Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Dàn ý mẫu số 1
1. Mở Bài
. Giới thiệu: người phụ nữ Việt Nam thời xưa.
2. Thân bài
a. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa gợi ý 1:
– Đó là những con người đẹp đẽ, không chỉ ở bề ngoài mà chủ yếu ở những phẩm chất cao quý.
. Vẻ đẹp bề ngoài của người phụ nữ “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Lòng dạ sắt son vẫn được giữ vẹn “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
. Tình yêu thương, lòng nhân hậu:
“Quanh năm buôn bán ở mon sông.
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
. Tinh thần mạnh mẽ, dám vượt lên trên đớn đau để tìm niềm hạnh phúc:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.
b. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa gợi ý 2:
– Đó là những con người phải chịu nhiều nổi đau:
. Khổ đau vì vất vả, cực nhọc:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đong”.
. Khổ đâu khi không được làm chủ số phận của mình:
“Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”.
. Khổ đau vì cô quạnh, thiếu vắng hạnh phúc lứa đôi; vì không người yêu thương, thông cảm:
“Đêm khuya vắng vẳng trống canh đồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”.
“Chén rượu hương đưa say lại tình
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
“Ngàn nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
3. Kết bài
– Đánh giá chung: người phụ nữ Việt Nam thời xưa.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Dàn ý mẫu số 2
1. Mở bài: Giới thiệu hình ảnh người phụ nữ trong văn học nói chung.
Ví dụ: Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều bài thơ nói lên thân phận của người phụ nữ phong kiến xưa. Họ phải chịu sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến "Tam tòng, tứ đức" (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử và công dung ngôn hạnh).
Họ hầu như không có quyền quyết định cuộc đời mình, chỉ biết sống cam chịu và phục tùng. Cảm thông với số phận, thân phận và phẩm chất của người phụ nữ xưa, hai nhà thơ Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương đã thay họ nói lên tiếng lòng mình qua các bài thơ như: Tự tình, Bánh trôi nước, Thương vợ …
2.Thân bài
Các ý chính cần đạt là:
* Cảm hứng về người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và thơ Trần Tế Xương.
* Qua ba bài thơ, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa được thể hiện nổi bật những phẩm chất sau:– Người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, gian nan, vất vả:
+ Ở bài Bánh trôi nước là thân phận trôi nổi lênh đênh của người phụ nữ. Họ không có quyền lựa chọn quyết định tình duyên, thậm chí là cuộc sống của mình. Đó là hình ảnh người phụ nữ mang dáng dấp của những người phụ nữ cam chịu, nhẫn nhục trong ca dao xưa.
+ Ở bài Thương vợ là hình ảnh người phụ nữ chịu thương chịu khó, lặn lội sớm khuya, vất vả quanh năm vì những gánh nặng cơm áo gạo tiền của gia đình.
+ Ở bài Tự tình là nỗi buồn về thân phận, về chuyện tình duyên, về hạnh phúc gia đình – những điều rất quan trọng và vô cùng có ý nghĩa đối với những người phụ nữ. – Người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp và khao khát yêu
thương:
+ Trong hai bài thơ của Hồ Xuân Hương, hình ảnh người phụ nữ còn hiện lên nổi bật với niềm khao khát yêu thương và khao khát được yêu thương mạnh mẽ.
+ Ở bài Thương vợ, hình ảnh bà Tú nổi bật với vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống Việt Nam nhân hậu, đảm đang, giàu đức hi sinh, yêu chồng thương con hết mực.
3. Kết bài: Tổng kết và đánh giá vấn đề nghị luận. Nêu cảm nghĩ của bản thân.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Dàn ý mẫu số 3
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương
+ Hồ Xuân Hương (? - ?), là nhà thơ nữ sống vào khoảng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX.
+ Trần Tế Xương (1870 - 1907), là nhà thơ trào phúng sống vào khoảng cuối thế kỉ XIX.
- Giới thiệu hai bài thơ Tự tình II và bài thơ Thương vợ
+ Tự tình II nằm trong chùm thơ Tự tình gồm có ba bài, bài thơ là nỗi sầu oán, đau đớn của người phụ nữ truân chuyên.
+ Thương vợ là bài thơ hay và cảm động mà Tú Xương viết về vợ mình. Bài thơ thể hiện tình cảm yêu thương, quý trọng của Tú Xương dành cho người vợ tào khang của mình.
- Dẫn dắt vấn đề
+ Giới thiệu về hình ảnh người phụ nữ trong văn học nói chung
+ Cảm hứng về người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương
II. Thân bài
* Hoàn cảnh lịch sử khi ra đời và nội dung cơ bản của hai bài thơ
* Vẻ đẹp của người phụ nữa xưa chịu nhiều khổ cực
- Trong “Thương vợ”: bà Tú hằng ngày vất vả ngược xuôi buôn bán nuôi chồng, nuôi con, một nắng hai sương vì miếng cơm cho cả nhà.
- Trong “Tự tình II”: một người phụ nữ “hồng nhan bạc phận”, chịu nhiều tổn thương, thiệt thòi, cuộc đời cô độc, tình duyên lận đận.
* Người phụ nữ với khao khát được yêu thương và mưu cầu hạnh phúc cùng nhiều phẩm chất tốt đẹp
- Trong “Tự tình II”: người phụ nữ có niềm khao khát mạnh mẽ là được yêu thương
- Trong “Thương vợ”: người phụ nữ - một người vợ, người mẹ tần tảo, nhân hậu và chịu thương chịu khó, không ngải khó khăn hi sinh vất vả vì chồng vì con
III. Kết bài
- Hai bài thơ là những hình ảnh của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến: luôn chịu những bất công, gian khổ.
- Niềm cảm thông của người viết với người phụ nữ xưa
- Gợi mở vấn đề: Mọi người nên yêu thương những người mẹ, người vợ của mình và cảm thấy may mắn cùng yêu thương cuộc sống này hơn.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Dàn ý mẫu số 4
1. Mở bài
- Thân phận người phụ nữ Việt Nam trong chế độ phong kiến.
- Hình tượng người phụ nữ Việt Nam thể hiện rõ nét qua hai tác phẩm Tự tình II và Thương vợ.
2. Thân bài
a. Tự tình II của Hồ Xuân Hương:
- Cuộc đời bất hạnh, tài sắc vẹn toàn nhưng không được hưởng hạnh phúc của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, 2 lần lấy chồng đều phải làm thân phận thiếp thất, thấm đượm nỗi khổ ghen chồng.
- Nhân vật trữ tình ngồi vò võ giữa đêm khuya thanh vắng, nghe tiếng trống canh dồn
=> Thức tỉnh trước nỗi sầu đơn độc, nhận thức rõ ràng cái thân phận bẽ bàng của mình. Nhận thức được cả thân phận rẻ rúng, chán chường của một kiếp hồng nhan bị xã hội coi thường, chèn ép.
- “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”, vòng lặp “say lại tỉnh” không chỉ khiến người ta ý thức rõ hơn về nỗi tủi hờn, buồn bã của mình mà nó còn gợi ra một cái vòng lặp không lối thoát.
- “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”, gợi nhắc về một cuộc đời hồng nhan phí hoài trong những đêm dài đằng đẵng chờ chồng, nay đã gần hết, hồng nhan già, già từ tâm hồn cho đến ngoại hình. Thế nhưng cái mà họ mơ ước thì mãi còn ở ngoài tầm với, mãi vẫn “khuyết chưa tròn”.
- “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám/Đâm toạc chân mây đá mấy hòn” đó là nỗi khát khao được vượt lên trên những định kiến của xã hội, phá tan lớp rào ngăn cản người phụ nữ tự do chạm tay vào hạnh phúc của mình.
- “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/Mảnh tình san sẻ tí con con”, nỗi sầu não vì tuổi xuân hoài phí, nỗi đớn đau vì kiếp chồng chung, một chút tình cảm cũng bị xé nhỏ thành từng mảnh chẳng đáng là bao so với nỗi trống trải trong trái tim người phụ nữ.
b. Thương vợ của Trần Tế Xương:
- Nỗi vất vả của người phụ nữ tiêu biểu là bà Tú trong công việc lao động mưu sinh, cả đời quanh quẩn bên việc kiếm sống, bươn chải nuôi gia đình, không biết nghỉ ngơi là gì. Thể hiện sự tần tảo, khéo léo vun vén gia đình của bà Tú, đồng thời cũng thể hiện cái sự chịu khó, đảm đang, tháo vát trong lao động của bà.
- Trong bài thơ Tú Xương có lấy hình ảnh con cò để ẩn dụ cho hình ảnh của bà Tú “Lặn lội thân cò nơi quãng vắng”, đại diện cho sự khổ cực, lầm lũi, cô đơn và vô cùng tội nghiệp của người lao động, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội cũ.
- Thái độ của bà khi đối diện với những điều ấy lại khiến người ta thêm thương và thêm quý trọng bà hơn. Bà chưa bao giờ than vãn, nề hà gì mà vẫn vui vẻ chấp nhận “âu đành phận”, xem như đó đã là cái phận trời định. Đặc biệt là dù có khổ cực, vất vả đến mức nào “năm nắng, mười mưa” bà cũng chưa từng “dám quản công”.
=> Bà Tú là người phụ nữ có tấm lòng vị tha và đức hy sinh cao cả, điều ấy xuất phát từ tấm lòng yêu thương chồng con sâu sắc, một lòng vì gia đình. Bà Tú chính là hình mẫu đại diện cho người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ cũ, chịu thương chịu khó, nhẫn nhịn, chịu đựng, nhân hậu, bao dung và vô cùng yêu thương gia đình.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận chung.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Dàn ý mẫu số 5
1. Mở bài
-Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
-Nêu vấn đề cần nghị luận: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua 2 bài thơ Tự tình II và Thương vợ
2. Thân bài
-Những người phụ nữ có số phận hẩm hiu, nghiệt ngã
+ Bà Tú phải lo gồng gánh cả gia đình, là trụ cột chính của cả nhà
+ Người phụ nữ trong bài thơ cuả Hồ Xuân Hương thì thất bại trong tình yêu, sống trong cô đơn, đau đớn tủi cực.
-Đều là những người phụ nữ tài hoa, nhưng phải chịu đựng một cuộc sống ràng buộc không như ý muốn.
+ Bà Tú xinh đẹp, tháo vát nhanh nhẹn trong công việc, nhưng không được nương nhờ chồng con
+ Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương là người có nhan sắc, nhưng lại phải chấp nhận vị trí thấp kém trong tình yêu
-Những người phụ nữ chịu sự bó buộc của lễ giáo phong kiến không được sống đúng theo cá tính, tính cách của mình, mà luôn phải gồng mình lên sống theo sự áp đặt của xã hội phong kiến xưa
+ Bà Tú phải nuôi một ông chồng vô công rồi nghề, cũng đàn con thơ dại
+ Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương tài sắc vẹn toàn nhưng phải sống cuộc đời gó bó, bị đè nén, nỗi uất ức cứ đầy dần lên trong cuộc sống khiến đôi lúc chính người phụ nữ cảm thấy như bị giam cầm.
-Những người phụ nữ chịu thương chịu khó
+ Bà Tú dù làm việc có vất vả nhưng vẫn căn răng chịu đựng
+ Người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng vẫn cố ép mình sống trong sự bó buộc của lế giáo phong kiến.
3. Kết bài
– Khẳng định vẻ đẹp của những ngươi phụ nữa phong kiến xưa
– Trân trọng yêu mến tài năng của tác giả, đồng thời thể hiện sự xót thương đối với số phận hẩm hiu của nhưng người phụ nữ trong xã hội xưa.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Dàn ý mẫu số 6
1. MỞ BÀI
Giới thiệu hình ảnh người phụ nữ trong hai bài thơ Tự tình và Thương vợ
2. THÂN BÀI
Hình ảnh người phụ nữ trong bài Thương vợ:
Một người vợ tảo tần và giàu đức hi sinh
Hình ảnh bà Tú hiện lên với bao gian truân khó nhọc
Vẻ đẹp của sự tảo tần, chịu thương chịu khó, đảm đang, tháo vát, yêu chồng thương con
Vẻ đẹp của đức hi sinh cao cả
Hình ảnh người phụ nữ trong bài Tự tình:
Xót xa cho thân phận cô đơn, lẻ loi của mình
Người phụ nữ mang nỗi niềm day dứt, xót xa vì tình duyên không trọn vẹn
Có tinh thần phản kháng, ẩn chứa một sức sống bền bỉ
Ngậm ngùi cho bi kịch tình duyên, số phận
3. KẾT BÀI
Hình ảnh người phụ nữ trong hai bài thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Dàn ý mẫu số 7
1. Mở bài
- Giới thiệu hình tượng ng phụ nữ trong văn học nói chung.
- Cảm hứng về ng phụ nữ trong tự tình, của HXH và thương vợ của trần tế xương.
2. Thân bài
- Thời đại hoàn cảnh, nội dung cơ bản trong thơ của 2 tác giả trên.
- Người phụ nữ VN thời xưa đẹp người và đẹp nết
+ Tảo tần, chung thủy, son sắt: Bà tú, chịu thương chịu khó, tảo tần, quanh năm buôn bán, nuôi chồng nuôi con, thủy chung son sắt.
+ Người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, gian nan, vất vả, hồng nhan bạc phận.
- Trong tự tình: Thân phận bẽ bàng, cô độc, tình duyên lận đận, hạnh phúc mong manh.
- Trong thương vợ: Lam lũ, vất vả
- Viết về người phụ nữ vớ mối đồng cảm sâu sắc là 1 biểu hiện của tinh thần nhân đạo.
3. Kết bài
- Người phụ nữ xưa phải chịu nhiều bất hạnh và sự hạn chế của ý thức xã hội
- Nhắc nhở con người phải biết trân trọng hạnh phúc của ngày hôm nay.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Dàn ý mẫu số 7
1. Mở bài:
Giới thiệu về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong văn học xưa
Giới hạn vấn đề nghị luận: qua các tác phẩm “Tự tình”, “Bánh trôi nước”
và “Thương vợ”.
2. Thân bài:
a)Giới thiệu những nét chính về tác giả Hồ Xuân Hương và Tú Xương
b) Hình ảnh những người phụ nữ thời xưa là những người phụ nữ đẹp: họ đẹp ở cả vẻ đẹp bên ngoài lẫn vẻ đẹp bên trong:
b.1) Vẻ đẹp bên ngoài: Phân tích câu thơ “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” (“Bánh trôi nước”- Hồ Xuân Hương)
b.2) Nhưng điều quan trọng hơn, các tác giả trung đại Việt Nam đã rất chú ý đến vẻ đẹp tâm hồn của những người phụ nữ Việt Nam:
·Đó là tấm lòng son sắt hiếm ai sánh bằng: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”(“Bánh trôi nước”).
Đó là một người phụ nữ nuôi năm con với một chồng mà chưa một làn oán than: người phụ nữ ấy phải vất vả làm ăn trong một quỹ thời gian triền mien, tuần hoàn liên tục, ngày nối ngày, tháng nối tháng, năm nối năm “Quanh năm buôn bán ở mom sông”. Người phụ nữ ấy phải gánh hai gánh nặng là “Nuôi đủ năm con với một chồng. Bà cũng là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát, cần cù, chịu thương chịu khó, chu đáo với chồng con, hi sinh hết mực cho chồng con “Năm nắng mười mưa dám quản công”.
Người phụ nữ với sự cứng rắn và mạnh mẽ: “Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám/ Đâm toạc chân đá mấy hòn”. Câu thơ thể hiện bản lĩnh mạnh mẽ , không chấp nhận hoàn cảnh, số phận của nữ sĩ Xuân Hương.
·c) Hình ảnh những người phụ nữ thời xưa là những người phụ nữ bất hạnh:
· Họ phải sống một cuộc đời “bảy nổi ba chìm” : “Bảy nổi ba chìm với nước non” (“Bánh trôi nước”), một cuộc đời mà không thể tự chủ cuộc đời và số phận của chính bản thân mình “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” (“ Bánh trôi nước”- Hồ Xuân Hương)
Họ là những người phụ nữ bé nhỏ, mỏng manh:
“ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bống xế khuyết chưa tròn”
Từ “văng vẳng” diễn tả âm thanh từ xa vọng lại, lúc nhanh lúc mau, khi mờ khi tỏ. Trong không gian ấy, con người lại càng trở nên bé nhỏ, cô đơn. “Hồng nhan” hay cũng chính là chỉ người con gái đẹp, đi cùng với chữ “cái” càng gợi sự mỏng manh, bé nhỏ, đồng thời gợi tâm sự chua chat, xót xa. “Trơ” hay cũng chính là trơ trọi, cô đơn, lẻ loi- cái tủi hổ của một con người mang thân phận nhỏ bé, lỡ làng. “Vầng trăng bóng xế” hay cũng chính là biểu tượng cho tình duyên của con người, sự lận đận, lỡ dở của đời người, khi tình thì nồng mà duyên thì nhạt.
Những người phụ nữ lận đận, lỡ dở trong tình yêu:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình xan xẻ tí con con”
Đó là tâm trạng chán chường của một con người khi thời gian cứ trôi đi mà cuộc đời không có sự đổi khác. Câu thơ kết lại như một bóng ảnh thê lương của cuộc đời nữ sĩ, một con người nồng nàn, tha thiết với tình yêu nhưng cuối cùng chỉ nhận được những lỡ dở, lận đận .
Người phụ nữ với nhiều đắng cay, vất vả: Không chỉ vậy, người phụ nữ ấy còn hiện lên qua cái nhìn của ông Tú với “Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Nghệ thuật đảo ngữ “lặn lội, eo sèo” gợi ra dáng hình nhọc nhằn, gợi cả những âm thanh bon chen, tranh giành vào những buổi chợ đông. “Khi quãng vắng” gợi ra không gian vắng vẻ, hiu hắt, chứa đựng trong đó nhiều bất chấp, hiểm nguy, ở đó ta thấy được bối cảnh của thời gian lúc sáng sớm hoặc khi đêm muộn và dường như bà Tú không có nhiều thời gian để nghỉ ngơi. “Buổi đò đông” gợi sự bất chấp, nguy hiểm vậy mà bà Tú vẫn phải bon chen để mưu sinh. Hình ảnh ẩn dụ “thân cò” gợi hình ảnh bà Tú đơn độc, lặn lội kiếm ăn, thật đáng thương và tội nghiệp.
3. Kết bài:
Khẳng định lại những thành công của hai tác giả trong việc xây dựng hình ảnh của những người phụ nữ thời xưa.
·Liên hệ với các tác phẩm viết về người phụ nữ ngày nay để thay được sự khác biệt và nét tương đồng.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Dàn ý mẫu số 8
I.Mở bài
• Giới thiệu hình ảnh người phụ nữ trong văn chương.
• Giới thiệu hình ảnh người phụ nữ trong hai bài thơ.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam đã xuất hiện trên bao trang giấy câu văn. Đó là người phụ nữ trong câu nói dân gian "Thân em như củ ấu gai / Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen / Ai ơi nếm thử mà xem / Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi", là nàng Kiều trong thơ Nguyễn Du và cũng là người phụ nữ trong “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương và người mẹ, người vợ trong “Thương vợ” của Tú Xương. Hình ảnh người phụ nữ trong hai bài thơ đều mang nét đẹp chung của người phụ nữ Việt Nam.
II.Thân bài
1. Người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, vất vả, gian nan
a. “Thương vợ”: hình ảnh người phụ nữ chịu khó, lặn lội sớm khuya, vất vả quanh năm để lo cơm áo gạo tiền.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
• Buôn bán không lớn. Công việc diễn ra quanh năm, ngày đến ngày, tháng đến tháng, liên tục không có sự nghỉ ngơi diễn ra theo vòng tuần tự khép kín. Ngay cả người nông dân còn có lúc nông nhàn, nhưng với người làm nghề như bà Tú thì không có phút nào được nghỉ ngơi.
• “Ở mom sông”: chênh vênh, ba phía bốn mặt giáp sông và nước. Bà Tú bươn chải bán mua ở nơi nguy hiểm suốt năm suốt tháng, công việc ấy thật vất vả, gian nan.
• “Nuôi đủ năm con với một chồng”: gánh nặng bị đặt lên trên đôi vai của người phụ nữ mảnh mai yếu đuối. Người đàn bà làng chài còn có chồng chèo chống, còn bà Tú chỉ có một mình. Chồng đáng lẽ là trụ cột gia đình nay lại thành gánh nặng mưu sinh.
• “Đủ” hàm chứa bao nhiêu ý nghĩa: đủ ánh nặng chồng con: lo ăn lo học cho con, lo cho nhu cầu của chồng, của một ông Tú sĩ diện.
b. “Tự tình II”: là nỗi buồn về thân phận, về chuyện tình duyên, về hạnh phúc lứa đôi.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
• Thời gian: “đêm khuya”, thời gian của những nỗi niềm sâu kín, lúc con người được sống thực với mình nhất.
• Không gian: yên tĩnh vắng lặng, quặng quẽ được gợi ra qua âm thanh của tiếng trống canh “văng vẳng”.
• Con người xuất hiện đậm nét: “trơ”
• Khi cảnh vật chìm vào giấc ngủ thì chỉ có mình Xuân Hương cô đơn, trăn trở. Thao thức giữa đêm khuya, cái cô đơn của phận hồng nhan, của kiếp người nhỏ bé trước cái dài rộng của không gian thời gian.
• Từ “cái” thể hiện sự tầm thường, bình thường. Qua đó thấy được cảm giác chua xót, đau đớn cho thân phận của chính mình.
• Từ “trơ” không chỉ là nỗi cô đơn mà còn như là thách thức với cuộc đời. Đó là tâm sự của Xuân Hương, bên cạnh nỗi đau bao giờ cũng là sự trỗi dậy của cảm xúc.
“Chén rượu hương đưa say lại tình
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
• “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”: vầng trăng sắp tàn, vầng trăng hao khuyết, gợi lên liên tưởng về sự lụi tàn mơ hồ. Ở đây có sự đồng nhất giữa trăng và người, giữa ngoại cảnh và tâm cảnh.
• Hình ảnh vầng trăng gợi liên tưởng đến cuộc đời người phụ nữ đã ở bên kia dốc mà hạnh phúc vẫn chưa một lần trọn vẹn, duyên phận vẫn lỡ làng.
• Vầng trăng cuộc đời, vầng trăng tâm trạng nói lên sự dở dang, muộn màng của cuộc đời người.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
• Từ ‘ngán” đứng đầu câu cùng hai thanh trắc cuối câu “lại lại” làm câu thơ như nặng trĩu xuống.
• Hai từ “lại” thể hiện tâm trạng, nỗi niềm của chủ thể trữ tình. Mùa xuân của đất trời đi qua rồi lại trở lại, sự sống cứ thế tuần tự, tuần hoàn nhưng con người nhạy cảm trong Xuân Hương lại phát hiện ra một nghịch lý: xuân đất trời đi qua sẽ trở lại nhưng xuân của người một đi không trở lại.
• Trớ trêu hơn là người phụ nữ khao khát vẫn tràn đầy mà lại nhận ra hạnh phúc dến với mình quá ít ỏi: “mảnh tình” chỉ còn lại “tí con con”.
• Phép tăng tiến và cụm từ “tí con con” đã tô đậm những thua thiệt trong duyên phận của nữ sĩ.
2. Người phụ nữ với nhiều nét đẹp tâm hồn
a. “Thương vợ”: vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống Việt Nam: nhân hậu, đảm đang, giàu đức hi sinh.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
• “Lặn lội”: nhấn mạnh nỗi chuân chuyên của bà Tú.
• “Thân cò”: nỗi vất vả của bà Tú trong kiếp mưu sinh.
• Hai câu thơ gợi lên dáng hình gầy guộc mong manh và số phận nhọc nhằn của bà Tú: sinh ra là kiếp con cò nên phải lặn lội, tần tảo, mưu sinh.
• “Quãng vắng”: hiu quạnh, càng làm tăng thêm sự tội nghiệp, cái đáng thương.
• “Eo sèo mặt nước buổi đò đông”: không khí cạnh tranh, bấp bênh nơi bến nước.
• Công việc nơi bến nước hiểm nguy bon chen vậy nhưng bà Tú vẫn ngày qua ngày, tháng qua tháng làm lụng để nuôi chồng nuôi con. Đó là đức hi sinh của người mẹ với con, người vợ với chồng.
“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”
• Ngay cả khi ý thức được nỗi vất vả, nhọc nhằn, nhận thức được người chồng “sĩ diện” của mình thì bà vẫn âm thầm lặng lẽ, chấp nhận tất cả nhọc nhằn về phía mình. Đó là sự hi sinh quên mình, là tấm lòng vị tha hết mực của bà Tú dành cho ông Tú và những đứa con.
b. “Tự tình II”: không cam chịu phận hẩm hiu, khao khát được yêu thương
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đã mấy hòn”
• Đám rêu mềm yếu, những hòn đá bé nhỏ vô tri: bình thường, tầm thường, bị vùi dập dưới bước chân của người đi đường.
• Nhưng trong cái nhìn của nhà thơ thì người nữ sĩ thì rêu mềm yếu mà “xiên ngang mặt đất”, đá vô tri mà “đâm toạc chân mây”.
• Phép đảo ngữ, động từ mạnh gợi cảm giác dữ dội của bức tranh thiên nhiên, tràn đầy sức sống mãnh liệt ngay cả trong bi thương.
• Tả cảnh thiên nhiên nhưng là để nói tâm trạng con người. Xuân Hương không cam chịu, chấp nhận phận hẩm hiu mà luôn muốn bứt phá, phản kháng, chống lại hoàn cảnh trớ trêu một cách mạnh mẽ với nghịch cảnh, tự tìn và đầy khát vọng.
• Ở hai câu luận ta không còn thấy cái bi lụy như bốn câu đầu nữa mà chỉ thấy những động thái đầy mạng mẽ của thiên nhiên cũng như là trong chính lòng người.
• Nỗi chán chường dù phận hẩm duyên hiu cũng là một biểu hiện của khao khát được yêu thương, khát vọng tình yêu của người phụ nữ.
3. Đánh giá
• Hai bài thơ đặt điểm nhìn khác nhau về người phụ nữ, nhưng cả hai tác phẩm đều là những bài ca ca ngợ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.
• Hồ Xuân Hương đem đến cho người đọc về hình ảnh người phụ nữ tài sắc, thủy chung, nhưng lại chịu nhiều bất hạnh trong tình duyên thì Tú Xương mang đến cho chúng ta hình ảnh về đức hi sinh, chịu thương chịu khó của người phụ nữ. “Tự tình II” là người phụ nữ thì “Thương vợ” lại là một người mẹ, một người vợ.
III.Kết bài
• Nêu cảm nhận chung về hình tượng người phụ nữ trong hai bài thơ.
“Thương vợ” và “Tự tình II” đã cho người đọc những cái nhìn khác nhau về người phụ nữ, xong có một điểm chung là hình tượng người phụ nữ dù gặp nhiều khó khăn trong cuộc đời, số phận nhưng vẫn giữ được những nét đẹp tâm hồn. Đó đều là những phẩm chất truyền thống và có sự phát triển của người phụ nữ Việt Nam.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Dàn ý mẫu số 9
1. Mở bài
Giới thiệu về số phận người phụ nữ Việt Nam thời xưa. Nó trở thành đề tài không bao giờ cạn đối với thi sĩ. Trong đó ba tác phẩm miêu tả chân thực nhất phải kể đến là Bánh trôi nước, tự tình 2 của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương.
2. Thân bài
a. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa:
Đẹp không chỉ về bề ngoài mà còn bởi phẩm chất vô cùng cao quý.
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”.
Sự kiên trung nhân hậu nuôi 5 con và 1 chồng nhưng chưa một lời oán thán:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Ẩn sâu trong một tâm hồn bao dung đó là sự cứng rắn và mạnh mẽ:
“ Xiên ngang mặt đấy rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.
b. Hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa chịu nhiều nỗi đau và không được làm chủ số phận của mình:
“ Bảy nồi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”.
Đau khổ vì cô quạnh không tìm được người đồng cảm với mình
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
3. Kết bài
Nhận xét về người phụ nữ thời xưa phẩm chất kiên trung, sắt son và giàu đức hi sinh.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 1
Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc của văn học dân gian. Mảng đề tài đầy cảm hứng nhân văn này đã làm nên giá trị của nền văn học nói chung, gương mặt của các tác giả nói riêng. Tiêu biểu là Hồ Xuân Hương với “Tự Tình II” (II) và Tú Xương với “Thương Vợ”.
Đúng như vậy, hai bài thơ với hai người phụ nữ đều khát khao một mái ấm gia đình. Xong cuộc đời lại lắm éo le trắc trở. Họ phải chịu đựng số phận hẩm hiu chế độ phong kiến mục nát. Cái chế độ mà khi nhắc tới ai ai cũng thấy bất bình tĩnh. Là phụ nữ thì sao chứ? Chẳng lẽ phụ nữ không phải con người trong xã hội? Hà cớ gì cứ phải bắt người phụ nữ làm những thứ họ không muốn từ những hủ tục lạc hậu: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không có quyền hành gì trong gia đình.
Trước hết, thơ của Hồ Xuân Hương là những lời than thân từ nỗi niềm riêng của một cá thể, chất chứa những vấn đề mang tầm phổ quát của thân phận người phụ nữ. Hay nói cách khác, bằng việc viết lên tiếng nói cá nhân. Hồ Xuân Hương làm sống lên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa. “Tự Tình II” (II) nằm trong chùm thơ Tự Tình II gồm ba bài viết bằng chữ Nôm. Đó là sự đau khổ vì không là chủ được thân phận mình. Trong khung cảnh lúc nửa đêm nổi bật chỉ là âm thanh “văng vẳng” của trống canh dồn, tiếng trống dồn dập, gấp gáp như hối thúc dội vào lòng người. Âm thanh văng vẳng không chỉ đơn thuần là sự cảm nhận bằng thính giác mà còn là cảm nhận của xúc giác về thời gian. “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”. Nhức nhối một tâm sự “trơ cái hồng nhan với nước non”. vẻ đẹp của người phụ nữ trong đêm trơ trọi, im ắng, gợi lên hình ảnh “hồng nhan” trở nên rẻ rúng, không có giá trị. Chắc hẳn ai trong tình cảnh của Hồ Xuân Hương cũng cảm thấy quạnh hiu, đau nhói, buồn phiền. Hình ảnh “cái hồng nhan” với “nước non” càng cho thấy tâm trạng bẽ bàng tủi hổ của người phụ nữ. Cùng với nỗi buồn đè nặng lên con người nhỏ bé trong xã hội, đè lên thân phận của họ. Hồ Xuân Hương là con người rất mạnh mẽ, bà không cam chịu và muốn thoát khỏi. “Chén rượu hương đưa” là một phương tiện giải sầu, tuy không phải phương tiện duy nhất nhưng là tốt nhất vào lúc này. Tìm quên trong chén rượu, say rồi lại tỉnh, càng uống càng nhận thức mọi thứ rõ ràng hơn. Nó như một vòng luẩn quẩn khiến người phụ nữ ấy nhận ra sự cô đơn trĩu nặng hơn. Hướng tới vầng trăng mong tìm người bạn tri âm tri kỉ giữa đất trời nhưng “khuyết chưa tròn” lại còn “bóng xế”. Ngoại cảnh và con người g đây như một. Người phụ nữ tự hỏi đến bao giờ trăng mới tròn. đến bao giờ người mới có được tình yêu cho mình. Trăng đã sắp tàn mà vẫn chưa tròn, tuổi xuân qua đi mà nhân duyên chưa tới. Người phụ nữ đang chơi vơi giữa một thế giới mênh mông, hoang vắng, muốn thoát khỏi nhưng bất lực trước nỗi cô đơn trơ trọi với chính mình.
Đến với Tú Xương là đến với những bài thơ tràn đầy tình yêu thương, cảm động viết về người vợ đang còn sống. Bài thơ “Thương Vợ” thể hiện tâm thế và vị thế của một người mẹ, một người vợ đảm đang. Bà Tú có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được. Vì chồng, thương con mà cam chịu cuộc sống khó khăn vất vả. Quanh năm suốt tháng, ngày này qua ngày khác không có lấy một ngày nghỉ, ngày mưa cũng như ngày nắng, Bà Tú lam lũ buôn bán trên một mảnh đất nhô lên ở lòng sông. Cái nơi bấp bênh, gập ghềnh hiện lên hình ảnh tần tảo, tất bật ngược xuôi của bà Tú. “Quanh buôn bán ở mom sông”. Cái nền không gian, thời gian ấy, cuộc mưu sinh đầy khó khăn của bà Tú được ông Tú phác họa. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Hình ảnh “thân cò” là hình ảnh tượng trưng cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Ông Tú đã dùng hình ảnh đó để nói về nỗi vất vả của bà Tú, đồng thời cũng gợi lên số kiếp, nỗi đau thân phận. Thân cò “lặn lội” trong một khoảng không gian “khi quãng vắng” vừa chỉ ra cái rợn ngợp của thời gian, vừa chỉ ra cái rợn ngợp của không gian. Hình ảnh bà Tú trở nên rõ nét hơn về sự vật lộn với cuộc sống. “Eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Cảnh bươn chải, chen chúc nhau của những người buôn bán rất khó khăn. “Buổi đò đông” đâu có giống như “khi quãng vắng”. Nó không chỉ có những lời cãi cọ, mè nheo, sự chen lấn xô đẩy mà còn có những bất trắc nguy hiểm. Biết là vậy nhưng bà Tú vẫn đi trên chuyến đò đó để dành miếng cơm manh áo cho chồng con. Dù vắng hay đông bà Tú cũng thui thủi một “thân cò”.
Tuy rằng số phận ràng buộc họ nhưng nhờ đó những phẩm chất cao quý của người phụ nữ được hiện diện.
Dù đau đớn thế nào, dù yếu ớt đến đâu thì trong sâu thẳm trái tim Hồ Xuân Hương cũng ánh lên ngọn lửa khao khát, hi vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên đấu tranh thay đổi cuộc sống của mình. “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám./Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”. Tâm trạng con người như muốn nói lên nỗi phẫn uất, ngang ngạnh, bướng bỉnh. Thiên nhiên trong mắt Hồ Xuân Hương tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên mạnh mẽ. “Rêu”, “đá” chỉ là những vật nhỏ bé, hèn mọn nhưng không hề yếu đuối bởi rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây. Điều đó càng chứng tỏ Hồ Xuân Hương muốn bứt phá rào cản để đi tìm hạnh phúc cho mình, muốn giải thoát số phận hoàn cảnh, thể hiện cá tính táo bạo của nữ sĩ. Tuy lòng đầy canh cánh nhưng bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời. Yêu đời là thế, sức sống là thế mà cuộc đời riêng thì vẫn “xuân đi xuân lại lại”. Cái vòng quẩn quanh đáng ghét của cuộc đời không thể tránh khỏi tiếng thở than chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một “mảnh tình” nhỏ vụn đã vỡ nhưng nay vẫn bị sẻ đi sẻ lại. Đối với trái tim thiết tha yêu thương kia, điều đó như một vết thương cứa sâu đau nhức nhối, khao khát một tình yêu trọn vẹn.
Dù có vất vả, đau xót, chán chường đến thế nào thì người phụ nữ Việt Nam xưa vẫn là những con người có phẩm chất đẹp đẽ. Không chỉ vẻ bề ngoài mà còn cả bên trong. Đó là lòng yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng một dạ vì chồng vì con. “Nuôi đủ năm con với một chồng”. “Nuôi đủ năm con” là việc hiển nhiên của một người mẹ nhưng còn chồng, cớ sao lại phải đếm “một chồng”? Là vì chồng, bà Tú cũng phải nuôi và đáp ứng đầy đủ nhu cầu cần thiết cho ông Tú. Bà Tú phải thắt lưng buộc bụng nuôi dưỡng năm đứa trẻ vất vả, vậy mà phải nuôi thêm một ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng đè lên đôi vai nhỏ của bà tăng gấp đôi. Sự khéo léo. Đảm đang của bà thể hiện ở việc lựa chọn ông Tú mà sống, khéo léo chiều sự khó tính khó nết của ông để trong ấm ngoài êm. Bà Tú nhẫn nhục chịu đựng cái nợ đời như một sự tất yếu không thể không chấp nhận. “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Điều kì diệu là người mẹ, người vợ này không hề ý thức rằng đó là sự hi sinh. Sự vất vả “năm nắng mười mưa” càng thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con mà bà đâu “dám quản công” một lời. Bà tự nguyện gánh vác trách nhiệm chăm lo cho gia đình. Dù vất vả trăm điều nhưng bà vẫn âm thầm chịu đựng. Phải chăng đó chính là đức hi sinh – vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam?
