Suy nghĩ về câu nói: Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình trong những hi sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng

Dàn ý chi tiết 

1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận: Vấn đề nhân sinh được đặt ra trong câu nói của nhà văn Nguyễn Khải.

2. Thân bài

a, Giải thích vấn đề nhân sinh được đặt ra trong câu nói của Nguyễn Khải

- Giải thích các phạm trù: "sự sống", "cái chết", "hạnh phúc", "gian khổ, hy sinh".

- Giải thích ý kiến của nhà văn Nguyễn Khải: Khái quát quy luật của cuộc sống và là lời khuyên con người cần phải nỗ lực, cố gắng và mạnh mẽ để vượt qua những khó khăn, thử thách.

b, Bàn luận vấn đề nhân sinh được đặt ra trong câu nói của Nguyễn Khải:

- "Sự sống nảy sinh từ cái chết": Mặc dù sự sống và cái chết là hai trạng thái hoàn toàn đối lập và không thể tồn tại song song nhưng:

+ Từ trong cái chết, sự sống sẽ được tái lập.

+ Cái chết chính là môi trường để gieo mầm, ươm mầm sự sống.

- "Hạnh phúc hiện hình trong những hi sinh, gian khổ": Trong cuộc đời, không có niềm vui, hạnh phúc nào là trọn vẹn.

+ Cuộc sống của con người xen kẽ, đan cài giữa hạnh phúc và hy sinh, gian khổ.

+ Trong đau khổ, con người cũng có thể tìm thấy những niềm vui, hạnh phúc dù là nhỏ nhoi và còn le lói.

- Con người cần mạnh mẽ vượt qua những đau khổ, mất mát, hy sinh để đạt tới hạnh phúc và duy trì sự sống.

c, Bài học nhận thức và hành động

- Nhận thức được cuộc sống luôn chứa đựng những giá trị tưởng chừng như đối lập nhưng lại có mối quan hệ tương sinh.

- Rèn luyện tinh thần mạnh mẽ đối diện với khó khăn.

3. Kết bài: Khẳng định lại ý nghĩa nhân sinh được đặt ra trong câu nói của nhà văn Nguyễn Khải.

Bài văn mẫu số 1

"Sinh, lão, bệnh, tử" là hành trình mà mỗi một con người cần trải qua kể từ khi cất tiếng khóc chào đời. Trong quá trình đó, con người luôn muốn đạt đến bến bờ của niềm vui, hạnh phúc. Bàn về những phạm trù có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc này, nhà văn Nguyễn Khải từng nói: "Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình trong những hi sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy..." (trích "Mùa lạc"). Câu văn đã thể hiện một cách nhìn nhận, đánh giá về ranh giới của sự sống - cái chết, hạnh phúc - hy sinh, gian khổ và đề cao nỗ lực, cố gắng của con người.

Sự sống là một khái niệm vô cùng phức tạp và là phạm trù nghiên cứu chính của lĩnh vực sinh học. Trong cuộc sống thực tại của con người, sự sống bao hàm ý nghĩa về mặt vật chất và tinh thần, thể hiện qua việc con người tồn tại như một cá thể độc lập, đồng thời đó còn là sự sống trong tâm hồn. Còn "cái chết" là trạng thái hoàn toàn đối lập với sự sống. "Hạnh phúc" là vạch đích mà con người luôn muốn chạm tay tới trong cuộc đời; ngược lại, "hy sinh, gian khổ" là những điều không tốt đẹp, những gian nan, thử thách, buồn đau mà con người mong muốn không bao giờ gặp phải trong cuộc đời. Vậy thì tại sao trong quan niệm của mình, nhà văn Nguyễn Khải lai đặt những khái niệm mang ý nghĩa đối lập ở cạnh nhau trong mối quan hệ tương đồng gần gũi: sự sống - cái chết, hạnh phúc - hy sinh, gian khổ. Là một nhà văn với những triết lí nhân sinh quan sâu sắc, ông cho rằng sức mạnh, sự nỗ lực sẽ giúp con người làm nên những điều kì diệu.

