Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du hay nhất (15 mẫu)

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du hay nhất 1

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, là người gắn bó am hiểu văn hóa dân tộc, văn chương Trung Quốc, cuộc đời từng trải. Nguyễn Du có một vốn sống phong phú, niềm thương cảm sâu sắc với nhân dân lao động. "Truyện Kiều" là một tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du và của văn học trung đại Việt Nam.

Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820 tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc có truyền thống khoa bảng và văn chương. Cuộc đời của ông gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIX. Nguyễn Du từng sống phiêu bạt mười năm trên đất Bắc sau đó về ở ẩn tại quê nội Hà Tĩnh rồi ra làm quan bất đắc dĩ với triều Nguyễn. Chính những biến động lịch sử đó đã tác động đến tâm hồn và tư tưởng của Nguyễn Du.

Nguyễn Du đã để lại sự nghiệp văn học đồ sộ với những tác phẩm có giá trị lớn, tiêu biểu là "Truyện Kiều". "Truyện Kiều" là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyện thơ nôm theo thể thơ lục bát gồm 3254 câu. "Truyện Kiều" dựa vào cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc), bằng tài năng của mình, Nguyễn Du đã sáng tạo nên "Truyện Kiều" của người Việt. "Truyện Kiều" lấy bối cảnh năm Gia Tĩnh triều Minh (Trung Quốc) để phản ánh xã hội phong kiến Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIX. Truyện kể về mười lăm năm lưu lạc đầy đau khổ, tủi nhục của người con gái tài hoa tuyệt sắc Thúy Kiều do bị các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến bất công đầy đọa. Nguyễn Du đã lược bỏ các chi tiết về mưu mẹo, về sự báo oán tàn nhẫn và một số chi tiết dung tục trong tác phẩm của Thanh Tâm tài nhân, thay đổi thứ tự kể và sáng tạo thêm một số chi tiết mới để tạo ra một thế giới nhân vật sống động như thật, biến các sự kiện chính của tác phẩm thành đối tượng để bộc lộ cảm xúc, tình cảm của nhân vật và người kể, chuyển trọng tâm của truyện từ việc kể sự kiện sang biểu hiện nội tâm nhân vật làm cho các nhân vật sống hơn, sâu sắc hơn và tác phẩm trở thành một bách khoa toàn thư của muôn vàn tâm trạng.

Giá trị của truyện Kiều được thể hiện trên hai phương diện chủ yếu là giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. Giá trị nội dung được thể hiện qua giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Giá trị hiện thực của tác phẩm là bức tranh hiện thực về xã hội phong kiến bất công của những thế lực đen tối, sức mạnh ma quái của đồng tiền đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người đặc biệt là người phụ nữ. "Truyện Kiều" tố cáo các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến, từ bọn sai nha, quan xử kiện cho đến "họ Hoạn danh gia", "quan Tổng đốc trọng thần" rồi là bọn ma cô, chủ chứa,... đều ích kỷ, tham lam, tàn nhẫn, coi nhẹ sinh mạng và phẩm giá con người. "Truyện Kiều" còn cho thấy sức mạnh ma quái của đồng tiền đã làm cho tha hóa con người. Đồng tiền làm đảo điên "Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì", đồng tiền giẫm lên lương tâm con người và xóa mờ công lý "Có ba trăm lạng việc này mới xuôi".

Giá trị nhân đạo của "Truyện Kiều" thể hiện ở chỗ tác phẩm là tiếng nói thương cảm cho số phận bi kịch của người phụ nữ đồng thời trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp, tài năng, ước mơ, khát vọng chân chính của con người. "Truyện Kiều" là tiếng nói thương cảm, là tiếng khóc đau đớn trước số phận bi kịch của con người. Thúy Kiều là nhân vật mà Nguyễn Duy yêu quý nhất. Khóc Thúy Kiều, Nguyễn Du khóc cho những nỗi đau đớn của con người: tình yêu tan vỡ, cốt nhục lìa tan, nhân phẩm bị chà đạp, thân xác bị đọa đày. Tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng là tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy đã phá vỡ những quy tắc thánh hiền về sự cách biệt nam nữ. Qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du gửi gắm ước mơ anh hùng "đội trời đạp đất", làm chủ cuộc đời, trả ân báo oán, thực hiện công lí, khinh bỉ những "phường giá áo túi cơm".

"Truyện Kiều" còn là một tác phẩm mang giá trị nghệ thuật đặc sắc. "Truyện Kiều" là "tập đại thành" của nền văn học trung đại, kết tinh những thành tựu nghệ thuật, văn hóa dân tộc cả về ngôn ngữ và thể loại. Ngôn ngữ dân tộc đạt tới đỉnh cao rực rỡ. Ngôn ngữ "Truyện Kiều" rất trong sáng. Trong tác phẩm có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân, cả hai đều được sử dụng có chọn lọc, hợp lý, đúng chỗ đúng lúc. Ngôn ngữ dành cho nhân vật được cá thể hóa cao độ, lời nhân vật nào phù hợp với nhân vật ấy làm rõ tính cách nhân vật. Ngôn ngữ dân tộc được nâng lên thành ngôn ngữ nghệ thuật, đủ sức diễn tả những biến thái tinh vi của cảnh sắc thiên nhiên và những biểu hiện tinh tế trong tâm hồn con người. Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc được sử dụng hết sức điêu luyện và vận dụng ý nghĩa một cách tối đa, đủ sức diễn tả nhiều sắc thái cuộc sống và những biểu hiện tinh tế trong đời sống tâm hồn con người. Nguyễn Du đã thành công trong việc xây dựng được một tiểu tiểu thuyết bằng thơ lục bát. Cả một thiên tiểu thuyết không một câu nào gượng ép. Nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc. Nghệ thuật miêu tả nhân vật đến mức độ điêu luyện. Với nhân vật chính diện, tác giả dùng bút pháp ước lệ tượng trưng là chủ yếu, lấy vẻ đẹp thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp con người. Còn với nhân vật phản diện, tác giả chủ yếu tả thực, đi sâu và khắc họa vẻ xảo trá, ranh mãnh của chúng. Có thể nói với mỗi nhân vật dù là phản diện hay chính diện, Nguyễn Du thường tìm được nét thần thái của nhân vật để miêu tả dù chỉ đôi dòng hay vài chữ mà lột tả được cả bản chất của nhân vật. Nghệ thuật kể chuyện trong "Truyện Kiều" cũng là một thành công đáng kể. Tác phẩm là mẫu mực của nghệ thuật kể chuyện và trữ tình bằng thơ lục bát với bút pháp trần thuật và miêu tả nhân vật độc đáo. Bút pháp miêu tả tinh tế nhất là bút pháp tả cảnh ngụ tình, mượn cảnh để đi sâu khai thác nội tâm nhân vật.

"Truyện Kiều" là một kiệt tác của dân tộc Việt Nam, là di sản văn học của nhân loại tiêu biểu cho cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa, vừa là niềm thương cảm sâu sắc, là tấm lòng nghĩ tới muôn đời vừa là thái độ nâng niu, trân trọng những giá trị nhân văn cao đẹp của con người.

"Truyện Kiều" đã được lưu truyền phổ biến rộng rãi ở trong và ngoài nước có một sức lôi cuốn với mọi tầng lớp người đọc. Tác phẩm đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của mỗi người dân Việt Nam. Chẳng thế mà khi nhận xét về Nguyễn Du và "Truyện Kiều", Mộng Liên Đường đã nói: "Ông là người có con mắt trông thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ tới nghìn đời. Ông viết "Truyện Kiều" như có máu rỏ đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua giấy,...". "Truyện Kiều" của Nguyễn Du sẽ sống mãi với dân tộc và trở thành linh hồn dân tộc Việt Nam.

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du  2

Khi kể về những tác giả, tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học trung đại Việt Nam, chúng ta không thể nào không nói đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du cùng tác phẩm Truyện Kiều của ông. Với những kiến thức uyên thâm của mình cùng tài năng văn học xuất chúng, ông đã sáng tác ra tác phẩm có giá trị bằng chữ Nôm và chữ Hán. Trong đó nổi bật lên tác phẩm Truyện Kiều.

Nguyễn Du sinh năm 1765, mất năm 1820, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan, có truyền thống văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, cũng là người giỏi văn chương. Ông thi đỗ tiến sĩ và làm quan Tể tướng. Mẹ là bà Trần Thị Tân, người con gái Bắc Kinh cũng văn hay chữ tốt. Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng làm quan từ dưới thời Lê Trịnh. Tuy gia cảnh xuất thân danh giá nhưng cuộc đời của ông toàn những nỗi đau. Năm 13 tuổi, ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải sống với Nguyễn Khản. Nhưng khi ông 15 tuổi, Nguyễn Khản bị khép tội mưu phản, ông lại phải nương nhờ nhà họ hàng xa,, Có thể nói cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử giai đoạn của thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Đây là giai đoạn đầy biến động khi mà giai cấp cai trị thối nát, tham lam, không quan tâm nhân dân, họ chém giết lẫn nhau để tranh giành quyền lực. Có thể nói chế độ phong kiến Việt Nam lúc này đã khủng hoảng trầm trọng và những người dân khốn khổ lúc này đã nổi dậy đấu tranh và tiêu biểu nhất là khởi nghĩa Tây Sơn của Nguyễn Huệ. Trong cảnh ấy, Nguyễn Du đã sống phiêu bạt nhiều nơi, lúc ở Thăng Long, lúc ở quê nội Hà Tĩnh, có lúc lại ở quê với Thái Bình. Không may khi mà Nguyễn Anhs lên ngôi năm 1802, Nguyễn Du phải bất đắc dĩ làm quan. Trước khi ông phụng sự nhà Lê nên giờ đây, khi làm quan nhà Nguyễn ông lại rụt rè, ông được cử sang Trung Quốc hai lần nhưng lần hai vào băm 1820 chưa kịp đi thì ông bị bệnh và mất tại Huế. Cuộc đời ông ba chìm bảy nổi nhưng chính vì thế ông có được vốn kiến thức sâu rộng cùng nỗi lòng thương cảm xót xa với số phận bi đát của người dân.

Nguyễn Du là một thiên tài văn học với nhiều tác phẩm có giá trị gồm ba tập thơ bằng chứ Hán gồm Thanh Hiên Thi tập, Bắc Hành tạp lục, Nam Trung tạp ngôn và tác phẩm chữ Nôm xuất sắc nhất là Truyện Kiều.

Truyện Kiều tên trước kia là “Đoạn trường Tân Thanh” là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại truyện Nôm trong văn học trung đại Việt Nam. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du có dựa trên truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm tài nhân Trung Quốc nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du là rất lớn khi tác phẩm của ông được viết bằng thể thơ lục bát gồm 3254 câu thơ gồm ba giai đoạn: Gặp gỡ và đính ước, Gia biến và lưu lạc, Đoàn tụ, truyện được tóm tắt như thế này:

Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, sinh trưởng trong gia đình trung lưu lương thiện họ Vương, nhà có ba chị em: Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Trong một lần du xuân Kiều gặp gỡ Kim Trọng, họ đã yêu nhau, sau đó đi tới đính ước. Khi Kim Trọng về Liêu Dương để tang chú, gia đình Kiều gặp biến cố, Kiều phải bán thân chuộc cha. Nàng bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Lần đầu, Thúc Sinh chuộc Kiều và cưới nàng làm vợ lẽ, nhưng nàng bị Hoạn Thư đánh ghen. Nàng trốn khỏi nhà Thúc Sinh nhưng lại rơi vào tay Bạc Hà, Bạc Hạnh phải vào lầu xanh lần hai. Tại đây Kiều gặp Từ Hải – một anh hùng “đội trời đạp đất” chàng chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, giúp Kiều báo ân, báo oán. Kiều lại mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị chết đứng, Kiều bị ép lấy viên quan thổ quan. Nhục nhã, đau đớn nàng nhảy xuống sông Tiền. Nàng được sư Giác Duyên cứu và Thúy Kiều đi tu. Kim Trọng trở lại kết duyên với Thúy Vân nhưng vẫn không quên được Kiều, chàng đi tìm. Gặp được sư Giác Duyên nhờ đó mà gặp được Kiều. Hai người đoàn tụ nhưng duyên đôi lứa cũng đã hết.

