Bài văn mẫu số 1
Nhà văn M.B Khrapchenko đã từng nói: "Mỗi sáng tạo nghệ thuật chân chính tuyệt nhiên không phải là sự minh họa giản đơn cho tư tưởng này hoặc tư tưởng khác cho dù đó là tư tưởng rất hay". Thật vậy, một tác phẩm nghệ thuật muốn đi sâu vào tâm hồn của người đọc thì nó phải là sự sáng tạo của cá nhân nhà văn, tác phẩm đó phải phản ánh được cái nhìn riêng của tác giả chứ không phải là sự sao chép sáo rỗng tư tưởng, cái nhìn của người khác. "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu là một tác phẩm sáng tạo như vậy. Cách khám phá đời sống mới mẻ của nhà văn đã làm nên một "sáng tạo nghệ thuật chân chính" tạo nên chiều sâu tư tưởng cao đẹp cho tác phẩm.
Bên cạnh cốt truyện hấp dẫn, nghệ thuật kể chuyện sinh động, phân tích tâm lí nhân vật tài tình... sự phát hiện, cái nhìn nhận mới mẻ về nội dung cũng là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên thành công của một tác phẩm truyện ngắn. Là một nhà văn "khắt khe" trong sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu luôn đòi hỏi tác phẩm của mình phải là "một bức tranh góc cạnh có chiều sâu, sức khái quát cao về cuộc sống đa diện, nhiều chiều luôn vận động và phát triển", phải là "cái khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người". Tư tưởng đó đã được nhà văn thể hiện thật thành công qua truyện ngắn "bức tranh". Tác phẩm là một "tiếng còi báo hiệu" một bước chuyển mới trong sáng tạo văn học, dự báo một quan niệm "nhận đường mới", một bút pháp hoàn toàn mới của Nguyễn Minh Châu nó đã nói lên những phát hiện về cuộc sống với biết bao nghịch lý, lạ lùng thậm chí có cả sự tàn nhẫn, biết bao ngẫu nhiên bất ngờ, những phức tạp, bí ẩn của con người trong cuộc sống thường nhật...Và đến với "Chiếc thuyền ngoài xa" một lần nữa nhà văn đã thể hiện thật xuất sắc nội dung tư tưởng lớn lao ấy. Tác giả đã xây dựng nên một tình huống mang tính nhận thức với nhiều phát hiện độc đáo để khám phá ra được bản chất thực sự của đời sống.
Với tư cách người nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng đã kể lại câu chuyện về chuyến đi công tác của mình khi được người trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp ảnh bổ sung vào bộ lịch năm mới. Một cảnh biển buổi sáng có sương, anh đã đến một vùng biển miền Trung, nơi phong cảnh thật là thơ mộng, còn sương mù vào tháng bảy. Tại đây, sau nhiều ngày "phục kích" thiên nhiên, Phùng ngẫu nhiên gặp được một cảnh đắt trời cho:"trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh của một con dơi" .Trước vẻ đẹp ấy người nghệ sĩ "trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp chặt vào". Trong khoảnh khắc đó, anh ta "tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn". Nhưng ngay sau "khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đem lại" nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã chứng kiến một cảnh hoàn toàn đối lập với vẻ đẹp của chiếc thuyền khi nó còn ở ngoài xa với một " khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích". Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của "chiếc thuyền ngoài xa". Bước ra từ chính chiếc thuyền ấy là hai người, một đàn ông với tấm lưng rộng, cong như lưng chiếc thuyền và một đàn bà xấu xí trạc ngoài bốn mươi tuổi. Hình ảnh con người hiện ra với vai trò là nhân vật trung tâm của bức tranh cuộc sống xã hội, để rồi từ đó Phùng có thể bám sâu vào hiện thực ấy phản ánh chân thật về con người, về những điều chưa thấy hay chỉ có thể nghe. Sau khi đi đến chiếc xe rà phá mìn trên bãi cát, người đàn ông "trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!". Còn người đàn bà thì nhẫn nhục, cam chịu, không hề kêu một tiếng, cũng không tìm cách trốn chạy. Tiếp sau đó là cảnh đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh bố để bị lão đàn ông "dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã xuống cát". Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Người đàn bà sau khi có những cử chỉ như van xin đứa con cũng đuổi theo gã đàn ông, trở lại thuyền. Một tình huống thật kỳ lạ!
Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này "người yêu người, sống để yêu nhau" (Tố Hữu). Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như "gã đàn ông độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian", còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: "Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh". Nhưng phản ứng của người đàn bà trước chánh án Đẩu đã khiến anh choáng váng: "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...". Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt bởi "các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc". Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đằng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản: người đàn ông kia dù thô bạo nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếc thuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào...Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền chật hẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến. Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho "một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển". Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung...mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người. Nếu như trước kia, trong văn học 1945 - 1975, khi đề cập đến số phận con người thì bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con người, các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy không tránh khỏi có phần giản đơn và phiến diện. Nguyễn minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó. Trong "Chiếc thuyền ngoài xa", nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu. Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: "Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người" (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ), "Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực" (Ngồi buồn viết mà chơi). Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía: "cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời."(Lê Ngọc Chương). Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: "Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông". Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.
Qua những cái nhìn khác nhau của các nhân vật, đều là sự khúc xạ cái nhìn của tác giả. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu lại chọn người kể chuyện là một nghệ sĩ đã từng là người lính. Từ điểm nhìn của một người lính đã từng chiến đấu bảo vệ mảnh đất này, lời kể gợi ra một cuộc chiến đấu mới không kém phần gay go, gian khổ so với cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Đó là cuộc chiến đấu bảo vệ nhân tính, vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc sống hòa bình, cuộc chiến đấu để tìm đến hạnh phúc, tìm đến những giá trị đích thực của cuộc sống. Không chỉ vậy nhà văn còn cho người đọc nhận ra "những điều trông thấy mà đau đớn lòng" của cuộc sống để từ đó khái quát lên một quan niệm giàu tính nhân văn cao cả đó là sự đa chiều, phong phú của cuộc sống, con người không nên chỉ nhìn nhận vấn đề một cách phiến diện, qua loa mà cần phải đi sâu vào bên trong sự việc, tâm hồn để có thể thấu hiểu toàn diện nhất sự việc, vấn đề đó. Đó chính là cái nhìn mới mẻ về cuộc sống con người của nhà văn!
Có thể nói, với truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa", Nguyễn Minh Châu đã cho người đọc cảm nhận được sự đa chiều của cuộc sống. Giống như là bản nhạc không chỉ có những thanh âm trong trẻo, nhẹ nhàng mà còn chứa đựng những giai điệu bay bổng, cao vút, cuộc sống luôn tồn tại song song những niềm vui, hạnh phúc còn có cả những đớn đau, bất hạnh... vì thế mà con người phải luôn nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, sâu sắc nhất để tránh được cái nhìn ấu trĩ, giản đơn. Giá trị đích thực của một tác phẩm là phải phản ánh được cuộc sống thật của con người như chính Nguyễn Minh Châu đã quan niệm: "Trên con đường đến chủ nghĩa hiện thực đôi khi chúng ta phải khai chiến cả với những quan niệm tốt đẹp và lâu dài của chính mình". Sự phát hiện mới mẻ của nhà văn chính là một trào lưu văn học mới cho các thế hệ nhà văn noi theo, điều đó đã giúp cho Nguyễn Minh Châu trở thành cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới như nhà văn Nguyên Ngọc từng ca ngợi: "Nguyễn Minh Châu thuộc một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài hoa nhất của văn học ta hiện nay".
Bài văn mẫu số 2
Nguyễn Minh Châu đã mang đến những sáng tạo mới cho nền văn học trước và sau 1975, khẳng định một tay nghề vững chắc và có sức đi xa: Dấu chân người lính (1972), Miền cháy (1977), Những người từ trong rừng ra (1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983)...
