Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong Vợ chồng A Phủ

Dàn ý mẫu số 1

I. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và nhân vật

Tô Hoài là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam đương đại. "Vợ chồng A Phủ" là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông, được viết sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1953. Truyện được giải nhất cửa Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955.

Tác phẩm là bức tranh bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân và là bài ca về phẩm chất, vẻ đẹp, về sức sống mãnh liệt của người lao động. Nhân vật chính kết tinh được phẩm chất cao đẹp và thể hiện rõ giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo của tác phẩm và nhân vật Mị.

II. Phân tích nhân vật Mị qua các chặng đường đời

1. Trước khi làm dâu gạt nợ, Mị là một cô gái hầu như tập trung được những vẻ đẹp tiêu biểu của người phụ nữ miền núi: Mị vừa đẹp người, vừa đẹp nết, cần cù, đảm đang, hiếu thảo, giàu đức hi sinh vị tha, ham sống, yêu đời và rất mực tài hoa.

2. Khi về làm con dâu cho nhà thống lí, Mị đã phản kháng bằng nước mắt: "Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc". Cao hơn một mức nữa, Mị đã định tự hủy diệt cuộc đời mình bằng nắm lá ngón. Nhưng lòng hiếu thảo - vì thương bố còn khổ hơn bây giờ bao nhiêu lần, đã níu kéo Mị trở về kiếp sống ngựa trâu. Dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền, những hủ tục phong kiến nơi miền núi, Mị gần như tê liệt hết về sức sống, Mị thờ ơ với sự chảy trôi của thời gian, sắc màu cuộc sống của Mị trở nên mờ nhạt. Nó được biểu tượng bằng "Một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay", "lúc nào cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng".

Mị trở thành con người cam phận sống cuộc sống "thân phận con rùa", "Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa".

3. Đoạn đời thứ 3: Sức sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân và hành động cởi trói cho A Phủ. Họ cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài, tìm đến khu du kích Phiềng Sa.

a. Mùa xuân về trên rẻo cao, đặc biệt là đêm tình mùa xuân với tiếng sáo, tiếng khèn của trai làng gọi bạn tình có ý nghĩa như "một hoàn cảnh điển hình" làm cho sức sống tiềm tàng trong con người Mị trỗi dậy một cách mãnh liệt.

- Ngày Tết, Mị cũng uống rượu: "Mị... cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say". Với những tác động của ngoại cảnh và men rượu, Mị đã thoát khỏi tâm trạng dửng dưng bấy lâu để trở thành con người thức tỉnh, vươn tới những ý nghĩ và khát vọng đẹp đẽ. Chú ý phân tích diễn biến tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân: "Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng" -> lòng Mị đang phơi phới sống về những ngày trước. Mị thấy "trong lòng đột nhiên vui sướng... Mị trẻ lắm... Mị muốn đi chơi" -> Ý thức về bản thân trỗi dậy, Mị phẫn uất mãnh liệt và thấm thía nỗi tủi nhục của mình, Mị muốn chết -> trong khi đó, tiếng sáo, biểu tượng của khát vọng tự do và tình yêu tuổi trẻ "đang rập rờn" trong đầu Mị -> Mị khêu to ngọn đèn cho sáng như thể khêu ngọn lửa của lòng ham sống, của sự khát khao -> Hành động này thúc đẩy hành động khác, không thể kìm nén được nữa. Nó là sự thôi thúc của trái tim như muốn phá vỡ những xiềng xích tàn bạo trong nhà thống lí Pá Tra, thách thức mọi ràng buộc khắt khe của nhà Pá Tra, của người chồng tàn ác: "Mị quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa" chuẩn bị đi chơi ngày Tết. Nhưng giữa lúc lòng ham sống trong Mị trỗi dậy, dâng lên mãnh liệt như sóng trào thì cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách khắc nghiệt, lạnh lùng. A Sử, chồng Mị thản nhiên "trói đứng Mị vào cột nhà" -> "Như không đang biết mình đang sợ bị trói... Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi", quên mọi đau đớn về thể xác, "Mị đã vùng dậy bước đi". Điều đó chứng tỏ sức sống tiềm ẩn trong con người Mị mãnh liệt biết nhường nào.

b. Sức sống trỗi dậy trong con người Mị còn được thể hiện rõ nét ở hành động cởi trói cho A Phủ, cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài.

Bên cạnh bếp lửa, nhìn thấy A Phủ bị trói đứng một cách thảm khốc, mấy đêm đầu Mị vẫn thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người ở nhà Pá Tra xảy ra như cơm bữa. Vả chăng, Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực.

Nhưng đêm nay, dưới ánh lửa "bập bùng" trông thấy hai hàng nước mắt "lấp lánh" bò xuống hai hõm má đã "xám đen lại của A Phủ", Mị càng thương mình, càng thương người. Tình thương, niềm đồng cảm giữa những con người cùng cảnh ngộ ấy đã lấn át nỗi sợ và lớn hơn cái chết, nó đã dẫn đến hành động táo bạo: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ, cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài.

Đây là hành động tuy tự phát nhưng là kết quả của một quá trình, nó minh chứng sức sống tiềm tàng, âm ỉ không ngừng trong con người Mị. Nó là một bước ngoặt trong tính cách và cuộc đời Mị. Ý thức được nỗi khổ của kiếp sống tủi nhục của mình, Mị đã vượt qua nhà ngục thống lí Pá Tra với biết bao thế lực hà khắc của cường quyền, hủ tục, lễ giáo phong kiến (con gái Mèo lấy chồng, suốt đời là cái đuôi con ngựa của chồng, chồng chết lại phải lấy anh hoặc em chồng).

III. Kết luận:

Qua cuộc đời và số phận của Mị, Tô Hoài bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống cho người lao động, đặc biệt là người phụ nữ miền núi. Đồng thời, tác giả cũng cất lên bài ca ca ngợi phẩm giá cao đẹp của họ. Đó là ý nghĩa nhân đạo cơ bản của tác phẩm.

Mị là một nhân vật rất thành công của văn xuôi hiện đại. Có được điều này là nhờ cái nhìn trân trọng, thương yêu đối với nhân vật của tác giả, đặc biệt là khả năng phân tích tâm lí sâu sắc, tinh tế của Tô Hoài.

Dàn ý mẫu số 2

1. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Tô Hoài (tiểu sử, các tác phẩm chính, phong cách nghệ thuật…)

- Giới thiệu về truyện “Vợ chồng A Phủ” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật)

2. Thân bài

 Nhân vật Mị

 * Cảnh ngộ của nhân vật Mị:

- Mị là con dâu gạt nợ của nhà Thống lí: cha mẹ nghèo, không trả được nợ (món nợ từ ngày cưới, lớn dần lên vì nặng lãi), Mị làm dâu gạt nợ cho cha mẹ.

- Mị chỉ biết làm những công việc mà quanh năm ngày tháng làm đi làm lại, làm không ngưng nghỉ: Con trâu con ngựa nó còn có lúc đứng gãi chân nhai cỏ chứ đàn bà nhà này thì làm không nghỉ tay.

- Mị sống trong một căn phòng chỉ có một ô vuông bằng bàn tay để nhìn ra ngoài cũng không thể biết được trời nắng hay mưa chỉ thấy mờ mờ, trăng trắng.

* Tâm trạng và hành động:

 Tâm trạng và hành động của Mị cho thấy, trong Mị có một sức sống tiềm tàng vẫn luôn âm ỉ, đó là khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc dẫu còn tự phát và bản năng. Khát vọng đó rất mãnh liệt và khi có cơ hội sẽ bùng phát.

* Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị:

-  Đâu đó trong cõi sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng vì cơ cực, khổ đau ấy vẫn tiềm tàng một cô Mị ngày xưa, một cô Mị trẻ đẹp như đoá hoa rừng đầy sức sống, một người con gái trẻ trung, giàu đức hiếu thảo. Ngày ấy, tâm hồn yêu đời của Mị được gửi vào tiếng sáo: "Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo".

-  Ở Mị, khát vọng tình yêu tự do luôn luôn mãnh liệt. Nếu không bị bắt làm con dâu gạt nợ, khát vọng của Mị sẽ trở thành hiện thực bởi "trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị", Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của người yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tình yêu nhưng không ngờ sớm rơi vào cạm bẫy.

- Bị bắt về nhà thống lí, Mị định tự tử. Mị tìm đến cái chết chính là cách phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy. "Mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc". Mị trốn về nhà cầm theo một nắm lá ngón. Chính khát vọng được sống một con người đúng nghĩa khiến Mị không chấp nhận cuộc sống bị chà đạp, bị đối xử bất công như một con vật.

=> Tất cả những phẩm chất trên đây sẽ là tiền đề, là cơ sở cho sự trỗi dậy của Mị sau này. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người nhưng từ trong sâu thẳm, bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội sẽ thức dậy, bùng lên.

* Sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc ở Mị:

Những yếu tố tác động đến sự hồi sinh của Mị:

- Cảnh sắc của Hồng Ngài trong những ngày xuân: "Những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe như bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thậm rồi sang màu tím man mác", "Đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà."

- Rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát sống của Mị trỗi dậy. "Mị đã lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một". Mị vừa như uống cho hả giận vừa như uổng hận, nuốt hận. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị theo tiếng sáo.

- Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng: "Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang hỏi". "Ngày trước Mị thổi sáo giỏi... Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo", "Tai Mị vang tiếng gọi bạn đầu làng", "mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường", "Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi", "trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo"...

* Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân:

- Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại: "Mị còn phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm đến ngày trước". "Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi". Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình: "Nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết"...

- Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động "lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu". Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.

- Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị "quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách".

- Mị đang chuẩn bị sắm sửa để đi chơi nhưng rồi bị A Sử cấm, hắn nhẫn tâm trói đứng Mị vào cột nhà, Mị vẫn đang ru mình trong đêm xuân. Tiếng ngựa ngoài kia làm cho Mị tỉn giấc, nàng đã trở lại với hiện tại đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần.

* Diễn biến tâm lí trong đêm đông:

- Trước cảnh A Phủ bị trói, ban đầu Mị hoàn toàn vô cảm: "Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay", vì cảnh tượng ấy đã diễn ra trong nhà Thông lí thường xuyên.

- Nhưng "Mị lé mắt trông sang... một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại", giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho mình và thương người đồng cảnh. Lòng thương người trắc ẩn và tình giai cấp đã khiến Mị có hành động mạnh bạo: cắt dây cởi trói cứu A Phủ.

- Hệ quả tất yếu là Mị phải chạy trốn theo A Phủ, vì Mị biết: "ở đây thì chết mất".

- Cắt dây cởi trói cứu A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài của Mị là hành động vùng dậy tự phát của người nô lệ miền núi cao Tây Bắc, phản ứng lại đối với sự cai trị tàn bạo của bọn thống trị, nhằm mục đích tự giải phóng.

3. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề

Bài văn mẫu số 1

Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài tính đến nay đã già nửa thế kỉ. Hơn 60 năm cầm bút ông là tác giả của hàng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo, thể loại phong phú, đa dạng. Thế nhưng nhắc đến Tô Hoài ta ko thể quên được tác phẩm "Dế mèn phiêu lưu kí"- tác phẩm tiêu biểu trước Cách mạng tháng 8. Sau Cách mạng, Tô Hoài lại nổi lên với tập truyện Tây Bắc mà linh hồn của nó là Vợ chồng A Phủ.

Những năm gần đây người ta lại xôn xao nhớ đến Tô Hoài với tác phẩm "Cát bụi chân ai... Cho đến nay, "Vợ chồng A Phủ" vẫn là cái mốc thách thức với chính Tô Hoài, truyện đc giải thưởng văn nghệ năm 1954-1955, một tp xuất sắc viết về đề tài miền núi. Truyện xoay quanh cuộc đời của Mị - một cô gái Mèo nghèo khổ, xinh đẹp, nết na được Tô Hoài xây dựng chân thực và sống động với sức sống tiềm tàng bất diệt. Thông qua sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, ngòi bút của Tô Hoài đã bộc lộ là 1 ngòi bút nhân văn, nhân đạo sâu sắc và cao cả. Văn hào Nga Sê-khốp đã từng nói: "1 người nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ". Tô Hoài là 1 nhà văn như vậy.

Như đã nói, Mị là 1 cô gái mèo xinh đẹp, nết na. Một người như Mị lẽ ra phải được sống cuộc đời hạnh phúc, nhưng trái lại, cô đã khổ từ trong trứng nước. Ngày xưa khi cưới nhau đã ko có tiền, bố mẹ Mị đã phải vay của bố thống lí Pá Tra - tức ông của A Sử 10 đồng bạc trắng, mỗi năm fải trả lãi 1 nương ngô. Cho đến nay bố Mị đã già, mẹ Mị đã chết vậy mà món nợ ấy vẫn chưa trả được. Thống lí Pá Tra đến gạ bố Mị gả Mị cho A Sử con trai hắn làm con dâu gạt nợ. Biết vậy, Mị đã phản ứng lại ngay: "Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải ở nhà làm nương ngô trả nợ cho người ta. Bố đừng bán con cho nhà giàu". Đây chỉ là 1 câu nói bình thường nhưng đã toát ra cả 1 con người. Đó là con người có sức sống tiềm tàng bất diệt. Câu nói của Mị là 1 sự đánh tráo, đánh đổi: Mị thà ở nhà lao động cực nhọc trên nương rẫy để được sống 1 cuộc đời hp trong tự do còn hơn phải làm con dâu cửa nhà giàu, sống kiếp đời trâu ngựa, nô lệ. Sự đánh tráo, đánh đổi ấy chỉ có thể có được ở những con người mạnh mẽ, tự tin, biết quí trọng danh dự, nhân fẩm của chính bản thân mình. Có câu: "Thân gái như hạt mưa sa", việc người con gái được sa vào cửa nhà giàu, đó là ước mơ, thậm chí còn là sự toan tính của nhiều người phụ nữ. Thế nhưng với Mị, 1 con người có sức sống tiềm tàng bất diệt thì Mị ko chấp nhận điều ấy bởi Mị hiểu rõ gia đình nhà Thống lí Pá Tra. Đó là nơi hang hùm nọc rắn, Mị hiểu rõ bản chất của cuộc hôn nhân gả bán này: "Bố đừng bán con cho nhà giàu". Rõ ràng chỉ là 1 câu nói giản đơn nhưng phần nào đã gợi mở cho người đọc thấy được ở Mị có sức sống tiềm tàng bất diệt.

Mặc dù Mị phản ứng quyết liệt, Mị ko chấp nhận vào nhà thống lí Pá Tra thế nhưng Mị đang sống trong xã hội tiền quyền và thần quyền. Đó là xã hội phong kiến ở miền xuôi thế nên những người hiền lành nết na như Mị ko thoát được. Mị bị bắt cóc, bị lường gạt về cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đó. Biết được điều này "có đến mất tháng trời đêm nào Mị cũng khóc". Mị ko chấp nhận cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra, ý định tự tử đã đến với Mị. Mị cầm nắm lá ngón trên tay về lạy chào cha để định quyên sinh. Nhưng khi về đến gia đình, Mị mới nhìn thấy rõ bi kịch gia đình mình, bố Mị nói như van xin trong làn nước mắt: "Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày mà chết rồi ko lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Ko được, con ơi!"

Sau khi Mị nghe những lời nói như van xin của cha, cô đứng trước 1 hoàn cảnh éo le, oái oăm, cay cực. Mị sống ko muốn, Mị chết ko xong. Tuy nhiên việc Mị đã đến ý định tự tử lại thể hiện sức sống tiềm tàng, điều đó phải chăng là nghịch lý?

Mới nghe qua tưởng là nghịch lí nhưng ngẫm nghĩ lại trong hoàn cảnh của Mị đó lại là 1 điều hợp lí sâu sắc bởi vì Mị muốn chết như 1 con người còn hơn phải sống như 1 con vật. Mị muốn chết ngay 1 lần để được làm người còn hơn phải sống cuộc sống chết dần, chết mòn, chết khô, chết héo, chết cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhưng nếu làm theo sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng thì Mị phải trà đạp lên chữ "hiếu", Mị ko thể giày xéo lên tình phụ tử. Vì chữ "hiếu" Mị đành vứt nắm lá ngón, gạt nước mắt quay trở lại nhà thống lí. Nhà thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài chả khác nào thiên la địa võng, dấn thân vào đó là dấn thân vào chỗ chết, vào địa ngục trần gian. Biết được điều này nhưng Mị vẫn chấp nhận vì thương cha. Đọc đến đây ta nhớ đến bi kịch của Thuý Kiều hơn 200 năm trước "bán mình chuộc cha". Hôm nay bi kịch ấy lại đổ dồn lên đôi vai gầy của người con gái Mèo nghèo khổ. Giữa những năm đó, miền Bắc nước ta đang tiến lên Chủ nghĩa xã hội nhưng ánh sáng của Đảng chưa rọi tới cuộc sống của những người vùng cao. Là 1 chiến sĩ trên diễn đàn văn chương, nói như Hồ Chí Minh: "Văn học nghệ thuật là 1 mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy". Tô Hoài thông qua "vợ chồng A Phủ" đem ánh sáng của Đảng rọi lên kiếp đời thổ ti lang tảo ở bản Mèo để "cứu đất cứu Mường". Bắt đầu từ đây Mị sống khác hẳn, Mị ko khóc như trước nữa. "Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", như cái bóng, cái xác vô hồn trong địa ngục trần gian. Mị sống chẳng qua là kéo dài những ngày chưa chết được, điều này đã được Tô Hoài thể hiện ngay ở mươi dòng đầu câu chuyện với những câu văn đầy tính tạo hình. Nhà văn đã dựng lên trước mắt chúng ta với sức sống tàn phai, mai một: "Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra...cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".

Phải nói rằng những trang viết về mùa xuân là những trang tuyệt bút của nhà văn Tô Hoài. Ta bắt gặp ở 1 nhà văn hiện thực lại có những trang văn lãn mạn. "Vợ chồng A Phủ" xứng đáng là 1 minh chứng cho lời nhận định: "Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 có sự kết hợp hài hoà giữa 2 nhân tố hiện thực và lãn mạn". Nhưng điều cta quan tâm hơn cả là ngòi bút tâm lí của nhà văn Tô Hoài khi mô tả sự trỗi dậy sức sống tiềm tàng của Mị. Ông tỏ ra am hiểu những tâm lí phức tạp, âm thầm trong tâm hồn người phụ nữ:

Đầu tiên là sự thay đổi bên ngoài. Năm ấy mùa xuân về sớm hơn mọi năm. Tô Hoài mô tả những làn gió đem mùa xuân về trên khắp các bản làng. Những nương thuốc phiện đã nở hoa sặc sỡ, cả bản Mèo đều cuốn vào không khí của ngày hội. Trên những bản của người Mèo đó, trai gái đã mang váy áo ra phơi trên những mỏm đá trông sặc sỡ như những cánh bướm. Ban ngày trai gái mặc quần áo mới đến đánh quay, ném pao, tung còn,... Tất cả những hình ảnh này đã dội vào tâm hồn Mị - 1 tâm hồn khô cằn, nó làm cho sức sống của Mị bắt đầu có sự vận động, nó chẳng khác nào những nốt nhạc đầu tiên của bản nhạc tình ca thay đổi lớn sắp diễn ra trong lòng người đàn bà đã và đang phải chịu quá nhiều đau khổ.

Kế đó là tiếng sáo đêm tình mùa xuân. Trong không gian tiếng hát, tiếng sáo, tiếng khèn lá, khèn môi của trai bản gọi bạn tình cứ réo rắt nhau đi hết quả đồi này sang quả đồi khác. Nó đánh thức dậy những bài hát lâu nay tiềm ẩn sâu trong tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm lại những bài hát ngày xưa. Ngày xưa, Mị thổi sáo thật tài, chỉ cần uốn lá trên môi, cô thổi lá hay như thổi sáo:

"Anh ném pao

Em ko bắt

Em ko yêu

Quả pao rơi rồi"

Hay: "Mày có con trai, con gái rồi

Mày đi làm nương

Tao chưa có con trai, con gái

Tao đi tìm người yêu"

Nhưng điều đáng nói hơn cả là chính tiếng sáo ấy đã đánh thức dậy 2 tiếng "ngày xưa" từ trong lòng Mị. Kể từ ngày bước chân vào nhà thống lí Pá Tra, Mị sống cuộc đời phi ko gian, phi thời gian. Thế giới của Mị là 1 căn buồng tăm tối, nhìn ra bên ngoài qua ô cửa mờ mờ, trăng trắng, không biết ngày hay đêm, sương hay nắng. Khi 1 người không nhận thức được ngày, đêm, sương, nắng nghĩa là ko nhận thức được ko gian và thời gian, cũng đồng nghĩa với sức sống của họ đang tàn phai, mai một. Hôm nay thì khác, thời gian đã trở về với Mị, thời gian ấy cho Mị thấy hiện tại quá khổ đau, quá khứ ngày xưa mới là hạnh phúc. Thế là Mị luôn hướng về ngày xưa, hướng về quá khứ, muốn kéo dài quá khứ, muốn vớt vát quá khứ để bù đắp những cay đắng trong hiện tại.

Mùa xuân năm ấy, khi sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy, nhà văn Tô Hoài rất khéo léo khi đưa bất cứ 1 hình ảnh nào đến với Mị thì hình ảnh ấy đều là chỗ dựa cho sức sống của Mị trỗi dậy. Nhất là bữa cơm tất niên trong gia đình nhà thống lí Pá Tra với hình ảnh của những người ốp đồng nhảy múa vui vẻ trong tiếng nhạc sinh tiền càng làm cho lòng Mị trở nên rộn ràng, náo nức. Niềm rộn ràng, náo nức ấy thực sự là nỗi thúc bách khi những người trong nhà thống lí mặc váy áo mới đi chơi. Như vậy, sức sống tiềm tàng của Mị đã trỗi dậy, nó trở thành đòi hỏi bên trong muốn cất cánh ra bên ngoài. Rồi Mị lén lấy hũ rượu, Mị uống ừng ực từng bát, Mị uống như nuốt những tủi hờn, cay đắng vào trong lồng ngực. Mị uống như nuốt hiện tại khổ đau để trước mắt Mị giờ đây chỉ còn là quá khứ hạnh phúc. Thế là Mị đang sống lại ngày trước với quãng đời thiếu nữ tự do, với hạnh phúc trong mối tình đầu. Việc làm tiếp theo của Mị khi cô bước vào căn buồng tăm tối ấy là Mị xắn 1 miếng mỡ để vào trong đèn cho đèn sáng hơn. Đây ko còn là chi tiết sinh hoạt nữa mà nó trở thành 1 chi tiết có chiều sâu nghệ thuật bởi trước đây ko thiết sống nên căn buồng của Mị tăm tối, hôi hám, luộm thuộm, ẩm thấp, bẩn thỉu... Mị cũng chẳng bận lòng. Hôm nay thì khác, lòng yêu đời vừa mới trở về với Mị. Mị muốn đời mình phải sáng sủa hơn. Thế nên hành động Mị xắn miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho đèn sáng hơn cũng đồng nghĩa với việc Mị thắp lên ngọn lửa trong lòng mình. Mị thấy mình trẻ đẹp, Mị muốn đi chơi hội như bao người đàn bà có chồng khác ở Hồng Ngài. Mị chuẩn bị, sửa soạn đi chơi. Mị tìm cái váy hoa đẹp nhất của mình vắt tít trên vách. Khi 1 người đàn bà khổ đau sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, như cái bóng, cái xác vô hồn giữa địa ngục trần gian bỗng 1 hôm thấy mình trẻ ra, đẹp hơn, muốn ăn mặc đẹp, đó là dấu hiệu đầu tiên của sự tái xuân. Đó là lúc sức sống tiềm tàng trỗi dậy mạnh mẽ nhất trong lòng Mị. Thế nhưng sức sống ấy đã bị dập tắt ngay lập tức, A Sử đã vùi dập nó 1 cách phũ phàng, hắn trói Mị bằng một thúng dây đay từ chân lên đầu. Chưa bao giờ Mị lại cảm thấy nhục nhã như thế, sự so sánh đã bắt đầu xuất hiện trong Mị, Mị thấy mình ko bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra, khi mỏi còn được đổi tàu, còn được gãi chân, nhai cỏ, còn Mị khóc ko tự lau được nước mắt. Cơ chừng sau lúc ấy sức sống tiềm tàng của Mị tắt hẳn.

Cuộc đời của Mị sẽ cứ như thế cho đến chết nếu như Tô Hoài ko để cho Mị gặp đc 1 người. Người ấy đã tiếp cho Mị 1 sức mạnh vô cùng để 1 lần nữa sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy để giải thoát đời mình, giải thoát người cùng cảnh ngộ, đó là A Phủ. A Phủ bị trói, bị bỏ đói hàng tuần lễ giữa những ngày mùa đông đầy sương muối ở vùng cao. Đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa để hơ tay. Mị vẫn nhìn thấy A Phủ nhưng có lẽ sống lâu trong địa ngục trần gian, trong gia đình nhà thống lí mà việc đánh trói con người còn nhiều hơn cơm bữa nên lòng thương người của cô Mị nết na đã bị chai sạn, chai lì. Vẫn nhìn thấy A Phủ. Mị không động lòng thương nhưng hnay thì khác. Chợt nghe thấy tiếng thở phì phì của A Phủ, Mị bất chợt nhìn sang và giật mình nhận thấy 1 chàng trai to khoẻ nhất bản giờ đây đã bị đánh đến tiều tuỵ, mặt sám lại, má hõm sâu, 2 con mắt trũng sâu đầy bóng tối. Và đúng lúc đó, 2 hàng nước mắt từ hai hố mắt lặng lẽ bò xuống hõm má. Mị cảm thấy ko thể đành lòng, niềm thương cảm chợt dâng lên trong lòng Mị, Mị nhớ đến mình ngày trước cũng bị trói, bị đánh như thế. Thương mình Mị lại thương người, Mị ném ra câu nói như thế này trong bóng tối: "Ta là thân đàn bà nó đã trình ma nhà nó chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đây, người kia việc gì phải chết...A Phủ". Khi 1 người đàn bà khổ đau, sống lầm lũi trong bóng tối bỗng 1 hôm ném ra câu hỏi như thế, đó là khởi đầu của sự nổi loạn. Sức sống tiềm tàng đã trỗi dậy thành sức mạnh, sức mạnh ấy đã biến 1 người đàn bà yếu đuối thành 1 người can đảm, biến 1 người nhẫn nhục trở thành 1 người phản kháng. Chưa bao giờ người đọc lại thấy Mị liều lĩnh như thế. Nghĩ đến cái chết Mị cũng không sợ nữa, ý định cứu A Phủ đã đến với Mị trong khoảnh khắc Mị rút dao cắt dây trói cho A Phủ. Cho đến vòng dây cuối cùng được cắt đứt, A Phủ quỵ người xuống rồi lại quật người đứng dậy chạy băng băng vào trong bóng tối. Đến lúc này đây, Mị vẫn chỉ nghĩ đến việc cứu A Phủ. Đến khi A Phủ chạy xuống cái dốc, Mị nhìn lại thấy nguy cơ mình có thể bị chết thay vào đó, ý định tự cứu mình đã đến với Mị, Mị nói: "A Phủ! Cho tôi đi!". Đây là 1 câu nói của lòng ham sống trong giờ phút nguy cấp để giải thoát đời mình. Thế là 2 người nô lệ giải thoát cho nhau, nương tựa vào nhau, trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa.

Việc Mị giải thoát cho A Phủ có thể coi như 1 chiếc bản lề khép mở 2 thế giới. Nó khép lại thế giới tăm tối với kiếp sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài, đồng thời nó mở ra thế giới mới - thế giới tươi sáng ở phía Phiềng Sa. Với hành động này của Mị, nó đã đưa "vợ chồng A Phủ" trở thành tác phẩm bản lề trên diễn đàn văn chương Việt Nam. Nó khép lại những hạn chế của 1 dòng văn học hiện thực phê phán 1 thời. Nó mở ra 1 hướng đi mới cho văn học kháng chiến và đây nó trở thành mốc thách thức của chính nhà văn Tô Hoài. Đến Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã gặp được ánh sáng của Đảng, gặp được cán bộ Cách mạng A Châu. Và 2 người đã tham gia Cách mạng, chỉ có Cách mạng mới soi sáng được kiếp người trâu ngựa, nô lệ. Và cũng chỉ có Mị và A Phủ mới là những người cách mạng trung kiên. Nói như nhà thơ Tố Hữu:

"Đời Cách mạng từ khi tôi đã hiểu

Dấn thân vô là fải chịu khổ nhiều

Là gươm kề cổ, là súng kề tai

Là thân sống chỉ coi còn 1 nửa

"Vợ chồng A Phủ" mô tả quá trình bừng thức, vùng lên của kiếp sống nô lệ này. Ngòi bút của Tô Hoài đã thể hiện là ngòi bút nhân văn, nhân đạo sâu sắc và cao cả. Và "vợ chồng A Phủ" mãi là bài ca ca ngợi tự do, lòng yêu đời.