Có thể nói đây là một tuyệt tác với nội dung sâu sắc cùng nghệ thuật thành công. Đây là một bức tranh của một xã hội tàn bạo bất công, chà đạp lên những con người nghèo khó, đặc biệt là người phụ nữ. Qua đó lên án các thế lực xấu xa. Đồng thời đề cao vẻ đẹp ngoại hình, tài năng cùng nhân phẩm và khát vọng chân chính của con người về tự do hạnh phúc, chân lí. Nguyễn Du là một nhà thiên tài văn học, doanh nhân, văn hóa, nhà nhân chủ nghĩa có ảnh hưởng tới sựu phát triển của nền văn học Việt nam. Nguyễn Du và Truyện Kiều sẽ sống mãi trong lòng người đọc, sống mãi với dân tộc.

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Duchi tiết nhất 3

Kể đến những tác giả, tác phẩm xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam, ta nghĩ ngay đến Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều của ông. Với tấm lòng nhân đạo tha thiết và tài năng văn học kiệt xuất, Nguyễn Du để lại ấn tượng sâu sắc qua những sáng tác của ông, đặc biệt là Truyện Kiều.

Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên (1765 - 1820), quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Xuất thân trong gia đình quý tộc, nhiều đời làm quan, có truyền thống văn chương. Cha là Nguyễn Nghiễm làm tới tể tướng dưới triều Lê, cũng là người giỏi văn chương. Mẹ là bà Trân Thị Tân người con gái xứ Kinh Bắc. Anh khác mẹ (con bà chính) Nguyễn Khản làm tới Tham Tụng, Thái Bảo trong triều. Nguyễn Du sống ở thời đại đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam, đó là sự kì khủng hoảng trầm trọng, giai cấp thông trị thối nát, tham lam, tàn bạo, các tập đoàn phong kiến (Lê - Trịnh- Nguyễn) chém giết lẫn nhau. Nông dân nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi, đời sống nhân dân khổ cực, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, tiêu biểu là phong trào Tây Sơn mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Huệ. Những yếu tố này tác động nhiều tới tình cảm, nhận thức của Nguyễn Du. Ông sớm lâm vào cảnh mồ côi (9 tuổi cha mất, 12 tuổi mẹ mất), phải sống phiêu bạt nhiều năm, nhiều nơi, lúc ở Thăng Long, lúc lại vào quê nội Hà Tĩnh, có giai đoạn về quê vợ ở Thái Bình. Những biến động lịch sử và cuộc đời đó đã tác động nhiều đến tâm hồn và tư tưởng của Nguyễn Du. Bởi thế ông cũng có nhiều tâm trạng: trung thành với nhà Lê, chống quân Tây sơn, sau này làm quan triều Nguyễn nhưng lại rụt rè, u uất. Có thể nói cuộc đời ông chìm nổi, gian truân, đi nhiều nơi, tiếp xúc nhiều hạng người, đời từng trải, vôn sông phong phú, có nhận thức sâu rộng, được coi là một trong năm người giỏi nhất nước Nam lúc bấy giờ. Ông còn là người có trái tim giàu lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc với những người nghèo khổ, với nhũng đau khổ của nhân dân Nguyễn Du nổi tiếng trước hết bởi cái tâm của một người luôn nghĩ đến nhân dân, luôn bênh vực cho những cuộc đời. những số phận éo le, oan trái, đặc biệt là thân phận người phụ nữ.

Nguyễn Du cũng là người có năng khiếu văn học bẩm sinh, bậc thầy trong việc sử dụng tiếng Việt, ngôi sao chói lọi trong nền văn học trung đại Việt Nam. Về sự nghiệp, văn học Nguyễn Du có nhiều sáng tạo lớn cả về chữ Hán và chữ Nôm. Các sáng tác chữ Hán có Thanh Hiên thi tập (78 bài), Bắc hành tạp lục (125 bài), Nam trung tạp ngâm (40 bài)... sáng tác chữ Nôm có Vân chiêu hồn, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, tiêu biểu là tác phẩm Truyện Kiều hay còn gọi là Đoạn trường tân thanh.

Truyện Kiều ra đời đầu thế kỉ XIX (khoảng từ 1805 - 1809), lúc đầu có tên là “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng kêu mới đứt ruột), sau này đổi thành “Truyện Kiều”. Tác phẩm viết dựa trên cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) nhưng đã có sự sáng tạo tài tình và thay đổi, bổ sung nhiều yếu tố trong cốt truyện cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Là truyện thơ Nôm được viết bằng thơ lục bát, dài 3254 câu, chia làm 3 phần (Gặp gỡ và đính ước; Gia biến và lưu lạc; Đoàn tụ). Đề tài của truyện là viết về cuộc đời Kiều nhưng thông qua đó tố cáo xã hội phong kiến lúc bấy giờ đã chà đạp, xô đẩy người phụ nữ vào bước đường cùng; đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của Thuý Kiều và của người phụ nữ nói chung. Tác phẩm còn thể hiện rất rõ hiện thực cuộc sống đương thời với "con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới muôn đời" của nhà thơ.

Truyện Kiều kể về cuộc đời truân chuyên của người con gái tài sắc Thuý Kiều. Thuý Kiều là một cô gái sinh trưởng trong gia đình họ Vương có ba chị em: Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan. Kiều là người con gái tài năng và nhan sắc thuộc bậc trên người. Nàng còn là người con hiếu nghĩa. Trong hội đạp thanh, Kiều gặp Kim Trọng, họ đã yêu nhau sau đó đính ước. Khi Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, gia đình Kiều gặp tai biến, Kiều phải bán mình chuộc cha. Mã Giám sinh mua Kiều về Lâm Tri. Tú Bà lập mưu biến nàng thành gái lầu xanh. Thúc Sinh chuộc Kiều và cưới nàng làm vợ lẽ. Nàng lại bị Hoạn Thư - vợ Thúc Sinh sai lính đến bắt về làm hoa nô và bày trò đánh ghen. Nàng trốn khỏi nhà Thúc Sinh. Nhưng lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh phải vào lầu xanh lần thứ hai. Tại đây, Kiều gặp Từ Hải - một anh hùng “đội trời, đạp đất”, chàng chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, giúp Kiều báo ân, báo oán. Kiều lại mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị chết đứng. Kiều bị ép lấv viên thổ quanể Nhục nhã, đau đớn, nàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự tư. được sư Giác Duyên cứu và đi tu. Kim Trọng trở lại sau nửa năm, chàng kết duyên với Thuý Vân theo lời trao duyên của Kiều.

Sau này, Kim Trọng và Vương Quan đã bỏ nhiều công sức tìm Thúy Kiều. Rất may họ đã gặp lại Thuý Kiều, Kiều được đoàn tụ với gia đình và Kim Trọng sau mười lăm năm lưu lạc.

Giá trị của Truyện Kiều được thể hiện trên hai phương diện chủ yếu là nội dung và nghệ thuật.

Giá trị nội dung thể hiện qua giá trị hiện thực và nhân đạo.

Giá trị hiện thực của tác phẩm là phản ánh hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị. Sức mạnh của đồng tiền và số phận những con người bị áp bức, nạn nhân của đồng tiền, đặc biệt là người phụ nữ. Gia đình nhà Vương ông đang sống bình yên, chỉ vì một lời không đâu vào đâu của thằng bán tơ “vu oan giá hoạ”, thế là cuộc sống yên lành bị phá vỡ, tai hoạ ở đâu ập xuống nhà Kiều. Sau cái cớ ấy bọn sai nha tiến vào nhà Kiều cướp phá đánh đập, chúng đã được một lũ quan lại dung túng, bảo hộ, giật dây. Kẻ cầm đầu lũ vô lại đấy đã thảng thắn đòi: “Có ba trăm lạng, việc này mới xong”. Tên quan xử kiện vụ án của Kiều được Nguyễn Du đặc tả: “Trông lên mặt sắt đen sì”. Hồ Tôn Hiến, tên quan lớn nhất trong Truyện Kiều, đại diện cho triều đình phong kiến với tư cách là một Tổng đốc trọng thần nhưng lại “Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”. Sức mạnh của đồng tiền khi nó nằm trong tay kẻ xấu thật kinh khủng, đồng tiền đã thành một thế lực vạn năng chi phối mọi hoạt động, làm băng hoại lương tâm, nhân phẩm của con người. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã viết về đồng tiền trong Truyện Kiều: “Quan lại vì tiền mà bất chấp công lí, sai nha vì tiền mà tra tấn cha con Vương ông, Tú bà, Mã Giám sinh vì tiền mà làm nghề buôn thịt bán người, Sở Khanh vì tiền mà táng tận lương tâm, Khuyển Ưng vì tiền mà lao vào tội ác, cả một xã hội chạy theo đồng tiền”. Cuộc đời đầy nước mắt của người con gái tài sắc Thuý Kiều cũng bắt đầu từ chính sức mạnh và sự bất nhân của đồng tiền.

Giá trị nhân đạo được thể hiện trước hết là sự trân trọng đề cao con người từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng khát vọng đến ước mơ và tình yêu chân chính. Về ngoại hình, ta thấy Thuý Vân là một thiếu nữ đoan trang phúc hậu, Thuý Kiều đẹp thuộc diện “sắc trung chi thánh”- quá ư là hơn người, hơn đời, Kim Trọng mang vẻ đẹp của một văn nhân thư sinh, Từ Hải đẹp kiểu người anh hùng: vai năm tấc rộng thân mười thước cao. về phẩm chất Thuý Vân là một cô gái ngoan. Kim Trọng - một chàng trai chung tình. Thuý Kiểu tài năng (Cầm, kì, thi, hoạ) - một người con hiếu thảo, giàu đức hy sinh, người yêu chung thuỷ. Tình yêu Kim Kiều - Tinh yêu hồn nhiên trong trắng, nó vượt sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến trong thời điểm chế độ phong kiến suy tàn.

Bên cạnh đó Truyện Kiều còn lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người, đề cao tự do và công lí. Thuý Kiều điển hình cho người phụ nữ trong xã hội xưa, mười lăm năm lưu lạc của nàng là một chuỗi bi kịch. Dường như bao nhiêu nỗi cực khổ của người đàn bà thời trước đều ập xuống vai nàng. Từ một cô tiểu thư khuê các, Kiều trở thành hàng hoá để cho người ta mua bán, rồi Kiều bị lừa gạt bị rơi vào lầu xanh tới hai lần, đem thân đi làm lẽ, làm đứa ở, rồi bị đánh đòn, lãng nhục trở thành tội phạm ở công đường, bị sỉ nhục, bị rơi vào cảnh giết chồng, kết thúc là phải tự vẫn. Cuộc đời Thuý Kiều là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo xã hội phong kiến bất nhân, xã hội ấy làm cho người lương thiện phải tìm đến cái chết. Còn khát vọng tự do và công lý được ông gửi gắm qua nhân vật Từ Hải và màn báo ân báo oán.

Mặt khác Truyện Kiều còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người đặc biệt là người phụ nữ. Nguyễn Du như khóc cùng tiếng đàn và cuộc đời của Thuý Kiều, ông cũng bày tỏ thái độ trân trọng Kiều cho dù có lúc nàng đã là hạng người dưới đáy của xã hội.

