Lịch sử văn học Việt Nam chưa có một tiểu thuyết nào gây được một phản ứng xã hội kịch liệt như tiểu thuyết Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Số đỏ xuất hiện đột ngột giữa làng văn như một tiếng sét xé trời mà thanh âm của nó chắc chắn sẽ còn vang vọng mãi. Xuân Tóc Đỏ (nhân vật chính trong tác phẩm) trở thành một nhân vật điển hình trong số rất ít các nhân vật điển hình của văn học Việt Nam. Với Số đỏ, Vũ Trọng Phụng đã trở thành đại diện xuất sắc bậc nhất của dòng văn học hiện thực phê phán thời kì 1930 – 1945 ở Việt Nam. Thành công của tác phẩm trước hết là bởi một nghệ thuật trào phúng sắc bén bậc thầy của nhà văn mà qua đó xã hội Việt Nam đương thời hiện lên với đầy đủ những tàn tật, dị dạng, những tiêu cực, tệ nạn. Chương cuối cùng của tác phẩm Xuân Tóc Đỏ cứu quốc tuy chưa là chương hay nhất của tác phẩm nhưng lại là chương điển hình nhất cho hiện thực xã hội lố lăng, bịp bợm đương thời.
Chương truyện là bước phát triển cao nhất cho cái nhà văn gọi là “sổ đỏ” của thằng Xuân. Từ một tên ma cà bông hạn bét ở đầu tác phẩm giờ đây chóng vánh trở thành một vĩ nhân đầy hào quang chói lọi. Một sự thăng tiến đến chóng mặt, tưởng như đầy rẫy sự vô lý nhưng đặt trong hoàn cảnh xã hội lúc ấy lại có thể xảy ra được. Suy cho cùng, cái “Số đỏ” của thằng Xuân không chỉ hoàn toàn là cái may do khách quan (mà cụ thể là cái xã hội thượng lưu đểu giả đương thời) đưa lại, mà nó bắt nguồn từ bản chất mất dạy, vô giáo dục, vô văn hóa, xỏ lá đểu cáng, háo danh háo sắc của y. Nói cách khác cái bản chất của thằng Xuân chính là điều kiện cần và hoàn cảnh xã hội là điều kiện đủ để cái “số đỏ” của y có thể phát triển rực rỡ huy hoàng, đạt đến giá trị cực đại của nó. Trong chương truyện cuối cùng của tác phẩm, Xuân Tóc Đỏ đã đáp ứng một cách xuất sắc đầy đủ những yêu cầu mà xã hội đương thời đặt ra để bước tới danh hiệu cao quý “vĩ nhân”, “anh hùng cứu quốc”. Có thể nói Xuân Tóc Đỏ là kết tinh, là điểm hội tụ tập trung của mọi thói tật, mọi tệ nạn xã hội. Nhưng mỉa mai thay, chính sự hội tụ bỉ ổi ấy lại đưa nó đến đỉnh cao danh vọng. Xuân Tóc Đỏ là con người của tệ nạn nhưng cũng lại là con người của hào quang. Suy cho cùng cái chất trào lộng của ngòi bút Vũ Trọng Phụng phát khởi từ đây, từ một nghịch lý mà hợp lý, từ một sự phi lý mà có thật. Đó là cả một sự đối chọi đầy chua chát mà chì có ngòi bút hiện thực của Vũ Trọng Phụng mới vạch ra trần trụi. Cứ như những tình tiết xảy ra trong tác phẩm, đặc biệt là ở chương cuối, người đời có thể rút ra một quy luật tiến thân lạ lùng nhất trong đời, chỉ có thể xảy ra ở cái xã hội thời ấy mà thôi, quy luật ấy là càng bịp bợm. Càng vô văn hóa, càng xổ lá ba que, càng dâm loạn thì cơ hội tiến thân càng rộng mở.