Hai người phụ nữ đẹp đều tìm thấy sức mạnh, ý chí để vượt lên hoàn cảnh. Nhưng trong cuộc thoát thân họ còn cô đơn quá, vì thế mà thất bại. Một người muốn bứt phá, thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt. Một người cam chịu , nhẫn nại để làm tròn bổn phận một người mẹ, một người vợ. Một người được đồng cảm, sẻ chia. Một người cô đơn một mình, buồn đau trước số phận hẩm hiu. Chỉ khi những người phụ nữ biết đoàn kết, biết đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng họ mới có thể thay đổi được số phận, làm chủ được cuộc đời mình.
Người phụ nữ thời xưa phải chịu nhiều thiệt thòi, bất công, ngang trái và bị hạn chế bởi xã hội phong kiến. Còn người phụ nữ ngày nay được quyền bình đẳng, quyền học tập, quyền lựa chọn tình yêu và quyền làm chủ cuộc đời. Họ không còn bị đối xử như trước nữa. Tuy người phụ nữ ngày xưa có cuộc đời éo le nhưng hình ảnh sâu thẳm trong họ không bao giờ bị mất đi. Dù hoàn cảnh có ra sao thì tâm hồn cao đẹp của họ vẫn sáng lên. Và điều đó khiến ta luôn tự hào về người phụ nữ Việt Nam.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 2
Thời xưa, dưới chế độ phong kiến suy tàn, mục nát, số phận người phụ nữ luôn bị vùi dập vào vũng lầy đau khổ, luôn bị trói buộc bởi xã hội bất công, một xã hội “trọng nam khinh nữ”, một chế độ đa thê…. Họ gặp nhiều đau khổ, tình duyên trắc trở, số phận hẩm hiu. Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều bài thơ nói lên thân phận của người phụ nữ phong kiến xưa. Họ không có quyền quyết định cuộc đời mình, chỉ biết sống cam chịu và phục tùng. Cảm thông với thân phận và phẩm chất của người phụ nữ, hình ảnh đó đã được thể hiện rất tài tình qua hai bài thơ Tự Tình II II của Hồ Xuân Hương Và Thương Vợ của Trần Tế Xương.
Họ là những người phụ nữ có tài có sắc, có phẩm chất cao đẹp nhưng thân phận của họ lại vô cùng nhỏ bé, cuộc đời của những người phụ nữ này long đong lận đận. Họ phải sống trong một chế độ xã hội phong kiến lạc hậu, trọng nam khinh nữ, không có chỗ đứng và địa vị trong xã hội.
Với bản lĩnh của mình và cũng là nạn nhân trong xã hội đó, Hồ Xuân Hương đã mạnh dạn nói lên nỗi lòng của những người phụ nữ xưa. Thơ bà là tiếng nói đòi quyền sống tự do và thể hiện khát khao hạnh phúc. Ở bài thơ Tự Tình II II, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng bức xúc cao độ của bản thân, đồng thời cũng là tâm trạng chung của bao phụ nữ cùng cảnh ngộ trong xã hội phong kiến.
Đây là một cảnh trong đêm khuya, vắng lặng, yên tĩnh, bà một mình không ngủ, thiếu thốn yêu thương. Đó là sự khổ đau vì không làm chủ được số phận của mình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Mở đầu là một âm thanh vang vọng, đầy hối hả: Trống canh dồn. Nhưng dù mãnh liệt đến mấy, tiếng trống cũng chỉ là âm thanh duy nhất trong đêm vắng. Cái động đã đươc sử dụng để tôn lên cái tĩnh, cái cô độc, trống trải của đêm khuya. Nửa đêm là thời gian sum họp của vợ chồng, là thời điểm hạnh phúc lứa đôi, ấy vậy mà lại có người phụ nữ tĩnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm người phụ nữ không ngủ được vì thiếu vắng một điều gì đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi đau? Bà khắc khoải đợi chờ, tâm trạng khi đó thật rối bời, lo âu, buồn bã. Hồ Xuân Hương cảm nhận được sự bẽ bàng của duyên phận. Chính trong bối cảnh ấy đã hiện ra một con người cô độc, trơ trọi. ''Hồng nhan'' là cách gọi chỉ người con gái đẹp, rộng hơn là chỉ chung giới nữ. Nhưng gọi là cái hồng nhan có nghĩa là đã hạ nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác khác. ''Trơ'' trơ trọi, cô đơn, trơ đến mất cả cảm giác. Câu thơ cùng thể hiện một tâm trạng cô đơn, quạnh quẽ rất mực của con người trong 1 không gian rộng lớn. Tưởng như nghe được từ 2 câu thơ ấy cả những tiếng thở dài ngao ngán, tủi hổ về duyên phận hẩm hiu của một người phụ nữ đa tài đa tình.
“Chén rượi hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Thấy trống vắng cô đơn, để quên đi nỗi buồn trơ trọi này, bà đã nhờ đến rượu mượn chút hương nồng. Nhưng càng uống, bà càng tỉnh. ''Say lại tỉnh'' gợi vòng luẩn quẩn, bế tắc của số phận xót xa của tác giả. Đến câu thơ tiếp theo, nỗi đau lại tiếp tục được thể hiện rõ ràng và đậm nét. "Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn" có vẻ như Hồ Xuân Hương đã ngồi một mình bên chén rượu như thế đến hết đêm, như mong chờ một sự đồng cảm và sẻ chia. Nhưng bà có thấy sự đồng cảm ở đâu đó? Hay bà chỉ thấy số phận dở dang của mình đang hiện diện trong một vầng trăng khuyết? Trăng vốn là một biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho cho những ước mơ và hy vọng. Nhưng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương lại xót xa đến mức “khuyết chưa tròn”, tuổi xuân đã qua mà hạnh phúc không hề trọn vẹn,một cuộc đời còn dang dở với những éo le, trắc trở trong tình duyên. Bà cảm thấy xót xa, cay đắng cho số phận dở dang, nhân duyên lỡ làng. Ngày tháng cứ vô tình chồng chất thêm hy vọng, đợi chờ, khao khát. Nhưng hp vẫn mù tăm. Càng cô đơn, càng mong đợi thì đau buồn lại càng lắng đọng thêm. Đó chính là bi kịch của người phụ nữ có thân phận hẩm hiu. Dù phải trải qua nhiều bi kịch nhưng bà vẫn cố gắng gượng với đời. Phản ứng của bà tuy mạnh mẽ và dữ dội nhưng thực tại vẫn đắng cay, chua chát. Phải sống trong 1 xã hội trọng nam khinh nữ, xem phụ nữ là hạ đẳng, chẳng chút gì trân trọng yêu thương thì bà phải lâm vào cảnh ngộ ''lạnh lùng'' chua xót là điều tất yếu. Thấm thía nỗi buồn đau riêng ấy của mình, nhà thơ muốn cất lên tiếng nói nhằm đấu tranh cho nữ giới đều được sống, được yêu thương, được 1 cuộc sống hạnh phúc. Nhưng việc ấy đâu phải dễ dàng, bởi ngay chính bà vẫn phải đang gánh chịu 1 duyên phận hẩm hiu... Tâm sự trĩu nặng nỗi buồn, thân phận và duyên phận của bà không biết ngỏ cùng ai nên càng cuộn xoáy, day dứt trong lòng giữa đêm khuya. Nhưng dù bị phũ phàng hay quên lãng thì bà vẫn k tuyệt vọng, vẫn khao khát sống, vẫn ước ao có một hạnh phúc tròn đầy.
Còn đối với bài ''Thương Vợ'' của Trần Tế Xương, ông đứng dưới khía cạnh một người đàn ông, cảm thông cho người vợ của mình, luôn chịu cơ cực gian truân nhưng không dám phản kháng. Họ luôn sống cam chịu, hi sinh cho chồng con:
“Quanh năm buôn bán ở mom sống,
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Những câu thơ trên có thể coi là 1 chân dung tương đối hoàn chỉnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Hình ảnh đầu tiên của người phụ nữ Việt Nam đó là hình tương người phụ nữ chịu nhiều đau khổ, vất vả trong cuộc sống. Đó là hình ảnh bà Tú vất vả, gian truân kiếm sống, tất bật ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông” để ''nuôi đủ 5 con với 1 chồng''. Câu thơ đã nói lên một hoàn cảnh làm ăn vất vả, lam lũ của bà, làm việc vất vả suốt cả năm, không kể mưa nắng trên mom sông- cái đất nhô ra chênh vênh, đầy nguy hiểm. Đông con, nuôi lũ con đông ấy đã đành, bà còn phải nuôi chồng. Năm con với một chồng là sáu người. Nhưng nuôi đủ vẫn hiểu là vừa đủ, không thiếu nhưng cũng chẳng thừa. Vất vả quanh năm đến vậy mà cũng chỉ vừa đủ nuôi chồng, nuôi con, vậy mới thật là vất vả, Thấm thía nỗi vất vả, gian truân của vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cò trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương con tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian mà còn là rợn ngợp của thời gian. Hình ảnh thân cò như một sự sáng tạo đưa từ lặn lội lên đầu câu, thay con cò bằng thân cò cũng làm tăng thêm nỗi vất vả, gian truân của bà Tú, càng khơi dậy cả nỗi đau thân phận sâu sắc, thấm thía hơn. Như vậy là bà Tú phải lo rất nhiều, phải làm rất nhiều nhưng ''âu đành phận'', ''dám quản công'' bà vẫn chấp nhận không hề kêu ca, phàn nàn, than thân trách phận hay oán hận. Bà âm thầm coi đó là định mệnh đã an bài, bà sẵn sàng, tự nguyện gánh khổ cực vì chồng con. Nổi lên là đức hi sinh thầm lặng cao quý, giàu đức hi sinh, bà là người đảm đang, tháo vát, chu đáo vs chồng con. Dù có vất vả, đau xót đến mức nào, thì người phụ nữ Việt Nam xưa vẫn là những con người có những phẩm chất đẹp đẽ, không chỉ ở vẻ bề ngoài mà còn là ở tình yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng, một dạ vì chồng, vì con. Qua đó, ông Tú cũng tự trách mình, tự nhận mình làm chồng mà vô tích sự, tự mắng mình là gánh nặng của vợ. Ông còn chửi thói đời bạc bẽo, chửi cả xã hội trọng nam khinh nữ. Vì quá Thương Vợ, có lẽ ông Tú đã hóa thân vào vợ mình để thông cảm và thấu hiểu bà. Lấy chồng mà chẳng được nhờ vả, cậy dựa, lấy phải ông chồng hờ hững thì quả thật có cũng như không mà thôi.
Cả 2 bài thơ, 2 người phụ nữ, họ đều cảm nhận được thân phận, số phận của mình 1 cách rõ ràng. Cùng ý thức được về bản thân và cuộc sống của mình. Song cuộc đời lại lắm éo le trắc trở. Họ phải chịu số phận hẩm hiu. Họ đều là những người phụ nữ tần tảo, nhẫn nại, cam chịu duyên phận, biết mà không thể làm gì được để thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt đến bế tắc ấy. Họ mất tự do, không được sống cho chính mình... 2 bài thơ cùng 1 đề tài và cùng toát lên thân phận nhỏ bé, phụ thuộc rất đáng thương của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa
Đó là những hiện thân cho những khổ đau của con người trong xã hội xưa, đồng thời là kết tinh của những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua hàng thế kỉ. Trong cả hai bài thơ là hình tượng người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau đớn, tủi cực dưới chế độ phong kiến nhưng ở họ toát lên sự đấu tranh mạnh mẽ, vượt lên số phận để làm tốt bổn phận của một người phụ nữ trong gia đình, một người phụ nữ dám vượt lên trên đớn đau để tìm hạnh phúc mà mình hằng khao khát.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 3
“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi”
Đã từ lâu, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa đã xuất hiện nhiều qua những câu ca dao với những vẻ đẹp, hình tượng khác nhau. Nhưng ở họ đều có chung đức tính truyền thống đẹp đẽ mà dân tộc Việt Nam đã tích luỹ được qua hàng ngàn năm lao động và đấu tranh. Hình ảnh đó cũng được thể hiện rất tài tình qua hai bài thơ Tự Tình II II của Hồ Xuân Hương Và Thương Vợ của Trần Tế Xương.
Hình ảnh đầu tiên của người phụ nữ Việt Nam được thể hiện qua hai bài thơ đó là hình tương người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau khổ, vất vả trong cuộc sống. Đó là hình ảnh bà Tú vất vả, gian truân kiếm sống, tất bật ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông”. Câu thơ đã nói lên một hoàn cảnh làm ăn vất vả, lam lũ của bà. Ở đây, bà Tú làm việc vất vả suốt cả năm, không kể mưa nắng trên mom sông - cái doi đất nhô ra đầy nguy hiểm. Thấm thía nỗi vất vả, gian truân của vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cà trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương con tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian mà còn là rợn ngợp của thời gian. Hình ảnh thân cò như một sự sáng tạo:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”
Đưa từ lặn lội lên đầu câu, thay con cò bằng thân cò cũng làm tăng thêm nỗi vất vả, gian truân của bà Tú, càng khơi dậy cả nỗi đau thân phận sâu sắc, thấm thía hơn:
“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Câu thơ gợi nên một sự chen chúc, bươn chải trên sông nước của những người buôn bán nhỏ, sự cạnh tranh đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng mà đó còn là sự chen lấn, xô đẩy chứa đầy bất trắc, nguy hiểm. Những câu thơ đã làm nổi rõ lên những vất vả, cực nhọc mà bà Tú và người phụ nữ Việt Nam xưa phải chịu đựng, trải qua.
Còn với bài thơ Tự Tình II II của Hồ Xuân Hương thì đó là sự khổ đau vì không làm chủ được số phận của mình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Mở đầu là một âm thanh vang vọng, đầy hối hả: Trống canh dồn. Nhưng dù mãnh liệt đến mấy, tiếng trống cũng chỉ là âm thanh duy nhát trong đêm vắng, nếu không có nó thì đem khuya sẽ trở nên vô cùng vắng lặng. Cái động đã đươc sử dụng để tôn lên cái tĩnh, cái cô độc, trống trải của đêm khuya. Nửa đêm là thời gian sum họp của vợ chồng, là thời điểm hạnh phúc lứa đôi, ấy vậy mà lại có người phụ nữ tĩnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm người phụ nữ đã không ngủ được vì thiếu vắng một điều gì đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi đau? Tiếng trống canh âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau, gọi đến một điều đáng sợ đối với một người đàn bà vẫn còn thân đơn gối chiếc, đó là tuổi già. Tuổi già càng đến gần nghĩa là hi vọng càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô vọng. Tiếng trống dồn dập cứ xoáy sâu vào tâm con người phụ nữ, nó âm vang trong tâm tưởng, âm vang trong suy nghĩ không tài nào dứt được. Dồn dập, hối hả, tiếng trống không chỉ bao trùm lên không gian mà còn lên cả thời gian nữa, và tự hỏi: đây có thật là tiếng trống hiện hữu trong thực tại hay phải chăng đó là tiếng trống cất lên từ tiếng lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống ám ảnh về một bi kịch đang ngày càng đến gần hơn với bà:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập thì cũng là lúc “hồng nhan” ngày một trơ ra với đời. “Hồng nhan” chính là nhan sắc, gương mặt xinh đẹp của người phụ nữ. Đó là điều mà bất cứ người phụ nữ nào cũng hết sức tự hào, coi trọng, nâng niu. Nhưng từ “cái” gắn liền với “hồng nhan” như một hòn đá kéo nặng cả câu thơ xuống. “Hồng nhan” để làm gì khi nữa đêm phải tĩnh giấc trong cái trống trãi, lặng lẽo đến đắng cay? “Hồng nhan” để làm gì khi nó đâu phải là vĩnh cữu mà sẽ nhanh chóng vỡ tan theo từng nhịp trống dồn. Câu thơ như lời đay nghiến, mỉa mai chính bản thân mình, đáng thương cho những người phụ nữ đương thời bị đè nén, áp bức với những thủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận hồng nhan. Đó còn là nỗi đau vì cô quạnh, thiếu vắng hạnh phúc lứa đôi, không người yêu thương, thông cảm.
“Chén rượi hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Hai câu thơ vẽ nên một khung cảnh rất thật và cũng chứa chan bao nỗi niềm tác giả. Một người phụ nữ mà phải ngồi uống rượu một mình, cô đơn với đêm khuya, với vầng trăng lạnh. Câu thơ là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa trăng với người. Khi muốn quên sầu là lúc người ta ở trong tâm trạng cay đắng nhất, khi xung quanh không có ai để có thể chia sẽ nỗi niềm và ta chỉ còn biết quên đi nỗi niềm trong men rượu, một mình. Nhưng liệu chén rươu có thể làm quên đi bảo nỗi cô đơn, tủi nhục trong lòng hay Hồ Xuân Hương uống rượu mà như uống đi bao giọt sầu mà người uống chẳng đổ đi được khi mà có thể lặng lẽ, âm thầm nuốt vào cổ họng, để đau khổ cũng chẳng mất đi đâu mà trở lại chính trong tâm trí mình. Ở đây cảnh tình Xuân Hương được thể hiện chứa đựng bi kịch. Tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không được trọn vẹn. Trăng vốn là biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho ước mơ và hi vọng. Nhưng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương lại xót xa đến mức “khuyết chưa tròn” - một hạnh phúc không hề trọn vẹn, một cuộc đời còn dang dở, éo le với những trắc trở trong tình duyên. Hạnh phúc của bà chỉ như vầng trăng khuyết mà bà không thể biết trước ngày mai trăng sẽ khuyết tiếp hay tròn. Ánh trăng sáng mà lạnh lẽo vô cùng khi ẩn hiện trong đó một nỗi cô đơn, trống vắng. Và bóng xế đi kèm với trăng lại gợi nên một nỗi niềm trong lòng tác giả: nỗi lo sợ trước tuổi xuân đang mất đi. Trăng đã xế mà vẫn khuyết chưa tròn, giống như tuổi xuân của Xuân Hương đang mất đi mà tình duyên chưa được trọn vẹn. Hình ảnh mặt trăng là hình ảnh ẩn dụ vô cùng độc đáo và đặc sắc, miêu tả chính xác và vô cùng sinh động ngoại cảnh mà cũng bộc lộ được tâm cảnh, những suy nghĩ, tâm tư đang hiện hữu trong bà.
Nhưng dù có vất vả, đau xót, chán chường đến mức nào, thì người phụ nữ Việt Nam xưa vẫn là những con người có những phẩm chất đẹp đẽ, không chỉ ở vẻ bề ngoài mà còn là ở tình yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng, một dạ vì chồng, vì con:
“Nuôi đủ năm con với một chồng”
Câu thơ là gánh nặng gia đình đặt lên vai bà Tú, vất vả quanh năm chẳng nề hà như vậy là để nuôi cả nhà. Đông con, nuôi lũ con đông ấy đã đành, bà còn phải nuôi chồng. Năm con với một chồng là sáu người. Một phải gánh sáu, thế là nặng, phải gánh và gánh được, thế là đảm đang. Nhưng nuôi đủ vẫn hiểu là vừa đủ, vừa đủ nuôi, không thiếu nhưng cũng chẳng thừa. Vất vả quanh năm đến vậy mà cũng chỉ vừa đủ nuôi chồng, nuôi con, vậy mới thật là vất vả, đã gắng hết sức rồi. Vậy mới thật là đảm, nặng đến thế mà cũng gánh xong, khó thế mà cũng chu toàn. Câu thơ thể hiện sự vất vả, gian lao đức tính chịu thương, chịu khó, hết lòng vì chồng, vì con của bà Tú nói riêng và của người phụ nữ Việt Nam nói chung.
Còn với Tự Tình II II, dù đớn đau đến mức nào thì trong sâu thẳm trái tim bà, dù yếu ớt đến đâu cũng loé lên ánh lửa khát khao, hi vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên đấu tranh thay đổi cuộc sống của mình:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
Một hình tượng thiên nhiên dữ dội, đầy cựa động như tính cách buớng bỉnh, không chịu khuất phục điều gì của chính tác giả vậy. Ở đây, Hồ Xuân Hương, sự buồn tủi bao giờ cũng gợi nên những phản ứng tích cực, bà không buông xuôi, đầu hàng mà luôn cố gắng tìm cách thay đổi vận mệnh, cho dù những cố gắng đó mới chỉ dừng lại trong suy nghĩ. Hai câu thơ tưởng như chỉ miêu tả cảnh vật xung quanh, nhưng chính những đặc điểm cuả cảnh vật đó đã được dùng để bộc lộ tâm trạng của con người. Hàng loạt những động từ mạnh đầy sắc thái biểu cảm như xiên, đâm được đảo lên đầu câu. Những sinh vật bé nhỏ, hèn mọn, còn hèn mọn hơn cả “nội cỏ hoa hèn” như đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu. Nó phải mọc xiên, mà là “xiên ngang mặt đất”. Đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, nó phải “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu dã làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá, cỏ cây mà cũng là sự phẫn uất của tâm trạng. Chỉ những cảnh vật bình thường không có gì đặc biệt như rêu và đá, nhưng qua cách nhìn đấy bất mãn, ấm ức của tác giả, chúng trở nên vô cùng sống động. Cự động, nổi loạn, phá phách, muốn đập tan những gì gò bó đẻ dược tự do vùng vẫy giữa đất trời, thiên nhiên hoà hợp với con người, đặc điểm thiên nhiên cũng chính là nỗi niềm nhân vật. Và ta cũng thấy được tâm trạng của Hồ Xuân Hương phẫn uất trước những tục lệ phong kiến, cũng như những số phận hẩm hiu đang tàn nhẫn ra tay bóp chết hạnh phúc của bà; những uất hận ấy bị đè nén, gò ép trong lòng bà đến mức không chịu nổi chỉ chực vỡ oà ra, bà khao khát muốn đập tung tất cả, muốn đập đổ mọi thứ, muốn tự do biết nhường nào. Nhưng dù sao, bà cũng chỉ là một người phụ nữ phong kiến, một thân phận nữ nhi cô độc, dù phá phách, dù nổi loạn đến đâu thì cũng chỉ trong giới hạn ngôn từ. Bà không thể làm gì hơn được nữa. Mặc dù vậy, ta phải công nhận đây là một cách suy nghĩ vô cùng mới mẻ, một tư tưởng đi trứoc thời đại, một tính cách hoàn toàn khác biệt so với người phụ nữ lúc bấy giờ. Đó là một bản lĩnh, một cá tính Xuân Hương đáng trân trọng:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Ngán là chán ngán, là ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương ngán lắm rồi nỗi đời éo le, bạc bẽo. Xuân đi rồi xuân lại, tạo hoá chơi một vòng luẩn quẩn. Từ xuân mang hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân đi rồi, mùa xuân trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn hoa cỏ, lá cây, nhưng với con người tuổi xuân qua là không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” mang hai ý nghĩa khác nhau. Từ lại thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, từ lại thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân lại đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Nghệ thuật tăng tiến làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: Mảnh tình-san sẻ-tí con con. Mảnh tình đã bé lại còn san sẻ ra thành ít ỏi, chỉ còn tí con con nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ được viết ra có thể là tâm trạng của người mang thân đi làm lẽ. Đau xót biết mấy, khi mảnh tình là một thứ được chia năm xẻ bảy, nhận dược duy nhất một mảnh tí con con. Hạnh phúc của bà chẳng những không trọn vẹn mà còn nhỏ bé, ít ỏi đến mức độ tội nghiệp. Tình duyên như thế có để làm gì, chỉ càng thêm tủi nhục, đắng cay. Cách dùng từ giản đơn mà vẫn vô cùng độc đáo đã cực tả nỗi niềm của tác giả. Hồ Xuân Hương ngang tàng, thách thức đầy nổi loạn trên là thế, nhưng cuối cùng tất cả vẫn chỉ chìm vào vô vọng trong sự bất lực tột cùng và chán chường, mệt mỏi. Những cố gắng vùng vẫy của bà chỉ là vô ích, bởi phận của bà vốn đã là một bi kịch và mãi mãi chỉ là bi kịch mà thôi. Có lẽ trong giờ phút ấy, bà đã muốn buông xuôi, muốn bỏ mặc cho tất cả số phận đưa đẩy, bà đã mất hết hi vọng. “Giọt nước mắt em... âm thầm buông rơi, đêm sầu đơn côi... trong tim em ôm trọn một nỗi sầu bơ vơ... đành khóc vậy thôi…” Liệu Hồ Xuân Hương có thể vượt qua tất cả để trở lại là một người phụ nữ yêu đời mạnh mẽ, không sợ gì cả như ngày nào? Đó vẫn là câu hỏi còn dở dang của người phụ nữ đem thân đi làm lẽ, phận người mà hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn mà chỉ nhỏ nhoi như mảnh gương vỡ. Câu thơ diễn đat sâu sắc đỉnh điểm, bi kịch của Hồ Xuân Hương và cũng là của người phụ nữ thời bấy giờ.
Đó là những hiện thân cho những khổ đau của con người trong xã hội xưa, đồng thời là kết tinh của những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua hàng thế kỉ. Trong cả hai bài thơ là hình tượng người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau đớn, tủi cực dưới chế độ phong kiến nhưng ở họ toát lên sự đấu tranh mạnh mẽ, vượt lên số phận để làn tốt bổn phận của một người phụ nữ trong gia đình, một người phụ nữ dám vượt lên trên đớn đau để tìm hạnh phúc mà mình hằng khao khát.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 4
Trong những năm từ thế kỉ mười bảy đến cuối thế kỉ mười chín, dưới sự suy tàn mục nát của chế độ phong kiến, số phận người phụ nữ bị gần như bị vùi dập trong vũng bùn đau khổ bởi lễ giáo phong kiến “trọng nam khinh nữ” hà khắc. Họ phải chịu chói buộc trong chế độ xã hội nam quyền độc đoán, đa thê… cùng với sự áp đặt của lễ giáo phong kiến: “Tam tòng, tứ đức” ( tam tòng là: tại gia tòng phụ), xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử; tứ đức là: công, dung, ngôn, hạnh). Họ hầu như không có quyền quyết định cuộc đời mình mà phải an phận, phục tùng và cam chịu. Vì thế, họ gặp rất nhiều đau khổ trong cuộc sống, tình duyên thì lận đận, phải chịu cuộc đời làm lẻ, làm thiếp cho người ta… Cảm thông với số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ, nhiều nhà văn nhà thơ đã thay họ đứng lên nói lên tiếng lòng của mình. Trong đó có Hồ Xuân Hương với “Tự Tình II” và Trần Tế Xương cùng “Thương Vợ”.
Hai tác phẩm trên là lời khẳng định về nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ xưa. Họ đều là những con người đa tài, đa sắc như Hồ Xuân Hương đã gọi “hồng nhan” hay là tảo tần, thủy chung, và giàu đức hi sinh như Tú Xương lên tiếng.
Nếu như Bà chúa thơ Nôm với cái tài và cái ngông của mình dám thách thức với cả trời đất, thiên nhiên để nói lên cái đẹp cái tài hoa của người phụ nữ trong xã hội bấy giờ:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
(Tự Tình II II)
Thì đến với Tú Xương lại thể hiện tâm thế và vị thế của một người mẹ hiền một người vợ đảm. Vì chồng, thương con mà bà cam chịu với cuộc sống khó khăn, vất vả:
“Lặn lội than cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
(Thương Vợ)
Nhưng dân gian ta đã có câu: “Hồng nhan bạc phận”. Hồ Xuân Hương càng thể hiện cái tài, cái hồng nhan bao nhiêu thì lại càng làm nổi lên tâm trạng buồn đau, oán hận, cô độc trong đêm khuya vắng. Sự bẽ bàng, tủi hổ của Hồ Xuân Hương nói riêng cũng chính là của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại ấy nói chung.
Những con người hạnh phúc ít ỏi, duyên nợ hẩm hiu: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân thì qua đi mà hạnh phúc vẫn không trọn vẹn như vầng trăng đến lúc xế bóng mà vẫn chưa tròn. Mang than phận của một người vợ lẻ, tình yêu thì bị chia năm sẻ bảy chỉ còn lại tí con con: “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Hồ Xuân Hương đã nói lên nỗi lòng của mình trước cái bất công của xã hội phong kiến. Còn với Tú Xương, ông đứng trên phương diện từ người đàn ông, người chồng, người con để thể hiện sự cảm thông, thương xót cho số phận của người phụ nữ:
“Một duyên, hai nợ âu đành phận
Năm nắng, mười mưa dám quản công”
Câu thơ vừa nói lên đức hy sinh cao quý của người phụ nữ mà cụ thể hơn ở đây là bà Tú, lại vừa thể hiện sự cam chịu trước số phận của mình. Nếu như đứng ở góc độ đạo lý, ta thấy rằng sự cam chịu của bà Tú chính là việc bà đang tuân thủ theo bổn phận làm vợ, làm mẹ của mình. Thế nhưng, theo góc độ tình cảm, ta thấy, việc bà Tú cam chịu, hi sinh tất cả vì chồng vì con thì ở bà lại hiện lên vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đó chính là sự đảm đang, chịu thương chịu khó, đức hi sinh âm thầm vì chồng vì con.
Cảm thông trước sự vất vả của người vợ, Tú Xương đã lên tiếng oán trách thói đời, trách xã hội bất công:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Nói là trách đời nhưng thực ra qua hai câu sau ta thấy rằng ông đang trách mình. Mình đã không làm đúng vai trò của một người chồng. Câu thơ nói lên tiếng lòng của Trần Tế Xương đối với người phụ nữ. Vừa là lời cảm thông, vừa là sự bênh vực. Còn với Hồ Xuân Hương, ta lại thấy có lời oán trách táo bạo, giận cuộc sống đã đưa người phụ nữ vào chỗ lẻ loi, cô đơn, hiu hắt : “Oán giận trông ra khắp mọi chòm” (Tự Tình II I). Hay phê phán cái xã hội thối nát, người đời bạc bẽo vô tâm: “Sau giận vì duyên để mỏi mòn” (Tự Tình II I). Đằng sau sự oán trách đó, là sự khát vọng và vươn lên, không để bị số phận làm khuất phục:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
(Tự Tình II II)
Bằng những động từ mạnh như “xiên”, “đâm”, kết hợp với bút pháp tu từ đảo ngữ càng nhấn mạnh sức phản kháng mãnh liệt và khát vọng bung tỏa bản lĩnh cá nhân. Và điều này cũng là nét đặc sắc của thơ Hồ Xuân Hương.
Tuy đứng ở hai khía cạnh, hai góc nhìn khác nhau về người phụ nữ, nhưng cả hai tác phẩm “Tự Tình II” và “Thương Vợ” đều là những bài ca ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nếu như Hồ Xuân Hương đem đến cho người đọc về hình ảnh người phụ nữ tài sắc, thủy chung, nhưng lại chịu nhiều bất hạnh về cuộc sống và duyên phận thì Tú Xương mang đến cho chúng ta hình ảnh về đức hi sinh, sự can đảm chịu thương chịu khó của người phụ nữ. Hơn nữa, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ càng đậm nét hơn khi chính họ là những con người bất hạnh nhưng luôn ngời sáng lên những ước mơ. Hai tác phẩm đều phản ánh khát vọng vươn lên làm chủ của người phụ nữ, bênh vực quyền sống, khát vọng hạnh phúc, thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Phẩm chất truyền thống đẹp đẽ đó đã trở thành nét đẹp đương đại với phụ nữ Việt nam ngày nay: “Giỏi việc nước – đảm việc nhà”.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 5
Từ bao giờ đến bây giờ, từ Homer đến Kinh Thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế” (Hoài Thanh). Có thể nói, đó chính là sự trường tồn bất diệt của thơ văn.
Và ta càng thấy sức lan tỏa của nó mạnh mẽ hơn khi đến với ngòi bút nhân đạo của người nghệ sĩ trong thơ ca trung đại. Nổi bật lên trong những trang viết thấm nhuần tư tưởng ấy chính là hình ảnh người phụ nữ.
Bằng sự đồng cảm nơi sâu thẳm tâm hồn, nhiều tác phẩm ra đời chính là sự lên tiếng của nhiều nhà thơ nói thay cho tâm sự thầm kín của người phụ nữ mà tiêu biểu là hai bài thơ “Tự Tình II II” của Hồ Xuân Hương và “Thương Vợ” của Trần Tế Xương.
Đọc những vần thơ ấy, độc giả không khỏi rung động trước tình cảnh éo le, trớ trêu, những bi kịch đau thương họ phải gánh chịu. Và có lẽ chính bởi từ đó, ta hiểu thêm về một nửa nhân loại.
Mỗi bài thơ đều được thể hiện bằng phong cách riêng nhưng nổi bật lên là hình ảnh người phụ nữ tiềm ẩn bao vẻ đẹp, tài năng và phẩm chất đáng trân trọng. Nhưng trong xã hội phong kiến mục nát ấy, mọi quyền lợi mà họ đáng được hưởng lại bị tước đoạt.
Có thể khẳng định rằng, người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa đẹp người, đẹp nết. Họ mang một vẻ thuần khiết, trắng trong, có nhan sắc:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”
(Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)
Và ta cũng bắt gặp hình ảnh một người vợ đảm đang, yêu thương gia đình:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Bà Tú là người rất mực chăm lo cho chồng con, bà nuôi cả gia đình nhưng cuộc ssống luôn đầy đủ, không để ai phải đói rách. Mọi người được ăn no mặc ấm, tiêu pha đủ. Qua đó, ta thấy bà đã làm tròn trách nhiệm với cương vị là người vợ, người mẹ trong gia đình.
Đọc đến đây, hình ảnh “Vũ Nương” trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ một lần nữa khắc sâu trong tâm trí mỗi người với phẩm chất cao đẹp của nàng: một người vợ yêu thương chồng con và hiếu thuận với mẹ. Dường như đây cũng là sự đồng điệu giữa hai tâm hồn của hai thế hệ nhà thơ Nguyễn Dữ và Tú Xương. Qua đó càng làm nổi bật lên vẻ nết na, đảm đang của người phụ nữ.
Nhưng bên cạnh đó là những khổ cực, vất vả mà đôi vai yếu mềm phải gánh chịu. Đối với người con gái, tuổi xuân là thứ đáng quý nhất trong cuộc đời nhưng Hồ Xuân Hương chưa có được một hạnh phúc trọn vẹn thì nó đã qua đi nhanh chóng, hao mòn theo thời gian:
“Đêm khuya vẳng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Đã đêm khuya mà bà vẫn thao thức. Tâm trạng rối bời trước nhịp đập của tiếng trống dồn dập hay cũng chính là bước đi của thời gian. Cái cô đơn lạnh lẽo cứ bủa vây và dường như mỗi giây phút đi là tâm trạng được đẩy lên một bậc.
Càng đau đớn xót xa biết bao khi người con gái đã quá lứa, lỡ thì mà tình duyên vẫn chưa trọn vẹn:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Cuộc đời chính bản thân của bà đã trải qua bao truân chuyên, sóng gió, hai lần phải làm lẽ và không những chỉ có vậy mà cả hai lần chồng bà đều chết. Từ đó ta càng không thể phủ nhận một qui luật trong xã hội xưa: tài hoa bạc mệnh. Một người có tài năng như bà lại vướng phải bi kịch tàn khốc, đau thương.
Bởi thế, bà chỉ còn biết nhớ đến “chén rượu”. Vì men rượu – hương nồng đắng cay sẽ làm cho người ta say mà quên đi cay đắng! Đến một người phụ nữ cũng phải độc ẩm trong đêm khuya quả là một niềm đau xót. Nhưng “say rồi lại tỉnh”, đâu có thoát khỏi vòng quẩn quanh, bế tắc của tâm trạng. Tỉnh ra càng chua xót, đắng cay hơn bội phần.
Cả cuộc đời bà, cuộc đời của một người luôn khao khát sự trọn vẹn, yên lành trong hạnh phúc lứa đôi nhưng nào bao giờ có được “vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Trăng đã “bóng xế”- cuộc đời_ mà vẫn “khuyết” chưa tròn. Qua đó càng khiến nỗi lòng của người cô phụ se thắt lại- nỗi buồn dai dẳng, xa vắng lan tỏa khắp tâm hồn.
