Bài văn mẫu số 1
Dân tộc Việt Nam đã trải qua bốn nghìn năm với bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, người nông dân cũng đứng lên chống giặc. Trong văn học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu – một nhà nho yêu nước dùng con mắng yêu thương và kính phục để viết nên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì hình ảnh người nông dân mới thực sự xuất hiện. Đó là hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực và đầy chất bi tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của đất nước.
Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ
Họ đâu đã quen nghe tiếng súng. Âm thanh ấy đã phá tan cuộc sống bình lặng của họ. Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống chật vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã làm họ thật nhỏ bé suốt ngày “cui cút làm ăn”.. Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của người dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó. Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được những “cung ngựa”, “trường nhung”.. trong cái nhìn của họ chỉ có “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đến việc cuốc, việc cày, bừa, khiên đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập súng.. thật lạ lẫm.
Những tưởng họ mãi cam chịu như thế. Nhưng không, khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, chúng đang giày xéo lên từng mảnh ruộng, từng đám đất quê hương ruột thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” không chỉ có đói nghèo mà còn là những thấp thỏm, lo âu:
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa…”
Thấy “mùi tinh chiên vấy vá” không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên mà đợi. Triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng nàn ở họ. Bọn xâm lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yêu nơi thôn quê, làm sao không căm cho được. Nỗi uất hận đến tột cùng ấy đã biến những con người nhỏ bé tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức. Lòng yêu nước đã biến thành lòng căm thù giặc đến sôi sục:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan.
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó”
Lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiến họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc “đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”, “bày bố binh thư”, không màng tới trên mình chỉ có “một manh áo vải”. Các chàng Gióng của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi giặc cũng như không.
Hỡi ôi, “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”, “rơm con cúi”, liệu có thể thắng được “tàu chiến tàu đồng”,” đạn nhỏ đạn to”. Đó là bi kịch của nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chăng là tấn bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất lên trong tiếng nấc lòng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lượng, chênh lệch với kẻ thù
“Chi nhọc quan quản Gióng trống kì trống giục…. súng nổ”
Hình tượng của người nghĩa sĩ áo vải được khắc nổi trên cảnh u ám khói bom ấy: những âm thanh vang động, những động tác quyết liệt (đốt, chém). Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành đấng anh hùng của một thời kì đáng nhớ. Trong tư thế quật cường ấy, lấp lánh chân dung của những con người gánh trên vai vận mệnh của non sông. Họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh hùng nhưng điều cao cả nhất họ để lại là triết lý sống phù hợp đến muôn đời:
“Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà chịu chữ đầu Tây ở với man di rất khổ”
Tinh thần ấy, ý đồng chí vẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để chịu nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh quang cho dân tộc.
“Ôi thôi thôi!” Một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ ngã xuống nơi chiến trường khói lửa. Vẫn còn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thoáng nơi đây bóng mẹ già với ngọn đèn le lói trong đêm
“Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu chạy tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”
Người tử sĩ đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con thơ… Mai đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong..
“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương vì hai chữ thiên dân, cây hương nghĩa sĩ thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”
Nguyễn Đình Chiểu đã bằng tấm lòng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy và dựng nên một tượng đài hoành tráng mà mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học nước nhà hình ảnh người nông dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiều thì chưa một ai công khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Hơn thế nữa, việc thổi vào văn chương chất dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng văn vừa hào hùng, bi tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị.
Cụ Đồ Chiểu chỉ là nhà thơ mù – “người hát rong của nhân dân”. Nhưng hình ảnh người nông dân khởi nghĩa trong bài văn tế đã cho ta cái nhìn về cả một thời đại. Tự hào thay những con người nhỏ bé nhưng vẫn hiên ngang trước thế lực bạo tàn. Tự hào thay những người dân, người lính, nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn cho non sống. Họ là bức tượng đài bất tử, lưu mãi tới muôn đời.
Bài văn mẫu số 2
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc. Cuộc đời ông phải trải qua nhiều bi kịch đau khổ và bất hạnh. Có lẽ vì vậy mà hơn ai hết ông càng cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta. Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp sau khi chiếm được thành Gia Định chúng bắt đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tấn công ra các vùng lân cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn đến. Những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đả đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa binh, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định giao cho Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đêm ngày 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế không những thể hiện được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ Cần Giuộc mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ..
Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp đất nước đều rền vang tiếng súng. Chính sự từ gian nguy, đau thương đó, tình yêu đất nước của những người nông dân bình thường mới được thể hiện, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được bày tỏ cùng trời đất.
Tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được thể hiện một cách rõ rệt và sâu sắc hơn khi tác giả đã liên tục dùng biện pháp so sánh đối lập trong các câu văn tiếp sau.
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng
Trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là "cui cút làm ăn". Họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. Trong cuộc sống, họ có nỗi lo toan " miếng cơm manh áo" giản dị dời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nhà nông: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. Họ chưa biết đến "cung ngựa", "trường nhung", chưa quen với "tập mác, tập cờ". Những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen chiến trận, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng yêu chính ghét tà mà đứng lên đánh giặc.
Khi mà "tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng", họ ngóng trông mệnh lệnh của triều đình: "trông tin quan như trời hạn trồng mưa".
Thì ra cái bi kịch xót xa là ở chỗ này: triều đình nhu nhược, không hiểu được lòng dân yêu nước. Lòng căm thù giặc của những người nông dân thì không thể kiềm chế:
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
... Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.
Hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm hào hùng. Lòng yêu đất nước tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã khiến cho họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh.
Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã biến thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người nông dân khi phải đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua, họ ra đi với tâm trạng và thái độ "bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa" thì ở đây, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự giác, tự nguyện đứng lên chiến đấu để bảo vệ giang sơn, tổ quốc, ấy là nét đẹp bản chất nhất trong hành động của người nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đến đây không chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn mà ngay cả vẻ đẹp trong hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa lên một cách rõ rệt. Từ cái động lực tinh thần tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chống giặc ngoại xâm. Không chờ bày bố mà chỉ "ngoài cật có một manh áo vải nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ". Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm khiến cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. Những người nghĩa sĩ dường như đóng vai trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Đối mặt với kẻ thù lớn mạnh với " đạn nhỏ, đạn to", "táu thiếc, tàu đồng" vứi đội quân xâm lược nhà nghề, vậy mà vũ khí để họ dùng chống lại chỉ là "một manh áo vải", "một ngọn tầm vông", chỉ có " dao phay" và chỉ là những "hỏa mai đánh bàng rơm con cúi". Thử hỏi rằng đem những thứ đó ra đối chọi với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào chỗ chết. Cái sự thật phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ cần Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy. Tấn bi kịch này đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.
