ thấp thông qua thái độ của người kể chuyện và lời bàn tán các nhân vật trong truyện. Với người kể truyện Hạ Du là một người đáng trọng, đáng thương xót nhưng cũng lại là người đáng trách. Đáng kính trọng ở chỗ anh là một chiến sĩ cách mạng có tấm lòng yêu nước sâu sắc, anh thấu hiểu được việc phải giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức bóc lột của quân phát xít Nhật. Được xem là một trong những người thức tỉnh sớm và sáng suốt tiêu biểu giữa một cộng đồng dân tộc rộng lớn còn đang say ngủ, u mê cả về khoa học lẫn chính trị. Tư thế người cách mạng đi tiên phong của anh được thể hiện một cách rõ nét trong việc khi đã bị bắt vào tù, xác định đường chết nhưng Hạ Du vẫn rất kiên cường, một lòng với cách mạng, cố gắng thuyết phục và rủ đề lao cùng làm "giặc", trở thành chí sĩ cách mạng. Tuy nhiên thật đáng buồn rằng sự nỗ lực của anh đã bị đáp lại mang những lời mắng chửi, cùng với những trận đòn đau vì người ta nghĩ anh bị điên, anh là thứ giặc đáng chết. Bên cạnh đó tấm lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, ý thức giác ngộ của anh còn được thể hiện trong câu tuyên truyền mà anh nói với lão Nghĩa mắt cá chép rằng: "Thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta". Điều đó thể hiện lý tưởng của một nhà cách mạng vô sản lúc bấy giờ chính là lật đổ ngai vàng, xóa bỏ chế độ phong kiến đớn hèn, ngu ngục, giành chính quyền về tay nhân dân. Đồng thời cũng thể hiện ý thức bảo vệ đất nước, đánh đuổi ngoại tộc, giành lại độc lập, tự chủ cho đất nước.
Tuy nhiên Hạ Du dẫu có mang những lý tưởng to lớn, vẻ vang và tốt đẹp đáng được kính trọng như thế, nhưng ở nhân vật này lại cũng hiện diện một sự cô đơn và đáng thương vô cùng. Việc giác ngộ sớm giữa cả cộng đồng còn đang mê ngủ, đã đẩy anh vào tình thế một con thiên nga đứng giữa bầy vịt cỏ, đẩy Hạ Du vào tình cảnh lạc lõng và trơ trọi. Không ai thấu hiểu việc anh làm, người ta xa lánh, sợ hãi, thậm chí họ còn chửi anh là kẻ điên, thứ phản động đáng phải nhận sự trừng phạt thích đáng. Cái đám đông hay chính là hình ảnh của nhân dân Trung Quốc lúc bấy giờ, khi bàn tán về Hạ Du, việc anh làm và cái chết của anh, họ đã có một cái nhìn thật tiêu cực, họ dành cho anh những từ như "thằng quỷ sứ", hay "cái thằng nhãi con ấy không muốn sống nữa, thế thôi!", rồi thì "cái thằng nhãi con ấy chẳng ra cái thá gì hết",... Hàng loạt những câu từ thật ghê gớm, thật cay nghiệt dành cho một chàng trai trẻ làm cách mạng, chẳng may bị bắt phải xử tử được tung ra, họ thoải mái phán xét bằng cái nhận thức u mê, tăm tối và lạc hậu mà không một chút xót thương. Hạ Du, anh đã gây nên tội nghiệt gì để phải thế? Đáng thương hơn nữa, cái chết của Hạ Du lại còn là do một tay người chú ruột sắp đặt, cái người được gọi là "cụ Ba" ấy đã đem cháu của mình ra thú, để rồi nhận ngon nghẻ đủ 20 lượng bạc trắng