Người phụ nữ chịu bao khổ đau, bị xã hội đưa đẩy mà không tự quyết định được cho số phận của mình:
“Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”
(Bánh trôi nước)
Với cương vị là một người vợ, người phụ nữ cũng không tránh khỏi khổ cực mà xã hội suy tàn ấy mang đến:
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
(Thương Vợ)
Lấy chồng duyên chỉ “một” mà nợ thì nhiều. Người vợ phải gánh vác công việc trong gia đình. Với thân phân nhỏ bé, đơn chiếc nhưng họ luôn bất chấp nguy hiểm, cực khổ để nuôi sống gia đình.
Người vợ lại đóng vai trò là trụ cột. Họ vì mưu sinh cuộc sống mà phải lam lũ, vất vả, dãi nắng dầm mưa, lặn lội kiếm ăn:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Bà Tú một mình thân gái nhỏ bé, yếu ớt phải lặn lội khắp nơi, bươn bả trên sông nước không có ai trợ giúp, đỡ đần cho bà nơi hiểm nguy sông nước, chứa đầy bất chắc. Bởi thế kiếp sống long đong lận đận của người phụ nữ ấy, tác giả đã đồng nhất với hình ảnh thân cò lặn lội.
Nhưng có thể nói, người phụ nữ Việt Nam mang trong mình một sức sống mãnh liệt, nghị lực vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
Sau bao đau xót, tủi nhục dường như vẫn trỗi dậy:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Ở đây, thiên nhiên cũng bừng lên với tâm trạng con người. “Rêu” vốn là sinh vật nhỏ bé, yếu mềm và “đá” là sự vật vô tri nhưng dưới con mắt của mình, “Bà chúa thơ nôm” cũng thấy chúng muốn chứng tỏ sức sống của mình bằng cách “Xiên ngang”, “đâm toạc” mặt đất, chân mây. Sự vật mà còn có thể huống chi là người? tại sao con người lại bi quan như thế?
Và ta cũng nhận thấy được sự táo bạo trong thơ Hồ Xuân Hương:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
Bà luôn khẳng định mình, bất chấp số phận giàng buộc của xã hội phong kiến.
Người vợ trong thơ Tế Xương cũng vậy, bất chấp hoàn cảnh mà vươn lên. Không lời phàn nàn trách móc, oán hận mà giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
“Năm nắng mười mưa dám quản công”
Vâng! người phụ nữ Việt Nam là thế. Ở họ chứa đựng những cảm xúc suy tư từ cuộc đời thực của mình. Nhưng tất cả đều mang những phẩm chất, tài năng đáng quí.
Họ bày tỏ sự phẫn nộ uất ức trước duyên phận, đồng thời khát khao được hạnh phúc, tình duyên trọn vẹn.
Qua hai bài thơ ta càng thấy ánh lên những hình ảnh cao đẹp của người phụ nữ thời xưa. Họ như những tia sáng hào quang lan tỏa đến tâm hồn bạn đọc ở bao thế hệ. Và như thế, thơ ca đã bắc nhịp cầu kết nối những trái tim cùng đồng cảm, cùng sẻ chia.
Văng vẳng đâu đây, dường như ta vẫn nghe được dư âm:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Nỗi đau của người phụ nữ, nỗi buồn của một kiếp người. Nhưng ánh sáng lan tỏa từ phẩm chất cao đẹp của họ sẽ len lỏi đến trái tim độc giả muôn đời.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 6
Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều bài thơ nói lên than phận của người phụ nữ phong kiến xưa. Đó là những người phụ nữ chịu sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến “Tam tòng, tứ đức” ( tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử và công dung ngôn hạnh). Họ hầu như không có quyền quyết định cuộc đời mình, chỉ biết sống cam chịu và phục tùng. Cảm thông với số phận, thân phận và phẩm chất của người phụ nữ xưa, hai nhà thơ Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương đã thay họ nói lên tiếng lòng mình qua các bài thơ như: Tự tình, Bánh trôi nước, Thương vợ, …
Thời xưa, dưới chế độ phong kiến suy tàn, mục nát, số phận người phụ nữ luôn bị vùi dập vào vũng lầy đau khổ, luôn bị trói buộc bởi xã hội bất công, nam quyền độc đoán, một xã hội “trọng nam khinh nữ”, một chế độ đa thê, … Họ gặp nhiều đau khổ, lận đận, tình duyên trắc trở, chịu cuộc đời làm lẻ, số phận hẩm hiu, éo le.
Với bản lĩnh của mình và cũng là nạn nhân trong xã hội đó, Hồ Xuân Hương đã mạnh dạn nói lên nỗi lòng của những người phụ nữ xưa. Đó là những người phụ nữ duyên dáng, xinh xắn nhưng luôn bị phân biệt đối xử thậm tệ, không có quyền lựa chọn hạnh phúc của đời mình và luôn khát khao hạnh phúc lứa đôi. Trước một xã hội bất công, cảnh ngộ người con gái giàu sức sống và hết sức tài hoa, nhưng trớ trêu cuộc đời thật bất hạnh, số phận lận đận gian truân:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nỗi ba chìm với nước non”
Không chỉ thế nỗi đau thân phận con được nhắc đến ở bài : “Tự tình II”:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non (…)
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Một tâm trạng buồn đau, oán hận, cô độc, trong màn đêm vắng lặng. Sự bẽ bàng, tủi hổ, dầu dãi cay đắng là nỗi đau của Hồ Xuân Hương nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Duyên phận họ thật hẩm hiu, hạnh phúc ít ỏi ( tuổi xuân trôi qua mà hạnh phúc không trọn vẹn như trăng xế mà vẫn khuyết). Mang cho mình một thân phận lẻ mọn, tình yêu bị chia năm xẻ bảy chỉ còn tí con con: “Mảnh tính san sẻ tí con con”.
Đối với Trần Tế Xương, ông đứng dưới khía cạnh một người đàn ông, cảm thông thương xót cho số phận của người phụ nữ bị đối xủ bất công, luôn chịu cơ cực gian truân nhưng không dám phản kháng. Họ luôn sống cam chịu, hi sinh cho chồng con:
“Lặn lội than cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Câu thơ mang chất liệu ca dao, các hình ảnh “lặn lội”, “eo sèo”, “khi quãng vắng”, “buổi đò đông” thể hiện sự tủi thân của người phụ nữ, trước sự đơn chiếc, chen chút làm ăn vật lôn với cuộc sống để mưu sinh, nuôi chồng con. Người phụ nữ xưa khi về nhà chồng phải chịu sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến, chấp nhận không kêu ca, oán than (“Một duyên hai nợ âu đành phận – Năm nắng mười mưa dám quản công”) mặc dù rất vất vả, khổ cực. Hình ảnh bà Tú chính là chân dung của một người phụ nữ không quản khó khăn vì chồng vì con, là một hình ảnh tiêu biểu cảu người phụ nữ Việt Nam.
Qua đó, đã làm nổi bật những vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất người phụ nữ Việt Nam xưa. Đồng thời phê phán cái xã hội thối nát, giận người đời bạc bẽo vô tâm (“Sau giận vì duyên để mỏi mõm mòm” – Tự tình I của Hồ Xuân Hương), giận cuộc sống đã đưa những người phụ nữ vào chỗ lẻ loi cô dơn, hiu hút:
“Oán hận trông ra khắp mọi chòm” (Tự tình I – Hồ Xuân Hương)
Họ oán hận trước nỗi đau âm ỉ, dai dẳng đốt cháy tâm can và tê tái nhất.
Trong thơ Hồ Xuân Hương ta luôn bắt gặp những hình ảnh người phụ nữ biết vượt lên số phận, không để nỗi đau làm mình gục ngã:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn” (Tự tình II)
Quả thật, họ không bao giờ chịu khuất phục, luôn cựa quậy. Xuân Hương lại càng khẳng định”
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà en vẫn giữ tấm lòng son” ( Bánh trôi nước)
Đúng là một phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ với tấm lòng thủy chung, son sắc, quyết gìn giữ không để hoàn cảnh xã hội lam hoen ố, là niềm tự hào, lòng kiêu hãnh và hãnh diện về chính mình. Và trong tâm hồn người phụ nữ luôn khao khát được hòa hợp trong một tình yêu trọn vẹn, mãnh liệt:
“Chém cha cái kiếp lấy cồng chung”
Nó thể hiện một niềm khao khát chính đáng của người phụ nữ ở mọi thời đại.
Đến với “Thương vợ” của Tú Xương nhìn với góc độ đạo lý, bà Tú đang tuân theo bổn phận làm vợ nhưng nhìn ở góc độ tình cảm, ta thấy bà làm tất cả vì chồng con mà không than thở, ở bà hiện lên vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đó là sự đảm đang, chịu thương, chịu khó và đức hi sinh âm thầm vì chồng con.
Từ đây ta càng cảm thông sâu sắc cho số phận người phụ nữ Việt Nam xưa, phải chịu nhiều khổ cực, tủi nhục, hiu quạnh, tình duyên hẩm hiu, trắc trở …
Ngày nay thân phận người phụ nữ đã chiếm một vị trí quan trọng trong gia đình. Bởi lẽ cái xã hội “Trọng nam khinh nữ” đã bị xóa bỏ mà thay vào đó là một xã hội “công bằng, bình đẳng, nam nữ bình quyền”. Nhưng không vì thế mà người phụ nữ Việt Nam làm mất đi vẻ thuần phong mỹ tục vốn có của mình. Và vẫn giữ được phẩm chất, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đảm đang tháo vát.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 7
Văn thơ trung đại Việt Nam, nhất là các tác phẩm viết bằng chữ Nôm nói nhiều đến tình yêu và số phận người phụ nữ trong cuộc đời. Hồ Xuân Hương và Tú Xương, qua "Bánh trôi nước", "Tự tình" - Bài II, "Thương vợ" đã làm hiện lên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa với bao ấn tượng sâu xa, với bao cảm thương man mác.
Bài thơ "Bánh trôi nước" có hai lớp nghĩa: tả thực chiếc bánh trôi, một món ăn dân tộc và tượng trưng cho phẩm chất tốt đẹp của người con gái quê ta. Chữ "trắng" và chữ "tròn", hình ảnh nhân hoá "thân em" đã thể hiện vẻ đẹp khiêm nhường, dịu dàng, trinh trắng và duyên dáng của "em". Tuy tình yêu và số phận bị phụ thuộc vào lễ giáo phong kiến và đạo tam tòng, vào "tay kẻ nặn", dù "rắn nát", dù vất vả, lận đận, long đong, trải qua "bảy nổi ba chìm", nhưng em vẫn kiên trinh, sắt son. Hình ảnh ẩn dụ "tấm lòng son" và hai tiếng "vẫn giữ" đã ngợi ca đức hạnh kiên nhẫn, lòng chung thủy sắt son của người phụ nữ ngày xưa trong mọi gia đình Việt Nam. "Bánh trôi nước" là bức chân dung nghệ thuật với hai gam màu "trắng" và "son" tuyệt đẹp:
"Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son".
Chùm thơ "Tự tình" ba bài của Bà chúa thơ Nôm, đặc biệt biệt bài thơ thứ hai, đã nói lên một cách cảm động về bi kịch tình duyên của người phụ nữ phận hẩm duyên ôi!
Người phụ nữ ấy thao thức giữa đêm khuya, một mình một bóng đang lắng nghe tiếng trống dồn "văng vẳng" từ một chòi canh xa đưa lại. Thao thức vì cô đơn, vì lẻ bóng. Rượu và trăng cũng không làm vợi đi bao nỗi buồn chồng chất, đang đè nát cõi lòng. "Chén rượu hương đưa" cứ ngỡ có thể làm say để quên đi bao nỗi buồn chứa chất tâm hồn, cố uống cho say, nhưng "say lại tỉnh" để mà thêm buồn; buồn cho tình duyên lẽ mọn! Trơ trọi ngắm "vầng trăng bóng xế", ngắm mãi ngắm hoài mà trăng kia vẫn "khuyết chưa tròn", Hạnh phúc mà nàng mong đợi chỉ là "Một tháng đôi lần có cũng không!". Số phận và bi kịch ấy thật đáng thương!
Trong bi kịch tình duyên, người đàn bà lẽ mọn cố vùng vẫy bươn ra nhưng thoát sao được. Dù có "xiên ngang mặt đất", dù có "đâm toạc chân mây", nhưng đám rêu kia, mấy hòn đá nọ cũng không thể nào thay đổi được cảnh ngộ đáng buồn, đáng thương, đáng tủi, đáng hận:
"Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn".
Phép đảo ngữ trong hai câu thơ không chỉ làm nổi bật cái dữ dội tiềm ẩn của thiên nhiên mà còn tô đậm sự phản kháng duyên số, phản kháng đến tuyệt vọng của người đàn bà "lấy chồng chung".
Thời gian chẳng mang lại hạnh phúc cho nàng. Mùa xuân cũng chẳng đem lại niềm vui gì cho nàng, mà nỗi chán ngán, đau khổ cứ chồng chất mãi thêm. Mùa xuân đi qua rồi mùa xuân lại trở lại, tuổi mỗi ngày một cao, nhan sắc ngày một phai tàn, nhưng tình yêu và hạnh phúc chỉ được "san sẻ tí con con" mà thôi! Thật đáng thương! Thật tội nghiệp. Tổng Cóc và ông phủ Vĩnh Tường cũng chẳng mang lại cho nàng chút hạnh phúc nào! Hai câu kết đã cực tả nỗi đau khổ trong bi kịch tình yêu của Hồ Xuân Hương:
"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!"
"Tự tình" - Bài II không chỉ nói lên nỗi đau khổ cô đơn mà còn thể hiện niềm khao khát tình yêu hạnh phúc của người đàn bà trong cảnh ngộ "lấy chồng chung", giá trị nhân bản của bài thơ thật sâu sắc.
Tú Xương có bài "Văn tế sống vợ"; ông còn có bài "Thương vợ" với cảm hứng chủ đạo là tình thương, lòng quý trọng, biết ơn của ông đối với người vợ hiền thục của mình. Bà Tú là hiện thân cho bao đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Bà buôn bán tần tảo ở mom sông suốt quanh năm, không có một ngày ngơi nghỉ. Một gánh nặng gia đình được bà "nuôi đủ":
"Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng".
Nhờ sự đảm đang, tháo vát của vợ mà ông Tú tuy "ăn lương vợ" nhưng khá phong lưu:
"Cho hay công nợ âu là thế,
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.
Tiền bạc phó cho con mụ kiếm,
Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi"
(Tự cười mình)
Hình ảnh "thân cò" là một sáng tạo của Tú Xương để nói về sự làm ăn vất vả, khó nhọc của bà Tú. Cặp từ láy: "lặn lội" và "eo sèo" đã cực tả nỗi gieo neo, đức tính chịu thương chịu khó của người vợ, người mẹ trong gia đình đông con:
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông".
Bà Tú còn là hiện thân của đức hi sinh thầm lặng. Bà cam chịu, kiên nhẫn về duyên phận. Các thành ngữ "một duyên hai nợ", "năm nắng mười mưa" kết hợp với các từ ngữ "âu đành phận", "dám quản công" cho thấy đức hạnh, tâm hồn của bà Tú thật cao quý. Bà đã sống hết mình vì cuộc sống và hạnh phúc của chồng con:
"Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công".
Hai câu kết là lời nhiếc của bà Tú cũng là lời tự trách mình của nhà thơ:
"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không".
"Không" là không giàu sang phú quý, không được "Võng anh đi trước, võng nàng theo sau" như các bà nghè khác. "Không" là không được sống trong cảnh vinh thân phì gia "tối rượu sâm banh, sáng sữa bò" như vợ của các thầy kí, thầy phán khác thời bấy giờ.
Tú Xương tuy tự trách mình, nhưng ông đã nói lên tất cả tấm lòng quý trọng và biết ơn đối với người vợ hiền thục thương yêu. Hình ảnh bà Tú trong bài thơ "Thương vợ" là hình ảnh của một người phụ nữ Việt Nam với bao phẩm chất tốt đẹp như đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó và giàu đức hi sinh.
Qua các bài thơ "Tự tình" - Bài II, "Thương vợ" người đọc thấy được phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, càng biết ơn và tự hào về người mẹ, người chị, người vợ trong mỗi gia đình chúng ta. Đúng như Huy Cận đã viết:
"Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử,
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ".
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 8
Thời đại phong kiến với quan niệm trọng nam khinh nữ, người phụ nữ phải chịu đầy rẫy những bất công, oan trái của xã hội. Thế nhưng họ vẫn luôn xinh đẹp, thùy mị, giàu lòng thương yêu và hết mực quan tâm đến mọi người, nhất là gia đình. Ta có thể bắt gặp lại hình ảnh của họ qua các tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam. Đặc biệt, Tự tình II của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Tế Xương sẽ giúp chúng ta hiểu rõ thêm phần nào về thân phận người phụ nữ thời xưa dưới chế độ phong kiến.
Hình ảnh đầu tiên của người phụ nữ Việt Nam được thể hiện qua hai bài thơ đó là hình tượng người phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ, vất vả trong cuộc sống. Với thơ Hồ Xuân Hương, họ phải chịu khổ về tinh thần vì cô quạnh, thiếu vắng tình yêu, không được yêu thương và không làm chủ được số phận của mình.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Không gian là đêm khuya thanh vắng, tiếng trống cầm canh vang lên như tăng thêm sự vắng lặng, tô đậm trạng thái cô đơn của Hồ Xuân Hương.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
“Chén rượu hương đưa” diễn tả tâm trạng về nỗi đau thân phận và tình duyên éo le, ngang trái đang bế tắc trong tâm trạng. Rượu không phải là thứ để giải sầu vì “say” rồi lại “tỉnh”. Thời gian “vầng trăng bóng xế” như gợi nhắc đến tuổi tác nhưng lại “khuyết chưa tròn” thể hiện sự thiếu vắng, không trọn vẹn, nỗi buồn tủi vì tuổi xuân sắp qua mà tình duyên chưa đến.
Còn với bài thơ Thương vợ của Tế Xương, hình ảnh bà Tú vất vả, gian truân kiếm sống, tất bật ngược xuôi được hiện lên rõ nét.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông”
Câu thơ đã nói lên một hoàn cảnh làm ăn vất vả, lam lũ của bà. Ở đây, bà Tú làm việc vất vả suốt cả năm, không kể mưa nắng trên mom sông chỉ để cho gia đình có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Với biện pháp tu từ đảo ngữ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Hình ảnh “lặn lội thân cò” đã khắc họa rõ nét chân dung bà Tú vất vả, cực nhọc những nơi nguy hiểm vắng vẻ, cái nơi mà phải dành cho những người đàn ông, trụ cột của gia đình. Thế nhưng bà lại phải gánh lấy không một lời oán trách.
Nhưng dù có vất vả, đau xót, chán chường đến mức nào, thì người phụ nữ Việt Nam xưa vẫn là những con người có những phẩm chất đẹp đẽ, không chỉ ở vẻ bề ngoài mà còn là ở tình yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng một dạ vì chồng, vì con:
“Nuôi đủ năm con với một chồng”
Đối với Tự tình, hình ảnh người phụ nữ được thể hiện ở sức mạnh tâm hồn: dù đớn đau đến mức nào thì trong sâu thẳm trái tim bà, dù yếu ớt đến đâu cũng loé lên ánh lửa khát khao, hi vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên đấu tranh thay đổi cuộc sống của mình:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
Các động từ mạnh mẽ như “xiên ngang” – “đâm toạc” đã được sử dụng trong phép đảo ngữ làm toát lên được sức mạnh của sự sinh tồn từ trong những sự vật nhỏ bé. Giữa mặt đất đầy đất và đá, đâu đó mọc lên một nhành cây con con, xanh tươi. Với hai câu luận này, khát vọng sống và được sống, yêu và được yêu của nữ sĩ được thể hiện vô cùng mạnh mẽ.
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Ngược lại, bằng nghệ thuật sử dụng thành ngữ có biến đổi, Tế Xương đã miêu tả bà Tú là một người vợ chịu thương, chịu khó, có đức hi sinh và lòng vị tha. Tuy vất vả, cực nhọc nhưng bà vẫn luôn chấp nhận và không bao giờ than phiền với chồng.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Đây được xem như là một lời tự trách mình, trách một cách nặng nề của Tế Xương. Bà Tú không hề coi chồng là ăn ở bạc, nhưng ông Tú thì gọi đích danh tội lỗi của mình ra như vậy. Trách mình “ăn lương vợ”, mà “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn “hờ hững” với vợ con, đồng thời cũng là trách đời đen bạc.
Tưởng chừng như cánh cửa cuộc đời đang mở ra cho người phụ nữ và toàn thể phái đẹp trong xã hội phong kiến một hạnh phúc và niềm tin mới, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã kéo chúng ta về suy nghĩ hiện tại, cũng chính là hai câu thơ kết, vừa chua xót, vừa đắng cay của cuộc đời :
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Tâm trạng mong mỏi chờ đợi của người phụ nữ lại trở về khi ngày mới bắt đầu. Quy luật của thời gian chính là chỉ trôi theo một chiều chứ không tương tác song song. Xuân đến rồi xuân lại đi, ngày xuân hôm qua cũng chẳng giống ngày xuân hôm nay. Người phụ nữ ấy vẫn mong chờ một ngày nào đó được cảm nhận hạnh phúc trọn vẹn thật sự, bằng cả trái tim nồng cháy của người đối diện, để nàng có thể trao đi tất cả những gì được gọi là sự thuỷ chung, sự vẹn toàn của tình yêu. Thật không còn gì có thể diễn tả được nỗi đau đó.
Thế nhưng trong cái xã hội này, ta cũng thấy được những người phụ nữ được sống trong hạnh phúc, được sự quan tâm và nhận được sự yêu thương của chồng con, dù cuộc đời có bôn ba vất vả hay khó khăn. Nói cho cùng thì bất kỳ ai, sống trong thời kỳ nào thì cũng có nỗi khổ riêng của chính họ mà thôi…
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 9
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam từ lâu đã trở thành đề tài muôn thuở cho các nhà thơ, nhà văn. Đặc biệt qua các bài Tự Tình của Hồ Xuân Hương và Thương Vợ của Trần Tế Xương chúng ta sẽ hiễu rõ thêm phần nào về thân phận của người phụ nữ thời xưa dưới chế độ phong kiến.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Với bút pháp tả thực, từ ngữ giản dị đã gợi cho ta thấy được sự cô đơn lanh lẽo trong cái không gian thanh vắng trống trải của đêm khuya. Từ ngữ “hồng nhan” như ám chỉ một người phụ nữ xinh đẹp, quyến rủ thế nhưng nó lại cứ “trơ” ra. Hồ Xuân Hương đã mạnh dạn công khai một hiện thực hết sức bẽ bàng, chua xót mà bà đang nếm phải.Và cũng từ đó bà nhận ra được số phận của những người phụ nữ trong chế độ phong kiến thối nát, với những quan niệm”trai thì nam thê bảy thiếp” đã làm cho người phụ nữ không có được một chỗ đứng trong xã hội, họ lo lắng cho thân phận trôi nổi cuả mình bởi họ không thể quyết định được duyên phận của bản thân họ.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tàn”
Bà đã mượn rượu để quên đi tình, quên đi cái số phận hẩm hiu của mình, nhưng say rồi lại tỉnh lại càng buồn tủi hơn, đau khổ hơn.HÌnh ảnh vầng trăng sắp tàn mà lại khuyết chưa tròn như ngự ý một nhân duyên không trọn vẹn mà tuổi xuân thì cứ lạnh lùng trôi qua.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Khoảng không gian như được mở rộng hơn qua tầm nhìn của tác giả, những động từ “đâm”, “xiên” gợi lên sự mạnh mẽ, bướng bỉnh thể hiện sự kháng cự đầy quyết liệt của bà Hồ Xuân Hương, một nỗi khao khát được hạnh phúc, được có một mái ấm gia đình, được người chồng thương yêu chăm sóc chứ không phải ngồi một mình trong đêm khuyên thanh vắng với sự cô đơn và lạnh lẽo trong nỗi buồn tủi, tâm trạng chán chường trước một mảnh tình không được trọn vẹn mà phải “chia năm sẻ bảy” để rồi cuối cùng chỉ còn một mảnh “tí con con”. Mặc dù bà có bản lĩnh có giỏi giang như thế nào cũng không thoát khỏi được nghịch cảnh. Bởi người phụ nữ không hề có được địa vị trong xã hội này.Cái xã hội “trọng nam khinh nữ”,”nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” đã làm cho người phụ nữ Việt Nam điêu đứng, nhưng cũng từ đó những phẩm chất tốt đẹp của họ được bộc lộ rõ nét hơn..
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Hoàn cảnh kiếm sống của bà Tú đã được giới thiệu rất rõ nét, thời gian cứ lặp đi lặp lại đến năm này sang năm khác, bà Tú phải làm việc vất vả, cực nhọc để “nuôi đủ năm con với một chồng” đó không phải là một điều dễ dàng mà ai cũng làm được. Tác giả đã sữ dụng biện pháp tu từ đảo ngữ một cách tinh tế “lặn lội thân cò ” đã khắc họa rõ nét chân dung của bà Tú ở những nơi nguy hiểm vắng vẻ mà đáng ra việc đó phải dành cho người chồng, người cha, trụ cột của gia đình thế nhưng bà Tú lại phải gánh lấy không một lời than phiền oán trách.
“Một duyên hai nợ âu đành phận
năm nắng mười mưa dám quản công”
Dù có gian nan, vất vả thế nào thù cũng là duyên phận, bà Tú chấp nhận tất cả, giấu kín lòng mình với bao nỗi xot xa, tủi cực vì chồng vì con. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ trên đã làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp, tần tảo nuôi con của bà Tú nói riêng và hình ảnh người phụ nữ Việt Nam nói chung.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Tác giả như nói thay lới của vợ mình_bà Tú, để than trách chính bản thân mình, là người chồng không làm được việc gì để chăm lo đến gia đình rồi còn trở thành một gánh nặng đè trên vai người vợ, “hờ hững” không hề quan tâm đến gia đình, vợ con, không biết chia sẽ những nỗi vất vả của vợ, coi người vợ mình như một cổ máy làm việc không biết mệt mỏi. Phải chăng đây cũng chính là một gia đình điển hình trong chế độ phong kiến thời xưa với những thủ tục lạc hậu “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” đã trở thành một sự ràng buột đối với người phụ nữ.
Qua hai tác phẩm trên đã làm cho chúng ta hiểu rõ thêm về thân phận người phụ nữ thời xưa, với những khát vọng, những ước mơ nhỏ bé là có được một gia đình ấm êm, cuộc sống no đủ, có thể làm chủ được số phận của mình.Và ta càng hiễu rõ thêm những phẩm chất tốt đẹp, sẵn sàng hi sinh vì chồng vì con của người phụ nữ Việt Nam.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 10
Đề tài về người phụ nữ của nước ta trong thời phong kiến luôn là nguồn cảm hứng sáng tác của rất nhiều nhà văn nhà thơ, tạo nên nhiều tác phẩm xuất sắc kinh điển. Trong đó có hai bài thơ vô cùng đặc sắc đã lột tả được thân phận của người phụ nữ trong chế độ phong kiến chịu nhiều thiệt thòi, cay đắng đó là bài thơ "Tự Tình 2" của bà Hồ Xuân Hương và bài thơ "Thương Vợ" của Tú Xương.
Hai tác phẩm này nói về phẩm chất tốt đẹp cao quý của người phụ nữ trong xã hội cũ. Đồng thời thể hiện nỗi đau thương xót xa của người phụ nữ xưa khi chịu cảnh chồng chung, cảnh vợ lẽ hẩm hiu, đau khổ.
Với nghệ thuật tả thực ngôn ngữ thơ giản dị nhưng sâu sắc tác giả Hồ Xuân Hương đã cho người đọc thấy được tâm trạng cô đơn, hiu quạnh, lạnh lẽo của người con gái trong không gian mênh mông trống trải của bốn bức tường, khi một người con gái đang độ tuổi xuân sắc lại chịu cảnh chồng chung, chờ đợi người đàn ông của mình trong sự trống trải vò võ năm canh. Âm thanh của tiếng trống đêm như làm cho bầu không khí vốn lạnh lẽo tĩnh mịch trở nên u uất xao động hơn bao giờ hết.
Trong bài thơ "Tự Tình 2" tác giả Hồ Xuân Hương đã sử dụng từ "hồng nhan" để nói lên nỗi khổ của những người con gái xinh đẹp nhưng chịu nhiều thiệt thòi, bất công trong cuộc sống khi sống trong chế độ phong kiến vốn nhiều éo le, trọng nam khinh nữ. Một thân phận người phụ nữ bẽ bàng, nếm trải nhiều đau khổ, chua xót trong đời sống của mình.
Chính bản thân tác giả Hồ Xuân Hương trong cuộc đời thực của mình bà cũng là người có sắc có tài, nhưng lại phải làm vợ ba của một ông Tổng Cóc bởi xã hội phong kiến luôn đặt người đàn ông lên trên người phụ nữ. Đàn ông có quyền nhiều vợ, còn người phụ nữ thì chỉ có thể lấy một chồng, luôn phải nghe theo sự sắp đặt của cha mẹ, của người đàn ông trong gia đình không có quyền quyết định hạnh phúc riêng của mình.
Những người phụ nữ lo lắng cho thân phận bèo dạt mây trôi của mình, bởi họ cũng là con người có suy nghĩ, có trái tim, tình cảm riêng. Nhưng họ không có quyền quyết định tương lai vận mệnh của mình. Trong bài thơ "Tự Tình 2" bà Hồ Xuân Hương đã dùng rượu để làm cho mình nửa tỉnh nửa say, quên đi những bất hạnh của mình. Nhưng say rồi tỉnh, tỉnh rồi lại say, khi say nỗi sầu muộn trong lòng càng lớn lao hơn. Nỗi cô đơn trong lòng càng trào dâng mãnh liệt.
Tác giả vô cùng tinh tế khi sử dụng hình ảnh trăng sắp tàn, vầng trăng khuyết nhằm ẩn dụ cho một tình yêu không trọn vẹn, một tình yêu không tròn đầy, thủy chung trước sau như một. Tuổi xuân của người con gái mỗi năm đều trôi qua không bao giờ lấy lại được, đời người con gái thì có thì. Nhưng nỗi cô đơn dài đằng đẵng bất tận khiến cho người con gái cảm thấy mình sống thật vô nghĩa.
Trong bài thơ "Tự Tình 2" của mình nhà thơ Hồ Xuân Hương đã sử dụng nhiều động từ mạnh như "đâm" "xiên" thể hiện một phong cách thơ phóng khoáng, thể hiện một tính cách mạnh mẽ của người con gái muốn nổi loạn muốn phá vỡ những phong tục tập quán lạc hậu của chế độ, nhưng bà lại không làm gì được.
Trong mỗi lời thơ đều thể hiện sự phá phách, bướng bỉnh của bà Hồ Xuân Hương nói lên một ước mơ mãnh liệt đó là khát khao của người con gái muốn có hạnh phúc trọn vẹn, thủy chung, muốn có một mái ấm gia đình chung thủy một vợ một chồng không chia sẻ với ai.
Trong hai câu cuối của bài thơ "Tự Tình 2" tác giả Hồ Xuân Hương đã nói lên sự chán nản cũng như sự cô đơn buồn tủi của người phụ nữ. Khi mùa xuân quay đi quay lại, đời người con gái chỉ có thì , mỗi mùa xuân đi qua người con gái lại già thêm một tuổi. Tình duyên thì vẫn lẻ bóng, chịu cảnh chia sẻ như vậy.
Dù bà Hồ Xuân Hương được mệnh danh là người có tài, có tính cách mạnh mẽ nhưng khi phải sống trong một xã hội phong kiến với nhiều hủ tục lạc hậu bà cũng không thể làm gì hơn. Chính vì vậy, trong mỗi lời thơ của mình bà đều thể hiện một sự ngang ngược, một sự uất nghẹn khi nghĩ tới thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa.
Nếu như trong bài thơ "Tự Tình 2" của Hồ Xuân Hương nói về thân phận người phụ nữ khi chịu cảnh chồng chung, phận làm thê thiếp, lẽ mọn, là lời tâm sự của người phụ nữ nói lên tiếng lòng của mình. Còn bài thơ "Thương Vợ" của Tú Xương là nỗi lòng của người chồng thương cho người vợ người phụ nữ của mình chịu nhiều vất vả trong cuộc sống mưu sinh, nhiều vất vả.
Bà Tú nhân vật chính trong bài thơ "Thương Vợ" có hoàn cảnh sống vô cùng khó khăn, quanh năm lam lũ nuôi đủ năm người con và một người chồng. Mọi gánh nặng cơm áo đều đổ dồn lên đôi vai gầy guộc của người phụ nữ.
Tác giả Tú Xương đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, một cách tinh tế ví thân phận người vợ của mình như thân cò lặn lội quanh năm buôn bán từ nửa đêm gà gáy tới khi trời nhá nhem tối. Tác giả Tú Xương khắc họa nhân vật bà Tú vô cùng khắc khổ tần tảo, hy sinh vì chồng vì con. Đáng ra việc lo lắng cho vợ con, tìm kế sinh nhai trong gia đình phải do người con trai, người trụ cột gia đình nhưng trong gia đình bà Tú thì lại do bà gánh vác, nhưng bà chưa bao giờ than phiền hay oán trách ông trời, số phận đã khiến cho mình vất vả, khổ sở.
Câu thơ nói lên đức tính vô cùng đáng quý của người phụ nữ luôn nghĩ tới chồng con của mình, làm tất cả vì gia đình mình được hạnh phúc. Nhưng dù có vất vả như thế nào thì bà Tú cũng vẫn vui vẻ sống không than trách, không oán giận số phận hẩm hiu của mình. Tác giả Tú Xương nói lên nỗi lòng của mình tự trách thói đời bạc bẽo, chửi xéo những ông chồng không lo được cho vợ cho con của mình để vợ con phải khổ.
Qua hai tác phẩm "Tự Tình 2" của Hồ Xuân Hương và "Thương Vợ" của Tú Xương người đọc thêm hiểu rõ hơn về thân phận của những người phụ nữ sống trong chế độ xã hội xưa kia. Họ luôn mơ ước một mái ấm gia đình trọn vẹn, có cuộc sống đầy đủ hạnh phúc, được chồng mình sẽ chia gánh vác mọi trách nhiệm trong gia đình. Những người phụ nữ xưa luôn có những phẩm chất đạo đức tốt đẹp luôn chịu thương chịu khó, nhẫn nhịn hy sinh vì gia đình của mình. Đó là đặc tính chung của người phụ nữ Việt Nam phong kiến.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 11
Hồ Xuân Hương sáng tác nhiều bài thơ nổi tiếng về đề tài phụ nữ. Thơ bà là tiếng nói đòi quyền sống tự do và thể hiện khát khao hạnh phúc. Trần Tế Xương cũng có một số bài thơ nói về những vất vả gian truân mà người phụ nữ phải gánh chịu trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.
Mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước quen thuộc trong dân gian, Hổ Xuân Hương gửi gắm những suy ngẫm sâu sắc của mình về thân phận nhỏ bé và phụ thuộc của người phụ nữ:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Chiếc bánh trôi nước làm bằng bột nếp trắng tinh, mịn màng, tròn trịa và xinh xắn khiến người ta liên tưởng tới vẻ đẹp hổn nhiên, đầy đặn của những cô gái đương xuân. Bánh luộc trong nồi nước sôi, mấy lần chìm xuống nổi lên mới chín. Bột bánh trắng trong nổi rõ màu nâu đỏ của nhân làm bằng đường thẻ. Với đôi mắt và trái tim đa cảm, Hồ Xuân Hương đã nhận ra đằng sau những chi tiết rất thực ấy là cả một nỗi niềm thương thân trách phận của người phụ nữ. Tạo hoá sinh ra họ là để duy trì và phát triển sự sống của nhân loại, đồng thời làm đẹp cho đời. Vai trò của họ là vô cùng quan trọng, nhưng quan niệm thiên vị đến mức lệch lạc trong xã hội phong kiến đã cố tình phủ nhận điều đó. Nào là: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Nào là: Nữ nhân ngoại tộc.
Rồi luật Tam tòng cột chặt người phụ nữ vào thân phận bị phụ thuộc vĩnh viễn: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Những quan niệm khắt khe, cổ hủ ấy đã tước đoạt điều quý giá nhất là được tự do sống đúng với con người mình và đáng sợ hơn là nó biến người phụ nữ thành cái bóng mờ nhạt trong suốt cuộc đời. Họ tồn tại chứ không phải là sống theo đúng nghĩa tích cực của từ đó. Chẳng khác gì những chiếc bánh trôi nước, rắn, nát, méo, tròn hoàn toàn do tay kẻ nặn.
Ở bài thơ Tự tình II, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng bức xúc cao độ của bản thân, đồng thời cũng là tâm trạng chung của bao phụ nữ cùng cảnh ngộ trong xã hội phong kiến:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Nói đến người phụ nữ là nói đến cái đẹp, tình yêu thương và đức hi sinh. Họ cống hiến hết cho cuộc đời mà không đòi hỏi quyền lợi vật chất nào ngoài sự trân trọng, cảm thông và chia sẻ. Nhưng những cái đó hầu như không được gia đình và xã hội quan tâm vì cho rằng thiên chức của phụ nữ là phục tùng vô điều kiện. Hiểu rõ điều bất công đó nên Hồ Xuân Hương đã viết nên những câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa, chua chát như trên. Hồng nhan là cách gọi những phụ nữ đẹp, rộng hơn là để chỉ chung giới nữ. Nhưng gọi là cái hồng nhan có nghĩa là đã hạ nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác khác. Nỗi hờn tủi, bẽ bàng chất chứa trong câu thơ: Trơ cái hồng nhan với nước non in đậm dấu ấn phong cách diễn tả độc đáo của Xuân Hương.
Tâm sự trĩu nặng nỗi buồn thân phận và duyên phận của nữ sĩ không biết ngỏ cùng ai nên càng cuộn xoáy, day dứt trong lòng giữa đêm khuya thanh vắng. Nhưng dù bị phụ phàng hay quên lãng thì nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn không tuyệt vọng, vẫn khao khát sống mạnh mẽ, vẫn ước ao đến cháy lòng hạnh phúc tròn đầy, vẫn mong muốn được san sẻ và bù đắp những tình cảm chân thành nhất giữa người với người.
Bài Thương vợ của nhà thơ trào phúng nổi tiếng Trần Tế xương có thể coi là chân dung tương đối hoàn chỉnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Ngày xưa, Nho giáo buộc phụ nữ phải có bổn phận thờ chồng, nuôi con. Thờ chồng đối với bà Tú bao hàm cả việc nuôi chồng, thế là bất công vì đúng ra, người đàn ông phải giữ vai trò trụ cột trong gia đình về mọi mặt.
Bà Tú vốn con nhà gia giáo, khá giả. Lúc còn ở với cha mẹ, bà không phải chịu cảnh vất vả nắng sương. Làm vợ ông Tú lận đận về đường khoa cử, lại không nghề không nghiệp nên bà đành chấp nhận cảnh sống long đong, khổ sở. Quanh năm lo tảo tần buôn bán nơi mom sông, bến chợ để Nuôi đủ năm con với một chồng. Mà nuôi ông chồng đặc biệt tài hoa như ông Tú thì không phải chỉ lo miếng cơm, manh áo bình thường mà còn phải chuẩn bị sẵn cho ông ít rượu ít trà, ít tiền bỏ túi để có lúc ông vui bạn vui bè, chuẩn bị cho ông một hai bộ cánh tươm tất để nhỡ đi đâu ông khỏi tủi… Như vậy là bà Tú phải lo rất nhiều, phải làm rất nhiều mà không dám kể lể, thở than: Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Bà âm thầm coi đó là định mệnh đã an bài. Suy nghĩ và tâm trạng của bà Tú cũng là suy nghĩ, tâm trạng chung của phụ nữ thời xưa.
Nhà thơ Trần Tế Xương từng tự nhận mình là ông chồng vô tích sự, để vợ phải lặn lội thân cò… chẳng khác chi những thân cò thân vạc đáng thương trong ca dao – dân ca, tượng trưng cho thân phận vất vả, cực nhọc của người phụ nữ. Bên cạnh nỗi khổ vật chất, bà Tú còn nỗi khổ tinh thần. Bà hết lòng vì chồng, vì con nhưng chồng con nào có biết cho chăng?! Thế nên mới có tiếng thở dài như một lời than não ruột: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!
Có lẽ ông Tú đã hoá thân vào vợ mình, để thấu hiểu và thông cảm với bà. Lấy chồng mà chẳng được nhờ vả, cậy dựa; lấy phải ông chồng hờ hững thì quả là có cũng như không mà thôi.
Ba bài thơ cùng một đề tài và cùng toát lên thân phận nhỏ bé, phụ thuộc rất đáng thương của người phự nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Nhà thơ Hồ Xuân Hương và nhà thơ Trần Tế Xương đã góp tiếng nói đáng kể vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi chính đáng của một nửa nhân loại – những người gánh vác trọng trách duy trì sự sống trên trái đất này.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 12
“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen
Ai ơi ném thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi”
Từ ca dao đến văn học trung đại, đề tài người phụ nữ đã trở thành cảm hứng vô tận cho các nhà văn, nhà thơ. Người phụ nữ dù cho có phải chịu nhiều khổ đau, vất vả nhưng luôn ngời sáng lên vẻ đẹp của phẩm giá và nhân cách. Hình ảnh người phụ nữ cũng được thể hiện rất sâu sắc và thấm thía qua hai bài thơ Thương vợ của Tú Xương và Tự tình của Hồ Xuân Hương.
Trong bài thơ Thương vợ của Tú Xương, ta thấy hình ảnh bà Tú hiện lên với những phẩm chất tốt đẹp muôn đời của người phụ nữ Việt Nam. Trước hết, Tú Xương làm nổi bật bao nỗi gian truân, khó nhọc của bà. Cái gian truân, khó nhọc ấy được cụ thể hóa bằng thời gian, không gian: quanh năm, mom sông. Bà Tú phải làm lụng vất vả quanh năm suốt tháng ở một địa điểm chênh vênh, cheo leo, không vững vàng. Qua đó ta thấy bà là một người chịu thương, chịu khó, không quản khó khăn vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng”. Cách đếm thật đặc biệt ấy cho thấy công lao to lớn của bà Tú. Trên đôi vai người phụ nữ nhỏ bé là gánh nặng chồng con, thế nhưng bà lúc nào cũng lo toan hết sức chu đáo cho gia đình: “nuôi đủ”. Cuộc đời bà hiện lên vô cùng lận đận, vất vả vì cuộc sống mưu sinh khắc nghiệt:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Vẻ đẹp đáng quý nhất ở bà Tú có lẽ là đức hi sinh cao cả. Ông Tú mải mê với nghiệp văn chương, học hành, một tay bà lèo lái gia đình nhưng không một lời kêu ca, oán trách. Lặng lẽ và âm thầm hi sinh vì gia đình, đó cũng là phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay.
Đến với Tự tình II của Hồ Xuân Hương, ta bắt gặp tiếng lòng của người phụ nữ trong xã hội cũ. Thế nhưng, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương không ngồi yên cam chịu số phận mà ẩn chứa một tinh thần phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ, trong bi kịch vẫn có bản lĩnh và khát khao hạnh phúc. Giữa đêm khuya thanh vắng chỉ có tiếng trống từ xa vọng lại, người phụ nữ nhỏ bé hiện lên thật đáng thương trong nỗi cô đơn, hiu quạnh, trơ trọi giữa cuộc đời: “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Bi kịch lớn hơn với người phụ nữ bên cạnh nỗi cô đơn là không có người tri âm, tri kỉ, hạnh phúc dở dang, lỡ làng. Đau đớn làm sao khi muốn tìm quên trong hơi men nhưng càng uống lại càng cô đơn, trống vắng: “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”. Tuy có xót xa cho thân phận nhưng ẩn sau nó vẫn là ý thức phản kháng mãnh liệt, thể hiện cá tính rất Hồ Xuân Hương:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Người phụ nữ đã dám đứng lên để đòi quyền làm chủ cuộc sống của mình, khao khát được tự do, hạnh phúc và dám phá vỡ những hủ tục, luật lệ hà khắc của xã hội phong kiến, những bất công trong xã hội. Bài thơ kết thúc trong nỗi ngậm ngùi về tình duyên số phận:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Đó là tâm trạng chung của phận làm lẽ: mảnh tình đã nhỏ được san sẻ nay lại càng ít ỏi, nhỏ bé hơn. Hồ Xuân Hương đã nói hộ tiếng lòng sâu kín của tất cả những người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Người phụ nữ trong thơ của Hồ Xuân Hương tuy phận hẩm duyên ôi, hạnh phúc lỡ làng, tình duyên không trọn vẹn nhưng ta không bao giờ bắt gặp một sự bi quan hay tuyệt vọng, ở đâu đó vẫn thấy lóe lên một bản lĩnh, sự ý thức về cái tôi và những khát khao căn bản rất con người.
Qua hai bài thơ, chúng ta đã có hình dung phần nào về vẻ đẹp tâm hồn của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Dù phải chịu nhiều bất công, tủi cực trong chế độ phong kiến, những người phụ nữ ấy vẫn dám mạnh mẽ vươn lên để làm tròn bổn phận, trách nhiệm trong gia đình, đồng thời vượt lên trên khổ đau để kiếm tìm hạnh phúc.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 13
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương có chùm thơ “Tự tình” 3 bài. Đây là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ trữ tình ấy. Vẫn là thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật đã Việt hoá một cách tài ba, có điều chùm thơ mang một giọng điệu trữ tình thảm thiết, nhiều cay đắng tủi hờn, phản ánh tâm trạng của một người phụ nữ quá lứa lỡ thì, duyên ôi phận ẩm. Bài thơ “Tự tình” này thể hiện đậm nét cốt cách thi sĩ của Bà chúa thơ Nôm.
Tự tình nghĩa là tự phô bày, tự giãi bày những tình cảm ẩn chứa trong lòng, tự mình thổ lộ cho mình biết, cho mình hay. Tự tình mang tính hướng nội, nên rất chân thực, sâu sắc và cảm động. Nội dung “Tự tình” là tuổi tác và tình duyên.
Mở đầu bài thơ, hai đâu đề gợi ra một không gina bao la, mờ mịt từ trên bom thuyền ở nơi dòng sông đến khắp mọi chòm xóm, thôn làng. Người phụ nữ thao thức suốt những canh dài. Tiếng gà gáy “văng vẳng” như thế. Nghệ thuật lấy động (tiếng gà gáy) để diễn tả cái tĩnh lặng vắng vẻ của đêm dài nơi làng quê đã góp phần làm nổi bật tâm trạng “oán hận” , của người phụ nữ thao thức suốt những canh trường. Nàng ngồi dậy, lắng tai nghe tiếng gà gáy sang canh, rồi “trông ra” màn đêm mịt mùng. Màn đêm như bủa vây người phụ nữ trong nỗi buồn cô đơn, oán hận:
“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm”.
Hai câu 3, 4 trong Phần thực, tác giả tảo ra hai hình ảnh “mõ thảm” và “chuông sầu” đối nhau, hô ứng nhau, cực tả nỗi đau khổ, sầu tủi của riêng mình đang sống trong cảnh ngộ qúa lứa lỡ thì, trắc trở trong tình duyên. Vần thơ đầy ám ảnh. Phủ định để khẳng định tiếng “cốc” của “mõ thảm”, tiếng “om” của “chuông sầu”. Nữ sĩ đã và đang trải qua những đêm dài thao thức và cô đơn, đau cho nỗi đau của đời mình cô đơn như “mõ thảm” chẳng ai khua “mà cũng cốc”, tủi cho nỗi tủi của riêng mình lẻ bóng chăn đơn như “chuông sầu” , chẳng dánh “cớ sao om”. Nỗi oán hận, đau buồn sầu tủi như thấm sâu vào vào đáy dạ, tê tái xót xa, như đang tỏa rộng trong không gian “khắp mọi chòm” , như kéo dài theo thời gian của những đêm dài. “Om” là tiếng tượng thanh, tiếng chuông sầu, cũng là lời gợi tả nỗi thảm sầu tê tái, đau đớn đến cực độ. Câu hỏi tu từ đã làm cho giọng thơ thảm thiết, xoáy sâu vào lòng người như một lời than, như một tiếng thở dài thương mình trong nỗi buồn ngao ngán:
“Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”
Có biết thời con gái, Hồ Xuân Hương đã có những vần thơ tươi xinh, phơi phới như “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” (Bánh trôi nước). “Hai hàng chân ngọc duỗi song song” (Đánh du)… ta mới thấy hết nõi thảm sầu về bi kịch cô đơn của nữ sĩ được diễn tả tê tái trong hai câu trong phần thực này.
Lời than tự tình trong cô đơn được khơi sâu trong phần luận, để mà “rầu rĩ” thêm, giận hờn thêm cho duyên phận hẩm hiu:
“Trước nghe” đối với “sau giận”; “tiếng” hô ứng với “duyên”; “rầu rĩ” làm tâm trạng đối với “mõm mòm” là trạng thái. “Trước nghe những tiếng…”, là những tiếng gì? – Tiếng của miệng thế? Hay là tiếng gà văng vẳng gáy, tiếng “chuông sầu”, tiếng “mõ thảm” đang “cốc”, đang “om” trong lòng mình? Giữa canh khuya thao thức, càng nghe càng thêm “rầu rĩ”, buồn tủi. Giữa lúc tàn canh thao thức, càng nghe càng “giận”, càng hờn về tình duyên bẽ bàng. Tình duyên của mình được ví với trái cây, không còn “má hây hây gió”(Xuân Diệu) nữa mà đã chín “mõm mòm” , nghĩa là quá chín, đã nẫu đi! “Duyên mõm mòm” là duyên phận hẩm hiu, qúa lứa lỡ thì! Trong câu thơ như có nhiều lệ, nhiều tiếng thở dài, vừa than thân trách phận, vừa buồn hẩm hiu, quá lứa lỡ thì! Trong câu thơ như có nhiều lệ, nhiều tiếng thở dài, vừa than thân trách phận, vừa buồn tủi về con đường tình duyên. Tiếng thơ tự tình của Hồ Xuân Hương là lời than tự thương mình, đồng thời thương cho những người đàn bà cùng cảnh ngộ đã luống tuổi mà vẫn cô đơn lẻ bóng: “Giật mình mình lại thương mình xót xa” (Truyện Kiều).
Phần kết xuất hiện một tứ thơ rất lạ. Như một sự thách đố với số phận, với duyên số. Nữ sĩ vẫn “bướng bỉnh” trước bi kịch cô đơn của mình khi “duyên để mõm mòm” rồi:
Vừa nghi vấn, vừa cảm thán, hai câu kết đầy nghịch lí. Nữ sĩ như vẫn còn tin vào tài năng cảu mình có thể làm xoay chuyển được duyên phận, vẫn hy vọng tìm được bạn đời trăm năm trong đám tài tử văn nhân. Câu 6 nữ sĩ viết: “Sau giận vì duyên để mõm mòm”, câu 8, bà lại viết: “Thân này đâu đã chịu già tom!”. “Già tom”, nghĩa là rất già, già hẳn! Đó là một cách “nói cứng” thể hiện một thái độ “bướng bỉnh”, một bản lĩnh cứng cỏi trước ngang trái cuộc đời. Đọc chùm thơ “Tự tình” cũng như tìm hiểu cuộc đời của nữ sĩ, về mặt tình duyên, ta thấy hạnh phúc tình yêu chưa một lần mỉm cười với Xuân Hương. Bài thơ “Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyên Hầu” (Nhớ người cũ, viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn Du – tước hầu) như một bóng quang âm soi tỏ một “mảnh tình riêng” của “Bà chúa thơ Nôm”, giúp ta cảm nhận bài thơ “Tự tình” này:
“Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giặc mộng rồi ra nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phần son càng tủi phận long đong
Biết còn mấy chút sương siu máy
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong”.
Bài thơ “Tự tình” – I gieo vần “om”, 5 vần thơ, vần nào cũng hóc hiểm, tài tình: “bom chòm om mòm tom”. Những vần thơ hóc hiểm ấy, một mặt thể hiện bút pháp điêu luyện, mặt khác đã tạo nên nhạc điệu, âm điệu như thật, như nén lại cái “oán”, cái “hận”, cái “ngang bướng” của một tâm trạng, một cá tính rất Xuân Hương. Duyên số và hạnh phúc tình yêu của người phụ nữ là nội dung đầy ám ảnh đối với mỗi chúng ta khi đọc bài thơ “Tự tình” này của Xuân Hương. “Tự tình” là tiếng than thân trách phận cho nỗi buồn cô đơn, vẻ bi kịch tình yêu, là niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ. Vì lẽ đó, “Tự tình” mang giá trị nhân bản sâu sắc
Bài thơ sau đây là bài “Thương vợ” của Tú Xương:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vẵng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Trần Tế Xương lận đận trong thi cử, đi thi đến lần thứ tám mới đậu được cái tú tài. Ông học giỏi nhưng phải cái ngông quá, thật ra thái độ ngông của ông là một cách ông phản kháng lại chế độ thi cử lạc lậu, quan trường “ậm ọc” lúc bấy giờ. Mà đậu được cái tú tài thì rồi cũng làm “quan tại gia” thôi. Hồi đó phải đậu cử nhân mới được bổ tri huyện. Thế là bà Tú gần như phải nuôi chồng suốt đời. Ông Tú chỉ còn biết đem tài hoa của mình mà ghi công cho bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sống,
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Từ “mom” thật là hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh năm bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với việc buôn bán khó nhọc của vợ. Từ “mom” là tổng hợp nghĩa của các từ ven, bờ, vực, thềm, thành một từ sáng tạo của nhà thơ làm giầu thêm cho tiếng Việt. Bà Tú buôn thúng bán bưng quanh năm ở “mom sông” mà nuôi chồng, nuôi con:
“Nuôi đủ năm con với một chồng”
Câu thơ chỉ mấy con số khô khốc thế vậy mà tế toái lắm đó! “Nuôi đủ năm con” là vì con, phải nuôi, nên đếm ra để mà nuôi. Nhưng còn chồng thì một chồng chứ mấy chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Là vì chồng cũng phải nuôi, mà bà Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã là vất vả, lại thêm một ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng gấp đôi. Thời đó mà nuôi một ông Tú, lại là Tú Xương nữa thì nhiêu khê lắm.
Nhưng bà Tú được an ủi là vì ông Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bông đùa, cười cợt đó lại để tâm đến từng bước chân của bà trên đường lặn lội buôn bán:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Có thể nói lòng thương vợ của nhà thơ dào dạt lên trong hai câu thơ này. Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”
Nếu như từ “lặn lội” được đảo ra phía trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú, thì từ “eo sèo” gợi lên âm thanh hỗn tạp (tiếng kì kèo mặc cả, tiếng cãi cọ tranh giành) của “buổi đò đông”. Hai tình huống đối lập thật hay: “vắng” và “đông”. Người phụ nữ gánh hàng lặn lội trên quãng đường vắng thật là khổ. Mà đến chỗ “đò đông” thì thật là đáng sợ! Nghĩa là nhìn từ phía nào, nhà thơ cũng thương vợ, tình thương thấm thía, cảm động.
Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông Tơ bà Nguyệt), còn “nợ” thì đã thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú. “Một duyên hai nợ âu đành phận” là bà Tú đã thuận theo lòng trời và thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, bà chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bà chấp nhận vị quan “ăn lương vợ” nên bà đâu “dám quản công”:
“Năm nắng mười mưa dám quản công”
Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây là sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết.
Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ còn biết tự trách mình.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Vì quá thương vợ mà nhà thơ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ thói đời…” thì đã thành lời xỉ vả mình. Thật ra là một cách ông Tú nhún mình để cho công trạng của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải là người “ăn ở bạc”. Ăn chơi sa đà thì có, “hờ hững” nữa, thì nhà thơ đã thành thật nói rồi, chứ bạc tình, bạc nghĩa thì không. Gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật là con người đáng kính.
Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.
Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ông Tú giành cho bà Tú, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mà xét thì ông Tú cũng xứng với bà Tú vì trên đất nước gian lao và vất vả này có hàng triệu người như bà Tú, nhưng chỉ có một bà Tú là được vào cõi thơ, cõi bất tử!
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 14
Đề tài người phụ nữ luôn là một đề tài được nhiều nhà văn nhà thơ quan tâm và yêu thích. Ở họ có những phẩm chất vô cùng quý báu đó là sự khao khát yêu thương và hạnh phúc thế nhưng luôn bị những thế lực bạo tàn chèn ép và xô đẩy. Nó đã trở thành những nguồn cảm hứng dạt dào bất tận cho nhiều thi nhân. Trong đó có những tác phẩm nổi tiếng như Bánh trôi nước, Tự tình II (Hồ Xuân Hương) và Thương vợ của Trần Tế Xương.
Những bài thơ trên hình ảnh người phụ nữ hiện lên không chỉ có vẻ đẹp về hình thức mà quan trọng nhất đó chính là những phẩm chất cao quý về tài năng nhân phẩm và khát vọng châ chính về quyền sống quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Miêu tả vẻ đẹp bên ngoài của họ nhà thơ Hồ Xuân Hương đã có những vần thơ viết trong bài Bánh trôi nước như sau:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”
Bánh trôi được làm từ bột gạo nếp trắng tròn, mịn màng xinh xắn khiến người ta liên tưởng đên hình ảnh những người con gái đương độ xuân sắc. Cụm từ vừa trắng lại vừa tròn phần nào gợi tả thật khéo léo vẻ đẹp đó. Không chỉ về hình thức mà còn có phẩm chất vô cùng thanh tao:
“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
Tấm lòng son chính là tấm lòng son sắt vẹn nguyên, trung trinh dù có phải trải qua bao nhiêu phong ba bão táp bao nhiêu biến cố của cuộc đời. Hình ảnh ẩn dụ so sánh ngầm tấm lòng son vừa là nhân bánh trôi vừa là tâm hồn thanh tao của người phụ nữ. Tác giả Hồ Xuân Hương đã vô cùng khéo léo khi sử dụng đại từ em ở mở bài và kết bài để diễn tả sự mỏng manh yếu đuối nhưng cũng đầy khiêm tốn của mình.
Còn trong bài thơ Thương vợ của nhà thơ Trần Tế Xương phẩm chất cao quý và tình yêu thương của một người phụ nữ hết lòng vì chồng vì con
“Quanh năm buôn bán ở mom sống
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Câu thơ nhằm nói lên hết những nỗi đắng cay truân chuyên trong cuộc đời của bà Tú. Mom sông đã trọn vẹn nói lên sự chông chênh trong cuộc mưu sinh của bà. Bốn bề chênh vênh số phận của bà cũng trở nên đầy nhọc nhằn đã thế lại phải gánh nặng thêm năm con với một chồng. Nhà thơ khéo léo khi chia câu thơ thành hai vế “năm con” với “một chồng”. Mình ông Tú đã phải bằng năm miệng ăn của năm đứa con vì ông còn phải bút, sách, nghiên mực. Thế nhưng cho dù có bao nhiêu vất vả bao nhiêu sóng gió thì người phụ nữ tần tảo ấy vẫn vẹn nguyên chữ kiên trung không một lời oán thán cuộc đời hay số phận. Phẩm chất của bà cũng chính là vẻ đẹp đại diện cho người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa.
Bên cạnh đó trong tác phẩm tự tình 2 nhà thơ Hồ Xuân Hương có những vần thờ ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ. Nó không chỉ hết lòng vì chồng vì con son sắt thủy chung mà còn vô cùng cứng rắn dám vượt qua hết tất cả những nỗi đau, nỗi vất vả.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đấm
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.
Hình tượng thiên nhiên vô cùng dữ dội và có nét gì đó vô cùng nổi loạn cũng giống như sự bướng bỉnh không chịu khuất phục của người phụ nữ. Những số phận tưởng chừng bé nhỏ thấp hèn như hương đồng cỏ nội thế nhưng nó cũng tiềm ẩn trong đó một tâm hồn cứng rắn sắt đá. Phải chăng nhà thơ Hồ Xuân Hương còn chứa đựng trong đó một sự bất mãn với thời cuộc với xã hội với lề lối phong kiến đang trà đạp nên hạnh phúc con người.
Vất vả gian truân là thế thế nhưng dường như chưa bao giờ họ có quyền được than vãn chưa bao giờ có quyền được bộc lộ mình. Họ sống nép mình ẩn dật bởi cái xã hội phong kiến với định kiến nặng nề đó trói buộc họ. Họ hoàn toàn không có quyền làm chủ số phận của mình:
“BẢy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”
Người phụ nữ thời xưa là vậy họ phải tuân thủ ngặt nghèo quy luật của lễ giáo phong kiến. Chuyện chung thân đại sự hay chuyện cuộc đời với họ hoàn toàn không nằm trong tay họ mà do người khác sắp đặt, Lấy chồng thì theo chồng, phải chịu cảnh năm thê bảy thiếp, cực khổ trăm bề.
Chả vì thế mà Hồ Xuân Hương đã đau xót mà rằng:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh đồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Không phải ngẫu nhiên mà ba tác phẩm này lại được đặt chung cho một chỗ. Vì nó đều nói lên hình ảnh người phụ nữ thời xưa. Những con người đầy lòng yêu thương, đầy sự hi sinh nhưng chưa bao giờ được hưởng trọn vẹn quyền sống và mưu cầu hạnh phúc. Số phận của họ trở nên vô cùng mong manh và bi đát.
Số phận người phụ nữ luôn là đề tài không bao giờ vơi cạn với thi sĩ. Nó giống như một kho tàng phong phú để thi nhân sáng tạo và khơi nguồn. Thế nhưng dù có trải qua bao nhiêu đau khổ thì những tâm hồn đó vẫn sáng đẹp và tỏa hương giữa cuộc đời.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 15
“Thương thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Hai câu thơ lục bát trên được trích từ tác phẩm Truyện Kiều của Đại Thi Hào Nguyễn Du nói về thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa thật “bạc mệnh”. Hay trong những bài ca dao:
“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.”
Cho ta thấy hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam xưa được xuất hiện nhiều qua các bài thơ, ca dao, tục ngữ với những vẻ đẹp, hình tượng khác nhau. Họ làm lụng vất vả qua ngày tháng nhưng không hề kêu than mà vẫn chịu thương chịu khó vì chồng vì con như trong tác phẩm “Thương vợ” của Trần Tế Xương ông đã thể hiện rất rõ điều đó. Xưa kia người phụ nữ họ đâu được tự quyết định cuộc sống của mình, số phận của họ lệ thuộc hoàn toàn vào người đàn ông, dân gian có câu “tài hoa bạc mệnh” người phụ nữ càng xinh đẹp sẽ càng khổ. Người phụ nữ họ cũng là người, họ có quyền khát khao hạnh phúc, khát khao có một tuổi xuân tươi vui nhưng những người phụ nữ thời xưa với những luật lệ khắt khe những tư tưởng hà khắc của Nho giáo họ không dám bày tỏ nỗi lòng của mình. Nhưng đến gần cuối thế kỉ thứ XVIII có một thi sĩ đã sáng tác ra những bài thơ rất táo bạo nói hộ nỗi niềm của những người phụ nữ đó là Hồ Xuân Hương. Bà khát khao hạnh phúc, khát khao được yêu thương và mong muốn tìm được một bến đỗ cho cuộc đời của mình và điều đó được thể hiện trong bài “Tự tình II”
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Hồ Xuân Hương đã sử dụng bút pháp tả thực, từ ngữ thì giản dị gợi cho ta thấy được sự cô đơn lạnh lẽo trong cái không gian đêm khuya thanh vắng. Từ ngữ “hồng nhan” như ám chỉ một người phụ nữ xinh đẹp, nhưng ai cũng biết rằng thời xưa “hồng nhan thì bạc mệnh, tài tử đa cùng”, số phận hẩm hiu của người phụ nữ xưa, càng xinh đẹp thì lại càng “trơ”. Bà tìm đến rượi để quên di nỗi đau này:
“Chén rượi hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Nhưng bà cứ uống vào thì bà lại càng tỉnh, không thể quên đi nỗi đau ấy bà đau đớn phát hiện ra tuổi xuân của mình thì sắp qua đi rồi nhưng mà hạnh phúc thì chưa trọn vẹn chưa “tròn” đầy như mong muốn của mình. Không những thế bà còn tiếp tục nói nên cái tư tưởng Nho giáo đầy khắc nghiệt:
“Mảnh tình san sẻ tí con con”
Quan niệm của thời xưa “trai thì năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng. Người phụ nữ đã thiệt thòi về nhiều thứ, nay còn phải chịu thiệt thòi về cái của “riêng” cũng phải chia sẻ cùng với những người khác. Hạnh phúc của cuộc đời cũng phải dung chung: “chung chồng” bà đã có những câu thơ nói về cảnh tượng này:
Chém cha cái khiếp lấy chồng chung”
Bà cũng là người phụ nữ và phải trải qua hết những điều này và bài thơ “Tự tình II” chính là bà đang muốn nói thay những người phụ nữ xưa với cái “tôi” đầy cá tính. Người phụ nữ họ tự than tự nói lên điều mình suy nghĩ thì đó là điều bình thường như ở thời này có một người đàn ông đã ca ngợi vợ của mình đó chính là Tú Xương:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Bà Tú hiện lên là một người phụ nữ chịu thương chịu khó, tần tảo quanh năm buôn bán để nuôi con. Đây cũng chính là đức tính đáng quý của những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Nhưng ta thấy có một điều đặc biệt là “nuôi chồng” thường thì trong xã hội người đàn ông là trụ cột trong gia đình, là người nuôi vợ, nuôi con ấy thế mà ông Tú thì ngược lại. Nhưng dù bà Tú có phải nuôi năm con với một chồng thì bà vẫn “âu đành phận” dù vất vả nhưng không kêu than nửa lời. Người phụ nữ rất ý khi được các đấng nam nhi nhắc tới trong các tác phẩm thơ ca của mình, nhưng Tú Xương thì khác ông ca ngợi vợ mình, ca ngợi các đức tính tốt đẹp của vợ mình. Và ông kết bài bằng một câu thơ:
“Có chống hờ hững cũng như không!”
Ông đang tự trách bản thân mình, trách thay bà Tú nói hộ những lời mà người phụ nữ muốn nói. Những người đàn ông thời xưa chỉ biết đèn sách, tạo lập công danh sự nghiệp coi nữ nhi là tiểu nhân hèn mọn. Nào đâu có biết họ đã chịu những sự bất bình đẳng như thế nào, biết học đã vất vả hi sinh như thế nào? Người phụ nữ đã nhẫn nhịn để cuộc sống gia đình được hạnh phúc, dù phải “chung chồng” họ cũng đành chấp nhận.
Qua hai bài thơ “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương và “ Thương Vợ” của Tú Xương ta thấy được người phụ nữ hiện lên là những người thiệt thòi, muốn có một cuộc sống hạnh phúc, khát khao cuộc sống gia đình trọn vẹn và người phụ nữ tần tảo chịu thương chịu khó vất vả kiếm tiền nuôi chồng nuôi con. Ta thấy “trọng nam khinh nữ” là một tư tưởng lạc hậu cần phải lên án, hiện nay tư tưởng này vẫn còn xuất hiện tại một số nơi ở nước ta chúng ta cần phải có những biện pháp tuyên truyền để sự bình đẳng giới được trài đều trên khắp mảnh đất hình chữ S này.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 16
Từ bao đời nay người phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội, người phụ nữ đã trở thành một phần không thể thiếu, là trụ cột trong gia đình, có rất nhiều tác phẩm viết về những người phụ nữ trong xã hội, nổi bật nhất trong thơ văn trung đại Việt Nam là hai bài thơ Tự tình II của kì nữ kì tài Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương, mỗi bài thơ đã khai thác những góc nhìn những khía cạnh khác nhau về người phụ nữ trong xã hội xưa: Đó là hình ảnh người vợ người mẹ tảo tần, vất vả khó nhọc trong những tháng ngày nuôi con và chồng, đó là hình ảnh người phụ nữ sắc sảo cá tính, không chịu được sự gò ép của lễ giáo phong kiến, sẵn sàng vươn lên để giành lất vị trí của mình trong xã hội, mỗi người phụ nữ đều có một vị trí riêng để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc, hơn tất cả hai tác giả đã cố gắng khai thác những góc nhìn khác nhau về hình ảnh người phụ nữ trong xã hội cũ.
Ta bắt gặp hình ảnh người phụ nữ tài sắc trong bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa ssay lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đã mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Bài thơ mang đậm tâm sự của người phụ nữ trong không gián yên tĩnh, vắng lặng. Đó là một đêm khuya khi văng vẳng trống canh dồn, không gian yên tĩnh bị khuấy động bởi tiếng trông vang lại từ đằng xa, và trong cái không gian ấy đã vang lên tâm sự của người phụ nữ. Trơ cái hồng nhan với nước non, hồng nhan chỉ người con gái đẹp, tài sắc, hoàn hảo, nưng người con gái ấy cảm thấy cô đơn, quạnh quẽ không ai chăm sóc. Dường như sự cô đơn, trống vắng bao trùm khắp không gian làm nổi bật lên hình ảnh người phụ nữ mang đầy tâm sự. Tác giả đã sử dụng từ trơ: có nghĩa là trơ trọi, cô đơn, đơn độc, không điểm tựa không nơi nương nhờ. Hai câu đề đã khai mở cho người đọc số phận hẩm hiu của người phụ nữ. Hai câu thực tiếp theo, mô tả tình trạng cụ thể của nhân vật:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Để khỏa lấp nỗi cô đơn đong dầy trong lòng ấy, người phụ nữ mượn rượu để giải sầu, chén rượu ấy mang nặng tâm tư của người con gái trẻ, đẹp không được hạnh phúc trong hôn nhân, bị mọi người xa lánh, ghẻ lạnh, chén rượu ấy đong đầy tâm sự của nàng, có lẽ số phận của Hồ Xuân Hương hẩm hiu, cay đắng nàng đã dành trọn tâm sự trong chén rượu nồng, Hồ Xuân Hương yêu nhiều dành nhiều tình cảm cho người đàn ông của mình nhưng nàng suốt đời chỉ sống kiếp làm lẽ luôn bị thờ ơ, lãnh cảm. Chính vì điều đó mà náng dành trọn trái tim mình qua những ca từ, câu thơ, nàng yêu cũng đắm say và làm thơ cũng thật đẹp, thật nồng nàn. NGười phụ nữ trong thơ ấy thất tình và mượn rượu để nói lên nỗi lòng mình, thời gian không gian thay đổi dần từ vầng trăng khuyết cho đến tròn, thời gian không gian cứ ngưng đọng cứ trôi dần không hề như cuốn trôi đi nỗi lòng của người phụ nữ. NHững uất ức, nghẹn ngào cứ chồng chất và tăng dần đều theo thời gianm khiến nàng phải thốt lên:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đã mấy hòn.
Bằng nghệ thuật đối, tác giả đã nêu lên tâm trạng phản kháng của người phụ nữ, thì ra những tủi cực, giận hờn dồn nén biết bao lâu nay có dịp được bộc lộ ra, được thể hiên rõ ràng, những lề thói phong kiến, những quy định ngặt nghèo của lễ giáo phong kiến đã khiến người con gái ấy mất đi tự do, mất đi hạnh phúc vốn có , hơn thế nữa, dù có tài năng dù có nhạn sắc thì người con gái ấy vẫn không được sống là chính mình mà vẫn phải tuân theo những quy định ngặt nghèo,khắt khe, mất đi hanh phúc riêng tư, mất đi quyền được chọn lựa hạnh phúc cho chính mình, số phận của người phụ nữ ấy that đáng thương và bất hạnh làm sao? Chính những quy định khắt khe của lễ giáo phong kiến đã khiến cho người phụ nữ bộc lộ tâm trạng, tâm hồn mình, một nỗi cô đơn chán chường khắc khoải cú hiện dần lên từng ngày bào mòn niềm tin, bào mòn hạnh phúc của cô:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Mùa xuân là mùa của sự sống của tình yêu, tuổi trẻ tự do và hi vọng nhưng bao mùa xuân đã đi qua đã dừng chân ở lại vẫn không thể xoa dịu được nõi đau khổ trong tình yêu trong lưa chọn của người phụ nữ mà để lại một nỗi chán chường xen lẫn lo ấu, mệt mỏi cho tình trạng hiện tại: Mảnh tình san sẻ tí con con, tình yêu không được trọn vẹn, thủy chung mà phải san sẻ – đó là bi kịch là nỗi bất hạnh của nhưng kiếp làm lẽ, của những người phụ nữ tài sắc, nhưng không có được một cuộc sống nhu ý muốn. Với bài thơ Tự tình II, Hồ Xuân Hương đã giãi bày thấu trọn lòng mình cho người đọc, muốn người đọc cảm thông và chia sẻ cho số kiếp lầm lạc của mình, ẩn đằng sau đó là sự đau khổ là nỗi chau xót của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng phải chịu số phận nghiệt ngã, tủi cực, ta có thể đọc thêm bài thơ khác của Hồ Xuân Hương.