Từ đầu thập kỉ 80 trở đi, Nguyễn Minh Châu là một trong những người tiên phong của sự nghiệp đổi mới nền vàn xuôi Việt Nam. Tiêu biểu cho sự đổi mới này, có thể kể đến tác phẩm như: Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu, Hành khách ở xa quê, Bến quê, Phiên chợ Giát...
Quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật ở Nguyễn Minh Châu trước hết thể hiện trong cách nhìn hiện thực. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (1987) được xem là một tác phẩm tiêu biểu cho cách nhìn đó.
Đọc tác phẩm Nguyễn Minh Châu, có thế hình dung khá rõ quá trình vận động tư tưởng tinh cảm cũng như những tìm tòi, đổi mới cách tiếp cận đời sống và bút pháp sáng tạo, với những đóng góp đáng trân trọng. Trong những năm tháng chiến tranh, điều người ta cần nhất ở con người (những chuẩn mực thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách) là sự cống hiến, hi sinh cho Tổ quốc Con người được đặt trong những mối quan hệ chủ yếu (để bộc lộ những phẩm chất đạo đức cách mạng) với kẻ thù, với đồng chí, với nhân dân.
Các tác giả thời chiến tranh đã khá triệt để trong việc thi vị hóa nhân vật để khẳng định niềm tin vào tính chất “bất khả chiến bại” của cái đẹp tinh thần, của cái thiện. Sau chiến tranh, sau không khí tráng ca, mọi người có điều kiện bình tâm để nhìn lại, rõ hơn, kĩ hơn về những góc khuất cùa đời thường những phức tạp mới nảy sinh trong đời sống con người, thậm chí trong mỗi bản thân con người. Trong đó có cả chiều sâu, sự chín chắn của cái nhìn quá khứ hãy còn ấm nóng. Nguyễn Minh Châu đã làm công việc của người đi khai phá, mở đường với những ngã rẽ mà sau này, nền văn học sẽ đi qua. Tác giả viết về chiến tranh để đối diện với hai vấn đề: hồi ức đẹp đẽ và sự tự vấn lương tâm. Bức tranh là một ví dụ. Bất hạnh vẫn còn đeo bám tới hòa bình, một thứ khổ đau không có màu khói súng. Từ tác phẩm này, nhà văn gửi gắm một thông điệp khẩn thiết cùng với niềm tin ở khả năng thức tỉnh để sự hoàn thiện của những lớp son hào nhoáng của danh vọng, là những sự thật tàn nhẫn, những sự dối trá ngọt ngào, một điều thất tín đã khoét sâu thêm những mất mát tưởng như không còn nữa.
Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyền Minh Châu đã để cho người nghệ sĩ (trước là người lính) trở về vùng đất từng là chiến trường cũ. Tại đây anh đã gặp nhiều điều “trớ trêu và bất ngờ”. Nhà văn tạo điểm nhìn hiện thực bằng cách xây dựng tình huống cho tác phẩm. Đây là “tình huống nhận thực”, nét độc đáo trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu. Cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống. Tình huống đó là sự kiện, người nghệ sĩ trong giây phút tâm hồn thăng hoa, bất ngờ chứng kiến cảnh đôi vợ chồng từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão đàn ông đánh vợ một cách tàn bạo. Tình huống này còn được lặp lại một Lần nữa. Nó có ý nghĩa bộc lộ rõ mối quan hệ, khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất tính cách, con người tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm trong cuộc đời con người, tạo ra những điều vỡ lẽ, giúp nhà văn nhìn sâu nơn vào hiện thực, vào con người, trong tình huống ấy, lão đàn ông tự lộ diện là một kẻ vũ phu, độc ác, người đàn bà thì cam chịu, nhẫn nhục. Tình huống ấy, buộc Phùng phải có một cách nhìn đời khác hẳn: không chỉ bằng con mắt một nghệ sĩ chỉ biết rung động say mê trước vẻ đẹp của ngoại cảnh thuần túy”, của cảnh biển thuyền lúc sớm mai. Đó là cái nhìn mang tính sự thật. Đằng sau bức ảnh chụp con thuyền rất đẹp, cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích mà người phóng viên đã thu được ẩn chứa một cuộc sống đầy vật lộn giống như trang văn của Nam Cao ngày trước, màn sương khói lãng mạn, thơ mộng