Nhưng cũng chính từ cái tấn bi kịch này mà đã làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước. Bằng sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên được những điều phi thường, chính họ đã cất lên dược bản anh hùng ca chiến tranh của dân tộc. Bất chấp sự hiểm nguy, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn cảnh chiến đấu, họ vẫn quyết chiến và quyết thắng, lấy tinh thần xả thân vì nghĩa để bù đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với kẻ thù. Hoàn cảnh chiến đấu chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ chiến đấu bằng chính tỉnh thần sự quyết chiến không sợ hi sinh nên hiệu quả chiến đấu lại vô cùng lớn.
Chỉ với những vũ khí thô sơ như:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh...
Chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp rực rỡ hào quang của chủ nghĩa yêu nước, dường như đã làm lu mờ đi cái thời kì đen tối của lịch sử mất nước hồi nửa cuối thế kỉ XIX.
Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khắc nên hình tượng nhữg người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc - bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tối của dân tộc ta - thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc - họ sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.
Bài văn mẫu số 3
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù yêu nước có tấm lòng thương dân thương đời sâu sắc. Ông để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị bên cạnh truyện thơ “Lục Vân Tiên” nổi tiếng thì “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là đỉnh cao trong sáng tác biểu hiện cao độ nhất tư tưởng yêu nước thương dân của tác giả. Với lòng khâm phục và cảm thương chân thành, nhà văn đã xây dựng tượng đài bất hủ về người nông dân_những con người chân chất mộc mạc lại mang trong mình nét đẹp của người hùng dân tộc tự nguyện đánh giặc và xả thân vì sự sống còn của đất nước.
Trước tiên họ là những người nông dân thuần phác nhà quê nông thôn. Những con người ấy chỉ “Cui cút làm ăn toan lo nghèo khó”, cuộc sống của họ chỉ bó hẹp ở trong làng bộ với công việc của người nhà nông với ruộng trâu, với “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”. Họ đầu tắt mặt tối lo làm lụng mưu sinh. Họ chỉ là những người dân ấp dân lân “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung”, họ cũng chẳng hay việc “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ”, không hề biết gì về việc quân, việc lính, việc binh đao chinh chiến. Người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc thật thuần phác với chất thôn quê, mộc mạc sống trong cái nghèo cái đói của người nhà nông.
Tuy nhiên họ lại mang trong mình vẻ đẹp của con người có tinh thần tự nguyện đánh giặc. Bởi khi giặc loạn nhũng nhiễu, triều đình chống cự yếu ớt, “tấc đất ngọn rau, miếng cơm manh áo” của họ bị cướp, lãnh thổ đất nước bị giặc xâm lăng. Vốn là con người của dân tộc có truyền thống yêu quê hương đất nước, đánh giặc ngoại xâm bao đời nay họ tự nguyện đánh giặc mà không cần đợi “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Tinh thần hăng hái, khí thế hào hùng tiếp nối hào khí Đông A của thời đại nhà Trần. Họ xung phong đánh giặc dù cho có khó khăn, gian lao và nguy hiểm là đoạn kình, bộ hổ tức chém cá kình, bắt hổ lớn. Giặc lúc này vô cùng hung hãn, số lượng lớn, vũ khí hiện đại hơn ta gấp trăm lần nhưng những người nông dân áo vải ấy không hề run sợ.
Người nông dân nghĩa sĩ anh dũng chiến đấu, quyết tâm xả thân vì nước. Dù cho giặc mạnh và hiện đại, dù cho biết trước sẽ hi sinh, dù cho ra trận chỉ với tinh thần yêu nước và lòng căm thù giặc nhưng họ không hề nao núng. Tinh thần ấy đẹp biết bao, đáng phục, đáng nể biết bao khi chỉ là những người dân nghèo khó lam lũ lại dám xông pha trận mạc như những người lính thực thụ nhưng ra trận chỉ với “manh áo vải” chẳng có bao tấu, bầu ngòi, dao tu hay nón gõ họ chiến đấu với vũ khí thô sơ, là công cụ lao động của nhà nông “trong tay cầm một ngọn tầm vông” rồi rơm con cúi và lưỡi dao phay…đem đối chọi với vũ khí hiện đại của quân thù.
Họ chiến đấu bằng trái tim đến hơi thở cuối cùng, họ trở thành bức tượng đài lí tưởng sừng sững trong lòng người dân Việt Nam với một khí thế đánh giặc mãnh liệt làm chủ trận chiến cam go. Bức tranh chân thực và sinh động đặc tả hình ảnh anh dũng của người nông dân trong phút công đồn được Đồ Chiểu khắc họa qua đoạn văn: “Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có. Kẻ đam ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trươc lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”. Hàng loạt các động từ mạnh, giới từ, nhịp điệu dồn dập, mạnh mẽ, câu văn như bị ngắt ra thành vụn nhỏ khắc họa hình tượng người nghĩa sĩ anh dũng liều mình xông vào xả thân vì nền độc lập dân tộc, tinh thần ấy làm cho lũ giặc phải kinh hồn bạt vía hoảng sợ. Có thể nói hình tượng người nông dân nghĩa sừng sững nổi bật trên nền trời đầy khói lửa làm nên bức tượng đài kì vĩ để lại dấu ấn khó quên trong lòng người dân Việt.
Hình tượng người nông dân bấy lâu đã xuất hiện trong văn chương như: “Dụ chư tì tướng hịch văn”, “Bình Ngô đại cáo”…nhưng phải đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” lần đầu tiên người nông dân Việt Nam đi vào trong tác phẩm văn học với đầy đủ từ dáng vóc, tính cách, suy nghĩ, cảm xúc và hành động chân thực đến thế. Bài tế ra đời trong hoàn cảnh cam go trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Một mặt vừa để tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với những người nghĩa sĩ đã nằm xuống với đất mẹ và ca ngợi lòng dũng cảm, bất khuất của họ, một mặt tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phê phán thái độ chiến đấu của vua quan nhà Nguyễn, một mặt để khích lệ, động viên tinh thần tinh thần đánh giặc của nhân dân.
