Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng của Nguyễn Du hay nhất (47 mẫu)

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 1

Ly biệt là một đề tài quen thuộc trở đi trở lại trong kim cổ Đông- Tây, một trong bốn bi kịch của đời người ấy chính là sinh- ly- từ- biệt. Thế nhưng trong đoạn trích “ Chí khí anh hùng” đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa một cách tài tình cuộc chia ly giữa nàng Kiều và Từ Hải mà không hề có tâm trạng của kẻ đi- người ở, đồng thời làm sáng bừng lên hình ảnh Từ Hải – người anh hùng với ý chí hoài bão lớn lao, với sức mạnh tinh thần và khát vọng làm nên sự nghiệp phi thường. Bốn câu thơ đầu tiên của đoạn trích chính là hình ảnh lúc lên đường của Từ Hải:

“Nửa năm hương lửa đương nồng
 Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
 Trông vời trời bể mênh mang,
 Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.”

Câu thơ đầu tiên giới thiệu hoàn cảnh trước lúc ra đi của Từ Hải “ Nửa năm hương lửa đương nồng”. Nhà thơ đã khéo léo sử dụng hình ảnh ẩn dụ “ hương lửa” kết hợp với thời gian “ nửa năm” là khoảng thời gian không dài gợi nên sự ấm áp của tình yêu đôi lứa đang ở lúc mặn nồng, tình cảm nhất. Nguyễn Du không đặt không gian ra đi của Từ Hải trong hoàn cảnh binh lửa mà ông lại đặt trong không gian gia đình, dụng ý này của ông càng thể hiện sự phi thường của nhân vật. Bởi lẽ sự hạnh phúc ngọt ngào của tình yêu vừa là động lực lại vừa có thể là sự bào mòn ý chí, từ cổ chí kim đã có biết bao vị anh hùng bị đắm chìm bởi mĩ nhân. 

Trong hoàn cảnh ấy mà Từ Hải vẫn có thể dứt áo ra đi nó thể hiện cái chí khí, cái nghị lực của một bậc nam tử hán. Trong cả một tác phẩm dài, Nguyễn Du chỉ dành duy nhất một từ “ trượng phu” cho Từ Hải như thể khẳng định và ngợi ca cái chí khí lớn lao ở chàng. Người trượng phu trong thơ của đại thi hào Nguyễn Du dù có đang say trong hạnh phúc bên người tình nhưng chỉ cần nghĩ đến sự nghiệp lớn là có thể dứt khoát xoay bỏ. Từ “ thoắt” gợi tả hành động mạnh mẽ, kiên quyết, sự thức dậy mau lẹ bản chất anh hùng bên trong Từ Hải, đồng thời nó cũng tượng trưng cho dấu ngắt của bản tình ca và mở đầu ra một bản hùng ca. 

Những hình ảnh mang tính ước lệ như “lòng bốn phương”, “ trời bể mênh mang” tượng trưng cho chí nguyện lập công danh, sự nghiệp, tạo nên hình ảnh một Từ Hải với tầm vóc phi thường, khí thế hiên ngang. Có thể nói tình yêu hay bất cứ thứ gì cũng không đủ sức ngăn cản bước chân chàng. “ Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” chính là phong thái ung dung mà lẫm liệt, mênh mang khát vọng của người anh hùng trên con đường gây dựng sự nghiệp, khẳng định mình bằng đường gươm mũi ngựa, bằng sự xông pha nơi chiến trận. Trước quyết tâm ra đi của Từ Hải, Kiều không can ngăn mà đồng ý, nàng bảy tỏ ước nguyện xin đi theo để làm trọn chữ “tòng”:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi”

Cặp câu lục bát diễn tả lời nói thấu lý đạt tình của Kiều : về lý, lấy đạo tam tòng để thuyết phục Từ Hải vì “ xuất giá tòng phu” đi theo chồng là trách nhiệm của người phụ nữ, về tình : đã là vợ chồng thì phải gắn bó cùng nhau, đi để tiếp sức, sẻ chia, gánh vác cùng chồng. Qua lời nói của Kiều chúng ta càng cảm nhận được tình vợ chồng keo sớn, gắn bó như tri kỉ. 