của cảnh biển thuyền sớm mai - thứ “ánh trăng xanh huyền ảo” ban mai ấy đã che đậy những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xâu xa (Trùng sáng - Nam Cao). Dưới màn sương lãng mạn, từ tâm hồn nhạy cảm với cái đẹp, con mắt tinh tế nhà nghề của một người nhiếp ảnh, con thuyền ngư phủ đẹp như một bút mực tàu của một danh họa thời cổ chỉ là thứ nghệ thuật xa xôi, là cái đẹp mong manh, siêu thực. Phải chăng cái “chân lí của sự toàn thiện”, cái làm nên “khoảnh khắc trong ngần” của tâm hồn vẫn chỉ là điều mà ta đang tìm kiếm, theo đuổi. Sự thực không hiện lên ở đó mà khoảng khắc ngay sau đó. Thêm một chút, nán lại, thật bất ngờ, chỉ trong giây phút, người đó. Thêm một chút nán lại, thật bất ngờ, chỉ trong giây phút người nghệ sĩ vừa thấy được cái xa mờ của nghệ thuật lại chạm trán ngay với một hiện thực trần trụi. Sự cay đắng phũ phàng đã thay thế cho niềm hạnh phúc tràn ngập tâm hồn. Từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ trong sương sớm ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, tàn nhẫn coi việc đánh vợ như một phương cách để giải tỏa uất ức. Sự ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là một thứ thuốc rửa quái đản, là những thước phim huyền diệu mà người nhiếp ảnh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp.
Câu hỏi mà người đọc cũng như nhân vật “tôi” đặt ra là: Nguyên nhân nào khiến lão đàn ông đánh vợ? Vì sao người đàn bà không chống đỡ hay chạy trốn?
Hiện thực được miêu tả như một câu chuyện cổ tích mà kết thúc không có hậu (không có sự giái thoát cho một bi kịch gia đình, một số phận bất hạnh).
Với một khách du lịch, bãi biển đẹp như là nơi lí tưởng cần đến. Nhưng những người dân chài luôn bên biển, họ quan tâm gì tới cái đẹp của biển. Cũng như khách tham quan trầm trồi trước những bông tuyết hiếm hoi trên vùng núi Đà Lạt. Ẩn đằng sau những bông tuyết trắng ngần đẹp đẽ ấy là nỗi lo mất mùa của người nông dân, là sự rét mướt, lạnh cóng khó chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Cuộc sống người dân chài vùng biển là một cuộc mưu sinh đầy vặt lộn, lam lũ. Có những khi trời biển động suốt hàng tháng, cả gia đình vợ chồng con cái phải toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối. Gia đình họ đông con, lại không có nơi ở ổn định vì không thể bỏ nghề. Đàn ông thuyền khác thường uống rượu, còn lão chồng của người đàn bà này lúc nào thấy khổ quá lại xách vợ ra đánh như một sự trả thù cho số kiếp. Thực tế đó quả là bài toán khó, mầm độc ấy không phải thứ kẻ thù như trong chiến tranh mà một người lính đã từng cầm súng chiến đấu như nhân vật Đẩu có thể giải quyết hay thỏa hiệp, chấp nhận một cách dề dàng. Cuộc sống người dân chài vùng biển đầy giồng bão. Con thuyền ngư phú phải chống chọi với nhiều sóng gió của biển khơi trong những ngày giông bão. Nhưng còn một thứ giông bão do chính con người tạo ra, nghiệt ngã và cay đắng. Sức tàn phá, hậu quả mà nó để lại thật thê thám khủng khiếp, đau xót không kém gì giông bão tự nhiên. Đó là thứ giông bão nổi lên từ lòng thuyền, từ trong con thuyền. Đó là cuội sống đói nghèo, lam lũ mà chính con người gây ra cho con người. Nạn bạo hành trong gia đình ấy sẽ làm tổn thương những đứa trẻ, những tâm hồn lẽ ra phải được nuôi dưỡng bởi một cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Từ cái nhìn hiện thực mang tính chất khám phá, phát hiện, có chiều sâu, Nguyễn Minh Châu muốn phê phán cái nhìn lãng mạn, một chiều với cuộc sống. Nhà văn đặt ra vấn đề trách nhiệm của người nghệ sĩ, của nghệ thuật phải đào sâu, phải khám phá, nhẫn nại với thực tế, dù thực tế ấy phũ phàng (cảnh tượng đau xót người đàn ông đánh vợ, cùng một sự đời phi lí: người vợ khốn khổ xin tòa đừng bắt chị ta bỏ chồng).