nhuốm đầy máu của cháu mình trong sung sướng. Rồi khốn nạn hơn nữa, cái chết của anh vì cách mạng, vì đất nước, vì nhân dân lại còn chẳng đáng giá bằng việc máu của anh tẩm vào bánh bao sẽ là thứ thuốc thần chữa khỏi cái bệnh "lao" quái ác, mà người ta tranh nhau giành giật. Người ta chỉ hóng cho anh bị xử tử rồi sẽ vội vàng hứng lấy máu anh để làm "thần dược" trị bệnh. Thật đáng lòng xót xa cho một kiếp người đầy lý tưởng cao đẹp, và cũng không khỏi ngao ngán cho cái xã hội Trung Quốc dẫu đã ở thế kỷ 20 mà vẫn còn đủ sự lạc hậu, u mê không lối thoát. Không chỉ những người ngoài, Hạ Du còn đáng thương hơn nữa bởi chính người mẹ rứt ruột đẻ ra anh cũng không hiểu được những việc con mình làm là cao quý, là xứng đáng, bà xấu hộ khi đến thăm mộ con, ngập ngừng không dám bước sang khu mộ của những người bị xử tử vì sợ phải điều tiếng. Có thể thấy rằng bi kịch của Hạ Du chính là sự cô đơn, lạnh lẽo trên con đường cách mạng, việc không được quần chúng thấu hiểu đã dẫn anh đến một kết cục đầy bi thảm. Anh chính là hình ảnh biểu trưng cho cuộc cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc, góp phần đánh đổ chế độ phong kiến lạc hậu, lỗi thời, nhưng vì sự xa rời quần chúng, không đạt được sự ủng hộ của đa số dân chúng nên đã phải chấp nhận rơi vào thất bại. Từ đó cũng nhận thấy rằng cái chết của Hạ Du - một chiến sĩ cách mạng yêu nước, giữa sự u mê lạc hậu của nhân dân, thật vô nghĩa, cũng không đem lại một thứ hiệu quả gì mang tính tuyên truyền, mà chỉ càng khiến những đám đông ngu muội, thêm tin tưởng vào sự ngu dốt ấu trĩ của mình. Một cuộc cách mạng chỉ thực sự thành công và người chiến sĩ chỉ hy sinh có ý nghĩa khi mà được thấu hiểu và được ủng hộ, toàn dân đoàn kết vì một mục đích chung.
Cuối cùng nhân vật Hạ Du, cũng như ý nghĩa cách mạng không phải là nội dung chính yếu mà Lỗ Tấn muốn nhắm đến. Mà thực tế sự xuất hiện của nhân vật Hạ Du là để tô đậm thêm cái "căn bệnh tinh thần", sự mê muội, chưa thức tỉnh của phần đông dân chúng Trung Quốc lúc bấy giờ, cũng như vạch trần sự đầu độc nguy hại của nhà nước phong kiến bảo thủ và lạc hậu dành cho nhân dân trong thời buổi loạn lạc lúc bấy giờ. Lỗ Tấn thực sự muốn tìm một phương "thuốc" để chữa tiệt cái căn bệnh ấy của quốc dân, nhưng có lẽ thời điểm viết tác phẩm này ông vẫn chưa xác định được, mà mới chỉ có niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng của cách mạng.
Bài văn mẫu số 5
Truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn ra đời vào tháng 5 – 1919 đã mang một hàm nghĩa sâu sắc. Tác phẩm đề cập đến mâu thuẫn của dân tộc, thời đại, khơi dậy nỗi ưu dân, nó đánh trúng vào căn bệnh tinh thần trầm trọng của dân tộc. Thuốc thể hiện tình trạng u mê, tê liệt của quần chúng và bi kịch của người cách mạng tiên phong trong xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX.