Mặt khác, Truyện Kiều của Nguyễn Du có thể khắc sâu trong lòng nhân dân như vậy còn ở giá trị nghệ thuật. Trong tác phẩm của mình ông đã bộc lộ sự tài hoa, sắc sảo trong nghệ thuật tự sự, miêu tả nhân vật, tả cảnh, sử dụng ngôn từ... hay nói đúng hơn là giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Vê ngôn ngữ: Truyện Kiều là một kiệt tác nghệ thuật, với bút pháp của một nghệ sĩ thiên tài, tiếng Việt trong Truyện Kiều đã đạt đến độ giàu và đẹp. Vê nghệ thuật tự sự, thành công của Truyện Kiều trên tất cả các phương diện: ngôn ngữ kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả - tả cảnh ngụ tình.

Nhận xét về Nguyễn Du và Truyện Kiều, tác giả Mộng Liên Đường trong lời tựa Truyện Kiều đã viết: “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thìa, ngậm ngùi, đau đớn đến đứt ruột. Tố Như sử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh cũng hệt, đàm tình đã thiết, nếu không có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy” chính là đã khái quát rất tuyệt vòi về giá trị của Truyện Kiều trên mọi phương diện.

Từ quê hương, xã hội, gia đình, cuộc đời, năng khiếu bẩm sinh, đã tạo cho Nguyễn Du có trái tim yêu thương vĩ đại, một thiên tài văn chương với sự nghiệp văn học có giá trị lớn. Ông là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, là danh nhân văn hoá thế giới, đóng góp to lớn đối với sự phát triển của văn học Việt Nam. Nguyễn Du và Truyện Kiều sẽ sống mãi với dân tộc và trở thành linh hồn của dân tộc.

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du 4

Nguyễn Du từ những điều đã “ trông thấy” mà “ đau đớn lòng”, từ việc học tiếng nói của người trồng dâu và cả trái tim nhân đạo lớn, một tài năng lớn mà ông đã viết nên “ Truyện Kiều”. Đã mấy thế kỉ qua đi, nhưng “ Truyện Kiều” vẫn có một sức hấp dẫn đối với các thế hệ bạn đọc.

“ Truyện Kiều” được Nguyễn Du sáng tác dựa trên cốt truyện “ Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân. Từ câu chuyện đó, Nguyễn Du đã sáng tạo nên một câu chuyện mới. “ Truyện Kiều” có 3254 câu thơ Nôm và được viết bằng thể thơ lúc bát.

“ Truyện Kiều” xoay quanh nhân vật chính là Thúy Kiều và gồm có ba phần. Phần I đó là gặp gỡ và đính ước. Vào năm Gia Tĩnh triều Minh, có một nhà viên ngoại họ Vương có ba người con. Nhà ông là thuộc kiểu “ Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung” và có ba người con, trong đó Thúy Kiều là chị cả, tiếp đó là Thúy Vân, em út là Vương Quan. Trong tiết thanh minh, ba chị em đi du xuân và tình cờ trong buổi hôm đó, Thuý Kiều đã gặp được Kim Trọng- một văn nhân tài tử. Hai người gặp gỡ nhau rồi sau đó, thề nguyện cùng nhau.

Phâng II, đó là gia biến và lưu lạc. Không lâu sau đó, gia đình Kim Trọng xảy ra biến cố, chàng phải trở về quê để chịu tang chú. Còn gia đình Kiều, cha nàng bị thằng bán tơ lừa nên Thúy Kiều buộc phải bán mình để chuộc cha. Sóng gió cuộc đời xô đẩy khiến nàng rơi vào tay những kẻ buôn phấn bán hương như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh. Nhưng rồi, một khách làng chơi là Thúc Sinh đã cứu nàng khỏi chốn lầu xanh. Vợ của Thúc Sinh là Hoạn Thư vì ghen với nàng nên nàng bỏ đi và nương nhờ nơi cửa Phật. Sư Giác Duyên vô tình giao lầm nàng cho Bạc Bà, Bạc Hạnh- những kẻ cũng giống như Tú Bà, Mã Giám Sinh. Kiểu rơi vào lầu xanh một lần nữa. Từ Hãi bống xuất hiện và cứu vơt nàng khỏi chốn nhơ nhớp đó. Tưởng rằng từ đây hạnh phúc đã mỉm cười với nàng...Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, nàng phải hầu rượu cho hắn ta. Thúy Kiều quyết định tự tử và một lần nữa sư Giác Duyên đã cứu nàng.

Phần III, đó là đoàn tụ. Sau khi chịu tang chú xong, Kim Trọng trở về thì hay tin Thuý Kiều đã bán mình chuộc cha và trao duyên cho em gái là Thuý Vân. Kim Trọng vô cùng đau khổ. Thúy Kiều trở về nhưng Kim Trọng và Thúy Kiều quyết định “ Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”

“ Truyện Kiều” có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Nguyễn Du đã phơi bày những hiện thưch xấu xa, tàn ác trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Đồng thời, trái tim của đại thi hào cũng đồng cảm với những con người mà “ tài mệnh tương đố”, Nguyễn Du trân trọng và ngợi ca những giá trị tốt đẹp, đồng tình với những ước mơ, khát vọng của họ.

Về giá trị nghệ thuật, Nguyễn Du đã kế thừa thể thơ lục bát từ văn học dân gian. Đồng thời, ngôn ngữ mà ông sử dụng thật chính xác và giàu giá trị biểu cảm, có giá trị nghệ thuật cao.

“ Truyện Kiều” luôn có một sức hấp dẫn đối với các thế hệ bạn đọc. Những vấn đề mà Nguyễn Du đã đặt ra không chỉ có ý nghĩa thời đại mà còn chạm đến những vấn đề mang tính muôn đời. Vì vậy, mỗi chúng ta hãy trân trọng kiệt tác của dân tộc, đó chính là viên ngọc quý không dễ có được, thậm chí là vài trăm năm ta mới thấy xuất hiện một lần.

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du 5

Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân).

Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ât Dậu) trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới triều Lê, Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca.

Quê hương Nguyễn Du là vùng đất địa linh, nhân kiệt, hiếu học và trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống học vấn uyên bác, có nhiều tài năng văn học. Gia đình và quê hương chính là “mảnh đất phì nhiêu” nuôi dưỡng thiên tài Nguyễn Du.

Thời thơ ấu, Nguyễn Du sống trong nhung lụa. Lên 10 tuổi lần lượt mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp những sóng gió trong cơn quốc biến ba đào: sống nhờ Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ làm Thừa tướng phủ chúa Trịnh) thì Nguyễn Khản bị giam, bị Kiêu binh phá nhà phải chạy trốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường rồi làm một chức quan vô tận Thái Nguyên. Chẳng bao lâu nhà Lê sụp đổ (1789) Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình rồi vợ mất, ông lại về quê cha, có lúc lên Bắc Ninh quê mẹ, nhiều nhất là thời gian ông sống không nhà ở kinh thành Thăng Long.

Hơn mười năm chìm nổi long đong ngoài đất Bắc, Nguyễn Du sống gần gũi nhân dân và thấm thìa biết bao nỗi ấm lạnh kiếp người, đặc biệt là người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày… những con người “dưới đáy”. Chính nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du – nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

Miễn cưỡng trước lời mời của nhà Nguyễn, Nguyễn Du ra làm quan. Năm 1813 được thăng chức Học sĩ điện cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Năm 1820, ông lại được cử đi lần thứ hai nhưng chưa kịp đi thì mất đột ngột ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18-9-1820). Suốt thời gian làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du sống trầm lặng, ít nói, có nhiều tâm sự không biết tỏ cùng ai.

Tư tường Nguyễn Du khá phức tạp và có những mâu thuẫn: trung thành với nhà Lê, không hợp tác với nhà Tây Sơn, bất đắc dĩ làm quan cho nhà Nguyễn. Ông là một người có lí tưởng, có hoài bão nhưng trước cuộc đời gió bụi lại buồn chán, Nguyễn Du coi mọi chuyện (tu Phật, tu tiên, đi câu, đi săn. hành lạc…) đều là chuyện hão nhưng lại rơi lệ đoạn trương trước những cuộc bể dâu. Nguyễn Du đã đứng giữa giông tố cuộc đời trong một giai đoạn lịch sử đầy bi kịch. Đó là bi kịch của đời ông nhưng chính điều đó lại khiến tác phẩm của ông chứa đựng chiều sâu chưa từng có trong thơ văn Việt Nam.

Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán là: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, tổng cộng 250 bài thơ Nôm, Nguyễn Du có kiệt tác Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và một số sáng tác đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; vè Thác lèn trai phường nón.

Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du tâm sự:

“Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Chính “những điều trông thấy" khiến tác phẩm của Nguyễn Du có khuynh hướng hiện thực sâu sắc. Còn nỗi “đau đớn lòng” đã khiến Nguyễn Du trở thành một nhà thơ nhân đạo lỗi lạc.

Nguyễn Du là nhà thơ “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả ĩ hăng vang động của đời” (Nam Cao). Thơ chữ Hán của Thanh Hiên giống hửng trang nhật kí đời sống, nhật kí tâm hồn vậy. Nào là cảnh sống lây it, nào là ốm đau, bệnh tật cho đến cảnh thực tại của lịch sử… đều được Nguyễn Du ghi lại một cách chân thực (Đêm thu: Tình cờ làm thơ; Ngồi dèm…). Nguyễn Du vạch ra sự đối lập giữa giàu – nghèo trong Sở kiến hành hay Thái Bình mại giả ca… Nguyễn Du chống lại việc gọi hồn Khuất Nguyên về nước Sở của Tống Ngọc là bởi nước Sở “cát bụi lầm cả áo người” toàn bọ "vuốt nanh”, “nọc độc”, “xé thịt người nhai ngọt xớt”… Nước Sở của Khuất Nguyên hay nước Việt của Tố Như cũng chỉ là một hiện thực: cái ác hoành hành khắp nơi, người tốt không chốn dung thân. Truyện Kiều mượn bôi cảnh đời Minh (Trung Quốc) nhưng trước hết là bản cáo trạng đanh thép ghi lại “những điều trông thấy” của Nguyễn Du về thời đại nhà thơ đang sống. Phản ánh với thái độ phê phán quyết liệt, đó là khuynh hướng hiện thực sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du.

Sáng tác của Nguyễn Du bao trùm tư tưởng nhân đạo, trước hết và trên hết là niềm quan tâm sâu sắc tới thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng mà còn là khúc ca tình yêu tự do trong sáng, là giấc mơ tự do công lí “tháo cũi sổ lồng”. Nhưng toàn bộ Truyện Kiều chủ yếu là tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ.

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Không chỉ Truyện Kiều mà hầu hết các sáng tác của Nguyễn Du đều bao trùm cảm hứng xót thương, đau đớn: từ Đọc Tiểu Thanh kí đến Người ca nữ đất Long Thành, từ Sờ kiến hành đến Văn té thập loại chúng sinh… thậm chí Nguyễn Du còn vượt cả cột mốc biên giới, vượt cả ranh giới ta – địch và vượt cả sự cách trở âm dương để xót thương cho những kẻ chết trận, phơi “xương trắng” nơi “quỉ môn quan”.

Không chỉ xót thương, Nguyễn Du còn trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, cùng những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt qua một số ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo để vươn tới khẳng định giá trị tự thân của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông đem lại cho văn học Việt Nam trong thời đại ông.

Nguyễn Du đã đóng góp lớn về mặt tư tưởng, đồng thời có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật.

Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển.