Nhìn lại con đường tiến thân của Xuân, ta thấy rồ hơn điều đó. Đầu tiên y chỉ là một đứa trẻ mồ côi và mất dạy, hư hỏng, rồi một tên ma cà bông hạng bét, cơm thừa canh cặn, là chạy cờ rạp hát, bán thuốc tây đểu trên tàu xe, tiếp đèn là thằng nhặt banh trên sân quần vợt. Sau một “tai nạn nghề nghiệp” bệnh hoạn và trở nên thất nghiệp, có ai ngờ rằng cái số đỏ của y bắt đầu “liên tục phát triển” kể từ đây. Do chi tiết biểu hiện tính dâm đãng của y (cụ thể là nhìn trộm phụ nữ thay quần áo – một thói quen cố hữu, một đặc tính xấu xa ngay từ nhỏ của y) mà y lọt vào “mắt xanh” của mụ me Tây bệnh hoạn, rửng mỡ có cái tên là bà Phó Đoan. Từ đó con đường công danh của y phất lên như diều gặp gió bởi y đã bước vào vòng quay của xã hội thượng lưu. Đầu tiên người ta gọi y là sinh viên trường thuốc vì đã có công giết chết một lão già trăm ngàn lần đáng chết. Tiếp sau đó người ta còn gán cho y những cái tên nghe thật sướng tai nào là nhà cải cách xã hội, nào là giáo sư quần vợt và hàng chục vị hàm cao cấp khác trước khi đến đích cuối cùng là một vĩ nhân,
một anh hùng cứu quốc. Một con người với tài năng hiếm có và một cách vô ý thức, từ chỗ là công cụ cho người khác, cho xã hội lợi dụng dần dần với bước của “chó sói gửi thân”, y đã lợi dụng trở lại, dùng xã hội làm công cụ tiến thân một cách đầy toan tính.
Có thể xem mỗi chương trong Số đỏ là một màn sân khấu mà ở đó các xung đột diễn ra đầy kịch tính. Nếu như ở các chương trước chỉ là những màn kịch vi mô với các mâu thuẫn diễn ra trong gia đình cụ cố Hồng, một tập hợp các thành viên đầy khập khiễng và thằng Xuân thì chương cuối này là một màn kịch mang tầm vĩ mô, một màn kịch “bách khoa toàn thư” về xã hội Việt Nam đương thời, một màn đại hài kịch tạp-phế-lù huy động tối đa mọi nhân vật vào các vai diễn. Đó là từ vua ta tới vua Xiêm, từ quan thông sứ tới quan toàn quyền, từ các ông Tây bà đầm cho tới các thượng lưu trí thức, từ cái con mẹ me Tây góa phụ cho mấy ông thầy chùa, từ các ông thầy tướng số tới các chủ khách sạn, từ các ông chồng bị cắm sừng cho tới các cô gái tân thời quyết giữ chữ trinh tiết với hai người trở lên… Tất cả chừng ấy “nhân vật” lộn xộn, bừa bãi đều được lôi sềnh sệch vào một màn hí trường hài hước nhốn nháo, lố bịch, kệch cỡm, tạp nham hết sức. Kính thưa các loại phế phẩm, kính thưa các loại phụ phẩm phế liệu, kính thưa các hạng người… đều được Vũ Trọng Phụng nhồi nhét vào màn kịch trào phúng cỡ bự của mình một cách xô bồ, tự nhiên và sinh động đến lạ thường. Cái xã hội tật Nguyễn ấy chưa bao giờ mang tính quái thai đến thế, chưa bao giờ động cỡn đến thế. Dưới ngòi bút trào lộng sắc bén, Vũ Trọng Phụng đã vạch trần tất cả những tệ nạn bản chất nhất của cái xã hội bịp bợm “chó đểu” ấy. Nhà văn đã phá vỡ tung tóe tất cả những tỉ lệ hiện thực, làm lộn tùng phèo hết thảy những giá trị vốn có để gây nên chất trào lộng cho tác phẩm. Nó thể hiện ở một lối hành văn đặc biệt, khi nói về cái hình thức bên ngoài, cái mã cái vỏ thì thậm xưng, tăng lên đến mây xanh, ngay sau đó nhà văn lại ném phịch nó xuống mặt đất bằng chính cái bản chất của nó. Cái hình thức bên ngoài thì lớn lao, to tát, hùng hồn nhưng cái ruột thì lại thảm hại như một cách tiêu điều, đến tội nghiệp. Cuộc tiếp kiến lịch sử giữa vua ta và vua Xiêm được khoa trương với những từ ngữ đại hoa mĩ: nào là “Nước Việt Nam hồi xuân”, nào là “Một chỗ rẽ trong lịch sử”, nào là “Việt – Xiêm thân thiện”, “hai vua tại một nước”, nào là “một cái hân hạnh đặc biệt cho bình dân Việt Nam: cả vua Xiêm nhân dịp thân hành sang chơi với ta” nào là “hai nước Xiêm – Việt từ nay bắt tay nhau trên đường tiến bộ”. Tưởng là vua ta với vua Xiêm cùng nhau hội đàm, cùng nhau luận bàn việc nước hóa ra lại đi lông bông để cho dân chúng Hà Thành có dịp ngồi lê đôi mách. Cuối cùng vì tinh thần thể thao chân chính, cả hai người cùng đến xem một trận đấu quần vợt. Vũ Trọng Phụng đã khéo léo đưa chuyện, dần chuyện để người đọc thấy được cái hệ trọng hàng mà của hai vị “thiên tử”. Chính sự khập khiễng ấy đã lập tức gợi lên cái chất hài hước cho câu chuyện.