Như vậy, bằng lối dùng các từ ngữ sinh động, giọng điệu linh hoạt, gần gũi với đời sống nông dân, đậm chất Nam Bộ. Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng nên hình tượng người nông dân nghĩa chân chất, mộc mạc, lam lũ nghèo khó mà cao đẹp vĩ đại với tấm lòng yêu nước sâu sắc. Đây là hình tượng đẹp nhất về người nông dân trong lịch sử văn học dân tộc.
Bài văn mẫu số 4
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là bức tượng đài bi tráng về người anh hùng nông dân nghĩa sĩ. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học, hình tượng người nông dân mới được dựng lên hoàn chỉnh và đẹp đẽ đến vậy. Với tác phẩm này, Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn chỉnh bức tranh về vẻ đẹp anh hùng, dũng cảm của người nông dân.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Đến tháng 2/1859 thực dân Pháp chiếm được Gia Định và tấn công các vùng phụ cận (Gò Công, Cần Giuộc). Ngày 14/12/1861, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giuộc giành được thắng lợi ban đầu: chém đầu được 1 tên quan hai của Pháp và khá nhiều lính thuộc địa, chiếm đóng được đồn giặc. Ngày 16/12/1862, giặc phản công, 20 nghĩa quân bị giết chết. Bởi vậy, tuần phủ Gia Định lúc bấy giờ là Đỗ Quang đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết 1 bài văn tế để đọc trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Hình ảnh người nông dân, không phải là chưa bao giờ xuất hiện trong văn học Trung đại, tác phẩm Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã từng nhắc đến họ: “Yết can vi kì, manh lệ chi đồ tứ tập” (Dựng gậy làm cờ, manh lệ bốn phương tụ hội). Đây là lần đầu người nông dân được nhắc đến trong văn chương, song vì tính chất của một bản tuyên ngôn nên Nguyễn Trãi không có điều kiện để khắc họa rõ nét chân dung người nông dân mà mới chỉ dừng lại ở việc khẳng định vị trí, vai trò của họ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Còn đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, bức tranh chân dung và tinh thần người nông dân được dựng lên hoàn chỉnh đến vậy. Họ được khắc họa từ cuộc sống sinh hoạt đời thường cho đến đời sống tinh thần, từ vẻ ngoài chất phác, hồn hậu cho đến lòng dũng, cảm kiên cường sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước. Đây chính là phát hiện mới mẻ của Nguyễn Đình Chiểu đối với người nông dân – lực lượng nòng cốt trong mọi cuộc kháng chiến, song lại ít khi được nhận thức đúng đắn về vai trò lịch sử.
Mở đầu, phần Lung khởi tác giả đã khái quát được bối cảnh thời đại và khẳng định vị trí , ý nghĩa của người nghĩa sĩ nông dân: “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ/ Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Đây là một thời đại bi tráng, khổ nhục như vĩ đại, thời đại đó đã sản sinh ra những người nông dân nghĩa sĩ với lòng yêu nước nồng nàn. Câu văn ngắn, chỉ có tám chữ: súng giặc/ lòng dân, đất rền/ trời tỏ gợi lên không khí thời đại sục sôi, căng thẳng, quyết liệt của nhân dân ta trong quá trình chiến đấu với kẻ thù. Hai câu văn tuy ngắn những lại có ý nghĩa quan trọng, tạo thành bệ đỡ để thấy được vẻ đẹp của tượng đài nghĩa sĩ nông dân phía sau.
Những người nghĩa sĩ nông dân khi chưa có quân giặc xâm lược họ sống và làm việc với cuộc đời đầy lam lũ, cực nhọc: “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo đói”. Cuộc đời họ quanh quẩn sau lũy tre làng, cùng với công việc đồng áng vất vả: “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ” , “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm” họ hoàn toàn xa lạ với việc đao binh: “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Cuộc đời họ gắn bó với làng ruộng, gắn bó với quê hương, bởi vậy, khi nghe tin giặc tới xâm lược, họ đặt trọn niềm tin vào triều đình: “Trông tin quan như trời hạn trông mưa” và họ mang trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Không chỉ vậy, họ còn là người có ý thức trách nhiệm với quê hương, đất nước khi tổ quốc lâm nguy, dù không được học binh pháp nhưng họ sẵn sàng hi sinh bản thân vì sự bình yên của quê hương, đất nước.
Người nông dân vốn chỉ tay cuốc, tay cày “trong trận nghĩa đánh Tây vụt đứng lên thành những anh hùng hiên ngang, lẫm liệt”. Đâu còn hình bóng của những con người chỉ biết trong làng bộ, tầm nhìn hạn hẹp, chỉ trong phút chốc họ đã lớn dậy trưởng thành với tinh thần chiến đấu sục sôi. Vũ khi được trang bị thô sơ, hầu hết là những vật dụng sinh hoạt hàng ngày: ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay,… Nhưng tinh thần của họ lại bừng bừng khí thế và sự nhiệt huyết xông tới chiến đấu với kẻ thù: “đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không”, “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”,… Hành động hết sức mạnh mẽ, quyết liệt: “kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà, ma ní hồn kính; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ”. Đoạn thơ đã miêu tả được không khí hào hùng của trận đấu, tác giả sử dụng liên tiếp các động từ: đạp, lướt, xô, xông, đâm,… giúp cực tả không khí hào hùng, hành động dứt khoát, dũng mãnh của những con người vì nghĩa lớn mà quên thân mình.