Bài văn mẫu số 2

Theo Tô Hoài "Nhân vật là trụ cột của sáng tác, phải chuẩn bị nhân vật trước tiên". Từ quan điểm ấy, Tô Hoài đã xây dựng được một số nhân vật để lại ấn tượng thẩm mĩ trong lòng người đọc. Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài đến với chúng ta đầu tiên trong cái dáng "lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa", suốt ngày làm lụng, "lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Tưởng đâu như sức sống đã lụi tàn trong tâm hồn cô gái. Nhưng không, từ tận đáy sâu tâm hồn câm lặng ấy vẫn le lói những tia lửa sống chỉ chờ dịp mà bùng lên mạnh mẽ.

Cuộc đời của Mị được tính từ khi cô về làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Thường thì, khi con gái lấy chồng giàu thì sướng, nhàn hạ. Nhưng đây, Mị chỉ lùi lũi một mình, câm lặng. Xưa kia Mị cũng đã có một thời con gái hạnh phúc (dù trong đói nghèo). Những đêm tình mùa xuân, con trai đến thổi sáo đứng "chật cả chân vách đầu buồng Mị". Và Mị đã có một tình yêu, có hiệu gõ vách hẹn hò. Tâm hồn cô gái xinh đẹp và tài hoa ấy luôn luôn mở rộng để đón nhận mọi hương hoa của cuộc đời. Nhưng rồi tất cả đều chấm dứt trong cái đêm Mị bị bắt cóc về nhà thống lí Pá Tra. "Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa." Mị bị bắt cóc để rồi trở thành con dâu thống lí là trả cho cái món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ Mị.

Những ngày đầu làm dâu nhà thống lí, thấm thía nỗi đau của một cuộc đời bị cướp đoạt "đêm nào Mị cũng khóc". Đúng là về làm dâu gạt nợ, Mị bị cha con thống lí đối xử không khác gì con vật. Suốt ngày Mị chỉ "ngồi quay sợi gai, cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi". Cuộc đời cô cột chặt vào những công việc nặng nhọc. Đọc đoạn văn mở đầu của truyện không thể không băn khoăn, khao khát muốn tìm hiểu nguyên nhân xô đẩy Mị vào tình cảnh mà cô phải chịu.

Trước khi về cửa nhà thống lí, Mị đẹp như một bông hoa rừng. Cô là một phụ nữ trẻ, đẹp, chăm chỉ công việc, giàu lòng hiếu thảo, tự tin, thông minh... Người con gái ấy là niềm khát khao, ước mơ của bao nhiêu chàng trai. "Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị". Mị chưa kịp nếm những trái ngọt của cuộc đời đã phải cay đắng tìm đến nắm lá ngón, mong kết liễu một cuộc đời không ra gì. Bởi vì, Mị không muốn chấp nhận một cuộc sống chết mòn, héo úa – điều này chứng tỏ con người Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt , muốn thoát khỏi cuộc sống nô lệ. Nhưng vì tình thương cha, lòng hiếu thảo, Mị không đành chết nên vứt nắm lá ngón, trở lại nhà thống lí. Ngày lại ngày qua, nỗi khổ cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng trong con người Mị. Mị không nghĩ đến cái chết nữa (ngay cả khi cha cô không còn). Mị tưởng mình cũng chỉ là con trâu, con ngựa nhà thống lí. Sống trong nhà thống lí, ách áp bức của giai cấp thống trị, thần quyền, sự mê tín đã biến Mị trở thành con người hoàn toàn khác "Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Dường như mối giao cảm giữa Mị với cuộc sống bên ngoài chỉ còn thu hẹp của "căn buồng âm u, kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lác nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng."

Ý thức làm người vốn có của Mị đã bị giai cấp phong kiến làm tê liệt. Càng ngày cô càng không nói chỉ "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Con người nô lệ trong Mị vẫn còn sống còn con người thực vốn có của cô thì dường như đã chết. Mị chỉ là cái bóng vô cảm, vô hồn, lãng quên dĩ vãng, không gắn bó với hiện tại, nghĩ đến tương lai. Tô Hoài rất thành công khi diễn tả tinh thần chết dần , chết mòn của một cô gái xinh đẹp. Nhưng càng thành công trên lĩnh vực ấy bao nhiêu thì khi thể hiện quá trình hồi sinh của Mị càng khó bấy nhiêu. Phải chăng, cuộc sống thực tại đã làm tâm hồn Mị nguội lạnh, thờ ơ, phải chăng cô Mị xinh đẹp ngày xưa nay phải cam chịu cảnh sống mà như chết? Cuộc sống của Mị dường như đã rơi vào bi kịch, làm sao để giải thoát được bi kịch ấy, làm sao cho quá trình hồi sinh ấy được vận động như ý của nhân vật chứ không phải là khát vọng của nhà văn gán cho nó.

"Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha, bồi hồi". Tiếng sáo ấy đã khơi dậy sức sống ẩn náu trong Mị tưởng như đã nguội tắt. Mị còn nhớ như in những lời hát tình tứ mà Mị đã nghe, đã hát, đã thổi sáo, thổi kèn lá ngày nào. Hiện tại bây giờ cô đang sống lại cảnh tượng ngày xưa. Cô đâu phải là con người "chết dần chết mòn" về nhân tính như Chí Phèo. Tiếng sáo giờ đây đã thấm vào trái tim Mị, thức tỉnh sự câm lặng bấy lâu. Rồi Mị uống rượu, men rượu hay men cuộc đời đã nâng bỗng tâm hồn Mị lên, tâm hồn Mị thoát xác, vượt ra ngoài cái ô cửa "mờ mờ trăng trắng kia". Khát vọng được đi chơi bỗng bùng cháy trong tâm hồn Mị. Khát vọng ấy là cuộc khởi nghĩa nhân tính trong Mị. Bởi vì, từ ngày về làm dâu nhà thống lí "Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi". Vậy mà, khi "tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới". Mị bỗng vùng dậy đột ngột, "tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng". Sau bao năm sống trong gia đình thống lí, lần đầu tiên tiếng sáo của ai đó đến với Mị như một âm thanh của hiện tại. Rồi sau đó tiếng sáo làm sống lại bao rung động tâm linh của mùa xuân năm nào. Mới đầu tiếng sáo còn lấp ló nơi đâu núi, cuối cùng tiếng sáo đã thực sự hóa thân, nhập thân trong Mị. "Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo". Góp phần làm nên cuộc "nổi loạn" nhân tính trong Mị có nhiều yếu tố; yếu tố ngoại lực, yếu tố nội lực. Trong đó, yếu tố quan trọng nhất phải chăng là tiếng sáo mùa xuân. Ngày xuân, không có gì cuốn hút Mị bằng tiếng sáo, tiếng sáo đối với Mị mỗi lúc một mãnh liệt. Từ đầu là những âm thanh xa xôi, sau đó tiếng sáo trở thành lời mời gọi giúp Mị lãng quên quá khứ, sống vui vẻ với tương lai, "tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, đám chơi".

Quá trình hồi sinh của Mị đã không được miêu tả một cách dễ dãi, hời hợt. Tâm trạng nhân vật được nhìn nhận từ cái nhìn lưỡng phân. Con người hiện tại dường như đã chết, con người quá khứ đang dần dần từng bước được hồi sinh. Mị như cây hoa ban, hoa đào Tây Bắc trước lúc vào xuân, nhìn bề ngoài thì có vẻ khẳng khiu, khô gầy, mỏng manh như đã chết nhưng bên trong sức sống vẫn âm ỉ, vẫn chờ thời để bừng sáng sắc xuân. Tết dến, Mị rất muốn đi chơi, nhưng A Sử không cho Mị đi, năm nào cũng vậy A Sử toàn đi một mình để Mị ở nhà như người xa lạ. Nhưng giai cấp phong kiến, gia đình nhà thống lí không thể cưỡng ép dược Mị lâu, một con người sức sống đang còn cháy rực trong tâm hồn. Lúc này khi "tiếng sáo đang lửng lơ bay ngoài đường" gọi bạn đi chơi mà Mị phải ngồi cô độc trong xó cửa. Cô không thể dằn lòng được "Mị vùng dậy khêu đèn sáng, cuốn lại tóc, mặc váy hoa vắt ở vách" toan bước đi, tìm đến nơi đang lửng lơ bay tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha. Nhưng Mị vừa toan bước đi thì A Sử lại kéo cô lại.A Sử không hề đánh đập, chửi rủa mà lầm lì như cái bóng từ từ trói cô vào cột nhà. Và bây giờ Mị mới bật khóc, khóc cho cái oan trái của một kiếp người khao khát muốn sống, muốn yêu mà lại bị ghì chặt vào một cuộc sống "không bằng con ngựa". Nhưng cũng từ đấy sức sống của một cô gái yêu đời lại trỗi dậy. Trong bóng tối, cô đang mơ màng đi theo tiếng sáo, tiếng sáo ấy đã có lần đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Nhưng rồi quá khứ chưa đi, hiện tại lại về. Giờ đây, Mị đang bị A Sử trói, dường như cô sống mà như đã chết. Đã chết phần hồn lẽ nào giờ đây cô lại để chết cả phần xác, Mị thấy xung quanh mình chỉ là bóng tối, không một tiếng động, cô "vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa".

Thời gian lại trôi qua, cho đến cái đêm A Phủ bị trói đứng vào cây cọc gỗ trong nhà thống lí vì để hổ bắt mất con bò... A Phủ vì đánh lại con quan nên làng phạt vạ, và trở thành người ở gạt nợ của gia đình thống lí còn Mị là dâu gạt nợ. A Phủ - Mị có cùng một cảnh ngộ, cùng là người đi ở gạt nợ cho nhà thống lí. A Phủ bị trói đã mấy đêm rồi nhưng đêm nào cũng vậy. Mị dậy đốt lửa sưởi và thản nhiên như không có gì bên cạnh. Mỗi đêm, đêm nào cũng vậy khi ngon lửa bùng, Mị nhìn sang biết A Phủ còn sống nhưng Mị không hề nói năng gì. "Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa". Bởi vì, tâm hồn Mị đã khép kín và câm lặng rồi. Mặc dù , với ngọn lửa to như thế, hồng như thế cô vẫn cảm thấy lành lạnh, cô đơn. Sự cô đơn ấy cô đã từng nếm thử nhưng bây giờ nó cay và đắng lạ. Mị chỉ biết ngồi một mình bên bếp lửa. Dường như sức sống trong tâm hồn cô đã cạn dần? Không, ngược lại, sức sống trong cô lâu nay bị dồn nén quá sức bây giờ nó đã vỡ tung ra khi "Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị hé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ". Dòng nước mắt ấy đã làm trỗi dậy trong Mị tình thương những người cùng cảnh ngộ. Mị chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cột nhà như thế kia, cũng "nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được". Cũng như lần trước, một khi ý thức sống trỗi dậy, thì Mị lại nghĩ đến cái chết, nhưng lần này là một cái chết oan ức, vô lí của một người khác. Vì mê tín, vì đã là người của nhà thống lí, Mị cam chịu chết ở cái nhà này. Còn A Phủ việc gì phải chết, A Phủ phải được sống. Sau ý nghĩ ấy lòng thương người lớn hơn nỗi thương thân, Mị đã cam chịu chết thì cô sợ gì mà không cứu A Phủ. "Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cần biết đợi ngày mà rũ xuống ở đây thôi...Người kia việc gì phải chết".

Rõ ràng, Mị đã suy nghĩ kĩ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô sẵn sàng chịu trói thay cho A Phủ. Nghĩ đến lúc rơi vào tình cảnh ấy Mị cũng không thấy sợ. Ngược lại, lúc này cô bình tĩnh, can đảm hơn bao giờ hết. Đến giờ phút này thì việc rút dao cắt dây trói cho A Phủ là một việc làm tất nhiên có thể xảy ra. Đó là hành động tự bản thân Mị chứ không phải là sự phát triển của tình huống truyện do tác giả sắp đặt. A Phủ đã được giải thoát, lòng thương của Mị đã chiến thắng còn Mị vẫn đứng trong bóng tối. Vẫn biết rằng Mị không sợ hình phạt của thống lí, không sợ phải chết thay cho A Phủ vì chết đối với Mị là sự giải thoát. Mị vốn vẫn nghĩ thế. Nhưng thấy A Phủ đã chạy đi rồi, chạy đi đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tỉnh hẳn. Mị không muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống "Mị cũng vụt chạy ra" theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình. Hành động cởi trói cho A Phủ bắt nguồn từ một sức sống tiềm tài mãnh liệt. Trong tính cách của Mị, không một uy vũ nào có thể dập tắt nổi. Hành động chạy theo A Phủ là một hành động thật bất ngờ nhưng rất hợp lí. Lần này, thì sức sống mãnh liệt của Mị đã chiến thắng. Mị đúng là con người thật hơn con người thật. Đêm cuối cùng ở nhà thống lí Pá Tra, Mị đã thành thật xin A Phủ xin cho đi theo, lời xin ấy cũng chính là ngon lửa lâu ngày âm ỉ nay đã dược bùng cháy.

Nhân vật Mị đã thu hút người đọc bằng chính cái sức sống tiềm ẩn ấy. Tô Hoài đã rất thành công khi tạo dựng nhân vật này. Một cô Mị xinh đẹp, tài hoa, yêu đời, ham sống mà luôn luôn nghĩ đến cái chết vì không được sống cho ra sống. Một cô Mị câm lặng, khép kín mà luôn luôn bùng nổ những hành động chống đối mãnh liệt. Mâu thuẫn đấy mà lại hết sức thống nhất, tự nhiên, hợp lí. Người đọc có cảm giác ấy là nhờ cách kể chuyện rất sinh động, kết cấu hình tượng chặt chẽ và nhất là nhờ những chi tiết nghệ thuật có tính biểu cảm cao: một lỗ cửa sổ, "mờ mờ trăng trắng" soi rọi cuộc đời của cô con dâu gạt nợ nhà thống lí; một tiếng sáo gọi bạn tình đêm xuân bồi hồi, tha thiết như giục giã, như gọi mời; những hơi rượu say nồng đêm xuân; những giọt nước mắt trong đêm cuối cùng ở nhà thống lí... Ở Mị có sự dửng dưng vô cảm, bên cạnh lòng thương xót sâu xa; có lúc lãng quên tất cả và cũng có lúc trào dâng nỗi nhớ thiết tha bồi hồi. Từ chỗ không thấy sợ Mị bỗng trở thành người hoảng hốt. Tất cả các trạng thái đối nghịch ấy của tâm hồn Mị đều được Tô Hoài dẫn dắt, phân tích một cách hợp lí tưởng như không có thể nào khác được.

Đọc Vợ chồng A Phủ ta thấy Mị là bức chân dung tĩnh lặng. Hầu như trong thời gian ở nhà thống lí Mị chỉ nói có vài ba câu. Nhưng ẩn chứa trong tâm hồn câm lặng ấy là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch suối ngầm trong mát. Tiếp xúc với Vợ chồng A Phủ ta nhớ, ta yêu một cô Mị ở Hồng Ngài càng bị đọa đày, đau khổ càng khao khát muốn vươn lên một cuộc sống tôt lành. Một cô Mị tiềm tàng sức sống mãnh liệt để có thể hiểu hơn một cô Mị du kích Phiềng sa sau này.

Bài văn mẫu số 3

Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài (xuất bản năm 1953). Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước Cách mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ. Tô Hoài đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Mị với diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp.

Nhân vật Mị mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người, đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến, ước ao. Tuổi thanh xuân hứa hẹn với cô bao điều tốt lành, nhưng chì vì món nợ cha mẹ cô vay của tên thống lí Pá Tra từ ngày cưới, cho đến khi mẹ cô đã chết mà vẫn chưa trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà hắn.

Mị bị coi như một thứ đồ vật vô tri vô giác để tính ra tiền trừ vào số nợ. Những năm tháng Mị sống với cha con tên thống lí gian ác là chuỗi dài đau thương, khổ ải. Cô bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa.

Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu. Cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, đa cảm thủa nào đường như đã chết, chỉ còn lại người đàn bà lúc nào cũng vậy... cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi... ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa... của nhà thống tí. Mị sống âm thầm, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

Không những bị đọa đày về thể xác, Mị còn bị đè nén, áp bức về tinh thần. Cô chán sống nhưng không được chết, vì Mị chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn và người bố già càng thêm đau khổ. Cuộc đời Mị bị trói buộc bằng quyền lực, bằng tập tục mê tín dị đoan lâu đời của người dân miền núi. Mị cho rằng mình đã bị Con ma nhà thống lí nhận mặt: nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi.

Cách đối xử bất công, tàn bạo của cha con thống lí làm cho Mị sống triền miên trong đau khổ. Cô lặng lẽ ra vào như cái bóng, không một người bạn chia sẻ tâm tình. Cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Thân xác Mị héo úa, tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo... Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời.

Không có người thông cảm với nỗi khổ của mình, Mị phải tìm đến ngọn lửa và coi nó là bạn... Khổ biết chừng nào!

Tác giả giúp người đọc hình dung rõ hơn về cuộc đời bế tắc của Mị qua hình ảnh căn buồng cô ở kín bưng, tối mò, chỉ thông với bên ngoài bằng lỗ cửa sổ bé như bàn tay. Ở trong nhìn ra không biết là đêm hay ngày, sương hay nắng...

Bao năm qua, bị đày đọa trong nhà thống lí, mọi cảm xúc của Mị hầu như tê liệt. Tinh thần phản kháng cũng vậy. Mị nghĩ rằng mình là con trâu con ngựa của nhà giàu, chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Con trâu, con ngựa đêm còn được nghỉ, còn cô không lúc nào ngớt việc. Trước kia, có lần cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón tự tử, giờ đây cô không nghĩ đến cái chết nữa vì đã quá quen với cái khổ rổi. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi trong vô vọng. Với Mị, cuộc sống không còn ý nghĩa.

Đau khổ kéo dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm xúc, khát khao dã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống âm thầm, mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị dày đọa kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng... Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi...

Rõ ràng, bản chất đích thực đã trở lại với Mị. Tất cả mọi giác quan, cảm xúc tưởng như đã lụi tàn vì đau khổ nay đang sống dậy. Mị thấy mình còn trẻ lắm, mà còn trẻ thì phải được hưởng hạnh phúc. Vì thế nên bất chợt Mị muốn đi chơi. Nhưng khát vọng chính đáng đã bị hiện thực phũ phàng vùi dập. A Sử đánh Mị, trói Mị, Mị vẫn thả hồn lâng lâng theo tiếng sáo gọi bạn. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi tình yêu khơi lên niềm khao khát hạnh phúc trong lòng Mị. Phản ứng tự phát ban đầu của Mị không thể giải phóng được cuộc đời cô nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, có ngày nó sẽ bùng cháy dữ dội khi gặp cơn gió mạnh.

Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh, mấy đêm đầu, Mị vẫn thản nhiên thức dậy sưởi lửa. Mị thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người xảy ra thường xuyên ở nhà thống lí. Nhưng đêm nay, trông thấy dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại
của A Phủ, Mị không cầm lòng được. Mị thương A Phủ cũng bị rơi vào vòng đọa đày, khốn khổ như mình. Cô liên tưởng tới bao kẻ tôi tớ khác trong nhà này đã bị cha con tên thống lí bạo tàn đối xử dã man. Có người chết đói, chết rét sau mấy ngày cùm trói. A Phủ kia cũng sẽ như vậy thôi và đến một ngày nào đó, Mị cũng thế. Hơn bao giờ hết, ý thức về nỗi khổ, về thân phận trỗi dậy trong lòng Mị. Nếu cứ cúi đầu chấp nhận số phận có nghĩa là chấp nhận cái chết bi thảm. Từ hình ảnh đau thương của A Phủ trước mắt, Mị liên tưởng đến tương lai mù tối, bế tắc của mình. Chính điều đó đã làm sống lại trái tim tưởng chừng đã bị đau khổ làm cho chai đá của Mị. Cô thương người, thương thân. Giọt lệ bất lực và thống khổ của A Phủ như giọt nước cuối cùng làm tràn đầy bình nước, cảm thương số phận A Phủ, một chàng trai dũng cảm, khỏe mạnh sắp bị cướp đi mạng sống, Mị càng thương thân và càng căm thù cha con tên thống lí gấp bội. Cái thương cái ghét bùng lên, lấn át nỗi sợ, dẫn Mị đến hành động táo bạo ngoài ý thức: cắt dây trói cứu A Phủ. Đây là hành động bộc phát song nó là kết quả tất yếu của cả một quá trình bị dồn nén, bức xúc về mặt tinh thần bây giờ đã đến lúc giải thoát và đó cũng chính là biểu hiện tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng ẩn chứa trong con người Mị bấy lâu nay. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt dứt những dây trối vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Cô vụt chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được nỗi khổ và sự sống còn của mình: ở đây thì chết mất Mị chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, cô tự giải phóng mình khỏi nanh Vuốt cha con tên thống lí tàn bạo. Từ trong cái địa ngục giam cầm đày ải mình suốt mấy năm qua, từ trong sự bủa vây tàn khốc của cái chết, Mị đã vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.

Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong hoàn cảnh đau thương, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định không bạo lực đen tối nào có thề vùi dập được sức sống và khao khát tự do của con người ; đồng thời nhấn mạnh rằng, chỉ có sự tự vùng dậy của bản thân theo sự dẫn dắt của cách mạng mới giải phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm.

Bài văn mẫu số 4

Vợ chồng A Phủ là truyên thành công nhất trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài. Trong truyện này, nhân vật Mỵ có hồn hơn cả. Mị có hai mặt tưởng như đối lập nhưng thực ra lại rất thống nhất. Mặt thứ nhất là Mỵ bị chà đạp nặng nề đã sinh ra buồn rầu và dần dần sinh ra cam chịu, mất cả sức sống. Mặt thứ hai là ngay trong tình trạng đó, Mỵ vẫn cựa quậy, vẫn tiềm tàng, tiềm ẩn một sức sống để từ đó bước vươn dậy và cuối cùng phá cũi tháo lồng và tìm lại được lẽ sống cho mình.
Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá-Tra là tấn bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời nàng. A Sử đối với nàng như đối với một người nô lệ. Nhưng vì nàng là ngươi con gái giàu tình thương, có đức hi sinh nên nàng đành cam chịu để trừ nợ cho cha. Ở lâu trong cái khổ, Mỵ quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu con ngựa. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào công việc cả đêm cả ngày . Quá đau khổ, nàng đã phản kháng bỏ nhà Pá Tra trở về. Nàng định lạy cha rồi ăn lá ngón chết. Nhưng khi nghe cha nói: Mày về lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ Không được con ơi!. Mị bưng mặt khóc, ném nắm lá ngón rồi trở về nhà Pá Tra. Vì quá thương cha mà nàng đành cam chịu cuộc sống nô lệ ở nhà thống lí.

Nhưng trong tâm trạng, trong bản chất cuộc sống của Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt. Trong nỗi buồn, trong suy nghĩ, trong ý muốn tự tử của nàng đã biểu lộ tinh thần không muốn cam chịu, không muốn chấp nhận cuộc sống lầm than, tủi cực hiện tại. Sức sống bị đè nén chỉ cần có cơ hội là nó sẽ bộc phát. Những đêm tình mùa xuân đã tới, tâm hồn Mị bị xáo trộn. Nàng đã lắng nghe tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, tha thiết bổi hổi. Mị ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi:

Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gá
Ta đi tìm người yêu

Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy hồi tưởng lại ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Mùa xuân, Mị uống rượu trên bếp và thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác. Sức sống lại dạt dào trong lòng nàng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Tiếng sáo còn rập rờn trong đầu Mị, Mị quấn lại tóc, Mị mặc váy hoa. Ai bảo cô Mị chỉ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa? Dĩ nhiên tuổi xuân của nàng đã bị tàn phá. Sức sống của nàng đã bị đè nén. A Sử trói Mị lại, quấn tóc lên cột. Đóng cửa buồng rồi bỏ đi. Thật là tàn bạo, Mị vẫn đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi.

Em không yêu, quả pao rơi rồi
Em yêu người nào, em bắt pao nào

Mị vùng vằng bước đi nhưng toàn thân đau nhức không cựa được. Sức sống tiềm tàng trong người Mị bộc phát thật là dữ dội.

Sức sống tiềm ẩn của Mị bộc lộ tột đỉnh trong hành vi nổi loạn giải thoát cho A Phủ và cho chính mình. A Phủ là người ở trừ nợ (vì đánh A Sử nên bị phạt vạ) trong nhà thống lí. A Phủ chăn bò bị hổ ăn mất một con. A Phủ bị trói. Đêm đêm, Mị dậy sưởi lửa thấy mắt A Phủ trừng trừng, biết A Phủ còn sống, Mị vẫn lạnh lùng vì đời Mị khổ quá, Mị chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử thấy Mị ở đây đã đập Mị ngã xuống cửa bếp nhưng trái tim của cô gái giàu yêu thương ấy lại thổn thức. Đêm khuya Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Cách miêu tả sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy trong lòng Mị bằng ngọn lửa bập bùng sáng lên thật là hay! Nàng nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã sạm đen lại. Mị nhớ lại đêm A Sử trói Mị, nàng thốt lên trong lòng Trời ơi! Nó bắt trói đứng người ta đến chết! Nó đã trói chết một người đàn bà trong nhà ngày trước cũng ở chỗ này. Nàng nghĩ đêm mai là người kia chết. Người kia việc gì mà phải chết. Rồi nàng vận vào mình, biết đâu A Phủ trốn thoát, bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó. Mị phải trói thay vào đó, Mị phải chết trên cái cọc ấy, Mị không thấy sợ. Đấy chỉ là những tư tưởng nổi loạn trong lòng Mị và từ tư tưởng nổi loạn đến hành động nổi loạn chỉ có một li. Mị đã rón rén bước lại gần A Phủ. Nàng rút con dao nhỏ cắt lúa cắt nút dây mây trói A Phủ. Mị thì thào: Đi ngay!. Mị cắt sợi dây trói A Phủ cũng chính là nàng đã cắt sợi dây vô hình trói nàng vào gia đình thống lí Pá Tra. Nàng đã chạy theo A Phủ, A Phủ nói: Đi với tôi và hai người lẳng lặng đỡ nhau chạy xuống dốc núi. Hình ảnh đó nói lên sự can đảm liều lĩnh của Mị. Hành động táo bạo này có ý nghĩa quyết định trong cuộc đời Mị. Mị và A Phủ đã nương tựa vào nhau và thành vợ chồng A Phủ để xây dựng cuộc đời mới. Hành động giải thoát của Mị có xen lẫn ý thức tự phát và tự giác. Có lẽ ý thức tự phát mạnh hơn. Đó chính là kết quả biểu lộ tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng, tiềm ẩn của Mị trước đó. Hành động giải phóng và tự giải phóng này của Mị có nguồn gốc từ cái buồn rười rượi, từ cái cách uống ừng ực từng bát rượu và ngay cả ý định muốn tự sát của Mị.
Nguồn gốc sâu xa của hành vi đó là ở tấm lòng giàu tình cảm, giàu lòng thương người của Mị, còn nguyên do trực tiếp là tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân đã thức dậy trong tâm hồn nàng lòng yêu đời, niềm tha thiết với cuộc sống tự do.
Có thể nói sức sống tiềm tàng của Mị là sức hấp dẫn của nhân vật này trong thời gian Mị ở Hồng Ngài. Tô Hoài đã đặt Mị trong mối xung đột xã hội gay gắt, những thế lực tàn bạo của xã hội phong kiến thống trị cũa người H-mông đã chà đạp lên số phận của nàng, tưởng như nàng không còn con đường nào thoát khỏi sự huỷ diệt. Vậy mà chính sức sống tiềm ẩn của nàng đã tự cứu nàng. Tô Hoài đã miêu tả một cách xuất sắc sự vận động nội tâm của nhân vật và dẫn đến hành động phản kháng tháo cũi phá lồng giải thoát. Chính sức sống mãnh liệt của Mị khi gặp ánh sáng cách mạng thì như hạt giống tốt gieo lên mảnh đất phù sa. Mị đã trở thành nhân tố tích cực trong đội du kích Phiềng Sa của A Phủ sau này cũng là điều dễ hiểu.