Việc Xuân Tóc Đỏ, một tay vợt nghiệp dư, được mời ra tranh tài với tài tử Luang Prabahot, quán quân quần vợt Xiêm La, không chỉ là một sự chỉ định tình cờ mà là kết quả của một sự xếp đặt, của một mưu ma chước quỷ sặc sụa chất vị kỷ, điển hình cho cái thói thắng nhân tố kỉ của Xuân Tóc Đỏ. Y đã tương kế tựu kế để làm hại hai nhà quán quân Hải và Thụ ở bót để hãnh diện tiến ra sân theo lời mời của đích vị Tổng cục trưởng tổng cục thể thao Bắc Kì. Chính vì thế, Xuân Tóc Đỏ và ông bầu Văn Minh của mình trở thành đại diện Hà Thành để giữ cái danh dự cho Tổ quốc.
Điều hài hước nữa là từ vua Xiêm và vua ta cho chí các quan Pháp đi xem thể thao nhưng lại thế hiện những hành vi, thái độ phi the thao đến nực cười. Vua Xiêm lại quá máu me ăn thua, sần sàng đem vận mệnh đất nước ra để đổi lấy chuyện thắng thua trong một quán quần vợt vô bổ. Trong khi đó vua ta thì chỉ cốt, đánh lấy… thua. Và chỉ thị ấy đã được ban tới tai Xuân Tóc Đỏ và kết cục ai cũng rõ là chiến thắng thuộc về Luang Prabahot, quán quân quần vợt Xiêm La và đức vua Xiêm S.M.Prafadophick. Huống nổi, sự hy sinh cao cả của bậc đại nhân, đại tài lại không được quần chúng thấu hiểu. Xuân Tóc Đỏ và Văn Minh bị lâm vào một nỗi oan Thị Mầu. Quả thua ngớ ngẩn và khó hiểu của Xuân đã làm khán giả, những người sẵn sàng tự tử bằng cách hút thuốc phiện không có âm thanh vì không mua được vé vào cửa, nổi cơn thịnh nộ. Họ hò hét “Quốc sỉ! về nhà bò! Đi về nhà bò đi!” rồi “Abas Xuân! Abas Xuân! Dcsexplications!” (Đả đảo Xuân! Đả đảo Xuân! Hãy giải thích). Đáng thương thay, tội nghiệp thay cho Xuân Tóc Đỏ, oan ức thay cho y vì quần chúng “trẻ người non dạ”, “nông nổi” không thâu tỏ nổi tấc lòng trung hậu cao thượng của y.
