Bài văn mẫu số 1
Trong các tác giả văn học Việt Nam, Tô Hoài được nhớ tới như một bậc thầy lão luyện, kho tàng văn học ông để lại đã gắn bó với bao lớp thế hệ, từ dế mèn phưu lưu kí, đế vợ chồng A Phủ. Nói đến truyện ngắn vợ chồng A Phủ, ta không thể không nghĩ ngay đến nhân vật Mị. Cô gái đã thắp sáng lên ngọn lửa hi vọng cho mọi cô gái chịu áp bức ở Tây Bắc nước ta thời bấy giờ.
Mị là hiện thân cho tấm lòng nhân đạo, và ngòi bút hết sức bén nhạy của Tô Hoài. Ông vốn là một người ưa tìm hiểu những phong tục tập quán, nên có cái nhìn rất rõ về hoàn cảnh số phận, những khó khăn mà người phụ nữ miền núi phải gánh chịu lúc bấy giờ.
Tô Hoài nhắc đến Mị, đầu tiên với những vẻ đẹp phẩm chất của cô, mà vẻ đẹp ấy đẹp lắm, trong sáng thuần khiết và thanh cao lắm, quý như một viên ngọc giữa núi rừng và không gì có thể làm viên ngọc ấy bị mài mòn và ngừng tỏa sáng. Tuy nhiên, hoàn cảnh của Mị lại trớ trêu, vì đúng là “hồng nhan bạc mệnh”. Mẹ mất sớm, Mị ở với cha, và ở trong một gia đình mà có truyền kiếp nợ thống lí. Nhưng Mị lại là một cô gái đẹp và tài năng, mị không những biết thổi sáo mà còn là cô gái khiến các chàng trai trong bản “đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” không những thế Mị còn là một cô gái vô cùng hiếu thảo và ngoan ngoãn, Mị có thể chịu khổ cực vất vả để trả nợ thay cha, chứ nhất quyết không bán rẻ lòng tự trọng và chịu gò ép trong hoàn cảnh là con dâu nhà giàu. Mị hiện lên đầu truyện với những đức tính cao quý mà một cô gái như vậy, xứng đáng có được cuộc sống như mình hằng ao ước.
Nhưng, đời không cho Mị tự do, dù Mị có muốn trốn chạy như thế nào đi chăng nữa. Hôm ấy, Mị bị A Sử bắt về cúng trình ma làm con dâu gạt nợ cho thống lí Pá Tra, và kể từ đó, cuộc sống tâm hồn và thể xác Mị bị đọa đày khổ cực. Nhưng, với tấm lòng cảm thương sâu sắc, Tô Hoài đã để cho bản chất của Mị được hiện lên, những khát vọng, ước ao một thời lại trỗi dậy mạnh mẽ. Trong đêm tình mùa xuân, hồi ức của một thời được sống với chính mình, với những gì mình ao ước trỗi dậy trong Mị. Mị “cứ uống ừng ực từng bát” rượu, rồi lại thấy “phơi phới trở lại” Mị nhận ra mình vẫn còn trẻ, nhận ra mình với A Sử đến với nhau chẳng vì tình. Mị muốn vui chơi, Mị muốn được sống và Mị khát khao sống. Nhưng, ngay hôm đó, khi ngọn lửa tâm hồn Mị vừa trỗi dậy thì A Sử đã trói chặt Mị vào cột nhà, đầy đau đớn và thương tâm, Mị không khóc được, không cựa quậy được, và Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Ngày A Phủ bị giải đến nhà thống lí, và lần đầu tiên gặp A Phủ, Mị vẫn còn cái tâm trạng khá thờ ơ. Bởi trong lòng Mị vốn đã chết, nên cuộc sống với Mị cũng chỉ là sự lặp đi lặp lại của thời gian và của sự tồn tại mà thôi. Nhưng, hôm ấy lại khác, “Mị lé mắt trông sang” chợt thấy một giọt nước mắt đắng cay, tủi hờn từ A Phủ. Giọt nước mắt lóng lánh ấy đã nhắc lại cho Mị nhớ thời gian Mị bị thằng A Sử trói đứng đầy nhẫn tâm, tàn ác. “Chúng nó thật độc ác” Mị nhận ra một sự thật mà bấy lâu nay ẩn chứa từ sâu trái tim đã nguội lạnh của mình. “chết đau, chết đói, chết rét” Mị cảm thương cho A Phủ bằng chính sự cảm thương Mị có ngày trước, trái tim tiềm tàng của Mị được thức tỉnh nhanh chóng. Và dứt khoát, Mị cắt dây trói và nói “đi ngay”..