Bài văn mẫu số 5

Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như " O chuột", "Dế mèn phưu lưu ký". Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như "Truyện Tây Bắc", "Miền Tây" Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.

Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp người héo hắt, tàn tạ " chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Mỵ không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.

Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai "ngày đêm thổi sáo đi theo Mị". Mị yêu lao động "biết cuốc nương làm ngô". Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Khi biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lý, Mị tha thiết van xin "bố đừng bán con cho nhà giàu". Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của chính sách cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt lấy cuộc đời Mị. Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp nhất của đời người con gái đã biến thành một đêm bi kịch, tủi nhục khi A Sử bắt cóc Mị về nhà thống lý. Và một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt cuộc đời Mị từ đấy.

Lúc đầu mới về "làm dâu" để phản kháng lại cái sự vô lí ấy, Mị đã "hằng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc". Khóc là biểu hiện của trạng thái tâm lí bị ức chế, không cam chịu, không chấp nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái chết khi cầm nắm lá ngón về tự tử trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị không đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi trẻ hạnh phúc của mình để quay về nhà thống lý chấp nhận kiếp sống trâu ngựa. Cái địa ngục trần gian ấy đã giam cầm cuộc đời Mị. Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một cái cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay "trông ra ngoài không biết sương hay là nắng". Mị bị nô lệ hóa trở thành công cụ lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách tàn tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào công việc cả đêm lẫn ngày "tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối mùa thì đi nương bẻ bắp". Không chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền áp chế làm cho tê liệt về tinh thần, mất hết cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật (con ngựa, con trâu, con rùa). Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự lặng câm, băng giá "càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa không ?

Nhưng bằng cảm quan nhân đạo và tấm lòng yêu thương đồng cảm với số phận con người, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những thước phim quay chậm về sự bừng lên của một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đang âm ỉ cháy trong con người Mị. Bên ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã chết nhưng bên trong lại ẩn chứa lòng ham sống. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió của đêm tình mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch.

Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được "tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường". Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức tươi đẹp. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với một hiện tại buồn mênh mang. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:

Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu

Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động "nổi loạn nhân tính". Mị tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu" Mị uống ực từng bát rồi say". Mị uống như nuốt căm hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa mà đã hồi sinh. Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng của Mị "lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước". Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình ? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị. Con rùa nuôi trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa rồi. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ "Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát sống, còn muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch: nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh đáng thương này thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao Mị vẫn còn là chính mình với trái tim đầy khát vọng.

Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu "không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau". Cảm xúc ấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu dành dụm. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này.

Nhưng không có nắm lá ngón, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi mà tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo gọi, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy thôi! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền. Ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Tô Hoài đã diễn tả thật sâu sắc cái khát vọng cháy bỏng ấy của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu nỗi cảm thông chia sẻ. Câu văn ngắn, nhịp gấp thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật "Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách". Mị hành động thản nhiên, dù Mị biết A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể nào làm gì được Mị nữa rồi. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi đay, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng đầu được nữa.

Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống bằng tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn của Mị. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình của tuổi trẻ. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang "đi theo những cuộc chơi những đám chơi". Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn "Mị vùng bước đi". Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói (hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác). Nhưng rồi "tay chân đau không cựa được" lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng "Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa". Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong "hơi rượu tỏa" cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì "nồng nàn tha thiết nhớ". Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết "Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết". Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn "Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai". Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành đợt sóng thần của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó.

Cũng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn. Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Phải chăng "Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi" nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Và nếu đúng như vậy thì đớn đau thay Mị đã đánh mất đi lòng nhân ái mà trong bản thân người phụ nữ nào cũng có. Khi và chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ "bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dấu hiệu của sự chết đã xuất hiện trên khuôn mặt của người nô lệ ấy thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người. Thương người, Mị lại thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có «nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được». Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này. Mị càng căm phẫn càng uất hận "chúng nó thật độc ác". Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: "Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi". Nhưng Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùn lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ. Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn. Chính hành động cắt dứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám dứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù còn là mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một việc động trời nhưng đó là tất yếu. Cái giây phút Mị đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối. Lòng Mị rối bời với câu hỏi: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ biết bao nhiêu năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: "A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất". Đó là câu nói thể hiện niềm khao khát sống và khát khao tự do đến mãnh liệt. Và tiếng gọi tự do đang vẫy gọi họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục.

Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.

Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.

Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm.

Bài văn mẫu số 6

l. Mở bài

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ được nhà văn Tô Hoài viết vào những năm 1952, 1953, sau chuyến đi thực tế bộ đội và nhân dân vào chiến dịch Tây Bắc. Đây là tác phẩm được nhà văn xây dựng bằng những chuyện mắt thấy tai nghe, chan chứa tình cảm sâu nặng của tác giả đối với đồng bào miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của các thế lực thực dân, phong kiến. Vợ chồng A Phủ còn là bài ca về sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người miền núi trên con đường đấu tranh giải phóng cho bản thân và quê hương.

Tiêu biểu cho những con người, những số phận ấy chính là Mị, một phụ nữ đã chịu muôn vàn đắng cay, tủi cực. Song, cũng chính người phụ nữ ấy luôn tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt để khi bị chà đạp đến tận cùng đã trỗi dậy mạnh mẽ.

2. Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị

Trước khi về làm dâu

Mị xuất hiện ngay từ những dòng đầu của tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Đó là hình ảnh một cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa ở nhà thống lí Pá Tra. Nhưng thực ra, đây là một cô Mị khác, còn cô Mị ngày xưa dường như đã chết rồi.

Ngày xưa, lúc còn ở nhà với cha, Mị là cô gái trẻ, dẹp, yêu đời, có tài thổi sáo hay, có bao nhiêu trai làng mê. Nhà Mị cũng như những nhà có con gái khác, mỗi năm đến Tết, bố mẹ không thể ngủ dược vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến đứng thổi sáo chung quanh vách. Mị được yêu và cũng đáng yêu.

Vả lại, cô còn là người có ý thức về sự tự do của mình. Nhà Mị vốn rất nghèo, bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới, phải đi vay nhà thống lí... Mỗi năm nộp cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Mẹ Mị chết cũng chưa trả hết nợ. Nhưng khi thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị cho cô về làm dâu để gạt nợ thì Mị đã xin: Con nay đã biết cầm cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.
Mị là người phụ nữ luôn tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt

Khi mới về làm dâu

'Tuổi thanh xuân của Mị bị cắt ngang bởi cái án nợ đời cha mẹ để lại. Mị bị bắt cóc về làm dâu nhà thống lí Pá Tra để trừ nợ. Khi mới làm dâu có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Không những thế, cô còn trốn về nhà, hai con mắt đỏ hoe. Trông thấy bố, Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở. Mị còn tìm hái lá ngón trong rừng, định tự tử.
Khóc và đòi tự tử là những hành động phản kháng bế tắc, tiêu cực nhưng nó chứng tỏ trong người con gái yếu ớt này tiềm tàng một sức sống. Cô thà chết như một con người, chứ không chịu chấp nhận tình trạng đày đọa của kiếp nô lệ.

Nhưng Mị không thể chết như lời của cha cô: Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Thương cha, Mị đành ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi khát vọng tự do của đời mình.

Từ đó người ta bắt gặp chân dung một cô Mị khác:

+ Mấy năm sau, cha cô chết, nhưng cô cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Dùng từ an phận đối với Mị dường như chưa đúng. Mị đã tê liệt sức phản kháng.

+ Chấp nhận kiếp sống trâu ngựa ấy, nhưng Mị buồn, lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rười. Thậm chí, mỗi ngày Mị càng không nói, không nghĩ ngợi gì nữa, bởi lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, và dù lúc đi hái củi, lúc giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngồ, lúc nào cũng gài một bó day trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế... Mị trở thành con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa.

Mị trở thành con người vô thức trước thời gian, về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm, cô không nhớ. Mị mất cảm giác cả về không gian. Thời gian và không gian chẳng có ý nghĩa gì, bởi đời của Mị như chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay ở cái buồng kín mít của cô, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Đôi lúc Mị đã nghĩ, cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy trông ra đến bao giờ chết thì thôi. Cái ô vuông ấy là một ngục thất giam hãm tinh thần của Mị. Mà Mị muôn chết cũng không đuợc, vì đời cô chỉ biết đi theo đuôi ngựa của chồng, ngay cả thân của Mị cũng không bằng con ngựa.

=> Vậy là sự dày đọa về thể xác và tinh thần đã bóp nghẹt sức sống trong cô Mị trẻ đẹp ngày nào. Trong con mắt của cha con nhà thống lí Pá Tra, những người như Mị đâu còn là con người.
Cuộc trỗi dậy đầu tiên (Đêm mùa xuân)

Tuy nhiên, sức sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt. Mỗi khi bước vào buồng, Mị lại ngồi xuống giường trông ra cửa sổ. Chi tiết ấy cho thấy Mị luôn hướng vọng ra bên ngoài, có những khát khao mong manh mơ hồ. Sức sống trong Mị sẽ trỗi dậy khi có tác động.

Mùa xuân năm ấy ở Hồng Ngài đẹp và gợi cảm biết bao: Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa.. Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng... Trong các làng Mèo, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ... Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi... Chính không gian rộn rã sắc màu cùng tiếng sáo tha thiết đã đánh thức cô Mị ngày xưa. Tiếng sáo như chạm vào nỗi nhớ. Mị nghe tiếng sáo vọng lại tha thiết bổi hổi. Mị ngồi nhẩm lại bài hát người đang thổi..

Tất cả gợi cho Mị nhớ lại thời xa xưa. Ngày xưa, Tết Mị uống rượu. Bây giờ, Mị cũng uống rượu. Rồi Mị say. Khi say thì Mị lại sống về ngày trước. Ngày trước, Mị vui sướng biết bao. Tai Mị vẳng nghe tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Đấy là tiếng sáo của tình duyên, của tuổi thanh xuân càng đầy sức sống. Mị không còn là cô con dâu gạt nự nhà thống lí Pá Tra nữa. Mị đang uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Ra thế, Mị vẫn còn trẻ lắm. MỊ vẫn còn trẻ.

Nhưng thực ra, Mị vẫn đang ở nhà của thông lí Pá Tra. Mị vẫn đang sống kiếp đọa đầy với A Sử. Ước gì có nắm lá ngón ở trong tay, MỊ sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Càng nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra. ôi chao, tiếng sáo ấy, tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường. MỊ đang muốn quên đi. Mị không muốn nhớ lại cái ngày trước mà không được. Tiếng sáo ấy lửng lơ; tiếng sáo ấy làm Mị thiết tha bồi hồi. Mị muốn đi chơi. Mị muốn thoát ra ngoài cái ô cửa mờ đục, trăng trắng này!

Mị thực hiện ý định giải thoát lần thứ nhất một cách lặng lẽ mà mãnh liệt: Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng... Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách... Mị rút thêm cái áo. Mị làm tất cả, thật bình thản và quyết liệt như ngày xưa, khi trong đầu MỊ dang rập rờn tiếng sáo.

Trông thấy Mị, A Sử lấy làm lạ. Nó chỉ biết rằng Mị muốn đi chơi. Thằng chồng ác hơn con hổ ấy không biết trước mặt mình đã là một cô Mị khác, cô Mị của ngày mà hắn đã từng lừa lọc để đánh cắp đem về. Hắn thẳng tay vùi dập tàn nhẫn sự trở về đó: A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói Mị đứng vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa..

Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác Mị: Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi... Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cử động được. Khi ấy, Mị mới biết mình đang bị trói, đang ở trong căn nhà tù ngục này. Lòng Mị đau đớn,' thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành. Mị không thoát khỏi căn nhà ấy, dù chỉ một phút giây. Nhưng Mị đã không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi trong xó cửa nữa. Mị đã sông lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Vì thế, khi bị A Sử trói, lúc bàng hoàng tỉnh, Mị chợt nhớ đến câu chuyện một người vợ trong nhà thống lí Pá Tra bị trói đă chết không ai hay. Và, MỊ sợ quá. Mị còn muốn sông. MỊ còn ham sông.

Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng dâng lên rồi tan ra. Nó không mảy may thay đổi cuộc đời Mị. Nhưng từ đó, sóng ngầm vẫn không mất. Nó sẽ tuôn trào thành những đợt sóng mới, mãnh liệt hơn lúc nào hết!

Cuộc sống đọa đày trong nhà thống lí Pá Tra của Mị vẫn tiếp diễn, nếu không có chuyện A Phủ - người từng đánh lại A Sử, bị phạt vạ, phải đi ở cho nhà thống lí Pá Tra trừ nợ - làm mất một con bò bị trói, bị đánh, bị bỏ đói nhiều ngày, chỉ đợi cái chết.

Thực ra những đêm đầu Mị đã thấy A Phủ bị trói đứng nhưng cô vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện, kể cả lúc ra ngồi sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã ngay xuống cửa bếp, hôm sau cô vẫn thản nhiên ra sưởi như đêm trước.

Nhưng dường như đó là cách Mị chống lại cuộc sống đọa đày ở đây. Còn trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản. MỊ rất sợ những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đốì với Mị, nếu không có bếp lửa ấy, cô sẽ chết héo. Và cũng chính nhờ ngọn lửa, Mị trông sang A Phủ và nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống má đã xám đen lại. Dòng nước mắt ấy khiến MỊ chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng chịu trói thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không thể lau đi được. Rồi MỊ phảng phất nghĩ gần nghĩ xa: Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở dây thôi... Người kia việc gì phải chết thế.
Mị xót xa cho A Phủ như xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương A Phủ không đáng phải chết. Cô cũng sợ nếu mình cởi trói cho chàng trai ấy, bố con Pá Tra biết được sẽ trói thay Mị vào đấy và lại phải chết trên cái cọc ấy... Song có lẽ tình thương ở Mị đã lớn hơn cả sự chết. Cô cởi trói cho A Phủ và đứng lặng trong bóng tối. Song, chính ngay lúc ấy, trong lòng người đàn bà khốn khổ kia mọi chuyện xảy ra rất nhanh. Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng di. Vì ở đây thì chết mất.

=> Không thể nói đó là hành động hoàn toàn bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình. Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.

3. Kết luận

Vốn sống, sự hiểu biết tinh tế và đặc biệt tình yêu con người đã tạo cho ngòi bút của Tô Hoài rất vững vàng khi lí giải những đột biến của sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị. Qua đó, nhà văn đã đặt ra những vấn đề nhân sinh sâu sắc: chế độ phong kiến là chế độ trói buộc, giam hãm sức sống con người nhưng sức sống con người dù bị giẫm đạp, đè nén đến đâu cũng không bị mất đi. Điều ấy càng khiến ta thêm tin, thêm yêu mến con người.
Tô Hoài đã khá thành công khi phân tích tâm lí nhân vật một cách sắc sảo. Sự thành công ấy, ngoài vốn sống, vốn hiểu biết về con người và vùng đất Tây Bắc còn là do tình cảm yêu thương, trân trọng của nhà văn đối với những người dân nghèo miền núi thuở trước.

Bài văn mẫu số 7

Cuộc đời của Mị được tính từ khi cô về làm dâu nhà thông lí Pá Tra. Thường thì khi người con gái lấy chồng giàu thì sướng, nhàn hạ. Nhưng đây, Mị chỉ lùi lũi một mình, câm lặng. Xưa kia Mị cũng đã có một thời con gái hạnh phúc (trong đói nghèo). Những đêm tình mùa xuân, con trai đến thổi sáo đứng "chật cả chân vách đầu buồng Mị". Và Mị đã có một tình yêu, có hiệu gõ vách hẹn hò. Tâm hồn cô gái xinh đẹp và loài hoa ấy luôn mở rộng để đón nhận hương hoa của cuộc đời. Nhưng rồi tất cả đều chấm dứt trong cái đêm Mị bi bắt cóc về nhà thống lí Pá Tra. "Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa". Mị bị bắt cóc để rồi trở thành con dâu thông lí là trả cái món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ Mị.

Những ngày đầu làm dâu nhà thống lí, Mị thấm thía nỗi đau một cuộc đời bị cướp đoạt "đêm nào Mị cũng khóc". Đúng là về làm dâu gạt nợ, Mị bị cha con thống lí đốì xử không khác gì con vật. Suốt ngày Mị chỉ "ngồi quay sợi gai cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi". Cuộc đời cô cột chặt vào những công việc nặng nhọc. Đọc đoạn văn mở đầu của truyện không thể không băn khoăn, khao khát muốn hiểu nguyên nhân xô đẩy Mị vào tinh cảnh mà cô phải chịu.

Trước khi về cửa nhà thống lí Mị đẹp như một bông hoa rừng. Cô là một phụ nữ trẻ đẹp, chăm chỉ công việc, giàu lòng hiếu thảo, tự tin, thông minh...Người con gái ấy là niềm khát khao, ước mơ của bao nhiêu tràng trai "Có biết nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị". Mị chưa kịp nếm những trái ngọt của cuộc đời đã phải cay đắng tìm đến nắm lá ngón, mong kết liễu cuộc đời không ra gì. Bởi vì, Mị không muôn chấp nhận một cuộc sống chết mòn héo úa - điều này chứng tỏ con người Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt, muốn thoát khỏi cuộc sống nô lệ. Nhưng vì tình thương cha, lòng hiếu thảo, Mị khó không đành chết nên vứt nắm lá ngón, trở lại nhà thống lí. Ngày lại ngày qua, nổi khổ cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng trong con người Mị. Mị không nghĩ đến cái chết nữa (ngay cả khi cha cô không còn). Mị tưởng mình cũng chỉ là con trâu, con ngựa nhà thông lí, sống trong nhà thống lí ách áp bức của giai cấp thống trị, thần quyền, sự mê tín đã biến Mị trở thành con người hoàn toàn khi "ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Dường như mối giao cảm giữa Mị với cuộc sống bên ngoài chỉ còn thu hẹp của "căn buồng âm u, kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trắng trắng, không biết là sương hay nắng".

"Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha, bồi hồi". Tiếng sáo ấy đã khơi dậy sức sống ẩn náu trong Mị tưởng như đã nguội tắt. Mị còn nhớ như in những lời hát tình tứ mà Mị đã nghe, đã hát, đã thổi sáo, thổi kèn lá ngày nào. Hiện tại bây giờ cô đang sống lại cảnh tượng ngày xưa. Cô đâu phải là con người "chết dần chết mòn" về nhân tính như Chí Phèo. Tiếng sáo bây giờ đã thấm vào trái tim Mị, thức tỉnh sự câm lặng bấy lâu. Rồi Mị uống rượu, men rượu hay men cuộc đời đã nâng bỗng tâm hồn Mị lên, tâm hồn Mị đã thoát xác, vượt ra ngoài cái ô cửa "mờ mờ trăng trắng kia". Khát vọng đi chơi bỗng bùng cháy trong tâm hồn Mị. Khái vọng ấy là cuộc khởi nghĩa nhân tính trong Mị. Bởi vì, từ ngày về làm dâu nhà thông lí "Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi". Vậy mà khi tiếng chó sủa xa xa, vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng". Sau bao nhiêu năm sống trong nhà thống lí, lần đầu tiên tiếng sáo của ai đó đến với Mị như một âm thanh của hiện tại. Rồi sau đó tiếng sáo làm sống lại bao rung động tâm linh của mùa xuân năm nào. Mới đầu tiếng sáo còn lấp ló nơi đầu núi, cuối cùng tiếng sáo đã thực sự hoá thân, nhập thân trong Mị "Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo". Góp phần làm nên cuộc "nổi loạn" nhân tính trong Mị có nhiều yếu tố; yếu tố ngoại lực, yếu tố nội lực. Trong đó, yếu tố quan trọng nhất phải chăng là tiếng sáo mùa xuân. Ngày xuân, không có gì cuốn hút Mị bằng tiếng sáo, tiếng áo đối với Mị mỗi lúc một mãnh liệt. Từ đầu là những âm thanh xa xôi, sau đó tiếng sáo trở thành lời mời gọi giúp Mị lãng quên quá khứ, sống vui vẻ với tương lai. "tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, đám chơi".

Quá trình hồi sinh của Mị đã không được miêu tả một cách dễ dãi, hời hợt, tâm trạng nhân vật được nhìn nhận từ cái nhìn lưỡng phân. Con người hiện tại dường như đã chết, con người quá khứ đang dần dần từng bước được hồi sinh. Mị như cây hoa ban, hoa Đào Tây bắc trước lúc vào xuân, nhìn bề ngoài thì có vẻ khẳng khiu, khô gầy, mỏng manh như đã chết nhưng bên trong sức sống vẫn âm ỉ, vẫn chờ thời để bừng sáng sắc xuân. Tết đến, Mị rất muốn đi chơi, nhưng A Sử không cho Mị đi, năm nào cũng vậy, A sử toàn đi một mình để Mị ở nhà như người xa lạ. Nhưng giai cấp phong kiến, gia đình nhà thống lí không thể cưỡng ép được Mị lâu, một con người sức sống đang còn cháy rực trong tâm hồn. Lúc này khi "tiếng sáo đang lửng lơ bay ngoài đường" gọi bạn đi chơi mà Mị đã phải ngồi cô độc trong xó cửa. Cô không thể dằn lòng được "Mị vùng dậy khêu đèn sáng, cuốn lại lóc, mặc váy hoa vắt ở vách" toan bước đi, tìm đến nơi đang lửng lơ bay tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha. Nhưng Mị vừa bước đi thì A sử lại kéo cô lại. A Sử không hề đánh đập, chửi rủa mà anh lầm lì như cái bóng từ từ trói cô vào cột nhà. Và bây giờ Mị mới bật khóc, khóc oan trái cho một kiếp người khao khát sống, muốn yêu mà đang ghì chặt vào một cuộc sống "không bằng con ngựa". Nhưng từ đây sức sống của một cô gái yêu đời lại trỗi dậy. Trong bóng tối, cô đang mơ màng đi theo tiếng sáo, tiếng sáo ấy đã có lần đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Nhưng rồi quá khứ chưa đi, hiện tại lại về. Giờ đây, Mị đang bị A Sử trói, dường như cô sống mà như đã chết. Đã chết phần hồn lẽ nào giờ đây cô lại để chết cả phần xác, Mị thấy xung quanh mình chỉ là bóng tối, không một tiếng động, cô "vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa".

Thời gian lại trôi qua, cho đến cái đêm A Phủ bị trói đứng vào cây cọc : trong nhà thống lí vì để hổ bắt mất con bò... A Phủ vì đánh lại con quan nên làng phạt vạ, và trở thành người ở gạt nợ của gia đình thống lí còn Mị làm dâu gạt nợ. A Phủ - Mị có cùng một cảnh ngộ, cùng là người đi ở gạt nợ cho nhà thống lí. A Phủ bị trói mấy đêm rồi nhưng đêm nào cũng vậy. Mị dậy đốt lửa sưởi và thản nhiên như không có gì bên cạnh. Mỗi đêm, đêm nào cũng vậy khi ngọn lửa bùng, Mị nhìn sang biết A Phủ còn sống nhưng Mị không hề nói năng gì. "Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa". Bởi vì tâm hồn Mị đã khép kín và câm lặng rồi. Mặc dù, với ngọn lửa to như thế, hồng như thế cô vẫn cảm thấy lành lạnh, cô đơn. Sự cô đơn ấy cô đã từng nếm thử nhưng bây giờ nó cay và đắng lạ. Khi chỉ biết ngồi một mình bên bếp lửa. Dường như sức sống trong tầm hồn cô đã cạn dần. Không, ngược lại, sức sống trong cô lâu nay bị dồn nén quá sức bây giờ nó để vỡ tung ra khi "Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ. Dòng nước mắt ấy đã làm trỗi dậy trong Mị tinh thương những người cùng cảnh ngộ. Mị chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cột nhà như thế kia, cũng "nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được". Cũng như lần trước, một khi ý thức sống trỗi dậy, thì Mị lại nghĩ đến cái chết, nhưng lần này là một cái chết oan ức, vô lí của một người khác. Vì mê tín, vì đã là người của nhà thống lí, Mị cam chịu chết ở cái nhà này. Còn A Phủ việc gì phải chết, A Phủ phải được sống. Sau ý nghĩ ấy lòng thương người lớn hơn thương thân. Mị đã cam chịu chết thì cô sợ gì mà không cứu A Phủ. "Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cần biết đợi ngày mà rũ xuống ở đây thôi- Người kia việc gì phải chết".

Rõ ràng, Mị đã suy nghĩ kỹ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô sẵn s àng chịu trói thay cho A Phủ. Nghĩ đến lúc rơi vào tình cảnh ấy Mị cũng không thấy sợ. Ngược lại lúc này cô bình tĩnh, can đảm hơn bao giờ hết. Đến giờ phút nà y thì việc rút dao cắt dây trói cho A Phủ là một việc phải làm tất nhiên có thể xảy ra. Đó là hành động tự bản thân Mị chứ không phải là sự phát triển của tình huống truyện do tác giả sắp đặt. A Phủ đã được giải thoát, lòng thương của Mĩ đã chiến thắng còn Mị vẫn đứng trong bóng tối. vẫn biết rằng Mị không sợ hình phạt của thống lí, không sợ phải chết thay cho A Phủ vì chết đối với Mị là một giải thoát, Mị vốn nghĩ thế. Nhưng thấy A Phủ đã chạy đi rồi, chạy đi đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tinh hẳn. Mị không muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống "Mị cũng vụt chạy ra" theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình. Hành động cởi trói cho A Phủ bắt nguồn từ một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong tính cách của Mị, không một uy vũ nào có thể dập tắt nổi. Hành động chạy theo A Phủ là một hành động thật bất ngờ nhưng rất hợp lí. Lần này, thì sức sống mãnh liệt của Mị đã chiến thắng. Mị đúng là con người hơn con người thật. Đêm cuối cùng ở nhà thống lí Pá Tra, đã thành thật xin A Phủ cho đi theo, lời xin ấy cũng chính là ngọn lửa lâu ngày âm ỉ đang được bùng cháy.

Nhân vật Mị đã thu hút được người đọc bằng chính cái sức sống tiềm ẩn ấy . Tô Hoài đã rất thành công khi tạo dựng nhân vật này. Một cô Mị xinh đẹp, tài hoa, yêu đời, ham sống và luôn luôn nghĩ đến cái chết vì không được sống cho ra sống. Một cô Mị câm lặng, khép kín và luôn luôn bùng nổ những hành động chống đối mãnh liệt. Mâu thuẫn đấy mà lại hết sức thống nhất, tự nhiên, hợp lí. Người đọc cảm giác ấy là nhờ cách kể truyện rất sinh động, kết cấu hình tượng chặt chẽ và nhất là nhờ những chi tiết nghệ thuật có tính biểu cảm cao: một lỗ cửa sổ, "mờ mờ trăng trắng" soi rọi cuộc đời của cô con dâu gạt nợ nhà thống lí một tiếng sáo gọi bạn tình đêm xuân bồi hồi, tha thiết như giục giã, như gọi mời những hơi rượu say nồng đêm xuân; những giọt nước mắt trong đêm cuối cùng ở nhà thống lí... ở Mị có sự dửng dưng vô cảm, bén cạnh lòng thương xót xâu xa; có lúc lãng quên tất cả và cũng có lúc trào dâng nỗi nhớ thiết tha bồi hồi. Từ chỗ không thấy sợ Mị bỗng trở thành người hoảng hốt. Tất cả trạng thái đối nghịch ấy của tâm hồn Mị đều được Tô Hoài dẫn dắt, phân tích một cách hợp lí tưởng như không có thể nào khác được.