Cùng từ cái nhìn hiện thực mang tính khám phá ấy, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đưa ra cách nhìn có chiều sâu của nhà văn về con người, làm câu chuyện gây ấn tượng vang gợi lên những cảm nghĩ khác nhau về các nhân vật.
Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là người phụ nữ, một người không có tên tuổi cụ thể, một người đàn bà bình thường như bao phụ nữ dân chài khác nhưng số phận của chị được tác giả tập trung tái hiện và được người đọc quan tâm nhất.
Con người xấu xí (ngoại hình thô kệch), mặt rỗ, lúc nào cũng xuất hiện với một “khuôn mặt mệt mỏi” ấy, nhìn chị, ta thấy cả cuộc đời lam lũ, nhọc nhằn. Nhưng trong con người xấu xí, lầm lũi, cam chịu ấy còn có một con người khác mà Phùng không hay biết. Chị có cái nhìn mà chỉ người trong cuộc mới thấy. Người phụ nữ có lẽ không bao giờ nhận thấy được vẻ đẹp của bãi biển, của con thuyền nhưng đã nhìn ra được nguyên nhân làm lão chồng mình trở nên đổi tính, trái nết (vì cuộc sống khổ quá) để mà tha thứ. Chị có thể giải thoát mình khỏi bi kịch gia đình bằng cách li hôn với chồng, nhưng lại coi bất hạnh của mình là lẽ đương nhiên bởi trong cuộc mưu sinh không dễ dàng gì trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề, chỉ vì có những đứa con cần được sống và lớn lên. Trong những chuỗi ngày cực nhọc, lam lũ, chị cũng biết chắt gạn niềm vui: “Ở trên thuyền, cũng có lúc vợ chồng, con ai chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi, chúng nó được ăn no”. Vậy là cái vỡ ra trong đầu Đẩu (vị chánh án miền biển) và cũng là của Phùng là: người đàn bà không phải là không mơ đến một hạnh phúc, không nghĩ đến nỗi khổ cực, tủi nhục của mình. Đằng sau cái sự lạc hậu mà người đàn bà tự biết là cả một sự thấu hiểu lẽ đời, cả một sự hi sinh đáng quý. “Nhưng tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự hâm trầm trong việc hiểu thấu cái lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rét ra bề ngoài”. Không phải chị không biết chuyện gia đình mình làm cho người ngoài cũng bất bình, nhưng liệu sự bất bình của mọi người có đem đến sự thay đổi nào cho cuộc sống của chị? Cái lão đàn ông tàn bạo đó, chị vẫn cần sao, vì cuộc sống của những đứa con, vì chiếc thuyền trên biển không thế để bàn tay một người đàn bà chèo lái. Cái nhìn của chị gắn bó với thực tế: sự lo lắng cho số phận những đứa con, cho cuộc sống lênh đênh trên thuyền.