Khi khắc họa hình tượng người nông dân nghĩa sĩ, người viết hoàn toàn sử dụng bút pháp hiện thực, chân dung của họ được tái hiện chân thực nhất từ dáng vẻ về ngoài, cho đến cuộc sống lao động vất vả hàng ngày,… Nguyễn Đình Chiểu đã vận dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh (ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ,…) Đặc biệt là thủ pháp đối lập được sử dụng nhiều: lướt tới/xông vào, đâm ngang/ chém ngược, manh áo vải, ngọn tầm vông/ đạn to, đạn nhỏ,… Các thủ pháp nghệ thuật trên đã góp phần khắc họa vẻ đẹp anh dũng, bi tráng của người nông dân nghĩa sĩ.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bản anh hùng ca ngợi ca những người nông dân nghĩa sĩ anh dũng, bất khuất, kiên cường. Hình ảnh, sự hi sinh của họ là minh chứng cho lòng yêu nước nồng nàn, cho triết lí sống ngàn đời của ông cha ta: “Chết vinh còn hơn sống nhục”.
Bài văn mẫu số 5
"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là đỉnh cao sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và cũng là biểu tượng rõ ràng nhất, sâu sắc nhất tư tưởng yêu nước thương dân của ông. Với lòng cảm thương, khâm phục chân thành, nhà thơ đã xây dựng nên một "tượng đài nghệ thuật" bất hủ về người anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong lịch sử chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Có thể nói bài văn tế là khúc bi tráng về người nghĩa sĩ nồng dân xả thân vì sự sống còn của đất nước. Người nồng dân nghèo khổ chân chất "côi cút làm ăn toan lo nghèo khổ đã tự nguyện đứng lên gánh vác việc nước lớn lao và cực kì gian khổ: đánh giặc. Trước tội ác tày trời của giục Pháp, trước thái độ nhu nhược đến hèn nhát của trỉều đình, họ không thổ bưng tai bịt mắt làm ngơ. Trách nhiệm công dân thúc đẩy họ cầm vũ khí chiến đấu:
"Nào đợi ai đồi, ai hắt, phe tì này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thêm trôn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ".
Họ không phải là lính chính quy của triều đình mà chỉ là "dân ấp dân lân, mến nghĩa tàm quản chiêu mộ". Đó là cái nghĩa vì nước quên mình, dám đánh giặc, dám hi sinh. Điều này hoàn toàn đối lập với lũ quan quân triéu đình tham sống sợ chết. Vì lẽ đó mà hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân càng thêm thương, thêm quý.
Không cần lệnh quan trên, không cần chờ trang bị, cũng chảng đợi tập rèn, họ lao vào cuộc chiến đấu sống chốt với kẻ thù bằng một tinh thần dũng cảm hiếm có: "Kẻ dám ngang, người chém ngược, làm cho mũ tà, ma nỉ hồn kinh. Bọn hè trước, lù ó sau, trôi kệ tàu thiếc, tâu dồng súng nổ". Tinh thần ấy khiến cho các vũ khí thô sơ trong tay họ trở lên hữu hiệu:"Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia – Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rơi đầu quan hai nọ".
Cái dũng cảm trong chiến đấu đã khắc phục cái yếu kém trong trang bị. Giữa bức tranh hoành tráng của cuộc chiến đấu, nổi bật hình bóng lồng lộng, hiên ngang của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.
Trong văn thơ ngày xưa của ta có không nhiều những trang miêu tả một trận chiến đấu mà thường là lược tả một vài nét. ở bài văn tế này, nhà thơ đã tả bằng những chi tiết rất chân thực, sống động cho nên không khí hào hùng gần gũi, quen thuộc với cuộc sống, với mọi người. Sức mạnh của nghệ thuật đã biến những hình ảnh tầm thường thành những hình ảnh tượng trưng cho người nghĩa quân nông dân quanh năm chân lấm tay bùn, vậy mà khi lòng nghĩa cháy lên, họ đã biến thành người chiến sĩ cứu nước anh hùng. Hình bóng họ làm chủ chiến trường, nổi lên trên nến trời, che lấp cả khồng gian, lồng lộng như một tượng đài kì vĩ.
Cảm xúc chủ đạo của vài văn là cảm xúc bi tráng, lời văn rắn rỏi, mãnh liệt, toàn là những hành động được thể hiện bằng những động từ mạnh mẽ, âm điệu sôi sục, dồn dập. Nghệ thuật đối đã phát huy được hiệu quả cao nhất của nó... Tất cả hợp thành một âm điệu chiến trận hào hùng, phấn khích. Thật là một thiên anh hùng ca tuyệt diệu. Ngòi bút tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của người nghĩa sĩ nông dân; với tư tưởng cực kì lớn lao mà tác giả đã phát hiện ra trong hành động giết giặc cứu nước của họ.
Gần ba chục nghĩa sĩ nông dân bỏ mình trong cuộc chiến đấu ác liệt và không cân sức. Cải chết bi tráng của nọ Knien con người, cây cỏ trên một miền quê Dao la tnay đều thương tiếc: "Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng - Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hơi hàng luỵ nhỏ". Người chết vì nước non, vì đồng bào, làm sao không xúc động đến đồng bào, non nước ? "Tượng đài nghệ thuật" vé người nghĩa sĩ nồng dân mang tính chất bi tráng. Nó được dựng lên trong khói lửa chiến trận, trong tiếng thét xung phong, và cả trong nước mắt, trong tiếng khóc thống thiết cùa nhà thơ và của nhân dân. Đây là thành công nghê thuật xuất sắc của nhà thơ mù yêu nước Nguyền Đình Chiểu. Bài văn tế như một cái bia, cái mốc, một lâu đài vinh dự cho người nông dân, cho nhân dân lao động Nam Bộ muôn thuở sáng ngời.
Bài văn mẫu số 6
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho yêu nước cuối thế kỉ XIX. Cuộc đời của ông đầy những bất hạnh. Nhưng bằng nghị lực phi thường, ông trở thành tám gương sáng về nhiều mặt…"Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên bức tượng đài bi tráng về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc Pháp cuối thế kỉ XIX". Lời đánh giá trên rất xứng đáng với thành công của tác phẩm. Hơn một thế kỉ qua, đọc lại bản văn tế ấy, ai không dạ dào xúc động, bởi"nước mắt anh hùng" có bao giờ ráo khô?
Mở đầu tác phẩm, tác giải đã cất lên tiếng than:
Hỡi ôi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ!
Đây chính là hoàn cảnh, là cái nền mà trên đó, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên bức tượng đài bất hủ. Đất nước bị xâm lăng. Súng giặc đã rền khắp núi sông. Kẻ thù hung hãn đã tới. Xã tắc chao đảo trước"tàu sắt, tàu đồng, súng nổ", phải chăng, đây là lúc:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Cũng chính là lúc:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dát bay
(Chạy Tây - Nguyễn Đình Chiểu)
Từ hoàn cảnh khốc liệt, tan tác, đau thương này, tấm lòng của người dân đã rực sáng giữa trời xanh!
