Dàn ý mẫu số 1
I. Mở bài
- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.
- Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.
II. Thân bài
1. Ý nghĩa nhan đề
“Vợ nhặt”: nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.
2. Tình huống truyện
- Tình huống: Tràng - một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không.
- Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hoàn cảnh của Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ ngợ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.
- Tình huống éo le: hoàn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) không cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau.
3. Nhân vật Tràng
- Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, ..., bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, ...
a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
- Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
- Lần gặp 2:
+ Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.
b. Trên đường về
+ Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, ... Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.
+ Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
c. Khi về đến nhà
+ Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
+ Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
+ Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
+ Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy
+ Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, ...), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
+ Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
- Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
4. Nhân vật người vợ nhặt
a. Lai lịch
- Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.
b. Chân dung
- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
- Lần thứ hai:
+ Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
+ Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ ... cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
- Nhận xét: Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.
c. Phẩm chất
- Có khát vọng sống mãnh liệt:
+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
+ Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:
+ Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
+ Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
+ Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.
- Nhận xét: Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
- Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
- Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.
5. Nhân vật bà cụ Tứ
- Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
- Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.
- Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoà đi”: thương cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, ...
- Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.
III. Kết bài
- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
-Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.
Dàn ý mẫu số 2
a) Mở bài
- Giới thiệu vài nét về Kim Lân:
+ Kim Lân (1920 - 2017) là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX với đề tài chủ yếu về nông thôn và người nông dân Việt Nam trước cách mạng.
- Giới thiệu khái quát về truyện ngắn Vợ nhặt:
+ Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân viết về người nông dân trong nạn đói thê thảm năm 1945 với những bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu.
b) Thân bài
* Hoàn cảnh sáng tác
- Vợ nhặt in trong tập Con chó xấu xí (1962) có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (năm 1954), tác giả dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn này.
* Luận điểm 1: Giải thích ý nghĩa nhan đề và tình huống truyện.
- Ý nghĩa nhan đề:
+ Vợ: biểu tượng cho tổ ấm, hạnh phúc gia đình, mang ý nghĩa trọng đại và lớn lao
+ Nhặt: hành động rẻ rúng, tầm thường
-> “Vợ nhặt” nghĩa là nhặt được vợ, thể hiện giá trị hiện thực của truyện : sự rẻ rúng, bèo bọt của thân phận con người, tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói 1945.
- Tình huống truyện: Trong bối cảnh thê thảm của nạn đói 1945, Tràng - một người xấu trai, nghèo khổ, sống ở xóm ngụ cư, tính ngốc ngếch, vì nghèo mà không lấy được vợ nhưng bỗng dưng “nhặt” được vợ (theo về không).
=> Tình huống vừa éo le, vừa độc đáo, bất ngờ nhưng cũng hết sức hợp lí, thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
* Luận điểm 2: Vẻ đẹp của nhân vật Tràng
+) Xuất thân: con nhà nghèo, nhà có hai mẹ con, là dân xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe thuê.
+) Ngoại hình: xấu xí, “dáng người thô kệch, cái cười khềnh khệch”, “lưng Tràng như con gấu”, “quai hàm bạnh ra”
+) Diễn biến tâm lí:
- Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ:
+ Lần gặp 1: Tràng hò đùa chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
+ Lần gặp 2:
· Bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì -> hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
· Người đàn bà quyết định theo mình về: Lúc đầu, Tràng lo sợ “chợn nghĩ” nhưng rồi tình yêu thương, khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn tất cả, Tràng lại tặc lưỡi: "chậc kệ”.
· Tràng đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ -> Tràng nghiêm túc, chu đáo trước quyết định lấy vợ.
- Trên đường về nhà
+ “vẻ mặt có cái gì đó phớn phở”, “hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười nụ một mình”, “mắt sáng lên lấp lánh”, “cái mặt vênh lên tự đắc với mình” -> niềm hạnh phúc, vui sướng như càng nhân lên gấp bội.
+ Tràng mua dầu về thắp để căn nhà trở nên sáng sủa.
=> Tràng trở thành một con người hào phóng, quên đi hết những cay cực tăm tối trên đời.
- Khi về đến nhà
+ Xăm xăm bước vào dọn dẹp, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà.
-> Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
+ Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
+ Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện. -> Biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa ngay cả trong hoàn cảnh nghèo đói
+ Thưa chuyện với bà cụ Tứ một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp.
+ Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
- Sáng hôm sau:
+ thấy “êm ái lửng lơ như người trong cõi mơ đi ra”
+ “cảm động, thấy yêu thương, gắn bó và thấy mình phải có trách nhiệm với cái gia đình này”
-> Tràng là một người có tâm hồn thuần hậu, hiền lành, chất phác, tâm hồn lạc quan, yêu đời, tấm lòng nhân hậu, luôn khát khao về một cuộc sống hạnh phúc ngay cả trong hoàn cảnh nghèo khó.