Như vậy, sau chiến tranh, trở về với đời sống cá nhân, với thực tế đời thường của cuộc sống con người, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những bão tố trong cuộc sống gia đình. Nhưng sự giải quyết mâu thuẫn của cuộc sống thực tại (qua gia đình người dân chài) không hề dễ dàng. Không chỉ đơn giản là khuyên người đàn bà li hôn, không phải cứ gọi lão chồng lên tòa để giáo dục là xong Cái xấu, cái ác trong con người không phải cứ không thích là có thể loại bó đi được. Như lão Khùng trong Phiên chợ Giát đã nghĩ: cứ bán con bò đi là bỏ được cái phần u tối của mình. Nhưng làm sao có thể được. Có vấn đề thuộc về cá nhân (lão chồng) nhưng cũng có vấn đề thuộc về cái chung, chuyện miếng cơm manh áo, việc làm cho người lao dộng. Thực tế không thuận chiều như người ta vẫn nghĩ, bởi con người tồn tại trong những mối quan hệ đa chiều, hết sức phức tạp. Nguyễn Minh Châu đã thu nhỏ ống kính của mình trong phạm vi cuộc sống gia đình - một nội diện hẹp hơn nhưng lại mở ra những điều không kém phần lớn lao, sâu sắc và cả nhức nhối nữa. Trong bức tranh nhỏ ấy chứa đựng cả một vấn đề xã hội, vấn đề nhân sinh.
Điều thống nhất trong hành trình sáng tạo của Nguyền Minh Châu luôn vẫn là “nỗi lo âu sao mà lớn lao và đầy khắc khoải về con người” về cuộc sống. Đây cũng là lí do mà Nguyễn Minh Châu một đời cầm bút với hi vọng. “Văn học sinh ra đời để gìn giữ trong từng con người - một cái gì hết sức mong manh và luôn luôn run rẩy... một cái gì đó thật là như vậy, nhưng thiếu nó trong con người thì y rằng con người ấy không thể sống giữa quần thể loài người được, và trở thành một tại họa cho loài người (Nhật kí - Nguyễn Minh Châu).
Cái mầm ác trong con người không phải bây giờ mới mọc ra, có ai đó đã nói rằng chất độc nằm ngay trong sự sống. Lão chồng là một nhân vật vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính người thân mình. Phải làm sao để nâng cao cái phần thiện, phần người trong những kẻ thô bạo ấy.
Nhà văn trong hàng loạt tác phẩm viết sau năm 1980 đã đối chứng với rất nhiều quan niệm bảo thủ, lệch lạc về cuộc đời con người; về văn chương, nghệ thuật đã từng có thời thống trị trong ý thức xã hội, trong văn chương. Sự thật nghiệt ngã được mô tả trong Chiếc thuyền ngoài xa đã xua tan làn khói lãng mạn phủ lên hình ánh từ lâu trở nên quen thuộc về cuộc sống ngư phủ dưới cánh buồm mời ảo, ban mai lên trên không gian rộng lớn của biển cả. “Cùng với Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu còn hàng loạt tác phẩm chứa đựng ý nghĩa rộng lớn sâu xa, nó khiến ta giật mình nếu quen nghĩ rằng cuộc đời đã hết đau thương, nó khơi gợi người cầm bút nên nhìn kĩ vào những gì sau vẻ đẹp bề ngoài để nhớ tới trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống, trước con người.
Tư duy nghệ thuật dù đổi mới đến đâu thì cũng không thể vượt qua những quy luật của chân, thiện, mĩ, quy luật nhân bản. Nhà văn chân chính có sứ mệnh khởi nguồn cho dòng sông văn học đổ ra đại dương nhân bản mệnh mông” (Lã Nguyên).