Trước sự một lòng xin đi ấy Từ Hải đã khuyên bảo nàng bằng tấm lòng của một người tri kỉ, đã hiểu rõ lòng nhau rồi thì không nên câu nệ theo thói quen của người thường. Với một quyết tâm, chí khí lớn lao Từ Hải đã hứa hẹn với Kiều về một tương lai tươi sáng, một sự nghiệp lẫy lừng với quân đội hùng mạnh, đó là lúc “ rõ mặt phi thường”, cái thành công ấy chính là sính lễ để chàng rước người tri kỉ. Lúc có được công danh sự nghiệp cũng là lúc Từ Hải sẽ quay về rửa sạch vết nhơ, đem lại danh phận cho Kiều:

“Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”.

Sau lời hứa ấy là lời can ngăn Kiều  khi nhắc đến thực tế gian nan những ngày đầu lập nghiệp, sâu thẳm bên trong đó là sự lo lắng, là tình yêu thương không muốn Kiều đi theo phải chịu khổ cực, nay đây mai đó “ bốn bể không nhà”. Hai câu kết của đoạn trích với thái độ dứt khoát và hình ảnh cánh chim kì vĩ cưỡi gió bay vút lên trên cùng gió mây:

“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”

Đã thể hiện được khát vọng muốn vùng vẫy, tự do của người anh hùng chí lớn chỉ khi chiến thắng, thành công mới quay trở về.

Với đoạn trích “ Chí khí anh hùng” đại thi hào Nguyễn Du đã xây dựng được hình tượng một người anh hùng với lý tưởng hoàn toàn mới bằng tài năng nghệ thuật độc đáo và tư tưởng sâu sắc của mình. Hình ảnh Từ Hải hiện lên không chỉ với khát vọng, chí khí to lớn, với hoài bão vũ trụ mà còn có trái tim nhân hậu, yêu thương, luôn nghĩ cho người tri kỉ của mình.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 2

Truyện Kiều không chỉ xuất sắc về ngôn ngữ nghệ thuật mà còn về nội dung ý nghĩa độc đáo, sâu sắc. Nguyễn Du đã phản ánh một hiện thực xã hội bất công, tàn bạo chà đạp nên quyền sống của con người biệt là những người phụ nữ. Điều ấy khiến Truyện Kiều thấm đượm tinh thần nhân đạo. Và khi đưa Tù Hải - người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất vào như một nét sáng tạo trong cốt truyện Nguyễn Du đac thể hiện giấc mơ về một xã hội công bằng tự do. Vẻ đẹp, phẩm chất anh hùng hiên ngang của Từ Hải được thể hiện rõ qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”. Sau khi bị rơi vào lầu xanh lần hai, cuộc đời Thúy Kiều tưởng như bế tắc hoàn toàn. 


Giữa lúc nỗi buồn đang dâng nên cao trào thì Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kỉ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tương nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều với con mắt tinh đời. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan tình cho mình. Sau cuộc gặp gỡ đặc biệt, Kiều và Hải đã tìm thây sự hòa hợp về tâm hồn của nhau. Hai khoảng trống về tâm hồn đã được lấp đầy, san sẻ cho nhau bằng tình yêu. Sự tương xứng ấy đã tạo nên một kết thúc có hậu:

Trai anh hùng gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.

Cuộc sống đôi lứa vừa mới chớm nở được “nửa năm” thì Từ Hải ra đi thực hiện nghiệp lớn:

Nửa năm hương khói đương nồng
Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.

Mặc dù trong thời gian sáu tháng, tình yêu của họ luôn mặn nồng, hạnh phúc “nửa năm hương khói đương nồng”nhưng tâm chí Từ Hải luôn suy nghĩ đến việc lớn lao, khát khao lập công danh nghiệp lớn. Vì thế Từ Hải “thoát đã động lòng bốn phương” là hợp lý. “Lòng bốn phương” ở đây là hình ảnh ước lệ tượng trưng cho chí nguyện lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải tạo nên tầm vóc lớn lao phi thường cho người chàng. Có thể nói tình yêu hay bất cứ một thứ gì khác cũng không ngăn nổi bước chân của chàng. Trong 3254 câu Kiều, Nguyễn Du chỉ dành duy nhất một từ “trượng phu” cho Từ Hải để khẳng định sự trân trọng, kính phục của ông đối với Từ Hải. Nguyễn Du xây dựng hình ảnh Từ Hải song song, sánh ngang với hình ảnh trời đất.