Họ là ai?
Họ không phải là những sĩ phu, những chí sĩ, cũng không phải những đại gia từng được ơn vua lộc nước hậu hĩnh. Họ chỉ là những người:
Côi cút làm ăn, lo toan nghèo
... Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó
Họ hoàn toàn là nông dân, nông dân 100% những con người quanh năm chưa từng bước ra khỏi lũy tre làng! Hơn thế, họ còn là những nông dân nghèo, nghèo lắm. Hai chữ"côi cút" của cụ Đồ mới xót xa làm sao! Có nghĩa là ngày thường, nhưng tháng năm dài dặc kia, họ chẳng được"chăn dắt" như mạo nhận của bọn vua quan. Một đời, nhiều đời thui thủi bán mặt cho đất, bán lưng cho trời! Thế nhưng, chính những con người bị bỏ rơi ấy lại là những người đầu tiên đứng lên, cho dù chẳng phải quân cơ, quân vệ. Họ chỉ vì nghĩa lớn mà tập hợp dưới cờ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Với hai câu văn trên, cụ Nguyễn Đình Chiểu dã cho ta thấy họ quả là những nghĩa sĩ, những con người có trách nhiệm lớn với non sông, những con người mang trong mình dòng máu bất khuất. Cho nên, chính họ đã quyết"Phen này xin ra sức đoạn kình... Chuyến này dốc ra tay bộ hổ".
Đó chính là tư tưởng của những Triệu Thị Trinh, Bố cái Đại vương Phùng Hưng từng chém cá kình ở biển Đông, bắt hổ dữ ở rùng sâu trong lịch sử dân tộc.
Nhưng Cụ Đồ Bến Tre vẫn không quên chính họ là những người chân đất có tấm lòng căm thù giặc tới tận xương tủy:
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ!
Chính sự căm thù này khiến họ vượt qua khó khăn thiếu thốn, không đợi trang bị vũ khí, ăn mặc, không đợi luyện tập quân sự, không sợ kẻ địch mạnh, có vũ khí tối tân, có linh đánh thuê hung hãn, có bọn Việt gian thâm hiểm…nhất quyết ngay một lúc vào trận với những vũ khí tự tạo thô sơ:" Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi/ Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay", nghĩa là có gì đánh nấy, miễn là giết được giặc! Nếu không có tấm lòng vì nghĩa lớn, làm sao có được cái gan ấy?
Và, khi vào trận, họ quả là phi thường:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.
Quả là một trận chiến dũng mãnh, quyết liệt đến liều mạng của lòng căm thù! Các động từ mạnh như"đạp - lướt — xô — xông — đâm ngang - chém ngược..." khiến cho người đọc hàng trăm năm sau còn như thấy trước mắt khí thế vũ bão ào ào của nghĩa quân. Trong ánh lửa bập bùng, loang loáng những bắp tay trần, loang loáng ánh thép dao phay, rầm rập những bước chân, ầm ầm tiếng thét giết tươi kẻ thù...
Trong văn học Việt Nam đến thời điểm ấy, hiếm có một bức tranh công đồn nào hiện thực sinh động như thế! Không một chút ước lệ, ngòi bút kí sự, dặc tả của nhà Nho mới quý giá biết bao! Vì sao một người"quanh mình chỉ có bóng đêm" mà lại nhìn sáng tỏ đến như thế? Tài năng hay tấm lòng? Có lẽ là tất cả!
Chính tinh thần quyết chiến ấy của người nghĩa sĩ đã làm nên những chiến công rất đáng ca ngợi. Họ đã tiêu diệt dược tên chỉ huy ác ôn, đã đốt cháy ổ gián điệp, tức là kẻ thù nổi, kẻ thù chìm, kẻ thù bằng xương bằng thịt, kẻ thù tư tưởng (nhà dạy đạo)... Càng có ý nghĩa lớn khi những chiến công ấy được lập lên từ những vũ khí rất thô sơ! Bức tượng đài hoành tráng ấy càng lẫm liệt.
Xót xa thay! Họ đã ngã xuống! Sự hi sinh anh dũng của họ đã làm đau xót cả đất trời Nam Bộ:
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Đất trời mờ mịt! Người người khóc thương! Nỗi sầu thảm này biết mấy xót xa! Đằng sau cái chết của người anh hùng sẽ là:
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu đã hòa máu và nước mắt để viết nên những câu văn não lòng như thế!
Mặc dù Nguyễn Đình Chiểu đã gạt lệ để ngợi ca tấm gương hi sinh oanh liệt của người chiến sĩ với tấm lòng son vằng vặc ánh trăng rằm,"sống đánh thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ linh, muôn kiếp nguyện được trả kia", nghĩa là những con người ấy chết mà vẫn sống! Nhưng lòng chúng ta vẫn không sao ngăn được ngậm ngùi xót thương đau đớn!
Bức tượng đài bi tráng mà Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên bằng ngòi của mình sẽ mãi mãi tồn tại cùng non sông đất Việt! Đây là bức tượng đài đầu tiên về người nông dán đánh giặc! Chúng ta đều biết, người Việt ta từ khi biết dùng cành cây chọc lổ gieo hạt cũng là lúc biết vót nhọn ngọn tầm vông, chuốt nhọn mũi chông tre để chống lại mọi kẻ thù bốn chân và kẻ thù hai chân! Họ thực là chủ nhân của đất nước. Nhưng trong văn học chính thống trước thời Nguyễn Đình Chiểu, họ chưa một lần trở thành nhân vật trung tâm! Nay, Nguyễn Đình Chiểu đă trả lại địa vị chính đáng cho những người chân lấm tay bùn này. Nguyễn Đình Chiểu đã trở thành ngôi sao sáng trên bầu trời văn học nước ta cuối thê kỉ XIX có phần đóng góp xứng đáng của "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" ! "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" mãi mãi là "bài ca về những người anh hùng thất thế" (Phạm Văn Đồng).