Đọc Vợ chồng A Phủ ta thấy Mị là bức chân dung tĩnh lặng. Hầu như trong thời gian nhà thống lí Mị chỉ nói có vài ba câu. Nhưng ẩn chứa trong tâm hồn câm lặng ấy là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch suối ngầm trong mắt. Tiếp xúc với Vợ chồng A Phủ ta nhớ, ta yêu một cô Mị ở Hồng Ngài càng bị đọa đầy, đau khổ càng khao khát muốn vươn lên một cuộc sống tốt lành. Một cô Mị tiềm tàng sức sống mãnh liệt để có thể hiểu hơn một cô Mị du kích Phiềng Sa sau này.

Bài văn mẫu số 8

Có những sở thích nhất thời, song cũng có những sở thích đời đời không thay đổi, có những nỗi đau thoáng qua và cũng có những vết thương hằn sâu theo năm tháng. Nếu giở những trang đời đẫm lệ của Kiều ta sẽ khóc, nếu Chí Phèo chết ta xót thương thì khi đọc Vợ chồng A Phủ ta cũng cho phép tim mình rung lên theo tiếng thổn thức của Mị. Một cô gái trẻ phải chôn vùi cuộc đời thanh xuân trong nhà tên thống lí đến khi trốn khỏi Hồng Ngài, ta vẫn còn thấy được một sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong người con gái Mèo ấy! Hạt nẩy mầm ra hoa kết trái là một qui luật tự nhiên. Là con gái lớn lên lấy chồng về làm dâu nhà chồng cũng là một tự nhiên và cũng là mơ ước của họ. Thế nhưng, hạnh phúc rất nhiều song nói như người đời, ông trời lại hay ích kỉ, ông chỉ ban cho một số người hạnh phúc còn khổ đau dường như nhân loại ai cũng được hưởng. Em nhớ H.Banzac trong “Miếng da lừa” có viết “Trên đời không có gì trọn vẹn hơn sự bất hạnh” là vậy. Ngay cả hạnh phúc tưởng chừng như tầm thường dễ dàng đó cũng không mỉm cười với Mị, nó quay lưng với cô và mở cho cô trang đời cơ cực: trang đời đẫm đầy nước mắt.

Chân dung Mị hiện lên đầu tác phẩm gần như là tảng đá chai sạn khô lạnh, dường như ngọn lửa tình người đã vĩnh viễn tắt ngấm trong trái tim cô. Cô cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Từ ngày bị bắt về làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí đến nay, gương mặt Mị chỉ toàn nước mắt. Gia đình Pá Tra nào có xem Mị là một con người, là một thành viên hợp pháp? Một con ở! Thậm chí một con vật. Làm việc cạnh tàu ngựa, buồng ngủ gần tàu ngựa Mị giống như con ngựa nhà thống lí. Ngày nối ngày, Mị chỉ biết “quay tơ hái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước”. Mị tồn tại đấy song chỉ là cái xác biết đi, linh hồn Mị tắt lịm từ bao giờ rồi. Song, thật sự Mị vẫn chưa chết, con người của Mị ngày xưa vẫn còn sống trong thể xác héo mòn và vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt.

Mị là con của núi rừng sơn cước, dòng suối rừng cây đã nhen nhóm trong cô một vẻ hồn nhiên mộc mạc. Cô sống như chính cô, không giả dối, không tính toán so đo. Mị rất yêu đời. Cô đẹp, cô có tài thổi sáo và đã từng vui chơi như tất cả mọi người. Cô không có con trai khép kín dưới lòng biển sâu mà cô là cánh chim hay hót của núi rừng. Mị đã từng phản đối khi nghe tin Pá Tra đòi bắt cô về làm dâu gạt nợ. Mị bảo với bố “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Mị yêu tự do, Mị yêu cuộc sống Mị muốn là cánh hải âu không sợ biển lớn, sông dài, cô sẵn sàng trả bằng mọi giá để được tự do bên bố, bên gia đình, được yêu, được ca hát. Mị đã có ý thức hẳn hoi về cuộc sống, thế nhưng sự ngang trái cuộc đời đã chụp lên Mị màu đen tang tóc. Đối với Mị tự do là điều quí nhất. Song, đóa hoa vừa chớm nụ xuân vừa rung rung ngỡ ngàng đón cuộc đời mới - đời thiếu nữ - đã bị người ta ngắt, người ta vò nát, không thương tiếc: Mị bị A Sử bắt. Đau đớn đến tận cùng “có đến hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc” và rồi chính sức sống mãnh liệt, chính tình yêu cuộc sống đã đưa Mị đến ý định tự tử: Thà tự hủy diệt thân xác còn hơn sống mà không được tự do, sống theo lí tưởng của mình. Những ngang trái cuộc đời không buông tha Mị, cũng như bể khổ thế gian không cho phép Kiều phải chết, nàng phải sống, sống chịu đọa đày. Và Mị không thể chết vì Mị phải sống để gánh trên vai mối nợ truyền kiếp của cha mẹ. Cha mẹ cô cả đời khổ cực còn phải sống vì con. Còn cô? Cô đã làm gì chưa? Cô không thể chết phải cam chịu làm tảng đá vô tri, làm kiếp ngựa, kiếp con rùa thui thủi xó cửa nhà giàu. Năm tiếp năm, tháng tiếp tháng, ngày lại nối ngày, Mị cam chịu tất cả! Con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ còn Mị chưa bao giờ được nghỉ ngơi. Ngày giờ chồng lên chừng nào thì sức sống của cô gái ngày xưa bị tiêu hao chừng ấy: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Sự đọa đày đã trói buộc đã biến Mị thành nô lệ gần mất hẳn sức sống Mị quên hẳn việc tử tự của những năm về trước. Đối với Mị lúc này thời gian là vô nghĩa. Mị chỉ biết làm việc mà thôi. Đáng lo thay khi con người mất dần nhận cảm về thời gian vì như thế con người đó đã chết. Họ họat động chỉ bằng bản năng còn đời sống tâm hồn đã tắt ngấm buồn vui, thời gian trôi qua thật vô nghĩa. Thế lực phong kiến và thế lực thần quyền trong nhà thống lí đã nghiến nát, đã tước đọat được cuộc đời thanh xuân, yêu, sống của Mị. Đọc phần đầu tác phẩm em không khỏi liên tưởng Mị là cô Huệ Chi trong Cửa biển của Nguyên Hồng. Song, công bằng mà nói Huệ Chi hạnh phúc hơn Mị. Nàng chỉ sống như đã chết trong một thời gian ngắn mà thôi - lúc bị ép gả cho tên tướng Nhật và nàng lại diễm phúc hơn Mị gấp bội lần. Nàng được chết, được trở về một thế giới ngát hoa vĩnh hằng với đôi tay rộng mở tình yêu của Mẹ. Còn Mị đau đớn thay khi cô phải kéo lê cuộc đời khổ ải hàng mấy năm. Nhưng rồi Chí Phèo vẫn còn được bát cháo ân tình của Thị Nở đánh thức. Mị cũng thế! Người con gái yêu đời, yêu cuộc sống như thế mà lại phải “chết” dễ dàng thế sao?

Em rất tâm đắc với hai chi tiết: Thứ nhất là tiếng sao đêm xuân. Tiếng sáo vang dội từ xa, len lỏi vào tâm hồn Mị. Tiếng sáo ngân vang ấy đã mở cửa ngôi nhà tâm hồn từ lâu “im ỉm khóa” của Mị. Mị chợt nhớ – lần đầu tiên qua bao năm nay kí ức chợt ùa về với Mị, Mị nhớ đến ngày trước “Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này Mị uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Và lần đầu tiên, lại cũng là lần đầu ý định tự tử lại đến và Mị ước “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Khi con người ta muốn chết, hơn lúc nào hết lúc đó người ta tha thiết yêu cuộc sống và chính vì không được cuộc sống đáp ứng nên họ rơi vào sự thất vọng và tìm đến cái chết. Sức sống của Mị không bị hủy diệt mà tiềm ẩn và hôm nay như có một luồng gió mới thổi vào nó có dịp trỗi dậy. Mị đang thả hồn theo tiếng sáo như lần theo sợi dây quá khứ để tìm về những ngày xưa hạnh phúc. Và bất giác “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng”. Mị muốn đi chơi, Mị “ngồi xuống giường trông ra cái ô cửa sổ mờ mờ trăng trắng”. Còn ô cửa sổ nhỏ? Ô cửa sổ trong tác phẩm này là một không gian nghệ thuật, nơi ấy Mị nhớ về quá khứ, về thuở con gái. Không gian mờ đục đó hôm nay, Mị mới nhận thức được. Bấy lâu nay Mị nào có quan tâm. Không gian âm u có phải chăng là đời Mị? Một cuộc đời trong màn sương không lối thoát, Mị có phải chăng là con mồi mãi sa vào lưới nhện? Hôm nay, tiếng sáo luồn qua khung cửa đã làm cho Mị nhớ về quá khứ, một thời son trẻ được tái hiện qua lớp “mờ mờ trăng trắng” ấy. Con người thực tế trong Mị đã sống dậy thay thế cho con người vô thức. Thế mà, mãi mãi bất hạnh cứ không thôi bám riết lấy Mị. Hai lần vươn tay đến hạnh phúc, hai lần sức sống trở về là hai lần A Sử đã lấy đi mất, đã dang tay đẩy Mị trở về số kiếp con rùa, con ngựa. A Sử trói Mị tàn ác như thời trung cổ, nhưng Mị bất chấp tất cả, Mị không sợ, Mị đang sống với hạnh phúc kỉ niệm, đang thả trôi mình theo tiếng sáo. Thế nhưng sự tàn ác luôn không cho Mị hưởng hạnh phúc dầu một thời gian ngắn ngủi thôi. Mị trở về kiếp lùi lũi như con rùa con ngựa. Cuối cùng sức sống ấy đã trỗi dậy hơn lúc nào hết, nó mãnh liệt bội phần. Lần Mị cởi trói cho A Phủ. Thoạt tiên lúc thấy A Phủ, Mị nhìn. Một cái nhìn hờ hững không xúc động, không lạ lùng. Cảnh nhà này trói người là chuyện thường. Nhưng đến một đêm, như bao đêm nào Mị cũng thức dậy và vẫn “thản nhiên thổi lửa hơ tay”. Anh lửa “bập bùng sáng lên” chính ánh lửa ấy đã buộc Mị “lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Và cũng như tiếng sáo, dòng nước mắt đau khổ của một con người đau khổ đã lôi tuột Mị trở về quá khứ khổ đau ngày nào. Nhìn A Phủ đứng đấy như một xác chết, bất giác Mị lại nhớ đến mình “Trông người lại ngẫm đến ta” là vậy, Mị nhớ đến hôm ấy mình cũng đã chịu trói như thế và nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ… không ai biết, ai hay. Nhìn A Phủ Mị thương mình quá! Sao đời mình lại khổ đến thế! Và từ thương bản thân Mị nghĩ đến người, nghĩ đến người đàn bà đã bị chết trói, nghĩ đến A Phủ Mị căm giận lũ người vô lương. Cái thương, cái căm giận, cái phẫn nộ ấy khác nào như nguồn hơi bơm vào một quả bóng đã căng và căng đến mức phải nổ tung, chính những điều đó đã làm Mị quan tâm đến A Phủ, một con người khổ sở chỉ vì đánh mất một con bò mà phải đem mạng mình đánh đổi. Không! Mị nhủ A Phủ không lí do gì phải chết. Và Mị đã hành động: “Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại, Mị rút dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi không biết mê hay tỉnh”. Mị hành động không hề tính toán. Thật vậy sau khi cởi trói cho A Phủ “Mị cũng hốt hoảng” Mị hành động chỉ vì thương và ý định trả thù… Mị không muốn một cái chết lại xảy ra, một tội ác nữa lặp lại, dù sao Mị cũng là một con người, Mị có trái tim nhân hậu của một con người. Và hành động đó là sự phản kháng của sức sống ngày xưa. Có người cho rằng đây là một hành động tự phát vô ý thức. Song theo em vẫn có thể hiểu đây là một hành động xuất phát từ một quá trình vận động tâm lí có ý thức. Có thể xảy ra lắm chứ! Nhưng cái quan trọng ở đây là kết quả một sức sống tiềm tàng, tiềm ẩn của Mị trước đó.

Mị cởi trói cho A Phủ là đã tự tay giật bỏ vòng xiềng xích cho mình. Và hành động tự giải phóng này của Mị có nguồn gốc từ cái buồn “rười rượi” từ cách uống rượu từng bát như uống cay đắng tủi nhục của cuộc đời…Và dĩ nhiên, nó trực tiếp hơn nhờ vào tiếng sáo gọi bạn, tiếng sáo đã làm cho lòng Mị bùng lên một ngọn lửa vốn dĩ đã dập tắp từ lâu.

Giữa màn đêm u tối, Mị lao theo A Phủ, Mị lao vào bóng đêm để xé tọac bóng đêm đến với ánh sáng của tự do và hạnh phúc. Mị chạy theo A Phủ chạy trốn để tìm một vùng đất mới, để sống với hạnh phúc, được làm con người. Mặc dù giữa Mị và A Phủ chưa hề có khái niệm tình yêu, thứ tình yêu trai gái nhưng ở họ có một thứ tình khác: tình người, người cùng đau khổ. Và họ đã biết rằng phải dựa vào nhau để sống. Chỉ có một con đường sống, duy nhất và con người thực của cô gái Mèo ấy đã thắng, cô lao đi quên tất cả, quên thế lực quên sự trả thù của cha con thống lí, quên đi con ma thần quyền chi phối, trói buộc cụôc đời cô. Đối với cô bây giờ tự do là trên hết. Cô lao đi, đi đến phía trước dù cô chưa định hình rõ nhưng đấy là đường sống. Khác với chị Dậu trong Tắt đèn Chị Dậu lao ra đêm đen, và bóng tối như muốn nuốt chửng chị ấy, chị mò mẫm trong vùng tối ấy. Chị không có con đường sáng để đi. Chị lao ra chỉ đơn thuần là tránh nạn, chị lao ra để mà lao ra song không lối thoát: Chị Dậu không thể tự giải phóng nổi mình “Trời tối như mực và như cái tiền đồ của chị”. Còn Mị, Mị lao ra để cùng đi với A Phủ đến một miền đất sống.

Kết thúc đoạn trích là cảnh A Phủ dìu Mị lao xuống dốc. Có lẽ tác phẩm dừng ở đây thì em chắc hẳn người đọc ai cũng sẽ tin chắc rằng A Phủ và Mị sẽ được sống yên lành và hạnh phúc. Bởi lẽ với sức sống mãnh liệt với niềm yêu cuộc sống đến thế thì không thể nào họ (mà đặc biệt là Mị) lại có thể không tìm được cuộc sống đích thực như í muốn. Và không những chỉ có Mị mà bất kì một ai khác đều yêu tin vào cuộc sống thì sớm hay muộn trái ngọt hạnh phúc cũng đến với tay họ, dù hôm nay đang chịu nhiều đau khổ, nhọc nhằn. “Hạnh phúc là một sự đợi chờ” (J.Rútxô).

Bài văn mẫu số 9

Tô Hoài một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Trước cách mạng, các sáng tác của ông nghiêng về mảng truyện loài vật và cuộc sống của những người dân nghèo. Sau cách mạng, các sáng tác của ông vẫn tiếp tục đi khai thác cuộc sống của người dân, song ông đi sâu vào quá trình đổi đời của họ, đi từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ chính là nhân vật tiêu biểu cho quá trình vận động ấy. Quá trình vận động từ khổ đau đến hạnh phúc đó đã cho thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật này.

Vợ chồng A Phủ ra đời khi Tô Hoài cùng đơn vị bộ đội tiến quân giải phóng Tây Bắc, có điều kiện tiếp xúc và tìm hiểu về số phận của người dân nơi đây trong một thời gian dài chính là chất xúc tác giúp ông viết nên tác phẩm này. Truyện này cũng được lấy nguyên mẫu từ cuộc đời của một đôi vợ chồng người Mông, bởi vậy câu chuyện đậm tính chân thực.

Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm, mở đầu là hình ảnh của một cô gái lầm lũi làm việc, công việc với cô như một thói quen, làm không cảm xúc, không ngừng nghỉ từ sáng đến đêm. Để rồi tiếp đó Tô Hoài mới ngược dòng thời gian, tái hiện lại chân dung của Mị trước đây. Mị vốn là một cô gái trẻ trung yêu đời và có tài năng. Vì xinh đẹp và có tài thổi sáo hay nên rất nhiều người con trai thổi sáo và đi theo Mị. Không chỉ vậy, Mị còn là cô gái yêu tự do và yêu lao động. Mối nợ truyền kiếp từ đời cha để lại, dẫn đến nguy cơ cô phải trở thành con dâu gạt nợ, ngay lập tức Mị đã yêu cầu với cha không bán mình đi mà cô sẽ chăm chỉ làm việc để trả nợ dần. Mị hội tụ đầy đủ trong mình những yếu tố được hưởng một cuộc sống yên ấm, hạnh phúc. Nhưng thực tế trái ngang, nhiều bất công cô đã bị A Sử bắt đi và trở thành con dâu gạt nợ. Chính từ giây phút đó cuộc đời cô bước vào chuỗi ngày tăm tối, bi kịch. Mị phải làm việc bất kể ngày đêm, bị bóc lột đến tận xương tủy, công việc chất chồng khiến cô không có giờ phút nghỉ ngơi. Những tưởng rằng cô đã mất hết niềm tin vào cuộc sống khi bị bóc lột về thể xác, tra tấn về mặt tinh thần. Nhưng không, bản chất là một người con gái giàu sức sống, chỉ cần có chất xúc tác, niềm hi vọng ấy sẽ bùng lên mãnh liệt, và nó được Tô Hoài tái hiện đầy đủ qua hai lần: Đêm tình mùa xuân và Đêm đông cứu A Phủ.

Đêm tình mùa xuân là cuộc nổi dậy, là sự nổi loạn đầu tiên của Mị. Có rất nhiều nhân tố khác nhau tác động tới tâm lí cô, khiến cô thực hiện cuộc nổi loạn đầu tiên này. Trước hết là không khí mùa xuân tươi vui, rực rỡ, những chiếc váy mèo đầy màu sắc trải dài trên các triền nương, tiếng trẻ con vui đùa tíu tít ngoài sân. Mùa xuân gắn với sự sống, với tình yêu, với không khí mùa xuân đã phần nào tác động đến tâm lí của Mị. Nhưng không khí mùa xuân thôi chưa đủ, chất xúc tác tiếp theo chính là hơi men của rượu. Mị cũng uống rượu như bao người khác, nhưng không phải để mừng một năm mới đến mà uống ừng ực từng bát một, uống như để quên đi những cay đắng, nhọc nhằn, quên đi những khổ đau cả về thể xác và tinh thần mà mình phải chịu đựng. Rượu là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tại, tìm về với quá khứ. Nhưng quan trọng nhất là sự tác động của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện dần dần, tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo gọi bạn đến đầu làng khiến Mị nhớ về tiếng sáo của mình ngày trước – tiếng sáo gắn với quá khứ đẹp đẽ. Việc thu hẹp khoảng cách của tiếng sáo thực chất là quá trình chuyển hóa từ tiếng của của thiên nhiên, bên ngoài đến tiếng gọi trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo là tác nhân quan trọng nhất làm bừng lên sức sống và khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.

Sau khi nghe thấy tiếng sáo Mị chối bỏ thực tại, nhớ về quá khứ đẹp đẽ. Nhưng hiện thực cuộc sống phũ phàng, như một sợi dây vô hình trì níu, khiến cho Mị bất ngờ quay vào buồng, dường như trong cô vẫn chưa sẵn sàng cho cuộc vượt thoát này. Chỉ đến khi nhìn thấy ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng Mị mới thực sự thoát khỏi sự trì níu của thực tại. Cô thấy lòng mình phơi phới trở lại, cô muốn đi chơi, muốn được giao tiếp với mọi người. Đồng thời cô cũng mong giá mà có nắm lá ngón lúc này, cô sẽ ăn để chết chứ không thể tiếp tục cuộc sống này nữa. Và đúng lúc ấy, tiếng sáo lại một lần nữa xuất hiện đầy hữu ý, tiếng sáo khiến sự nổi loạn của Mị bật thành hành động: cô muốn đi chơi, lấy mỡ thắp đèn cho sáng và cô lấy váy để chuẩn bị đi chơi. Tất cả những hành động đó đã cho thấy một trái tim khát khao sống mãnh liệt. Tuy nhiên tất cả đã bị chặn đứng bởi hành động độc ác của A Sử, hắn trói đứng Mị vào cột. Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác chứ không thể trói được tâm hồn Mị, tâm hồn cô đã vượt thoát thực tại thành công.

Sau cuộc nổi loạn không thành ở đêm tình mùa xuân, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt, tiếp tục cuộc sống “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Nhưng với sự xuất hiện của A Phủ, cùng sự việc A Phủ bị trói đứng chờ chết đã thức tỉnh trong Mị tình yêu thương và khao khao sống. Hằng đêm Mị vẫn ra bếp lửa hong tay, cô chẳng mảy may để ý đến A Phủ, nhưng đêm ấy lại là một đêm rất khác, cô nhìn thấy giọt nước mắt lăn dài trên hốc mắt sâu hoắm. Giọt nước mắt đó đã tác động mạnh mẽ đến cô, để Mị nhớ rằng trước đây mình cũng từng bị trói đứng, cũng từng khóc như vậy nhưng không một ai để ý. Giọt nước mắt ấy cũng dấy lên trong cô lòng thương cảm, xót xa “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết” “người kia việc gì mà phải chết thế”. Cùng với lòng thương cảm là sự căm phẫn, khi Mị đã nhận ra sự độc ác của gia đình thống lí. Mị đã thoát khỏi tình trạng mơ hồ trong việc nhận thức kẻ thù, đây chính là bước đầu tiên nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng, vùng lên đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác.

Bằng sự bao dung, vị tha, Mị tự thấy “Ta là phận đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” chính vì vậy đã đưa Mị đến một quyết định cao cả, Mị lấy dao cởi trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, nhưng lại hết sức logic, hợp lí, bởi đó là hành động của tình yêu thương, sẵn sàng hi sinh cho người khác. Cứu A Phủ xong, Tô Hoài rất tinh tế khi miêu tả Mị đứng lặng trong bóng tối vì những hành động mình vừa thực hiện. Sau cuộc nổi loại này, cô tiếp tục thực hiện cuộc nổi loại thứ hai để tự cứu chính mình: “A Phủ cho tôi đi” “Ở đây thì chết mình” đầy bản lĩnh và chủ động, Mị đã tự cứu lấy chính mình. Tiếng gọi của Mị với A Phủ không đơn thuần chỉ là sự giao tiếp mà còn là tiếng gọi của tự do, tiếng gọi của hạnh phúc. Hai con người khốn khổ ấy đã cùng nhau bỏ trốn để xây dựng một cuộc sống mới, cuộc sống tự do, hạnh phúc.

Những hành động bất ngờ, quyết liệt cho thấy Mị đã cắt đứt sợi dây trói hữu hình đang giam cầm A Phủ để giải cứu cho đồng loại, đồng thời cũng cắt đứt sợi dây vô hình của thần quyền để giải phóng cho chính mình. Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị - một con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.

Bằng ngòi bút tinh vi, miêu tả những biến chuyển tâm lí nhân vật đã cho nghệ thuật thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của Tô Hoài. Đồng thời hai lần trỗi dậy đó cũng cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Qua đó còn cho thấy nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Tô Hoài, ông phát hiện, trân trọng vẻ đẹp sức mạnh tiềm tàng, mãnh liệt trong những con người khốn khổ. Đồng thời thể hiện niềm tin, sự lạc quan vào tương lai tươi sáng cho những con người có số phận bất hạnh.

Bài văn mẫu số 10

Vợ chồng A Phủ (1953), Miền Tây (1967), Vừ A Dính (1962)... là những tác phẩm nổi tiếng của Tô Hoài viết về phong tục, cảnh sắc và con người miền Tây của Tổ quốc ta. Tô Hoài đã từng nói: “Tôi coi Việt Bắc, Tây Bắc cũng như một quê hương đề tài của tôi...” (Văn nghệ số 14/10/1995). Tập truyện Tây Bắc là một nét son chói lọi đầu tiên của sự nghiệp văn chương Tô Hoài viết về đề tại miền Tây. Một chuyến đi dài, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Ông đã viết thành công tác phẩm "Truyện Tây Bắc", trong đó có truyện "Vợ chồng A Phủ". Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc.

Những trang viết về Mị - một trong hai nhân vật chính của truyện là vô cùng cảm động. Mị tuy bị chà đạp, bị giày xéo trong bể khổ cuộc đời, nhưng cô đã có một sức sống tiềm tàng kì lạ!

Mị là một cô gái trẻ và đẹp, duyên dáng, hiếu thảo, thổi sáo hay, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhà nghèo, năm nào bố Mị cũng phải trả nợ lãi một nương ngô cho thống lí Pá Tra. Bố đã già, Mị thương bố lắm. Cô đã nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Món nợ truyền kiếp mà bố Mị vay của thống lí như một oan trái cuộc đời. Mị đã bị A Sử - con trai thống lí đánh lừa bắt về cúng trình ma. Mị trờ thành con dâu gạt nợ... Đau xót quá! “Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thế nào khác được rồi!”. Tiếng than của bố Mị nói lên một sự thật cay đấng: Mị là con dâu gạt nợ của thống li Pá Tra - điều đó như một định mệnh bi thảm!

Những năm đằng đẳng làm dâu gạt nợ, Mị bị đối xử hết sức tàn tệ, chẳng khác gì một con vật. Phải làm quần quật quanh năm, suốt tháng. Lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, đi nương bé bắp, lúc hái củi bung ngô, lúc nào Mị cũng phải gài một bó đay trong cánh tay đế tước thành sợi. Mị chẳng khác nào con trâu, con ngựa nhà thống lí. Khổ cực quá chừng: “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”.

Tuổi trẻ, sắc đẹp cũa Mị bị tước đoạt, vùi dập. Cô như một đóa hoa rừng chóng héo tàn, lúc nào cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi'’. Buồng Mị ở như một cái chuồng nhốt thú, kín mít, tối om, chỉ có một lỗ nhỏ bằng bàn tay, nhìn ra ngoài “chí thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Đau khổ quá “Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi!’’. Nỗi ám ảnh ấy thật ghê sợ. Mị như một linh hồn chết.

Cứ tưởng rằng Mị cam chịu số phận. Nhưng cô ta đã hết sức vùng vẫy cố thoát khỏi cái dây oan nghiệt của sô phận. Hàng mấy tháng liền, đêm nào Mị cũng khóc. Mị trốn về nhà, tròng mắt đỏ hoe. Gặp bố “Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở". Lần đầu tiên, Mị phản kháng lại số phận tủi nhục, hái lá ngón toan ăn để tự tử. Nhưng Mị chết đi, ai sẽ làm nương ngô giả được nợ thống lí, khi bố Mị đã “ốm yếu quá rồi”. Thương bố, Mị “không đành lòng chết”. Mị bưng mật khóc, ném nắm lá ngón xuống đất “đành trở lại nhà thống lí”, cam chịu kiếp ngựa trâu, sống lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Biết bao mùa xuân trôi qua! Biết bao nhiêu nước mắt Mị đã chảy xuống. Cũng như bao người đàn bà khác trong nhà thống lí “một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”. Mị cam chịu số phận: “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi’’... Mị thấy mình chỉ là con trâu, con ngựa “chi biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi!”. Một đời con gái, một kiếp người bị vùi dập đến tê dại như thế thì sự đau khổ đã tột cùng rồi!

Một bất ngờ khác lại đến với người đọc. Lần thứ hai, Mị lại vùng dậy. Ngày Tết đến, Mị đã lén lấy hũ rượu “uống ừng ực từng bát” rồi say, “lịm mặt’' ngồi xem bọn nhảy đồng, người hát, nhưng “lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Con gái vùng rẻo cao, ai mà chẳng uống rượu? Chắc là Mị đã từng uống rượu, nhưng cách uống rượu “ừng ực từng bát” thì đây là lần đầu tiên. Mị uống cho quên hết mọi đau khổ? Mị uống cho hả giận? Hay Mị mượn bát rượu để thức tỉnh lòng mình sống lại cùng với mùa xuân, với những đêm tình mùa xuân thời con gái? Nếu những năm tháng đã qua, bếp lửa và ngọn lửa đã sưởi ấm lòng Mị, đã làm nguôi đi, vơi đi bao nỗi đau, tủi nhục cuộc đời, thì giờ đây, tiếng sáo, tiếng hát của trai gái Mèo tha thiết gọi bạn tình đã khơi dậy trong lòng Mị bao khao khát:

Anh ném pao, em không bắt

Em không yêu, quả pao rơi rồi...