Nhắc đến Từ Hải là thấy hình ảnh cao rộng của trời đất vũ trụ. Những từ láy, từ biểu cảm chỉ độ rộng,  độ cao càng khắc họa rõ hơn tư thế của Từ Hải. Cái nhìn của chàng không phải là cái nhìn bình thường mà là “trông vời”-cái nhìn ẩn chứa sự sáng suốt và suy nghĩ phi thường. Hình ảnh “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” diễn tả phong thái ung dung,  hiên ngang không vướng bận của người anh hùng trên đường ra đi gây dựng sự nghiệp. Đối với Thúy Kiều, Từ Hải không chỉ như một người chồng mà còn như một vị ân nhân, một tri âm tri kỉ. Vì vậy,  trước quyết tâm ra đi thực hiện nghiệp lớn của chồng mình, Thúy Kiều đã xin đi theo để chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chàng:

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.

Kiều biết Từ Hải ra đi trong cảnh “bốn bể không nhà” nhưng vẫn nguyện đi theo. Chữ “tòng” không chỉ đơn giản như trong sách vở của Nho giáo rằng phận nữ nhi phải “xuất giá tòng phu” mà còn bao hàm ý thức chia sẻ nhiệm vụ,  đồng lòng tiếp sức cho Từ khi gặp khó khăn trong cuộc sống. Trước lời xin đi theo của Kiều, Từ Hải như khiển trách:

Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình.

Từ Hải nói rằng Kiều chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình vừa là lời khiển trách vừa mong Kiều cứng cỏi hơn vừa là lời dặn dò và niềm tin Từ Hải gửi gắm nơi Thúy Kiều. Đã là “tâm phúc tương tri” thì Kiều phải hiểu, động viên, chia sẻ,  là chỗ dựa tinh thần vững chắc,  từ đó vượt qua sự bịn rịn của nữ nhi thường tình để Hải có thể yên tâm lên đường ra đi thực hiên nghiệp lớn. Để rồi một ngày nào đó Từ Hải trong sự nghiệp vẻ vang đón Kiều về nhà chồng trong danh dự:

Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất,  bóng râm rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Qua lời hứa với Thúy Kiều, ta thấy được lý tưởng lớn lao của Từ Hải. Nguyễn Du đã sự dụng một loạt các từ ngũ thuộc phảm trù không gian như “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất “…gợi nên khát vọng lớn lao, mang tầm vóc vũ trụ của người anh hùng. Khát vọng “làm cho rõ mặt phi thường“ chính là khát vọng xây dựng một sự nghiệp, công danh lẫy lừng, xuất chúng, hơn người. Thành công ấy sx chính là sính lễ để Từ Hải rước người tri kỉ “nghi gia”.

Những lời nói của Từ Hải vào khoảnh khắc tiễn biệt này càng làm rõ chí khí anh hùng của nhân vật này, thay vì những lời nói thể hiện sự bịn rịn, quyên luyến khi chia tay thì là những ước mơ, sự khẳng định nhất định sẽ thành công của chàng. Từ Hải còn thể hiện chí khí anh hùng của mình ở việc cho rằng Thúy Kiều đi theo sẽ “càng thêm bận” nhưng sâu thẳm bên trong là sự lo lắng cho Kiều khi đi theo sẽ phải chịu khổ cực, nay đây mai đó :

Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!

Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:

Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi… tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao. Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dậm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngáy ngất say men chiến thắng cùa con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.

Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Từ Hải hiện nên như một vị anh hùng đầy phóng khoáng, dứt khoát, nhanh nhẹn và oai nghiêm, có lý tưởng công danh lớn, rạch ròi giữa lý tưởng và tình cảm.

Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải – nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào qua đó cho thấy giấc mơ về một xã hội tự do, công bằng của Nguyễn Du.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 3

Hội ngộ – rồi chia li đó là hai mặt của một quá trình. Nó là qui luật tự nhiên trong đời sống con người và cũng như là qui luật tình cảm riêng tư khó nói thành lời. Chẳng thế mà chia li đã trở thành thỉ tài, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, nhà văn đi vào khai thác sao. Từ trong câu ca dao quen thuộc: Vầng trăng ai xẻ làm đôi; Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng đến vầng trăng ai xẻ làm đôi; Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường (Truyện Kiều – Nguyễn Du) và ngay cả Cuộc chia li màu đỏ (Nguyễn Mĩ). Ta vẫn bắt gặp những giọt nước long lanh, nóng bỏng, sáng ngời của kẻ ở – người đi. Nhưng có một cuộc chia li làm bạn đọc ấn tượng bởi Chí khí anh hùng, tràn đầy niềm tin lạc quan, tươi sáng chứ không như:

Người lên ngựa, kẻ chia bào,

Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san.