Nhân vật Hạ Du tuy không trực tiếp xuất hiện trong tác phẩm nhưng nhân vật này lại đóng vai trò quan trọng, bởi chính là mắt xích làm nảy sinh toàn bộ mâu thuẫn của câu chuyện cũng như chi phối các sự kiện khác trong tác phẩm. Hạ Du là con nhà bác Tứ chứ con nhà ai, là người cùng làng nên ai cũng biết họ tên, gốc gác,… Khi Hạ Du bị bắt, nằm trong ngục, trước lúc ra pháp trường còn cả gan tuyên truyền cách mạng cho lão Nghĩa mắt cá chép, rủ lão đề lao làm giặc nên đã bị lão ta đánh cho hai cái bạt tai. Những người cách mạng tiên phong như Hạ Du có lí tưởng chống triều đình phong kiến Mãn Thanh, họ sẵn sàng xả thân vì đại nghĩa, hy sinh vì cách mạng, vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Nhưng giữa đông đảo quần chúng u mê, họ chiến đấu một cách đơn độc. Chính vì thế, trong mắt của quần chúng nhân dân, anh là thằng quỷ sứ, là thằng nhãi ranh con, là thằng khốn nạn,… Với bác Cả Khang thì là đáng thương hại, với lão râu hoa râm thì hắn điên thật rồi và với cậu Năm gù thì Hạ Du đúng là một kẻ điên thật rồi. Cái chết của Hạ Du đã mang lại cho một số ít người món hời. May nhất là lão Hoa Thuyên đã mua được thuốc (chiếc bánh bao tẩm máu Hạ Du) để chữa bệnh lao phổi; rồi đến cụ Ba đưa đứa cháu ra đầu thú để được thưởng hai mươi lạng bạc trắng; lão Nghĩa đề lao được cái áo tử tù cởi ra trước khi ra pháp trường; bác Cả Khang thì được mấy đồng bán thuốc cho lão Thuyên,… Ngay cả mẹ Hạ Du cũng không hiểu con, bà kêu là oan con lắm Du ơi! và nguyền rủa chúng nó: Trời còn có mắt, chúng nó giết con thì rồi trời báo hại chúng nó thôi. Quần chúng đều u mê, không hiểu sự nghiệp của những người cách mạng như Hạ Du nên xa lánh, có cái nhìn không đúng đắn, thậm chí sai lệch khiến người cách mạng phải chiến đấu một thân một mình đơn độc, không có sự ủng hộ, đoàn kết, thiếu sức mạnh tập thể.
Ngôi mộ của Hạ Du được đặt ở nghĩa địa của người chết chém, bên trái con đường mòn. Đây là hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng cho sự nghiệp, sự hi sinh của những người cách mạng như Hạ Du trong thời điểm đó. Anh đã đi trước buổi bình minh, giác ngộ sớm vẫn không được quần chúng nhìn nhận một cách đúng đắn bởi sự u mê, tê liệt của họ. cần phải có một liều thuốc tinh thần chữa bệnh cho dân tộc, căn bệnh quốc dân tính vào lúc này cho người dân Trung Hoa. Trên ngôi mộ Hạ Du, người mẹ già đã rất ngạc nhiên, ngỡ ngàng khi thấy một vòng hoa vô danh với những cánh hoa trắng hoa hồng và hoa không nhiều lắm, xếp thành vòng tròn, không lấy gì làm đẹp, nhưng cũng ngay ngắn. Hình ảnh vòng hoa này cũng mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc: mặc dù quần chúng vào thời điểm ấy ở trong trạng thái tê liệt, u mê nhưng không phải tất cả, vẫn có những người hiểu, nhớ đến, tiếc thương, ngưỡng mộ tấm gương người cách mạng tiên phong đã hy sinh vì đại nghĩa. Người dân rồi sẽ thức tỉnh dần, cách mạng rồi sẽ có tiền đồ, có xu thế phát triển.
Tóm lại, Hạ Du là người chiến sĩ cách mạng tiên phong, sẵn sàng hi sinh vì sự nghiệp chống phong kiến, ngay cả khi đã là tử tù vẫn tuyên truyền, vận động cách mạng. Người chiến sĩ ấy đã hy sinh vì lý tưởng, vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc.