Bài văn mẫu số 1
Đoạn Đất Nước trích gần chọn chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, thể hiện khá tập trung những cảm nhận sâu sắc và có phần mới mẻ về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Nếu không đọc kĩ trọn vẹn trường ca Mặt đường khát vọng dễ nhầm tưởng rằng dường như chương V này không đề cập trực tiếp đến các vấn đề của thanh niên trí thức miền Nam, không nói đến hiện thực sôi động trong cuộc chiến đấu trong các thành thị miền Nam thời Mĩ - Ngụy, do đó nó không thật gắn bó chặt chẽ với toàn bộ tác phẩm. Song, thực ra chương này lại là hạt nhân quan trọng nhất của tác phẩm: Sự ý thức về đất nước, về nhân dân đã dẫn đến sự ý thức về trách nhiệm của thế hệ trẻ, trong cuộc chiến tranh oanh liệt vì đất nước, vì nhân dân.
Trong văn học Việt Nam, đất nước vốn là một đề tài lớn. Điều đó có thể giải thích bằng đặc điểm quá trình lịch sử đấu tranh sinh tồn của dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm phải liên tục chiến đấu gìn giữ đất nước, hơn ai hết, người Việt Nam luôn luôn gắn bó sâu nặng với đất nước, với đồng bào. Trong văn học viết thời phong kiến đã có những kiệt tác viết về đất nước như bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt, Bài cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi. Từ sau Cách mạng Tháng Tám đề tài này thường xuyên xuất hiện trong văn học: Nguyễn Đình Thi viết bài Đất nước nổi tiếng chủ yếu thời kì chống Pháp. Cùng thế hệ với Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh... đều có những tác phẩm thể hiện đề tài đất nước, ở đề tài này, các tác giả ghi nhận những thành công nhất định. Nhưng đoạn trích Đất Nước nói riêng, và trường ca Mặt đường khát vọng nói chung vẫn chiếm được cảm tình của người đọc bởi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho đề tài này một số nội dung có phần mới mẻ và một cách phô diễn khá độc đáo, hấp dẫn, không giống bất kỳ cây bút nào đi trước.
Cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu thật bình dị. Dưới góc nhìn và cảm nhận của nhà thơ trẻ, đất nước là những gì vô cùng gần gũi, bình dị, gắn bó thật sâu nặng với mỗi con người, mỗi gia đình, hiện diện từng giây, từng phút trong cuộc sống thường nhật vừa lả trừu tượng, song lại hết sức cụ thể đối với từng thành viên. Theo tác giả, đất nước chẳng có gì xa lạ. Đất nước có trong những câu chuyện mà mỗi bà mẹ kể cho con nghe hay bắt đầu bằng câu "Ngày xửa ngày xưa...". Đất Nước còn là những tập quán lưu giữ từ ngàn đời nay, biểu hiện ở miếng trầu bây giờ vẫn ăn, hay thói quen "bới tóc sau đầu" của mẹ. Đất nước còn là mối quan hệ thủy. chung son sắt giữa người với người cùng sống trên dải đất Việt Nam. Điều ấy, trước hết được chứng minh bằng quan hệ bền vững trước sau của mẹ với cha - của vợ với chồng. Trong căn nhà đơn sơ, bao thế hệ người Việt Nam đã sinh con đẻ cái, cần mẫn, lam lũ sớm trưa không bao giờ thiếu mái rạ, cây tre. Trong căn nhà rất đỗi quen thân ẩy, không thể thiếu cái kèo, cái cột... Đây cũng chính là đất nước!
Cái mới lạ, sức hấp dẫn ở đoạn thơ này chính là cách nói hết sức bình dị của nhà thơ. Điều này đã khơi dậy trong tiềm thức sâu xa của người đọc những kỉ niệm, những ấn tượng về một quê hương Việt Nam, con người Việt Nam quen thuộc gần gũi mà bất kỳ một người đọc nào cũng đã từng chứng kiến, khiến họ không khỏi bồi hồi xao xuyến nhận ra: Trong đất nước có một phần máu thịt của mình.