TỰ TÌNH (BÀI I)
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?
Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom!
Đến với bài thơ Thương vợ của Tú Xương chúng ta được chứng kiến hình ảnh người phụ nữ Việt Nam tần tảo chịu thường chịu khó làm lụng để nuôi chồng nuôi con. Người phụ nữ ấy không quản ngại nắng mưa khó nhọc chỉ mong muốn khiến cho gia đình được ấm êm, Tú Xương bằng sự quan sát tinh tế và bằng tài năng nghệ thuật của mình đã phục dựng nên hình ảnh người phụ nữ thật đáng trân trọng:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân có khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Bà Tú phải làm việc quần quật suốt ngày đêm khong nghỉ, nơi bà làm đầy rẫy chốn hiểm nguy: mom sông – một mỏm đất nhỏ tiềm ẩn những nguy cơ có thể giết chết con người ta bất cứ lúc nào, nhưng vì chồng vì con bà sẵn sàng hi sinh để cuộc sống của họ được ấm no, sung túc. Công việc của bà Tú vất vả khó nhọc là thế nên chỉ nuôi đủ năm con với một chồng, bà trơ thành trụ cột gánh vác những gánh nặng trong gia đình, thấu hiểu cảm thông nỗi khó khăn của vợ, Tú Xương đã ví hình ảnh bà Tú với hình ảnh con cò trong ca dao: Con cò lặn lội bờ ao/Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non, với áp lực công việc vất vả và căng thẳng như vậy nhưng bà Tú không hề kêu van, ngược lại còn cố gắng, nỗ lực để vun vén cho gia đình. Bà làm tất cả những điều đó vì trách nhiệm của chính mình:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
Duyên phận đưa đẩy bà và ông Tú gặp nhau, nhưng khi trở thành người vợ đẩm bà phải gánh vác gia đình, chồng con, chính vì thế để miêu tả nỗi vất vả của bà Tú, Tú Xương đã sử dụng thành ngữ Năm nắng mười mưa đẻ nói về sự vất vả khó khăn của bà Tú. Ngay bản thân ông Tú cũng cảm thấy bất lực vì không giúp được vợ, không thể nuôi nấng được con, chính vì vậy ông đã tự mắng mình là kẻ vô dụng, là người chồng hờ hững vô tâm. Nhận thức được điều đó đã cho thấy ông Tú là người có nhân cách cao đẹp và đáng quý trọng.
Từ hai bài thơ Tự tình và thương vợ chúng ta thấy hiện lên hình ảnh những người phụ nữ Việt Nam tần tảo, chịu thương chịu khó: đó là bà Tú với tình yêu bao la dành cho chồng cho con, là người con gái tài sắc ven toàn vì bị hoàn cảnh trói buộc mà trở nên sắc sảo, cá tính. Tuy ở trong những hoàn cảnh ngặt nghèo của cuộc đời nhưng chính họ đã khiến cho mình trở nên nổi bật, đáng giá, đó là bà Tú cần mẫn vun vén hạnh phúc cho chồng, cho con là người phụ nữ cá tính luôn khao khát tự khẳng định vị trí của mình trong tình yêu, người phụ nữ ấy trải lòng minh trong những đêm vẳng tiếng trống canh dồn để cho mọi người cảm thông, thấu hiểu. Lễ giáo phong kiến khắt khe đã khiến cho vị trí của những người phụ nữ trong xã hội cũ xem nhẹ, nhưng cũng chính lễ giáo làm toát lên những vẻ đẹp tiềm ẩn trong họ. Ta thấy trong Thương vợ hiện lên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với những nét đẹp truyền thống với tấm lòng hi sinh cao cả, hiện lên ở bài thơ Tự tình là sự phản kháng xã hội quá khắc nghiệt khiến những người phụ nữ không thể bộc lộ hết tài năng của mình. Hình ảnh những người phụ nữ như thế thật đáng trân trọng và đáng để mỗi người trong chúng ta rút ra bài học. Chúng ta có thể nghĩ rằng:Nếu sống trong thời hiện đại thì chắc hẳn những người phụ nữ như bà Tú như Hồ Xuân Hương có thể bứt phá và vươn đến thành công để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người. Hai bài thơ hai góc nhìn khác nhau về những người phụ nữ trong xã hội cũ nhưng gợi cho người đọc sự mến mộ những phẩm chất đáng có của những người phụ nữ trong xã hội cũ, từ những câu văn những áng thơ hình ảnh những người phụ nữ toát lên thật đẹp thật rạng ngời đại diện cho những phẩm chất tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam đương thời.
Bằng chính những trải nghiệm cuộc sống, bằng tài năng và nghệ thuật vốn có, Tú Xương và Hồ Xuân Hương đã tạo nên những ánh thơ thật đẹp phục dựng những hình ảnh chân thực, sống động về những người phụ nữ trong xã hội cũ, bằng con đường văn chương nghệ thuật, bằng thơ ca cả hai tác giả đã giúp cho mỗi chúng ta khám phá những vẻ đẹp đắt giá của người phụ nữ Việt Nam: họ xứng đáng được tôn vinh, được trân trọng, được quý mến, họ xứng đáng là những hình tượng tiêu biểu cho những người phụ nữ tài hoa đất Việt.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 17
Trong văn học, phụ nữ luôn là đề tài bất tận. Vì vậy mà hình ảnh người phụ nữ xuất hiện trong những áng thơ văn kim cổ là điều hiển nhiên. Xưa kia, những nhà thơ viết nhiều về đề tài phụ nữ có thể kể đến nữ thi sĩ Xuân Hương. Bà có nhiều bài thơ với khát khao giải phóng phụ nữ khỏi xã hội phong kiến mà tiêu biểu là Tự tình (II). Bên cạnh đó cũng phải kể đến Trần Tế Xương (Tú Xương). Nhắc đến ông, người ta thường nghĩ ngay đến bài thơ Thương vợ.
Chế độ phong kiến thời xưa có thể nói là rất hà khắc với phụ nữ. Đó là chế độ mà người phụ nữ bị khinh rẻ và không được coi trọng như người nam giới. Chính vì vậy mà họ phải chịu rất nhiều khổ cực. Mỗi người phụ nữ lại phải chịu một số phận hẩm hiu khác nhau. Nếu như người phụ nữ trong bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương khát khao có một mái ấm hạnh phúc và không phải san sẻ cho bất cứ ai thì người phụ nữ trong bài thơ Thương vợ lại mong được chồng san sẻ bớt nỗi nhọc nhằn. Người chồng là Tú Xương biết rõ nỗi khổ của vợ nhưng lại chẳng giúp được gì. Trong gia đình, người phụ nữ không có tiếng nói, không có quyền hạn. Chỉ biết cha mẹ đặt đâu thì ngồi đó rồi lại cặm cụi làm việc nuôi chồng, nuôi con.
Với bài thơ Tự tình II, rõ là Hồ Xuân Hương tự viết về mình. Vậy nhưng với xã hội thời xưa thì dường như đó là tiếng nói chung cho nhiều người phụ nữ. Vì sao lại như vậy? Vì cảnh vợ lẽ thời ấy đã quá quen thuộc. Những cuộc hôn nhân vì gán nợ, vì bị ép buộc đã trở nên quá đỗi quen thuộc. Rõ ràng cuộc đời là của mình nhưng lại không thể tự định đoạt. Nỗi đau khổ càng dồn nén hơn khi trời trở về đêm. Khung cảnh thì vắng lặng chỉ còn tiếng trống canh như thúc dục lòng người. Giữa đêm tối ấy, tâm trạng buồn đau của người phụ nữ lộ rõ trên gương mặt. Dù hồng nhan cũng trơ như gỗ đã trước cảnh sắc thiên nhiên. Trong đêm tối, cái hồng nhan cũng chẳng còn chút giá trị nào nữa cả. Lẽ ra lúc tàn canh phải là lúc người phụ nữ được nghỉ ngơi, được ở bên chồng nhưng Hồ Xuân Hương lại lẻ bóng một mình.
Hồ Xuân Hương khác với những người phụ nữ khác ở chỗ bà không cam chịu. Bà tìm đến rượu để giải sầu nhưng than ôi càng uống lại càng tỉnh. Chính vì lẽ đó mà khiến cho bà càng thêm đau buồn nhiều hơn. Sự cô đơn càng thêm trĩu nặng dưới ánh trăng mờ. Trăng khuyết giống như phận người phụ nữ lẻ bóng. Cứ như thế, số phận người phụ nữ chơi vơi giữa đất trời giống như vầng trăng lơ lửng mãi trên cao. Nhân duyên thì chưa tới mà tuổi xuân đã sắp qua đi rồi.
Khác với Tự tình II, Thương vợ lại là những câu thơ được cất lên từ lời của một người chồng. Mặc dù bà Tú có được cuộc sống 1 vợ, 1 chồng mà nhiều phụ nữ ao ước nhưng cuộc sống cũng chẳng sung sướng gì. Cuộc sống của bà vất vả từ khi sáng sớm cho tới khi tối mít vì chồng, vì con. Tú Xương tự đặt mình bên cạnh 5 đứa con ý nói vợ nuôi một mình ông cũng bằng nuôi cả 5 đứa con gộp lại. Mở đầu bài thơ với hai chữ “quanh năm” đã cho thấy người phụ nữ không có lấy một ngày được ngơi nghỉ. Cái nghề buôn bán đã chẳng phải thuận lợi rồi bà Tú lại còn ngồi trên mô đất nhấp nhô ven sông nên càng cho thấy sự khó khăn trong cuộc sống.
Mặc cho cái khó khăn, vất vả, người phụ nữ trong xã hội xưa cũ vẫn cố vươn mình lên để sống. Bà Tú dù nắng, dù mưa cũng chẳng dám quản công. Vẫn gắn bó với bến sông lủi thủi như thân cò kể cả lúc vắng lẫn lúc đông. Còn với Hồ Xuân Hương, suy nghĩ của bà có phần táo bạo hơn với những sự phẫn uất. Bà muốn phản kháng, muốn chống lại chế độ nhưng phận nữ mỏng manh cũng chẳng thể làm gì khác. Chỉ biết gói lòng mình vào trong những câu thơ:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Tự tình II và Thương vợ nếu đặt cạnh nhau thì giống như hai bức tranh lột tả chân thực cuộc sống của người phụ nữ xưa. Một người thì chịu nỗi khổ tâm hồn. Một người thì chịu nỗi khổ thể xác. Không ai có được một cuộc sống sung tục, toại nguyện. Hồ Xuân Hương khi kết thúc bài thơ Tự tình II đã phải thốt lên lời ai oán: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại, mảnh tình san sẻ tí con con”. Còn Tú Xương khi kết thúc bài thơ Thương vợ cũng tự trách: “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không”.
Tú Xương có thương vợ nhưng trong hoàn cảnh ấy, ông chỉ biết hờ hững nhìn vợ chịu khổ. Trong sự vươn mình của người phụ nữ, họ là những kẻ yếu thế và cô đơn. Hai bài thơ kết thúc để lại trong lòng người đọc biết bao nhiêu cảm xúc ngổn ngang, thương có, buồn có mà giận cũng có. Nhưng trên hết chúng ta thấy được nhân cách cao đẹp của những người phụ nữ Việt chịu thương, chịu khó vì chồng, vì con.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 18
Phụ nữ là kiệt tác của vũ trụ. Họ chẳng khác nào những đoá hoa muôn hương muôn sắc mà tạo hoá đã ban tặng cho loài người. Thế nhưng sống trong chế độ phong kiến, những vẻ đẹp ây lại phải đánh đổi bằng muôn ngàn nỗi khổ đau. Cảm thương cho số phận đắng cay của người phụ nữ trong đêm “Trường dạ tối tăm mù mịt”, bao nhà thơ đã nhỏ lệ trên trang viết. Để rồi đến với “Bánh trôi nước”, “Tự tình” của Hồ Xuân Hương và “ Thương vợ” của Trần Tế Xương, ta sẽ có được một cái nhìn trọn vẹn về người phụ nữ Việt Nam thời xưa.
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ tài ba và cũng chuyên viết về phụ nữ. Trong đó hai bài thơ nổi tiếng nhất của bà là Bánh trôi nước và Tự tình (bài II) không chỉ nói lên nỗi niềm riêng của nhà thơ mà còn là nỗi niềm riêng của người phụ nữ đương thời.
Còn Trần Tế xương là một nhà thơ rất đặc biệt. Người đời viết về vợ đã ít nhưng viết về vợ khi còn sống thì càng hiếm hoi, thế mà ông có hẳn đề tài về bà Tú. Đặc sắc nhất là bài Thương vợ thể hiện niềm thương cảm với người vợ và tất cả phụ nữ cùng cảnh ngộ lúc bấy giờ.
Qua ba bài thơ, hình ảnh người phụ nữ hiện lên thật đẹp, họ không chỉ đẹp về hình thức mà còn đẹp về phẩm chất bên trong, tuy nhiên số phận lại đưa đẩy họ đến những bi kịch éo le, đau khổ. về hình thức bên ngoài, Hồ Xuân Hương đã tự hào mà lên tiếng rằng:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn.
Chỉ một hình ảnh của chiếc bánh trôi nước thôi ta đã có thể thấy được nét đẹp mĩ miều, mềm mại và thật duyên dáng của người phụ nữ Việt Nam. Đó là vẻ đẹp bên ngoài dễ thấy nhưng ẩn bên trong còn một vẻ đẹp tâm hồn không dễ thấy được, vẻ đẹp ấy mới thật là một kho tàng để ta khám phá: Người phụ nữ trước tiên là những con người có tấm lòng thuỷ chung son sắt.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Người phụ nữ luôn có tâm hồn nhạy cảm nhất, họ coi trọng chuyện tình cảm nhất, vì thế “tấm lòng son” thuỷ chung có gì sánh được, làm nên bao trinh phụ, liệt nữ” lưu danh mãi ngàn sau. Trong xã hội xưa, hình ảnh bà Tú đã là hình ảnh chung của người vợ, người mẹ, luôn tần tảo vì chồng vì con: “Quanh năm buôn bán ở mom sông” để mà “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Tuy vất vả gian lao nhưng họ vẫn âm thầm chịu đựng không hề oán trách:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Ngẫm qua ta mới thấy người phụ nữ chịu thương chịu khó biết bao nhiêu! vẻ đẹp tâm hồn ấy càng làm hình ảnh của họ thêm rực rỡ.
Người phụ nữ đẹp đẽ là thế nhưng trong xã hội xưa vái một chế độ phong kiến bất công, bao lễ giáo hủ túc “Trọng nam khinh nữ”, những “Tam tòng tứ đức” trói buộc… đã vùi dập cả một đời người phụ nữ. Với những người có sắc có tài thì lại gặp tình duyên éo le ngang trái. Con người đã từng tự hào: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”, có phẩm hạnh “tấm lòng son” nay lại phải than thân trách phận giữa những đêm dài cay đắng…
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Con người ấy nhìn đời mà cay đắng, đau đớn và chua chát làm sao:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Thế mới thấy cái xã hội phong kiến buổi ấy mới ghê gớm, đã làm “ba chìm bảy nổi”, làm cho xơ xác, khô héo phận hồng nhan ra sao! Nó quyết cho kì thực cái thói đời “hồng nhan bạc phận”. Có những người phụ nữ có chút tình duyên thì lại chịu vô vàn khổ cực, bươn chải để “nuôi” lấy cái duyên phận đó. Người phụ nữ bị ràng buộc trong cái vòng siết chặt; chồng con – gia đình – cơm, áo, gạo, tiền… Bởi vì cái xã hội ấy cho phép các “đấng phu quân” chỉ ăn chơi, văn phú, sống bám vào sự lam lũ tần tảo của những người vợ. Bất công thay cho người phụ nữ:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Khó ai mà thoát khỏi cái khổ: “Có chồng hờ hững cũng như không”. Càng sông trong sự đau khổ, éo le, nghiệt ngã, người phụ nữ lại càng khao khát hạnh phúc cháy bỏng. Không ít người đã cô' giẫy giụa, phản kháng quyết liệt như Hồ Xuân Hương:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chăn mây đá mấy hòn.
Nhưng rồi họ lại bị xã hội đè nặng, không thể thoát khỏi số phận coi như đã được định sẵn cho kiếp hồng nhan. Đau đớn, ngao ngán, xót xa nhưng người phụ nữ vẫn không đánh mất hi vọng, niềm tin vào hạnh phúc, họ luôn khao khát mãnh liệt một hạnh phúc trọn vẹn… từ xưa… và cho đến ngày nay…
Nói tóm lại, người phụ nữ Việt Nam thời xưa đã mang những nét đẹp nhưng lại là người chịu nhiều đau khổ, thiệt thòi nhất. Điều đó lên án cả một xã hội, cả một giai đoạn phong kiến bất công, tàn nhẫn. Còn ngày nay, xã hội đã tiến bộ, con người đã văn minh, việc bình đẳng giới đã biến mơ ước phụ nữ thành hiện thực, giải phóng người phụ nữ xưa, đưa đến một người phụ nữ hiện đại với nhiều vẻ đẹp hơn nữa… Tất nhiên họ chính là những người sẽ nắm bắt được chính hanh phúc của họ một cách trọn vẹn.
Với cách dùng từ độc đảo, đặc sắc của phong cách thơ Hồ Xuân Hương và cảm xúc chân thành, lời thơ giản dị, sâu sắc của Trần Tế Xương, ta đã thấy rõ người phụ nữ Việt Nam thời xưa. Thật đáng tự hào và trân trọng vẻ đẹp ấy và cũng thật xót xa sao khi ngẫm lại một thời đầy oan trái bi kịch cho người phụ nữ!
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 19
Mỗi chúng ta khi lớn lén, hẳn ai cũng đã từng nghe những lời ca dao ngọt ngào của bà, của mẹ, hay ít ra là của một cô thôn nữ trên cánh đồng quê:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Hình ảnh người con gái mỏng manh như lụa tự bao giờ đã đi vào thơ ca muôn hình muôn vẻ. Nhưng hiện lên trên hết vẫn là số phận và phẩm chất cao đẹp của bao người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay. Để nói lên số phận và phẩm giá ấy có gì tiêu biểu hơn trong văn học trung đại là ta hãy nghe Hồ Xuân Hương tự nói về thân phận trong Tự tình (II), Bánh trôi nước, hay nghe Tú Xương thể hiện tấm lòng đối với người vợ thương yêu… qua đôi dòng Thương vợl
Những bài thơ trên tuy ngắn ngủi, nhưng phần nào cũng khắc hoạ nên một bức tranh sô' phận của người phụ nữ. Họ là những người con gái có vẻ đẹp nhan sắc như Hồ Xuân Hương tự hào:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn.
Câu thơ vang lên đầy kiêu hãnh, nhưng lập tức cái hình tượng trong sáng ấy bị dập vùi bởi câu thơ thứ hai:
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Đọc câu thơ, ta vỡ nhẽ: Hoá ra cuộc đời cô gái mặn mà nhan sắc, với trái tim khát khao, tấm lòng biết yêu thương, lại nhẹ tênh như cái bánh trôi. Họ bị đời ném vào nước cay đắng để rồi bốn chữ “bảy nổi ba chìm” vang lên chua xót, thản nhiên xô đẩy số phận người phụ nữ. Ta chợt nhớ đến Thúy Kiều đã bị Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến… làm cho rắn, cho nát thế nào trong thớ Nguyễn Du. Mới hay rằng, số phận người phụ nữ méo, tròn là do xã hội quyết định, họ ý thức được mình nhưng không định đoạt được số phận. Hãy xem truyện Vũ Nương đấy, gìn giữ mình cho được hai chữ “bình an” trong xã hội ấy, dễ chăng?
Đó là số phận chung của người phụ nữ, còn những mảnh đời riêng lại có những bất hạnh riêng. Với người vợ của Tú Xương đó là cảnh:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Cái đìu hiu hiểm trở của không gian, cái tuần hoàn của thời gian làm nhỏ bé một con người tần tảo. Câu trúc câu thơ thứ hai thật kì lạ: “năm con”, “một chồng” rồi lại “nuôi đủ”. Hình như nó tạo thành cái đòn gánh nặng trĩu trên vai “thân cò” bé nhỏ. Ta tự nhiên hình dung ra cảnh lam lũ vất vả của người phụ nữ ấy. Cũng “lặn lội” như biết bao người phụ nữ nông dân, cũng “eo sèo” trong cảnh bán buôn tấp nập. Người phụ nữ bị hoà vào dòng đời mà vẫn nổi bật. Chi tiết “thân cò”:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Dùng thật đắt, vừa là kết tinh của ca dao, vừa là kết tinh của niềm tri ân chân thành của nhà thơ.
Tính ra thì bà Tú vẫn còn được tri ân, còn được thấu hiểu. Cuộc đời bà tuy vất vả nhưng chưa gọi là bi kịch. Bi kịch lớn nhất của người phụ nữ là không có tình yêu, không có hạnh phúc, thì có lẽ trong giới văn sĩ xưa nay không ai thấm thìa điều đó bằng nàng Xuân Hương:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Đã gọi “hồng nhan” hẳn phải được trân trọng, nâng niu. Thế nhưng nếu sắc thái của hai chữ “hồng nhan” trân trọng bao nhiêu thì hoá thành “cái hồng nhan” lại rẻ rúng bấy nhiêu. Giá mà người ta cứ mãi say cho quên sầu thì tốt, đằng này say rồi lại tỉnh, rồi “giật mình minh lại thương mình xót xa”. Cái đêm vắng của người phụ nữ không tình yêu rẻ rúng, cô quạnh biết chừng nào! Đến khi tuổi trẻ đã qua, hương sắc mùa xuân cũng chỉ làm họ thêm ngao ngán, ghét đời. Có hạnh phúc nào không trong xã hội xưa, khi mảnh tình bị san sẻ như tấm vải bi cắt nhỏ ra? Có hạnh phúc nào không, khi mùa xuân của thiên nhiên không tô thắm người thiếu nữ, mà giết dần niềm mong mỏi tình yêu của họ?
Tóm lại, bi kịch của người phụ nữ nói chung vẫn là không làm chủ được số phận và tình yêu. Nhưng hình như văn chương của ta muốn nói cái gì sâu xa hơn những bi kịch. Vâng, nếu chọn một khía cạnh để tôn vinh, ta sẽ chọn lấy những phẩm giá tuyệt vời của họ? Vì đó chính là thứ ánh sáng giúp họ rực lên giữa bóng đêm khắc nghiệt của xã hội xưa.
Phẩm giá đầu tiên của người phụ nữ là vẻ đẹp tâm hồn và ý thức về vẻ đẹp ấy. Đó là thuỷ chung, sắc son, trong sáng, thanh khiết… mà Hồ Xuân Hương đã thêm một lần tự hào khi thể hiện trong bài thơ vịnh cái bánh trôi:
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Càng đáng quý hơn, chính người phụ nữ đã nhận ra vẻ đẹp ấy để gìn giữ nó. Bởi trong xã hội xưa, mấy ai được như Lê Thánh Tông biết luyến tiếc khi gặp miếu Vũ Thị; mấy ai được như Nguyễn Du, cảm thương cho số phận ca nữ Long Thành hay Tiễu Thanh mệnh bạc. Càng hiếm người dành cả một mảng thơ nói về vợ mình như Tú Xương. Cuối cùng thì chính người phụ nữ là người nhận ra phẩm cách của mình và giữ nó như hoa như ngọc. Vì thế mà ta lại thấy những câu thơ như như vùng lên, đứng dậy, căm phẫn sự khắc nghiệt của số phận:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Nếu như thơ Hồ Xuân Hương nặng về ý thức, thì thơ Tú Xương thể hiện phẩm chất người mẹ, người vợ rõ ràng hơn, cụ thể hơn. Trong Thương vợ, ta thấy rõ “lòng son” cao quý của người phụ nữ là gì – đó là đức hi sinh, sự tảo tần không ngại hiểm nguy, vất vả; đó là niềm yêu thương chồng con vô hạn, thuỷ chung tình nghĩa. Hai câu năm, sáu của bài thơ là lời của tác giả, hiện lên đầy cảm động và đáng khâm phục biết bao:
Một duyên hai nạ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Xin mượn ý bài thơ mà nói một chân lí bất hủ: Giá như không có những người vợ như thế, người mẹ như thế; làm sao có được những văn nhân, tài sĩ, làm sao có được người giỏi trong thiên hạ. Giang sơn gấm vóc tự xưa đến nay, có thể nói một nửa là được gây dựng từ bàn tay người phụ nữ vậy.
Cuối cùng, người phụ nữ xưa cũng như biết bao con người trong xã hội có khao khát và ước mơ. Chỉ khác, trong văn chương xưa họ chẳng nói “tôi ước…”, “tôi mong…”; mà chỉ ghi nỗi niềm qua ý thơ nhỏ bé. Kết thúc bài Bánh trôi nước, ai bảo Hồ Xuân Hương không khao khát? Tự đánh giá về nhân phẩm “tấm lòng son” của mình nàng không giấu được niềm ước mong xã hội hãy coi trọng, nâng niu nó. Kết thúc bài Tự tình (II) cũng vậy, tuy chán nản, tuyệt vọng, bế tắc, nàng Xuân Hương vẫn mong tuổi xuân chớ trôi, vẫn khao khát tình yêu thực sự. Bởi nàng ý thức rõ cuộc đời người phụ nữ cần tình yêu và hạnh phúc hơn bạt cứ điều gì. Kiếp hồng nhan xưa thiếu tình yêu và hạnh phúc nên ta từng chứng kiến bi kịch Vũ Nương, Thúy Kiều, người chinh phụ. Đó là hệ quả của trật tự xã hội mà Tú Xương gọi là “thói đời”:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Cho nên chửi kiểu Tú Xương, chửi thẳng vào xã hội, là thể hiện lớn nhất khát khao của người phụ nữ. Và quả vậy, trật tự xã hội phải đồi, lễ giáo phong kiến phải mất; thì ước mơ của người phụ nữ mới phần nào thành sự thực. Ba bài thơ có cách thể hiện khác nhau, nhưng đều là tiếng nói rất thực của phận má hồng sông trong đêm dài phong kiến và chừng thế kỉ sau, ước mơ ấy đã thành sự thực.
Ngày nay xã hội đã đổi thay, cuộc đời người phụ nữ đã tươi sáng hơn rất nhiều bởi họ tự quyết định tình yêu, số phận và thực sự có chỗ đứng bên cạnh nam giới. Nhưng ta đừng quên dành vài giây, phút để nghe lại tiếng lòng xưa, nghe lại người phụ nữ trước đây đã có sô' phận khắc nghiệt như thế nào và có những phẩm hạnh tuyệt vời ra sao. Là một người phụ nữ hiện đại, hãy sốhg để không hổ với gương xưa. Và là một người nam giới, hãy cảm nhận vẻ đẹp, lắng nghe khát khao và dang rộng vòng tay yêu thương với những người phụ nữ của cuộc đời mình.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 20
Nói về đề tài người phụ nữ, văn học Việt Nam có bao tác phẩm hay, xuất sắc, đậm chất chữ tình về chủ đề ấy. Với tôi, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua các bài thơ "Bánh trôi nước", "Tự tình" (bài 2) của Hồ Xuân Hương và "Thương vợ" của Trần Tế Xương nói về hoàn cảnh, cuộc sống của những người phụ nữ phải chịu nhiều nỗi khổ đau của số phận, bị chà đạp về thể xác, sự đau đớn khi bị vùi dập trước hoàn cảnh sống..., nhưng trong con người họ toát lên vẻ đẹp của tâm hồn, nhân cách, phẩm chất cao đẹp, đáng quý của người phụ nữ.
Bằng những câu thơ chân thực, mộc mạc, giản dị giàu cảm xúc, đậm chất trữ tình mà Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương đã nói lên được số phận của người phụ nữ xưa. Đó là những con người phải chịu nhiều nỗi khổ đau. Qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ "Thương vợ" mà Trần Tế Xương đã làm nổi bật nên được sự khổ cực vì vất vả, cực nhọc của người phụ nữ. Bà Tú hiện lên với cuộc sống vất vả, lam lũ, gian truân, bà làm công việc chợ búa, buôn bán vất vả "quanh năm".
"Quanh năm buôn bán ở mom sông".
Cái thời gian "quanh năm" ấy gợi cho ta một cảm giác của sự liên hoàn nối tiếp của thời gian, của ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Một vòng tròn khép kín cuộc đời bà Tú. Tưởng chừng, công việc buôn bán của bà là dễ dàng và ai cũng làm được. Nhưng không, công việc của bà vất vả và nguy hiểm vì bà Tú buôn bán ở nơi "mom sông". Bà Tú còn hiện lên trong hình ảnh "thân cò", một hình ảnh đẹp trong ca dao để nói lên bà là một người phụ nữ đảm đang, vừa cho ta thấy nỗi vất vả, gian truân của bà. Đó là sự lo âu, hiểm nguy trước cái rợn ngợp của thời gian "quanh năm", và cái heo hút của không gian nơi "mom sông". "Thân cò" gợi một cảm giác nhỏ bé của bà Tú trước thời gian và không gian mênh mông, gợi nên một sự xót xa cho thân phận nhỏ bé của bà.
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông".
Hình ảnh "lặn lội thân cò" gợi cho người đọc về một cuộc sống vất vả, tần tảo, lam lũ của bà Tú nơi "quãng vắng". Hình ảnh "đò đông" nói về sự nguy hiểm trong việc đi lại, buôn bán của bà. Đó là nơi ồn ào, xô bồ cuộc sống nơi chợ búa với những tiếng kì kèo, kêu ca "eo sèo" đã gợi một nỗi đau về mặt tinh thần của bà Tú. Tất cả những hình ảnh đó làm tăng thêm nỗi vất vả, gian truân, một cuộc sống lam lũ, khó khăn trong cuộc đời bà. Suốt cuộc đời bà chỉ là một con người nhỏ bé mà thôi !.
Đến với thơ Hồ Xuân Hương thì người phụ nữ phải gánh chịu nỗi khổ đau vì không làm chủ được số phận của mình qua bài thơ "Bánh trôi nước". Qua miêu tả chiếc bánh trôi mà tác giả đã nói lên được thân phận của người phụ nữ.
"Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non".
Hình ảnh người phụ nữ ẩn chứa trong chiếc bánh trôi nước "vừa trắng lại vừa tròn" nhưng phải chịu một cuộc sống trôi nổi bấp bênh "bảy nổi ba chìm". Chiếc bánh ấy có đẹp hay chăng, rắn nát chăng đi nữa thì phải phụ thuộc vào người nặn ra chiếc bánh ấy. Một chiếc bánh được nặn đẹp. xinh xắn thì không có gì phải chê, nhưng mà bị làm cho nát hình dạng xấu xí thì sao nhỉ ? Đó là do bàn tay của kẻ nặn bánh mà thành.
"Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn".
Cũng như người phụ nữ, nếu gặp được bến đỗ tốt thì cuộc đời sẽ tươi đẹp, còn rơi vào tay kẻ xấu họ cũng sẽ như chiếc bánh trôi kia, bị vùi dập, tàn tạ trước sóng gió cuộc đời.
Vẫn thơ Hồ Xuân Hương, ta còn thấy người phụ nữ phải chịu khổ đau về tinh thần, vì cô quạnh, thiếu vắng tình yêu, không được yêu thương và sự đồng cảm qua bài thơ "Tự tình" (bài 2). Người nữ sĩ buồn tủi cô đơn một mình giữa cái "đêm khuya" lạnh lẽo.
"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non".
"Đêm khuya" một thời gian muộn trong đêm nhưng người nữ sĩ ấy vẫn thức, ẩn chứa trong lòng là sự thao thức, thấp thỏm không yên. Không gian đêm yên tĩnh, vắng lặng mà đâu đó đã nghe tiếng "văng vẳng" từ xa vọng lại, mập mờ không rõ làm cho người nữ sĩ càng thêm bối rối trong lòng. Tiếng "trống canh dồn" gợi sự dồn dập, gấp gáp, diễn tả được bước đi của thời gian trong đêm. Tác giả sử dụng một động từ "trơ", một động từ gây cảm giác mạnh với người đọc thể hiện sự lẻ loi, vô duyên của thân phận người phụ nữ. Trơ cái gì? Đó là "cái hồng nhan" gợi một cảm giác về sự rẻ rúng, mỉa mai, nhỏ bé với không gian toàn cảnh, có tầm vóc vũ trụ "nước non". Qua đó thể hiện sự cay đắng, xót xa về thân phận, sự cô đơn, lẻ loi của nữ sĩ. Nỗi niềm của tác giả còn thể hiện ở thực cảnh bế tắc, nhân duyên không trọn vẹn.
"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn".
"Chén rượu hương đưa" diễn tả tâm trạng về nỗi đau thân phận, sự bế tắc quẩn quanh, tình duyên trở thành trò đùa của Tạo hóa. Rượu không thể làm cho ta vơi đi nỗi buồn vì "say" rồi lại "tỉnh". Thời gian " vầng trăng bóng xế" như gợi nhắc đến tháng năm, tuổi tác nhưng lại "khuyết chưa tròn" thể hiện sự thiếu vắng, không trọn vẹn, nỗi buồn tủi vì tuổi xuân sắp qua mà tình duyên chưa đến. Những hình ảnh buồn cô đơn nhuốm màu tâm trạng nữ thi sĩ.
Tiếp đến, họ là những con người đẹp, không chỉ đẹp ở vẻ bề ngoài mà họ là những phụ nữ đẹp ở phẩm chất, đức tính cao đẹp. Đó là tình yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng một dạ vì chồng con. Bà Tú đã hi sinh hết mình vì chồng con, kiếm sống, lao động vất vả để "nuôi đủ năm con với một chồng". Bà cũng chính là chỗ dựa, là niềm tin cho chồng con. Bà cần cù chu đáo với chồng con mà không một lời ca thán, oán trách. Gánh nặng đè lên đôi vai bà là cả một trách nhiệm to lớn. Duyên số đã đưa đẩy bà gặp ông Tú nhưng đối với bà đó cũng là cái "nợ". Nợ là trách nhiệm mà bà phải trang trải, dẫu sao cũng là số phận của bà. Bà Tú cam chịu số phận, mà con Tạo đã trớ trêu trong cuộc đời bà. Bà chịu "năm nắng mười mưa" mà nào "dám quản công" để làm việc kiếm sống. Đó là sự hi sinh chịu đựng gian khổ và mất mát của bà Tú. Ở bà hiện lên một đức tính hi sinh cao cả, sự đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó của người phụ nữ.
Với "Bánh trôi nước" thì vẻ đẹp ấy là lòng dạ sắt son vẫn được giữ vẹn, không để mất đi trong cuộc đời chìm nổi lênh đênh.
"Mà em vẫn giữ tấm lòng son".
Người phụ nữ cho dù bị vùi dập về nhân cách, thân xác nhưng họ vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, sắt son không đổi trong cuộc đời bấp bênh, chìm nổi với "nước non". Hình ảnh "tấm lòng son" là hình ảnh đẹp về người phụ nữ chung thủy, sắt son mà Hồ Xuân Hương đã gửi gắn vào "Bánh trôi nước".
Đẹp hơn thế nữa, Hồ Xuân Hương đã đưa người phụ nữ lên một vẻ đẹp mới trong bài thơ "Tự tình" (bài 2). Đó là một tinh thần mạnh mẽ, dám vượt lên đau đớn để được hạnh phúc mà mình hằng khao khát.
"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn".