Xỉn được thắp một nén tâm hương tưởng nhớ, hai lần tưởng nhớ, tưởng nhớ người anh hùng liệt sĩ, tưởng nhớ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.
Bài văn mẫu số 7
Một vẻ đẹp mang đậm chất bí ẩn của người nông dân. Những nỗi niềm sâu sắc, cực khổ gian nan, nhưng đó là những buồn vui và họ mang theo suốt cuộc đời, gắn bó với bao nắng mưa, mạnh mẽ đứng dậy đấu tranh chống thực dân xâm lược.
Hình ảnh những người nông dân luôn mang trong mình dòng máu dân tộc, tinh thần yêu nước sâu sắc, họ sẵn sàng đứng dậy tranh đấu cho dù có phải đánh đổi bằng chính mạng sống của mình. Tinh thần đó luôn vững vàng trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Trong con người họ lúc bấy giờ không còn tồn tại thứ gọi là sợ hãi, mà thay vào đó là lòng căm thù mãnh liệt, chính những thứ ấy đã biến thành sức mạnh không gì có thể ngăn cản nổi. Vẻ đẹp người nông dân chất phác luôn mang sự đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc. Dù có bất cứ chuyện gì xảy ra, họ vẫn luôn mẫu mực, một lòng vì quê hương, đất nước. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện rõ nét lối sống con người nơi này và những nét đẹp trong họ. Họ là những con người giàu lòng nhân ái, thủy chung, giữ gìn nhân cách ngay thẳng, mạnh mẽ đấu tranh giành thắng lợi. Cho dù có gặp bất cứ chuyện gì đi chăng nữa, họ vẫn luôn tràn đầy sức mạnh tinh thần. Khi cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp nổ ra, về tư tưởng đỉnh cao Nguyễn Đình Chiểu đã đáp ứng xuất sắc yêu cầu cuộc chiến đấu giữ gìn non sông đất nước. Một tinh thần anh dũng, kiên cường, sẵn sàng đương đầu với mọi chông gai, thử thách.
Mang trên mình những bộ quân trang rất thô sơ, mộc mạc, không được bảo vệ che chắn, nhưng hình ảnh người nông dân khoác lên mình tấm áo vải lại như chính những bộ áo giáp sắt giúp họ trong mọi cuộc chiến. Một thời đầy đau thương của ngay bản thân và đất nước, lòng căm thù trỗi dậy trong họ, biến nó thành mũi giáo sắc nhọn lao thẳng tới kẻ thù. Đã có rất nhiều những người anh hùng nghĩa sĩ đã vùng mình xả thân chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc để mang lại nền độc lập tự do cho dân tộc. Những hình ảnh đâm ngang chém ngược nói lên sự bản lĩnh nói lên sự bản lĩnh của người nông dân áo vải, đã hết lòng can trường trong trận chiến khốc liệt. Tác giả đã lên án sâu sắc tội ác của những kẻ xâm lăng gây ra biết bao đau thương, mất mát cho nhân dân ta. Đồng thời, cũng ca ngợi những sĩ phu yêu nước là những chiến sĩ kiên cường, giàu lòng yêu nước, vì đại nghĩa của dân tộc đã dám chống chọi lại chiếu chỉ của nhà vua, phất cao lá cờ khởi nghĩa cùng nhân dân chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Dưới ngọn cờ đó là đông đải những người nông dân nghèo khổ, suốt cuộc đời chỉ biết lo việc ruộng đồng. Ngay cả những khi rơi vào bước đường cùng họ cũng không hề quay lưng, trùn gối trước kẻ thù hung ác.
Những người nông dân mang một vẻ đẹp bình dị, thuần khiết, khiến biết bao con người phải hổ thẹn trước những hình ảnh cao đẹp ấy. Tấm lòng kiên trung, hiên ngang bất khuất như ngọn đuốc sáng rực. Hình ảnh người nông dân áo vải là đại diện cho tầm vóc của người anh hùng dân tộc, tinh thần yêu nước nồng nàn.
Với tài năng của mình, giặc Pháp nhiều lần mua chuộc Nguyễn Đình Chiểu, nhưng ông vẫn một lòng vì nước. Bút pháp trữ tình của ông xuất phát từ nhiệt huyết yêu nước nồng nàn chảy trong huyết quản, giàu lòng yêu thương con người, mang một màu sắc nồng đậm hơi thở cuộc sống mà đầy tính nhân văn. Nó không chỉ đẹp mà còn mang âm hưởng của sự thiêng liêng hoàn mĩ.
Lối sống của người dân Nam Bộ là cử chỉ, là nới có thể làm lung lay tâm hồn của người đối diện, tiếng nói mộc mạc, dịu dàng, bình dị với tâm hồn cháy bỏng. Đó là cách cư xử, cách trò chuyện một cách phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời. Người anh hùng áo vải đã hiến dâng cả cuộc đời mình cho đất nước, họ ngã xuống để lại một bầu trời u ám, không khí buồn bã đầy bi thương của những người ở lại. Đâu đó là hình ảnh mẹ già, là vợ hiền con thơ đang mong chờ họ quay trỏ về nhưng chờ hoài chẳng thấy, những giọt lệ chẳng kịp giấu giếm cứ trực tuôn trào, tiếng khóc thay cho những lời ai oán, thay cho những tiếc thương cho những số phận sống vì dân tộc, chết cho lịch sử. Bức tượng bất tử của những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc. Một thành tựu xuất sắc chứa đựng chất trữ tình và lòng yêu nước nồng nàn.
Bài tế như một khúc khải hoàn ca ngợi những linh hồn cao đẹp đã ngã xuống của những người nông dân Nam Bộ. Tinh thần ấy như lan tỏa mạnh mẽ đến từng ngóc ngách trong tâm trí mỗi con người, là tấm gương sáng tỏ về tinh thần yêu nước mãnh liệt, là vẻ đẹp trong tâm hồn người lính áo vải chất phác, giản dị.
Bài văn mẫu số 8
Chiến tranh - hai từ nghe sao thật đau thương, nó để lại những đau đớn mất mát rất lớn cho con người. Nhưng cũng chính từ những cuộc chiến tranh ấy, mà người ta có thể dễ tìm ra tình yêu nước nồng nàn, dám chiến đấu, hi sinh của các chiến sĩ. Để tưởng nhớ công lao của họ, đã có rất nhiều tác phẩm ca ngợi công lao của họ, và bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là một trong những bài như vậy. Bài văn tế đã làm nổi bật được bức tượng đài bi tráng của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc vì dân tộc đã hi sinh.