Mị đã tự ý thức về mình. Mị thấy lòng phơi phới, vui sướng như thời con gái bước vào những đêm tình mùa xuân. Mị thấy mình "trẻ lắm... vẫn còn trẻ”. Mị thấy mình cô đơn. Mị phải đi chơi. Bao nhiêu cô gái khác đã có chồng vẫn đi chơi . Thật là vô lí, hơn nữa Mị thấy mình với A Sử “không có lòng với nhau nhưng vẫn phải ở với nhau’’. Mị khóc. Mị thương mình đau khổ. Mị ghê tởm thằng A Sử “còn muốn rình bắt mấy người con gái nữa về làm vợ...” Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay! Một sức sống tiềm tàng trong lòng Mị như hòn than hồng âm ỉ cháy. Bạo lực, Mị cũng chẳng sợ. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sang, rồi cô quấn lại tóc, với lấy váy hoa, rút thêm cái áo, chuẩn bị đi chơi. Hành động Mị diễn ra trước mắt thằng A Sứ. Như thách thức. Không trả lời khi hắn hỏi: “Mày muốn đi chơi à?”. Sự vùng dậy của Mị lần này lại phải trả giá! Thằng con trai của nhà thống lí vô cùng tàn ác đã trói đứng Mi trong buồng tối bằng một thúng sợi đay và còn quấn cả tóc Mị lên cột, làm cho cô “không cúi không nghiêng được đầu nữa”. Nhưng sức sống vẫn tiềm ẩn trong lòng người con gái Mèo này. Suốt đêm bị trói đứng “dây trói thít lại, đau nhức”, lúc mê lúc tỉnh, Mị “nồng nàn tha thiết nhớ” và cô bồi hồi: “Mị vẫn tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi". Tâm trí Mị chập chờn “có lúc vùng bước đi”, nhưng bị trói, đi sao được? Nghe tiếng ngựa gãi chân, nhai cỏ “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

Chúng ta đã từng đọc truyện thơ "Tiễn dặn người yêu" trong đó cô gái Thái bị ép duyên đau khổ than thân: “Ngẫm thân em chỉ bàng thân con bọ ngựa — con chẫu chuộc thôi...”. Nỗi cay đắng của Mị còn gấp trăm gấp nghìn lần thế! Được cởi trói do một sự tình cờ, cô lại phải vào rừng hái lá thuốc, đêm ngồi hầu hạ, xoa thuốc dấu cho A Sử. Đau ê ẩm, mỏi quá, Mị “gục đầu nằm thiếp đi” lại bị tên khốn kiếp “đạp chân vào mặt”. Tô Hoài đã ghi lại một cách cảm động sự vùng dậy lần thứ hai của Mị với bao vùi dập, đau đớn ê chề ! Mị vẫn chưa gục ngã trước số phận!

Lần thứ ba, Mị lại vùng dậy. Hình như số phận của Mị đã gắn liền với số phận của A Phủ như một tiền định. Một bên là con dâu gật nợ, một bên là kẻ phạm tội đánh con quan. Cả hai đều là con trâu, con ngựa của nhà thông lí Pá Tra. Mị đã bị A Sử trói đứng. A Phủ vì tội để hổ bắt mất bò đã bị Pá Tra trói vào cọc bằng một cuộn dây mây, “quấn từ chân lên vai, chỉ còn cổ và đầu hơi lúc lắc được”. Làm sao bắt được con hổ? A Phủ nhất định bị thế mạng. Suốt 3 ngày đêm bị trói “A Phủ chỉ đứng nhắm mắt” Má A Phủ đã xám lại. A Phủ sắp chết! Giữa đêm khuya từ bếp lửa nhìn sang, Mị nhìn những giọt nước lăn bò trên má A Phủ mà xót xa, động lòng: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết...”. Mị căm thù nguyền rủa cha con thống lí: “Chúng nó thật độc ác. Người kia việc gì mà phải chết thế..”. Mị không còn biết sợ hãi nữa. Cô đã dùng dao nhỏ cắt nút dây mây, cởi trói cho A Phủ, cứu thoát A Phủ. Như một lời khích lệ: “Đi ngay!”. Mị đã vùng chạy theo A Phủ. Cô đã nói: “ A Phủ cho tôi di... ở đây thì chết mất!”. Lương tâm thức tỉnh. Mị cứu A Phú và cũng là tự cứu mình. Thật là dữ dội và khủng khiếp. Tình huống truyện tạo nên tính bi kịch của số phận. Bao nhiêu máu và nước mắt, Mị mới giành được tự do. Mị thương người, tự thương minh. Khát vọng về tự do và hạnh phúc, là nguồn sức mạnh vùng dậy của Mị.

Trốn khỏi Hồng Ngài, Mị và A Phủ đi suốt một mùa mưa, vượt qua những triền núi đá tai mèo, họ nên vợ nên chồng khi đến khu du kích Phiềng Sa. Hành động cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn là điểm đỉnh sự vùng dậy của Mị, là sự thể hiện sức sống tiềm tàng của người con gái Mèo trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Khát vọng về tự do, hạnh phúc, về quyền sống của con người đã cho nhân vật Mị nhiều sức mạnh để vùng dậy. Sức sống tiềm tàng cùa Mị đủ khổng định một chân lí: Bạo lực không đè bẹp được khát vọng tự do! Sức sống tiềm tàng của Mị mang tính điển hình sâu sắc, thể hiện một cách cụ thể, chân thực và sống dộng cho sự vùng dậy của người Mèo trên con đường đi tìm hạnh phúc, tự do và họ đã đến với cách mạng và kháng chiến.

Nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài miêu tả và khám phá trong chiều sâu tâm hồn, trong những biến thái “thăng trầm, gấp khúc” của tâm trạng. Miêu tả thành công sức sống tiềm tàng cùa nhân vật Mị, ngòi bút nghệ thuật của Tô Hoài đã làm cho truyện ngắn Vợ chồng A Phủ sáng bừng giá trị nhân đạo. Người đọc mãi mãi thấm thía về cái giá của tình yêu tuổi trẻ và hanh phúc, tự do.

Bài văn mẫu số 11

Tô Hoài được biết đến là một trong số những nhà văn thành công nhất khi viết về cuộc sống và con người nơi miền Tây Bắc của Tổ quốc trong những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ mà kiên cường, bất khuất của dân tộc. Với lối trần thuật sinh động, ngôn ngữ gợi cảm cùng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, những trang viết của Tô Hoài luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc và tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" là một trong số những tác phẩm đó. Đọc "Vợ chồng A Phủ" người đọc không thể nào quên được hình ảnh nhân vật Mị - một cô gái sức sống tiềm tàng, mãnh liệt.

Như chúng ta đã biết, Mị là một cô gái trẻ đẹp với nhiều phẩm chất đáng quý nhưng cuộc đời của Mị lại luôn gặp phải những đau khổ và bi kịch. Ngay trong phần đầu của tác phẩm, người đọc đã thấy hiện lên hình ảnh một cô Mị xinh đẹp, chăm chỉ và giàu lòng hiếu thảo với cha mẹ. Chắc hẳn, ai cũng nghĩ, người con gái hội tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp như Mị sẽ xứng đáng có được cuộc sống ấm êm, vui vẻ và hưởng một hạnh phúc vẹn tròn. Nhưng, vì món nợ truyền kiếp Mị đã trở thành con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra và cũng kể từ đây, Mị sống kiếp của con trâu con ngựa và với Mị, nhiều lúc cô cảm thấy mình còn không bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí. Cũng kể từ đây, Mị đã trở thành công cụ lao động của nhà thống lí, Mị làm việc không biết ngày tháng,quên hết mọi ý niệm về không gian và thời gian. Và để rồi, có lẽ bởi sống quá lâu trong cái khổ, trong sự hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần, Mị dần trở nên chai lì, vô cảm và tê liệt trong sức sống, lúc nào cùng làm việc như một cỗ máy với khuôn mặt "buồn rười rượi".

Dẫu sống trong cái khổ với đầy rẫy sự áp bức nhưng người đọc vẫn thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị mà không thế lực nào có thể dập tắt nó được. Có thể thấy, sức sống tiềm tàng ấy của Mị trước hơn hết thể hiện ở những phản ứng ngầm của nhân vật. Đã có nhiều lầm trong tác phẩm Mị có ý định ăn lá ngón để tự tử. Hành động ấy của nhân vật xét đến cùng xuất phát từ việc Mị ý thức được thực tại cuộc sống của chính mình và vượt thoát khỏi nó.

Đặc biệt, sức sống tiềm tàng của Mị được thể hiện rõ nét qua diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật trong đêm tình mùa xuân. Bằng ngòi bút trữ tình và giàu chất thơ cùng những am hiểu sâu sắc về Tây Bắc, nhà văn Tô Hoài đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân Tây Bắc với những nét độc đáo nhất, mang đậm bản sắc của núi rừng nơi đây và có lẽ đặc biệt nhất trong số đó chính là âm thanh của tiếng sáo. Bởi âm thanh của tiếng sáo chứa thật nhiều ý nghĩa, nó không chỉ là nét đặc trưng của mùa xuân Tây Bắc mà còn là biểu tượng cho hạnh phúc, tình yêu, đồng thời nó chính là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến tâm hồn Mị, đánh thức sức sống trong Mị. Để rồi, trong tâm hồn Mị đã bắt đầu có những dấu hiệu của sự thức tỉnh, "Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi", Mị cảm nhận được những âm thanh trong không gian quanh mình và rồi "Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo". Giờ đây, dường như Mị không còn dửng dưng, vô cảm với những gì diễn ra trong cuộc sống của mình nữa. Qua lời bài hát, từng dòng kí ức đang gọi nhau ùa về, sống lại trong Mị. Tâm hồn Mị bắt đầu có dấu hiệu của sự nổi loạn. Mị uống rượu, "uống ừng ực từng bát" như để quên đi những nỗi cay đắng, tủi nhục của mình. Tâm hồn Mị dần hồi sinh và phơi phới trở lại, dần thoát khỏi sự tê liệt về tinh thần. Mị ý thức về tuổi trẻ và khao khát được sống như ngày xưa "Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi". Muốn đi chơi nghĩa là Mị muốn hòa mình vào không khí của màu xuân tươi đẹp rực rỡ, là muốn đến với thế giới ngập tràn tình yêu và tự do phía bên ngoài kia, nghĩa là Mị đã thoát khỏi trạng thái tê liệt tâm hồn trong những ngày trước đây. Và đó cũng chính là lúc Mị ý thức được thân phận tủi nhục, cay đắng của chính mình. Tâm hồn thức tỉnh đó cũng là lúc Mị đối diện với thực tại phũ phàng, nhận ra thân phận buồn tủi chua xót của mình khi Mị và A Phủ không có lòng, không có tình yêu mà vẫn phải ở với nhau - một cuộc sống không có tình yêu và hạnh phúc. Nhưng dù thế nào đi nữa Mị vẫn muốn đi chơi và Mị đã chuẩn bị đi chơi. Mị đã thắp sáng lên ngọn đèn điều đó có nghĩa ý niệm về không gian đã trở lại trong Mị. Mị thắp đèn cũng chính là thắp sáng bóng tối u uất trong tâm hồn mình. Mị quấn lại tóc, "với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo". A Sử về và trói đứng Mị nhưng dường như Mị đã quên mất việc mình đang bị trói, Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo và chân Mị vẫn vùng bước đi. Giờ đây, A Sử chỉ có thể trói chặt thể xác của Mị còn tâm hồn Mị đã đi theo âm thanh của tiếng sáo, hòa cùng những cuộc vui bởi trong Mị giờ đây sức sống đã trỗi dậy, vượt thoát ra khỏi cả những nỗi đau về thể xác.

Thêm vào đó, sức sống mãnh liệt, tiềm tàng của Mị còn thể hiện rõ nét qua hành động Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Lúc đầu, khi thấy A Phủ bị trói đứng, Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm, "Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi". Mị sống cô độc, tuyệt vọng và vô cảm, phải chăng chính cái khổ, cái cực ở nhà thống lí đã khiến tâm hồn Mị trở nên chai sạn. Nhưng rồi khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, tâm hồn Mị đã được đánh thức. Mị không còn dửng dưng, thản nhiên với A Phủ nữa mà thay vào đó là sự đồng cảm và động lòng trắc ẩn "Trời ơi! Nó bắt trói đứng người ta đến chết". Giọng văn chuyển từ kể sang biểu cảm đã thể hiện rõ nét niềm cảm thương sâu sắc của Mị với A Phủ và cả với chính mình. Hơn thế nữa, Mị căm phẫn tội ác của cha con nhà thống lí Pá Tra. "Mị thốt lên: Chúng nó thật độc ác". Nhà văn đã để nhân vật tự thốt lên, trực tiếp bộc lộ sự căm phẫn và thái độ phản kháng của mình. Trong đầu Mị hiện lên ý định cởi trói cho A Phủ song Mị lại thấy sợ. Nhưng rồi đến cuối cùng, tình thương người, thương mình của Mị đã vượt qua mọi nỗi sợ hãi, thúc đẩy Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Mị giục A Phủ chạy trốn và cuối cùng quyết định chạy trốn theo A Phủ. Hành động đó của Mị là hành động bột phát song nó là điều tất yếu bởi lẽ sức sống tiềm tàng đang cứ ngày một lớn dần và trỗi dậy trong Mị.

Tóm lại, với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, chân thực và tinh tế cùng những tình huống đặc sắc, "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị với sức sống tiềm tàng, mãnh liệt. Đồng thời, qua đó đã thể hiện rõ nét tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài.

Bài văn mẫu số 12

Xưa nay, người phụ nữ xuất hiện trong văn học mang những màu sắc khác nhau. Đó là nàng Kiều tài sắc vẹn toàn nhưng số phận lại lênh đênh vùi dập. Đó là Hồ Xuân Hương với một cá tính mạnh mẽ gan góc trong văn học Việt Nam. Cũng viết về hình tượng người phụ nữ, nhưng Tô Hoài lại lựa chọn một đối tượng phản ánh độc đáo – người phụ nữ miền núi. Đây là đối tượng vừa chịu ảnh hưởng của chế độ thần quyền vừa là nạn nhân của chế độ phong kiến. Không chỉ khắc họa số phận bi kịch của họ, Tô Hoài còn khắc họa vẻ đẹp trong sức sống tiềm tàng của họ. Điều ấy được thể hiện rõ nét qua nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

Tìm hiểu về nhà văn Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị nói riêng hay cảm nhận về tác phẩm Vợ chồng A Phủ nói chung đều cần nắm được những thông tin chính về tác giả cũng như tác phẩm.

Đôi nét về nhà văn Tô Hoài

Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen. Ông sinh năm 1920, quê ở Hà Đông – nay là Hà Nội. Ông có một tuổi thơ và cuộc sống chịu nhiều vất vả để mưu sinh. Năm 1943, Tô Hoài tham gia hội văn hóa cứu quốc. Sau cách mạng tháng tám, ông tích cực tham gia vào công cuộc kháng chiến chống Pháp. Bên cạnh đó, ông còn bắt đầu tham gia viết báo, sáng tác văn chương.

Tô Hoài sáng tác ở nhiều thể loại khác nhau từ truyện ngắn, truyện dài, hồi kí cho đến tiểu thuyết, kịch bản văn học. Trước cách mạng tháng tám, ông chủ yếu hướng ngòi bút của mình đến loài vật và cuộc sống của người nông dân nghèo khó như Dế Mèn phiêu lưu kí (1941), O chuột (1942), Nhà nghèo (1944).

Sau cách mạng tháng tám, Tô Hoài lại hướng ngòi bút của mình đến cuộc sống của người dân ở miền núi. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến trong giai đoạn này là tập truyện Tây Bắc (1953), Miền Tây (1967), Cát bụi chân ai (1992).

Tô Hoài có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều nơi trên đất nước. Bên cạnh kiến thức uyên bác, ông còn hấp dẫn người đọc bằng cách hành văn hóm hỉnh, sinh động trong lối trần thuật.

Giới thiệu tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ được in trong tập truyện Tây Bắc (1953). Tập truyện này là kết quả của chuyến đi thực tế 8 tháng. Trong tập truyện này, cuộc sống của người dân miền núi được khắc họa chân thật sống động. Trong đó, nổi bật nhất là vẻ đẹp tràn đầy sức sống của nhân vật Mị.

Tìm hiểu sức sống tiềm tàng là gì?

Để phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong tác phẩm, ta cần hiểu sức sống tiềm tàng được định nghĩa là sức sống vốn có của con người nhưng bị hoàn cảnh bên ngoài tác động làm che khuất đi. Sức sống tiềm tàng ấy sẽ luôn thường trực và chờ cơ hội trỗi dậy.

Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ

Sức sống vốn có của nhân vật Mị trước khi làm dâu nhà thống lý

Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị đầu tiên cần làm rõ khi Mị làm dâu tại nhà thống lý. Mị là cô gái trẻ trung giàu lòng tự trọng trong những tháng ngày tự do. Nếu nhìn vào cô Mị của hiện tại“một cô gái ngồi quay sợi bên cạnh đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy,…cô gái ấy lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, ít ai có thể hình dung được trước khi làm con dâu nhà thống lí Mị từng là một cô gái trẻ trung, vui tươi. Mị hồn nhiên, yêu đời, tràn đầy sức sống, đặc biệt có tài thổi sáo.

Vì vậy, trong làng, có nhiều trai theo Mị, mỗi năm tết đến bố mẹ Mị không thể ngủ được vì tiếng chó sủa khi “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Tuy nhà nghèo nhưng Mị là người chăm làm, siêng năng và hiếu thảo với bố mẹ.

Biết tin bố mẹ thiếu nợ nhà thống lý nhưng Mị không oán than. Mị sẵn sàng làm việc gian khổ vất khổ chứ nhất quyết không chịu bán cho nhà giàu để trả nợ “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.” Sự dứt khoát ấy đã thể hiện được Mị là một cô gái giàu lòng tự trọng. Dù kiên quyết nhưng Mị đã bị bắt về cúng ma, làm dâu để trả nợ – món nợ truyền kiếp trói buộc người lao động nghèo vào kiếp sống nô lệ tối tăm. Có thể thấy, khi phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, người đọc không khỏi xúc động trước sự hiếu thuận của nhân vật.

Lúc mới về làm dâu, Mị vô cùng đau khổ, tuyệt vọng đã có lúc muốn tìm đến cái chết “có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Tìm đến cái chết cũng là minh chứng cho khát vọng sống mạnh mẽ của Mị – khát vọng một cuộc sống tự do, không trói buộc không phải làm nô lệ cho kẻ khác. Nhưng ý định ấy nhanh chóng bị bỏ qua, bởi lẽ Mị không chỉ sống cho cái tôi, cho khát vọng của mình mà Mị còn phải sống vì gia đình nên chỉ có thể “bưng mặt khóc” và “ném nắm lá ngón xuống đất”.  Lúc ném nắm lá ngón đi cũng chính là lúc Mị chấp nhận kiếp sống đọa đày, tăm tối không lối thoát này. Ấy nhưng ẩn sâu trong tâm hồn Mị chứa đựng biết bao sự trỗi dậy, và chỉ khi phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, ta mới thấy được điều này rõ nét.

Sự thức tỉnh về tâm hồn trong đêm tình mùa xuân

Mấy năm sau, khi bố đã chết, Mị cũng không còn nghĩ đến chuyện tự tử hay nghĩ đến chuyện thoát khỏi nhà thống lí sống cuộc đời tự do bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Đau đớn, xót xa cho thân phận con người. Điều đáng sợ không phải là khổ cực, cam chịu làm nô lệ mà đó chính là con người đánh mất ý thức phản kháng.

Mị bị buộc chặt vào công việc, làm việc quanh năm suốt tháng không ngừng nghỉ. Đó cũng là số phận chung của “đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào làm việc cả đêm cả ngày”. Từ khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ, cuộc đời của người con gái xuân xanh ấy giờ đây chỉ còn được tính bằng công việc của mỗi mùa, mỗi năm, mỗi tháng. Mị làm quần quật không nghỉ ngơi, nào là “quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi” đến “cõng nước dưới khe suối lên”.

Tết xong thì lại “lên núi hái thuốc phiện”, giữa năm “giặt đay, xe đay” đến mùa thì “đi nương bẻ bắp” rồi “hái củi, bung ngô” và “lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời cũng thế”. Khi phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, những tưởng không gì có thể lay động trái tim Mị nhưng sức sống ấy vẫn tồn tại trong Mị như đống tro tàn chỉ cần một cơn gió sẽ bùng cháy dữ dội.

Mà đêm tình mùa xuân chính là một trong nhưng yếu tố tác động quan trọng. Mùa xuân trên núi cao với bao nhiêu điều tươi đẹp như được hiện ra qua từng nét phác họa của Tô Hoài. Đó là khung cảnh thiên nhiên “Gió thổi vào cỏ xanh vàng ửng”, “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ” và đám trẻ con “chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”.

Ngoài đầu núi đã có tiếng sáo rủ bạn đi chơi như chạm vào bao nỗi niềm của Mị. Tiếng sáo được miêu tả bằng những từ láy, đi từ xa đến gần: đầu tiên là “ngoài đầu núi lấp ló”, rồi “vọng lại, thiết tha bồi hồi”, sau đó là “văng vắng đầu làng” và cuối cùng là “trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Khi phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, ta thấy chính tiếng sáo ấy đã đánh thức trái tim vốn ngủ yên của Mị.

Khi nghe tiếng sáo vọng lại, Mị bừng tỉnh, thoát khỏi cảm giác vô cảm bấy lâu nay, cô đã cảm nhận tiếng sáo bằng tâm trạng “thiết tha bổi hổi”. Sau đó, Mị “nhẩm thầm bài hát” của người đang thổi sáo và lấy rượu uống rất lạ “cứ uống ực từng bát”. Mị mượn rượu như để nuốt những cay đắng tủi nhục của hiện tại vào lãng quên, tìm về quá khứ tươi đẹp.

Từ lúc ấy, dường như “lòng Mị đang sống về ngày trước”, ngày còn tự do, khi mùa xuân về Mị thổi sáo và “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Sức sống trong Mị bắt đầu hồi sinh: “Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị đã nhận thức ra vấn đề mình vẫn còn là con người, vẫn còn quyền sống của một con người: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Đồng thời Mị ý thức được mình rất cần được hạnh phúc: “bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.

Khi lòng khát khao hạnh phúc trào dâng cũng là lúc Mị nhận ra nỗi tủi nhục, bất hạnh của mình và cô đã nghĩ đến cái chết “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Trong tiếng sáo là tiếng là tiếng gọi của tình yêu cuộc sống kéo Mị về với nỗi khát khao hạnh phúc, tự do khiến cho Mị muốn được sống một cuộc đời khác thoát khỏi kiếp sống hiện tại. Những suy nghĩ ấy là bước khởi đầu cho sự trỗi dậy sau này. Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về quá trình đi đến hành động của nhân vật.

Từ khát khao mãnh liệt “Mị còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi” cho đến hành động “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng… quấn lại tóc, với tay lấy váy hoa vắt ở phía trong vách,..rút thêm cái áo” chuẩn bị sẵn sàng để đi chơi. Thế nhưng ước muốn ấy đã bị A Sử dập tắt một cách phũ phàng. Khi A Sử về thấy Mị muốn đi chơi, hắn đã thẳng tay vùi dập Mị “lấy cái thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc Mị lên cây cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”.

Lúc đầu, Mị không hề phản ứng bởi Mị vẫn còn đang sống trong tâm trạng thiết tha bồi hồi, vẫn thấy “hơi rượu còn nồng nàn”, vẫn còn nghe tiếng sáo “như không biết mình đang bị trói” mà vẫn hướng theo “tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Rồi khi Mị vùng dậy định bước đi thì “chân tay đau không cựa được”, “không nghe tiếng sáo nữa” chính lúc ấy Mị trở lại thực tại đắng cay.

Mị khóc cho thân phận mình không bằng con trâu,“không bằng con ngựa”. Giọt nước mắt Mị rơi đã phá tan đi phần nào cái băng giá ngự trị trong tâm hồn Mị, le lói thắp sáng khát vọng được sống một cuộc đời tự do. Ngọn lửa mà Mị mới thắp lên ấy tuy đã bị A Sử dập tắt nhưng A Sử chỉ có thể trói buộc Mị về mặt thể xác không thể trói buộc được tâm hồn Mị. Khi phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, ta thấy cuộc nổi dậy ấy đã bị đứt đoạn trong đau đớn nhưng nó đã chứng minh khát vọng sống vẫn còn tiềm tàng trong trái tim tưởng chừng đã cỗi cằn của Mị.

Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm đông

Ý định nổi dậy bị A Sử dập tắt khi còn trong trứng nước, thì đến đêm đông khi chứng kiến A Phủ bị trói khát vọng lại trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Không còn là suy nghĩ mà nó đã trở thành hành động cụ thể. Khi đang thức sưởi ấm để xua đi cái lạnh của “những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn”, Mị vô tình “lé mắt trông sang” và thấy “hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”.

Đầu tiên, Mị vẫn thản nhiên lạnh lùng ngồi “thổi lửa, hơ tay”, trong suy nghĩ của Mị “Nếu như A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế mà thôi”. Nhưng khi thấy những giọt nước mắt của A Phủ, Mị bắt đầu thay đổi. Mị bỗng nhớ về những ngày trước đây khi Mị bị A Sử hành hạ “Mị cũng bị trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Khi phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, người đọc cảm nhận rõ nét sự thay đổi trong suy nghĩ của nhân vật.

Từ suy nghĩ về bản thân mình, Mị bắt đầu cảm thông cho A Phủ “cơ chừng này chắc chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” và bắt đầu căm phẫn tội ác cha con thống lý “nó bắt trói đến người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng thật độc ác”. Mị bắt đầu suy nghĩ về mình “là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”, về A Phủ “người kia việc gì mà phải chết thế”, đồng thời Mị cũng tưởng tượng đến cảnh nếu A Phủ trốn được, Mị phải chết thay. Có thể thấy, phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị khiến người đọc thấy được quá trình đấu tranh tư tưởng trong suy nghĩ của nhân vật.

Dần dần Mị đã chiến thắng nỗi sợ hãi “nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ” để rồi dẫn đến một hành động táo bạo – cắt dây trói, giải thoát cho A Phủ. Và sau vài giây “đứng lặng trong bóng tối”, Mị đã “vụt chạy ra” trốn thoát cùng A Phủ. Hành động ấy của Mị không chỉ cứu người mà còn giải thoát cho cả bản thân mình.

Có thể nói, khi phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị thì đây là minh chứng rõ nét nhất cho khát vọng sống mãnh liệt cũng như lòng yêu thương của Mị. Mị đã cắt đứt sợi dậy của cường quyền cũng như của thần quyền đã trói buộc Mị và A Phủ trong vòng nô lệ suốt bao năm qua, thể hiện tinh thần phản kháng quyết liệt với cái ác, khởi đầu từ tự phát đến thành tự giác đi theo Cách mạng.

Nhận xét khi phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị

Khi phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, tác giả không chú trọng tả ngoại hình mà chủ yếu khắc họa diễn biến tâm trạng nhân vật, thể hiện thành công bước chuyển biến từ tiềm thức đến ý thức, từ suy nghĩ đến hành động, từ thế bị động đến chủ động.

Mị là nhân vật tiêu biểu cho người phụ nữ lao động nghèo khổ miền núi dưới ách thống trị tàn bạo của giai cấp phong kiến. Việc phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị giúp người đọc thấy rằng đó là người người phụ nữ có tâm hồn trong sáng, tự do, luôn khát khao hạnh phúc và có sức sống mãnh liệt. Dù cho có bị chà đạp nhưng họ đã vùng dậy tự giải thoát đồng thời mở ra hướng giải thoát cho người khác.