Đó là cuộc chia li của Từ Hải với Thuý Kiều để lên đường đi khởi nghĩa. Đoạn Chí khí anh hùng (Trích Thuý Kiều) thuộc phần gia biến và lưu lạc trên đoạn trường mười lăm năm. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thuý Kiều được gặp Từ Hải, người anh hùng rồi đây sẽ cứu vớt nàng ra khỏi cuộc đời thanh lâu đau khổ. Người mà đại diện cho lí tưởng, đạo lí công bằng mà Nguyễn Du gửi gắm khi xây dựng trong tác phẩm. Người mà Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng, tình cảm, khối mâu thuẫn khó giải quyết bằng lời của tác giả.

Sau cuộc gặp gỡ đặc biệt, trong hoàn cảnh cũng rất đặc biệt, Thuý Kiều – Từ Hải đã tìm thấy sự hoà hợp về tâm hồn của nhau, ở họ vừa có sự thấu hiểu chân thành vừa có sự đồng cảm cho nhau. Hai khoảng trống về tâm hồn đã được lấp đầy, san sẻ cho nhau bằng tình yêu. Sự tương xứng ấy tạo nên một kết thúc có hậu của miền cổ tích khi:

Trai anh hùng gái thuyền quyên

Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.

Trước khi đi vào tìm hiểu đoạn trích, ta hãy hiểu xem con người này cps gì đặc biệt mà Nguyễn Du giành nhiều ưu đãi khi xây dựng Từ Hảỉ là người anh hùng lí tưởng. Một ngựa, một gươm – Từ Hải đã vung lên lưỡi gươm công lí cứu vớt những con người khốn khổ, và chắp .cánh cho ước mơ hoài bão của họ bay cao, bay xa mãi. Sự xuất hiện một nhân vật mới trên chặng đường số phận của Thuý Kiều lần này mang một ý nghĩa giá trị nghệ thuật đặc biệt. Hình tượng Từ Hải không chỉ phản ánh một quan niệm mới mẻ, tự do về quan hệ luyến ái nam nữ:

Một đời được mấy anh hùng

Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi

Chính là lời nói giản dị, chân thành, trân trọng Thuý Kiều của Từ Hải đã là lời tỏ tình tế nhị kín đáo mà phá vỡ khoảng cách vốn rất dễ xuất hiện giữa nhân vật anh hùng với con người bình thường như Kiều. Có thể nói rằng Nguyễn Du thật có biệt tài xây dựng, khắc hoá tính cách từng nhân vật một cách đậm nét là rõ ràng. Đặc biệt là nhân vật Từ Hải. Hơn bất cứ những hình tượng nào khác trong tác phẩm, Từ Hải phản ánh khát vọng tự do một khuynh hướng tự do không chỉ vượt khỏi lễ giáo, đạo đức chính thống mà còn là một người nổi loạn đối lập với trật tự chính trị phong kiến. 

Hình tượng Từ Hải – con người đã san phẳng bất bình, bênh vực người bị áp bức bằng nghĩa khí và tài năng cá nhân – tạo nên nội dung phong phú sâu sắc của Truyện Kiều. Từ Hải dường như đã bẻ gãy xiềng xích mà xã hội phong kiến trói buộc con người, chàng phủ định chính quyền nhà vua, và đối với chàng tự do cao hơn hết thảy:

Chọc trời khuấy nước mặc dầu

Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!

Với khí thế ngang tàng của sự tự do, không phải là cảnh:

Áo xiêm ràng buộc lấy nhau

Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?

Mà lại cái tư thế hiện ngang giữa đất trời, thoả chí anh hùng:

Giang hồ quen thói vẫy vùng

Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.

Hình ảnh cây cung và thanh kiếm đã tạo nên một nét mới trong tính cách của Từ Hải. Cũng như Kim Trọng, Từ Hải cũng có một tâm hồn cao thượng và đượm chất thơ. Nhưng khác với các nhân vật trong tác phẩm Từ Hải còn làm độc giả say mê bởi cái cốt cách của một kẻ ngang tàng, hào phóng. Nguyễn Du xây dựng Từ Hải là nhân vật lí tưởng có cốt cách phi thường, nhưng đứng trước Kiều "Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng". Tuy nhiên chàng luôn đứng trên lập trường và lợi ích của cộng đồng, tình cảm và lí tưởng của chàng luôn thống nhất chứ không đồng nhất. Vì vậy mà:

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương,

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong.