Hai câu thơ thể hiện một sức sống mạnh mẽ, khỏe khoắn bằng hai hình ảnh độc đáo. Những đám rêu vốn mềm mại, yếu ớt dưới cái nhìn của tác giả bỗng dưng "xiên ngang mật đất" mà trỗi dậy. Mấy hòn đá tưởng chừng như bất động đứng đó từ bao đời trong con mắt tác giả dường như "đâm toạc chân mây". Những sự vật tưởng như vô hồn, bất động được nhà thơ truyền thêm sự sống để trỗi dậy. Qua đó đã nói lên được khát vọng sống, niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc của người phụ nữ. Họ không cam chịu, chấp nhận số phận mà đứng lên đấu tranh giành hạnh phúc, tình yêu cho mình.
Hình ảnh người phụ nữ là hiện thân cho nỗi khổ đau của con người trong xã hội xưa, đồng thời là sự kết tinh của những đức tính truyền thống đẹp đẽ mà dân tộc Việt Nam đã tích lũy được trong hàng ngàn năm lao động và đấu tranh mà Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương muốn gửi gắm cho người đọc.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 21
Trong nền văn học Trung đại Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ trong thơ văn ít được nhắc đến, nếu có chỉ xuất hiện thoáng qua trong một số tác phẩm. Thế nhưng vào cuối thế kỉ XVIII, có một người phụ nữ đã xuất hiện, đưa hình ảnh người phụ nữ lên một tầm cao mới, họ không chỉ là những người phụ nữ thấp cổ bé họng, bị chà đạp, khinh rẻ mà họ đã trở nên mạnh mẽ, dám chống lại cái xã hội phong kiến, đạp tung mọi lễ giáo kìm hãm những người phụ nữ, dám ngẩng cao đầu mà nói Không chồng mà chửa mới ngoan - Có chồng mà chửa thế gian thường tình.
Người phụ nữ đó chính là Hồ Xuân Hương, người được Xuân Diệu mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Là người phụ nữ viết về thân phận những người phụ nữ, Hồ Xuân Hương thấu hiểu nỗi đau của họ hơn ai hết. Thơ bà là tiếng nói đồng cảm, xót xa cho thân phận của những người phụ nữ có nhan sắc nhưng số phận lại đầy bất hạnh, hẩm hiu, và luôn bị chà đạp. Một số bài thơ của bà đậm chất trữ tình đằm thắm, xen lẫn ít nhiều cảm xúc tha thiết, buồn tủi... thể hiện một cách sâu sắc thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa với biết bao nỗi niềm khát khao được sống hạnh phúc trong tình yêu đôi lứa. Chùm thơ Tự tình gồm ba bài là một phản ánh sâu sắc tâm tư tình cảm của nhà thơ, một người phụ nữ duyên phận hẩm hiu quá lứa lỡ thì. Hay nhất trong chùm thơ này là bài thứ hai.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Đêm khuya là lúc con người ta cảm thấy cô đơn, lẻ loi nhất. Khi một mình không ngủ được bà lại lắng tai nghe tiếng trống canh văng vẳng liên hồi, báo hiệu bước đi dồn dập của thời gian.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Đây cũng là lúc bà cảm thấy xót xa cho thân phận hẩm hiu của mình, những người phụ nữ khác có lẽ giờ đây đang ở trong vòng tay của chồng còn bà thì một mình trơ cái hồng nhan với nước non. Từ trơ đứng trước từ hồng nhan gợi cái gì đó rẻ rúng và pha chút mỉa mai. Chỉ có đá mới trơ gan cùng tuế nguyệt vậy mà nhan sắc của người phụ nữ này cũng trơ gan với nước non. Không ngủ được, bà mượn chén rượu uống để say, để quên đi cái thực tại đau đớn này.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Thế nhưng rượu không làm bà say, bà quên được, càng uống càng tỉnh, càng tỉnh càng đau, càng nghĩ về thực tại của mình. Đêm đã khuya, vầng trăng sắp lặn, đã biết bao thi nhân mượn hình ảnh vầng trăng làm người bạn tri âm tri kỉ nhưng trăng ở đây không phải bạn để chia sẻ tâm trạng của nữ thi sĩ lúc này mà vầng trăng càng xoáy sâu vào nỗi đau của bà. Trong cái đêm khuya ấy, trong âm thanh của tiếng trống dồn, giữa chén rượu vầng trăng khuyết càng gợi não nùng hơn.
Trăng ở đây là hình ảnh thật nhưng nó cũng ẩn dụ hình ảnh tuổi xuân của người phụ nữ, nếu vầng trăng đó là ngày rằm tròn đầy viên mãn thì lại khác, ở đây vầng trăng khuyết thể hiện sự thiếu thốn không đầy đủ. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ này rất tài tình, đăng đối, hô ứng nhau, cùng làm nổi bật lên thân phận của một khách hồng nhan bạc mệnh, có nhan sắc mà phải chịu cảnh dang dở, cô đơn. Tủi buồn cho duyên phận của mình, người phụ nữ đã trải qua biết bao đêm dài thao thức mong đợi, ước mơ nhưng ngày tháng cứ chồng chất thêm hi vọng đợi chờ, khát khao, nhưng hạnh phúc vẫn mù tăm. Biết bao giờ vầng trăng lại tròn như biết bao tháng ngày mơ ước. Càng cô đơn, càng đợi chờ, càng mong chờ thì càng đau buồn.
Bầu trời là vậy, còn mặt đất thì:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Tác giả đã dùng những động từ mạnh như xiên, đâm kết hợp với các bổ ngữ ngang, dọc cho thấy được sức sống mãnh liệt của cỏ cây hoa lá. Chúng là những sinh vật mềm yếu nhưng cho thấy được sức sống mãnh liệt của cỏ cây hoa lá. Người phụ nữ trong bài thơ này cũng vậy, cũng muốn phản kháng, muốn bứt tung khỏi xiềng xích của xã hội phong kiến, nhưng điều đó không thể. Không thoát khỏi được, người phụ nữ đành chấp nhận thực tại với một nỗi niềm ngao ngán.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Từ ngán có nghĩa là chán ngán, ngán ngẩm về cuộc đời éo le, bạc bẽo của Hồ Xuân Hương. Xuân ở đây có nghĩa là mùa xuân nhưng cũng ẩn dụ về tuổi xuân của người phụ nữ. Mùa xuân là mùa của tình yêu, của tuổi trẻ, ai cũng háo hức mong chờ nhưng riêng bà thì không bởi mùa xuân qua đi tuổi xuân của người phụ nữ cũng qua đi. Xuân Diệu, ông hoàng của thơ tình Việt Nam cũng đã từng tiếc rẻ thốt lên:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già...
và
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại...
Thế nhưng, nếu Xuân Diệu háo hức mong chờ mùa xuân tới thì Hồ Xuân Hương lại ngán ngẩm mùa xuân về nên bà viết xuân lại lại, một chút ngán ngẩm trong câu thơ ấy vì mùa xuân trôi dần đi mà bản thân mình vẫn một thân một mình, lẻ chiếc, thiếu thốn yêu thương, giả sử có tình yêu thì mình cũng chỉ được sẻ tí con con.
Trong câu cuối cùng của bài thơ này, từng chữ đều thoáng ý ngậm ngùi ấm ức, tình chỉ có một mảnh vì phải chia đâu được tròn đầy nguyên vẹn, khác chi ánh trăng khuyết trên bầu trời. San sẻ nhưng chỉ được một tí con con, lời thơ tưởng như một lời bỡn cợt, tưởng như tiếng cười ngạo nghễ của bà nhưng sao thấy chua xót. Đã con con là nhỏ rồi mà còn tí nữa thì cực nhỏ. Vì phải chịu cảnh tình cảm bị chia sẻ nên đã có lần bà đã phải cất tiếng chửi:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lanh lùng
Tự tình II là bài thơ tự than thân, nói ra tự đáy lòng của một người phụ nữ quá lứa lỡ thì, mượn rượu, nhìn trăng để quên đi cái thực tại cô đơn. Nhưng Nguyễn Du từng nói cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ bởi vậy rượu và trăng càng làm cho người phụ nữ thêm buồn tủi với duyên phận hẩm hiu của mình. Càng buồn tủi càng khao khát có được hạnh phúc trọn vẹn. Dù vậy nổi bật lên trong bài thơ là sức sống mãnh liệt và một tấm lòng yêu cuộc sống thật thiết tha.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 22
Cuộc sống và thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa và nay là chủ đề hấp dẫn thu hút sự quan tâm và khám phá của nhiều cây bút tài năng. Cùng viết về chủ đề người phụ nữ, bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương và “Thương vợ” của Trần Tế Xương đã mang đến cho độc giả nhiều cảm nhận sâu sắc về thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến xưa.
Tự tình của nhà thơ Hồ Xuân Hương đã mượn tâm sự của một người phụ nữ để khắc họa về số phận bất hạnh, khát khao hạnh phúc nhưng thực tại tàn nhẫn lại đẩy con người vào nỗi tuyệt vọng, cô đơn đến cùng cực:
“ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Nhà thơ Hồ Xuân Hương đã sử dụng bút pháp tả thực để miêu tả sự cô đơn, buồn bã của người phụ nữ trong đêm khuya tịch mịch, trống trải. “Hồng nhan” chỉ một người con gái đẹp, thế nhưng động từ “trơ” được đảo lên đầu câu lại gợi ra hiện thực chua sót, bẽ bàng với những nỗi cô đơn và tâm sự chất chồng trong đêm khuya.
Từ câu chuyện, tâm sự riêng của bản thân mình nhưng nữ sĩ gợi cho người đọc liên tưởng về số phận chung của rất nhiều người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến thối nát. Có rất nhiều những người phụ nữ xinh đẹp, khát khao hạnh phúc như Hồ Xuân Hương nhưng phải chịu số phận bất hạnh vì quan niệm trọng nam khinh nữ. Nam giới có thể tam thê tứ thiếp mà người phụ nữ lại chẳng thể tự lựa chọn hạnh phúc cho mình nên số phận, hạnh phúc của họ hoàn toàn nằm trong tay kẻ khác.
Để quên đi thực tại đau lòng, Hồ Xuân Hương đã mượn đến rượu giải sầu nhưng hơi men không làm nữ sĩ quên đi tất cả mà càng khắc sâu hơn về sự tủi hờn, cô đơn của mình.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tàn
Hình ảnh vầng trăng bóng xế không chỉ gợi ra thời gian đêm khuya, không gian vắng lặng mà còn là hình ảnh ẩn dụ cho một mối nhân duyên không trọn vẹn mà tuổi xuân cứ lạnh lùng trôi qua:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đã mấy hòn”
Câu thơ đã thể hiện sự bất bình của nhà thơ đối với số phận hẩm hiu, bất hạnh của mình đồng thời thể hiện khát vọng vượt thoát mạnh mẽ khỏi hoàn cảnh trêu ngươi, thách thức sức chịu đựng của con người ấy.
Thương vợ của nhà văn Trần Tế Xương lại xây dựng hình ảnh người vợ tần tảo, chịu thương chịu khó hi sinh cả cuộc đời vì chồng, vì con:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Cuộc sống của bà Tú là một chuỗi những ngày vất vả lặp đi lặp lại từ tháng này qua năm khác. Để nuôi sống gia đình, bà Tú đã phải làm việc cực nhọc để nuôi “năm con với một chồng”. Nhà thơ Tế Xương đã mượn hình ảnh thân cò lặn lội để làm nổi bật lên vẻ đẹp chịu thương chịu khó của bà Tú đồng thời cũng thể hiện sự xót xa khi một người đàn bà yếu đuối phải vận lộn trong công việc buôn bán xô bồ, nơi ẩn lấp bao hiểm nguy. Những công việc nặng nhọc ấy lẽ ra dành cho người đàn ông, người chồng người trụ cột trong gia đình nhưng vì thương chồng, thương con mà bà Tú phải gánh lấy nhưng lại không có một lời oan trách.
“Một duyên hai nợ âu đàn phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Cuộc sống dù gian truân, khổ cực đến đâu nhưng bà Tú vẫn chấp nhận mà không than thở, oán trách vì mối duyên nợ sâu nặng, vì tình thương chồng, con không điều kiện. Câu thơ không chỉ thể hiện được phẩm chất đẹp đẽ của bà Tú và những người phụ nữ Việt mà còn thể hiện sự trân trọng, yêu thương của nhà thơ đối với người vợ, những người phụ nữ trong xã hội xưa.
Càng thương vợ bao nhiêu, Tú Xương càng day dứt vì sự bất lực, vô dụng của bản thân khi không thể chia sẻ những gánh nặng cuộc sống với vợ, đồng thời càng lên án xã hội phong kiến đen tối đã đẩy con người vào những hoàn cảnh chẳng thể lựa chọn:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng nư không”
Như vậy, qua hai bài thơ “Tự tình” và “Thương vợ” chúng ta có cái nhìn chân thực, rõ nét hơn về thân phận của những người phụ nữ trong xã hội xưa, đồng thời cũng thấy được những vẻ đẹp phẩm chất và khát khao hạnh phúc chính đáng của họ.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 23
Việt Nam là một trong những quốc gia có chế độ phong kiến kéo dài hàng ngàn năm lịch sử. Không chỉ vậy do chịu sự đô hộ triền miên của các quốc gia phương Bắc mà nền văn hóa của nước ta cũng chịu nhiều ảnh hưởng, trong đó thấy rõ nhất ấy là sự du nhập của nền Nho học vốn đề cao vai trò của người đàn ông. Đặc biệt là tư tưởng trọng nam khinh nữ, cùng với những quy tắc hà khắc viết trong các cuốn kinh văn như Nữ Giới đã khiến người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Trong văn học trung đại Việt Nam hình tượng người phụ nữ đi vào các tác phẩm không nhiều, nổi bật nhất có Truyện Kiều của Nguyễn Du, là tác phẩm kinh điển, không chỉ phản ánh số phận của người phụ nữ mà phản ánh chung cả số phận của những con người thấp cổ bé họng dưới chế độ phong kiến hà khắc, với những tư tưởng nhân đạo lớn. Ngoài ra, không thể không nhắc đến Hồ Xuân Hương với chùm thơ Tự Tình nổi tiếng, nhà thơ chuyên viết về phụ nữ, bởi chính bản thân bà cũng trải qua nhiều nỗi bất hạnh trong tình yêu, hôn nhân, vì tư tưởng đi trước thời đại. Và một Trần Tế Xương với Thương vợ, bất mãn trước thời cuộc, bất đắc chí trong đường công danh, khi nhìn người vợ nắng mưa tảo tần nuôi cả gia đình, ông lại cũng có những cái nhìn thấu hiểu, trân trọng và thông cảm cho người vợ kết tóc. Chung quy lại nhìn thấu suốt Tự tình II và Thương vợ ta nhận ra rằng cuộc đời người phụ nữ trong chế độ phong kiến chỉ đi vòng quanh một chữ “khổ” và ở trong hai bài thơ ta lại nhìn ra những cái bất hạnh khác nhau của họ.
Trước hết nói về hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong Tự tình II của Hồ Xuân Hương. “Tự tình” tức là tự nói về những tâm tư tình cảm của bản thân, có thể nói rằng từng câu chữ mà nữ sĩ viết trong thơ đều là để nói về cái cuộc đời bất hạnh, hồng nhan bạc phận của mình. Hồ Xuân Hương là người phụ nữ có nhan sắc, lại thông minh, rất giỏi thơ từ ca phú, giao thiệp rộng, cũng từng rất trông đợi vào cuộc sống hôn nhân mỹ mãn. Thế nhưng có vẻ tư tưởng của Hồ Xuân Hương và những con người ở thời đại ấy không hề ăn khớp với nhau, bà lấy người chồng thứ nhất là ông Tổng Cóc, dẫu ông cũng là người có học, văn nhã, thế nhưng chỉ riêng có một việc ấy là ông cũng là người nổi tiếng đào hoa. Hồ Xuân Hương về làm thiếp, thế nhưng cũng chẳng thể chịu nổi cảnh chồng tam thê tứ thiếp bảy cô hầu, còn mình thì cứ vò võ trông đợi chút tình cảm của đấng phu quân. Lần thứ hai kết hôn, cũng chẳng mấy khá khẩm, lấy ông phủ Vĩnh Trường, dẫu được chiều chuộng yêu thương, nhưng cũng lại là phận thứ thiếp, sao tránh khỏi cảnh ghen tuông. Không biết được rằng nữ sĩ viết Tự tình II khi nào, nhưng cũng chỉ tóm gọn mấy chữ về cuộc đời bất hạnh của bà ấy là nỗi khổ chồng chung.
Bà viết hai câu thơ đầu rằng “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn/Trơ cái hồng nhan với nước non”, ấy là cái cảnh người “hồng nhan” tuổi còn xuân sắc, thế nhưng thay vì vui vầy thú vợ chồng, thì bà lại chán chường ngồi giữa khuya thanh vắng, đếm thời gian trôi qua từng tiếng “trống canh dồn”. Cái tiếng trống canh ấy vừa đánh vào trái tim cô đơn của người phụ nữ, vừa nhắc nhở bước đi của thời gian, trời đã khuya lắm rồi sao người còn chưa ngủ, còn thức ngóng trông ai? Từ tiếng trống giục giã ấy, người thiếu phụ như thức tỉnh trước những nỗi sầu đơn độc, nhận thức rõ ràng cái thân phận bẽ bàng của mình. Chỉ một từ “trơ” thôi nhưng biết bao nhiêu tủi hổ, bao nhiêu trơ trọi, lẻ loi, lạnh lẽo giữa trần đời. Thế nhưng Hồ Xuân Hương là một người phụ nữ có bản lĩnh, cái từ “trơ” ấy còn là biểu hiện của sự dạn dĩ, trơ lì với những thách thức, những quy luật nghiệt ngã của cuộc đời, của “nước non”. Không chỉ nhận thức về sự cô đơn, trống trải, trơ trọi của mình mà Hồ Xuân Hương còn ý thức rất sâu sắc về thân phận của người phụ nữ.“hồng nhan” vốn là mỹ từ cao đẹp, thanh nhã thế mà sắp với từ “cái” ôi chao sao nó lại rẻ rúng, tầm thường đến thế, điều ấy đã gợi nhắc ta về vai trò và địa vị thấp kém của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Có lẽ có một câu mà ta vẫn thường nghe “anh em như chân tay, phụ nữ như quần áo”, áo cũ rồi lại thay, chỉ thấy người mới cười chứ đâu ai thấy người cũ khóc. Tư tưởng trọng nam khinh nữ, đàn ông được phép tam thê tứ thiếp, đàn bà phải một phép thờ chồng, đã không cho người phụ nữ được cái hạnh phúc mà họ mong muốn, cuộc đời họ chỉ toàn là những đắng cay, tủi nhục. Dẫu có giỏi giang, tài sắc như Thúy Kiều, như Hồ Xuân Hương nhưng nào cũng có được hạnh phúc đâu?
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh/Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”, dẫn ta đi sâu vào nỗi buồn khổ, cô đơn của người thiếu phụ, mượn rượu giải sầu, càng uống càng say. Những tưởng say rồi là sẽ quên hết những đau đớn về thân phận bất hạnh, quên hết nỗi ghen tuông chồng, nhưng không cái vòng lặp “say lại tỉnh” không chỉ khiến người ta ý thức rõ hơn về nỗi tủi hờn, buồn bã của mình mà nó còn gợi ra một cái vòng lặp không lối thoát. Nhấn mạnh một điều rằng, nếu cứ còn mãi cái chế độ phong kiến bất công này thì người phụ nữ vẫn cứ phải chịu cái vòng luẩn quẩn khổ sở bất hạnh trong kiếp chung chồng, không được tự do mơ ước đến một cuộc hôn nhân đầm ấm hạnh phúc. “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”, gợi nhắc về một cuộc đời hồng nhan phí hoài trong những đêm dài đằng đẵng chờ chồng, nay đã gần hết, hồng nhan già, già từ tâm hồn cho đến ngoại hình. Thế nhưng cái mà họ mơ ước thì mãi còn ở ngoài tầm với, mãi vẫn “khuyết chưa tròn”, bởi người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thì kiếm đâu ra một tấm hạnh phúc tròn như trăng? Hồ Xuân Hương chính là điển hình cho hình ảnh này, bà có hai đời chồng, cả hai lần đều làm thiếp, dẫu tài sắc thế nhưng vẫn phải chịu cảnh sẻ chia chồng cho người khác, tình duyên chẳng trọn vẹn. Không chỉ vậy, ở cuộc hôn nhân sau bà lại càng bất hạnh, đã làm thiếp, mà hưởng cuộc sống vợ chồng chưa lâu thì ông phủ Vĩnh Trường cũng đi đời nhà ma mất. Thử hỏi còn có cái bất hạnh, chán chường nào hơn nữa không?
Và chắc chắn rằng không chỉ mình Hồ Xuân Hương sắc sảo, có suy nghĩ chống lại số phận, kiếm tìm hạnh phúc mà có lẽ cũng có rất nhiều người phụ nữ có suy nghĩ như vậy. “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám/Đâm toạc chân mây đá mấy hòn” đó là nỗi khát khao được vượt lên trên những định kiến của xã hội, phá tan lớp rào ngăn cản người phụ nữ tự do chạm tay vào hạnh phúc của mình. Dẫu họ chỉ có thể có vị trí như loài “rêu” yếu mềm, như hòn đá vô hại, cam chịu, nhẫn nhục, thế nhưng sức mạnh tâm hồn của họ là không thể chối cãi. Hai câu thơ ấy của Hồ Xuân Hương thể hiện rất rõ cái khao khát, ý chí thoát khỏi sự kìm kẹp của sẽ hội, đòi quyền công bằng, bình đẳng, khao khát hạnh phúc trong tình yêu và sự tự do thể hiện bản thân một cách mãnh liệt của người phụ nữ. Thế nhưng mơ ước ấy của phụ nữ trong xã hội cũ dường như là điều viển vông, trong mắt những người đàn ông thậm chí là nực cười và trái với phụ đạo của đàn bà. Thế nên dẫu có khao khát mãnh liệt, có muốn phản kháng đến từng nào rồi cũng bị cái xã hội này đàn áp. Chẳng phải Hồ Xuân Hương dẫu đanh đá, xéo xắt, thông minh nhưng cũng chẳng có nổi cho mình một thân phận vợ cả đấy sao? Đàn bà thuở ấy cuối cùng vẫn phải quay về với mấy chữ “tam tòng tứ đức”, “công dung ngôn hạnh”, và bị mấy chữ “tam thê tứ thiếp” bòn rút cả tuổi thanh xuân, phí hoài cả cuộc đời. Thế mới có mấy câu thơ “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/Mảnh tình san sẻ tí con con”, bà đã chán ngán cái cảnh từng mùa xuân đến rồi lại đi, đồng nghĩa với hồng nhan cũng già đi. Mà nhan sắc vốn dĩ là tài sản quý giá nhất của người phụ nữ, nay đã nhạt phai ai lại không chán ngán, buồn rầu cho đặng. Và đáng thương nhất vẫn là những người phụ nữ chịu kiếp chồng chung, phận thứ thiếp lại càng thiệt thòi, bởi vốn dĩ đàn ông trong xã hội cũ vốn chẳng xem trọng chuyện nữ nhi thường tình. Đàn bà để nối dõi tông đường, để chăm lo nội viện, nào được hưởng những thứ xa xỉ như tình yêu của đàn ông, có chăng là chút cưng chiều, thương xót. Ấy vậy mà cái “mảnh tình” vốn nhỏ lại còn bị “san sẻ tí con con”, thì liệu còn được bao nhiêu phân lượng. Loài động vật mang thiên tính tình cảm mạnh mẽ như phụ nữ làm sao mà không thấy sầu khổ, buồn bã, u uất.
Nếu nỗi khổ của thân phận phụ nữ dưới cái nhìn của Hồ Xuân Hương là nỗi khổ hành hạ trong tinh thần, trong tâm hồn là nỗi uất ức cay đắng vì không được hạnh phúc. Thì trong Thương vợ Tú Xương lại nhìn thấy nỗi vất vả của người phụ nữ trong công việc lao động mưu sinh. Đặc biệt là khi họ được gả vào một gia đình không mấy khá giả, người chồng không biết đỡ đần, lại đông con thì cuộc sống càng thêm khó nhọc bội phần. Điển hình cho kiểu mẫu phụ nữ ấy chính là bà Tú, được gả cho ông Tú từ khi ông 16 tuổi, và từ đó trở đi cuộc đời bà chỉ nằm quanh việc kiếm sống, bươn chải nuôi ông chồng của mình theo nghiệp công danh, thi cử.
Nỗi vất vả của bà Tú được thể hiện ở trong 6 câu thơ đầu của bài thơ Thương vợ.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công”
Bà Tú là một người phụ nữ yếu đuối, thế nhưng phải làm những công việc vất vả, quanh năm suốt tháng dường như không hề có ngày nghỉ ngơi, ở một nơi khá nguy hiểm như chỗ “mom sông” vốn cheo leo lại lắm thuyền bè đi lại. Sở dĩ bà Tú phải bôn ba như vậy là vì ở nhà còn có 6 miệng ăn đang chờ bà nuôi, một đàn 5 đứa con đang tuổi ăn tuổi lớn, lại thêm một ông chồng “dài lưng tốn vải”. Nếu như chồng người có thể chung tay lao động, san sẻ, thì chồng bà lại trở thành gánh nặng, đè nặng lên đôi vai của bà, khiến bà càng thêm khó nhọc trong cuộc sống. Tuy vất vả, áp lực là thế nhưng bà Tú vẫn “Nuôi đủ năm con với một chồng”, điều ấy trước hết là thể hiện sự tần tảo, khéo léo vun vén “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm” của bà Tú, đồng thời cũng thể hiện cái sự chịu khó, đảm đang, tháo vát trong lao động của bà. Trong bài thơ Tú Xương có lấy hình ảnh con cò để ẩn dụ cho hình ảnh của bà Tú “Lặn lội thân cò nơi quãng vắng”, từ xưa đến nay hình tượng con cò đã từng xuất hiện rất nhiều trong ca dao, là đại diện cho sự khổ cực, lầm lũi, cô đơn và vô cùng tội nghiệp của người lao động, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội cũ. Đó là nỗi vất vả mà bà Tú phải gánh chịu trong cuộc hôn nhân với ông Tú, thế nhưng thái độ của bà khi đối diện với những điều ấy lại khiến người ta thêm thương và thêm quý trọng bà hơn. Có thể nói rằng, việc gả cho Tú Xương, đối với bà Tú là thiệt thòi lớn, bởi ông chồng ấy nói thật rằng trong cuộc đời này quả thực là vô tích sự, bởi ngoài việc giỏi thi ca, thì chẳng còn nên chuyện gì. Thi cử hỏng cả 8, lần cuối đậu rớt tú tài, nhà của tài sản cũng chẳng có gì, đã thế lại là người cố chấp với đường công danh, là bậc tri thức nên không làm những công việc tầm thường mưu sinh. Điều ấy buộc bà Tú phải đứng ra làm trụ cột cho cả gia đình, cái duyên vợ chồng với ông Tú thì chỉ có một, nhưng mà cái “nợ đời” mà bà phải gánh chịu thì có những hai. Thế nhưng bà chưa bao giờ than vãn, nề hà gì mà vẫn vui vẻ chấp nhận “âu đành phận”, xem như đó đã là cái phận trời định. Đặc biệt là dù có khổ cực, vất vả đến mức nào “năm nắng, mười mưa” bà cũng chưa từng “dám quản công”. Từ những điều trên ta nhận ra rằng bà Tú là người phụ nữ có tấm lòng vị tha và đức hy sinh cao cả, điều ấy xuất phát từ tấm lòng yêu thương chồng con sâu sắc, một lòng vì gia đình. Bà Tú chính là hình mẫu đại diện cho người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ cũ, chịu thương chịu khó, nhẫn nhịn, chịu đựng, nhân hậu, bao dung và vô cùng yêu thương gia đình.
Kết lại từ Tự tình II và Thương vợ ta thấy hình tượng người phụ nữ Việt Nam hiện lên với một đặc trưng chính đó là chịu nhiều thiệt thòi và vất vả. Trước hết về đời sống tinh thần thì phải chịu nhiều áp lực từ định kiến xã hội, không có quyền mơ ước hạnh phúc, phải chịu cảnh chung chồng, tuổi xuân gần như dành hết cho việc chờ đợi và buồn rầu. Không chỉ vậy họ còn mang trong mình tính cam chịu, nhẫn nhịn, tần tảo, chịu thương chịu khó, một lòng vì chồng con, không một lúc nào nghĩ đến bản thân. Bên cạnh đó ta thấy được nhưng vẻ đẹp rất đáng quý trong tâm hồn người phụ nữ ấy là sự bao dung, đức hy sinh cao cả, tấm lòng khao khát hạnh phúc, sự thông minh tài giỏi, cáng đáng công việc cũng chẳng thua kém gì bậc nam nhi.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 24
Phụ nữ Việt Nam là những người đức hạnh, khao khát một cuộc sống yên bình, hạnh phúc, nhưng các thế lực bạo tàn và cả lễ giáo khắc nghiệt lại xô đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, oan khuất, bất hạnh. Chủ đề này là nguồn cảm hứng cho các nhà văn, nhà thơ trung đại sáng tác những tác phẩm giá trị, nổi tiếng mà nổi bật là các bài thơ Bánh trôi nước, tự tình (bài II) của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương.
Qua những bài thơi trên, hình ảnh người phụ nữ hiện lên trước hết là những con người đẹp đẽ, không chỉ ở hình thức mà chủ yếu ở những phẩm chất cao quý: tài năng, nhân phẩm và khát vọng chân chính của con người như khát vọng vê quyền sống, khát vọng tự do, công lý, khát vọng tình yêu, hạnh phúc … Vẻ đẹp bền ngoài của người phụ nữ đã được nhà thơ Hồ Xuân Hương diễn tả trong bài Bánh trôi nước như sau:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”.
Chiếc bánh trôi nước làm bằng bột nếp trắng tinh, mịn màng, tròn trịa và xinh xắn khiến người ta liên tưởng tới vẻ đẹp hồn nhiên của những cô gái đương xuân. “Vừa trắng lại vừa tròn”, từ ngữ gợi tả đả được sử dụng thật khéo léo để vừa diễn tả hình dang tròn và màu sắc trắng của bánh trôi nước, vừa ca ngợi vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ với làn da trắng, thân thể đầy đặn. Nhưng đẹp nhất ở người phụ nữ vẫn là những phẩm chất cao quý.
“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
Đây chính là lòng dạ sắt son vẫn được giữ nguyên vẹn, không để mất đi trong cuộc đời chìm nổi, lênh đênh. Hình ảnh ẩn dụ so sánh ngầm “tấm lòng son” vừa diễn tả được cái nhân màu đỏ của bánh trôi nước vừa nói lên tấm lòng chung thủy sắt son được giữ vững dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào. Ở đây, tác giả đã sử dụng từ “mà” một cách xuất sắc để nói lên quyết tâm đó. Hơn nữa, Hồ Xuân Hương cũng rất khéo léo khu sử dụng đại từ “em” ở câu mở bài và kết thúc của bài thơ để diễn tả sự khiêm tốn của người phụ nữ dù họ vẫn tự hào về vẻ đẹp tâm hồn lẫn hình thức của mình.
Còn trong bài thơ Thương vợ, phẩm chất của người phụ nữ chính là tình yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng một dạ vì chồng con:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Câu thơ diễn tả gánh nặng gia đình đặt lên vai bà Tú. Từ “mon” thật là hay, giúp người đọc thấy được nỗi gian truân của bà Tú khi quanh năm buôn bán bên bờ sông Vị, nơi ba bề là nước rất nguy hiểm. Bà vất vả quanh năm chẳng nề hà như vậy để nuôi cả nhà. Đông con, nuôi lũ con đông ấy đã đành, bà còn phải nuôi chồng. Năm con với một chồng là sáu người. Một phải gánh sáu, thế đã là nặng, phải gánh và gánh được, thế là đảm đang. Nhưng có lẽ một mình ông Tú nhu cầu cũng bằng của năm đứa con kia cộng lại (vì ông ngoài nhu cầu ăn, uống còn giấy vở, bút, nghiêm, mực …). Vì vậy nhà thơ đã tách ông ra một bên đòn gánh để gánh cho cân:
“Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Vì cái gánh quá nặng nên bà vất vả quanh năm như vậy mà cũng chỉ vừa đủ nuôi chồng, nuôi con. Vậy mới thật là đảm, nặng đến thế mà cũng gánh xong, khó thế mà cũng chu toàn. Câu thơ thể hiện sử vất vả, gian lao, đức tính chịu thương, chịu khó hết lòng vì chồng, vì con, đồng thời ca ngợi sự đảm đang, tần tảo của bá Tú nói riêng và của người phụ nữ Việt Nam nói chung.
Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ còn là tinh thần mạnh mẽ, dám vượt lên trên đớn đau để tìm niềm hạnh phúc mà mình hằng khao khát. Hồ Xuân Hương đã nêu lên tinh thần này trong bài thơ Tự tình như sau:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.
Hình tượng thiên nhiên dữ dội, “nổi loạn” như tính cách bướng bỉnh không chịu khuất phục của chính tác giả. Hai câu thơ tưởng như chỉ miêu tả cảnh vật xung quanh, nhưng chính những đặc điểm của cảnh vật đó dã được dùng để bộc lộ tâm trạng của con người. Những sinh vật bé nhỏ, hèn mọn còn hèn mọn hơn cả “nội cỏ hoa hèn” như đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu. Nó phải mọc xiên, “xiên ngang mặt đất”. Đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, nó phải “đam toạc chân mây”. Chỉ là những cảnh vật bình thường không có gì đặc biệt như rêu và đá, nhưng qua cách nhìn đầy bất mãn, ấm ức của tác giả, chúng trở nên vô cùng sống động. Đây cũng chính là tâm trạng của Hồ Xuân Hương phẫn uất trước những tục lễ phong kiến, những thế lực đang tàn nhẫn ra tay bóp chết hạnh phúc của bà. Đây quả là một cách suy nghĩ vô cùng mới mẻ, một tư tưởng đi trước thời đại, một tính cách hoàn toàn khác biệt so với người phụ nữ lúc bấy giờ. Đó cũng chính là một bản lĩnh một các tính Hồ Xuân Hương thật đáng trân trọng.
Tuy đẹp như vậy nhưng người phụ nữ xưa phải chịu nhiều nỗi khổ đau … Trước hết, họ phải sống cuộc sống vất vả, cực nhọc. Chúng ta thử xem công việc của bà Tú trong bài thơ Thương vợ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Hình ảnh con cò trong ca dao đã tội nghiệp, hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Chỉ bằng ba từ “khi quãng vắng”, tác giả đã nói lên được cả thời gian, cả không gian heo hút, rợn ngợt, chứa đầy lo âu. Hình ảnh này càng kafm tăng nỗi vất vả, gian truân, đơn chiếc của bà Tú.
Câu thơ tiếp theo gợi cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng. Bà Tú đã vất vả, đơn chiếc, nay lại thêm sự bươn chải trong hoàn cảnh chen chúc làm ăn.
Người phụ nữ xưa phải chịu nỗi khổ đau hơn nữa khi không được làm chủ số phận của mình. Hồ Xuân hương đã thốt lên”
“Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nước mặc dầu tay kẻ nặn”.
Đây chính là hình ảnh chìm nổi của bánh trôi nước ở trong nồi nước sôi, đồng thời làm ta liên tưởng tới hình ảnh về số phận của người phụ nữ phải lênh đênh không định hướng được cuộc đời sẽ về đâu. Và hơn thế nữa, họ không được làm chủ số phận của mình. Cuộc đời của họ “rắn hay nát”, nghĩa là hạnh phúc hay đau khổ giống như hình ảnh rắn nát của bánh trôi nước là tùy “tay kẻ nặn”. Bởi vì, sống trong xã hội phong kiến, họ bị ràng buộc bởi nhiều tư tưởng lạc hậu “trọng nam khinh nữ”, “chồng chúa vợ tôi”, “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” …
Người phụ nữ xưa cũng phải chịu nỗi khổ đau vì cô quạnh, thiếu vắng hạnh phúc lứa đôi, vì không người yêu thương, thông cảm … Bài thơ Tự tình đã nói họ điều này:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”.