Vợ chồng A Phủ là câu chuyện về những người dân lao động ở vùng cao Tây Bắc. Họ hiện lên không chỉ là những con người cần cù, chịu thương chịu khó mà Tô Hoài đã phát hiện ở họ một vẻ đẹp của sức sống. Chính vì vậy vậy, ta vừa thấy ở nhân vật Mị những nét kham khổ, chịu đựng quen thuộc khi nói về người phụ nữ, nhưng ta còn bắt gặp ở Mị cả một sức sống mạnh mẽ. Và sức sống đã đã giúp Mị phá tan xiềng xích nô lệ thần quyền, phá tan xiềng xích của bọn cường hào ác bá. Có thể nói, tác phẩm là khúc ca khải hoàn về sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người.

Bài văn mẫu số 13

Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, ông là một cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam. Tô Hoài có vồn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình, lay động lòng người. . “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Truyện nói về cuộc sống tối tăm , khổ nhục và quá trình tự vùng lên đấu tranh kẻ thù, xây dựng lại cuộc đời của người dân miền núi cao Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mỵ có sức ám ảnh đối với người đọc với sức sống tiềm tang trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.

Năm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thăm thiết với người và cảnh Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “Truyện Tây Bắc”

Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc vào câu chuyện bằng một lời giới thiệu nhẹ nhàng nhưng đầy ý vị “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách vào truyện gây ấn tượng bởi tác giả đã tạo ra sự đối nghịch giữa cô gái trẻ đẹp lẻ loi, âm thầm với cảnh đông đúc tấp nập của gia đình thống lí Pá Tra. Đây là thủ pháp tạo tình huống “có vấn đề” để lôi cuốn người đọc khám phá những bí ẩn của số phận nhân vật.

Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa, hồn nhiên yêu đời, là mơ ước của bao trai làng. Mị còn là một cô gái chăm chỉ, hiếu thảo và có lòng tự trọng. Cô đã xin bố cô cho cô “con nay đã lớn, đã biết cuốc nương làm ngô giả nợ cho bố, xin bố đừng gả con cho nhà giàu” . Mị xứng đáng được sống hạnh phúc nhưng Mị lại phải sống đọa đày trong khổ đau, tủi nhục. Ngày trước cha mẹ Mị phải vay tiền của nhà thống lí để làm đám cưới, cho tới khi Mị ra đời, mẹ Mị mất, Mị sắp đến tuổi lấy chồng, món nợ vẫn không trả được, dù mỗi năm gia đinhg Mị đã nộp một nương ngô cho thông lí. Thống lí đế nói với bố của Mị “cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao sẽ xóa hết nợ cho”. Rồi Mị bị A Sử con trai thống lí bắt có về làm vợ theo cướp dâu. Tô Hoài đã tố cáo chế độ cho vay nặng lãi, bóc lột người nhèo một cách dã man của bọn thống trị vùng Tây Bắc thời kì trước cách mạng tháng Tám.

Ngày mới về làm dâu, “có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc” vì Mị phải sống với kẻ mà cô không yêu . hơn nữa, bề ngoài Mị là con dâu thống lí nhưng thực chất cô là con nợ. Một con nợ thông thường dù khốn khổ vẫn hi vọng một ngày nào đó sẽ trả hết nợ, thoát khỏi thân phận con nợ. Không thể chịu đựng đưucọ sự áp chế cả thể xác lẫn tinh thần của cha con thống lí, Mị trốn về nhà gặp cha, cô tính ăn nắm lá ngón để tìm sự giải thoát. Nhưng trước những lời thống thiết của cha, Mị không muốn cha Mị buồn khổ hơn, cô nén nỗi đau riêng đành trở lại nhà thống lí.

Mị sống cam chịu, không phản kháng. Sau này, bố chết rồi “Mị không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Tác giả cắt nghĩa “Ở lâu trong cáu khôt, Mị quen khổ rồi” để minh giải tình trạng nhân vật đày đọa đến mức tê liệt về tinh thần , buông xuôi, phó mặc cho hoàn cảnh. Mị sống thầm lặng, lặng lẽ “mị ngày càng không nói, lùi lũi như con rùa nuoi trong xó cửa”. Mị bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực nhục mà Mị phải chấp nhận. Nhưng Mị còn phải chịu đựng nỗi đau về tinh thần triền miên. Nhà văn miêu tả căn buồng của Mị ở trong nhà thống lí như một nhà tù “ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Mị bị đày ải bởi lao động khổ sai ở nhà thống lí nhưng đáng sợ hơn là sự đày đọa về tinh thần, Nó làm cho Mị sống mà như đã chết.

Với sự cảm thông trân trọng, Tô Hoài đã phát hiện sức sống mạnh liệt tiềm tang trong con người Mị dẫn cô tới hành động phản kháng táo bạo, quyết liệt. Nhà văn tạo những cảnh , nywungx tình huống hợp lí để vẻ đẹp tính cách nhân vật tỏa sáng.

Cảnh tết đến xuân sang với nhiều hình ảnh, màu sắc rực rỡ của những chiếc váy hoa “phơi trên mỏm đá xòa như con bướm sặc sỡ”, tiếng cười đùa vui vẻ của đám trẻ trước sân nhà, đặc biệ là tiếng sáo rủ bạn đi chơi đã tác động mạnh mẽ đến tâm hôn Mị. Mị nghe “tiếng sáo ngoài đầu núi” vọng lại tha thiết, bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thôi:

“Mày có con trau con gái rồi

Ta đi tìm người yêu”

Ngôn từ giản dị, mộc mạc của tiếng sáo hàm chứa lẽ sống tự do, phóng khoáng của con người. Tiếng sáp đánh thức đời sống ý thức, làm hồi sinh tâm hồn Mị, bừng lên sức sống tiềm ẩn trong Mị. “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu..cứ uống ực từng bát. Rồi say..” ngồi “nhìn mọi người nhảy đồng , người hát nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Cách uống rượu “ực từng bát” của Mị khiến ta nghĩ cô như đang uống đắng cay của phần đời đã qua và cô như đang uống cái khát khao của phần đười chưa tới. Rượu có thể làm cơ thể và đầu óc Mị say nhưng tâm hồn cô thì đã tỉnh lại sau bao tháng ngày câm nín bởi sự đày đọa khốn khổ. “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Tiếng sáo nhắc Mị nhớ lại một thời tươi đẹp, một thời tự do. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Để rồi, sau bữa cơm Tết, mọi người đi chơi thì Mị lại “từ từ bước vào buồng”, “ngồi xuống giường, trông ta cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng”. Bởi vì bị giam hãm lâu ngày, Mị đã thành thói quen. “Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi”. Nhưng Mị thấy “phơi phới trở lại trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước” . Mị thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi như bao người phụ nữ có chồng khác. Mị thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi như bao người phụ nữ có chồng khác. Mị ý thức được tình cảm của mình. Ý nghĩ về cái chết là sự phản kháng hoàn cảnh. Nó chứng tỏ Mị đã trở lại chính mình. “Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường” nghe càng da diết , thôi thúc Mị bước tới hành động “xắn một miếng mở bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Khi tiếng sáo “rập rờn” trong đầu, Mị quyết định đi chơi, Mị sửa soạn đi chơi, Mị “quấn lain tóc” “với tay lấy cái váy hoa”, “rút thêm cái áo”. Hành động của Mị là hành động của một người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình. Giữa lúc khao khát tự do trong Mị đang sống dậy thì Mị bị A Sử trói đứng vào cột “không cúi không nghiêng đầu được nữa”. Lúc đó, Mị vẫn là người nửa tỉnh nửa mơ, hồn Mị vẫn lâng lâng theo tiếng sáo, những kí ức tươi đẹp thời thanh xuân khiến Mị “như không biết mình đang bị trói”. Khi Mị vùng bước đi, sợi dây trói nhắc Mị nhớ tới thân phận trong hiện tại. Mị thổn thức nghĩ “Mình không bằng con ngựa” , vì con ngựa còn được đứng gãi chân, nhai cỏ. Thực tại nghiệt ngã lại bóp chết khát vọng trong Mị. Cả đêm bị trói đứng như thế. Nín khóc Mị lại bồi hồi, có lúc lại nồng nàn thiết tha nhớ…

Sức sống mãnh liệt tiềm tang trong con người Mị không gì vùi dập được. Ngòi bút của tác giả lánh sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính cách nhân vật ngay cả lúc nhân vật đau khổ nhất. Tô Hoài đã cảm thông cho số phận của những con người phải sống trong sự đày đọa của áp bức thông trị. Nhà văn đã lên án và tố cáo sâu sắc một xã hội tàn bạo, xấu xa, nghiệt ngã như vậy. Qua đó, Tô Hoài còn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn , khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật Mị.

Bài văn mẫu số 14

Truyện “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm xuất sắc trong tập truyện “Tây Bắc” của Tô Hoài, viết về miền núi, được Hội Văn nghệ Việt Nam Trao giải nhất năm 1954-1995, đã thể hiện cái nhìn chân thực về miền núi. Miền núi trước đây được thể hiện trong văn học là những “cảnh rừng xanh núi đỏ” đầy bí ẩn với những “ngọn núi mù mù lam tím”, “oai linh và mầu nhiệm”. Còn con ngừoi thì lạc hậu và cam chịu sự đè nén của thực dân phong kiến. Nhưng qua “Vợ chồng A Phủ” lại là một bức tranh hùng vĩ – thơ mộng với những còn người không chịu lặng lẽ cúi đầu. Ở họ, có một vẻ đẹp tâm hồn thuần phác tự nhiên và đặc biệt là sức sống tiềm tàng. Nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ là tiêu biểu cho sức sống tiềm tàng ấy ở người phục nữ miền núi.

Nói đến sức sống tiềm tàng là nói đến khả năng sống dạt dào ẩn náu từ cái phía sâu thẳm ở mỗi con người. Nó giống như những hạt mầm bị vùi lấp sau băng giá, khi có dịp mới bật nẩy thành cây đời xanh tươi. Đây không chỉ đơn thuần là sức sống dẻo dai âm ỉ mà còn là năng lực thích ứng với mọi hoàn cảnh, để vượt lên mọi trở lực mà tồn tại. Sức sống tiềm tàng như vậy còn bao hàm cả thái độ và phẩm chất tốt đẹp.

Từ quan niệm ấy mà nhìn nhận thì sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị không chỉ thể hiện ở đêm tình mùa xuân và đêm cởi trói cho A Phủ mà còn là cả một quá trình dồn nén, chất chứa từ những buổi đầu làm dâu gạt nợ.

Mị là cô gái xinh đẹp, tài hoa, chỉ cần đặt chiếc lá lên môi là thổi thành bài tình ca còn hay hơn thổi sáo. Cái tiếng sáo tâm hồn ấy đã làm thổn thức bao tâm hồn khác. Nhiều chàng trai mê mẩn đuổi theo Mị hết đêm này sang đêm khác. Giữa lúc đang tràn đầy hy vọng, Mị hồi hộp bước ra theo tiếng gọi của hạnh phúc, thì có ngờ đâu lại rơi vào vực thẳm khổ đau. Mị đã bị nhét áo vào miệng, bắt về làm dâu gạt nợ nhà Thống Lý, không lễ nghĩa, không tình cảm. Tuyệt vọng, đến hàng mấy tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc. Ban ngày nước mắt đắng cay tủi cực lẫn vào với công việc. Đêm đến nỗi khổ đau mới theo nước mắt trào lên mặt gối, để cho cả cuộc đời gối đầu lên nước măt. Một con người có sức sống đâu chịu khép mình sống trong tủi cực như vậy. Phải tìm cách vùng thoát khỏi cảnh nô lệ này. Nhưng muốn thoát khỏi sự bủa vây của cường quyền và thần quyền trong lúc này, không còn cách nào khác là mượn sức mạnh của nắm lá ngón. Bề ngoài tưởng như chán đời, nhưng xét cho cùng đây là hành động phản kháng quyết liệt của con người tha thiết yêu đời. Yêu lấy đời mình là quyết không thể để chìm trong ô nhục mà phải tự vớt lấy đời mình và hướng về phía ánh sáng. Không dám đối mặt với cái chết của đời mình thì cũng có nghĩa là chưa biết sống vậy. Hành động giải thoát của Mị chính là biểu hiện của sức sống tiềm tàng đã trỗi dậy.

Nhưng trước thái độ của người bố: “Mày chết rồi thì lấy ai làm nương ngô trả nợ cho người ta, tao thì ốm quá rồi. Không được, con ơi !”, Mị chỉ bưng mặt khóc. Giữa một bên là tiếng gọi của tình thương, một bên là tiếng gọi của cuộc sống trong sạch thanh cao, lúc này Mị phải chọn lấy một. Nếu tiếp tục giải thoát với nắm lá ngón thì có nghĩa là kẻ ích kỷ, Mị chỉ còn biết sống cho mình, ai khổ mặc ai. Còn nếu vất nắm lá ngón đi thì coi như đời Mị đã hết, Mị không sống để cho mình mà sống cho tháng ngày còn lại của người bố đỡ khổ hơn. Lần này Mị quay trở về nhà Thống Lý là hoàn toàn tự nguyện với ý thức trách nhiệm của người làm con. Vì tình thương mà Mị sẵn sàng đương đầu với mọi trở lực và chấp nhận cảnh sống tồi tệ, chỉ mấy phút trước đấy Mị đã tìm cách thoát ra. Người có sức sống mãnh liệt, đâu chỉ là người biết chết mà còn là người biết sống cả những lúc đời tưởng như không sống được. Thử thách con người nhiều khi không chỉ bằng cái chết mà còn là cả cuộc sống nữa. Đây là lúc đời đen tối nhất mà Mị vẫn có cách sống thì đó là sức sống tiềm tàng của Mị lại trỗi dậy.

Từ đây Mị bước vào một quãng đời âm thầm, chịu đựng, nhẫn nục, những không phải là không có thái độ phản ứng. Mị đã chống lại hoàn cảnh bằng thái độ sống thản nhiên lặng lẽ với tâm hồn khép đóng. Ngày ngày mặt cúi xuống như bị kéo lại bởi sức nặng của nỗi buồn. Như một cái bóng vật vờ tàn lụi, Mị chỉ nhớ đi nhớ lại những công việc không khác một cái máy: tết xong thì lên núi hái thuốc phiện giữa năm thì giặt đay se đay, đến mùa thì lên nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi hay lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một cuộn đay trong tay để tước sợi. Mị cứ như con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa. Ngay đến cả việc thay đổi cuộc đời, Mị cũng không nghĩ đến nữa. Đã là thân con trâu con ngựa, dù có đổi cái tàu ngựa này sang cái tàu ngựa khác thì vẫn chỉ là con ngựa. Mị lại còn khổ hơn cả con trâu con ngựa nữa. Con ngựa còn có lúc đứng gãi chân, con trâu còn có lúc đứng nhai cỏ, chứ Mị thì không lúc nào được nghỉ ngơi. Nhưng đừng tưởng là tâm hồn ấy đã chết. Sau cái bề ngoài tàn lạnh ấy là một hòn than đang âm ỉ, chỉ cần một ngọn gió đời, nó sẽ bùng lên thành ngọn lửa nồng. Mặt khác, cuộc sống bên ngoài cũng không để yên cho Mị. Nó luôn luôn lên tiếng vẫy gọi. Có khi là tiếng gọi thầm lặng cất lên từ những vạt cỏ tranh vàng ửng, khi gió mùa đông bắc thổi về báo hiệu màu Xuân sắp đến trên miền núi. Hoặc từ những cánh váy Mèo sặc sỡ như cánh bướm vắt trên tảng đá báo hiệu cho những đêm tình mùa xuân, đã làm cho lòng Mị xốn xang. Nghe tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết đâu đây Mị thấy lòng bổi hổi bồi hồi. Tiếng sáo ấy đã đưa Mị trở về với mùa xuân tuổi trẻ hạnh phúc. Mị nhớ lại, những ngày xưa, tết đến, Mị cũng uống rượu đi chơi và thổi sáo gọi bạn tình… Đến đây trong lòng Mị như có gì thôi thúc. Mị lén vào trong nhà lấy hũ rượu, “uống ực từng bát” như uống vào lòng cái men say muôn đời khao khát, để cho lòng cũng hóa men say, cũng thành lửa cháy: Mị lấy khăn áo ra đi theo tiếng gọi mùa Xuân hạnh phúc thì cũng là lúc A Sử về. Hắn đã trói chặt Mị vào cột. Nhưng hắn làm sao có thể trói buộc được tâm hồn Mị. Tâm hồn Mị cứ đuổi theo cái tiếng sáo gọi bạn tình lơ lửng ngoài kia.

“Anh ném quả pao em không bắt

Em không yêu quả bao rơi rồi”

Một lần nữa, sức sống tiềm tàng trong lòng Mị lại trỗi dậy. Sau lần bị quấn chặt vào cột ấy, cảm giác của Mị như đã bị chai sạn. Chẳng thế mà, đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa, thấy A Phủ bị trói đứng ở cột Mị không chút động lòng. Mỗi khi ngọn lửa bếp bùng lên, Mị lé mắt nhìn sang, thấy mắt A Phủ vẫn mở trừng trừng. Mị nghĩ: nếu A Phủ có là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi, Mị vẫn dậy thổi lửa. Đêm trên miền núi dài và buồn, Mị chỉ còn biết ở với ngọn lửa. Nhưng rồi có một đêm, khi ngọn lửa vừa bùng lên, Mị nhìn sang, thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, những giọt nước mắt đã chảy xuống hõm má đen xám lại. Những giọt nước mắt đắng cay tủi nhục, uất ức mọi khi được nuốt vào bên trong hôm nay chắc đã tràn đầy nên trào ra bên ngoài thành tín hiệu kêu cứu. Những giọt nước mắt ấy như đã rơi vào viết thương lòng của Mị, cái viết thương đã thành sẹo rồi, hôm nay lại lở lói để cho Mị đau lại nỗi đau của mình ngày xưa. Ngày xưa, Mị cũng bị trói đứng như vậy, nước mắt rơi xuống cổ, xuống miệng mặn chát không làm sao lau đi được. Từ chỗ đau lại nỗi đau của mình đến chỗ đau nỗi đau của người. Mị mơ hồ cảm thấy bất bình: ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi, chỉ còn đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi. Còn người kia việc gì mà phải chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.

Nhưng Mị vẫn chưa đủ sức mạnh để cởi trói cho A Phủ. Phải chờ đến khi Mị tưởng tượng ra cái cảnh A Phủ trốn được, Thống lý Pá Tra đổ tội cho Mị và bắt Mị trói thay vào cái cột ấy cho đến chết. Nghĩ đến đây sao Mị không thấy sợ? Giữa sự sống và cái chết, Mị chỉ còn một cách là giải thoát cho A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, cũng là tự giải thoát cho mình khỏi sợi dây oan nghiệt của chế độ phong kêín tàn bạo. Một lần nữa, sức sống tiềm tàng trong lòng Mị lại trỗi dậy thành sức mạnh cởi trói.

Nhờ có sức sống tiềm tàng mà Mị đã mở đời mình từ một trang đen tối sang những trang rực rỡ ánh sáng của cuộc đấu tranh cách mạng.

Bài văn mẫu số 15

“Vợ chồng A Phủ” là một trong ba tác phẩm đặc sắc viết về đề tài miền núi rút ra từ tập truyện “Tây Bắc” (1953) của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc và đầy xúc động về số phận của nhân vât Mị- cô con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra với những vẻ đẹp về ngoại hình, tinh thần cũng như sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là cô gái Mèo xinh đẹp, trẻ trung với khao khát chính đáng về cuộc sống tự do, khao khát tình yêu. Trong tác phẩm, tác giả Tô Hoài đã làm nổi bật hình tượng một cô gái miền núi không những xinh đẹp mà còn rất tài hoa, chăm chỉ. Vẻ đẹp của Mị khiến cho mỗi khi mùa xuân đến trai làng đứng nhẵn cả đầu vách buồng Mị. Như vậy, cô hoàn toàn có những phẩm chất đáng tôn trọng và rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc.

Kể từ khi về làm con dâu thống lí Pá Tra, nhân vật Mị hiện lên với số phận bất hạnh và được thể hiện rõ ngay từ phần mở đầu tác phẩm với hình ảnh “ai ở xa về bao giờ cũng thấy một người con gái ngồi quay sợi bên cạnh một tảng đá trước cửa chuồng ngựa”. Vì cha mẹ không trả nổi món nợ vay thống lí để làm đám cưới lúc trẻ nên Mị đã bị A Sử bắt về và chấp nhận kiếp “làm dâu gạt nợ” cho nhà thống lí. Kể từ đó, cô trở thành một nô lệ bị đọa đày, bị hành hạ, bị tước đoạt hết mọi quyền sống và rồi, cô cam chịu cuộc sống đó như một cái xác vô hồn. Mị mất dần những ý niệm về thời gian và chỉ nhận thức thế giới qua các ô cửa sổ bằng bàn tay “mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay nắng”, cô sống một cuộc sống không còn ý nghĩa.

Những tưởng hoàn cảnh nghiệt ngã đã tiêu diệt khát vọng về cuộc sống trong Mị. Nhưng không! Tình yêu, khát vọng cuộc sống chỉ bị lụi tắt chứ không hề lụi tàn. Mỗi khi vào buồng, Mị lại ngồi xuống trông ra cửa sổ. Chi tiết này cho thấy tâm hồn Mị vẫn luôn hướng ra bên ngoài và luôn tồn tại những khát khao dù là mỏng manh mơ hồ, chỉ cần có chất xúc tác là sẽ sẵn sàng trỗi dậy. Vì thế nên trong một đêm xuân tại Hồng Ngài, tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn Mị nhớ lại thời xa xưa. Quá khứ tươi đẹp của tuổi thanh xuân hiệ hữu chân thực, rõ nét qua tiếng sáo gọi bạn văng vẳng bên tai. Đó là tiếng sáo của tình yêu, của tuổi thanh xuân căng tràn sức sống và dường như lúc này, Mị không còn là cô con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra nữa: “Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Nhưng thực tế, Mị vẫn còn ở nhà thống lí Pá Tra và chịu kiếp đạy đòa, vì thế Mị ước có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay. Và hành động phản kháng lần thứ nhất đã diễn ra khi quyết định đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn thêm một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc và với tay lấy cái váy hoa. Nhưng rồi tất cả đã bị dập tắt khi A Sử nhìn thấy, đoán được ý định của Mị, hắn trói Mị đứng vào cột. Nhưng hành động phi nhân tính của A Sử chỉ có thể giam cầm được thể xác của Mị chứ không thể trói buộc tâm hồn đang bay theo tiếng sáo của Mị.

Sức sống mãnh liệt trong tâm hồn nhân vật Mị đã được khẳng định một lần  nữa thông qua hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ. Cuộc sống đọa đày trong nhà thống lí Pá Tra sẽ vẫn tiếp diễn nếu như không có chuyện A Phủ- người từng đánh lại A Sử bị phạt vì làm mất một con bò. Trong những ngày đầu, Mị hoàn toàn thờ ơ và vô cảm trước việc A Phủ bị trói. Nhưng rồi sau đó, khi nhìn thấy giọt nước mắt lăn trên má A Phủ, Mị chợt nhớ đến đêm năm trước A Sử trói mình và Mị đã nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được. Mị xót xa cho A Phủ và trong cô diễn ra sự đấu tranh lo sợ mình sẽ bị trói thay. Nhưng rồi khát vọng sống tự do đã khiến Mị theo cởi trói và chạy theo A Phủ, cũng là giải thoát cho bản thân mình. Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt phải chống lại cả cường quyền và thần quyền.

Như vậy, bằng ngòi bút sắc sảo cùng tài năng miêu tả tâm lí nhân vật, tác giả Tô Hoài đã xây dựng hình tượng nhân vật Mị với những nét đẹp về ngoại hình lẫn tâm hồn, đặc biệt là sức sống tiềm tàng nhưng hết sức mãnh liệt. Qua nhân vật này, tác giả đã đặt ra những vấn đề về giá trị hiện thực thông qua bức tranh xã hội đè nén, trói buộc giam hãm con người. Từ đó tác giả bộc lộ thái độ đồng cảm, sẻ chia đối với những thân phận bị áp bức và đặt niềm tin vào sức sống mãnh liệt tiềm ẩn bên trong con người.

Bài văn mẫu số 16

Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn được rút từ tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài, viết vào năm 1953, ngay sau chuyến thâm nhập thực tế của tác giả. Truyện đã được tặng giải nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Đây là truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung. Tác phẩm là một bức tranh chân thực về cuộc sống và thân phận khổ đau của dân nghèo miền núi dưới ách áp bức bóc lột của thế lực phong kiến thực dân; đồng thời là một bài ca về sức sống khát vọng, tự do của con người miền núi; là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đổi đời của họ. Tiêu biểu nhất cho những con người ấy là Mỵ, một nhân vật mang dấu ấn tài năng phân tích tâm lý, và tư tưởng nhân đạo vừa độc đáo vừa sâu sắc của nhà văn Tô Hoài.

Mở đầu tác phẩm tác giả Tô Hoài giới thiệu Mỵ là một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. “Lúc nào cũng vậy, dù thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, hay cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đó là hình tượng con người nô lệ bị chà đạp và tuyệt vọng. Nhưng Mỵ là ai? Con gái nhà thống Lý giàu có chăng? Hỏi ra mới biết Mỵ là con dâu nhà Pá Tra.

Mỵ vốn là một cô gái Mèo con nhà nghèo nhưng mang đủ những phẩm chất tốt dẹp của người phụ nữ miền núi. Mỵ là một cô gái vừa đẹp người, đẹp nết: cần cù, đảm đang, hiếu thảo, ham sống, giàu lòng yêu đời, và rất mực tài hoa. Tiếng sáo của Mỵ đã có sức lôi cuốn hấp dẫn đặc biệt đối với biết bao chàng trai Mèo. Và cuộc sống tuổi thanh xuân, tương lai của Mỵ hứa hẹn biết bao điều tốt lành, tươi sáng. Và sự thực mùa xuân đến, Mỵ đã sống những giây phút tươi đẹp của tuổi trăng rằm, dù trong cảnh nghèo khó.

Nhưng tương lai sáng và tuổi trẻ với hạnh phúc và tình yêu đã không đến vói cô gái nghèo khổ đó. Chỉ vì một món nợ truyền kiếp – ngày trước bố mẹ cưới nhau phải vay nhà thống lý Pá Tra và cho đến lúc già, mẹ cô chết, vẫn chưa trả được mà Mỵ phải đem thân làm con dâu trừ món nợ ấy – như một thứ “Tội tổ tông” của người nghèo cho nhà thống lý Pá Tra, một tên quan lại kiêm địa chủ tham lam xảo quyệt và tàn nhẫn của vùng Hồng Ngài. Kể từ khi về làm con dâu cho nhà thống lý, Mỵ phải sống những chuỗi ngày đau thương tủi nhục tăm tối. Danh nghĩa là con dâu nhà quan, nhưng thực chất Mỵ là một thứ nô lệ không công. Mỵ không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đoạ về tinh thần. Đã mấy tháng tròi, đêm nào Mỵ cũng khóc. Cô gái tội nghiệp ấy đã có lúc định kết liều cuộc đòi mình bằng nắm lá ngón. Nhưng có chết thì món nợ vẫn còn. Bố Mỵ còn khổ hơn bây giờ bao nhiêu lần. Thế là thương bố, Mỵ không thể chết, Mỵ liền ném nắm lá ngón như ném cái khát vọng được giải thoát cho riêng mình, và Mỵ đành trở về cuộc đời nô lệ đề trả nợ cho bố. Dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến miền núi, Mỵ phải sống kiếp sống như con vật, thậm chí không bằng con vật “Bây giờ thì Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, tưởng mình là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi… Lúc nào Mỵ cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, nối tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa mỗi tháng làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… suốt năm, suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc làm cả đêm cả ngày Những ngày Tết, A Sử đi chơi, Mỵ còn bị trói đứng trong buồng tối… Thế mà liền đấy, vừa mới được cởi trói thì cô phải đi hái thuốc lá về xoa bóp cho chồng. Nhỡ mệt thiếp đi thì A Sử lấy chân đạp thẳng vào mặt Mỵ. Thật không ở đâu mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ như vậy.