Nguyễn Du đóng góp rất lớn, rất quan trọng cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học Tiếng Việt: tỉ lệ từ Hán – Việt giảm hẳn, câu thơ tiếng Việt vừa thông tục, vừa trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, ngắt nhịp đa dạng, tiểu đối phong phú, biến hóa. Thơ Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của tiếng Việt văn học Trung Đại. Đặc biệt Truyện Kiều cùa Nguyễn Du là “tập đại thành” về ngôn ngữ văn học dân tộc.

Xin được mượn những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu tri âm cùng Tố Như để thay cho lời kết:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”.

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du hay nhất 6

 Nguyễn Du - đại thi hào dân tộc Việt Nam , ông đã để lại cho đời nhiều áng văn bất diệt. Trong đó phải kể đến Truyện Kiều – viên ngọc sáng của nền văn học dân tộc. TRuyện Kiều không chỉ được biết đến ở nước ta mà ngay cả bạn bè quốc tế cũng phải thán phục tài năng và tấm lòng của con người “ có con mắt nhìn thấu sáu cõi tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời .” ( Mộng Liên Đường chủ nhân )

       Truyện Kiều của Nguyễn Du có tên là Đoạn trường tân thanh ( tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột) . Tác phẩm không phải do Nguyễn Du hoàn toàn hư cấu mà tác giả dựa vào một tác phẩm của văn học cổ Trung Quốc có tên là Kim Vân Kiều truyện của tác giả có biệt hiệu hiệu là Thanh Tâm Tài Nhân . So sánh với nội dung của hai tác phẩm người ta thấy chúng giống nhau về cơ bản . Có thể nói Nguyễn Du đã dựa khá sát vào Kim Vân Kiều truyện để viết tác phẩm của mình . Nhưng phần sang tạo của Nguyễn Du cũng không hề nhỏ và đây chính là yếu tố làm nên một kiệt tác thơ Nôm và một đại thi hào người người đều phải cúi đầu nể phục.

        Truyện Kiều gồm 3254 câu thơ được viết dưới dạng thể thơ lục bát truyền thống. Câu chuyện được viết bằng chữ Nôm gồm ba phần chính :

-         Phần 1 : gặp gỡ và đính ước : Thúy Kiều là người con gái tài sắc vẹn toàn, sống trong cảnh êm ấm cùng cha mẹ và hai em. Trong buổi du xuân vô tình gặp Kim Trọng. Hai bên nảy sinh tình cảm và chủ động, tự do đính ước.

-         Phần 2 : gia biến và lưu lạc : Khi Kim Trọng về quê, gia đình Kiều gặp tai biến. Kiều bán mình chuộc cha, nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho kim Trọng và bị bọn buôn người lừa vào lầu xanh. Kiều gặp Thúc Sinh và được Thúc Sinh cứu thoát khỏi cuộc đời kĩ nữ nhưng lại bị vợ cả của TS đày đọa. Kiều phải trốn đi và nương nhờ cửa Phật. Nhưng không may, Kiều lại rơi vào lầu xanh lần nữa. Ở đây nàng gặp Từ Hải. Từ Hải lấy Kiều làm vợ và giúp nàng báo ân, oán. Do bị Hồ Tôn Hiến lừa, Từ Hải bị giết, Kiều bị ép gả cho viên thổ quan. Đau đớn, tủi nhục, Kiều nhảy sông tự vẫn nhưng được sư Giác Duyên cứu và lại nương nhờ cửa Phật.

-         Phần 3 : đoàn tụ : Sau khi biết Kiều bán mình chuộc cha, Kim Trọng đau đớn vô cùng. Tuy đã lấy Thúy Vân nhưng chàng vẫn không nguôi mối tình đầu say đắm và quyết tâm đi tìm Kiều. Nhờ gặp sư Giác Duyên, Kiều, Trọng gặp nhau, gia đình đoàn tụ. Kiều chiều ý mọi người kết duyên cùng Kim Trọng nhưng cả hai cùng thề nguyện " duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy".

         Truyện Kiều là một cuốn tiểu thuyết bằng thơ , là tác phẩm phản ánh xã hội thông qua vận mệnh và tính cách nhân vật trung tâm là Vương Thúy Kiều . Câu chuyện kể về 15 năm lưu lạc của người con gái họ Vương . Tác phẩm mở đầu bằng thuyết tài mệnh tương đố và kết thúc bằng giải pháp tu tâm nhưng chất liệu làm nên tác phẩm lại là những điều trông thấy mà đau đớn lòng . Ngoài vấn đề trung tâm được đặt ra trong tác phẩm là vấn đề số phận con người trong xã hội phong kiến suy tàn nhà thơ còn phản ánh khát vọng lớn lao của con người thời đại .

       Giá trị hiện thực của tác phẩm : đây là một bức tranh hiện thực về xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX thối nát ,bất công ,tàn bạo. Đó là một xã hội đồng tiền làm thay đổi cán cân công lý đổi trắn thay đen. Giá trị nhân đạo của tác phẩm : lên án tố cáo xã hội phong kiến suy tàn thối nát đã dồn đẩy con người ta vào bước đường cùng không lối thoát. Từ đó thể hiện tấm lòng đồng cảm xót thương trước bi kịch cuộc đời con người, trân trọng ngợi ca vẻ đẹp của họ. Giá trị nghệ thuật : thể thơ lục bát uyển chuyển nhịp nhàng tinh tế lôi cuốn. Ngôn ngữ văn học dân tộc đạt đến đỉnh cao rực rỡ. Nghệ thuật tự sự bằng thơ qua đây ta còn thấy được bút pháp tả người điêu luyện, tả cảnh đặc sắc và miêu tả nội tâm nhân vật tinh tế của đại thi hào họ Nguyễn.

        Truyện Kiều là một kiệt tác thơ nôm với ngôn ngữ thơ bác học , là viên ngọc sang của nền văn học dân tộc được lưu truyền hàng trăm năm nay và được dịch ra nhiều thứ tiếng.

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du 7

Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới đồng thời cũng là một nhà nhân đạo chủ nghĩ lớn. Ông để lại cho kho tàng văn học dân tộc rất nhiều tác phẩm có giá trị và một trong số đó chính là kiệt tác “ Truyện Kiều” .

Trước tiên muốn hiểu hơn về kiệt tác “ Truyện Kiều” , chúng ta cần phải hiểu rõ hơn về tác giả Nguyễn  Du. Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên (1765 – 1820), quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong gia đình quý tộc, nhiều đời làm quan, có truyền thống văn chương. Cha là Nguyễn Nghiễm làm tới tể tướng dưới triều Lê, cũng là người giỏi văn chương. Mẹ là bà Trân Thị Tân người con gái xứ Kinh Bắc. Anh khác mẹ (con bà chính) Nguyễn Khản làm tới Tham Tụng, Thái Bảo trong triều. Nguyễn Du sống ở thời đại đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam, đó là sự kì khủng hoảng trầm trọng, giai cấp thông trị thối nát, tham lam, tàn bạo, các tập đoàn phong kiến (Lê – Trịnh- Nguyễn) chém giết lẫn nhau. Nông dân nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi, đời sống nhân dân khổ cực, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, tiêu biểu là phong trào Tây Sơn mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Huệ. Những yếu tố này tác động nhiều tới tình cảm, nhận thức của Nguyễn Du. Ông sớm lâm vào cảnh mồ côi (9 tuổi cha mất, 12 tuổi mẹ mất), phải sống phiêu bạt nhiều năm, nhiều nơi, lúc ở Thăng Long, lúc lại vào quê nội Hà Tĩnh, có giai đoạn về quê vợ ở Thái Bình. Những biến động lịch sử và cuộc đời đó đã tác động nhiều đến tâm hồn và tư tưởng của Nguyễn Du. Bởi thế ông cũng có nhiều tâm trạng: trung thành với nhà Lê, chống quân Tây sơn, sau này làm quan triều Nguyễn nhưng lại rụt rè, u uất. Có thể nói cuộc đời ông chìm nổi, gian truân, đi nhiều nơi, tiếp xúc nhiều hạng người, đời từng trải, vôn sông phong phú, có nhận thức sâu rộng, được coi là một trong năm người giỏi nhất nước Nam lúc bấy giờ. Ông còn là người có trái tim giàu lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc với những người nghèo khổ, với nhũng đau khổ của nhân dânệ Nguyễn Du nổi tiếng trước hết bởi cái tâm của một người luôn nghĩ đến nhân dân, luôn bênh vực cho những cuộc đời. nhữne số phận éo le, oan trái, đặc biệt là thân phận người phụ nữ.

Có lẽ chính vì có nhiều sự trải nghiệm cuộc đời nên ông có “ con mắt nhìn thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” để có thể tạo ra được kiệt tác “ Truyện Kiều”. Đây là tác phẩm thành công trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Trước hết là về nội dung,tác phẩm đã phản ánh được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nhà văn. Nhà văn đã phản ánh hiện thực của xã hội thông qua việc phác họa thân phận của nhân vật Thúy Kiều- một người con gái đầy bất hạnh vì chữ hiếu mà phải bán mình chuộc cha và rơi vào bi kịch éo le suốt mười lăm năm. Đồng thời qua đó cũng thể hiện hiện thực xã hội lúc bấy giờ đầy bất công ngang trái đã đẩy người nông dân đặc biệt là người phụ nữ vào bất hạnh khổ đau. Từ giá trị hiện thực của tác phẩm, nhà thơ cũng nói lên tấm lòng nhân đạo của mình thông qua bốn biểu hiện đó là trân trọng ngợi ca vẻ đpẹ của người phụ nữ, lên án phê phán những thế lực bạo tàn đã chà đạp lên thân phận người phụ nữ, đồng cảm xót xa với những số phận khổ đau đồng thời bày tỏ sự đồng tình với những khát vọng chính đáng của họ. Bên cạnh thành công trong giá trị nội dung, “ Truyện Kiều” còn cho thấy tài năng bậc thầy của Nguyễn Du trong việc sử dụng nghệ thuật đặc biệt là nghệ thuật ngôn từ. Ông vận dụng rất điêu luyện các điển tích điển cố, sử dụng tính ước lệ tượng trưng trong thơ cổ để miêu tả phác họa nhân vật kết hợp với việc sử dụng thành thạo các biện pháp tu từ nghệ thuật…

Nói tóm lại, “Truyện Kiều”của Nguyễn Du xứng đáng là tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Du nói riêng và của nền văn học Việt Nam nói chung trong thế kỉ XIX. Tác phẩm đã thể hiện được tài năng của đại thi hào Nguyễn Du để rồi cho đến tận bây giờ khi đọc lại tác phẩm này, chúng ta vẫn không khỏi thán phục và tự hào về người nghệ sĩ này.

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du 8

Gần hai trăm năm nay Truyện Kiều đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân nước ta, trở thành một tài sản vô giá, một viên ngọc “càng mài càng sáng” trong kho tàng văn học Việt Nam.

Nguyễn Du là danh nhân văn hóa lớn, một nhà nhân đạo lí tưởng, một đại thi hào tài ba của dân tộc. Suốt cuộc đời của mình, Nguyễn Du đã để lại cho kho tàng văn học dân tộc rất nhiều những tác phẩm xuất sắc- một tài sản đồ sộ mà vô giá: đồ sộ về số lượng và vô giá về tầm tư tưởng cao cả vĩ đại vượt thời đại của đại thi hào. Trong đó, “Đoạn trường tân thanh” mà chúng ta vẫn hay gọi là “Truyện Kiều” là kiệt tác vĩ đại nhất và ông để lại cho nhân loại.

Truyện Kiều được viết theo thể loại truyện thơ gồm 3254 câu thơ lục bát viết bằng chữ Nôm. Truyện được Nguyễn Du dựa theo cốt truyện cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều Truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân và là sản phẩm của sự tiếp thu có sáng tạo đồng thời phù hợp với văn hóa dân tộc.

Truyện kể về nàng Thúy Kiều, là con gái một gia đình trung lưu lương thiện, Thuý Kiều sống bên cạnh cha mẹ và hai em là Thuý Vân, Vương Quan. Truyện chia làm ba phần. Phần một: Gặp gỡ và đính ước: Trong ngày hội Đạp Thanh, Thúy Kiều cùng hai em đi tảo mộ, tại đây, nàng gặp được nấm mồ của Đạm Tiên. Cũng tại nơi đây, khi hoàng hôn buông xuống, nàng và chàng thư sinh nho nhã Kim Trọng đã hội ngộ và mang lòng cảm mến đối phương để rồi sau đó, hai bên đã cùng nhau đính ước.

Phần hai: Gia biến và lưu lạc. Khi Kim Trọng về quê hộ tang chú, gia đình Kiều bị vu oan, cha và em bị bắt. Kiều phải dứt lòng trao duyên cho Thúy Vân rồi bán mình chuộc cha. Nhưng nàng lại bị lần lượt bọn buôn người Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh dùng mọi thủ đoạn lừa gạt, khiến nàng rơi vào chốn lầu xanh. Nàng được Thúc Sinh, một khách làng chơi hào phóng, yêu thương và cứu vớt ra khỏi cuộc sống ở lầu xanh làm lẽ cho hắn. Vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư vì ghen tức, bày mưu bắt Kiều về hành hạ và đày đoạ. Kiều trốn đến nương nhờ Sư Giác Duyên ở nơi cửa Phật. Thật không may, sư Giác Duyên giao lầm Kiều vào tay kẻ xấu là Bạc Bà, Bạc Hạnh. Kiều rơi vào chốn phong trần lần nữa. Ở đây, nàng gặp người anh hung đội trời đạp đất Từ Hải. Từ Hải chuộc nàng về làm vợ, giúp Kiều báo ân báo oán. Do mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị giết, Kiều bị nhục phải hầu rượu, đánh đàn trong tiệc mừng công của quân triều rồi lại bị ép gả cho một viên thổ quan. Đau xót và tủi nhục, trên đường đi Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử nhưng lại được Giác Duyên cứu. Lần thứ hai, Kiều nương nhờ nơi cửa Phật.

Phàn ba: Đoàn tụ. Kim Trọng sau khi hộ tang chú, chàng trở lại tìm người yêu. Hay tin gia đình Kiều gặp nạn, Kim Trọng vô cùng đau đớn. Theo lời dặn của Kiều, Thuý Vân kết duyên với Kim Trọng. Không nguôi tình xưa, Kim Trọng lặn lội tìm kiếm và chàng đã gặp lại Kiều, cả gia đình đoàn tụ. Trong ngày đoàn viên vui vẻ, để bảo vệ “danh tiết" và tỏ lòng kính trọng người yêu, Kiều quyết định: “Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.

Về nội dung, Truyện Kiều có hai giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Truyện Kiều là một bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo, một xã hội đồng tiền tha hóa mà con người bị vùi dập không thương tiếc. Ở đó, xuất hiện nhiều vô kể những quan ham ô lại, nhà chứa nhơ nhớp, con buôn giáo dở,… Từ xã hội như thế, con người nhất là người phụ nữ bị đối xử bất công, bị chà đạp nhân phẩm nhưng vẫn không để mất đi một tâm hồn lương thiện tốt đẹp. Truyện đã cất tiếng nói cảm thông thương xót cho số phận con người đồng thời là sự khẳng định, đề cao tài năng, khát vọng sống, khát vọng tự do, công lí, khát vọng về một tình yêu hạnh phúc,…

Về nghệ thuật, tác phẩm là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại. Ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát mà Nguyễn Du sử dụng đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ. Ngôn ngữ gần gũi với cuộc sống nhưng lại không mất đi được yếu tố bác học, thẩm mĩ của ngôn từ đã tạo cho Truyện Kiều một tầm cao khó sánh. Là một thể loại truyện thơ, nghệ thuật tự sự của tác phẩm đã có bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn truyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lí con người.

Từ khi được sinh thành, Truyện Kiều đã được dịch ra hơn hai mươi thứ tiếng, có hàng ngàn những công trình lớn nhỏ nghiên cứu về nó và hàng ngàn những cuộc bút chiến xảy ra quanh nó. Tác phẩm đã đưa nền văn học dân tộc ra thế giới, chiếm một vị trí quan trọng trên diễn đàn quốc tế.

Mấy trăm nay trôi qua, Truyện Kiều vẫn giữ nguyên giá trị không chỉ bởi sự hoàn hảo của nguyên bản tác phẩm mà còn bởi tấm lòng nhân của Nguyễn Du sẽ tạo sức sống muôn đời cho tác phẩm.

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du hay nhất 9

"Trải qua một cuộc bể dâu

Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình

Nổi chìm kiếp sống lênh đênh

Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều".

Có biết bao nhà thơ, nhà văn khi đọc những trang thơ của Nguyễn Du không khỏi xúc động và cảm phục trước một tài năng xuất chúng của văn học Việt Nam, trước một kiệt tác văn hoá của dân tộc. Truyện Kiều là kiệt tác thơ văn, là cuốn sách "gối đầu giường" bao thế hệ người Việt, cuộc đời và số phận chìm nổi của nàng Kiều đến nay vẫn gợi ra bao xót xa, đau đớn khôn nguôi trong lòng người đọc, đó không chỉ là nỗi đồng cảm, xót xa cho cảnh ngộ đáng thương của riêng nàng Kiều trên trang thơ của Nguyễn Du mà còn là hoàn cảnh chung của rất nhiều người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Và vì lẽ ấy, mà Truyện Kiều và tác giả Nguyễn Du luôn giữ một với đặc biệt quan trọng trong văn học của Việt Nam nói riêng và văn học thế giới nói chung.

Nguyễn Du là một người con tại làng quê Tiên Điền, Hà Tĩnh - mảnh đất có truyền thống thơ văn, quê ngoại của ông ở Bắc Ninh, nơi nổi tiếng với những làn quan hỏi mượt mà. Bởi vậy mà ngày từ lúc còn nhỏ, Nguyễn Du đã có vốn am hiểu sâu sắc về văn hóa của nhiều làng quê Việt, ông càng hiểu và trân trọng hơn những giá trị văn hoá của quê hương mình. Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình khá giả, từng có nhiều thế hệ làm quan lớn trong triều, gia đình ông có truyền thống văn học, nhờ đó mà ông học hỏi được ít nhiều từ những người thân của mình.

Nguyễn Du sinh năm 1765 và mất vào năm 1820, ông sinh sống trong khoảng thời gian mà đất nước ta có nhiều biến động. Đây là thời kỳ suy tàn của chế độ phong kiến, lúc này Trịnh- Nguyễn đang đấu đá nhau, phân tranh khốc liệt, đặc biệt có nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra, đỉnh điểm là phong trào Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo. Xã hội lúc này có nhiều rối ren, đời sống nhân dân cũng khổ cực, loạn lạc, Nguyễn Du thấu hiểu và cảm thông với cuộc sống nhiều vất vả, khổ cực của nhân dân khi phải chịu nhiều đoạ đày, bất công của bọn thống trị tham lam, bạo ngược. Trái tim giàu lòng trắc ẩn và sự yêu thương của Nguyễn Du hướng về những kiếp người chịu nhiều ngang trái, đặc biệt là những người phụ nữ là yếu tố tạo nên những sáng tác thành công và đặc sắc của ông.

Nguyễn Du từng đi nhiều nơi, phiêu bạt khắp chốn, từng ra làm quan và đi sứ Trung Quốc, nhờ đó mà ông có vốn hiểu biết sâu sắc nhiều nền văn hoá và có vốn sống phong phú. Điều đó góp phần rất lớn trong việc sáng tác của ông.

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị, cả về thơ ,văn chữ Hán và chữ Nôm như Văn Chiêu Hồn, Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm,...đỉnh cao nhât là thi phẩm truyện thơ Nôm "Truyện Kiều".

Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du được sáng tác vào khoảng đầu thế kỉ XIX, tác phẩm được viết dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tuy nhiên, với tài năng và tấm lòng của mình, Nguyễn Du đã biến đổi và sáng tạo để làm tác phẩm của mình trở nên có giá trị riêng, mang hồn cốt riêng của dân tộc Việt và phù hợp với những hoàn cảnh, quan niệm của xã hội Việt Nam.

Truyện Kiều viết theo thể thơ của lục bát truyền thống của dân tộc, tổng số câu thơ trong truyện là 3254 câu với 3 phần chính: Phần một là gặp gỡ và đính ước kể về lương duyên gặp gỡ của Kiều - Kim và hai người nên duyên thề hẹn son sắt trong đêm thề đính ước. Phần hai là phần gia biến và lưu lạc, phần này viết về những năm tháng cơ hàn, lênh đênh, tủi nhục của nàng Kiều sau khi bán mình cứu cha và em. Phần ba cũng là phần cuối tác phẩm là đoàn tụ, lúc này Kim Kiều gặp lại nhau sau bao năm trời cách biệt, họ gặp gỡ, mừng tủi, vẫn trân quý nhau nhưng không nên duyên đôi lứa mà lựa chọn làm "duyên bạn bầy".

Với số lượng câu thơ đồ sộ, Nguyễn Du đã xây dựng nên Truyện Kiều với hệ thống các nhân vật vô cùng phong phú. Nhân vật chính diện có thể kể đến như Thúy Kiều, Thúy Vân, Từ Hải, Kim Trọng, Đạm Tiên,....Các nhân vật phản diện được xây dựng như Mã Giám Sinh, Tú bà Lầu Xanh, Sở Khanh,......Tuy số lượng nhân vật lớn nhưng bằng tài năng trong cách xây dựng nhân vật của mình, Nguyễn Du đã tạo nên các nhân vật không hề lặp lại, mỗi hành động, ngoại hình, tính cách của nhân vật đều riêng biệt, bởi vậy mà không có nhân vật nào giống nhau, không dễ bị nhầm lẫn nhau, mỗi nhân vật đều góp phần rất lớn trong việc thể hiện nội dung câu chuyện được kể.

Thi phẩm "Truyện Kiều" mang nhiều giá trị lớn cho văn học dân tộc. Về giá trị tư tưởng, truyện đã thể hiện được khát vọng tự do, mơ ước về bình đẳng và công lý của con người trong đời sống xã hội. Đồng thời, bộc lộ tiếng nói cảm thông, xót xa trước sự khổ đau mà những người phụ nữ như Kiều phải gánh chịu. Là bản án đanh thép tố cáo một xã hội chuyên quyền, độc đoán, xã hội mà đồng tiền trở thành sức mạnh chi phối cả lương tri, đạo đức của con người. Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều đã cho thấy được ngòi bút đầy điêu luyện của tác giả trong việc sử dụng kết hợp ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân. Nghệ thuật diễn tả nội tâm nhân vật qua hành động, qua nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" đầy đặc sắc, thể thơ lục bát được sử dụng tài tình, thuần thục. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện đầy mới mẻ và sáng tạo, đồng thời giống điệu thơ biến đổi đầy lĩnh hoạt, đặc biệt là giọng điệu buồn thương, xót xa khi viết về Kiều.

" Không biết bà trăm năm lẻ nữa

Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Trước đây, bây giờ và cho đến mãi sau này thì tên tuổi của đại thi hào dân tộc vẫn vang mãi trong trái tim của những thế hệ người đọc.

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du 10

Nguyễn Du là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong thế kỷ XIX. ‘Truyện Kiều’ của ông là đỉnh cao chói lọi và niềm tự hào lớn của nền văn học cổ Việt Nam.