Trước sau, Nguyễn Minh Châu vẫn là người đi săn tìm cái đẹp, tìm cái hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người. Đó phải chăng là ý nghĩa của những biểu tượng như “mảnh trăng cuối rừng”, “chiếc thuyền ngoài xa”? Có sự đổi thay trong cách nhìn của nhà văn bởi thực tế và tâm thế sáng tạo của nhà văn đã khác trước, bởi cuộc sống hòa bình khác với cuộc sống chiến tranh.
Về nghệ thuật, điều làm nên thành công của tác phẩm như đã nói trên đó là sự sáng tạo tình huống để các nhân vật tự thể hiện, tình huống làm cho con người phải thay đổi cách nhìn, cách quan niệm của mình. Nó được Nguyễn Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn nữa để phát hiện tính cách con người, sự thật cuộc đời (Đặng Hiển).
Tác phẩm vẫn là sự tiếp tục khám phá cuộc sống như trong Bức tranh, với cách nhìn đa diện và phức tạp. Ông đã nhìn cuộc sống đời thường với một mối quan tâm đậc biệt để chỉ ra những vấn đề bên trong của nó và làm cho người đọc cũng phái nhìn sự vật, cuộc sống, con người theo kiểu của mình, từ đó cùng suy nghĩ tìm ra cách giải quyết một cách thỏa đáng tóm lại là tìm đọc ra đáp số cho bài toán nghịch lí của cuộc đời.
Đọc văn Nguyễn Minh Châu, người đọc bao giờ cùng nhìn thấy “đôi mắt mở to, khắc khoải, bồn chồn, đầy nghiêm khắc” của nhà văn nhìn vào nội tâm và cả cuộc đời nhân vật. Viết văn, với Nguyễn Minh Châu, luôn là sự thực hiện khát vọng tác động đối với đời sống và con người, là đặt ra những vấn đề về mối quan hệ giữa văn học và đời sống.
Bài văn mẫu số 3
Có những hình ảnh thoạt mới nhìn thì đẹp, thậm chí lại rất đẹp, nhưng nếu nhìn kĩ bên trong, đi sâu vào bản chất của nó thì hoàn toàn ngược lại. Cuộc sống nhiều khi thường “đánh lừa” ta như thế. Phải có con mắt tinh tường nhìn thấu gan ruột cuộc sống để khám phá, phát hiện thì mới mong tìm ra đúng bản chất của nó. Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là một truyện ngắn như vậy.
Chiếc thuyền ở ngoài xa mới trông thật đẹp, và càng đẹp hơn trong mắt người nghệ sĩ nhiếp ảnh. Qua nhiều Lần “phục kích”, hôm nay anh mới “chộp” được một cảnh thật ưng ý khi phát hiện ra một vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương buổi sáng: trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp...”. Trước vẻ đẹp đó, anh tưởng như chính mình “vừa khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Dường như anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mĩ trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương ấy...
Nhưng anh đã lầm bởi chính “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại” đã đánh lừa anh. Đó chỉ là cái đẹp của chiếc thuyền ở ngoài xa giữa trời biển mờ sương huyền ảo. Nhưng khi chiếc thuyền ấy đến gần giữa cuộc đời rần trụi gai góc thì cái đẹp ấy lập tức biến mất, và cái xấu, cái ác hiện ra ngay, khốc liệt, phũ phàng! Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phù đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ như là một phương cách để giải tỏa những uất ức, khổ đau: “..lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lại nguyền rủa bằng cái giọng rên ri đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!”