Truyện ngắn “Đôi mắt” của Nam Cao được viết trong những ngày nghỉ Tết đầu năm 1948, viết cho đỡ nhớ nên không bị vướng víu về chủ đề tư tưởng và viết rất tự nhiên. Truyện bộc lộ cách nhìn đời, nhìn người đặc biệt là những người nông dân lúc bấy giờ, đồng thời nói lên tầm quan trọng của cách nhìn đời, nhìn người của nhân vật Hoàng và Độ.
Truyện đặt tên thật là giản dị nhưng nội dung của vấn đề thì không đơn giản đi chút nào. “Đôi mắt” là gì nhỉ? Đó chính là giác quan giữ một phần rất quan trọng trong cơ thể con người. Nhờ có “Đôi mắt”, nhờ có đôi mắt con người có thể nhận thức được thế giới giác quan , những gì đang diễn ra xung quanh mình. Về mặt sinh học và y học con mắt của mỗi người đều giống y như nhau, không ai giống ai. Tác giả đã đặt ra vấn đề và giải quyết vấn đề của truyện bằng cách xây dựng hai nhân vật có lập trường và hai quan điểm trái ngược nhau thông qua “đôi mắt” của họ. Hoàng có thể nói là đại diện cho lớp nhà văn cũ, con người của xã hội cũ, còn Độ thì ngược lại, Độ đại diện cho con người mới của xã hội mới, những con người người tích cực, hăng hái tham gia cách mạng, không thờ ơ, bàng quan trước cảnh “dầu sôi lửa bỏng” của đất nước.
Nhân vật Hoàng có lai lịch và gia thế đặc biệt. Dưới “Đôi mắt” của Độ, Hoàng là “một nhà văn, đồng thời là tay chợ đen rất tài tình” trái hẳn với Độ chỉ làm “một anh tuyên truyền nhãi nhép” như thế thì có ích cho cuộc cách mạng biết bao! Nam Cao miêu tả nhân vật một cách trực tiếp khiến chúng ta có thể sờ mó được, Hoàng hiện ra thật sinh động và chân thực lạ thường: “Bước khệnh khạng, thong thả bởi vì người khó to béo quá, vừa bước vừa bởi cánh tay kềnh kệch ra hai bên”, “bàn tay múp míp”, “trên mép một vài cái vành móng ngựa ria như một cái bàn chải nhỏ” và dường như là một người giả dối, kiểu cách qua cử chỉ đối với bạn: “Sững người ra một lúc rồi anh mới lâm li kêu lên những tiếng trong cổ họng”. Phải trăng qua hình dáng “Khệnh khạng”, “cánh tay kềnh kệnh ra hai bên”, Nam Cao muốn nói rằng: Hoàng là một trong những người cản trở hay nói cách khác Hoàng là một vật cản khá lớn trong cuộc cách mạng sắp tới? Nếu như Hoàng là một người có hình thức, vẻ đẹp đẽ bên ngoài thì Độ trái lại, tấm lòng anh thật khoan dung và đẹp đẽ biết bao, tuy hình thức anh xốc xếch, anh sợ “một vài chú rận có thể rời sơ mi tôi để đi du lịch ra cái chăn bông thoang thoảng nước hoa”.
Còn về cuộc sống thì Hoàng thể hiện một cách sống phong lưu của một nhà văn tri thức ở Hà Nội, giữa lúc mọi người đói khổ thì Hoàng có được một “căn nhà rộng rãi, ba gian nhà sạch sẽ, sân gạch, tường hoa, màn tuyn và giường nệm trắng”, còn Độ thì khác hẳn cần phải có “giường nệm trắng” hay là “màn tuyn” cũng ngủ được một cách dễ dàng, anh nói rằng: “Tôi vẫn ngủ ngay trong nhà in, đèn sáng bà máy chạy ầm ầm” quả thật là người bạn “trái ngược nhau cả về hình thức lẫn tính nết”. Cuộc sống của Hoàng đầy đủ tiện nghi: đồ ngủ nhà nhã, míp mướp hoa bưởi và giải trí bằng những tiểu thuyết cổ điển: Thủy hử, Đông Chu Liệt Quốc, Tam Quốc khác hẳn với cuộc sống bình thường, giản dị “rụt rè” trong cả cách ăn nói. Tuy nhiên nếu khách quan lối sống của Hoàng cũng có phần nào đáng quý, ở anh vẫn có nét tốt: chăm sóc cho bạn bè tận tình, lịch sự trong xã giao.