Sống trong hạnh phúc yêu thương, khi hơi ấm tình cảm vợ chồng ở độ mặn nồng, đằm thắm. Từ Hải vẫn không quên sự nghiệp lớn, chí làm trai mà theo như Nguyễn Công Trứ:

Chí làm trai nam bắc tây đông

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.

Điểm này ở Từ Hải đã cho thấy sự phù hợp trong tính cách của chàng đó là đội trời đạp đất ở đời. Tư thế ra đi của Từ Hải dứt khoát, không có chút lưu luyến – bịn rịn như Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, không có lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Mà ở đoạn trích chí khí anh hùng (Truyện Kiều – Nguyễn Du), người Trượng phu mang trong mình tầm vóc lớn lao của thời đại giao cho, đối lập với một không gian bao la; trông vời trời bể mênh mang là tầm vóc của người anh hùng: Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong.

Chỉ mới bốn câu thơ thôi Nguyễn Du đã khắc họa một nhân vật, người anh hùng bằng xương bằng thịt. Bởi miêu tả là người anh hùng cho nên ngôn ngữ của Nguyễn Du là sự kính phục, trân trọng. Cách miêu tả cũng khác, không gian, thời gian được mở rộng để phù hợp với khí phách của nhân vật chăng? Người anh hùng ra đi không muốn vướng bận nữ nhi, không chút mềm yếu trước lời nói của thê tử.

Nàng rằng: phận gái chữ tòng.

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.

Thuý Kiều là người sâu sắc đến mấy cũng không thoát khỏi chuyện phu – thê quyến luyến. Nàng chỉ muốn theo Từ Hải đi để làm trọn bổn phận làm vợ của mình, mà không nghĩ đến việc lớn của chàng. Vì thế Từ Hải đã trách khéo nàng tâm phúc tương tư tức là hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc như thế, cần gì phải quan tâm đến chuyện nghĩa theo chồng như đạo Nho bắt làm. Sau đó chàng động viên Thuý Kiều ở nhà yên tấm đợi tin vui:

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chuông dậy đất bóng tinh rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường

Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Còn bây giờ giữa trời đất bao la bốn bể không nhà, nàng mà đi theo chỉ làm bận tâm thêm, huống chi chưa biết rõ là đi đâu. Vì vậy nàng hãy dằn lòng chờ đợi chỉ một hai năm vội gì. Thế rồi chàng:

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.

Hình con chim bằng được lấy từ điển tích từ truyện ngụ ngôn kể rằng chim bằng là một giống chim rất lớn, đập cách làm động nước trong ba ngàn dặm, cho những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn Du đã ví Từ Hải như là con chim bằng đã đến lúc tung cánh bay lên cùng gió mây. Cuộc sống của một con người luôn khao khát không trung, tự do thoả chí vẫy vùng, không bao giờ chịu sống trong cảnh tù túng, gò bó một không gian nhỏ bé thường ngày của người bình thường. 

Khi miêu tả người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và cử chỉ ngôn ngữ mang ý nghĩa mạnh mẽ, đứt khoát như: thoắt đã, thẳng giong, sao chưa thoát khỏi, dậy đất, phi thường, vội gì, quyết lời dứt áo ra đi, đã lìa... Ngoài ra thêm các từ chữ Hán để bộc lộ tư tưởng tình cảm của tác giả, rồi dung điển cố, điển tích... và cả xây dựng thời gian, không gian mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang, bằng tiện...

Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vật Từ Hải dường như xuất hiện từ một giấc mơ, từ một giấc mơ hùng vĩ về chính phía mà hàng triệu người khốn khổ áp bức hằng ôm ấp. Vì vậy, mà khi xây dựng, Nguyễn Du đã có những sáng tạo các phương thức nghệ thuật riêng, để biểu đạt khát vọng của mình và của thời đại Nguyễn Du sống – khát vọng về sự tự do, công bằng lẽ phải. Từ một cuộc chia li mà nói lên được toàn bộ chí khi anh hùng của Từ Hải.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 4

Truyện Kiều một trong những kiệt tác của Nguyễn Du nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Tác phẩm không chỉ cho người đọc thấy số phận bi thương, gặp nhiều oan trái của nàng Kiều. Trong hành trình mười lăm năm lưu lạc Kiều đã gặp biết bao nhiêu chuyện, bao nhiêu người, nhưng người duy nhất yêu thương và bảo vệ được nàng chính là Từ Hải. Vẻ đẹp của nhân vật Từ Hải đã được kết tinh trong đoạn trích “Chí khí anh hùng”.

