Năm 1945 là năm mà dân tộc ta xảy ra một sự kiện vô cùng đáng nhớ, đó là năm nạn đói lịch sử đã cướp đi hai triệu đồng bào của chúng ta. Nhưng cũng là năm cách mạng tháng 8 thành công chúng ta đánh đuổi được phát xít Nhật khai sinh ra nước Việt Nam.
Trong bối cảnh ấy tác giả Kim Lân đã viết tác phẩm Vợ nhặt để nói lên tội ác của giặc, mốc lịch sử quan trọng của dân tộc. Trong những câu văn đầy tình người tình nhân đạo cao cả của mình Kim Lân đã viết ” Những người đói khổ họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống” với niềm tin bất diệt, không bao giờ tắt.
Nhiều tác giả đã đề cập tới nạn đói lịch sử này, nhưng trong tác phẩm của nhà văn Kim Lân giàu cảm xúc nhân đạo, tình thương với những số phận người nông dân nghèo khổ. Trong mỗi trang viết ông đã vẽ lên tái hiện lại sự thực tàn khốc ấy.
Người chết như ngả rạ, những con quạ ăn xác thối kêu lên những tiếng thê lương, sự đói khát của những người nghèo, của những người đơn độc như anh cu Tràng, bà cụ Tứ, hay vợ anh cu Tràng hiện lên như những ngọn đèn leo lét trước gió. Những con người đi trong bóng chiều u tối, không tìm ra lối thoát.
Trong bối cảnh nạn đói người chết hàng loạt đó. Một người có ngoại hình thô kệch, xấu xí như anh cu Tràng. Hai con mắt ti hí, khuôn mặt khắc khổ dáng người thì thô ráp ấy. Hắn sống cảnh côi cút với bà mẹ già, vì bố hắn đã chết từ lâu. Một người ít hậu không có gì trong tay lại có thể lấy được vợ. Nói đúng hơn là nhặt được vợ trong thời kỳ đói kém ấy.
Bữa cơm đầu tiên sau ngày họ cưới nhau một bữa ăn chỉ có cháo cám với hoa chuối thái vội, một đĩa muối trắng nhưng ai cũng điềm nhiên bỏ vào miệng ăn một cách ngon lành, rồi đứng lên.
Trong bữa cơm những con người đói khổ ấy họ nói tới cờ đỏ sao vàng, nói tới việc cướp kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Những con người đang thầm hy vọng có một tương lai mới tốt đẹp hơn. Trong cái đói khổ, nghèo đói nhưng họ không bao giờ buông xuôi nghĩ tới cái chết để giải thoát đời mình, mà họ nghĩ tới sự sống sống tốt đẹp hơn nữa, sống đúng ý nghĩa của một con người.
Ngày Tràng lấy vợ ai cũng rất ngạc nhiên, bởi ai cũng cho rằng thời buổi khó khăn, đói kém như thế này lấy vợ là lấy thêm một miệng ăn, phải lo thêm cho một người có sung sướng gì mà lấy. Nhưng với cu Tràng và bà cụ Tứ thì lại khác.
Bà cụ Tứ, sau khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi trong nhà mình hết sức ngạc nhiên, bà tưởng mình già rồi nhìn gà hóa cuốc. Nhưng khi lại gần bước hẳn vào nhà thấy người con gái lạ kia chào mình bằng u đã về? Thì bà không còn nhầm được nữa. Bà giật mình lắm, nhưng rồi bà lại nghĩ phải gặp lúc đói khổ như thế này thì người ta mới lấy tới con mình, con mình mới có vợ.
Rồi bà lại thương cho con trai, con dâu của mình người ta lấy nhau trong lúc ăn nên làm ra, còn mình lấy nhau trong lúc khó khăn, tới mấy mâm cơm mời hàng xóm cũng không có nổi, nhưng chẳng ai trách mình cả vì thời buổi này ai cũng đói khổ cả.
Ngày cưới, anh cu Tràng cũng bỏ ra hai hào để mua về nhà một chai dầu, anh mong muốn có không khí sáng sủa, mới mẻ cho đêm tân hôn của mình không tăm tối. Hai hào dầu sẽ mang lại hy vọng cho gia đình của anh cu Tràng, mang lại hy vọng cho cuộc sống lứa đôi, cho đời sống hôn nhân của đôi vợ chồng trẻ.
Hai con người khốn khổ, hai mảnh đời ghép lại với nhau trong cơn hoạn nạn, cơ cực chứng tỏ trong sự nghèo khó khốn khổ ấy con người ta vẫn nghĩ tới tương lai, nghĩ tới sự sống chứ không hề nghĩ tới bước đường cùng, cái chết. Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những tác phẩm giàu ý nghĩa, tính nhân văn cao cả nó thể hiện sự thành công của nhà văn Kim Lân khi đã viết lên một câu chuyện giàu tính nhân đạo, gợi lên trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khó quên
Chỉ sau đêm tân hôn, cả cu Tràng, vợ anh cu Tràng và bà cụ Tứ đều thay đổi. Sự thay đổi của cu Tràng là hắn trở nên phởn phơ khác thường, tâm trạng vui vẻ như đang trong giấc mơ, tưởng mơ mà không.. Nhiều lúc hắn cười vu vơ một mình. Câu chuyện nhặt được vợ, khiến cho anh cu Tràng nghĩ như một chuyện đùa nhưng lại khiến cho một người như anh cu Tràng có được vợ.
Vợ cu Tràng thi thay đổi nhiều lắm, từ một người phụ nữ chua ngoa đanh đá, không biết ngại lại gì. Thường gạ gẫm người khác mời mình ăn, nhưng khi làm vợ, làm dâu vẻ chua ngoa mất hẳn.
Cô trở nên hiền lành, biết dậy sớm cùng mẹ chồng chăm bón vườn tược, nhà cửa quét sạch sẽ, rồi cùng vào nấu bếp, làm bữa sáng. Mọi thứ đến với ngôi nhà nghèo nàn, tàn tạ tăm tối của Trang thật bất ngờ. Ngôi nhà đó giờ có ba con người đang hy vọng vào một tương lai mới. Một tương lai tốt đẹp hơn
Bà cụ Tứ thì vui vẻ phấn khởi lắm vì con trai mình đã có vợ, có người nâng khăn sửa túi. Trong bữa ăn gia đình bà thường xuyên mơ tới một cuộc sống khấm khá hơn “không ai giàu ba họ. Không ai khó ba đời…chăm chỉ làm ăn rồi trời thương cho ăn nên làm ra…”. Bà cụ Tứ động viên hai con cố gắng, mong cho hai con hạnh phúc, đó là tấm lòng của một người mẹ già hiền lương, thương con cái vô bờ bến.
Trong bữa ăn của một gia đình đầy hy vọng đó họ nói tới người nông dân trên đê Sộp cùng nhau phá kho thóc, rồi hình ảnh của lá cờ đỏ sao vàng. Những con người nghèo đói khốn khổ ấy vẫn hướng tới cuộc sống tương lai, điều đó khiến cho họ có sức mạnh để sống tiếp để hy vọng.
Tác phẩm Vợ nhặt đã gieo những mầm sống, vượt qua cái chết. Tác phẩm để lại trong lòng người đọc vô vàn cảm xúc khác nhau, khiến cho người đọc cảm thấy vô cùng xúc động trước những người nông dân nghèo khổ.