=> Từ khi nhặt được vợ, cuộc sống của Tràng đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
* Luận điểm 3: Vẻ đẹp của nhân vật Thị
+) Hoàn cảnh lai lịch: không tên tuổi, quê quán hay họ hàng -> nạn nhân của nạn đói, phải rời khỏi quê hương, gia đình, sống trong cảnh rẻ rúng
+) Ngoại hình, tính cách:
- “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, “áo quần rách như tổ đỉa”, “cái nón cà tàng che nửa khuôn mặt”, “cái ngực gầy tẹp lép nhô lên”
- “chao chát”, “chỏng lỏn”, cong cớn, sưng sỉa, vô duyên
- “ăn thật nhá…”, “sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc”, “ăn xong cầm dọc đũa quệt ngang miệng “Hà! Ngon!”
-> Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người.
+) Diễn biến tâm lí:
- Gặp gỡ Tràng:
+ Khi nghe câu hò vui của Tràng, thị vui vẻ giúp đỡ -> sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
+ Khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”
+ Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ... cùng về”, thị đã theo về thật dù không biết gì về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ
-> Cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống trong cái đói khổ.
- Trên đường về:
+ Rón rén, e thẹn đi sau Tràng
+ Đầu hơi cúi xuống
-> Thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
- Về đến nhà:
+ Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng
-> Sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
+ Khi gặp bà cụ Tứ, ngoài câu chào, Thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt” -> sự lúng túng, ngượng nghịu.
- Sáng hôm sau:
+ Thị dậy sớm quét tước nhà cửa
+ Hiền hậu, đúng mực chứ không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” nữa.
+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại” nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng -> sự nể nang, ý tứ trước mẹ chồng, không muốn làm bà buồn.
+ kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang -> thắp lên hi vọng cho Tràng và cả gia đình.
-> Sau khi về làm vợ Tràng, thị đã có sự thay đổi tính cách: khép nép, hiền hậu, ngoan ngoãn, thu vén cho gia đình, có niềm tin vào tương lai.
=> Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
* Luận điểm 4: Vẻ đẹp của nhân vật bà cụ Tứ
+) Hoàn cảnh: một người mẹ nghèo khổ, chịu nhiều thiệt thòi, sống cùng con trai.
+) Ngoại hình:
- “dáng người lọng khọng”, chậm chạp, run rẩy
- “vừa đi vừa húng hắng ho vừa lẩm bẩm tính toán”.
-> gợi nét cơ cực, lam lũ
+) Diễn biến tâm lí:
- Khi vừa về đến nhà:
+ ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch
+ ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.
-> Bà băn khoăn, tỏ ý không hiểu
- Khi hiểu ra cơ sự:
+ “mắt bà nhoèn đi”
+ Vừa đau đớn, tủi cực, vừa xót xa xen lẫn vui mừng
· Xót xa vì thương con phải lấy "vợ nhặt" trong cảnh đói khát, lo lắng không biết liệu các con có lo nổi cho nhau hay không, thương người đàn bà xa lạ kia, phải đến bước như thế này thì người ta mới lấy con mình.
· Vui mừng vì con đã có vợ
- Sáng hôm sau:
+ Bà dậy sớm cùng nàng dâu mới chăm bẵm vườn tược, chăm lo cho ngôi nhà của mình
+ “gương mặt bủm beo, u ám ngày thường rạng rỡ hẳn lên”
+ Trong bữa cơm, bà nói về tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn,...
-> Bà luôn nhen nhóm niềm tin vào tương lai cho các con.
=> Bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu, tình mẫu tử cao đẹp.
* Đặc sắc nghệ thuật:
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo, tự nhiên
- Kết hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố hiện thực và nhân đạo
- Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc
- Nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm làm nổi rõ tâm lí của từng nhân vật
- Ngôn ngữ kể chuyện phong phú, cách kể chuyện gần gũi, tự nhiên
- Kết cấu truyện đặc sắc
c) Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của truyện.
- Cảm nhận của em về tác phẩm.
5. Kiến thức mở rộng
- Giá trị hiện thực của truyện Vợ nhặt: Phản ánh chân thực tình cảnh thê thảm, rẻ rúng người nông dân trong nạn đói năm 1945.
- Giá trị nhân đạo:
+ Tố cáo mạnh mẽ tội ác của kẻ thực dân, phát xít
+ Phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của con người luôn hướng đến sự sống, hi vọng, tin tưởng ở tương lai.