Bài văn mẫu số 1
Cùng một cách cảm nhận về đất nước, nhưng nếu ở những khổ thơ khác, Nguyễn Khoa Điềm thường dùng các từ ngữ, hình ảnh tượng trưng, giàu chất duy lý, thì ở khổ thơ mở đầu của chương Đất Nước: Khi ta lớn... Đất Nước có từ ngày đó..., nhà thơ lại sử dụng các từ ngữ, hình ảnh rất quen thuộc, bình bị trong đời sống người dân Việt Nam để trả lời cho câu hỏi: Đất nước được hình thành như thế nào?
Dĩ nhiên với cách trả lời bằng thơ, không bao giờ là những phán đoán, suy luận đơn giản, khổ thơ gợi lên trong lòng người đọc bao cảm xúc. Và, từ câu trả lời đã gợi mở sự trả lời nhiều câu hỏi khác về đất nước, nhân dân.
Mở đầu cho khúc ca Đất Nước của bản trường ca Mặt đường khát vọng, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Hai câu thơ diễn tả một ý khá rành mạch: Đất nước có từ rất lâu, ở trong những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Nhưng đây mới chỉ là hiển ngôn. Đúng, đất nước đã từ lâu lắm rồi, không phải bây giờ, trước cả ngày ta mới chào đời. Song vì sao lại là lớn lên mà không là sinh ra (Khi ta sinh ra)? Đất nước cũng như dân tộc, nhân dân, và những điều thiêng liêng khác cần được nhận thức. Lớn lên tức là trưởng thành, có hiểu biết. Ngày xưa, còn bé, ta chưa biết. Khi lớn lên, ta ý thức sâu sắc về đất nước cũng như những điều thiêng liêng, cao quý khác.
Đất nước thiêng liêng, nhưng đất nước cũng rất gần gũi. Đất nước không ở đâu xa. Đất nước ở ngay trong câu chuyện cổ tích mẹ ta thường kể hằng đêm. Không một câu chuyện cổ nào mẹ ta kể lại không bắt đầu bằng ngày xửa ngày xưa. Câu chuyện ấy thuộc về một thế giới xa xăm, hàng nghìn đời trước. Nhưng điều lạ là, qua lời kể của mẹ, thế giới ấy thật gần. Đất nước là như vậy đó. Đất nước đã có rất lâu. Những câu chuyện về đất nước là những câu chuyện rất xa. Nhưng cũng không có gì gần gũi, thân thiết bằng đất nước.
Những câu thơ kế tiếp hướng người đọc vào sự hình thành và phát triển của đất nước:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Ta chú ý, về hình thức, cuối câu thơ thứ hai của đoạn thơ này có dấu chấm. Như vậy, hai câu thơ trên diễn đạt trọn vẹn một ý. Bốn dòng thơ kế tiếp không có dấu câu nào ở cuối dòng. Đến dòng thơ thứ năm mới có những dấu chấm lửng. Dòng thơ đó kết thúc cả khổ thơ theo kiểu đúc kết lại, khái quát lên: Đất Nước có từ ngày đó... Như vậy, nếu có chia tách để phân tích, đoạn thơ được cấu trúc thành: 2 + 6 + 1.
Sáu câu ở giữa có hai câu mang tính phán đoán:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Hai câu này cấu trúc giống nhau. Mỗi câu đều có một động từ (làm vị ngữ): bắt đầu, lớn lên. Không ai nói chính xác đất nước ta bắt đầu từ bao giờ. Nhà sử học, mỗi người nêu một số liệu. Và, ngay cả khi số liệu tưởng chừng rất chính xác cũng không nói được đầy đủ về sự bắt đầu của đất nước. Nhà thơ nói theo cách của mình: Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn. Ăn trầu là một phong tục cổ xưa của người Việt, đến nay còn tồn tại. Nó có thể là thú vui. Nhưng trước hết nó là một tập tục văn hóa. Do đó, trong miếng trầu đơn sơ, bình dị của người Việt hàm chứa một giá trị văn hóa (Vì thế, trong rất nhiều sự kiện quan trọng của người Việt luôn có mặt của miếng trầu: bàn thờ ngày giỗ, việc hiếu hỷ...). Một đất nước được sinh thành, được gọi là đất nước không phải chỉ có một dải non sông và những con người tồn tại trên đó. Đất nước chỉ thực sự là đất nước khi có văn hóa. Bởi vậy, cách cắt nghĩa đất nước được hình thành từ bao giờ theo cách nói của nhà thơ hóa ra rất chính xác, được đông đảo mọi người chấp nhận.