"Sự sống nảy sinh từ cái chết" - quan niệm cho thấy quy luật vận động, phát triển và bản chất tồn tại của sự vật, hiện tượng. Trong "Mùa lạc", trên mảnh đất Điện Biên anh hùng trải qua biết bao mưa bom bão đạn, sự hủy diệt của kẻ thù và tưởng chừng như nó đã hóa thành "mảnh đất chết" đầy đau thương lại có biết bao cây cỏ và niềm vui của con người lao động sinh sôi. Trong thực tế, sự tồn tại của sự vật hiện tượng cũng vậy, trên những cành cây trơ trọi, héo tàn của mùa đông, khi xuân sang, những chồi non lộc biếc lại nảy nở. Còn trong cuộc sống của con người, những hy sinh xương máu về tuổi xuân, tuổi đời của thế hệ cha anh đi trước - những vị anh hùng chống ngoại xâm, các thương binh, liệt sĩ chính là nền tảng để chúng ta được tận hưởng bầu không khí của ngày hòa bình hôm nay. Như vậy, mặc dù sự sống và cái chết là hai trạng thái hoàn toàn đối lập và không thể tồn tại song song nhưng từ trong cái chết, sự sống sẽ được tái lập; hay nói cách khác, cái chết chính là môi trường để gieo mầm, ươm mầm sự sống.

Tương tự như vậy, "hạnh phúc hiện hình trong những hi sinh, gian khổ" thể hiện quy luật mang tính tất yếu: Trong cuộc đời, không có niềm vui, hạnh phúc nào là trọn vẹn. Cuộc sống của con người xen kẽ, đan cài giữa hạnh phúc và hi sinh, gian khổ. Khi trải qua những hy sinh, gian khổ không có nghĩa là chúng ta chịu sự thiệt thòi, mất mát; mà đó chính là cơ sở để tạo nên hạnh phúc. Đồng thời, trong đau khổ, con người cũng có thể tìm thấy những niềm vui, hạnh phúc dù là nhỏ nhoi và còn le lói.

Như vậy, trong cuộc sống, con người cần nhận thức luôn chứa đựng những giá trị tưởng chừng như đối lập nhưng lại có mối quan hệ tương sinh để mạnh mẽ đối diện, dũng cảm để vượt qua ranh giới của những gian khổ, hi sinh, của sự sống và đặt chân đến bến bờ hạnh phúc, giống như Bác Hồ đã từng nói:

"Ví không có cảnh đông tàn

Thì sao có cảnh huy hoàng hôm nay"

(Trích "Tự khuyên mình")

Bởi thế, câu nói "điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy..." của nhà văn Nguyễn Khải còn hàm chứa một bài học về việc con người cần rèn luyện sự mạnh mẽ, dũng cảm trước những chông gai, thử thách trong cuộc đời. Sự sống là điều con người muốn duy trì, cũng như hạnh phúc là điều ai ai cũng muốn đạt tới. Tuy nhiên, nếu không trải qua những gian nan, thử thách, hy sinh, mất mát, con người sẽ không thể đạt được những điều đó.

Bài văn mẫu số 2

Triết lý nhà phật có nhắc đến cái gọi là thuyết luân hồi: Một con người, sự vật chết đi sẽ hoá thân, chuyển kiếp sang một kiếp sống mới, dưới một hình hài mới. Bản thân tôi không hoàn toàn tin vào nó, tôi cảm nhận được nó dưới một khía cạnh khác. Đọc "Mùa lạc" của Nguyễn Khải tôi nhận ra được một điều đó: "Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chi có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy”

Sự sống ở đây, theo tôi là những giá trị hiện sinh, đó là sự sống của con người, cỏ cây, chim muông. Đó cũng có thể hiểu là sự sống trong tâm hồn, trong nhận thức. Sự sống và cái chết; hạnh phúc và hy sinh gian khổ là những khái niệm trái ngược nhau, thế nhưng "Sự sống nảy sinh từ trong cái chết , hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ".

Tại sao lại như thế? Theo tôi, trước hết là bởi không có gì trường tồn mãi với thời gian, không có cuộc sống, số phận nào là luôn luôn hạnh phúc. Cái chết phải luôn song hành cùng sự sống, có hy sinh gian khổ mới có hạnh phúc. Cuộc sống vốn rất phức điệu và đa chiểu. Nó có muôn màu, muôn vẻ thiên hình ị vạn trạng. Ông cha ta đã từng khẳng định: "Qua cơn bĩ cực đến hồi thái lai". Đó chính là một dẫn chứng cho ý kiến trên. Không ai cấm trên xác cây khô kia nảy sinh những mầm xanh, qua mùa đông tàn tạ úa vàng mới đến ngày xuân trăm hoa đua nó. Đó chính là vì "sự sống nảy sinh từ trong cái chết".