. Ngay lập tức, đứa con trai bé nhỏ lao tới cứu mẹ và trận ẩu đả dữ dội diễn ra giữa hai bố con trên bãi cát... Lão đàn ông lẳng lặng bỏ về thuyền, người mẹ vừa khóc vừa lạy đứa con rồi ôm chầm lấy nó, để sau đó, thật bất ngờ, lại buông đứa trẻ ra và đi thật nhanh, đuổi theo lão đàn ông trở về thuyền. Và chiếc thuyền bỗng biến mất như trong một truyện cổ đầy quái đản đem theo cái hình ảnh đẹp đẽ của nó bồng bềnh trong sương mù buổi sáng, chỉ còn để lại cái dư vị xót xa cay đắng của tấn bi kịch gia đình nhà thuyền chài khi chồng đánh vợ không thương tiếc, cha con đánh nhau như kẻ thù. Mà đâu phải chỉ một lần “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, lão lôi vợ lên bờ để đánh (theo lời van xin của mụ để khuất mắt lũ con cái dưới thuyền) cho bõ tức, cho bõ ghét, cho thỏa cái máu vũ phu trong người lão, cho sự bạo hành của cái ác được thỏa thê. Vậy mà khi vị chánh án huyện quả quyết: “Chị không sống nối với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị nghĩ thế nào?”, thì thật lạ, người đàn bà bất hạnh đã chắp tay vái lia lịa: “Con lạy quý tòa...” rồi trả lời rành rọt: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...” Thật không thể nào hiểu nổi vì sao mụ lại trả lời như thê? Chính câu nói này đã khiến người nghệ sĩ nhiếp ảnh (bị lão đàn ông đánh cho bị thương khi anh xông vào can thiệp vụ hắn đánh vợ ba hôm sau) phải vén lá màn bước ra bởi anh cảm thấy “gian phòng ngủ lồng lộng gió biển tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá”. Anh phải bước ra để trực tiếp đối diện với người đàn bà kì lạ này, mong hiểu được cái điều uẩn khúc còn chứa chất sâu kín trong đáy lòng mụ... Và tại cái tòa án huyện nhỏ bé này, qua những điều tâm sự, giãi bày của người đàn bà, anh đã hiểu ra những điều thật lớn lao, sâu sắc của cuộc sống, con người - những điều mà nếu chỉ sống hời hợt., nhìn thoáng qua thì không thế nào hiểu nổi. Vì sao người đàn bà khốn khổ ấy vẫn nhất quyết gắn bó với lão chồng vũ phu? Nguồn gốc của mọi sự chịu đựng, hi sinh đó là tình thương vô bờ đối với những đứa con: “...đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!” Thế là rõ. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản (như chính ông chánh án đã hiểu) thì chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thâu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được. Vả lại, trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no ”, “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Những niềm hạnh phúc hiếm có ấy thật đáng quý biết bao trong cuộc đời tủi cực, bất hạnh của bà, và tác giả cũng thật tinh tế khi miêu tả “lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí cùa mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Cuộc sống đa diện, nhiều chiều, con người có những nỗi niềm sâu kín bên trong, làm sao có thể hiểu một cách đơn giản, dễ dãi được? Và đâu phải chỉ những con người học thức, xuất chúng, mà ngay cả người lao động bình thường như người đàn bà hàng chài này cũng như vậy.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã vượt qua được cái nhìn đơn giản, dễ dãi để đem đến cho ta một truyện ngắn có chiều sâu nhận thức và có giá trị phát hiện bằng những nghịch lí của đời thường. Chiếc thuyền chỉ đẹp khi nó ở ngoài xa trong sương mù bồng bềnh huyền ảo, nhưng khi nó đến gần thì bên trong nó lại bộc lộ những cái thật xấu xa của cuộc sống con người; và trong cuộc sống bất hạnh của người đàn bà khốn khổ kia vẫn ánh lên những nét đẹp của người phụ nữ lao động - cho dù đó là những nét đẹp của sự âm thầm nhẫn nhục cam chịu không đáng có và không nên có của người phụ nữ trong thời đại ngày nay. Đó chính là cuộc sống thật đang diễn ra đây đó trên đất nước ta - một cuộc sống trần trụi, gai góc, nhức nhối - nhưng rất dễ bị che lấp bởi một vẻ đẹp thoáng qua bên ngoài. Và khi nhà văn đã vạch ra cái sự thật của cuộc sống đó thì cũng tức là họ đã đặt ra những câu hỏi bức xúc để góp phần thay đổi cuộc sống, hoàn thiện nhân cách con người.