Bị giam hãm đọa đày trong cái địa ngục khủng khiếp của cả nhà thống lý, Mỵ đang chết dần, chết mòn với năm tháng. Thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo trống vắng. Mỵ gần như tê liệt sức sống. Con người ta thường tồn tại trong ba quan hệ thời gian, không gian, và giao tiếp. Ba quan hệ ấy đối vói Mỵ dường như đã bị triệt tiêu. Mỵ mất hết ý thức về thời gian, sự chuyển biến thòi gian sớm hay tối đối vói Mỵ chẳng có ý nghĩa gì nữa: không dĩ vãng, không hiện tại, không cả tương lai. Ở lâu trong cái khổ Mỵ quen với cái khổ rồi, Mỵ ngày càng không nói, lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Cuộc đời Mỵ chỉ còn thu lại qua cái khung cửa sổ bằng bàn tay “mờ mờ, trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Mỵ hầu như mất hết cả ý thức về bản thân và những mong muốn đổi thay cho số phận mình. Thậm chí Mỵ cũng không có cả ý nghĩ về cái chết nữa.

Nhưng phải chăng tâm hồn cô gái Mèo trẻ đẹp, tài hoa, giàu sức sống, yêu đời thuở nào giờ đây đã hoàn toàn nguội lạnh băng giá, cam chịu thân phận nô lệ và hoàn toàn tê liệt? Không! Ngòi bút giàu chất thơ và tinh thần nhân đạo của Tô Hoài không chỉ mô tả thấm thìa cái mặt tối tăm ảm đạm của cuộc đời Mỵ mà còn tha thiết hướng về phía sự sống và ánh sáng đế khơi gợi nó lên. Nhà văn đã nhìn thấy được dưới đáy tâm hồn tưởng như tê liệt vì khổ đau của Mỵ vẫn còn le lói ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống, khát khao hanh phúc và tự do. Niềm ham sống ấy tiềm ẩn dưới đáy tâm hồn, như ngọn lửa vẫn âm ỉ cháy dưới lớp tro nguội, chỉ cần có một làn gió thổi tới là có thể cháy bùng lên.

Mùa xuân về trên vùng núi cao Tây Bắc có ý nghĩa như “Một hoàn cảnh điển hình” làm gọi dậy ở con người và thiên nhiên sức sống tiềm tàng. Sự sống cảnh vật và con người như được mùa xuân khơi dậy làm cho bừng tỉnh. Và thời điểm để ngọn lửa ham sống trong lòng Mỵ bùng lên đã đến. Đấy là một “đêm tình mùa xuân”. Tiếng khèn, tiếng sáo của trai làng gọi bạn tình cứ tha thiết bồi hồi. Tai Mỵ văng vẳng tiếng sáo của trai làng gọi bạn tình cứ tha thiết bồi hồi. Tai Mỵ vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Với Mỵ, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân của khát vọng tình yêu hạnh phúc. “Ngày trước, Mỵ thổi sáo giỏi. Mỵ uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê…” Cái nồng nàn của đêm xuân lại được tăng lên bởi bữa rượu ngày Tết. trong tiếng chiêng đánh ầm ĩ và những người lên đồng, người hát. “Ngày tết, Mỵ cũng uống rượu. My lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát, rồi say”. Cách uống rượu của Mỵ như báo hiệu một hành động nổi loạn của nhân vật. Và chính trong trạng thái dễ bị kích thích bởi men rượu bởi những âm thanh náo động của bữa cơm cúng ma trong nhà thống lý Pá Tra và tiếng gọi lôi cuốn của tiếng sáo gọi bạn tình, Mỵ đã vượt ra ngoài con người thể xác hiện tại để sống với con người tâm linh. Mỵ thoát khỏi tâm trạng thờ ơ nguội lạnh bấy lâu nay của lòng mình.

Dấu hiệu đầu tiên là Mỵ sống lại với những kỷ niệm êm đẹp ngày trước, những ngày hạnh phúc êm đềm vô tư của tuổi trẻ với những bữa rượu bên bếp lửa ấm cúng, với những tiếng sáo dìu dặt của trai làng bao đêm theo Mỵ hết núi này đến núi khác.

Tiến thêm một bước nữa, Mỵ trở lại niềm vui sống trong chốc lát. Ở đây dường như Tô Hoài, đã hoá thân vào nhân vật để trần thuật, suy nghĩ, tạo nên thứ ngôn ngữ nửa trực tiếp rất hấp dẫn ”Mỵ thấy phơi phới trở lại… Mỵ trẻ lắm, Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mỵ không có lòng vói nhau mà vẫn ở với nhau!”

Lòng ham sống của Mỵ trỗi dậy mãnh liệt không thể dập tắt nữa rồi! Ý nghĩ tiếp theo của Mỵ là “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay!”… Phản ứng ấy chứng tỏ Mỵ đă ý thức được hoàn cảnh đau khổ tủi nhục triền miên của đời mình hiện tại. Dường như Mỵ không muốn chấp nhận cuộc sống lầm than tủi nhục vô nghĩa như kiếp sống của một con vật nữa.

Trong khi đó, tiếng sáo gọi bạn tình, biểu tượng của sự sống, hanh phúc, tình yêu, tự do bấy lâu nay Mỵ dường như đã quên rồi cứ ngân lên thôi thúc. Tiếng sáo, đó cũng là hiện thân tâm hồn Mỵ cứ theo sát từng bước diễn biến tâm trạng của cô. Nó chính là ngọn gió trực tiếp làm thổi bùng lên ngọn lửa ham sống trong lòng Mỵ.

Sức sống trỗi dậy của tâm hồn Mỵ như những đợt sóng ào ạt, đợt sau mạnh mẽ hơn đợt trước. Từ những sục sôi trong tâm trí, Mỵ đă đi đến hành động. “Mỵ đến góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Có thể xem đây là một hành động thức tỉnh. Phải chăng Mỵ đã thắp lên một ngọn đèn soi vào cuộc sống của mình, để thoát ra khỏi những đêm dài triền miên tăm tối trong quá khứ?

Và hành động này thúc đẩy hành động khác tiếp theo như một phản ứng dây chuyền không thể nào ngăn lại được nữa. Hình như không đếm xỉa gì đến những xiềng xích tàn bạo của nhà thống lý Pá Tra, Mỵ đã tự mình hành động như một người tự do, đi theo tiếng gọi của lòng mình. “Mỵ quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa” sửa soạn đi chơi ngày Tết. Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy một cách mãnh liệt nhất thì cũng là lúc Mỵ bị vùi dập một cách phũ phàng nhất. A Sử, chồng Mỵ bước vào thản nhiên trói đứng Mỵ vào cột nhà. Hành động trói vợ của A Sử thản nhiên đến lạnh lùng và tàn nhẫn như hành động thắt lưng, tắt đèn, khép cửa buồng. Suốt đêm bị trói ấy, Mỵ đã sống trong sự giăng xé mạnh mẽ giữa niềm khao khát sống, khát khao hạnh phúc cháy bỏng và thực tại khắc nghiệt lạnh lùng. “Như không biết mình đang bị trói, hơi rượu còn nồng nàn”, “Mỵ vẫn thả hồn lâng lâng theo tiếng sáo của tuổi trẻ và tình yêu: Em không yêu, quả pao rơi rồi! Em yêu người nào. em bắt pao nào”. Quên những đau đớn về thể xác, “Mỵ đã vùng bước đi”. Điều đó chứng tỏ sức sống tiềm tàng trong con người Mỵ dữ dội biết nhường nào.

Những phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Từ đây hình như Mỵ đã trở lại là mình. Thòi gian trôi đi, rồi một đêm kia, Mỵ được chứng kiến cảnh A Phủ bị trói một cách thảm khốc. Lúc đầu, tâm hồn Mỵ như khép kín, câm lặng, không phản ứng gì. Nào phải đâu Mỵ là con ngưòi nhẫn tâm? Chỉ vì những hành động tội ác trong nhà Pá Tra là chuyện xảy ra hàng ngày. Và chăng Mỵ cũng chỉ là một nạn nhân bất lực mà thôi. Hơn nữa, Mỵ hình như lại rơi vào trạng thái gần như vô cảm.

Nhưng đềm nay, dưới ánh “lửa bập bùng”, “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má ,đã xám đen lại” của A Phủ đã khơi dậy trong tâm hồn Mỵ niềm cảm thông sâu sắc của những con người cùng cảnh ngộ. Càng thương mình “Mỵ chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mỵ, Mỵ cũng phải trói đứng thế kia…” càng thương người “chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết rét, phải chết…”. Cũng như lần trước, mỗi khi sức sống trỗi dậy, Mỵ lại nghĩ đến cái chết. Song lần này là một cái chết oan nghiệt vô lý của một người khác: A Phủ. “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đọi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế”. Mỵ không thể dửng dưng câm lặng được nữa. Tình thương đã lấn át cả nỗi sợ và cao hơn cả cái chết – sẵn sàng thế mạng cho A Phủ. Đó là giây phút tuyệt đẹp trong đời Mỵ. Cô đã trở thành con người cao cả. Mỵ đã đi đến một hành động thật táo bạo: “Cắt dây trói giải thoát cho A Phủ”. Hành động này tuy không đoán trước được nhưng hoàn toàn không ngẫu nhiên chút nào. Con người đã từng dám chết để giải thoát cho mình, từng sẵn sàng cam chịu thân phận trâu ngựa để trừ nợ cho bố, thì sao không dám chết để cứu một người vô tội?

Khi thấy A Phủ chạy rồi, khát vọng tự do, lòng ham sống đã bừng tỉnh trong Mỵ. Mỵ phải sống, !’A Phủ cho tôi đi! ở đây thì chết mất!” Thế là “Mỵ vụt chạy… băng đi”. Giải thoát cho A Phủ, Mỵ cũng tự giải thoát luôn cho chính mình,, cắt đứt những sợi dây vô hình đã cột chặt đời cô vào quãng đời tủi nhục trong nhà thống lý Pá Tra. Đây là một hành động tự phát, nhưng nó là kết quả phát triển tất yếu của cả một quá trình sức sống tiềm tàng trỗi dậy không ngừng trong tâm hồn Mỵ. Từ trong cái địa ngục giam cầm đầy đoạ mình bao nhiêu năm trời. Mỵ đã vùng lên tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời. Nhà văn Tô Hoài đã mô tả quá trình diễn biến tâm lý và hành động của Mỵ rất tự nhiên và sinh động, vừa bất ngờ, vừa tất yếu, hợp quy luật cuộc sống. Vì vậy, có thể nói “Mỵ là một nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt Nam” (Giáo sư Trần Đình Sử).

Vẻ đẹp rực rỡ, sức thu hút mạnh mẽ của nhân vật Mỵ đối với người đọc xưa nay chính là ở phẩm chất cao quý, đặc biệt là sức sống tiềm tàng ấy. Đọc Vợ chồng A Phủ, mỗi độc giả chúng ta ai cũng nhớ, cũng thương, cũng quý một cô Mỵ trong đày đoạ như vậy mà vẫn luôn luôn khát khao vươn lên cuộc sống hạnh phúc, tự do, để càng yêu hơn một cô Mỵ du kích ở Phiềng Sa sau này. Trước Cách mạng, trong văn học hiện thực phê phán, Chị Dậu cũng là một nhân vật tuyệt đẹp và tiềm tàng sức sống mãnh liệt, Nguyễn Tuân viết “Cả tác phẩm Tắt đèn là một đêm tối có những lúc bóng tối đen dày đặc quánh vón thành từng cục làm cho chị Dậu phải thì thào tiếng nói bóng ma”. Nhưng chị không đầu hàng bóng tối… Trái lại chị cứ lăn xả vào bóng tối mà phá ra. Cây lúa thêm ánh sáng thế nào thì Chị Dậu tuôn ra khỏi bóng tối mạnh như vậy. Vì thế Nguyễn Tuân đã khẳng định “Trên cảnh tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa thấy xuất hiện lên sừng sững một chân dung lạc quan. Đó là Chị Dậu”. Chân dung Chị Dậu thì lạc quan nhưng tiền đồ của chị lại tối đen như mực. Còn cô Mỵ của Tô Hoài là nhân vật của văn học cách mạng, nên tiền đồ của cô vô cùng tưới sáng. Cô đã được Đảng dìu dắt “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”.

Bài văn mẫu số 17

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (1952) là một thành công xuất sắc của Tô Hoài viết về đề tài miền núi được rút từ tập truyện Tây Bắc (giải thưởng của hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955). Đoạn trích kể về cuộc đời nhân vật Mị từ lúc mới về làm dâu nhà thống lí Pá Tra cho đến khi cắt dây trói giải thoát cho A phủ và cùng A phủ chạy khỏi Hồng Ngài, qua đó làm rõ sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị.

Xây dựng hình tượng nhân vật Mị là một thành công của Tô Hoài khi viết về cuộc đời của những người phụ nữ miền núi dưới ách áp bức của giai cấp thống trị tàn bạo. Từ một cô gái mang thân phận nô lệ tối tăm, Mị đã vươn lên ánh sáng tự do với sức sống tiềm tàng vô cùng mạnh mẽ. Mị chính là một điểm sáng đặc biệt trong truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ. Cuộc cuộc đời, số phận và sức sống mãnh liệt của nhân vật Mị là hình tượng điển hình cho một thế hệ phụ nữ miền núi Tây Bắc từ thân phận của một nô lệ từ quá trình đấu tranh tự phát đến từ giác vươn tới ánh sáng của tự do của cuộc đời mới với một sức mạnh mạnh mẽ.

Hoàn cảnh của nhân vật Mị.

Mị vốn xuất thân con nhà nghèo, đẹp người, đẹp nết lại có tài thổi sáo rất hay. Có bao người để ngày đêm thổi sáo đi theo Mị ngày đêm. Với nhan sắc và tài năng ấy, cuộc đời Mị hứa hẹn một tương lai tươư sáng. Nhưng chỉ vì món nợ truyền kiếp từ đời trước mà cuộc đời Mị đã chuyển hướng. Cha Mẹ Mị lấy nhau không đủ tiền phải vay nợ nhà thống lý, bố của Thống Lý Pá Tra bây giờ. Đến khi mẹ Mị chết, bố Mị đã già mà vẫn chưa trả hết nợ. Bởi thế, Mị đã bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí.

Từ một cô gái trẻ trung, yêu đời, Mị đã biến thành một con người hoàn toàn khác. Lúc nào mặt Mị cũng buồn rười rượi. Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Cô chính là nạn nhân của giai cấp thống trị. Bọn chúng đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân dựa vào cường quyền và thần quyền để đàn áp bóc lột.

Cuộc sống bế tắc của Mị khi về làm dâu nhà Thống lí và sức mạnh phản kháng đầu tiên:

Ngay từ khi Mị bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị đã có sự đấu tranh dù chỉ là tự phát. Mị phản kháng một cách yếu ớt và bất lực. Mị khóc tới hàng tháng trời vì khổ đau và buồn bã. Mị đã có lần tìm vào rừng hái lá ngón tự tử để chấm dứt sự sống ấy. Nhưng vì thương cha mà Mị không thể chết và đành chấp nhận quay trở lại nhà thống lí, tiếp tục cuộc đời của một nô lệ.

Mị Sống buông xuôi, nhẫn nhục chịu đựng như thế qua bao tháng ngày. Tinh thần phản kháng cũng dần mất đi trong Mị. Cô biết rằng, càng phản kháng thì càng thêm đau khổ hơn. Sức mạnh của cường quyền và thần quyền quá lớn đã giam hãm Mị trong bóng tối đau thương.

Đến khi cha chết, Mị cũng không buồn nghĩ đến cái chết nữa. Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen rồi. Bây giờ Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa của nhà thống lí. Cuộc sống của Mị lúc này con khổ nhục hơn kiếp sống trâu, con ngựa. Bởi con ngựa làm việc còn có lúc đứng gãi chân, nhai cỏ. Còn với Mị (và cả những người đàn bà trong nhà thống lí) thì không có lúc nào được nghỉ ngơi. Đàn bà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả đêm, cả ngày, cả cuộc đời.

Mị làm dâu nhà thống lý nhưng chẳng khác nào đang ở trong địa ngục giữa trần gian. Nơi ở của Mị là một căn buồng nhỏ tăm tối. Nơi Mị thường nằm kín mít, chỉ có một chiếc cửa sổ nhỏ như một lỗ vuông bằng bàn tay để nhìn ra ngoài và lấy ánh sáng. Lúc nào trong ra cũng chỉ thấy trăng trắng, mờ mờ không biết là sương hay là nắng.

Với Mị, giờ đây không còn khái niệm về không gian và thời gian, không còn biết là mùa mưa hay mùa nắng, là sáng hay chiều. Mị tồn tại vô tri, vô cảm như một cái xác sống. Không còn một ai để ý đến việc Mị sống chết thế nào nữa. Kể cả những người ở cùng Mị, họ cũng không cần biết Mị vui hay buồn bởi họ cũng khổ đau không kém gì Mị.

Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân:

Nhưng trong con người tưởng chừng như đã chết của Mị vẫn âm ỉ một sức sống tiềm tàng, chỉ chờ có cơ hội là nó bùng cháy lên. Cơ hội ấy đã đến vào một đêm mùa xuân, ngọn gió xuân đã thổi bùng ngọn lửa đã âm ỉ cháy từ lâu trong Mị.

Ngày tết về trên chôn Hồng Ngài, núi đồi khoe sắc thắm. Khắp các bản làng ai ai cũng vui đón tết. Ngày Tết Mị cũng uống rượu. “Mị lén lấy hũ rượu, uống ừng ực từng bát”. Hành động đó của Mị phải chăng là dấu hiệu cho “một sự nổi loạn” sau một thời gian dài bị đè nén khủng khiếp tưởng chừng như không còn tồn tại. Hay đó chính là sự thức tỉnh của ý thức về quyền làm người, quyền được sống đã trỗi dậy mạnh mẽ của một con người bị áp bức đến cùng cực. Trong cảm giác ngất ngây của men rượu cùng với âm thanh của tiếng sáo gọi bạn tình lửng lơ bên ngoài đường đánh thức trái tim tưởng như đã nguội lạnh của Mị. Trái tim Mị thổn thức những giai điệu cuộc sống. Cảm giác ấy giúp Mị nhận ra chính mình vẫn còn tươi trẻ mà bấy lâu cô đã quên lãng hoặc không còn nhớ đến. Lần đầu tiên sau bao năm, Mị nhận thấy mình vẫn còn trẻ. Lần đầu tiên, Mị muốn đi chơi., muốn bước ra bên ngoài.

Từ suy nghĩ đến hành động, Mị bỏ thêm mỡ vào đĩa dầu thắp sáng ngọn đèn, quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa và chuẩn bị đi chơi. Mị quên hết những khổ đau và sự sợ hãi để bước tới. Có thể Mị cũng nghĩ tới hình phạt mà mình sẽ nhận lấy bởi hành động liều lĩnh này nhưng cô đã bất chấp. Tiếng gọi của cuộc đời say mê khiến cô phút chốc quên đi nghịch cảnh tối tăm của mình.

Đúng lúc sự sống trong Mị trỗi dậy mạnh mẽ nhất thì bị A Sử chặn đứng một cách phũ phàng. A Sử như một con thú tàn nhẫn trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xóa xuống, A Sử quấn luôn tóc Mị lên cột. Thế nhưng,  ngay cả trong hoàn cảnh đau đớn như vậy sức sống tiềm tàng trong Mị vẫn không bị dập tắt. Cô không hề để ý đến hành động tàn bạo và nỗi đau trên thân xác. Cô vẫn cứ hướng theo tiếng sao réo rắt trên núi trên đôi. Cả đêm ấy Mị sống trong ảo giác. Tâm hồn cô vẫn đi theo những cuộc chơi, những tiếng sáo gọi bạn tình. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe  tiếng sáo đưa Mị  đi theo những cuộc chơi, những đám chơi.

Như một quy luật tự nhiên, sức sống tiềm tàng ấy đã một lần bùng lên thì không một sức mạnh nào có thể dập tắt. Nó vẫn âm thầm cháy để rồi lại bùng lên dữ dội vào một đêm mùa đông năm sau.

Ban đầu khi nhìn thấy A Phủ bị trói Mị không có cảm giác thương xót bởi tâm hồn cô đã nguội lạnh. Dù  A Phủ có là cái chết đứng đấy cũng thế thôi, nhưng khi Mị nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ thì Mị mới bắt đầu nghĩ. Mị nhớ lại cuộc đời mình. Mị nhớ lại lúc Mị bị A Sử trói đứng vào cột. Mị so sánh hai cái chết và Mị nghĩ đến việc chết thay cho A Phủ. Nhưng Mị cũng không khỏi cảm thấy lo sợ. Khi tình thương yêu người đồng cảnh chiến thắng nỗi sợ hãi, Mị đã hành động một cách táo bạo. Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ và chạy trốn cùng A Phủ. Như vậy việc Mị cắt dây trói giải thoát cho  A Phủ cũng chính là việc Mị tự cắt sợi dây trói của cường quyền và thần quyền để giải thoát cho mình.

Tô Hoài đã rất thành công khi nhìn thấy sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị. Qua đó, ông thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi, tố cáo quyết liệt những thế lực chà đạp con người, đồng thời khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc.

Thông qua câu chuyện, nhà văn đã chỉ ra cho người dân miền núi Tây Bắc nói riêng, những số phận khổ đau nói chung con đường tự giải thoát khỏi những bất công, con đường làm chủ vận mệnh của mình.

Bài văn mẫu số 18

Sau cách mạng tháng 8, ngòi bút của Tô Hoài đi sâu khám phá sức sống mạnh mẽ của những người dân tộc thiểu số miền núi. Trong chuyến đi lên vùng núi phía Bắc của mình, ông đã cho ra đời tác phẩm Vợ chồng A Phủ, với nhân vật Mị, mang trong mình sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.

   Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị cũng như bao người con gái khác, chịu thương chịu khó, có một sức sống mạnh mẽ. Mặc dù gia đình gánh trên vai món nợ truyền kiếp, nhưng cô sẵn sang nói với cha để minh lao động rồi trả nợ dần; cô trẻ trung, yêu đời, có tiếng sao hay khiến biết bao chàng trai say đắm. Nhưng sau đêm bị A Sử bắt về, “Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa” thì cuộc đời của cô đã sang một trang khác, đầy bi thương và thảm kịch.

   Những ngày làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị đã phải chịu bao nỗi đắng cay, tủi cực. Suốt ngày Mị chỉ “ngồi quay sợi gai, cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi”. Quanh năm cô quanh quẩn làm việc, chẳng có lấy một giây phút nghỉ ngơi. Nơi ở của cô chẳng khác nào nhà tù, chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.

   Phải chăng sức sống, sự yêu đời của cô trước đây đã bị bào mòn cạn kiệt? Nhưng không qua đêm tình mùa xuân và đêm đông tự giải cứu chính mình, ta biết rằng trong sâu thẳm người con gái kia, niềm yêu cuộc sống vẫn tiềm tàng mạnh mẽ.

   Trong những ngày mùa xuân, không khí rộn vang, tưng bừng hơn. Những tảng đá mèo được tô điểm bởi những chiếc váy rực rỡ, tựa như những bông hoa rộ nở; tiếng trẻ em vui đùa càng trở nên vui vẻ, đầy phấn khích. Lòng Mị cũng chợt có những tía sáng nhỏ le lói. Mùa xuân ai cũng uống rượu và Mị cũng vậy. Nhưng cách uống rượu của Mị lại rất khác, cô uống ừng ực từng bát lớn, uống để tiêu tan sầu muộn. Dường như trong mờ hồ Mị bắt đầu sống lại niềm yêu cuộc sống. Rồi bất chợt “ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sau vọng lại tha thiết, bòi hồi”. Tiếng sáo này đã thực sự khơi lại sức sống trong Mị. Nó khiến Mị nhớ lại những ngày trước đây, về những ngày tự do, yêu đời cả mình. Tiếng sáo thấm dần vào tâm trí, trái tim Mị, dần thức tỉnh cô.

   Tiếng sao thức tỉnh khao khát được đi chơi, được giao tiếp với mọi người. Từ trước đến nay Mị chưa bao giờ được đi chơi, bởi A Sử cấm. Một cách đầy hữu ý tiếng sáo lại xuất hiện “trong đầu Mị rập rời tiếng sáo” đã thúc đẩy từ suy nghĩ trở thành hành động nổi loạn của Mị. Mị vào buồng sẵn mỡ thắp cho sáng, rồi với tay lấy vát chuẩn bị đi chơi. Để Mị có thể rời xa hiện tại đau thương trở về với quá khứ vui vẻ. Nhưng khi hành động chuẩn bị được tiến hành, Mị bị A Sử bắt gặp, hắn dùng chính tóc cô mà trói đứng lại ở tường. Cô khóc, bởi không ai giúp mình, bởi quá khứ tươi đẹp một lần nữa ùa về trong cô, đánh thức con người tưởng như đã chết trong cô

   Sau lần phản kháng đầu tiên, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái sống mòn. Trong lúc này, A Phủ một người cũng có thân phận chuộc nợ như Mị, do làm mất bò mà bị trói đứng ngoài sân. Đêm nào Mị cũng ra sân đốt lửa, nhưng tuyệt nhiên không chú ý đến A Phủ: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Bởi khi này lòng Mị đã nguội lạnh, tâm can đã câm nín, chính số phận mình Mị đã chẳng còn quan tâm nữa, huống chi số phận người khác.

   Nhưng trong lần ấy, dưới sự tác động của giọt nước mắt của A Phủ, Mị đã thay đổi suy nghĩ hoàn toàn: “Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Giọt nước mắt đó khiến cô bất giác nhớ về mùa xuân trước đây, khi cô bị trói đứng, cô khóc nhưng không ai đến giúp cô cả, cũng không thể lau đi được. Giọt nước mắt của A Phủ đã làm trỗi dậy sức sống của Mị. Trong Mị hình thành tình thương và sự hi sinh: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình mà nhà nó rồi, thì chỉ biết đợi ngày mà rũ xuống ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết”. Mị đã quyết định giải cứu A Phủ. Đây không phải là quyết định bông bột nhất thời mà nó xuất phát từ sự đồng cảm, từ lòng yêu thương con người.

   Sau khi giải cứu A Phủ, trong một khoảng khắc Mị cũng vụt chạy theo A Phủ để giải cứu cho chính mình. Hành động cởi trói tư tưởng giải cứu chính mình là hành động tuy bất ngờ nhưng vô cùng hợp lí. Nó cho thấy sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ trong Mị.

   Với biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật, Tô Hoài đã đem đến cho bạn đọc chân dung của một người con gái không chỉ đẹp người, đẹp nết mà còn có sức sống tiềm tang mạnh mẽ. Mị là đại diện tiêu biểu cho sức sống của con người, là đại diện cho hành trình đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ khổ đau đến hạnh phúc của những người nông dân dân tộc tiểu số.

Bài văn mẫu số 19

Nhà văn Tô Hoài sau chuyến đi thực tế cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, cùng sống với đồng bào dân tộc trong suốt 8 tháng năm 1952, đã tâm sự: “Đất và người miền Tây Bắc đã để thương, để nhớ trong tôi nhiều quá”. Chính tinh cảm sâu nặng với đồng bào nơi đây và kỷ niệm cùng Tây Bắc đau thương và dũng cảm đã thôi thúc ông viết tập Truyện Tây Bắc(1953) đạt được nhiều lời khen ngợi và giải thưởng.

Nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ đã thể hiện thấm thía và xúc động tấm lòng đồng cảm yêu thương của nhà văn trước số phận bất hạnh và sức sống tiềm tàng của người lao động miền núi. Nhân vật Mị xuất hiện gây chú ý cho người đọc về không gian sống: “Ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa.Lúc nào cũng vậy cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Để nhân vật của mình hòa lẫn những sự vật vô tri vô giác, phải chăng nhà văn muốn nói với chúng ta về thân phận éo le đau khổ và cuộc đời tăm tối câm lặng của Mị trong khung cảnh tấp nập giâu sang của nhà thống lí Pá Tra.

Tác giả muốn ngược thời gian để kể về câu chuyện đẫm nước mắt của Mị. Là cô gái hội tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp, niềm ao ước của bao nhiêu chàng trai, tưởng rằng sẽ có một hạnh phúc xứng đáng. Nhưng chỉ vì gia đình Mị quá nghèo, vì món nợ truyền kiếp của gia đình mà mẹ Mị mất, cha già yếu, món nợ vẫn chưa trả xong nên Pá Tra tuyên bố: “ Nếu Mị về làm dâu nhà hắn thì món nợ của cha mẹ sẽ được xóa hết”. Vốn là người con gái mạnh mẽ, Mị cương quyết từ chối: “con phải làm nương giả nợ thay cho bố, bố đừng bán con cho nhà giàu”. Đây là biểu hiện ở người con hiếu thảo, khát vọng sống tự do đơn thuần, đầy tự trọng của cô gái miền núi.