Đất là nơi anh đến trường,
Nước là nơi em tắm,
Đất Nước là nơi ta hò hẹn,
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Tiếp theo, nhà thơ cảm nhận đất nước qua độ dài vô tận của "thời gian đằng đẵng" lẫn độ dài vô tận của "không gian mênh mông". Như vậy thời gian chủ yếu được cảm nhận trong chiều sâu của lịch sử hình thành và phát triển của đất nước, của dân tộc. Không gian vừa là núi cao sông rộng, muôn trùng núi bạc, bát ngát biển khơi, lại vừa là nơi sinh sống của bao nhiêu người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác:
Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại,
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hàng năm ăn đâu làm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
Bởi vậy như một tất yếu, mỗi thành viên phải có nghĩa vụ đối với đất nước này. Nhờ sự dắt dẫn ở phần trên, nhờ xúc cảm chân thành, lời nhắn nhủ có vẻ như là "hô khẩu hiệu" của tác giả, ở phần sau được người đọc chấp nhận một cách khá tự nhiên, rất ít có cảm giác sống sượng:
Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình,
Phải biết gắn bó và san sẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Như vậy, đất nước được cảm nhận một cách khá phong phú, có sự kết hợp hài hòa trên nhiều lĩnh vực: những phong tục lâu đời, những truyền thống văn hoá, giữa không gian và thời gian, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái to lớn hùng vĩ với những sinh hoạt thường nhật của mỗi một con người. Nếu một số tác phẩm trước đây, đất nước được biểu hiện bằng một giọng điệu trang trọng, uy nghi, chủ yếu với những hình ảnh lớn lao, thì ở Mặt đường khát vọng đất nước được thể hiện bằng những hình ảnh gần gũi với một giọng thơ thiết tha lắng đọng, ý thơ được phát triển một cách khá tự do, tự nhiên; nhưng đoạn thơ vẫn đảm bảo được kết cấu hợp lý.
Điều đặc biệt đáng lưu ý là tác giả đã sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo vốn hiểu biết phong phú về văn hoá dân gian. Chẳng hạn, muốn diễn đạt ý tưởng đất nước ta có từ lâu đời, tác giả cho người đọc liên tường đến kho tàng truyện cổ tích. Truyện cổ tích thường bắt đầu bằng lời kể Ngày xửa ngày xưa... Tiếp đến nhà thơ giúp người đọc nhớ đến truyện Trầu cau bất hủ bằng câu: "Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn". Và mấy ai không nghĩ đến truyền thuyết Thánh Gióng, khi đọc câu thơ "Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc". Còn câu "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn chính là sự vận dụng tuyệt vời câu ca dao từng làm rung động con tim bao người Việt Nam:
Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau.
Cho dù chỉ sử dụng ý trong ca dao trong các truyện dân gian, hay là trích nguyên văn, nhìn chung Nguyễn Khoa Điềm đều tạo nên được những câu thơ những ý thơ mới. Những ý thơ này gắn bó một cách khá chặt chẽ với nhau, chẳng hạn, đang nói chuyện "ngày xửa ngày xưa"... nhà thơ chuyển đột ngột đến bây giờ (Đất là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm). Rồi từ đó, tác phẩm lại dẫn người đọc vào thế giới xa xưa với dân ca và truyền thuyết (truyện Sự tích trăm trứng, dân ca xứ Huế..)
Cách diễn đạt ấy khá khêu gợi trí tưởng tượng người đọc. Các yếu tố văn hóa dân gian đã góp phần không nhỏ biểu hiện tư tưởng cốt lõi của tác phẩm Đất Nước của nhân dân. Đồng thời nó tạo được ở người đọc ấn tượng sâu sắc về đất nước Việt Nam phong phú, sống động lạ thường, muôn màu muôn vẻ dài theo không gian và thời gian, gần gũi thân thiết với từng con người Việt Nam.
Ngày nay đọc lại đoạn trích này, chúng ta càng thấy rõ phần nào những cống hiến của Nguyễn Khoa Điềm đối với sự phát triển của thơ ca thời chống Mĩ Sự dồi dào trong xúc cảm và chiều sâu trí tuệ đã khiến cho đoạn thơ có tính chính luận trên đây ít bị cũ kĩ theo thời gian, có phần tránh được số phận của một số bài thơ cùng thời.