Trống cánh dồn văng vẳng là âm thanh duy nhất trong đêm vắng. Nửa đêm là thời gian sum họp của vợ chồng, là thời điểm hạnh phúc lứa đôi. Vậy mà lại có người phụ nữ tỉnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm người phụ nữ đã không ngủ được vì chăn đơn gối chiếc, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi cô đơn? Đó có phải là tiếng trống cất lên từ tiếng lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống ám ảnh về một bi kịch đang ngày càng đến gần hơn với bà. Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập thì cũng là lúc “hồng nhan” ngày một trơ ra với đời. Đó là điều mà bất cứ người phụ nữ nào cũng hết sức tự hào, coi trọng, nâng niu. Nhưng “hồng nhan”để làm gì khi nửa đêm phải tỉnh giấc trong cái trống trải, lạnh lẽo đến cay đắng. Câu thơ như lời đay nghiến, mỉa mai chính bản thân mình, đang thương cho những người phụ nữ đương thời bị đè nén, áp bức với những hủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận hồng nhan. Đó còn là nỗi đau vì cô quạnh, thiếu vắng hạnh phúc lứa đôi, không người yêu thương, thông cảm.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Một người phụ nữ mà phải ngồi uống rượu một mình, cô đơn với đêm khuya, với vầng trăng lạnh. Câu thơ là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa trăng với người. Khi muốn quên sầu là lúc người ta ở trong tâm trạng cay đắng nhất, khi xung quanh không có ai để có thể chia sẻ nỗi niềm và ta chỉ còn biết quên đi nỗi niềm trong men rượu, một mình. Trăng vốn là biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho ước mơ và hy vọng. Nhưng trang của Hồ Xuân Hương lại “khuyết”, “chưa tròn” – biểu tượng cho một hạnh phúc không hề trọn vẹn, một cuộc đời còn dang dở, éo le với những trắc trở trong tình duyên. Ánh trăng sáng mà lạnh lẽo vô cùng. Ẩn hiện trong đó một nỗi cô đơn, trống vắng. Bóng xế đi kèm với trăng lại gợi nên một nỗi niềm trong lòng tác giả: nỗi lo sợ trước tuổi xuân đang đi mất. Trăng đã xế mà vẫn khuyết chưa tròn, giống như tuổi xuân của Hồ Xuân Hương đang mất đi mà tình duyên chưa được trọn vẹn.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Ngán là chán ngán, là ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương ngán lắm rồi nổi đời éo le, bạc bẽo. Từ xuân mang hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân đi rồi, mùa xuân trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn hoa cỏ, lá cây, nhưng với con người, tuổi xuân qua là không bao giờ trở lại. Nghệ thuật tăng tiến làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Mảnh tình đã bé lại còn san sẻ thành ít ỏi, chỉ còn tí con con nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ được viết ra có thể là tâm trạng của người mang thân đi làm lẽ. Đau xót biết mấy, khi mảnh tình là một thứ được chia năm xẻ bảy, nhận được duy nhất một mảnh tí con con. Hạnh phúc của bà chẳng những không trọn vẹn mà còn nhỏ bé, ít ỏi đến mức độ tội nghiệp. Tình duyên như thế có để làm gì, chỉ càng thêm tủi nhục, đắng cay. Bi kịch của Hồ Xuân Hương cũng là của người phụ nữ thời bấy giờ.
Vì sao trong thơ của hai nhà thơ nổi tiếng của nền văn học trung đại như Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương, hình tượng người phụ nữ Việt Nam lại hiện lên giống nhau như vậy? Họ đều chịu nhiều đau đớn, tủi cực nhưng vẫn toát lên tinh thần đấu tranh mạnh mẽ, vượt lên số phận để làm tốt bổn phận của một người phụ nữ trong gia đình, một người phụ nữ dám vượt lên trên đớn đau để tìm hạnh phúc mà mình hắng khao khát. Vì đây chính là cuộc sống cuộc đời thực sự của những người phụ nữ trong xã hội xưa, đồng thời là kết tinh của những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua hàng bao thế kỉ.
Đồng cảm với các nhà thơ qua các tác phẩm văn học cổ, chúng ta phải cố gắng xây dựng cuộc sống tốt đẹp, không còn áp bức, bất công, nhất là để tiếng đàn hạnh phúc luôn ngân lên những tiếng tơ đồng ngợi ca cuộc sống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi”.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 25
“Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” ( một con trai xem như có, mười con gái cũng như không) Mới nghe qua hẳn ai trong chúng ta cũng không khỏi phê phán tư tưởng lỗi thời, lạc hậu chứa đựng trong câu nói trên, bởi một lí do đơn giản, chúng ta đang sống trong một xã hội công bằng bình đẳng.
Tuy nhiên, sẽ chẳng có gì đáng nói nếu đây là một xã hội phong kiến bất công,khi mà quan niệm kia vẫn còn phổ biến rộng rãi. Đã sinh ra làm kiếp con người, ai mà không phải trải qua những thăng trầm, sóng gió, ai mà không nếm qua những cay đắng trong cuộc sống để rồi mới đạt được tới chân của hạnh phúc. Nhưng xưa kia, khi hạnh phúc đối với người đàn ông bao la rộng lớn bao nhiêu thì với người phụ nữ, người vợ - những người đã hết mình cống hiến cho gia đình, xã hội lại hạn hẹp và thu gọn bấy nhiêu. Những nỗi thống khổ ấy đã có rất nhiều thi sĩ thấu hiểu. Họ gửi lòng cảm thông, trân trọng, tiếc thương sâu sắc của mình qua nhiều tác phẩm và cũng đã rất khéo léo khi xây dựng lên một hình ảnh người phụ nữa Việt Nam đảm đang, không những đẹp về hình thức mà còn rất đẹp về tâm hồn, nhưng phải chịu cuộc đời long đong, lận đận, vất vả, thân phận trôi nổi, bèo bọt với bao oan khiên trước sự vùi dập của xã hội phong kiến.
Một trong những tác phẩm ấy hẳn phải kể tới “Tự tình (II) của nữ sĩ Hồ Xuân Hương và “Thương vợ” của nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương. Trong xã hội phong kiến thối nát và hoang tàn, những người phụ nữ bé nhỏ không được coi trọng, cuộc đời thì long đong lận đận, duyên tình trái ngang, có tài mà không được coi trọng (Hồ Xuân Hương), hay cũng như việc làm của người vợ “bà Tú” ít được cảm thông dù cho quanh năm vất vả. Họ như những con thiêu thân, những con thoi mải miết dệt hoa cho đời không ngừng nghỉ để đổi lấy gì? Chả là gì cả? Họ chỉ đổi được nhiều thọt thòi , nhìu đau khổ bế tắc cho chính mình.Họ cống hiến hết cho cuộc đời mà khồn hề đòi hỏi quyền lợi ngoài tấm lòng cảm thông, chia sẻ và chút hạnh phúc riêng của mình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn.
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Giữa đêm thanh vắng, tiếng trống canh vang lên, xa dần, xa dần, xa dần… để lại một người phụ nữ ngồi quạnh hiu, đơn lẻ, khung cảnh ấy mới chua xót làm sao! Nửa đêm là thời gian sum họp vợ chồng, là thời điểm của hạnh phúc lứa đôi. Vậy mà lại có 1 người phụ nữ tỉnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm người phụ nữ ấy đã không ngủ được. Vì thiếu vắng 1 điều gì đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi niềm? Tiếng trống canh âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau, gọi đến 1 điều vô cùng đáng sợ đối với 1 người đàn bà vẫn còn thân đơn gối chiếc: Tuổi già - Tuổi già càng đến gần nghĩa là hi vọng càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô vọng. Tiếng trống dồn dập cứ xoáy vào tâm can tác giả, nó âm vang, trong tâm tưởng, âm vang trong suy nghĩ, không tài nào dứt ra được. Dồn dập, hối hả, tiếng trống không chỉ bao trùm lên không gian mà còn lên cả thời gian nữa, và ta tự hỏi, đây có thật là tiếng trống hiện hữu trong đời sống thực tại hay phải chăng đó là tiếng trống cất lên từ tấm lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống ám ảnh về 1 bi kịch đang ngày đến gần hơn với bà.
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập, thì cũng là lúc “cái hồng nhan" ngày một “trơ” ra với đời. “Hồng nhan” là một từ dùng để chỉ nhan sắc, chỉ gương mặt xinh đẹp của người phụ nữ. Đó là điều mà bất cứ người phụ nữ nào có được. cũng phải hết sức tự hào, hết sức coi trọng và nâng niu. Nhưng từ “cái” gắn liền với “hồng nhan” như một hòn đá kéo nặng cả câu thơ xuống, khi đập tan bao nhiêu niềm tự hào, bao nhiêu trân trọng mà biến “hồng nhan” trở thành một thứ đồ vật tầm thường không hơn không kém. Hồng nhan để làm gì khi nửa đêm phải tỉnh giấc, trong cái trống trải lạnh lẽo đến đắng cay? Tác giả ý thức được nhan sắc của mình nhưng cũng ý thức được những bất hạnh và chua xót mà mình đã, đang và sẽ phải nếm trải. Hồng nhan để làm gì khi nó đâu phải là vĩnh cửu mà sẽ nhanh chóng vỡ tan theo từng nhịp trống dồn.
Và khi nỗi đau lên đến đỉnh điểm, người phụ nữ sẽ trở nên “trơ” ra với “nước non”, với cuộc đời. Từ “trơ” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh sự vô cảm, lạnh lùng, thờ ơ trước những đớn đau đã trở nên quá quen thuộc. Còn gì đau xót hơn khi những bất hạnh lại trở thành một điều gì đó rất thường tình, cứ đeo đẳng, bám lấy con người ta và thậm chí khiến người ta trở nên nhàm chán, mất hết cảm xúc và trở nên trơ ra như gỗ đá? Chưa hết, từ “trơ” trong câu thơ còn mang một nghĩa khác, một hàm ý cay đắng và chua xót không kém: Trơ trọi. Tác giả nhận thấy mình không có gì cả, không có tình yêu, không có hạnh phúc, chỉ đơn độc, lẻ loi một mình trong cuộc đời này.
Câu thơ như một lời đay nghiến, mỉa mai chính mình, có hồng nhan mà phải trơ ra như thế. Thật đáng thương cho số phận của nhà thơ, đáng thương cho một kiếp người tài hoa mà bất hạnh. Và cũng thật đáng thương cho những người phụ nữ đương thời bị đè nén, áp bức với những hủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận hồng nhan.
Nhưng, dù đáng thương, chua xót đến mức nào, chúng ta vẫn phải công nhận một “bản lĩnh Xuân Hương” rất đáng nể phục trong hai câu thơ, khi mà “trơ” không chỉ là một sự bẽ bàng hay vô cảm mà còn là thách thức. “Trơ” kết hợp với “nước non” và “hồng nhan” đựoc xếp ngang tầm thiên nhiên vũ trụ đã cho ta thấy sự can đảm, dám đương đầu với những gì lớn lao nhất, khó khăn nhất của bà. Đó quả thật là một ý chí đáng nể phục, một bản lĩnh đáng ngưỡng mộ của Hồ Xuân Hương.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xê khuyết chưa tròn”
Hồ Xuân Hương uống rượu mà như uống bao giọt sầu giọt tủi, như nuốt từng giọt đắng giọt cay. Chén rượu là chén sầu mà người uống chẳng thể đổ đi đươc mà chỉ có thể lặng lẽ, âm thầm nuốt vào cổ họng, để đau khổ cũng chẳng mất đi đâu mà lại trở lại trong chính tâm trí mình. "Say lại tỉnh". Uống rượu có thể say, nhưng sau cơn say người ta sẽ lại tỉnh. Những lần say và những cơn day ấy cư lối tiếp nhau thành một vòng tuần hoàn nghiệt ngã của số phận. Cố say, cố quên, vậy mà lúc tỉnh dậy thì thấy bao nhiêu dối trá, hững hờ của người đời vẫn còn đó, và nỗi đau khổ, bẽ bàng của mình cũng vẫn còn nguyên. Và ta chợt nhớ một hình ảnh bẽ bàng. Tủi nhục của nàng kiều ngày nào:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Trăng vốn là một biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho cho những ước mơ và hy vọng. Thế nhưng, hạnh phúc của Hồ Xuân Hương cũng như bao người phụ nữ khác lại xót xa đến mức khuyết chưa tròn”, một hạnh phúc không hề trọn vẹn, một cuộc đời còn dang dở với những éo le, trắc trở trong tình duyên. Hạnh phúc của bà chỉ như vầng trăng khuyết mà bà không thể biết ngày mai trăng sẽ lại khuết tiếp hay sẽ tròn. Ánh trăng sáng mà lạnh lẽo vô cùng khi ẩn hiện trong nó một nỗi cô đơn, trống vắng. Tuổi xuân của Xuân Hương đang dần mất đi mà tình duyên vẫn không được trọn vẹn. Và sâu thẳm trong tâm trí bà, dù yếu ớt đến đâu vẫn luôn lóe lên một ánh lửa khát khao, hy vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên thay đổi cuộc sống của mình. Hai câu thơ tiếp theo đã nói lên điều ấy:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn..”
Bà không buông xuôi, không đầu hàng mà luôn cố gắng tìm cách để thay đổi vận mệnh, cho dù những cố gắng đó mới chỉ dừng lại trong suy nghĩ. những uất hận ây bị đè nén, gò ép trong lòng bà đến không chịu nổi chỉ chực vỡ òa ra, bà khao khát muốn đạp tung tất cả, muốn lật đổ mọi thứ, muốn tự do biết nhường nào. Nhưng dù sao, bà vẫn chỉ là một người phụ nữ phong kiến, một thân phận nữ nhi cô độc, dù phá phách, dù nổi loạn đến đâu thì tất cả vẫn chỉ kết thúc trong giới hạn ngôn từ. Bà không thể làm gì hơn được nữa.... Thế nhưng , những vần thơ cuối bài lại là một mạch cảm xúc hoàn toàn mới, nêu lên một chân lí mới dù cho vẫn còn chứa đựng biết bao đau thương:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con..”
Những khát khao, vùng vẫy, nổi loạn cuối cùng cũng đã bị dập tắt trong sự chán chường, bất lực. Hồ Xuân Hương đã không thể vượt khỏi thân phận mình, vị thế nhỏ nhoi cô độc của mình trong xã hội. Kết thúc bài thơ là một sự cam chịu được. thốt lên trong một tiếng thở dài ngao ngán. Bà đã phát ngán, đã chán lắm rồi cái vòng xoáy luẩn quẩn của số phận. Càng cố bao nhiêu thì càng thất bại bấy nhiêu, hi vọng càng nhiều thì thất vọng càng lớn, càng chua xót. Bà chán ghét số phận hẩm hiu của mình, chán ghét vòng tình duyên ngang trái luôn đeo đẳng, chán ghét hạnh phúc ít ỏi đến nỗi gần như không tồn tại.
“Mảnh tình”, một cụm từ mang nặng nỗi trớ trêu của số phận. Tình yêu vốn là một điều gì đó thật cao cả thiên nhiên, nhưng tình yêu của Hồ Xuân Hương lại như một mảnh vỡ nhỏ bé được sẻ ra từ hạnh phúc của người khác. Tình yêu của bà rẻ mạt như một sự bố thí, như một thứ đồ vật đã qua sử dụng người ta vứt lại cho bà. Đau xót biết mấy, khi “mảnh tình” lại là một thứ được chia năm sẻ bảy mà bà chỉ được nhận duy nhất một mảnh “tí con con”. Hạnh phúc ấy chẳng những không trọn vẹn mà còn nhỏ bé, ít ỏi đến mức tội nghiệp. Tình duyên như thế thì có để làm gì, chỉ càng thêm tủi nhục đắng cay.? Ấy thế mà, dù bị lãng quên, người phụ nữ không bao giờ tuyệt vọng, đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời mình. Họ vẫn vẫn khao khát sống mạnh mẽ, ước ao hạnh phúc tròn đầy. Ý niệm ấy thật đáng trân trọng và cao đẹp làm sao!
Trải qua tác phẩm Tự tình 2 thấm đượm nỗi chua xót, đắng cay trong cuộc đời người phụ nữ của Hồ Xuân Hương, có lẽ bài thơ : “Thương vợ” của Trần Tế Xương được coi là chân dung hoàn chỉnh nhất về hình ảnh người phụ nữ VN trong xã hội phong kiến, cam chịu số phận, vượt qua đắng cay để lo toan, gánh vác việc gia đình. Và phải nói rằng, tình thương vợ sâu nặng của Trần Tế Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả, gian lao, và phẩm chất cao đẹp của người vợ:
"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ 5 con với một chồng"
Ngày xưa, theo nho giáo, người phụ nữ có bổn phận thờ chồng, nuôi con. Nhưng thờ chồng với bà bao hàm cả việc nuôi chồng, mặc dù đúng ra, người đàn ông là người trụ cột trong gia đình về mọi mặt. Thương bà tú biết bao nhiêu khi bà xuất thân từ một gia đình gia giáo, khá giả, khi ở với cha mẹ, bà không phải chịu cảnh một nắng 2 sương, vất vả sớm hôm. Làm vợ ông Tú lận đận đường khoa thi cử, không nghề nghiệp nên bà đành chấp nhận cảnh sống long đong, cơ cực, nuôi chồng, nuôi con.
“Quah năm” là suốt cả năm.không trừ ngày nào dù mưa hay nắng, quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến rã rời, mệt mỏi chứ đâu phải là 1 năm. Địa điểm bà tú buôn bán là mom sông, như bối cảnh hiện lên hình ảnh bà tú tần tảo, tất bật ngược xuôi , không kể tới gian nan, nguy hiểm đang rình rập để nuôi đủ năm con với một chồng”. Từ đó có thể thấy: cuộc sống vất vả, gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ mà bà Tú là một ví dụ điển hình. Bà thực là người phụ nữ đảm đang, tháo vát khi nuôi đủ cả con, cả chồng, đảm bảo đến mức:
“Cơm hai nửa”: Cá kho, rau muống
Quà một chiều: Khoai lang, lúc ngô”
(Thầy đồ dạy học)
Thế nhưng để đạt được những điều đó, bà tú đã phải cố gắng, phải lo rất nhiều, làm rất nhiều, nhẫn nhịn cũng rất nhiều:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Thấm thía nỗi gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú đầy tội nghiệp, không biết tự lúc nào đã hoá thành thân cò để lặn lội nơi sông nước, eo sèo nơi quãng vắng thưa người, gợi lên một nỗi đau thân phận không riêng của bà Tú mà là của biết bao người phụ nữ trong xã hội đương thời.
Trong ca dao người mẹ từng dặn con:
“Con ơi nhớ lấy câu này,
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”
“Buổi đò đông” không chỉ có lời phàn nàn, cáu gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đựng đầy bất trắc hiểm nguy. Tất cả đó đã làm nổi bật lên hình ảnh bà Tú đã vất vả, đơn chiếc lại thêm sự bươn chải trong làm ăn. Vậy mà bà chẳng dám buông lấy một lời kể lể, thở than:
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Như vậy có thể nói bà Tú đã chấp nhận, đã thuận theo lòng trời, hay nói đúng hơn, buộc phải chấp nhận, thuận theo lòng người, bởi lẽ bà là người phụ nữ đảm đang, nhưng cũng rất mực thuỷ chung. Bà châp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, cũng như chấp nhận một ông đồ nho ngông:
“Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”
Và bà cũng đã chấp nhận nuôi chồng, nuôi con. Còn nhà thơ thì chỉ biết tự trách mình:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Ở cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn bản đối với người phụ nữ “xuất giá tòng phu” (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì “phụ xương, phụ tùy” (chồng nói vợ theo), thế mà có 1 nhà nho giám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự nhận mình là “quân ăn lương vợ”, “ăn ở bạc”. Không những đã biết nhận ra thiếu sót mà còn dám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm hay sao?
Như vậy, nói rằng bà Tú là hình ảnh rõ ràng nhất cho người phụ nữ trong xã hội VN đương thời quả không sai, bởi lẽ thân phận người phụ nữ giai đoạn này là sự éo le, trắc trở, khổ cực nhưng không có lấy một sự cảm thông, chia sẻ từ chồng, từ con.
Ta thấy, 2 bài thơ trên thật là những vần thơ đáng quý của Văn Học VN trung đại. Qua những vần thơ ấy, hình ảnh người phụ nữ VN xưa kia hiện lên thật rõ nét, thật đẹp đẽ, cao quí nhưng chứa đựng đầy chua xót, đắng cay. Tất cả đều nói chung về thân phận bé nhỏ, số phận chìm nổi, bèo bọt, bị lệ thuộc vào XH của người phụ nữ xưa kia. Phải nói, Hồ Xuân Hương va Trần Tế Xương đã đóng góp không nhỏ vào tiếng nói, tiếng khóc chung để đòi quyền sống, quyền tự do, hạnh phúc cho 1 nửa nhân lọai, những con người gánh vác trọng trách duy sự sống loài người trên trái đất.
Từ đó, ta có thể khẳng định rằng: vai trò, vị thế của nguời phụ nữ XH ngày càng nâng cao và có đóng góp ngày 1 lớn cho sự phát triển chung trên mọi lĩnh vực. Song, không phải đến bây giờ, giá trị người phụ nữ mới được bộc lộ và tỏa sáng. Nếu nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc, ngay cả trong những thời kì đen tối của chế độ phong kiến trọng nam khinh nữ, người phụ nữ cả 1 đời bị ràng buộc bởi biết bao lễ giáo và định kiến khắc nghiệt, họ vẫn là những viên ngọc sáng lấp lánh trong con mắt dân gian.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 26
Người phụ nữ xưa luôn luôn bị phân biệt đói xử bất công. Có lẽ chính bởi vậy mà có rất nhiều các áng văn thơ và cả trong văn học dân gian đều có những câu thơ than thân trách phận của người phụ nữ. Và ta có thể kể tên một số các bài thơ điển hình khi nói về thân phận của người phụ nữ như “Bánh trôi nước”. “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương và bài thơ đặc sắc đầy cảm động của Trần Tế Xương “Thương vợ”.
Hồ Xuân Hương là một trong những nữ thi sĩ đã có rất nhiều sáng tác nhiều bài thơ nổi tiếng về đề tài phụ nữ. Thơ bà là tiếng nói đòi quyền sống tự do và thể hiện khát khao hạnh phúc. Nhà thơ tài năng Trần Tế Xương cũng có một số bài thơ nói về những vất vả gian truân mà người phụ nữ phải gánh chịu trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ. Mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước quen thuộc trong dân gian, Hổ Xuân Hương gửi gắm những suy ngẫm sâu sắc của mình về thân phận nhỏ bé và phụ thuộc của người phụ nữ xưa
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Một chiếc bánh trôi nước làm bằng bột nếp trắng tinh, mịn màng, tròn trịa và xinh xắn khiến người ta liên tưởng tới vẻ đẹp hổn nhiên, đầy đặn của những cô gái đương xuân. Bánh trôi được luộc trong nồi nước sôi, mấy lần chìm xuống nổi lên mới chín. Bột bánh trắng trong nổi rõ màu nâu đỏ của nhân làm bằng đường thẻ. Với cặp mắt đa sầu và trái tim đa cảm, Hồ Xuân Hương đã nhận ra đằng sau những chi tiết rất thực ấy là cả một nỗi niềm thương thân trách phận của người phụ nữ. Tạo hóa sinh ra họ là để duy trì và phát triển sự sống của nhân loại, đồng thời làm đẹp cho đời. Vai trò của họ là vô cùng quan trọng, nhưng quan niệm thiên vị đến mức lệch lạc trong xã hội phong kiến đã cố tình phủ nhận điều đó. Nào là: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Rồi thì còn là “Nữ nhân ngoại tộc”. Rồi cả những luật Tam tòng hà khắc như đã cột chặt người phụ nữ vào thân phận bị phụ thuộc vĩnh viễn: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Dường như những quan niệm khắt khe, cổ hủ ấy như đã tước đoạt điều quý giá nhất là được tự do sống đúng với con người mình và đáng sợ hơn cả là chính điều đó đã biến người phụ nữ thành cái bóng mờ nhạt trong suốt cuộc đời. Họ tồn tại chứ không phải là sống theo đúng nghĩa tích cực của từ đó. Thân phận người phụ nữ lúc này chẳng khác gì những chiếc bánh trôi nước, rắn, nát, méo, tròn hoàn toàn do tay kẻ nặn. Ở bài thơ Tự tình II, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng bức xúc cao độ của bản thân, đồng thời cũng là tâm trạng chung của biết bao nhiêu người phụ nữ cùng cảnh ngộ trong xã hội phong kiến “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái hồng nhan với nước non”.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Nói đến người phụ nữ là nói đến cái đẹp, tình yêu thương và đức hi sinh. Họ đã hi sinh và cống hiến hết cho cuộc đời mà không đòi hỏi quyền lợi vật chất nào ngoài sự trân trọng, cảm thông và chia sẻ. Nhưng những cái đó hầu như không được gia đình và xã hội quan tâm vì cho rằng thiên chức của phụ nữ là phục tùng vô điều kiện. Dường như đã hiểu rõ điều bất công đó nên Hồ Xuân Hương đã viết nên những câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa, chua chát như trên. Hồng nhan là cách gọi những phụ nữ đẹp, rộng hơn là để chỉ chung giới nữ. Nhưng tại sao lại gọi là “cái hồng nhan’, phải hiểu “hồng nahn” có nghĩa là đã hạ nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác khác. Nỗi hờn tủi, bẽ bàng chất chứa trong câu thơ: Trơ cái hồng nhan với nước non in đậm dấu ấn phong cách diễn tả độc đáo của Xuân Hương.
Những điều tâm sự trĩu nặng nỗi buồn thân phận và duyên phận của nữ sĩ không biết ngỏ cùng ai nên càng cuộn xoáy, day dứt trong lòng giữa đêm khuya thanh vắng. Nhưng dù bị phụ phàng hay quên lãng thì nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn không tuyệt vọng, vẫn khao khát sống mạnh mẽ, vẫn ước ao đến cháy lòng về một hạnh phúc tròn đầy, vẫn mong muốn được san sẻ và bù đắp những tình cảm chân thành nhất giữa người với người.
Một trong những bài thơ nói về thân phận của người phụ nữ đặc sắc nữa thì không thể bỏ qua bài “Thương vợ” của nhà thơ trào phúng nổi tiếng Trần Tế xương có thể coi là đây chính là chân dung tương đối hoàn chỉnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Ngày xưa, Nho giáo buộc phụ nữ phải có bổn phận thờ chồng, nuôi con. Việc phải tôn thờ chồng đối với bà Tú bao hàm cả việc nuôi chồng, thế là bất công vì đúng ra, người đàn ông phải giữ vai trò trụ cột trong gia đình về mọi mặt. Bà Tú vợ của Tế Xương vốn con nhà gia giáo, khá giả. Lúc còn ở với cha mẹ, bà không phải chịu cảnh vất vả nắng sương. Làm vợ ông Tú lận đận về đường khoa cử, lại không nghề không nghiệp nên bà đành chấp nhận cảnh sống long đong, khổ sở. Bà Tứ phải quanh năm, ngày ngày lo tảo tần buôn bán nơi mom sông, bến chợ để Nuôi đủ năm con với một chồng. Mà việc nuôi một ông chồng đặc biệt tài hoa như ông Tú thì không phải chỉ lo miếng cơm, manh áo bình thường mà còn phải chuẩn bị sẵn cho ông chồng một ít rượu ít trà, lại còn có ít tiền bỏ túi để có lúc ông vui bạn vui bè, chuẩn bị cho ông một hai bộ cánh tươm tất để nhỡ đi đâu ông khỏi tủi… Như vậy là bà Tú phải lo rất nhiều việc một lúc, phải làm rất nhiều mà không dám kể lể, thở than: Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Bà âm thầm coi đó là định mệnh đã an bài cho số bà phải như vậy. Suy nghĩ và tâm trạng của bà Tú cũng là suy nghĩ, tâm trạng chung của đa phần phụ nữ thời xưa. Nhà thơ Trần Tế Xương không ngại ngàn khi từng tự nhận mình là ông chồng vô tích sự, để vợ phải lặn lội thân cò… chẳng khác chi những thân cò thân vạc đáng thương trong ca dao – dân ca, tượng trưng cho thân phận vất vả, cực nhọc của người phụ nữ. Có thể nói bêên cạnh nỗi khổ vật chất, bà Tú còn nỗi khổ tinh thần. Bà hết lòng vì chồng, vì con nhưng chồng con nào có biết cho chăng?! Và cũng bởi vậy nên mới có tiếng thở dài như một lời than não ruột: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không! Có lẽ ông Tú đã hoá thân vào vợ mình, để thấu hiểu và thông cảm với bà. Lấy chồng mà như chẳng được nhờ vả, cậy dựa một chút gì xong nếu lấy phải ông chồng hờ hững thì quả là có cũng như không mà thôi.
Thật dễ nhận thấy ba bài thơ cùng một đề tài và cùng toát lên thân phận nhỏ bé, phụ thuộc rất đáng thương của người phự nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Thi sĩ Hồ Xuân Hương và nhà thơ Trần Tế Xương đã góp tiếng nói đáng kể vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi chính đáng của một nửa nhân loại – những người gánh vác trọng trách duy trì sự sống trên trái đất này.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 27
Người phụ nữ Việt Nam ta từ xưa đến nay vốn dĩ chịu nhiều bất công.Là phận nhi nữ của ''truyền thống nho học'' , họ phải luôn gắn mình với những ''khuôn phép mẫu mực'', những đạo lý áp đặt trớ trêu mà lễ giáo phong kiến đã gây nên.Ở xã hội hiện đại ngày nay, những suy nghĩ ấy phần nào đã được đổi mới.Thế nhưng, thật xót xa khi ta ngoảnh đầu nhìn lại.Nhìn lại thân phận những người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội xưa, thật sự khiến ta phải giật mình thảng thốt.Ta có thể thấy, nền văn học đương thời cũng đã rất quan tâm đến mảng đề tài này, đó chính là tiếng lòng, tiếng thương cho số phận người phụ nữ - ''phường nữ nhi tầm thường'' trong xã hội lúc bấy giờ. Chúng ta có thể thấu hiểu hơn phần nào về số phận và phẩm chất của họ qua các bài thơ như: ''Bánh trôi nước'',''Tự tình II'' của bà chúa thơ Nôm - Hồ Xuân Hương.Hay qua tiếng tự trào cười ra nước mắt của Trần Tế Xương trong tác phẩm ''Thương vợ''.Đó là những lời thơ hiện thực sâu sắc, đồng thời cũng mang những ý nghĩa nhân văn hết sức lớn lao.
Thân phận của những người phụ nữ luôn gắn với những bi kịch.''Nhất nam viết hữu , thập nữ viết vô'' - trong chế độ phong kiến xưa, người phụ nữ luôn luôn bị khinh rẻ và bị cho là ''vô dụng'' , không làm được gì.Thân phận của họ giống như một món hàng không hơn không kém.Họ không thể làm chủ được cuộc đời của mình,buộc phải ''nhắm mắt đưa chân''...
''Bảy nổi ba chìm với nước non''.
Thật bấp bênh. Là thân phụ nữ , họ phải chịu cảnh ''bảy nổi ba chìm'' , lênh đênh, nổi trôi vô định.Ấy chính là thân phận ''bèo dạt'' của họ thời bấy giờ.Cuộc đời họ như một cuộc đánh cược, sung sướng hay khổ đau, họ không thể tự quyết định.Tất cả đều tùy thuộc vào duyên trời, như câu ca dao: ''Thân em như hạt mưa rào.Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày''.Hạt mưa rào, ngắn ngủi và buông mình rơi tự do vào khoảng không trơ trọi...
Thời phong kiến cũng chính là nơi không dành cho sự chung thủy.Ở đó, trai ''năm thê bảy thiếp'' là lẽ thường tình.Ấy vậy nên tình yêu son sắt thủy chung của người phụ nữ sẽ không được xem trọng.Ở đó, người phụ nữ để đạt được tình yêu đã khó, để giữ chúng cho riêng mình xem ra lại càng khó hơn.Thân phận vốn dĩ như một món hàng rẻ mạt, người phụ nữ không có quyền mưu cầu hạnh phúc cá nhân.Vậy nên những đêm ''tự tình'' trong thanh vắng như Hồ Xuân Hương có lẽ không hề hiếm ở xã hội ngày ấy. Hạnh phúc đối với họ như một món quà xa xỉ không thể với tới, không thể chạm tới.''Muốn hạnh phúc'' có lẽ vẫn chưa đủ, họ ''khao khát'', họ ''thèm thuồng'', họ ''cầu xin'' sự hạnh phúc. Thế nhưng, có được không ?
''Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn''
Tất cả đã ''xế''.Mọi vật đã ''tà''.Đã qua rồi cái tuổi xuân của người phụ nữ.Trăng cũng đã đoạn cái thời khắc sung mãn nhất, tròn đầy nhất.Vậy tại sao, trăng lại ''khuyết chưa tròn'' ? Hỡi ôi, ''tròn'' sao được khi niềm khao khát hạnh phúc mãnh liệt kia chưa được trọn vẹn. ''Tròn'' sao được khi mảnh tâm hồn vẫn đang ''khuyết'' tình yêu thương ? Phận làm lẽ cho người khác, chỉ được vỏn vẹn một ''mảnh tình'' , ấy vậy lại còn phải ''san sẻ tí con con''. Còn lại bao nhiêu trong niềm chua chát ấy ? Nghĩ mà thương.Ngẫm mà xót !
Trong xã hội mục nát ấy, thân phận họ rẻ rúng, tình yêu thương họ cầu xin, trong gia đình họ lại như tay, tớ.Người phụ nữ hiện lên trong tác phẩm ''Thương vợ'' của Trần Tế Xương là một hình ảnh tiêu biểu của số phận mà họ phải chịu thời bấy giờ.Người phụ nữ ấy tần tảo, lam lũ, chông chênh nơi ''mom sông'' , vất vả, cần cù dẫu ''năm nắng mười mưa'' vẫn ''dám quản công'' không nề hà, oán trách.''Thân cò'' yếu đuối ấy làm tất cả chỉ để ''nuôi đủ năm con với một chồng''. Có quá sức không ? Có kham nổi không ? Những người phụ nữ không có quyền trả lời những câu hỏi này.Họ xem đó như là nỗi đắng cay mà phận làm nhi nữ phải gánh, phải ''đành phận''. Ôi, bạc bẽo...
Tất cả những nỗi tủi nhục, bẽ bàng, vất vả kia chính là hệ quả mà xã hội phong kiến gây nên cho họ.Họ chính là nạn nhân của xã hội thối nát kia, chính nó đã giết đi quyền được làm người một cách đúng nghĩa, quyền được sống và mưu cầu hạnh phúc của người phụ nữ.Càng thương thân phận của những người phụ nữ bao nhiêu, ta lại càng căm ghét cái xã hội vô nhân kia bấy nhiêu.
Thế nhưng trân trọng thay, qua lớp bùn tanh ấy, ta mới thấy được sự tinh khiết của những đóa sen thắm hương. Xã hội có thể vùi dập cuộc sống của họ nhưng muốn vùi dập được nhân phẩm của họ ư ? Không thể !
''Thân em vừa trắng lại vừa tròn'' , ''Trơ cái hồng nhan với nước non'' - phận ''hồng nhan'' ấy lận đận giữa dòng đời.Họ là phái đẹp, đẹp không chỉ về hình thức, họ còn đẹp ở cả tâm hồn.
''Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.''
Một lời khẳng định hết sức mạnh mẽ và chắn chắn. Trong xã hội, họ không bao giờ được thể hiện chính kiến của mình. Nhưng ở đây, ta thấy được sự vươn mình trỗi dậy như ''cỏ mọc trên đá''.Có lẽ chỉ khi nói về ''đức hạnh'' thì họ mới có thể vững vàng khẳng định như vậy. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì họ vẫn hết mực ''giữ tấm lòng son'' của mình.
Phẩm chất của người phụ nữ cũng thể hiện ở đức tính cần cù, chăm chỉ. Ở tấm lòng yêu thương chồng con, lo lắng cho gia đình, luôn luôn ''lặn lội'' mưu sinh chẳng ngại khó khăn, gian khổ. Ấy chính là những phẩm chất đáng quý, đáng ngợi ca và trân trọng.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 28
Nhà văn Tô Hoài đã từng nói: “Mỗi chữ phải là hạt ngọc rơi xuống trang bản thảo.” Quả đúng như vậy. Văn chương đích thực phải là thứ văn chương “chín đủ cảm xúc”, cũng là thứ văn mà khi đọc lên, ta như thấy được cả thế giới tâm hồn, tình cảm của người cầm bút. Đó cũng là thứ văn chương mà khi gấp lại, người đọc vẫn bâng khuâng mãi khôn nguôi. Và thi phẩm “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương và "Thương vợ" của Tú Xương là một kiểu văn chương như thế. Nó khiến ta xúc động nghẹn ngào trước những tâm sự đắng cay của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến.