Và hành động trói dây buộc A Phủ cùng việc ngay sau đó Mị chạy theo A Phủ vào bóng tối, cũng là điều tất yếu của một con người đã bị dồn nén đến mức cùng cực. sức sống mạnh mẽ được trỗi dậy, và đã kết thúc quãng thời gian đày ải, tối tăm mà Mị đã phải chịu trong nhà thống lí Pá Tra, hành trình đi theo A Phủ cũng chính là một hành trình tìm đến sự sống mới của Mị, và những hi vọng dù là trong bóng tối, Mị cũng đã không còn gì để mất, để phải sợ nữa..
Mị là nhân vật số phận, và nhờ số phận hành động của Mị đã kể cho ta nghe về một ngòi bút đầy nhân đạo, và một trái tim đầy cảm thông của Tô Hoài. Nhà Văn đã góp một tiếng nói chung vào dòng chảy của văn học dân tộc, để ca ngợi những phẩm chất cao quý của người phụ nữ, và khẳng định niềm tin tưởng, hi vọng vào cuộc sống luôn hướng về cái đẹp, cái thiện.
Bài văn mẫu số 2
Có thể nói, khi con người lâm vào bước đường cùng, khi sự sống và cái chết gần kề gang tấc, người ta thường có những hành động bất ngờ, dữ dội, quyết liệt. Sức mạnh ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài và Kim Lân không chỉ dừng lại ở tình cảm xót thương các nhân vật mà hơn thế nữa, các nhà văn còn khắc họa sức sống tiềm tàng, sức trỗi dậy mạnh mẽ của con người trước sự vùi dập của hoàn cảnh. Trường hợp hành động Mị chạy theo A Phủ trong “Vợ chồng A phủ".
Nhà văn đã phát hiện ra rằng bên trong tâm hồn người con gái ấy vẫn còn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, chỉ chờ có dịp là bùng nổ mạnh mẽ. Ngay sau khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ cô định tự tử vì ý thức được cuộc sống tủi nhục của mình và không chấp nhận cuộc sống ấy. Nhưng sự uất ức đến nỗi muốn chết ấy lại là một biểu hiện của lòng ham sống và khát vọng tự do, vì không muốn tiếp tục một cuộc sống đầy đoạ nên cô đã tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát.
Tuy nhiên với tấm lòng nhân hậu đầy cảm thông, nhà văn vẫn nhận ra rằng khát vọng hạnh phúc trong Mị có thể bị vùi lấp, lãng quên đâu đó nhưng không thể bị tiêu tan. Vào một đêm tình mùa xuân trong ngày Tết, những yếu tố ngoại cảnh đánh thức kí ức và gợi lại kỉ niệm yêu đương bị lùi vấp bấy lâu trong tâm hồn lầm lũi thường ngày, trở thành tiếng gọi của sự sống mỗi lúc một rõ, một tha thiết. Thế là từ ngoại cảnh đã tác động đến cảm xúc, tâm trạng và cuối cùng là hành động.
Trong cái trạng thái nửa say, nửa tỉnh, lại thêm sự thôi thúc của tiếng sáo réo rắt đã dẫn Mị đến một hành động chưa từng thấy kể từ khi cô bước chân vào nhà thống lý Pá tra “cô quấn lại tóc và với tay lấy váy mới, chuẩn bị đi chơi”.Nhưng khi bị trói Mị bỗng ý thức được cảnh ngộ hiện tại của mình và trong lòng lại trào lên một nỗi đau xót, tủi nhục. Mị lại thổn thức, miên mang nghĩ về thân phận không bằng con trâu , con ngựa của mình rồi dần thiếp đi.
Khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ bị bắt trói, ban đầu Mị thật thản nhiên. Mị dường như đã trở nên vô cảm trước tất cả. Nhưng khi Mị lé mắt trông sang thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại…” thì Mị lại chợt bừng tỉnh “trông người lại nghĩ đến ta”. Hình ảnh ấy khiến Mị bỗng nhớ đến câu chuyện rùng rợn về những người đàn bà bị trói đứng cho đến chết trong nhà thống lí cũng trên cái cọc này và hồi ức đưa cô về với những lần chính mình bị đánh, bị trói trước đây… Ý nghĩ A Phủ rất có thể sẽ bị chết trong đêm nay đã hoàn toàn đánh thức tình thương và lòng căm hận trong lòng Mị. Từ thương người đến thương thân và tình thương ấy cứ lớn dần, lớn dần để rồi dẫn Mị đến với ý thức ngày càng rõ rệt hơn về một sự thật thật tàn bạo và vô lý, bất công .Ý thức đó đã thôi thúc Mị đứng dậy cắt dây trói cho A Phủ và bất giác chạy theo anh, cùng trốn khỏi Hồng Ngài.
Hành động bộc phát nhưng thật quyết liệt đó của Mị một phần là do sự thúc bách của tình thế khiến cô không thể làm khác, bởi cô hiểu rõ “ở đây thì chết mất”. Nhưng mặt khác, đó cũng là quá trình tất yếu của một quá trình dồn nén, bức xúc cả về thể chất lẫn tinh thần đối với Mị. Đồng thời đó cũng vừa là biểu hiện, vừa là kết quả của một sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ đã được trỗi dậy trong con người Mị, kết thúc cả quãng đời đày ải, tối tăm của cô trong nhà thống lí để bắt đầu một cuộc đời mới.
Bài văn mẫu số 3
“Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được trích từ tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tập truyện đã được tặng giải Nhất, giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 – 1955. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn hay viết về một sự đổi đời kì diệu. Xoay quanh hai nhân vật chính là Mị và A Phủ, Tô Hoài đã khắc họa hai chặng đường hoàn toàn đối lập. Chặng đường đầu tiên là những ngày ở Hồng Ngài, Mị và Phủ - hai con người xinh tươi, giỏi giang phải cam cảnh nô lệ ê chề. Chặng đường thứ hai là ở Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã vùng lên từ bóng đêm của cường quyền, thần quyền để đến với ánh sáng của tự do. Sự kiện đánh dấu bước chuyển biến giữa hai chặng đường chính là hành động Mị cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ.
Hành động Mị chạy theo A Phủ trước nhất chính là hành động Mị chạy khỏi những áp bức, đày đọa của đời mình. Cuộc đời của Mị những ngày tháng ở Hồng Ngài gồm hai giai đoạn chính: trước khi làm dâu và sau khi làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Trước khi bị bắt về cái gia đình đã giết chết tuổi xuân của mình, Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài năng, yêu lao động lại hiếu thảo với cha mẹ. Mị cũng có tình yêu như bao người, cũng được bao kẻ say mê, theo đuổi “con trai đến đứng nhẵn cả vách đầu giường nhà Mị”. Tô Hoài đã miêu tả tài năng thổi sáo của Mị như sau “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người say mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Đứng trước món nợ của bố, Mị nhận lấy trách nhiệm của người con, thà là vất vả lao động “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” còn hơn phải trở thành con dâu gạt nợ “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Thế nhưng số phận bi kịch đã không nhún nhường và buông tha cho Mị. Mị bị bắt và trở thành con dâu gạt nợ. Mị bị bắt đem cúng “trình ma” nhà thống lý. Từ đó, đoạn đời vui vẻ của Mị đặt một dấu chấm kết thúc để bắt đầu thân phận của con người lao động mịt mờ không lối thoát. Trước món nợ truyền kiếp và sự áp chế của thần quyền – Mị nghĩ rằng đã cúng “trình ma” thì mình chỉ còn biết làm thân trâu ngựa cho đến ngày chết rũ xương ở đấy mà thôi – Mị hoàn toàn tê liệt về thể xác lẫn tinh thần “Mỗi ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Vì thế, mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên hình ảnh bi thương cùng quẫn của kiếp người: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước suối dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Cuộc đời A Phủ cũng như vậy, từ một, cũng là nạn nhân của cường quyền, thần quyền và chính sách cho vay nặng lãi của bọn chủ nô phong kiến miền núi. Trước khi trở thành con ở nhà thống lý, A Phủ tuy có xuất thân bất hành “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc” nhưng vẫn là chàng trai yêu đời và có nhiều phẩm chất tốt đẹp. A Phủ là chàng trai tự do của núi rừng, yêu lao động, tự do, giỏi giang “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo”. A Phủ còn là niềm khát khao của bao cô gái trong làng “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà”. Vì tội đánh con quan – A Sử mà A Phủ từ đứa con của núi rừng trở thành kẻ nô lệ với bản án chung thân “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Hai con người tươi trẻ giờ trở thành hai kẻ cùng khổ, số phận họ bị quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lý Pá Tra.