Do lối sống khác nhau, hoàn cảnh sống khác nhau nên tính cách và cách nhìn nhận sự việc cũng khác nhau rõ rệt. Hoàng là một nhà văn nhưng mục đích không phải làm nghệ thuật, không phải viết văn để phục vụ cho quần chúng mà viết vì mục đích cá nhân: “Thế nào chúng mình cũng phải viết một cái gì ghi lại cái thời này. Nếu khéo làm còn có thể hay bằng mấy cái “Sổ đỏ” của Vũ Trọng Phụng, Phụng nó còn sống đến lúc này phải biết!”. Còn Độ thì chuyên viết về đề tài nông dân, anh muốn đem chút ít công sức của mình để phục vụ cho mọi người. Mặt khác, Hoàng là một nhà văn nhưng anh không gắn bó với cuộc sống, tách hẳn mình ra, anh sống tách rời kháng chiến là của toàn dân. Hoàng coi mình như mình đứng trên cuộc sống, có một nếp sống riêng, có một cách nhìn riêng trong khi đó có những người “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” hay là như lời một bài hát “Đoàn vệ quốc quân một lòng ra đi, nào có sá chi đâu ngày trở về, ra đi ra đi bảo tồn sông núi, ra đi ra đi thà chết chớ lui ” hoặc “người ra đi đầu không ngoảnh lại…”. Dưới “Đôi mắt” của Hoàng, người nông dân toàn là một lũ “đần độn, lỗ mãng, ích kỉ, tham lam, bần tiện”, anh nhìn họ với “đôi mắt” thiếu tình thương thiếu trân trọng, những gì mà anh nói không phải là không có cơ sở tuy nhiên nói như Nam Cao là: “Anh chỉ nhìn thấy cái ngố bề ngoài mà không nhìn thấy nguyên cớ thật đẹp đẽ bên trong” chính vì “vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì đi càng nhiều, càng quan sát lắm chỉ càng thêm chua chát và chán nản”, anh nhìn cuộc sống kháng chiến một cách bi quan nhưng còn chút xíu tin tưởng là do cách nhìn duy tâm; do có người lãnh đạo cừ, sùng bái cá nhân, chỉ thán phục có “ông Cụ” và “Tào Tháo”.
Nếu Hoàng xa rời quần chúng, đánh giá không đúng khả năng lãnh đạo của họ, khả năng làm cách mạng của họ thì Độ là một nhà văn sớm hòa nhập với cuộc kháng chiến. Độ “làm một anh tuyên truyền nhải nhép”, anh sống gần gũi, hòa nhập với nhân dân, anh đã sinh hoạt và gắn bó với quần chúng lao động. “Khoác cái ba lô trên vai, đi hết làng nọ đến làng kia để nhận xét nông thôn một cách kĩ càng hơn”, giọng thâm trầm như một lời tâm sự, dường như một nỗi đau trong anh chợt nhuốm lên khi anh thấy: “Phần đông họ dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng thương”, lời tâm sự như có phần cảm thông và hiểu được phần nào: “Người nông dân nước mình vẫn còn có thể làm cách mạng mà làm cách mạng thì hăng hái lắm, xung phong can đảm lắm” anh nhìn họ bằng một cách đầy nâng niu và trìu mến khác hẳn với Hoàng là khinh khi, miệt thị họ, anh cảm thông dễ dàng trước những tật xấu của họ và anh hiểu được tâm lý của người nông dân, đánh giá đúng sự đóng góp của người nông dân đối với cuộc kháng chiến.
Bằng cách dựng truyện hết sức tự nhiên, chân thành, thoải mái và xây dựng nhân vật theo lớp “phá bĩnh”, điển hình, đối lập nhau, qua đó Nam Cao muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của cách nhìn và phê phán cách nhìn không đúng của Hoàng. “Đôi mắt” được Tô Hoài cho là một tuyên ngôn nghệ thuật chung của lớp nhà văn cũ, phải chẳng qua đó “Đôi mắt” Nam Cao muốn nói với người đọc và lớp nhà cũ là: một khi anh muốn đi theo cách mạng, anh làm cách mạng thì phải bỏ cách nhìn và cách sống cũ thì anh mới có thể hòa nhập mình vào cuộc kháng chiến của dân tộc.