  ‘Trải qua một cuộc hể dâu Những điều trông thấy mả đau đớn lòng’

  Áng thơ tự sự — trữ tình này không chỉ là tiếng nói lên án những thế lực đen tối, tàn bạo trong xã hội phong kiến thối nát mà còn ‘thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của thi hào Nguyễn Du’.

  1. Nội dung tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du được thể hiện trong ‘Truyện Kiều’ là gì?

  Tinh thần nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ ‘Truyện Kiều’. Đó là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người tài sắc, lòng hiếu nghĩa, vị tha, chung thủy trong tình yêu... Đó là tấm lòng của nhà thơ đổng tình với những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứa đôi, về tự do và công lý; là sự đổng cảm, xót thương trước bao nỗi đau, bị vùi dập của con người, nhất là đối với người phụ nữ ‘hạc mệnh’ trong xã hội phong kiến. Có thể nói, cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du là cảm hứng trân trọng thương yêu con người bị áp bức, chà đạp.

  2. Phân tích- chứng minh luận đế:

  a.  Tinh thần nhân đạo trong ‘Truyện Kiều’, trước hết là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp cùa con người. Kiều là hiện thân cùa cái đẹp và tài năng tuyệt vời. Nàng Kiều diễm, rực rỡ ‘Hoà ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh’. Kiều không chỉ đẹp ‘nghiêng nước, nghiêng thành ‘ mà còn có một tài nâng toàn diện, lỗi lạc rất đáng tự hào:

  'Thông minh vốn sẵn tính trời,

  Pha nghề thi hoạ đù mùi ca ngâm’.

  Kim Trọng, một văn nhân, tài tử ‘vào trong phong nhã ra ngoài hào hoà’. Là một ‘thiên tài’ hôi tu của tinh hoà thời đai ‘văn chương nết đất, thông minh tính trời’. Mỗi bước dị của chàng Kim đều đem đến cho đất trời cỏ cây hoà lá một sức sống đẹp tươi kỳ diệu:

  ‘Hài văn lần hước dặm xanh,

  Một vùng như thể cây quỳnh cành dao’.

  Môi tình Kim Trọng - Thúy Kiều là một thiên diễm tình. Đó làmột tình yêu tự nguyện vượt ra ngoài khuôn khổ lể giáo phong kiến, rất trong sáng và thủy chung

  của ‘người quốc sắc, ke’ thiên tài’.

  Kiều là một đứa con chí hiếu. Gia đình gập tai biến. Tài sản bị bọn sai nha ‘sạch sành vét cho dẩy túi tham’, cha bị tù tội. Kiều đã quyết hi sinh môi tình riêng,  để cứu cha và gia đình. Hành động bán mình chuộc cha của Thuý Kiều thể hiện đức hi sinh và thấm đượm một tinh thần nhân đạo cao đẹp, làm cho người đọc vô cùng cảm phục và xúc

động:

  - ‘Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

  Liêu đem tấc cò quyết đền ha xuân’

  -  ‘Thà rằng liều một thân con,

  Hoà dù rã cánh, lá còn xanh cây’.

  Đọc ‘Truyện Kiều’, lần theo con đường khổ ải của Kiều, ta vô cùng cảm phục trước tấm long đôn hậu, hiếu thảo, tình nghĩa của nàng. Kiều như quên hết nỗi đau cùa riêng mình mà dành tất cả tình thương nhớ thắm thiết cho cha mẹ và hai em. Nàng lo lắng cho cha mẹ già yếu, buồn đau, không ai chăm sóc đỡ đần:

  ‘Xót người tựa cửa hôm mai,

  Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ...’

  Tình tiết ‘trao duyên’ trong ‘Truyện Kiều’ cũng là một nét rất đẹp cùa tình cảm nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời ‘Hiếu tình khôn nhẽ hai dường vẹn hai’, Kiều đã ‘cậy em’ và trao duyên cho Thúy Vân thay mình trả nghĩa ‘nước non’ với chàng Kim:

  ‘ Ngày xuân em hãy cỏn dài,

  Xót tình máu mù thay lời nước non.

  Chị dù thịt nát xương mòn,

  Ngậm cười chín suôi hãy còn thơm lây.

  Chiếc thoa với hức tờ mảy,

  Duyên này thì giữ, vật này của chung’.

  b.  Tinh thẩn nhân dạo trong ‘Truyện Kiều’ còn là tiếng nói đổng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ước mơ về công lí, những khát vọng về tự do.

  Từ Hải là một hình tượng mang màu sắc sử thi, một anh hùng xuất chúng có tài nâng đích thực và sức mạnh phi thường. Một ngoại hình siêu phàm ‘Râu hùm hàm én máy ngài. Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao’. Những chiến công hiển hách, lảy lừng ‘Huyện thành đạp đổ nám toà cỗi nam’. Từ Hải là một anh hùng đầy chí khí ‘Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!’. người anh hùng ấy, khi lưỡi gươm vung lên là công lý được thực hiện:

  ‘Anh hùng tiếng đã gọi rằng Giữa dường dẫu thấy hất hằng mà tha’.

  Từ Hải đã đem uy lực của người anh hùng ra giúp Kiều ‘háo ân háo oán’. Hình tượng Từ Hải là một thành cổng kiệt xuất của Nguyễn Du trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, là một biểu hiện sâu sắc về tinh thần nhân đạo. vẻ đẹp nhân vàn toát lên qua hình tượng này, tựa như ánh sao băng lướt qua màn đêm giông bão tăm tối của đời nàng Kiều vậy Tuý ngắn ngủi nhưng sáng ngời hi vọng và niềm tin:

  ‘Rằng: Từ là đấng anh hùng.

  Dọc ngang trời rộng vẫy vùng hiển khơi’.

  c.  Số phận con người - dó là điểu day dứt khôn nguôi của Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà thơ đã dành cho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót thương sâu sắc.

  Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã ‘Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lẩn’. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết chết. Kiều phải hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan,... uất ức quá, nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc cất lên não lòng. Những từ ngữ: ‘thương thay’, ‘hại thay’, ‘làm chi’, ‘còn gì là thân’ tựa như những giọt lệ chứa chan tinh nhân đạo, khóc thương cho số đoạn trường:

  ‘ Thương thay cũng một kiếp người,

  .  Hại thay mang lấy sắc tài làm chi

  Những là oan khổ lưu li Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!’.

  Nhân vật Đạm Tiên mãi mãi là một ám ảnh đối với mọi người. Người kĩ nữ ‘nổi danh tài sắc một thì’ nhưng mệnh bạc đau đớn ‘Sôhg làm vợ khắp người ta. Hại thay thác xuống làm ma không chồng’. Kiều đứng trước mộ Đạm Tiên, cất lên lời đổng cảm thê thiết! Kiều khóc Đạm Tiên hay Nguyễn Du khóc thương cho nỗi đau của bao người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội cũ!

  ‘Đau đớn thay phận đàn hà Lời rằng hạc mệnh cũng là lời chung’.

  Nguyễn Du, nhà thơ thiên tài của dân tộc thông qua số phận và tính cách nhân vật trung tâm- Thúy Kiều - đã biểu hiện trong áng thơ tuyệt tác ‘Đoạn trường tân thanh’ cảm hứng nhân đạo sâu sắc, cảm động.

  Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này, Chúng ta vô cùng tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn tinh tế cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận cùa con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học Việt Nam.

  Nguyễn Du và ‘Truyện Kiều ‘ sống mãi trong tâm hồn dân tộc, như tiêng hát lòi ru của mẹ.

Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ là tiếng thương muôn đời:

  ‘ Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày...’

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du hay nhất 11

Truyện Kiều là một trong những kiệt tác hàng đầu của văn học dân tộc ở mọi thời đại, kết tinh nhiều giá trị vĩnh cửu. Truyện được sáng tác bởi Nguyễn Du - đại thi hào của dân tộc.

  Nguyễn Du dựa vào cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, đời Thanh ở Trung Quốc để sáng tạo ra Truyện Kiều. Truyện gồm 3254 câu thơ lục bát, là kiệt tác số một của nền thơ ca cổ điển Việt Nam.

  Cốt truyện xoay quanh câu chuyện về một gia đình sống ở đời Minh bên Trung Quốc. Vào thời kì đó, có gia đình Vương Viên ngoại sinh thành được ba người con: Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan. Hai chị em Kiều nhan sắc tuyệt trần, riêng Kiều còn có tài thi họa, ca, ngâm.

Nhân ngày hội Đạp Thanh, ba chị em Kiều đi chơi xuán, gặp một văn nhân tên là Kim Trọng. Kim - Kiều tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Kim Trọng tìm cách gặp gỡ Kiều, nhờ cành kim thoa mà hai người ước hẹn, thề nguyền dưới trăng: “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”.

Khi Kim Trọng về Liễu Dương hộ tang chú, gia đình Kiều gặp tai biến, Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha. Nàng trao duyên cho Thúy Vân rồi theo họ Mã về Lâm Truy. Kiều mắc lừa Sở Khanh, bị Tú Bà làm nhục Kiều vào lầu xanh lần thứ nhất. Kiều được Thúc Sinh chuộc ra lấy làm vợ lẽ. Hoạn Thư đánh ghen. Kiều bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư, lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh. Kiều vào lầu xanh lần thứ hai tại Châu Thai. Kiều được Từ Hải chuộc, lấy Từ Hải và trở thành mệnh phụ phu nhân. Kiều báo ân báo oán. Kiều và Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến. Từ Hải bị giết chết, Kiều bị ép lấy viên thổ quan, nàng nhảy xuống sông Tiền

Đường tự vẫn nhưng được cứu thoát rồi đi tu.

  Kim Trọng trở lại vườn Thúy, kết duyên với Thúy Vân. Kim Trọng và Vương Quan thi đỗ được bổ làm quan. Cả gia đình qua sống Tiền Đường may mắn gặp vãi Giác Duyên, tìm đến ngôi chùa Kiều đi tu. Kiều gặp lại cha mẹ, hai em và chàng Kim sau 15 năm trời lưu biệt.

  Truyện có giá trị nội dung hết sức sâu sắc. Đó là giá trị tố cáo hiện thực, lêu án xã hội phong kiến thối nát, những thế lực hắc ám tàn bạo, dã man đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc con người như bọn quan lại tham ô thối nát, bọn buôn thịt bán người, bọn ma cô lưu manh tàn ác; lên án mặt trái của đồng tiền hôi tanh...

  Giá trị nhân đạo của truyện thể hiện ở việc xót thương cho nỗi đau khổ của con người tài sắc bị dập vùi, nói lên ước mơ về hạnh phúc, tự do và công bằng, đề cao quyền sống của con người...

  Nguyễn Du còn thể hiện nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, tạo ra những mẫu người vớinhững tính cách tiêu biểu cho cái đẹp, cái xấu, cái thiệu, cái ác... trong xã hội phong kiến suy tàn, thôi nát. Bên cạnh đó là nghe thuật tự sự hấp dẫn, cảm động, tạo ra những tình huống, những bi kịch. Lúc miêu tả, lúc tả cảnh ngụ tình, lúc đôi thoại, câu chuyện về nàng Kiều diễn biến qua trên ba nghìn câu thơ liền mạch.

  Trong ngôn ngữ thi ca, Nguyễn Du đã kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ bá( học, sử dụng điển tích, thi liệu văn học cổ Trung Hoa với ca dao, tục ngữ. thành ngữ... nâng lên thành một ngôn ngữ văn chương trong sáng, trau chuốt, mượt mà, mẫu mực. Cho đến nay chưa có nhà thơ Việt Nam nào viết thơ lục bát trên ba nghìn câu hay bằng Nguyễn Du Truyện Kiều xứng đáng là “tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày” (Tố Hữu).