Những ngày tháng làm nô lệ ở nơi địa ngục trần gian của một Mị tưởng chừng không lối thoát nhưng cuối cùng, chính sức sống tiềm tàng bên trong đã khiến Mị hành động. Qúa khứ thì tươi đẹp. Hiện tại thì nhục nhã ê chề. Còn tương lai sẽ ra sao? Đêm tình mùa xuân đã khe khẽ nhen nhóm nhận thức bên trong Mị để đến đêm mùa đông, Mị quyết định cắt dây cởi trói của A Phủ. Chỉ vì để con hổ ăn mất bò mà chàng phải chịu cảnh trói đứng, gần như phải dùng mạng sống của mình thay thế. A Phủ bị bắt trói đứng ngoài sân nhiều đêm nhiều. Một cuộc vượt ngục âm thầm diễn ra, hai con người nô lệ giờ dìu dắt nhau để thoát khỏi cảnh tù đày. Hành động cắt dây thể hiện sự can đảm tuyệt đối. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người tỉnh thức là cơ sở để Mị phát triển thành lòng thương mình, xót thương cho số phận đau thương mà bấy lâu nay nàng âm thầm chấp nhận. Mị sẽ chẳng còn phải chịu cảnh “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” hay bị A Sử “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà nữa”… Mị cũng sẽ chẳng còn phải vay mượn men rượu, vay mượn tiếng sáo để sống lại những ngày tự do trước nữa bởi phía trước nàng chính là cuộc đời mới, là con đường mới.
Bên cạnh đó, hành động Mị chạy theo A Phủ còn là hành động Mị hiện thực hóa khát vọng tự do, đến với ánh sáng cách mạng. Có thể nói đây là giá trị nhân đạo mới mẻ trong ngòi bút Tô Hoài nói riêng và ngòi bút các nhà văn sau cách mạng nói chung. Lí tưởng thời đại đã thay đổi, con người đã tìm ra lối thoát tinh thần của mình. Nếu như trước cách mạng, các nhân vật thường rơi vào bế tắc, vào bi kịch thì sau cách mạng, họ đến được với sự giải phóng, với ánh sáng tự do. Ta thấy cái kết của nhân vật Chí Phèo hay chị Dậu hoàn toàn đối lập với cái kết của Mị, của A Phủ. Cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị đã từng nghĩ đến viễn cảnh phải thay thế mạng sống mình nhưng cuối cùng, vượt qua bóng ma thần quyền và sự áp chế của cường quyền, vượt qua nỗi sợ đã gặm nhấm thể xác và tinh thần, Mị đã chạy theo A Phủ. Bước chân của Mị là bước chân đạp đổ hiện thực “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Cuối cùng, cô Mị sau bao năm vô cảm, lùi lũi, trơ trơ cũng đã đối diện với nỗi sợ của mình. Nàng đã hồi sinh trở lại từ sự chết dần chết mòn những ngày tháng qua. Nàng đã vùng lên đấu tranh, ngọn lửa sức sống âm thầm nhưng mạnh mẽ, kết tinh thành hành động táo bạo, dứt khoát. Chính dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen lại kia đã đen đến sự hồi sinh cho Mị - một sự hồi sinh kì diệu. Thế là từ đây, Mị kết thúc cuộc đời cuộc đời con dâu gạt nợ, A Phủ kết thúc kiếp nô lệ tôi đòi. Họ dìu dắt nhau từ bóng đêm lầm than, từ áp bức của cường quyền và thần quyền để đến vùng đất Phiềng Sa – vùng đất hứa hẹn niềm tin, tự do và hạnh phúc.
Hành động Mị chạy theo A Phủ đã khép lại những tháng ngày quẩn quanh, bế tắc của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. Tô Hoài bằng tài năng của mình đã xây dựng tác phẩm thành công trên nhiều phương diện: đề tài, kết cấu, nhân vật… Do đó, “Vợ chồng A Phủ” trở thành một tác phẩm tiêu biểu viết về sự trỗi dậy của thân phận con người, cụ thể ở đây là người dân vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân nửa phong kiến