Tuy nhiên, dưới chế độ phong kiến hà khắc, một cô gái như Mị làm sao có thể chống lại Số phận đắng cay. Mị đã bị bắt về làm dâu trừ nợ do con trai Pá Tra lợi dụng tục cướp vợ của người Mông. Từ đây trang đời tự do, hạnh phúc của Mị khép lại để mở ra một trang đời tăm tối cơ cực đầy bi ai. Khi mới bị bắt về làm dâu gạt nợ, Mị cố gắng phản kháng lại số phận bắng cách: “ có đến mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc”. Cô khóc vì khát vọng sống bị tước đoạt, vì vậy Mị định ăn lá ngón tự tử để chấm dứt cuộc đời nô lệ tủi hờn.Tuy nhiên, từng lời bất lực của người cha như xát muối vào lòng Mị “Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!”.Bế tắc trước hoan cảnh, Mị chỉ biết vì tinh thương cha nên cô không thể chết, ném nắm lá ngón đi như ném cái khát vong tự giải phóng cho minh,Mị chỉ biết lầm lũi trở về nhà thống lí chấp nhận kiếp đời cơ cực của cô con dâu nghèo.

Những năm tháng sống trong nhà thống lí đã khiến Mị không còn sức phản kháng, từng ngày tháng qua đi trong bóng đen của khổ đau và câm lặng: “Ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi.Mị tưởng minh là con trâu, ngựa chỉ biết ăn cỏ đi làm mà thôi”. Bây giờ hoan cảnh đã khiến cô không biết khóc than, không mong mỏi khát khao “Mị cúi mặt không nghi ngợi gì nữa…mỗi ngày Mị căng không nói lùi lũi như con rùa nơi xó cửa”.Còn gì đáng thương hơn cho cô gái Mị lúc này đây coi như không phải cuộc sống mà chỉ là sự tồn tại cho qua ngày tháng mà thôi. Hình ảnh con rùa lùi lũi gợi nhớ tới câu ca dao xưa kia:

“ Thương thay thân phận con rùa

Lên đỉnh đợi hạc xuống chùa đợi bia”

Đó là ẩn dụ đầy ám ảnh về thân phận nhọc nhằn của người phụ nữ trước cách mạng tháng tám.Từ khi bước chân vào nhà Pá Tra, Mị còn chịu cảnh áp bức bóc lột nặng nề. Cô làm việc quần quật suốt năm suốt tháng: “Tết xong lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt se đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp”.Nhịp sống quẩn quanh đó khiến Mị chua xót nhận ra mình không bằng con trâu con ngựa nhà giàu, bởi vì con trâu con ngựa có lúc còn được đứng gãi chân nhai cỏ, còn Mị vùi đầu làm việc cả ngày cả đêm.Trong hoàn cảnh ấy ý thức của Mị gần như tê liệt, thầm lặng và cô đơn khép mình trong căn phòng kín mít: “Chỉ có một chiếc cửa sổ với lỗ vuông bằng bàn tay lúc nào trông ra cũng thấy trắng trắng không biết là sương hay là nắng”.Căn buồng ấy giống như nhà tù giam cầm tuổi thanh xuân của cô.

Ở đây, tác giả đã cất lên tiếng nói đau xót căm phẫn tố cáo tội ác của giai cấp thống trị miền núi đã làm vùi dập sự sống của cô gái vùng cao như Mị.Chính tác giả đã rất tinh ý phát hiện ra một điều kì diệu ở nhân vật Mị: Bên trong hình ảnh con rùa câm lặng còn có một con người với những nhịp đập khát khao đam mê. Bên trong tâm hồn tưởng chừng đã chai sạn tình cảm vẫn âm ỉ ngọn lửa thanh xuân đẹp đẽ, vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Khát vọng âm thầm về hạnh phúc của Mị giống như đốm than hồng bị vùi nén, chỉ cần nhận được một ngọn gió lành nó sẽ bùng cháy lên như ngọn lửa. Và ngọn gió ấy đã đến gõ cửa trái tim Mị trong đêm hội mùa xuân đầy ắp tiếng gọi bạn tình.

Mùa xuân đến trên núi cao Tây Bắc với sắc xuân vàng ửng của cỏ gianh, với vẻ đẹp sặc sỡ của những chiếc váy phơi trên mỏm đá. Xuân đến với tiếng cười nói trong trẻo,… âm thanh và hương sắc ấy đã chạm đến tâm hồn Mị giúp cô nhận ra tiếng sáo và nhẩm thầm “ bài hát của người đang thổi”.

Bước ngoặt đánh dấu sự hồi sinh, trở về với quá khứ, với những giai điệu ngọt ngào từ thuở trước,ở cô đã bắt đầu mở rộng để đón nhận âm thanh nồng nàn của tình yêu gửi trong tiếng sáo.

Âm thanh ấy đã thôi thúc Mị hành động “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực,từng bát một, rồi say. Cách uống rượu của Mị được miêu tả tinh tế để thể hiện những biến đổi âm thầm mà dữ dội trong tâm hồn người đàn bà tưởng như đã nguội tắt sự sống.Mị uống để say,để quên nỗi đời cay cực.Tiếng sáo Mị nghe ở xa hay tiếng sáo vọng về từ hoài niệm đưa Mị về với quãng đường tuổi xuân để nhớ nhung tiếc nuối.Khi ý thức dần trở về, Mị thấy lòng đột nhiên mù sương, cảm xúc phơi phới trở lại. Bất ngờ Mị nhận ra Mị còn trẻ lắm. “Mị muốn đi chơi”.

Đó là chặng đường đầu thôi thúc cho tâm hồn Mị đứng dậy đi theo tiếng gọi của tình yêu, thoát khỏi những u ám trong căn nhà ma mị kia. Một tâm hồn như những đống than hồng đang nhen nhóm trỗi dậy để chờ có làn gió mát sẽ thổi bừng lên, đó cũng như sức sống của người con gái vùng cao này, yêu những gì thật nhất, làm theo những gì trái tim mách bảo.


Bài văn mẫu số 20

Tô Hoài là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi những nét độc đáo trong việc quan sát và diễn tả về những số phận con người miền núi. Đó là những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không chịu sự đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối; họ vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Sức sống tiềm tàng đó được thể hiện mạnh mẽ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, thông qua nhân vật Mị, khi cô lâm vào cảnh ngộ bị bắt làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra đến khi thoát khỏi Hồng Ngài.

Trước khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ đẹp, yêu lao động, yêu tự do. Khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí, Mị phải chịu một cuộc sống đầy tủi nhục, thống khổ. “Lúc nào cô cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Bởi cô là cô dâu gạt nợ, nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi. Để rồi cô bị tước đoạt tuổi trẻ, tự do, bị đối xử như nô lệ. Mỗi ngày, Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

Dù cuộc sống thống khổ, nhưng Mị vẫn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, sức sống ấy của Mị trỗi dậy vào đêm tình mùa xuân.  “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội... Trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm, sặc sỡ... tiếng trẻ con nô đùa...” Mùa xuân ấy rộn rã âm thanh và màu sắc, là dấu hiệu cho sự bừng tỉnh của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đầu tiên, sức sống ấy được hồi sinh khi Mị nghe thấy tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi...” Tiếng sáo ấy chạm vào tâm hồn của Mị, khiến Mị nhớ lại những ngày xuân thật đẹp của quá khứ. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi”. Tiếng sáo ấy như ngọn gió thổi vào lòng cô, khiến cô nhẩm lại lời của người đang thổi sáo:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta chưa có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”

Đã lâu rồi Mị không hát, thế mà cô vẫn thuộc. Dường như Mị vẫn chẳng thể quên được những ngày tươi đẹp nhất, trái tim vẫn chẳng thể nguội lạnh trước cuộc đời ngoài kia. Tiếng sáo ấy khiến Mị lén lấy hũ rượu. “Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Điều đó thể hiện được khát khao tự do của cô, khát khao tự do giữa hiện thực đau đớn. Để rồi cô tủi thân, khi nhớ lại rằng mình đang có một cuộc sống bất hạnh: “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.” Mị chợt muốn chết, mà muốn chết tức là cô đã nhận ra trong tư tưởng của mình có sự phản kháng, cô không còn muốn sống kiếp sống này nữa. Sức sống mãnh liệt còn thể hiện mạnh mẽ hơn khi Mị đi đến quyết định: Bỏ nhà đi theo cuộc chơi. Mị làm đẹp cho bản thân mà không để ý đến thái độ của A Sử, Mị hành động thản nhiên, nhưng đau đớn thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị đã dập tắt đi cái khát vọng sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử trói Mị, nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng tâm hồn của mình. Hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”. Tâm hồn cô đang ngập tràn tiếng sáo, tiếng sáo ấy nhập vào hồn Mị, khiến nàng quên đi rằng mình bị trói. Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được”, Mị đau đớn tủi nhục, quay về với cuộc đời hiện thực. Có một chi tiết đắt giá đã lóe lên trong tâm trạng của cô: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện của người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Mị sợ, Mị “cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Nàng vẫn còn biết sợ, và đó chính là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống ấy vẫn đang âm ỉ cháy trong tâm hồn nàng, dù có bị vùi dập như thế nào đi nữa.

Sức sống tiềm tàng của Mị lại bùng lên lần nữa trong đêm cởi trói cho A Phủ. Cùng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, nếu Mị trở thành cô dâu gạt nợ, thì A Phủ trở thành trâu ngựa cho nhà Pá Tra. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu, để rồi khi con bò bị hổ bất mắt, A Phủ bị hành hạ, bị treo lên cột, bỏ mặc đến chết. Lúc đầu, Mị chứng kiến mọi thứ bằng đôi mắt vô cảm. Dường như Mị đã mất đi lòng nhân ái giữa người với người, Mị lạnh lùng nhìn A Phủ bị hành hạ. Sau đó, khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ chảy xuống, Mị bỗng động lòng, trái tim của nàng thức tỉnh. Mị hình dung lại chuỗi ngày dài dằng dặc của cuộc đời mình, để rồi thấy A Phủ sao mà giống mình thế, phải chịu cảnh đau khổ, tàn nhẫn, kiếp sống trâu ngựa đầy bất công, phi lí. Mị nguyền rủa: “Chúng nó thật độc ác.”

Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc nàng phải cứu A Phủ, dù cho nếu A Phủ chạy thoát, thì có thể người phải chết trên cột sẽ chính là nàng. Nhưng giờ đây, sức sống tiềm tàng đã khiến Mị khao khát được tự do, để rồi Mị quyết liệt cắt đứt sợi dây trói cho A Phủ. Đó là chính là vẻ đẹp của một tâm hồn khát khao được sống, được giải phóng bản thân mình. Hành động cắt sợi dây trói cho A Phủ cũng chính là cắt sợi dây trói buộc của đời mình, giải thoát khỏi cường quyền và thần quyền. Hành động này là một bước chuyển tâm lý, một sự trỗi dậy mạnh mẽ, một quá trình hiện thực hóa nhận thức, đưa cô Mị từ sức sống tiềm tàng trở thành người tự giải thoát chính mình. Qua đó, ta thấy được giá trị nhân đạo trong ngòi bút của Tô Hoài. Ông nâng niu từng phẩm chất tốt đẹp của nhân vật, cứu vớt họ từ những bi kịch cùng quẫn, đau thương...

Về nghệ thuật, nhân vật Mị được khắc họa chân dung, tính cách thông qua ngôn ngữ giàu chất thơ cùng phong cách trần thuật hấp dẫn, xây dựng nhân vật với diễn biến nội tâm đa dạng, phong phú. Hành trình khám phá nhân vật Mị là hành trình trải nghiệm của những cung bậc cảm xúc. Đó là những điều đã làm nên một nhân vật Mị có sức sống tiềm tàng và hành động dứt khoát. Mị là một hình tượng điển hình cho những người dân nghèo vùng cao thấp cổ bé họng, sống trong cuộc sống ngột ngạt dưới ách thống trị của những người cầm quyền giàu có nhưng mất nhân tính. Tô Hoài thấu hiểu được điều đó, ông đặt tình cảm, niềm cảm thương của mình vào nhân vật Mị, với ước mong rằng những người khổ đau sẽ tìm được con đường giải phóng bản thân.

Như Maxim Gorki đã từng nói: “Văn học là nhân học”, ngòi bút của Tô Hoài thấm đẫm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Ông đã lặn xuống những kiếp người cùng khổ để thấu hiểu được nỗi đau, từ đó khám phá ra sức sống tiềm tàng ẩn sâu bên trong tâm hồn của họ.

Bài văn mẫu số 21

Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mà nhà văn Tô Hoài đã dành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

    Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái “dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đó là nét tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.

     Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.

     Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa… Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể “trói” được thân xác Mị chứ không thể “trói” được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.

    Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó.

    Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay “dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị.

     Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cài nhà này”. Lí trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi.

    Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay dắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò!

    Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư?

    Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng…

    Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân – hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài – một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…

    Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.

    Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.

     Truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp độc giả cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp chúng ta ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.

Bài văn mẫu số 22

"Đất nước và con người miền Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều quá” (Tô Hoài). Là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Tô Hoài thu hoạch được sau chuyến đi bộ đội vào giải phóng Tây Bắc dài tám tháng, tập truyện “Truyện Tây Bắc” là nỗi nhớ niềm thương bồi hồi xúc động, là lời tri ân sâu sắc mà nhà văn dành tặng cho mảnh đất con người Tây Bắc đau thương mà anh dũng, đẫm nước mắt tủi hờn mà vời vợi chất thơ. Là truyện ngắn đặc sắc hơn cả của tập truyện, “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực, cảm động về cuộc sống tối tăm, tủi nhục và sức mạnh vùng lên vươn tới chân trời tự do hạnh phúc của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc. Giá trị của tác phẩm được kết tinh ở hình tượng nhân vật Mị.

      Nếu những nhà văn hiện thực phê phán chỉ thấy con người là nạn nhân bất lực của hoàn cảnh thì các nhà văn cách mạng bao giờ cũng phát thiện hiện ra sức mạnh phục sinh trong tâm hồn của những con người cùng khổ. Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Việt Nam, chẳng những rất thành công khi diễn tả cái chết dần chết mòn của Mị – một cô gái tràn đầy sức sống mà còn rất tinh tế khi khám phá quá trình hồi sinh của Mị. Nếu như có một hoàn cảnh làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hồi sinh. Và hoàn cảnh đó chính là đêm đông Mị cắt dây trói cứu A Phủ đầy éo le, kịch tính.

    A Phủ là chàng trai nghèo khổ cả cha lẫn mẹ, vì đánh A Sử, A Phủ bị bắt phạt vạ trở thành đứa ở trừ nợ của nhà thống lí Pá tra, cùng chung thân phận nô lệ trâu ngựa với Mị. Một lần sơ ý để hổ vồ mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói bỏ ăn mấy ngày liền giữa mùa đông giá rét.

Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa hơ tay. Dã mấy lần rồi, mỗi khi dậy thổi lửa hơ tay, Mị lại thấy cảnh A Phủ bị trói nhưng Mị vẫn thản nhiên dửng dưng thờ ơ. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Quá quen với cái tạm bộ của cha con thống lí Pá Tra, tâm hồn Mị tê dại đến vô cảm. Và tâm hồn Mị có lẽ sẽ mãi mãi hóa đá nếu như Mị không bắt gặp giọt nước mắt của A Phủ. Như mọi đêm, Mị dậy thổi lửa hơ tay, ngọn lửa bập bùng sáng lên, lé mắt trông sang, Mị bỗng bắt gặp dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má tuyệt vọng của A Phủ – một chàng trai vốn can trường dũng cảm. Nước mắt gọi nước mắt : Mị nhớ lại đêm tình mùa xuân bị A Sử trói, nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng cổ mà không sao lau đi được. Niềm đồng cảm trỗi dậy, thương thân bao nhiêu, Mị thương A Phủ bấy nhiêu. Thương mình, thương A Phủ, lòng Mị sục sôi niềm căm hờn phẫn uất với cha con thống lí Pá Tra ;. Trời ơi, nó bắt trói người ta đến chết, nói bắt mình đến chết, nó bắt trói đến chết người đàn bà trước cũng ở cái nhày này cũng thôi. Chúng nó thật độc ác, lần đầu tiên, sau bao năm tháng câm lặng, Mị dõng dạc cất lên lời kết án đanh thép cha con thống lí. Mị như lột xác, trở lại làm cô gái dũng cảm, khát khao tự do, sục sôi tinh thần phản kháng. Rồi Mị nghĩ đến tình cản nguy khốn đang ập đến với A Phủ : cơ chừng này, chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết… Người kia thì việc gì mà phải chết thế ? A phủ sẽ phải chết, chết oan uổng, vô lí. Nghĩ đến điều ấy, trái tim Mị như thắt lại, cõi lòng nhói đau. A Phủ tiếng gọi buông ra hay tiếng nấc nghẹn ngào xót xa. Rồi Mị miên man nhớ lại đời minh, Mị lại tưởng tưởng có thể một lúc nào đó, biết đâu A Phủ chẳng đã chốn được, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo Mị cởi trói cho A phủ, Mị liền phải trói thay, phải chết trên cái cọc này. Nghĩ thế, trong tình cảnh nào, làm sao Mị cũng không thấy sợ. Tình thương người ngày càng mạnh, nó lớn hơn niềm thương thân và giúp Mị chiến thắng mọi nỗi sợ hãi, nó thôi thúc Mị hành động một cách táo bạo : cắt dây trói cứu A Phủ.

Cắt dây trói cho A Phủ xong, Mị bỗng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng Đi ngay ! rồi nghẹn lại. đứng lặng trong bóng tối, rồi Mị chạy vụt theo, băng đi đuổi kịp A Phủ. Nỗi sợ hãi và hành động chạy theo A Phủ vô vùng đột ngột những ngẫm ra lại hết sức hợp lí, dương nhu không thể khác được. Là người, ai cũng sợ chết , nhất là khi cái chết cận kề. Là một cô gái, Mị lại rất yêu đời và ham sống, mị không thể chấp nhận cúi đầu chờ chết ở cái nơi địa ngục trần gian này. Cuối cùng, phải kể đến chất xúc tác làm cho cuộc nổi loạn nhân tính hoàn tất. Dó là hành động quật sức vùng lên chạy của A Phủ. Hành động ấy như tia lửa bắt cháy nguồn sống mãnh liệt trong Mị, thôi thúc Mị hành động táo bạo : cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Vậy là, sau bao năm tháng bị vùi dập, sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị đã bùng cháy mãnh liệt trong đêm đông định mệnh. sức sống ấy như nguồn sức mạnh vô song giúp Mị chiến thắng tất cả mọi thế lực bạo tàn cường quyền và thần quyền. Chính sức mạnh ấy đã giải cứu cho A Phủ và Mị khỏi thế giới địa ngục để đến với chân trời tự do, hạnh phúc

Đọc Vợ chồng A Phủ, ta chẳng thể nào không xót xa một cô Mị bị chà đạp, vùi dập, tàn nhẫn, dã man, bị dìm xuống kiếp ngựa trâu, một cô Mị cứ chết dần chết mòn, như con rùa lùi lũi trong xó tối, như cái xác không hồn. Nhưng cái để Mị chạm vào trái tim người đọc sâu đậm nhất vẫn là một cô Mị tiềm tàng sức sống mãnh liệt, âm thầm, khát vọng lớn lao. Mị của Tô Hoài đã dũng cảm vươn lên từ nhọc nhằn, khổ đau để đi về phía có ánh sáng của tự do. Cái đẹp nhất, nhân văn nhất của tác phẩm chính là ở đó.

Bài văn mẫu số 23

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước. Trong sự nghiệp sáng tác của mình , ông đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biểu nhất là truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ”. Qua tác phẩm tác giả đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật Mị, một người luôn luôn tiềm tàng sức sống. Sức sống ấy được thể hiện rõ qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cưới trói cứu A Phủ.

“ Vợ chồng A Phủ” là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội lên vùng núi Tây Bắc. Được in trong tập “ truyện Tây Bắc ”. Câu chuyện bao gồm hai phần, phần đầu là cuộc sống bế tắc, khổn khổ của Mị và A Phủ ở nhà thống lí Pá Tra. Phần hai là cuộc sống của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa.

Câu chuyện kể về nhân vật Mị – một cô gái yêu tự do, yêu lao động, trẻ đẹp, có tài thổi sáo. Vì món nợ truyền kiếp của gia đình mà Mị bị cha con nhà thống lí Pá Tra bắt về làm dâu gạt nợ. Lúc đầu Mị đòi ăn lá ngón để tự tử, nhưng vì hiếu thảo với cha nên Mị đã chấp nhận sống kiếp trâu ngựa trong nhà thống lí Pá Tra, hi sinh cả tuổi thanh xuân của mình,Mị sống “ lùi lũi như con rùa nơi xó cửa”. Hình ảnh Mị hiện lên ở đầu câu chuyện cũng cho ta thấy được điều đó. Ai ở xa về, có việc vào nhà thống Lí Pá Tra, lúc nào cũng thấy một cô gái ủ rũ, ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa. Cuộc sống của cô bế tắc, tăm tối trong một căn phòng chỉ có ô cửa nhỏ bằng bàn tay, nhìn ra không biết là sương hay là nắng. Sống cực khổ, thân phận như trâu, như ngựa. Mị cảm thấy “ ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi”. Chính cường quyền và thần quyền đã đẩy Mị tới một cuộc sống như vậy. Tuy nhiên, sức sống tiềm tàng trong Mị vẫn luôn âm ỉ. Sức sống tiềm tàng ấy được khơi dậy ngay trong đêm tình mùa xuân, với khung cảnh mùa xuân tươi vui tràn đầy sức sống, với tiếng sáo tha thiết gọi bạn đi chơi. Tất cả tác nhân đó đã khiến Mị nhớ lại quá khứ, Mị tìm đến rượu, Mị uống rượu rồi Mị muốn chết, hành động đó cho thấy Mị đã tìm thấy được chính mình, không chịu khuất phục số phận. Tiếng sáo cứ tha thiết bên tai, Mị muốn đi chơi, hàng loạt hành động gấp gáp diễn ra: “Mị lấy cái váy vắt trong vách”, “ quấn lấy tóc”. Mị làm tất cả điều đó mà không quan tâm đến sự có mặt của A Sử. Điều đó chứng tỏ sức sống trong Mị đã lớn dần, bóng ma thần quyền cũng không thể cản nổi. Nhưng rồi A Sử trói đứng Mị, ý định giải thoát của Mị không thành, trở về với hiện thực phũ phàng đau khổ. Nhưng sức sống tiềm tàng của Mị vẫn luôn ẩm ỉ cháy chờ đợi bùng lên. Sức sống tiềm tàng của Mị đã bùng cháy trong đêm cởi trói cứu A Phủ. A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, giỏi giang, vì hủ tục, thần quyền đã trở thành nô lệ nhà thống lí Pá Tra. Vì để hổ ăn mất nửa con bò nên đã bị trói đứng giữa nhà cho đến chết. Lúc đầu, Mị hoàn toàn vô cảm với A Phủ, hàng đêm vẫn thổi lửa hơ tay. Mị sống không có cảm xúc, không hề quan tâm đến  bất cứ điều gì xung quanh. Có hôm bị A Sử đánh dúi ở cửa đầu bếp, đêm xuống Mị vẫn thổi lửa hơ tay, như không có điều gì xảy ra. Qua đây ta có thể nhận thấy cuộc sống của Mị, hoàn toàn đông cứng không có cảm xúc. Nhưng từ vô cảm, Mị đã trở nên đồng cảm với A Phủ khi nhìn thấy “ hai dòng nước mắt bò trên hõm má đen sạm”. Đó là dòng nước mắt của thân phận nô lệ, không làm chủ được cuộc sống của mình. Bất lực trước thần quyền, hủ tục, dòng nước mắt  ấy đã thức tỉnh lòng thương người trong Mị, xua tan đi băng giá trong con người Mị. Mị nhận thấy sự vô lý trong số phận của A Phủ. Sức sống tiềm tàng trong Mị chính thức trỗi dậy. Mị đồng cảm bởi Mị nghĩ đến thân phận của mình. Có lần bị A Sử trói đứng, nước mắt rơi mà không sao lau đi được. Đó là sự tương đồng của hai thân phận nô lệ không làm chủ được cuộc sống của mình. Mị nhớ lại năm xưa cũng có người đàn bà bị trói đứng cho đến chết, Mị sợ chết “cứa mình coi mình có còn sống hay không”, Mị nghĩ đến thân phận của mình, xót xa cho số phận của mình. Tiếp theo đó Mị thốt lên “ cơ chừng này mai là người đàn ông kia chết”, “ trời ơi chúng nó bắt trói đứng người ta đến chết”. Mị đã thốt lên những câu nói đó, những câu nói biểu hiện cho sự thức tỉnh của Mị, rồi Mị nguyền rủa “ chúng nó thật độc ác” . Dòng nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, khơi dậy lòng thương người, ý thức được sống tự do của Mị. Mị không muốn chấp nhận số phận, sức sống tiềm tàng trong  Mị đã bùng cháy lên mãnh liệt. Tất cả đã đưa Mị tới quyết định hành động cắt dây trói cứu A Phủ, Mị cũng nghĩ đến chuyện sau khi cắt dây trói cho A Phủ, chính Mị sẽ là người thế chỗ cho A Phủ, bị trói đứng đó cho tới chết. Trong giây phút ấy, sau khi cắt dây trói và A Phủ vùng chạy, Mị đã đấu tranh nội tâm một cách quyết liệt rồi quyết định cùng chạy theo A Phủ “cho tôi theo với, ở đây thì chết mất”. Đây là lần thứ hai Mị sợ chết, Mị ý thức được niềm khát khao có một cuộc sống tự do. Sức sống trong Mị đã trỗi dậy mãnh liệt khiến Mị vượt qua tất cả, vượt qua sự sợ hãi, sự đè nặng về hủ tục lạc hậu, bóng ma thần quyền để có được một cuộc sống tự do.

Qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cởi trói cứu A Phủ, ta có thể nhận thấy sức sống mãnh liệt của Mị, một con người luôn khao khát tự do, không chấp nhận số phận. Vượt qua tất cả để được làm chủ cuộc sống của chính mình. Sức sống của Mị không bị dập tắt luôn âm ỉ cháy trong con người ấy và chờ đợi có cơ hội bùng lên mãnh liệt. Tác giả cho ta thấy được những giá trị hiện thực trong tác phẩm, đó là tố cáo lên án những thế lực chà đạp lên quyền sống của con người. Cho thấy được bộ mặt của chủ nô thời phong kiến, số phận của những con người bị nô lệ hóa, đồng thời cho thấy ý thức cách mạng của con người. Không những thế , tác giả còn cho thấy những giá trị nhân đạo mang ý nghĩa sâu sắc. Thể hiện lòng thương cảm của tác giả đối với số phận của những con người trong thời kì trước cách mạng tháng Tám. Phát hiện trân trọng vẻ đẹp của con người nơi đây đồng thời cho thấy ý thức của con người khi đến với cách mạng, từ tự phát sang tự giác.

Qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cởi trói cứu A Phủ, tác giả không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn thành công về mặt nghệ thuật. Xây dựng nhân vật có nhiều điểm đặc sắc trần thuật uyển chuyển. linh hoạt. Cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên. Cách kể chuyện ngắn gọn, tình tiết khé léo. Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục tập quán của người miền núi. Ngôn ngữ chọn lọc, sáng tạo giàu tính tạo hình và thẫm đẫm chất thơ.

Khép lại diễn biến tâm lý cuả nhân vật Mị trong “ Đêm cởi trói cứu A Phủ” nói riêng và truyện “ Vợ chồng A Phủ” nói chung. Tác giả cho người đọc cảm nhận được sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị, vượt qua mọi rào cản  để có được cuộc sống tự do. Diễn biến tâm trạng của nhân vật trong đêm Mị cởi trói cứu A Phủ sẽ sống mãi trong lòng người đọc hôm nay và mai sau.