  Truyện Kiều đã được nhiều độc giả trong và ngoài nước biết đến, nó được liệt vào hàng những tác phẩm còn sống mãi với thời gian và tên tuổi của Nguyễn Du vì thế mà cũng không còn giới hạn ở trong nước nữa.

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du cực hay  12

Kiệt tác "Truyện Kiều" của Nguyễn Du nguyên có tên là “Đoạn trường tân thanh”. Đây là tác phẩm truyện thơ nôm lục bát viết dựa trên cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Mượn bối cảnh xã hội Trung Quốc đời nhà Minh (Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh) nhưng Truyện Kiều chính là bức tranh rộng lớn về cuộc sống thời đại lúc nhà thơ đang sống.

  Tác phẩm gồm 3254 câu lục bát kể về cuộc đời 15 năm lưu lạc, chìm nổi của Thúy Kiều, người  con  gái  tài  sắc  vẹn  toàn  nhưng  vì  gia  biến  phải  bán  mình  chuộc  cha,  rơi  vào  cảnh “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”, bị các thế lực phong kiến dày xéo, chà đạp.

  Về giá trị hiện thực, tác phẩm đã phơi bày bộ mặt xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, đồng thời phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.

  Về giá trị nhân đạo, Truyện Kiều là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp của con người. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du thể hiện ước mơ đẹp đẽ về một tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy trong xã hội mà quan niệm về tình yêu, hôn nhân còn hết sức khắc nghiệt. Mối tình Kim - Kiều được xem như là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu lứa đôi trong văn học dân tộc.

  Truyện Kiều còn là bài ca ca ngợi vẻ đẹp của con người. Đó là vẻ đẹp của tài, sắc, tình, lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, đức tính vị tha, thủy chung, chí khí anh hùng... Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó. Thông qua nhân vật Từ Hải, người anh hùng hảo hán, một mình dám chống lại cả xã hội bạo tàn, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng công lí tự do, dân chủ giữa một xã hội bất công, tù túng.

  Cùng với đó, Truyện Kiều còn là tiếng nói lên án các thế lực tàn bạo, chà đạp lên quyền sống con người. Thế lực đó được điển hình hóa qua các nhân vật như Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, qua bộ mặt quan tham như Hồ Tôn Hiến... Đó còn là sự tàn phá, hủy diệt của đồng tiền trong tay bọn người bất lương tàn bạo, nó có sức mạnh đổi trắng thay đen, biến con người thành thứ hàng hóa để mua bán, chà đạp.

  Về giá trị nghệ thuật, Nguyễn Du đã kết hợp tài tình tinh hoa của ngôn ngữ bác học với tinh hoa của ngôn ngữ bình dân. Với Truyện Kiều, tiếng Việt và thể thơ lục bát dân tộc đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ của nghệ thuật thi ca. Vì thế, Truyện Kiều là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại. Công đóng góp của Nguyễn Du về phương diện ngôn ngữ là có một không hai trong lịch sử.

  Nghệ thuật tự sự trong Truyện Kiều cũng đã đã có bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách nhân vật và miêu tả tâm lí con người. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc cho rằng Truyện Kiều là cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của văn học Việt Nam.

  Trong lời tựa cuốn Truyện Kiều ra mắt lần đầu tiên vào năm 1820, Mộng Liên Đường chủ nhân (Nguyễn Đăng Tuyển, 1795-1880) đã viết: “... Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời, thì tài nào có bút lực ấy...”.

  Với những giá trị to lớn ấy, hàng trăm năm nay, Truyện Kiều luôn được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả từ trí thức tới người bình dân, làm lay động trái tim của bao thế hệ người Việt Nam, là cảm hứng sáng tác cho rất nhiều những tác phẩm thi ca, nhạc họa sau này.

  Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng đã góp phần đưa văn học Việt Nam vượt ra khỏi bờ cõi của một quốc gia, trở thành một phần của tinh hoa của văn hóa nhân loại, ghi dấu ấn văn học

Việt Nam trên thi đàn quốc tế. Với Truyện Kiều nói riêng và toàn bộ trước tác của Nguyễn Du nói chung, ông được các thế hệ người Việt Nam tôn vinh là Đại thi hào dân tộc, Hội đồng Hòa bình thế giới vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới.

  Đánh giá về Truyện Kiều, trong Lời đầu sách Từ điển Truyện Kiều (1974), Giáo sư Đào Duy Anh viết: "Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học VN, nếu Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta.

  Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể nói rằng ngôn ngữ Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng biểu hiện đầy đủ và sâu sắc... Nguyễn Du sinh quán ở Thăng Long, tổ quán ở Nghệ - Tĩnh, mẫu quán ở Bắc Ninh, đã nhờ những điều kiện ấy mà dựng lên được một ngôn ngữ có thể nói là gồm được đặc sắc của cả ba khu vực quan trọng nhất của của văn hóa nước ta thời trước".  Còn Giáo sư - Nhà giáo Nhân dân Lê Đình Kỵ, người được xem là "chuyên gia Truyện Kiều" đã có những trang văn nhận định thú vị: "Truyện Kiều nổi lên so với những giá trị văn học đương thời, và khiến sáng tác của Nguyễn Du gần với chúng ta ngày nay, về cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Nhưng dù sao thì Nguyễn Du vẫn là người của thời đại mình, không thể thoát ly hoàn cảnh xã hội, lịch sử cụ thể, về cả hệ tư tưởng lẫn phương pháp nghệ thuật, thể hiện ở xu hướng lý tưởng hóa, ước lệ. Điều này khó tránh trong tình hình sáng tác chung, trong trình độ tư duy nghệ thuật chung đương thời... Trước sau Truyện Kiều vẫn là di sản vĩ đại, là tuyệt đỉnh của nền văn học dân tộc quá khứ. Quan điểm lịch sử cũng như đòi hỏi muôn đời của giá trị văn học đều cho phép ta khẳng định điều đó".

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du hay nhất 13

Truyện Kiều kể về cuộc đời truân chuyên của người con gái tài sắc Thuý Kiều. Thuý Kiều là một cô gái sinh trưởng trong gia đình họ Vương có ba chị em: Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan.

Kể đến những tác giả, tác phẩm xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam, ta nghĩ ngay đến Nguyễn Du và tác phẩm truyện Kiều của ông. Với tấm lòng nhân đạo tha thiết và tài năng văn học kiệt xuất, Nguyễn Du để lại ấn tượng sâu sắc qua những sáng tác của ông, đặc biệt là Truyện Kiều.

  Nguyễn Du cũng là người có năng khiếu văn học bẩm sinh, bậc thầy trong việc sử dụng tiếng Việt, ngôi sao chói lọi trong nền văn học trung đại Việt Nam. về sự nghiệp, văn học Nguyễn Du có nhiều sáng tạo lớn cả về chữ Hán và chữ Nôm. Các sáng tác chữ Hán có Thanh Hiên thi tập (78 bài), Bắc hành tạp lục (125 bài), Nam trung tạp ngâm (40 bài)... sáng tác chữ Nôm có Văn chiêu hồn, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, tiêu biểu là tác phẩm Truyện Kiều hay còn gọi là Đoạn trường tân thanh.

  Truyện Kiều ra đời đầu thế kỉ XIX (khoảng từ 1805 - 1809), tên đầy đủ là “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng kêu mới đứt ruột), mà thường được gọi là “Truyện Kiều”. Tác phẩm viết dựa trên cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) nhưng đã có sự sáng tạo tài tình và thay đổi, bổ sung nhiều yếu tố trong cốt truyện cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Là truyện thơ Nôm được viết bằng thơ lục bát, dài 3254 câu, chia làm 3 phần (Gặp gỡ và đính ước; Gia biến và lưu lạc; Đoàn tụ). Đề tài của truyện là viết về cuộc đời Kiều nhưng thông qua đó tố cáo xã hội phong kiến lúc bấy giờ đã chà đạp, xô đẩy người phụ nữ vào bước đường cùng; đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của Thuý Kiều và của người phụ nữ. Tác phẩm còn thể hiện rất rõ hiện thực cuộc sống đương thời với "con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới muôn đời" của nhà thơ.

  Truyện Kiều kể về cuộc đời truân chuyên của người con gái tài sắc Thuý Kiều. Thuý Kiều là một cô gái sinh trưởng trong gia đình họ Vương có ba chị em: Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan. Kiều là người con gái tài năng và nhan sắc thuộc bậc trên người. Nàng còn là người con hiếu nghĩa. Trong hội đạp thanh, Kiều gặp Kim Trọng, họ đã yêu nhau sau đó đính ước. Khi Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, gia đình Kiều gặp tai biến, Kiều phải bán mình chuộc cha. Mã Giám sinh mua Kiều về Làm Tri. Tú Bà lập mưu biến nàng thành gái lầu xanh. Thúc Sinh chuộc Kiều và cưới nàng làm vợ lẽ. Nàng lại bị Hoạn Thư - vợ Thúc Sinh sai lính đến bắt về làm hoa nô và bày trò đánh ghen. Nàng trốn khỏi nhà Thúc Sinh. Nhưng lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh phải vào lầu xanh lần thứ hai. Tại đây, Kiều gặp Từ Hải - một anh hùng “đội trời, đạp đất”, chàng chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, giúp Kiều báo ân, báo oán. Kiều lại mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị chết đứng. Kiều bị ép lấy viên thổ quan. Nhục nhã, đau đớn, nàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử, được sư Giác Duyên cứu và đi tu. Kim Trọng trở lại sau nửa năm, chàng kết duyên với Thuý Vân theo lời trao duyên của Kiều.

  Sau này, Kim Trọng và Vương Quan đã bỏ nhiều công sức tìm Thúy Kiều. Rất may họ đã gặp lại Thuý Kiều, Kiều được đoàn tụ với gia đình và Kim Trọng sau mười lăm năm lưu lạc. Giá trị của Truyện Kiều được thể hiện trên hai phương diện chủ yếu là nội dung và nghệ thuật.

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du 14

Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tức ngày 3/1/1866 ở kinh thành Thăng Long trong một gia đình quý tộc lớn. Thân sinh ông là Hoàng Giáp Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), làm quan đến tham tụng (tể tướng) tước Xuân quận công triều Lê. Mẹ ông là bà Trần Thị Tần, quê Kinh Bắc, đẹp nổi tiếng. 13 tuổi lại mồ côi mẹ, ông phải ở với người anh là Nguyễn Khản. Đời sống của người anh tài hoa phong nhã, lớn hơn ông 31 tuổi này rất có ảnh hưởng tới nhà thơ.

Nguyễn Du là nhà thơ sống hết mình, tư tưởng, tình cảm, tài năng nghệ thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể hiện rõ nhất qua áng văn chương tuyệt vời là Truyện Kiều

Sự thăng tiến trên đường làm quan của Nguyễn Du khá thành đạt. Nhưng ông không màng để tâm đến công danh. Trái tim ông đau xót, buồn thương, phẫn nộ trước “những điều trông thấy” khi sống lưu lạc, gần gũi với tầng lớp dân đen và ngay cả khi sống giữa quan trường. Ông dốc cả máu xương mình vào văn chương, thi ca. Thơ ông là tiếng nói trong trái tim mình. Đấy là tình cảm sâu sắc của ông đối với một kiếp người lầm lũi cơ hàn, là thái độ bất bình rõ ràng của ông đối với các số phận con người. Xuất thân trong gia đình quý tộc, sống trong không khí văn chương bác học, nhưng ông có cách nói riêng, bình dân, giản dị, dễ hiểu, thấm đượm chất dân ca xứ Nghệ.