Trước hết, hình ảnh người phụ nữ hiện lên với những giá trị nhân cách cao đẹp qua bài thơ Tự tình. Mở đầu bài thơ là hình ảnh người phụ nữ không ngủ, ngồi một mình cô độc giữa đêm khuya:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Đêm khuya là khoảng thời gian lúc vạn vật chìm trong giấc ngủ, cũng là khoảng thời gian đặc biệt để con người đối diện với chính mình, để suy tư, trăn trở. Câu thơ gợi cho ta nhớ đến hình ảnh người chinh phụ mòn mỏi chờ chồng trong đêm khuya vắng:
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Trống canh dồn làm cho không gian trở nên quạnh vắng và không gian ấy làm con người trở nên cô đơn. Sự dồn dập của tiếng trống cầm canh hay cũng chính là sự cảm nhận về nhịp đi gấp gáp của thời gian. Trong sự dồn dập của tiếng trống, ta cảm nhận được sự rối bời, hốt hoảng của nhân vật trữ tình trước bước đi của thời gian. “Văng vẳng” là âm thanh từ xa vọng lại gợi nên một không gian tĩnh vắng khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, cô đơn.
Nỗi niềm buồn tủi chán chường ấy đã được thi sĩ trực tiếp miêu tả qua những từ ngữ gây ấn tượng mạnh:
“Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Cách sử dụng nghệ thuật đảo ngữ đưa từ “trơ” lên đầu câu thơ để nhấn mạnh sự tủi hổ, bẽ bàng của nhân vật trữ tình. Nhịp thơ 1/3/3 như đay nghiến, mỉa mai cho số phận hẩm hiu. Đặt “cái hồng nhan” bên cạnh “nước non” ta phần nào thấy được sự đối lập giữa một bên nhỏ bé, một bên bao la rộng lớn; một bên yếu ớt, một bên bao phủ choáng ngợp bốn phương. Tuy nhiên, sự đối lập ở đây không những không làm cho hình ảnh hồng nhan bị che khuất, bị lu mờ mà trái lại, nó càng tô dậm cho mối sầu vạn kỉ. Chữ “trơ” còn hàm chứa trong đó sự thách thức. Ta từng bắt gặp chữ “trơ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan:
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.”
Không những thế, “trơ” ở đây còn có nghĩa là chai lì. Đó là sự bướng bỉnh, ngang sức ngang tàng với cuộc đời, với nước non, hay đó cũng chính là bản lĩnh của người phụ nữ họ Hồ.
Cụm từ “cái hồng nhan” là một kết hợp từ rất độc đáo. “Hồng nhan” là một từ Hán Việt” mang sắc thái rất trang trọng, chỉ vẻ đẹp cũng như giá trị của người phụ nữ. Nhưng ở đây “hồng nhan” lại đi liền với từ “cái”- từ chỉ sự vật nhỏ bé, vô tri vô giác. Ý thơ gọi lên sự rẻ rúng về giá trị của người phụ nữ. Xuân Hương cất lên tiếng than cho thân phận má đào trong xã hội xưa, góp thêm một tiếng nói vào trào lưu văn học cuối thế kỉ XVIII.
Trong hoàn cảnh khổ đau, kiếp người tưởng như đã hóa đá, nhà thơ đã tìm đến rượu để quên đi nhưng bất lực.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
Càng tìm kiếm điểm tựa, sự đồng cảm thì càng thất vọng. Như thách thức số phận, nữ sĩ muốn “mượn rượu giải sầu”. Mượn rượu giải sầu dưới ánh trăng vốn là hình ảnh quen thuộc trong thi ca. Cụm từ “say lại tỉnh” như một vòng luẩn quẩn không lối thoát mà Xuân Hương bị cuốn vào. Chẳng biết tình yêu mà nhà thơ nhận được bao nhiêu mà giờ đây hương tình lẫn men rượu hòa vào nhau, khiến người con gái lúc say lúc tỉnh. Rốt cuộc là say tình hay say rượu? Là tỉnh, hay mê? Dường như cuộc đời người phụ nữ chỉ chìm đắm trong chuỗi ngày tẻ nhạt cùng với tâm trạng u uất. Câu thơ chợt khiến ta nhớ đến Thúy Kiều đáng thương, nàng cũng từng bị giam cầm trong chuỗi thời gian vô vị ấy:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”
Hai con người, hai thân phận khác nhau nhưng lại cùng chung một hoàn cảnh. Rượu hồng giải quyết được gì? Để rồi người phụ nữ bất hạnh ấy lại phải tìm đến trăng nhưng đau đớn thay đó lại là một vầng trăng lạnh, một vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
Tìm đến trăng để khao khát sự đồng cảm mãnh liệt nhưng trăng lại chiếu soi vào cuộc đời bà khiến nữ sĩ thấy hình ảnh chính mình ở trong đó. Hình ảnh vầng trăng “khuyết chưa tròn” có lẽ là hình ảnh ẩn dụ hơn là hình ảnh tả thực. Trăng thường gợi tả kỉ niệm, gợi sự viên mãn, hạnh phúc lứa đôi. Bao cuộc tình thủy chung, nồng thắm đều diễn ra dưới ánh trăng:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.”
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ở câu thơ tạo nên sự đồng cảm giữa con người với thiên nhiên. Tuối xuân của con người đã trôi qua nhưng tình duyên vẫn không trọn vẹn. Thế mới nói, mượn rượu tiêu sầu, sầu thêm sầu; mượn cảnh tả tình, tình càng đau. Có lẽ, đó chính là tâm trạng của Xuân Hương lúc bấy giờ.
Nhưng dù có xót xa, thất vọng, chán chường đến mức nào, thì Hồ Xuân Hương vẫn là một người phụ nữ đầy bản lĩnh. Và sự đau khổ ấy càng khiến cho nữ sĩ mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
Nghệ thuật đảo ngữ đưa động từ mạnh “xiên, đâm” lên đầu câu thơ diễn tả sự ngang ngạnh, bướng bỉnh, phá phách của thiên nhiên. Đám rêu mềm yếu mà cũng không mềm yếu, chúng bứt phá khỏi lớp đất dày. Đá dù mấy hòn nhưng cũng muốn đâm toạc chân mây. Đó cũng là hình ảnh ẩn dụ cho cái tôi khao khát bứt phá giới hạn của người phụ nữ, muốn xé toạc cái thành kiến của xã hội để tự khẳng định mình. Tính cách này còn được nữ sĩ thể hiện ở một bài thơ khác:
“Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài.”
Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ luận còn làm nổi bật sự vùng lên, phá ngang của thân phận đất đá cỏ cây, cũng là sự phẫn uất của tâm trạng. Nữ sĩ như đang vạch đất vạch trời để hờn oán, cũng diễn tả nỗi bất công của người phụ nữ. Qua đó ta thấy được một Hồ Xuân Hương mang khát vọng hạnh phúc mãnh liệt.
Đến hai câu cuối bài thơ, cả nỗi đau trần thế như dồn tụ lại đáy lòng một người đàn bà cô đơn, khao khát được sống trong hạnh phúc, được làm vợ, làm mẹ như bao người phụ nữ khác. Nhưng hồng nhan thì bạc mệnh! Đêm càng về khuya, người phụ nữ ấy không thể nào ngủ được:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con.”
“Ngán” ở đây là chán ngán, là ngán ngẩm. Nữ sĩ đã mệt mỏi trước thân phận éo le, bẽ bàng, muốn buông bỏ. Nghệ thuật lặp từ được sử dụng hiệu quả trong câu thơ. Từ “xuân” được đặt trong câu thơ mang hai ý nghĩa: mùa xuân và tuối xuân. Mùa xuân của đất trời theo tuần hoàn lặp lại, còn đối với người phụ nữ, tuối xuân sẽ mãi ra đi. Trong tình cảnh này, lòng người càng thêm chán ngán. Thêm một mùa xuân là lại thêm một nỗi buồn lớn hơn:
“Ngày xuân tuổi hạc càng cao
Non xanh nước biếc càng ngao ngán lòng.”
(Nguyễn Khuyến)
Hay trong thơ của mình, ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng từng viết:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thẳm lại.”
Thời gian luôn là nỗi ám ảnh trong thơ Hồ Xuân Hương. Vì vậy, đây là lần thứ ba bà nói đến thời gian. Bởi lúc này, tuổi xuân của nữ sĩ đã trôi xa nhưng hạnh phúc vẫn xa vời, vẫn ngoài tầm tay với, vẫn chưa một lần tròn trịa viên mãn. Và Xuân Hương đã cảm nhận sự chảy trôi của thời gian với bao xót xa tiếc nuối.
Câu thơ cuối với thủ pháp nghệ thuật tăng tiến được sử dụng rất tài tình nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn. Mảnh tình đã bé lại còn phải “san sẻ” cho nên cái nhận được lại càng ít ỏi. Còn một “tí” rồi lại “con con” cho nên càng xót xa tội nghiệp. Âm điệu, nhịp điệu câu thơ giống như một tiếng thở dài buông xuôi. Và đằng sau tiếng thở dài ngao ngán ấy là niềm ao ước mãnh liệt của nhân vật trữ tình về tình yêu và hạnh phúc. Hai câu thơ có thể được viết lên từ tâm trạng của một người gặp nhiều trắc trở, éo le trong tình duyên. Hai lần lấy chồng, hai lần làm lẽ, hai lần chồng mất sớm. Câu thơ là tâm trạng cũng như cảnh ngộ của nữ sĩ, càng khao khát hạnh phúc, càng thất vọng; mơ ước càng lớn, hiện thực càng mong manh.
Không chỉ vậy, người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến còn biết chăm lo cho gia đình mà không quản nắng mưa. Điều đó đã được Tú Xương thể hiện thành công qua tác phẩm "Thương vợ"
Mở đầu tác phẩm, Tú Xương giới thiệu về hoàn cảnh và công việc mưu sinh của bà Tú, qua đó bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với người vợ tảo tần sớm mai của mình:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
Mạch cảm xúc của thi phẩm dần dần mở ra với bức tranh toàn cảnh đầy nỗi khó nhọc, lo toan của bà Tú. Ông Tú tỏ lòng thương vợ bắt đầu bằng sự tính công. Có thời gian cụ thể: “quanh năm”; không gian cụ thể: “mom sông” càng làm nổi bật lên sự lam lũ, vất vả quần quật của bà Tú. Nơi buôn bán để kiếm miếng cơm manh áo của bà Tú là “mom sông”- là một chỗ đất nhô ra ở bờ sông, nơi ít người qua lại, sóng nước gập ghềnh gợi sự cheo leo, chênh vênh, nhiều bất trắc. Thế nhưng “quanh năm” nghĩa là ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác như một vòng tuần hoàn khép kín, dù ngày nắng hay mưa,ốm đau hay khỏe mạnh bà Tú lại quẩy quang gánh ra nơi “mom sông” ấy để buôn bán. Và điều cảm động, đáng để khâm phục bà Tú là nhịp độ làm việc không ngừng nghỉ tai một nơi làm ăn, buôn bán khó khăn nhưng không phải chỉ để nuôi thân mà “Nuôi đủ năm con với một chồng’. Đâu còn thấy hình ảnh:
“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”.
Mà trái lại đó là loại chồng: “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm”, loại chồng “Thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”. Người chồng là trụ cột của gia đình, gánh vác việc nặng nhọc để cưu mang cuộc sống cho vợ con vậy mà ở đây, trong câu thơ này ông Tú cảm thấy mình như một người “thừa”, một kẻ vô dụng, một đứa con dại phải nuôi. Tú Xương kể công vợ bằng cách tự “xếp hàng” cùng các con để đếm. Số từ “năm, một” cho thấy bà Tú nuôi ông cũng ngang với nuôi năm đứa con, thậm chí còn vất vả hơn, bởi ông Tú không chỉ ăn no uống say, mặc lành mặc ấm mà còn phải diện đẹp, tiêu pha, phải đầy đủ cho các thú phong tình. Liên từ “với” tạo nên thế cân bằng giữa ông và năm đứa con. Ta thấy sự mỉa mai, chế giễu chính mình của Tú Xương: mình cũng trở thành gánh nặng của vợ. Cách dùng từ “nuôi đủ” rất độc đáo. Nuôi đủ là không thiếu không thừa, càng làm bật lên sự vất vả tần tảo của bà Tú. Có thể nói, bà Tú “nuôi đủ” cho Tế Xương không chỉ chu toàn cho ông “chăn ấm, nêm êm” mà còn lo cho ông đủ thứ cao sang tốn kém khác để khiến ông phải nở mày nở mặt vì suy cho cùng, Tế Xương vẫn là một tú tài, là người có chí thi cử công danh:
“Biết thuốc lá, biết chè tàu,
Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi.”
Hay:
“Hôm qua anh đến chơi đây,
Giày “giôn” anh dận, “ô Tây” anh cầm.”
Hai câu đề mở đầu thi phẩm tuy chỉ gói gọn trong mười bốn chữ nhưng đã thể hiện được tất cả những đức tính cao đẹp nơi bà Tú với sự chịu thương chịu khó, tần tảo không quảng nắng mưa để chu toàn mọi việc trong gia đình. Qua đó còn thể hiện sự biết ơn, trân trọng, ngưỡng mộ của Tú Xương dành cho vợ.
Thấu hiểu được những nỗi lo toan, vất vả của người vợ vĩ đại của mình, Tú Xương liên tưởng đến hình ảnh con cò năm xưa để cực tả nỗi khổ tâm mà bà Tú đang trải qua trong hai câu thực:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Hình ảnh con cò trong lời thơ của Tú Xương gợi đến hình ảnh quen thuộc, thường gắn với số phận, cảnh ngộ của người phụ nữ trong những câu ca dao xưa:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.”
Hay
“Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.”
Từ cái cò, con cò trong ca dao đã trở thành “thân cò” trong thơ Tú Xương. “Thân cò” chất chứa sự cảm thông, chia sẻ truớc nỗi đau thân phận. Hơn thế nữa, thân cò không chỉ rợn ngợp, bé nhỏ trước bờ sông heo hút hay trong đêm tối mênh mông mà còn heo hút rợn ngợp trước cả hai chiều không gian và thời gian. Bởi “quãng vắng” là chỉ không gian nhưng “khi quãng vắng” lại hàm chứa cả thời gian. Nghệ thuật đối “khi quãng vắng- buổi đò đông” nhấn mạnh hơn vào nỗi vất vả, cực nhọc, gian truân của bà Tú. Bà Tú tuy xuất thân là “con gái nhà dòng” nhưng cũng phong trần, lấm láp như ai, ngày ngày lặn lội, bươn chải để nuôi chồng nuôi con.
Nếu như câu thơ thứ ba gợi nỗi cực nhọc đơn chiếc thì câu thơ thứ tư lại là sự vật lộn đầy cam go của bà Tú giữa thời buổi mua bán đông đúc:
“Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Một lần nữa, biện pháp nghệ thuật đảo ngữ lại được sử dụng trong lời thơ của Tú Xương. Đưa từ láy “lặn lội” và “eo sèo” lên đầu câu thơ giúp người đọc như nghe rõ được âm thanh của tiếng bước chân lội nước trong không gian vắng lặng cũng như tiếng kì kèo tranh mua tranh bán của buổi đò đông. Càng thương hơn bởi âm h ưởng nức nở dội về từ câu ca dao xưa:
“Con ơi nhớ lấy câu này
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.”
Bằng cách đảo những từ láy hô ứng vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu cảm “lặn lội”, “eo sèo” lên đầu câu thơ kết hợp với hai hình ảnh đối nhau rất chỉnh “khi quãng vắng”– “buổi đò đông”, hình tượng người vợ đã hiện lên với tất cả niềm tự hào của nhà thơ.
Đến với những câu thơ tiếp theo, Tú Xương như nhập vai vào chủ thể trữ tình nhằm mượn lời tâm sự của vợ để ngầm ca ngợi những công lao âm thầm vì chồng vì con mà bà Tú đang gồng gánh trên vai:
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.”
Theo quan niệm phong kiến xưa, “duyên” và “nợ” là hai định nghĩa hết sức thiêng liêng về mối quan hệ vợ chồng do trời định sẵn, xuất phát từ số phận, từ sợi chỉ hồng của ông Tơ bà Nguyệt:
“Kiếp người sao mãi long đong,
Ông tơ bà Nguyệt chỉ hồng se duyên”
Thế nhưng khi đi vào lời thơ của một bậc thức giả dày dặn kinh nghiệm như Tú Xương, định nghĩa đó dường như đã đánh mất đi tính chất quyền quý của mình mà trở nên nặng nề vô cùng như một lời than thở khi “duyên” thì chỉ có một mà “nợ” lại hai:
“Một duyên, hai nợ, ba tình,
Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh”.
Bên cạnh đó, cách sử dụng hai thành ngữ xưa song song với nhau “Một duyên hai nợ”- “năm nắng mười mưa” vừa đối nhau về từ: một- hai, năm- mười, vừa đối nhau về ý, không những khiến cho nhạc thơ bỗng trầm lắng trước nỗi khổ tâm chồng chất ngày một dâng lên theo cấp số nhân mà còn thể hiện rất rõ tài năng văn chương điêu luyện của thi sĩ. Có thể nói, dẫu có khó khăn muôn trùng, chông gai trước mắt, “nợ” nghiêng về mình nhưng bà Tú chưa một lần chùn bước mà chỉ gật đầu nhẫn nhục cho qua. Quả là một người mẹ, người vợ giàu đức hi sinh!
Từ việc pha trộn lời thơ đan xen những thành ngữ cùng với các phép đảo ngữ được sử dụng rất tinh tế, nhà thơ Tú Xương đã khắc họa thành công tấm chân dung một người vợ kết tinh đầy đủ đức hi sinh, sự nhẫn nại, sự tần tảo chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Qua đó, ông còn ngầm ý bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người vợ thân thương của mình khi bà đã quên đi cái tôi mà gánh vác hết mọi trách nhiệm của một trụ cột trong gia đình. Thật vậy:
“Có con phải khổ vì con,
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.”
“Thơ là tiếng lòng”. Và tiếng lòng cả Tú Xương đã được ông bộc lộ rõ nhất qua hai câu thơ kết. Vì quá thương vợ, quá thương cho phận đời nữ nhi mà lại sắm vai trụ cột, Tú Xương tự trách bản thân mình và thông qua đó cũng nói lên tiếng chửi vừa đắng cay vừa phẫn nộ cho định kiến khắt khe “trọng nam khinh nữ” đã biến ông thành một kẻ vô tích sự :
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Mạch cảm xúc của thi phẩm dường như có sự chuyển biến đột ngột khi giờ đây, Tú Xương không còn “ẩn mình” sau những vần thơ để tán dương vợ nữa mà ông đã chịu xuất hiện để nói thay cho sự oán trách chồng, trách phận của bà Tú. “Cha mẹ thói đời” thật là một cách nói có phần thô cứng, nhưng lại rất phù hợp với phong cách thơ ca trào phùng của thi sĩ. Đó là sự giận đời, hận đời vì cái xã hội “Tây tàu lố lăng” lúc bấy giờ không cho phép ông san sẻ gánh nặng gia đình cùng vợ. Không phải lần này ông Tú mới chửi như thế. Trong bài “Gặp người ăn xin”, ông cũng từng cất tiếng chửi:
“Người đói ta đây cũng chẳng no
Cha thằng nào có tiếc không cho.”
Tú Xương chửi đời nhưng cũng tự chửi mình, tự chửi cái thói sĩ diện của một đấng nam nhi đang trên đường công danh, thói gia trưởng chỉ biết ngồi than vãn sự đời. Tú xương coi mình như kẻ vô tâm, “ăn ở bạc” với vợ con, luôn luôn “hờ hững” trong trách nhiệm và vai trò của một kẻ làm cha, làm chồng. Nhưng nguyên nhân đằng sau chính là xã hội lem luốc kia đã đẩy ông vào bước đường cùng khiến cho người vợ vốn thuộc dòng dõi cao quý phải chịu khổ. Đau đớn thay:
“Con gái nhà dòng lấy chồng kẻ chợ
Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ”
(Văn tế sống vợ – Trần Tế Xương)
Hai câu thơ khép lại tác phẩm là lời tự rủa mát mình của Tú Xương nhưng lại mang đậm ý nghĩa lên án xã hội sâu sắc góp phần khẳng định tình cảm của ông đối với bà Tú là vô bờ bến. Người chồng ấy tuy “ăn lương vợ” nhưng không hề ở bạc, hờ hững mà rất chu đáo, luôn dõi theo từng bước đi của bà trên đường đời và đặc biệt là luôn bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với vợ. Thi phẩm kết thúc thật bất ngờ: vừa thấm đượm cái bi, cái bất hạnh trong niềm riêng của tác giả, lại vừa dí dỏm, hài hước.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 29
Thần thoại Hi Lạp kể lại rằng: Thượng đế đã lấy vẻ đầy đặn của mặt trăng, đường uốn con của loài dây leo, dáng run rẩy của loài có hoa, nét mềm mại của các loài lau cón, màu rực rỡ của nhị hoa, điệu nhẹ nhàng của những chiếc lá,… để tạo nên vẻ đẹp của người phụ nữ. Thật nghịch lí rằng người phụ nữ lại phải chịu bao bất hạnh đắng cay dù họ là tinh túy của đất trời, vũ trụ. Vì lẽ đó, hình tượng người phụ nữ luôn là ám ảnh tâm hồn của những người nghệ sĩ. Theo dòng chảy của thời gian, ta nhớ mãi những câu ca than thân, bài thơ “Bánh trôi nước” , “Tự tình” của Hồ Xuân Hương và “Thương vợ” của Tú Xương. Qua ba tác phẩm, ta phần nào thấy được những bi kịch, thiệt thòi, bất công và vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ Việt Nam.
Nhắc đến Hồ Xuân Hương, người ta thường nhắc đến bà Chúa thơ Nôm, nữ sĩ nổi loạn. Nổi bật trong sáng tác của Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm với người phụ nữ, là sự đề cao, khẳng định vẻ đẹp của họ. “Bánh trôi nước”, “Tự tình” là hai bài thơ tiêu biểu cho thân phận người phụ nữ trong xã hội thời xưa. Còn nói đến Tú Xương, người ta thường hay nói tới ông Hoàng của thơ Nôm – một trong những đại diện xuất sắc nhất trong văn học trung đại Việt Nam. Trong sáng tác của ông có hẳn một đề tài về người vợ rất phong phú về thể loại gồm văn, thơ, câu đối. Trong đó, “Thương vợ” là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất viết về đề tài người phụ nữ. Qua bài thơ, ta phần nào thấy được nỗi nhọc nhằn, vất vả cùng vẻ đẹp tâm hồn bà Tú – hình mẫu lí tưởng, đại diện cho người phụ nữ Việt Nam.
Người phụ nữ Việt Nam đã hiện lên qua nhiều câu thơ với hình ảnh người phụ nữ chịu nhiều bất hạnh, đắng cay. Đầu tiên, ta phải kể đến đó là “Bánh trôi nước” – bài thơ tiêu biểu cho thân phận “ba chìm bảy nổi” của người phụ nữ:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Với những vẻ đẹp như vậy, đáng lẽ ra người phụ nữ phải được sống một cuộc sống hạnh phúc. Nhưng không, họ phải chịu nhiều những đắng cay, uất ức. Họ không làm chủ được số phận, không tự quyết định được hạnh phúc của mình, thân phận chìm nổi lênh đênh. Trong xã hội phong kiến, với quan niệm trọng nam khinh nữ, người đàn bà luôn bị nhào nặn, xô đẩy cũng như những câu ca dao than thân xưa kia:
Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
Không làm chủ được số phận của mình, duyên phận bẽ bàng, hạnh phúc dở dang, điều này được thể hiện rõ ràng qua bài thơ “Tự tình” (Hồ Xuân Hương). Tuy xuân sắc vẫn còn, xuân tình chưa cạn nhưng người con gái chịu cảnh lẻ loi, không kẻ đoái hòa, quan tâm:Trơ cái hồng nhan với nước non. Cô đơn, buồn tủi, thi sĩ đã dùng rượu để giải sầu nhưng trớ chêu thay, càng uống lại càng tỉnh trơ ra. Tìm đến rượu, thi sĩ chỉ còn biết tâm sự với trăng – người bạn tri kỉ muôn đời của những tâm hồn cô đơn, sầu tủi. Nhưng rồi thi sĩ cũng chỉ thấy: Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn. Vầng trăng nhạt nhòa như đồng điệu với tâm hồn của người nữ sĩ. Tuổi xuân đã sắp trôi qua, cuộc đời sắp sửa xế bóng mà tình yêu vẫn dang dở, chưa một lần chọn vẹn. Bi kịch chồng chất, nối tiếp nhau. Dù có vùng vẫy tìm mọi cách thoát khỏi bi kịch nhưng bi kịch vẫn đeo bám cuộc đời nữ sĩ. Chính vì vậy mà bài thơ Tự Tình cuối cùng vẫn kết lại trong tâm trạng chán trường, ngao ngán:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Không ngao ngán, chán trường sao được khi mùa xuân của đất trời cứ trở đi, trở lại nhưng còn tuổi trẻ tình yêu thì một đi không trở lại. “Mảnh tình” đã nhỏ bẻ mong manh lại san sẻ thành ra ít ỏi. Cuối cùng chỉ còn có một tí con con, có cũng như không. Đó là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa khi với họ, hạnh phúc là chiếc chăn quá hẹp: Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Người phụ nữ Việt Nam không chỉ chịu nhiều đắng cau, uất ức mà họ cũng phải lam lũ, vất vả, nhọc nhằn để nuôi chồng con. Điều này đã được thể hiện rõ ràng qua lăng kính đầy yêu thương của Tú Xương trong bài thơ “Thương vợ”:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quẵng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò Đông.
Bà Tú hiện lên với hình ảnh người phụ nữ buôn bán nơi đầu sông cuối chợ, chỗ mom sông để kiếm đủ tiền, nuôi đủ “năm con với một chồng”. Buôn bán ở chốn ấy là hàng ngày phải đối mặt với nguy hiểm. Thấu hiểu phần nào nỗi cơ cực, nhọc nhằn của người vợ, Tú Xương đã đồng điệu thân cò với người bà Tú:
Lặn lội thân cò khi quẵng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò Đông
Bắt nguồn từ cao dao, dân ca nhưng Tú Xương vẫn có sáng tạo rất tinh tế. Ca dao nói theo chiều thuận « thân có lặn lội » Tú Xương lại đảo ngược « lặn lội thân cò ». Ca dao đặt hình ảnh cái cò trong không gian vắng lặng, lộng gió thì Tú Xương để « thân cò » trong không gian, thời gian khi quẵng vắng, mênh mông, heo hút, rợn ngợp. Eo sèo mặt nước buổi đò Đông. Câu thơ gợi lên cảnh buôn bán chen chúc, xô đẩy nhau trên con thuyền mỏng manh, chênh vênh, cheo leo. Vì chồng, vì con, bà Tú bất chấp hiểm nguy, quên đi lời dặn dò ân cần của cha mẹ thuở nào: Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ đi. Những câu thơ thể hiện phần nào nỗi vất vả, cơ cực, khó khăn, nhọc nhằn của người phụ nữ Việt Nam thời xưa kia.
Tuy chịu nhiều lam lũ, vất vả, nhọc nhằn, những người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ trong mình vẻ đẹp tâm hồn cao đẹp. Đó là tấm lòng son sắt, thủy chung, cao khiết: Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Thêm vào đó là bản lính mạnh mẽ, cứng cỏi, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh của người con gái:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đấm toạc chân mây đá mấy hòn
Nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với những động từ, tính từ mạnh đã làm đặc tả sự phản kháng mãnh liệt, dữ dội đến mức như muốn “nổi loạn” của tâm hồn nữ sĩ. Hai câu luận mang đậm dấu ấn, bản lĩnh Xuân Hương: đó là một cá tính mạnh mẽ, táo bạo, không bao giờ chịu gục ngã trước hoàn cảnh, không bao giờ cúi đầu trước số phận. Hơn nữa, hai câu thơ không làm cho lòng người yếu mềm, bi lụy mà trái lại nó có sức cổ vũ người phụ nữ đứng dậy trong bi kịch của đời mình. Họ không chỉ thủy chung, son sắt cùng bản lĩnh kiên cường mà còn là người tần tảo, chịu khó, hi sinh vì chồng vì con của mình:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Phép đếm « một …hai…năm…mười » như sự cơ cực, cay đắng chồng chất mà bà Tú phải gánh chịu. Dẫu thế, bà Tú nào có oán trách, kêu ca. Từng trải, hiểu đời, thương chồng, yêu con, trước sau bà Tú vẫn giữ đúng đạo nghĩa vợ chồng. “Âu đành phận”, “dám quản công”, đó không phải là sự cam chịu mà là thái độ bình thản, mãnh liệt, quyết liệt. Dù khó khăn, nhọc nhằn thế nào, bà Tú vẫ tự nguyện hi sinh vì chồng, vì con. Vậy là, bức chân dung của bà Tú – một người hình mẫu lí tưởng cho người phụ nữ Việt Nam đã hoàn thiện trong nét vẽ yêu thương, kính trọng của Tú Xương. Bà Tú tiêu biểu cho những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt : đảm đang, tháo vát, tảo tần, chịu thương, chịu khó, hết lòng yêu thương chồng con. Đến đây, ta bỗng hiểu vì sao không chỉ có ông Tú mà bao thế hệ bạn đọc luôn yêu kính bà Tú.
Tóm lại, “Bánh trôi nước”, “Tự tình” của Hồ Xuân Hương và “Thương vợ” của Tú Xương, mỗi bài thơ một cảnh ngộ, một nối niềm nhưng các tác phẩm đều khiên chúng cảm thương trước thân phận người phụ nữ, thêm trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của họ. Chính sự gặp gỡ trong cảm xúc nhân văn đẹp đẽ của các nhà văn, nhà thơ đã tạo nên sức lâu bền của tác phẩm trong tâm trí người đọc.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ - Bài văn mẫu số 30
Trong xã hội phong kiến xưa, người phụ nữ luôn hiện lên trong những trang văn thơ với số phận không mấy êm đềm nhưng luôn toát lên những vẻ đẹp đức hạnh truyền thống đó là vẻ đẹp của sự son sắc, lòng hi sinh, niềm khát khao hạnh phúc mà cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không lay chuyển. Đọc những tác phẩm thơ Bánh trôi nước, Tự tình (bài II) của Hồ Xuân Hương và bài Thương vợ của Trần Tế Xương, ta lại càng thấm thía hình ảnh những người phụ nữ trong xã hội Việt Nam cũ.
Trong bài “Bánh trôi nước”, Hồ Xuân Hương đã mượn một câu thành ngữ để miêu tả rất đúng về thân phận của một người phụ nữ trong xã hội cũ như bà:
Bảy nổi ba chìm với nước non
Chỉ một câu thôi nhưng ta cũng phần nào hình dung ra thân phận nổi đênh, bấp bênh vô bến đỗ của những người con gái. Mỗi người phụ nữ sẽ hứng chịu những nỗi khổ khác nhau cho dù họ ở thân phận nào đi nữa, đã sinh ra là phận con gái thì mấy ai được sống trong êm đềm mà hầu hết là chịu cảnh nổi chìm trong sóng dập gió vùi. Nếu đối với Hồ Xuân Hương, “bảy nổi ba chìm” là hạnh phúc không trọn vẹn:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
thì ở Bà Tú, “bảy nổi ba chìm” là sự vất vả với gánh nặng chồng con:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Ở đây, Tú Xương đã bày tỏ sự thấu hiểu sự vất vả của vợ khi ông xem mình là một đứa con lớn, một gánh nặng bên vai của vợ. Người vợ tần tảo của ông chả khác nào “thân còn lặn lội” vất vả, nổi đênh, chịu khó, chịu khổ vì chồng vì con.
Nhưng đâu chỉ những khổ đau ấy, trong xã hội phong kiến xưa, người phụ nữ không có cho mình quyền làm chủ mà phải luôn luôn giữ mình tuân theo khuôn khổ của “tam tòng”, tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử mà đôi khi bị những thế lực xấu xa trong xã hội bất công bằng đưa đẩy khiến cho họ bị vùi dập, khổ đau. Họ không có cho mình được một tiếng nói riêng nên khi họ phải chịu khổ hạnh, cũng không có ai lắng nghe tiếng kêu than của họ. Cuộc sống của những người phụ nữ ấy chỉ có thể là phụ thuộc, cuộc sống của họ ra sao, không hề do họ quyết định và họ cũng không hề có quyền gì trong cuộc đời mình, vậy nên Hồ Xuân Hương mới nói:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Nếu những người phụ nữ chịu trong mình khổ đau nhưng được mình làm chủ cuộc đời mình, có lẽ số phận họ cũng không rơi vào những hố sâu vực thẳm. Nhưng họ đâu có quyền để làm chủ, người khác đã tước mất quyền ấy, xã hội và chế độ nam quyền đã cho phép những thế lực xấu ngang nhiên đưa tay ra bóp méo cuộc đời của những người phụ nữ. Số phận của họ hoàn toàn phụ thuộc vào tay kẻ khác, một số phận đáng lo ngại mà biết bao thiếu nữ vừa mới lớn đã ý thức sâu sắc:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Hay:
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài cát, hạt sa ruộng cày
Đến tương lai cũng dường như mờ mịt đối với người phụ nữ và cơ hội được hạnh phúc không chỉ mong manh mà còn hoàn toàn phụ thuộc vào may mắn rơi vào tay của kẻ bạo tàn hay người chính khách.
Số phận hẩm hiu là vậy, sinh ra đã mang thân phận “hồng nhan bạc mệnh” nhưng ở họ, ta vẫn luôn nhận ra sự bao bọc của vầng hào quang sáng lóa của những vẻ đẹp truyền thống đáng ngợi ca. Đầu tiên, họ đều có vẻ đẹp ngoại hình:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Để rồi bên trong một lớp bọc dịu dàng xinh xắn là những nét đạo đức không bao giờ phai, Hồ Xuân Hương đã lên tiếng khẳng định rằng cho dù hoàn cảnh số phận có đẩy đưa những người phụ nữ vào tận cũng của nỗi đau, cho dù nhân dạng của họ có trải qua dầm sương giãi nắng hay rơi vào tay những kẻ tàn nhẫn thì ở họ vẫn lưu lại phần hồn, phần cốt cao quý:
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
“Lòng son” ở đây là son sắc, thủy chung, tấm lòng đức hạnh cao quý, vẻ đẹp tâm hồn trong sạch, thuần khiết và là điều đẹp đẽ nhất ở tấm lòng người phụ nữ. Ở họ còn có đức hi sinh cao cả, cho dù bản thân mình có chịu nhiều khổ cực đến đâu vẫn cam chịu, vẫn sống một lòng vì gia đình, vì chồng, vì con:
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Có thể nói, đức tính hi sinh cho gia đình chính là một trong những đức hạnh truyền thống vĩ đại của những người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay.
Người phụ nữ vì đau khổ, vì số phận không được như ý nhưng họ chưa bao giờ nguôi khát khao được hạnh phúc. Cho dù có bao nhiêu sóng gió xảy ra cho họ, đến cuối cùng, còn lại ở họ vẫn là những khát khao được một ngày vươn tới hạnh phúc, thậm chí vì những hạnh phúc lớn lao ấy, họ sẵn sàng “chiến đấu” với đất trời để hiên ngang mạnh mẽ mà đứng lên:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Có thể gọi táo bạo là nét cá tính ở Hồ Xuân Hương, một khát khao vượt thoát thực tại tù túng nổi lên trên từng câu từng chữ để bộc lộ khát khao tự do, khát khao kiếm tìm đến những chân trời hạnh phúc. Những người phụ nữ ấy thật đáng được trân trọng và yêu thương.
Qua những bài thơ trên, hình ảnh về người phụ nữ trong xã hội cũ được bộc lộ và được tô đậm hơn bao giờ hết về số phận của họ, những số phận khổ đau theo những cách khác nhau nhưng luôn thống nhất ở một vẻ đẹp đức hạnh không bao giờ chuyển lay.