Nhưng đất nước không bao giờ đứng yên. Đất nước luôn phát triển. Nhà thơ viết: Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Lớn lên cũng có nghĩa là trưởng thành. Trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam phải chống chọi với biết bao cuộc chiến tranh xâm lược. Song, đất nước như một chàng trai tuấn tú, trải qua gian lao, thử thách, càng nhanh chóng trưởng thành. Các cuộc chiến tranh đó không những không khuất phục được dân tộc Việt Nam mà còn thúc giục dân tộc trở nên vững vàng hơn.
Bốn câu thơ còn lại bổ sung cho luận đề về sự hình thành và phát triển của đất nước:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất nước hình thành và phát triển từ những cái rất lớn (văn hóa, chiến tranh giữ nước). Nhưng cũng hình thành và phát triển từ quá trình lao động bền bỉ (Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng), từ tình yêu thương gắn bó trong gian lao (Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn), từ phong tục, nếp sống hàng ngày (Tóc mẹ thì bới sau đầu)... Cả bốn câu thơ này chỉ có câu: Cái kèo, cái cột thành tên nghe có vẻ khác lạ. Nó diễn tả về thời gian hơn là không gian. Cái kèo, cái cột - những vật dụng bình thường nhưng vô cùng cần thiết trong mỗi căn nhà người Việt, như bất kỳ vật dụng nào khác, ban đầu được tạo ra chưa có tên. Người ta sử dụng từ đời này sang đời khác và thấy cần thiết phải đặt tên cho nó. Bao nhiêu vật dụng gắn bó với con người đều trải qua quá trình đó. Để cái cột, cái kèo thành tên là cả một quãng thời gian đằng đẵng. Đấy cũng là quá trình sinh thành của đất nước, từ không đến có, từ ít đến nhiều, từ nhỏ hẹp tới rộng lớn, giàu có.
Khi viết về đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ kể về sự giàu đẹp của đất nước. Nhà thơ chú trọng nói về quá trình hình thành và phát triển của đất nước với biết bao vất vả, gian lao, mồ hôi, nước mắt của hàng hàng lớp thế hệ nối tiếp nhau. Nhìn rộng ra, trong cả bài thơ Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm luôn nhất quán với cách nhìn như thế. Đấy cũng chính là điều nhà thơ muốn nhắn gửi với thế hệ trẻ trong những tháng năm dân tộc ta phải dồn sức vào cuộc chiến tranh khốc liệt, một mất một còn với kẻ thù. Lời nhắn gửi cho thế hệ trẻ ngày ấy đến nay hẳn vẫn còn tha thiết đối với thế hệ hôm nay.
Bài văn mẫu số 2
Có được lớn lên từ mái ấm gia đình, từ tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ ta mới thấy câu ca dao "gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau" là lời nhắn nhủ, dặn dò quý giá biết bao. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đang tìm cho mình một cách cảm nhận mới về đất nước vốn là một đề tài rất cũ, một hình ảnh rất quen trong chín câu đầu của trường ca:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Muốn hiểu về Đất Nước nhưng "khi ta lớn lên đất nước đã có rồi": lời thơ khẳng định đất nước ra đời từ rất lâu như ta thường bảo 4000 năm lịch sử. Câu thơ cũng khẳng định sự trường tồn của đất nước sau bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu lần đánh giặc ngoại xâm, chống lại nội thù để bảo vệ đất nước. Nhưng câu thơ cũng nói lên nỗi lòng băn khoăn của nhà thơ vì làm sao hiểu được đất nước khi đất nước đã có từ lâu, đã cách ta quá xa, đã "có từ ngày xửa ngày xưa...": một cụm từ vô cùng quen thuộc, thân thương vì ai trong chúng ta không từng được đắm mình trong những câu chuyện cổ tích thần tiên" mẹ thường hay kể". Những câu chuyện kể, những lời ru của mẹ đưa con về với đất nước yêu dấu.
"Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn", câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm khiến con nhớ đến câu chuyện cảm động "Sự tích trầu cau" mẹ kể con nghe về tình nghĩa gia đình thắm thiết, ven tròn, hoà quyện nhau như màu đỏ huyết thống thiêng liêng. Đấy chính là nền tảng để xây dựng gia đình, để khởi đầu đất nước hay đây cũng chính là bài học đầu tiên về đất nước. Miếng trầu bình thường bà vẫn ăn hàng ngày sao bỗng dưng trở thành thiêng liêng, thấp thoáng đâu đó dáng hình đất nước qua tập tục ăn trầu thân quen.
Hình ảnh cây tre trong câu thơ" Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc" con đã từng gặp trong "Sự tích Thánh Gióng" khi cậu bé chỉ mới 3 tuổi đã vươn vai thành người chiến sĩ nhổ tre, đánh giặc thù, bảo vệ bờ cõi. Cây tre hiền hoà hằng ngày ta vẫn thấy trong xóm làng cho ta những vật dụng và bóng mát, thế nhưng cây tre đã từng là vũ khí theo suốt con đường cha ông ta đánh giặc để giữ cho con cháu hôm nay đất nước này. Truyền thống đấu tranh bất khuất của người xưa dẫu ko có vũ khí tương xứng nhưng đã để lại cho con cháu một bài học: muốn đất nước lớn lên vững vàng thì dân mình phải biết trồng tre để chuẩn bị thành vũ khí đánh giặc. Bài học lịch sử quý giá này cháu con luôn ghi nhớ và đang vận dụng trong những ngày đánh Mỹ ác liệt để bảo vệ đất nước với "gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín" (Thép mới)
Mỗi một đất nước đều có riêng những phong tục tập quán và dân tộc ta cũng thế. Hình ảnh" tóc mẹ thì bới sau đầu" đã nói lên một nét đẹp của phong tục Việt Nam ta từ xưa còn lưu lại đến bây giờ dù đất nước đã phải trải qua bao năm bị ngoại bang đô hộ và đồng hoá nhưng dân tộc này vẫn giữ được tập quán riêng của đất nước mình.
Có được lớn lên từ mái ấm gia đình, từ tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ ta mới thấy câu ca dao "gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau" là lời nhắn nhủ, dặn dò quý giá biết bao. Với Nguyễn Khoa Điềm "cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" để con được hưởng hạnh phúc đầy đủ, cho con hiểu thêm một nét đẹp đạo lí dân tộc là tình nghĩa luôn thuỷ chung, son sắc.
Từ cái nhà con ở khi "cái kèo, cái cột thành tên" đến hạt gạo con ăn"phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàn" ta hiểu được bao thế hệ mẹ cha đã lao động vất vả, chắt chiu, dành dụm để tạo dựng cuộc sống cho những đứa con nên người và góp phần dựng xây đất nước. Tất cả chính là đất nước. Thế thì đất nước ko phải đâu xa lạ, vô hình mà là những vật dụng, những hình ảnh hàng ngày ta vẫn thấy quanh đây rất đỗi thân quen đã từng gắn bó với ta từ thời thơ bé khi bên ta có bà, có mẹ , có cha. Nhưng chính những câu chuyện cổ tích mẹ kể con nghe, chính những lời ru ca dao đã đưa con vào thế giới sâu nặng nghĩa tình của đất nước thiêng liêng với bao truyền thống, tập quán tốt đẹp.
Từ những hình ảnh thân quen nhưng ẩn chứa chiều sâu kiến thức văn học dân gian cùng với giọng thơ ngọt ngào đoạn thơ như lời kể chuyện tâm tình, Nguyễn Khoa Điềm đã bình dị hoá đất nước, đất nước hóa thân vào cổ tích, ca dao, vào cuộc sống hàng ngày. Tác giả đã có một cách cảm nhận mới vừa quen vừa lạ, vừa cụ thể với trừu tượng, vừa gần gũi vừa rất đỗi thiêng liêng...tạo nên sự xúc động sâu sắc. Điều đó nói lên thành công của tác phẩm cũng như những đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm đối với nền Văn học Việt Nam.