Ngay từ đầu bài văn tế, tác giả đã nhấn mạnh tinh thần yêu nước của dân tộc:
"Hỡi ôi
Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ."
Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp đất nước nổ lên tiếng súng ở mọi nơi, tang thương bắt đầu đến với cả dân tộc, nhưng cũng chính từ những giờ phút đó mà nó đã làm sáng tỏ tấm lòng của nhân dân dám hi sinh chiến đấu vì Tổ quốc. Hình ảnh "mười năm công vỡ ruộng" và "một trận nghĩa đánh Tây" là hai hình ảnh đối lập, qua đó nhấn mạnh được tinh thần của những người nông dân chân lấm tay bùn ấy dám đứng lên đánh giặc mà để lại "tiếng vang" cho đời sau.
Những người nghĩa sĩ ấy chỉ là những người nông dân mộc mạc giản dị chất phác, đoạn tiếp theo Nguyễn Đình Chiểu đã giới thiệu về nguồn gốc của các chiến binh ấy:
"Nhớ linh xưa;
Cui cút làm ăn; lo toan nghèo khó;
Chưa quen cung ngựa; đâu tới trường nhung;..."
Trước khi tham gia kháng chiến, họ là những người nông dân ngày ngày bên những mảnh ruộng đất cây trồng, chịu thương chịu khó "cui cút làm ăn". Họ chỉ thân thuộc với những dụng cụ hàng ngày của mình như : Cuốc, cày, bừa, cấy... nào đâu có cơ hội mà biết đến "cung ngựa", "trường nhung", "khiên, súng". Vậy mà khi nghe thấy tiếng phong hạc, họ trông ngóng tin của triều đình hi vọng có lệnh từ trên xuống chỉ đạo cách đánh trận. Thế mà triều đình lại nhu nhược, không lo được cho dân, chỉ làm lòng dân càng thêm căm phẫn, thấy bóng giặc mà "muốn tới ăn gan", "muốn ra cắn cổ".
Từ những người nông dân nghèo khó bên mảnh đất ruộng vườn, họ đã trở thành những chiến binh quả cảm trước thời kì lịch sử bão tố khi thực dân Pháp tới xâm lược. Tác giả đã sử dụng những từ ngữ câu văn đậm chất Nam Bộ gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động. Ông miêu tả những dụng cụ thô sơ để đi ra chiến đấu với bọn ngoại xâm, nào là "manh áo vải, ngọn tầm vông, nón gõ..". Vậy mà những vũ khí thô sơ ấy đã đối đầu quyết liệt với những vũ khí tối tân "tàu thiếc, tàu đồng, đạn to, đạn nhỏ". Họ đâu có e ngại thứ vũ khí nhỏ, lạc hậu một trời một vực với bọn giặc, cái họ có đó chính là tình yêu dân tộc đặt lên trên đầu, họ mang thứ vũ khí ấy ra để đánh với giặc. Hàng loạt các động từ mạnh đã được tác giả kể ra để thể hiện cho tinh thần ấy lớn thế nào: "đốt, chém, đạp, xô, xông...", xông lên như vũ bão, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhưng đau đớn thay, những người nghĩa sĩ ấy vẫn phải hi sinh - một sự thật phũ phàng với cả dân tộc.
Các nghĩa sĩ đã anh dũng hi sinh để lại một bầu không khi tiếc thương của cả dân tộc. Bài văn tế như một tiếng khóc ai oán, đặc biệt nó "bi mà không lụy". Dân tộc tự hào về các anh, những chiến binh quả cảm. Bằng giọng văn gần gũi, mộc mạc giản dị, Nguyễn Đình Chiểu đã làm nên bài văn tế truy điệu các anh bằng tình cảm sâu sắc của cá nhân, cũng như toàn dân tộc. Ông xứng đáng được mệnh danh là ngôi sao sáng trên nền trời thơ ca của văn học trung đại Việt Nam.
Bài văn mẫu số 9
Sống trong cuộc đời tránh sao được cái quy luật sống và chết. Người ta vẫn thường nói chết là hết. Nhưng có những cái chết không một tiếng vang, lại có những cái chết để tiếng thơm muôn thuở. Những người nghĩa sĩ cần Giuộc năm xưa đứng dậy chống Pháp đã lựa chọn cái chết thật: Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đến sáu tỉnh chúng đều khen. Thác mà ưng đình miếu để mà thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ. Có thể nói toàn bộ bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang (Phạm Văn Đồng).
Đó là vào năm 1859, sau khi đánh chiếm Gia Định, thưc dân Pháp mở rộng xâm lược ra ba tỉnh miền Đông Nam Bộ. Đến tháng 12/1861, Pháp đánh úp ba xứ Cần Giuộc, Tân An, Gò Công. Hai ngày sau, nghĩa quân ba xứ nhất tề nổi dậy, tập kích dồn quân Pháp, đốt nhà Dòng, nơi chúng đóng quân, giết chết một tên quan hai Pháp và một số lính thuộc địa. Nghĩa quân hi sinh khoảng 15 người. Trận thắng không lớn nhưng nó làm nức lòng những người dân yêu nước Việt Nam đang sôi sục ý chí bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tế để khóc thương và biểu dương tinh thần hi sinh vì nước của nghĩa quân Cần Giuộc. Áng văn làm rung động sâu sác tâm hồn những người dân yêu nước Việt Nam. Nhà thơ Mai Am từng có thơ đề cảm:
Điếu văn tam phục trụng đê hồi
Nghị phách từ phong tận khả ai.
Nghĩa là, đọc bài văn điếu ba lần trong dạ bồi hồi khôn xiết, nghĩa khí mạnh lời văn hùng thật đáng xót thương.
Có thể thấy hình ảnh người nông dân Cần Giuộc là hình ảnh nổi cộm lên giữa những suy tư, suy ngẫm về cuộc chiến đấu của người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đây cũng là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Nó đánh dấu vào lịch sử văn học dân tộc về một tượng đài bất hủ về hình ảnh người anh hùng áo vải giết giặc cứu nước.