Ở đây là một câu nói có tính chất khẳng định. Từ trong cái chết - cái tàn ta úa vàng sẽ nảy sinh ra sự sống - giá trị hiện sinh. Sự sống ấy dĩ nhiên không thể chung sống, phát triển trong môi trường ấy nhưng đó là nơi nó "nảy sinh”. Bản thân sự vật luôn biến đổi không ngừng nghi, ẩn đằng sau - tận bên trong sự khô héo không ai ngăn trở được những biến đổi vận động không ngừng để nảy sinh ra sự sống. Ai biết được, những hạt lúa đã được phơi khô kia cấy xuống nước lại có thể mọc ra cây lúa xanh tươi. Tôi lại chợt nhớ đến bài kể của bậc thiền sư thời Lý căn dặn học trò trước lúc ra đi:

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đinh tiền tạc dạ nhất chi mai

(Mãn Giác thiến sư)

Dịch thơ

Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa cười

Trước mắt việc đi mãi

Sau lưng già đến rồi

Ai bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai

Vâng, xuân đến và đi là quy luật của tạo hoá. Đó là vòng quay của thời gian, nhưng, trong cái giá rét của đêm đông ấy, trên cái cành khô mà tưởng như đã "lạc tận" - rụng hết ấy vẫn bừng lên vẻ đẹp của "nhất chi mai". Cái hình cành mai dẫu đơn độc nhưng thật cứng cỏi ấy như tạc vào đêm tối chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sự sống ở giữa cái nơi mà vạn vật tưởng đã úa tàn. Sự sống và cái chết, đau khổ và hạnh phúc, đó chính là một vòng tròn của số phận, của tạo hoá; đó chính là nguyên cớ cho sự nảy sinh - hiện hình.

Với "Mùa lạc", Nguyễn Khải cũng đã chứng minh được điều đó. Có ai ngờ ở trên mảnh đất đầy bom đạn của Điện Biên, nơi từng bị bom thù giày xéo từng tấc đất, tưởng như không một sự sống lại mọc lên một nông trường Điện Biên cây cối tốt tươi, có cả cuộc sống con người với đủ mọi cung bậc cảm xúc. Đối với con người cũng vậy, hạnh phúc hiện hình từ trong hy sinh, gian khổ. Bác Hồ cũng đã từng nói: "Nếu không có cảnh đông tàn/Thì sao có cảnh huy hoàng ngày xuân". Con người từ khi sinh ra, không ai có được quyền hưởng hạnh phúc suốt đời mà không phải chịu sự khổ đau, hi sinh nào. Cũng như, không có ai là suốt đời đau khổ mà không tìm được hạnh phúc. Trong vất vả, đớn đau, hạnh phúc vẫn có thể hiện hình. Một ngưòi đã "quá lứa lỡ thì" như Đào, đã từng mất chồng mất con, từng lang bạt tứ xứ tối đến đặt lưng ở đâu là nhà - một con người từng chịu bao nhiêu đau khổ, mặc cảm – cuối cùng cũng tìm được một bến đỗ bình yên nơi nông trường, tìm được một hạnh phúc dẫu muộn màng bên người đội trưởng.

Vâng, phải chăng đó chính là sự hiện hình của hạnh phúc. Hay với “ vợ nhặt" của Kim Lân chẳng hạn. Trong cái nạn đói khủng khiếp từng giết chết hai triệu đồng bào ta, giữa cái không khí dày đặc nỗi ám ảnh về cái chết Kim Lân đã dựng rất thành công, người đọc vẫn cảm động biết bao khi bao hạnh phúc - dẫu mới chớm nở và đang ngập chìm trong nỗi lo toan của Tràng của "Thị" và của bà cụ Tứ. Vâng, trong đau khổ, đói nghèo, kề cận với chết cái hạnh phúc vẫn hiện hình và trở thành nguồn động viên vời họ. Không trải qua hy sinh, gian khổ làm sao đòi hỏi được có hạnh phúc. Hạnh phúc - sự sống như được gieo mầm từ trong cái chết - trong gian khổ hy sinh. Đó chính là lí do để thôi thúc tôi không nguôi hy vọng, không thôi chiến đấu vì niềm tin. Đó là bởi “ ở đời này không có con đường cùng chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy"...

Vai trò của con người đã được khẳng định: con người phải chiến đấu, luôn chiến đấu để vượt qua ranh giới - ranh giới của sự sống và cái chết hạnh phúc và hy sinh, đau khổ. Vâng, ở đời này không có con đường cùng chỉ có những ranh giới. Sự sống, hạnh phúc chưa và sẽ không bao giờ đi đến tận diệt cả, có chăng đó chỉ là những thử thách, ranh giới đòi hỏi con người vượt qua, phải chiến thắng nó. Đó mới là vai trò, sứ mệnh của con người "điều cốt yếu" là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy.