Bài văn mẫu số 2
Qua bài thơ Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày những cảm xúc và suy ngẫm về đất nước dưới dạng một câu chuyện tâm tình mạch cảm hứng có vẻ tự do, phóng túng như một tùy bút thơ, nhưng thực ra vẫn có một hệ thống lập luận khá chặt chẽ, thể hiện đất nước trên các phương diện: trong chiều dài của thời gian lịch sử (quá khứ-hiện tại-tương lai), trong chiều rộng không gian địa lý, trong nền văn hóa, phong tục, lối sống, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện này có sự gắn bó thống nhất với nhau. Tất cả góp phần làm sâu sắc thêm cho ý niệm về đất nước của thơ ca Nguyễn Khoa Điềm.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Đất nước là những gì ta bắt gặp ngay ở cuộc sống bình dị thường ngày: từ câu chuyện mẹ kể hay từ miếng trầu rồi hạt gạo ta ăn, ngôi nhà ta ở. Để nói về sự trường tồn của đất nước nhà thơ đã không bắt đầu với những dẫn chứng cụ thể với những số liệu mà bằng những gì rất gần gũi thân thuộc với cuộc sống của nhân dân từ văn hóa dân gian hay trong những câu ca dao tục ngữ. Những câu thơ gợi đến những truyền thuyết từ xa xưa của dân tộc (truyền thuyết Thánh Gióng, truyện Trầu Cau). Đó chính là sự cảm nhận về chiều sâu lịch sử của đất nước qua thơ của Nguyễn Khoa Điềm
Đất nước còn trường tồn trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng- không gian mênh mông. Huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương, ngày giỗ tổ đó là chiều dài lịch sử của đất nước, còn không gian địa lý: đất nước là sông núi. Đất nước còn là không gian sinh tồn gần gũi với mỗi chúng ta:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn...
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khai
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Đất nước ta còn trường tồn qua các thế hệ mai sau:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Trong chiều rộng của không gian địa lý, chiều dài của lịch sử, đất nước còn được thể hiện tập chung qua các truyền thống tập quán, tinh thần dân tộc trong đời sống hằng ngày trong những biến cố của lịch sử trong đời sống mỗi cá nhân trong cộng đồng. Đây chính là cái nhìn toàn vẹn tổng hợp nhiều chiều của nhà thơ về đất nước.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mạch cảm xúc thơ dẫn đến suy ngẫm trách nhiệm của mỗi con người với đất nước
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Đoạn thơ trên với giọng thơ nhẹ nhàng không mang tính chất giáo huấn mà như là một lời tâm sự tự nhủ chân thành xuất phát từ đáy lòng nhà thơ nhắc nhở thế hệ trẻ phải có trách nhiệm cao cả với đất nước, với non sông.
Trở lại với cảnh không gian địa lý nhà thơ đã có một phát hiện mới độc đáo về cảnh quan thiên nhiên những cảnh quan kỳ thú của non sông gấm vóc (đá Vọng Phu, núi Con Cóc, con gà ở Vịnh Hạ Long, hòn Trống Mái) không chỉ là vật tặng của tạo hóa mà nó đã gắn liền với cuộc sống con người, nó trở thành thắng cảnh qua sự cảm nhận tâm hồn của dân tộc, gắn liền với lịch sử của dân tộc. Nếu không có những người vợ mòn mỏi chờ chồng thì làm sao có sự tích Đá Vọng Phu ở nhiều nơi trên đất nước...
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước nhà thơ không nhắc lại các vị anh hùng nổi tiếng trong các triều đại mà trước hết nhắc đến vô vàn những người vô danh, họ đã sống và chết vì đất nước vì non sông. Những con người bình dị đã gìn giữ truyền lại cho thế hệ sau này mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của dân tộc: từ hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, đến ngôn ngữ dân tộc...Họ cũng là những người:
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên mà đánh
Đất Nước này là của nhân dân, Đất Nước của ca dao đồng thoại là một cách định nghĩa về đất nước thật giản dị mà độc đáo. Bởi đất nước đẹp ở vẻ đẹp tâm hồn ở truyền thống ca dao. Tác giả chọn ba câu trong kho tàng phong phú ca dao phong phú Việt Nam để nói về phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân: Thật say đắm thiết tha trong tình yêu "yêu em từ thuở trong nôi" quý trọng tình nghĩa nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù. Vẻ đẹp thơ mộng của núi sông đất nước như được kết động trong những câu dân ca, nhất là câu dân ca trên sông nước, hay cũng thể nói là chính tâm hồn giàu chất thơ của dân tộc ta đã hòa nhập soi bóng cùng vẻ đẹp núi sông:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đất nước mình thì lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.
Tư tưởng đất nước của nhân dân đã hình thành từ trong lịch sử dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc nhưng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì tư tưởng ấy mới được nhận thức sâu sắc.
Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp một thành công trong dòng thơ nói về Đất Nước, làm cho người đọc thấy được hình ảnh đất nước hiện lên thật gần gũi với người dân đặc biệt cho ta thấy được sâu sắc tinh thần dân tộc, dựng nước và giữ nước của ông cha ta và khẳng định đất nước là của nhân dân do dân làm nên.