Theo bố cục bài văn tế, chúng ta đi vào tìm hiểu và làm sáng tỏ những nét đẹp của người nghĩa sĩ Cần Giuộc trong cuộc chiến đấu chống Pháp.
Ở những câu đầu, Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại lịch sử khốc liệt, hào phùng: một bên là cuộc xâm lược của thực dân Pháp với tất cả sức mạnh áp đảo về vũ khí (súng giặc đất rền), một bên là cuộc chiến đấu chống quân xâm lược của nhân dân ta với khí thế ngút trời (lòng dân trời tỏ). Người nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn chỉ là những nông dân hiền lành, quanh năm: Côi cút làm ăn toan lo nghèo khó, chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung. Ây vậy mà khi giặc đến, họ liền trở thành những dũng sĩ, Nguvễn Đình Chiểu dã khéo léo nhấn mạnh đến tinh thần tự giác:
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Ở đây bút pháp hiện thực kết hợp nhuần nhuyễn với bút pháp trữ tình. Vừa tái hiện chân thực cuộc sống con người trong một thời điểm quan trọng nhất, lại vừa bộc lộ sâu sắc niềm trân trọng tự hào lẫn sự cảm phục của tác giả đối với người nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Hành động tự giác xung vào đội quân chiến đấu chống Pháp cho thấy thái độ vô tư trong suy nghĩ, trách nhiệm lớn lao đôi với vận mệnh đất nước của người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhớ lại những câu ca dao Lính thú đời xưa. Họ cũng là những nông dân nhưng bị bắt buộc phải phục vụ cho những cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa, nên thái độ của họ thật khác xa:
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Còn ở đây, mặc dù đội nghĩa binh Cần Giuộc mới đươc tập hợp trong vòng hai ngày trước trận tập kích đồn quan Pháp. Chỉ có hai ngày, trong hoàn cảnh phải hoàn toàn tự lực, không có sự giúp đỡ của quan quân triều đình nên họ thiếu thốn đủ thứ, vậy mà họ hăm hở biết bao:
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn, chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.
Sức mạnh của những người nghĩa quân không gì khác ngoài sức mạnh tinh tthần. Họ đã lấy gan vàng đọ với đạn sắt, lấy lòng căm hờn chống lại tàu sắt, tàu đồng. Chính lòng căm hờn đã đem đến cho họ sự dũng mãnh và sức mạnh phi thường kẻ đâm ngang người chém ngược họ tả xung hữu đột, tung hoành ngang dọc như chỗ không người. Đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có. Hai từ cũng được lặp lại ở câu mười ba (cũng đốt xong nhà dạy đạo kia, cũng chém rớt đầu quan hai nọ) vừa làm nổi bật thế tương phản của trận đánh, vừa vang lên như một tiếng reo vui đầy tự hào của những con người đầy lòng tự tin vào sức mạnh chính nghĩa của mình.
Nguyền Đình Chiểu đã ca ngợi những nghĩa sĩ nông dân bằng những hình tượng thật chói lọi và những lời văn thật trang trọng đẹp đẽ, nhưng ông không che giấu sự thật đau lòng. Bài văn còn là lời ai điếu, là tiếng khóc của Đồ Chiểu trước sự thất thế và cái chết của người nghĩa quân Cần Giuộc. Cái chết của họ khiến cho đất trời, cỏ cây, con người đều động lòng.
Ôi thôi thôi!
Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngỏ.
Cái bi tráng bao trùm lên cả đoạn thơ, nhưng cái bi ở đây không phải là cái thảm mà là bi tráng. Đây là nổi đau đớn vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đau mà không khiến người ta nản lòng, thối chí, khi mà giục giã mọi người đứng dậy hiên ngang. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại. Nhiều nghĩa quân đã phải ngã xuống, nhưng chết vinh còn hơn sống nhục: Thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ. Chết như thế là để lại tấm gương chói lọi, có sức động viên lớn đối với cuộc chiến đấu sẽ còn tiếp tục.
Có thể nói, dù đã ngà xuống, nhưng hình ảnh người nông dân giết giặc vẫn mãi ngời sáng. Đó chính là những trái tim ngời sáng trong cát, để lại tiếng thơm muôn đời.
Cất lên những tiếng khóc này, Nguyền Đình Chiểu muốn khẳng định đây là cái tang chung của mọi người, của dân tộc. Vì vậy có bi mà không có lụy. Cái bi thì thăm thẳm, nổi đau đầy cảm hứng trữ tình lên đến tột đỉnh, tạo nên những câu văn vật vã: mẹ già ngồi khóc trẻ, vợ yếu chạy tìm chồng. Đây không còn là văn mà là lệ. Phải có tài, có tình và một tinh thần dân tộc, một nhận thức đúng đắn xem mũi tên lịch sử đang đi về đâu. Điều này Nguyễn Đinh Chiểu hiểu rõ và rất tâm huyết.
Như vậy, viết về hình ảnh người nông dân đánh giặc, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa họ ở ba nét chủ yếu. Thứ nhất, hình ảnh người nông dân chân chất, hiền lành quanh năm chỉ biết sống và làm việc với cày cuôc, ruộng đồng. Thứ hai, đó là tinh thần yêu nước căm giặc sâu sắc đã thôi thúc họ trở thành những chiến binh dũng cảm, vô tận sẵn sàng xả thân vì nghĩa. Thứ ba, mặc dù đã ngã xuống nhưng họ vẫn là những biểu tượng đẹp về hình ảnh những anh hùng thất thế mà vẫn hiên ngang, sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc...
Bài Văn tể nghĩa sĩ Cần Giuộc được xem là một áng văn chương xuất sắc không phải chỉ của riêng Nguyễn Đình Chiểu mà còn là của văn học Việt Nam thời Trung đại. Bằng một bút pháp trữ tình kết hợp nhuần nhuyễn với bút pháp hiện thực, bằng ngôn ngừ bình dị mà gợi cảm, bài văn đã tái hiện chân thực sâu sắc và đầy xúc động cả một thời đau thương nhưng anh dũng của dân tộc, đồng thời xây dựng nên một tượng đài có một không hai trong lịch sử văn học thời trung đại về người nông dân nghĩa quân chống giặc ngoại xâm.