Giữa sự sống - cái chết, hạnh phúc – khổ đau luôn có những ranh giới chỉ có chúng ta, những con người mới có đủ khả năng vượt qua nó. Mị "vợ chồng A Phủ" là một minh chứng về sức mạnh vượt qua những ranh giới của con người. Từ một cô gái xinh đẹp, thổi sáo hay nức tiếng khắp nơi, về "cúng trình ma" nhà A Sử, sau khi muốn tự từ mà không được vì thương bố, Mị phải chấp nhận làm dâu - làm con trâu, con ngựa cho nhà thống lí Pá Tra. Bị hành hạ, đối xử tàn tệ, tưởng như Mị đã mất hết sức sống, mất hết ý chí mà trở thành cái xác vô hồn. Nhưng không, trong con người Mị vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt không gì dập tắt nổi. Đó là ngày xuân muộn ở Hồng Ngài, Mị đòi đi chơi xuân (dù sau đó bị A Sử bắt trói vào cột nhà). Đó là ngày tết Mị lén lấy rượu uống từng ngụm lớn. Và tiêu biểu nhất, đỉnh cao của tác phẩm là khi cô cắt dây trói cho A Phủ và xin đi theo. Đó chính là hành động giải thoát cho người khác và cho chính bản thân mình. Tưởng chừng như sau biết bao hy sinh đau khổ, sự sống, khát khao hạnh phúc trong cô đã bị dập tắt. Nhưng không, nó vẫn cháy âm ỉ thành một sức mạnh giúp cô vượt qua ranh giới ấy mà tìm tới hạnh phúc, tìm lại sự sống (và quả thật, tới Phiền Sa và được ánh sáng của cách mạng Mị và A Phủ đã có cuộc sống đúng nghĩa), con người như Mị, tưởng như bị đẩy tới "bước đường cùng" nhưng vẫn có sức mạnh để vượt qua. Đó chính là minh chứng: trên đời này không có đường cùng mà đó chỉ là ranh giới mà chúng ta phải vượt qua mà thôi, tại sao, con người lại không đủ dũng khí để tiến bước! Hay như nhân vật Đào "Mùa lạc", cành ngộ ấy, cuộc đời ấy như bị đẩy tới tột cùng của đau khổ. Có lúc, Đào mặc cảm không dám đón nhận và chiến đấu vì hạnh phúc, mà sau đó cô cũng nhận thức được, cũng khao khát được hạnh phúc, đón nó. Và cuối cùng, hạnh phúc đã đến với cô, một gia đình hạnh phúc với người yêu cô trên cái nông trường Điện Biên thân yêu. Đó chính là ranh giới và vượt qua ranh giới. Trên đời này không có con đường cùng mà chi có những giới. Vâng, và vì thế đứng trước những ranh giới đó con người phải biết đấu tranh, phải có sức mạnh để vượt qua. Đó chính là điều cốt yếu! Là con người hạnh phúc và sự sống không thể chờ đợi ai mang đến cho mình mà phải chiến đấu mà giành lấy và gìn giữ nó. Đúng trước những ranh giới ấy, bản lĩnh người mới được bộc lộ và phát huy. Không bao giờ được nguôi tắt hi vọng – phải chăng phần nào Nguyễn Khải muốn nhắn gửi với chúng ta điều đó.

Trong cái chết, trong gian khổ hy sinh vẫn có thể nảy sinh, hiện hình hạnh phúc và sự sống. Xung quanh chúng ta cũng có biết bao tấm gương như vậy. Những học sinh hoàn cảnh khó khăn, mất bố mẹ, gia đình nghèo khó mà vẫn lên học tốt không phải là những tấm gương cho ta học tập sao? Những người thương binh, hy sinh một phần máu thịt cho Tổ quốc, những người không còn sức khoẻ mà vẫn vươn lên làm kinh tế giỏi, những người đó có làm khơi lại suy nghĩ? Cuộc sống dường như đã đẩy họ đến bước đường cùng, nhưng họ đã chứng minh cho ta thấy, đó chi là những ranh giới và thực tế ý chí, quyết tâm, sức mạnh họ đã vượt qua cái ranh giới khó khăn ấy rằng, từ trong cái chết sự sống vẫn hiện hình. Nó thôi thúc ta hy vọng, chiến đấu để vượt qua tất cả. Hạnh phúc, sự sống nảy sinh hiện hình từ trong đau khổ và cái chết mới khiến ta trân trọng biết bao! Vấn đề nhân sinh mà Nguyễn Khải đặt ra trong "Mùa lạc" là rất đáng để suy ngẫm chiêm nghiệm.