Về văn thơ nôm, các sáng tác của ông có thể chia thành 3 giai đoạn. Thời gian sống ở Tiên Điền – Nghi Xuân đến 1802, ông viết “Thác lời trai phường nón Văn tế sống 2 cô gái Trường Lưu”. Đây là 2 bản tình ca thể hiện rất rõ tâm tính của ông, sự hoà biểu tâm hồn tác giả với thiên nhiên, với con người. Ba tập thơ chữ Hán thì "Thanh hiên thi tập" gồm 78 bài, viết lúc ở Quỳnh Côi và những năm mới về Tiên Điền, là lời trăn trở chốn long đong, là tâm sự, là thái độ của nhà thơ trước cảnh đời loạn lạc. Sau 1809, những sáng tác thơ của ông tập hợp trong tập “Nam Trung Tạp Ngâm” gồm 40 bài đầy cảm hứng, của tâm sự, nỗi niềm u uất.

Truyện Kiều được Nguyễn Du chuyển dịch, sáng tạo từ cuốn tiểu thuyết “Truyện Kim Vân Kiều" của Thanh Tâm Tài Nhân, tên thật là Tử Văn Trường, quê ở huyện Sơn Am, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. Truyện Kiều đã được nhân dân ta đón nhận một cách say sưa, có nhiều lúc đã trở thành vấn đề xã hội, tiêu biểu là cuộc tranh luận xung quanh luận đề "Chánh học và tà thuyết" giữa cụ Nghè Ngô Đức Kế và ông Phạm Quỳnh thu hút rất nhiều người của 2 phía cùng luận chiến. Không chỉ ảnh hưởng sâu sắc trong tầng lớp thị dân, Truyện Kiều còn được tầng lớp trên say mê đọc, luận. Vua Minh Mạng là người đầu tiên đứng ra chủ trì mở văn đàn ngâm vịnh Truyện Kiều và sai các quan ở Hàn Lâm Viện chép lại cho đời sau. Đến đời Tự Đức, nhà vua thường triệu tập các vị khoa bảng trong triều đến viết và vịnh Truyện Kiều ở văn đàn, ở Khu Văn Lâu.

Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại truyện nôm trong văn học trung đại Việt Nam.

Nguyễn Du là con người có trái tim giàu lòng yêu thương. Chính nhà thơ đã từng viết trong Truyện Kiều: "chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Mộng Liên Đường, chủ nhân trong lời tựa Truyện Kiều cũng đề cao tấm lòng của Nguyễn Du: "Nếu không có con mắt trông thấy cả 6 cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy".

Nguyễn Du dựa vào cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh tâm tài nhân (Trung Quốc), có bố cục theo 3 phần truyền thống của tác phẩm cổ điển:

Phần 1: Gặp gỡ & đính ước

Phần 2: Gia biến & lưu lạc

Phần 3: Đoàn tụ.

Nhân vật chính là người con gái tài sắc Thúy Kiều. Nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du là rất lớn. Điều này làm nên giá trị của kiệt tác Truyện Kiều.

Về nội dung, Truyện Kiều có 2 giá trị lớn là hiện thực & nhân đạo. Tác phẩm đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị & số phận những con người bị áp bức đau khổ, đặc biệc là số phận bi kịc của ngừ phụ nữ.

Truyện Kiều mang giá trị nhân đạo với những nội dung cơ bản: niềm thương cảm sâu sắc trc những đau khổ của con người, sự lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo, sự trân trọng, đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, khát vọng chân chính.

Về nghệ thuật, Truyện Kiều có những thành tựu lớn về nhiềuu mặt, nổi bật là ngôn ngữ & thể loại. Đến Truyện Kiều, tiếng Việt đã đạt đến trình độ đỉnh cao ngôn ngữ nghệ thuật bỉu đạt, biểu cảm & thẩm mĩ, kết hợp giữa ngôn ngữ dân tộc & ngôn ngữ bác học. Nghệ thuật tự sự, miêu tả trong tác phẩm thật đa dạng.

Ngày nay, Truyện Kiều vẫn đang được các nhà xuất bản in với số lượng lớn, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh giá cao Truyện Kiều. Kiệt tác Truyện Kiều có sức chinh phục lớn đối với nhiều thế hệ độc giả.

Tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng & được giới thiệu nhiều nước trên thế giới Dịch giả người Pháp Rơ-Ne-Crir-Sắc khi dịch Truyện Kiều đã viết bài nghiên cứu dài 96 trang, có đoạn viết: "Kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh một cách xứng đáng với kiệt tác của bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào”. Ông so sánh với văn học Pháp: “Trong tất cả các nền văn chương Pháp không một tác phẩm nào được phổ thông, được toàn dân sùng kính và yêu chuộng bằng quyển truyện này ở Việt Nam". Và ông kết luận: "Sung sướng thay bậc thi sĩ với một tác phẩm độc nhất vô nhị đã làm rung động và ca vang tất cả tâm hồn của một dân tộc". Năm 1965 được Hội đồng Hoà bình thế giới chọn làm năm kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du.

Nguyễn Du là nhà thơ sống hết mình, tư tưởng, tình cảm, tài năng nghệ thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể hiện rõ nhất qua áng văn chương tuyệt vời là Truyện Kiều. Đọc Truyện Kiều ta thấy xã hội, thấy đồng tiền và thấy một Nguyễn Du hàm ẩn trong từng chữ, từng ý. Một Nguyễn Du thâm thuý, trải đời, một Nguyễn Du chan chứa nhân ái, hiểu mình, hiểu đời, một Nguyễn Du nóng bỏng khát khao cuộc sống bình yên cho dân tộc, cho nhân dân

Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du cực hay 15

Cuộc đời người phụ nữ lênh đênh giữa dòng đời em trở thành đề tài cho nhiều tác giả từ xưa đến nay:

"Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu"

Nguyễn Du cũng thế. Rất nhiều tác phẩm của ông đã đề cập tới vấn đề trên mặt tiêu biểu trong số đó là Truyện Kiều.

Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ là Tố Như hiệu Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm từ làm chức tể tướng dưới thời Chúa Trịnh. Mẹ là Trần Thị Tần người vùng Kinh Bắc. Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng từng làm quan đam mê nghệ thuật và nổi tiếng hào hoa. Nguyễn Du sống ở cuối thế kỉ thứ 18 đầu thế kỷ 19 là thời kỳ xã hội phong kiến loạn li suy yếu, các giai cấp tranh giành địa vị chém giết lẫn nhau. Nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổi ra ở khắp nơi tiêu biểu là khởi nghĩa Tây Sơn lật đổ triều đình Lê Trịnh, Nguyễn và hơn 20 vạn quân Thanh. Trong vòng 10 năm từ năm 1786 đến năm 1796 ông sống phiêu bạt trên đất Bắc. Từ năm 1796 đến năm 1802 ông về ở ẩn tại quê nội Hà Tĩnh cho đến năm 1802 bất đắc dĩ làm quan cho triều Nguyễn. Năm 1813 đến năm 1814 ông được cử đi sứ Trung Quốc lần thứ nhất cho đến năm 1820 ông được cử đi sứ Trung Quốc lần thứ hai nhưng chưa kịp đi thì bệnh nặng và qua đời tại Huế. Nguyễn Du là một người thông minh am hiểu văn học, văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc. Ông quả là một thiên tài một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

Sự nghiệp sáng tác của ông rất đồ sộ. ông thành công trên cả hai lĩnh vực văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Văn học chữ Hán gồm ba tập thơ tiêu biểu " Thanh Hiên thi tập", " Nam Trung tạp ngâm", " Bắc hành tạp lục". Về văn học chữ Nôm ông có các tác phẩm tiêu biểu như " văn tế", " Văn Chiêu hồn" và xuất sắc nhất là tác phẩm "đoạn trường tân thanh" hay còn gọi là "Truyện Kiều".

"Truyện Kiều" làm một bài thơ Bông gồm 3.254 câu thơ được tác giả viết dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.

Truyện Kiều kể về Thúy Kiều là một thiếu nữ xinh đẹp là con đầu lòng của một gia đình trung lưu lương thiện sống trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che cùng với hai em là Vương quan và Thúy Vân. Trong buổi tối du xuân nhân tiết Thanh Minh Thúy Kiều đã gặp Kim Trọng.

Giữa hai người họ thiếu nợ một mối tình đẹp. Kim Trọng đến ở nhờ nhà Thúy Kiều. Nhân trả chiếc thoa rơi hai người chủ động tự do đính ước. Trong khi Kim Trọng về quê chịu tang chú gia đình Kiều bị mắc oan,Kiều đành nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng còn nàng thì bán mình chuộc cha. Nàng bị bọn buôn người đẩy vào lầu xanh. Ở đó nàng được Thúc Sinh – một khách làng chơi cứu nhưng lại bị Hoạn Thư là vợ của Thúc Sinh ghen ghét, đánh đập. Thúy Kiều phải đến nương tựa nhờ cửa Phật. Sư Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà – kẻ buôn người nên lần thứ hai nàng bị đẩy vào lầu xanh. Ở đây nàng gặp Từ Hải hai người họ lấy nhau và Từ Hải giúp nàng báo ân báo oán. Do mắc lừa quan tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến Từ Hải bị giết còn Thúy Kiều phải hầu đàn hầu rượu cho hắn, sau đó nàng bị ép gả cho viên thổ quan. Đau đớn, tủi nhục nàng nhảy xuống sông Tiền Đường nhưng lần thứ hai nàng phải nương tựa nhờ cửa Phật. Sau nửa năm chịu tang chú Kim Trọng trở lại tìm Kiều. Mặc dù đã lấy Thúy Vân nhưng chàng vẫn quyết định lên đường tìm Thúy Kiều. Nhờ gặp sư Giác Duyên mà họ đã gặp được nhau. Truyện kiều thành công nhờ có giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung.

Về nội dung truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội đầy bất công là tiếng nói lên án tố cáo chế độ phong kiến xấu xa với ba thế lực bao gồm họ phát lại lũ lưu manh và đồng tiền. Truyện đã dựa vào tình hình tượng Thúy Kiều để rồi từ đó Nguyễn Du cho ta thấy được cái đen tối ngột ngạt của xã hội phong kiến Việt Nam trên con đường khủng hoảng tan rã. Những hồ Tôn Hiến, Bạc Bà, Tú Bà và Sở Khanh là sự phản ánh nghệ thuật của nhiều nhân vật lịch sử trong xã hội Việt Nam thế kỷ 18 và những con người Việt Nam bị áp bức trong xã hội xưa kia đã nhìn thấy cuộc đời mình qua tấm gương đời Kiều. Con người bị áp bức thấy ở đó tấm lòng uất hận đối với chế độ phong kiến tàn bạo. Bên cạnh đó truyện kiều còn là tiếng nói khẳng định đề cao tài năng nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người như khát vọng về quyền sống, tự do, công lý tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Nguyễn Du còn bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với những nỗi khổ đau của người phụ nữ nói riêng và người lao động nói chung khi họ sống trong sự tàn bạo của xã hội phong kiến.

Bên cạnh đó truyện còn thành công về nghệ thuật. tác phẩm là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học của các dân tộc trên phương diện ngôn ngữ và thể loại. Với truyện kiều ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ. Với truyện kiều nghệ thuật đã có bước phát triển vượt bậc từ nghệ thuật dẫn truyện đến nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.

Như một thiên tài thật sự Nguyễn Du đã xây dựng lên Truyện Kiều như một đóa hoa rực rỡ của nền văn học Việt Nam. Truyện Kiều có được một sức sống lâu dài sâu sắc trong lòng người Việt Nam vì đó là một bản cáo trạng bằng thơ lên án xã hội phong kiến xấu xa tàn bạo.