Tất cả những sự hiểu nhầm ấy đều tan biến bởi một bài thuyết giáo “cố lai hy” của y. Hãy xem những lời lồ trịnh thượng và nực cười đến nhường nào: “Hỡi quần chúng! Mi không hiểu gì, mi oán ta, ta vẫn quý mi mặc dù mi chẳng hiểu lòng ta!”. Trời đất hỡi cách xưng hô của bậc vĩ nhân mới độc đáo làm sao, độc đáo một cách tuyệt đối khiến người đọc không còn gì để bình thêm nữa, không có gì chê bai, khen tụng nữa. Nhưng chưa hết, để kết thúc bài hùng biện của mình, Xuân Tóc Đỏ dõng dạc: “Thôi giải tán đi, và cứ việc an cư lập nghiệp trong hòa bình và trật tự! Ta không dám tự phụ là anh hùng cứu quốc nhưng ta đã tránh cho mi cái nạn chiến tranh rồi. Hòa Bình vạn tuế, Hội Quốc Liên vạn tuế!”. Khỏi phải bàn những lời lẽ đã đưa hắn lên vị trí vĩ nhân, anh hùng cứu quốc, là thần tượng của “mi”, như cách gọi của bậc vĩ nhân Tóc Đỏ ấy. Bài thuyết giáo của y đã khai sáng đầu óc đám quần chúng tôi như hũ nút. Thế rồi thiên hạ sốt sắng hô to: “Xuân Tóc Đỏ vạn tuế, sự đại bại vạn tuế”. Sau đó là những lời chúc tụng lu bù, những vinh quang ập đến với Xuân một cách đột ngột. Chính phủ Pháp và An Nam tặng huân chương danh giá, được mời làm cố vấn báo Gõ mõ, là hội viên hội Khai trí tiến đức, đón mừng lời chúc tụng của cảnh sát giới mà cụ thể là Min Đơ, Min Toa, của các chủ khách sạn mà đại diện là Victor Ban, rồi bà Typn thay mặc cho chị em phụ nữ và đặc biệt là ông Phán thay mặc các
Người chồng mọc sừng. Tưởng như đã hết thì cuối cùng còn “nảy nòi” ra ông thầy tướng số chao ôi là vinh quang nhọc nhằn.
Buồn cười hơn cả là hình ảnh Xuân Tóc Đỏ hứa hẹn xin cho bà Phó Đoan một cái bảng “tiết hạnh khả phong”. Trời ơi, một chi tiết đắc địa đến lạnh người. Một con me Tây dâm loạn, lẳng lơ đỏng đảnh và rửng mỡ, đối lập hoàn toàn với bốn chữ cao quý ấy. Những chi tiết như câu gắt “Nước mẹ gì” của thằng vĩ nhân Xuân lại được khen rối rít và hứa hẹn đưa vào từ điển Đại Việt. Đặc biệt vừa nghe được chính phủ tặng bội tinh, cụ Hồng đã hô to “Bay dân, bày hương án” một gia đình gia phong nề nếp đến thế là cùng. Cách xưng hô “toa”, “moa” của bố con nhà Văn Minh cũng “văn minh” và nực cười đến chừng nào. Việc lấy ra những sự tương phản, những điều lố bịch chính là để ta thấy rõ hơn cái bản chất băng hoại, suy đồi, sự phá sản hoàn toàn của các giá trị đạo đức truyền thống. Chính lôi viết tương phán ấy là một nét trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng.
Những lời bình, những lời thể hiện trực tiếp thái độ của nhà văn song hành với lời kể của câu chuyện. Chẳng hạn như một bậc vĩ nhân nhũn nhặn, nó giơ quả dấm chào loài người, hay với tài hùng biện của một người đã thổi loa cho hiệu thuốc, với cái tự nhiên của một anh lính chạy cờ rạp hát lại được ông bầu Văn Minh đĩa kèn, Xuân Tóc Đỏ đã chinh phục quần chúng như một nhà chính trị đại tài. Thường thì nhà văn tả chân, nhà văn hiện thực tối kị việc đưa ra những lời nhận xét. Nhưng với Vũ Trọng Phụng thì khác, ông là một nhà văn châm biếm đả kích, là một nhà văn hiện thực đi đối với trào lộng phê phán. Những lời nhận xét của ông vừa mang đậm chất cười dân gian, vừa “humour” một cách trí tuệ, lại vừa gay gắt, chua chát. Đấy cũng là một Đặc điểm trong nghệ thuật trào phúng của ông, dưới ngòi bút đó, tất cả đều hiện nguyên hình với bộ mặt thật bỉ ổi. Với những phẩm chất như vậy, ông xứng đáng trở thành nhà văn hiện thực lớn và văn chương ông đúng là “sự thực ở đời” như ông từng quan niệm.