 Trải qua nhiều sóng gió, Thúy Kiều đã gặp được Từ hải – người anh hùng cái thế “đầu đội trời, chân đạp đất” lúc bấy giờ. Gặp được Thúy Kiều, Từ Hải vô cùng quý trọng nàng, và đã ngỏ ý với Kiều: “Một lời đã biết đến ta/ Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau/ Ngỏ lời nói với văn nhân/ Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn”. Thúy Kiều trở về chung sống cùng Từ Hải, cuộc sống gia đình vô cùng hạnh phúc, yên ấm. Nhưng chỉ được nửa năm, Từ Hải động lòng bốn phương quyết tâm lên đường lập sự nghiệp phi thường. Bài thơ mở ra bằng câu thơ:

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Cuộc sống hôn nhân của họ mới bắt đầu hình thành, đây đồng thời cũng là giai đoạn vợ chồng yêu thương nồng nàn và thắm thiết nhất trong cuộc sống hôn nhân. Nếu như những người bình thường chắc chắn sẽ thỏa nguyện, bằng lòng trong hoàn cảnh hạnh phúc ngập đầy như vậy. Nhưng Từ Hải lại là một người hoàn toàn khác, chàng là một người phi thường ngay từ vẻ bề ngoài: “Râu hùm hàm én mày ngài/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Và khác thường trong cả tài trí: “Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”. Từ Hải hơn hẳn người khác cả về sức mạnh và trí tuệ, bởi vậy, chàng không bằng lòng với cuộc sống êm đềm hiện tại, Từ Hải quyết tâm ra đi.

Lòng bốn phương ở đây có thể hiểu là ý chí lập công danh, sự nghiệp của kẻ làm trai trong xã hội phong kiến. Trong xã hội phong kiến, làm trai phải lập nên sự nghiệp lớn và để lại tiếng thơm muôn đời. Bốn phương là nam bắc đông tây, còn có nghĩa là thiên hạ, thế giới. Đồng thời bốn phương cũng thể hiện ý chí tung hoành ngang dọc của kẻ làm trai: “Chí làm trai Nam Bắc Tây Đông/ Cho phỉ sức vấy vùng trong bốn biển”. Nguyễn Du đã sử dụng rất tài tình từ “thoắt” nó cho thấy ý chí, lòng quyết tâm thức dậy nhanh chóng và khi lòng quyết tâm đó đã được xác lập thì ngay lập tức phải thực hiện. Đó là hành động mạnh mẽ, dứt khoát của người kẻ có hùng tâm tráng chí ôm trùm thiên hạ.

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong

Hành động của Từ Hải hết sức dứt khoát, không chút lưu luyến, bịn rịn: thẳng rong – đi liền một mạch. Chàng ra đi trong tâm thế ung dung, tự tại, đó là khí phách của một người trượng phu. Sự ra đi dứt khoát còn được thể hiện trong đoạn đối thoại với Thúy Kiều: Nàng rằng phận gái chữ tòng/ Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Trước quyết tâm ra đi của Từ Hải, nàng bày tỏ ước nguyện để được đi theo Từ Hải, đó cùng là thực hiện trọn đạo tam tòng “xuất giá tòng phu”. Đây là nguyện ước hoàn toàn chính đáng, đi cùng để đỡ đần cho chồng, để cùng chung vai gánh vác, chia sẻ những khó khăn. Nhưng ngược lại Từ Hải trách Thúy Kiều: “Từ rằng: tâm phúc tương tri/ Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”. 

Từ Hải trách Kiều vẫn chưa thoát khỏi những thói thường của nữ nhi, nhưng trách ấy cũng là lời động viên nàng hãy vượt lên những tình cảm ấy để xứng đáng là tâm phúc tương tri của Từ Hải. Đằng sau câu thơ cho thấy sự tự tin của Từ Hải khi đặt mình lên trên thiên hạ nên yêu cầu người đầu gối tay ấp với mình cũng phải hơn những người phụ nữ bình thường khác.

Trước khi đi, Từ Hải còn đưa ra lời hẹn ước với Thúy Kiều: “Bao giờ mười vạn tinh binh/ Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường/ Làm ra rõ mặt phi thường/ Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”. Câu thơ được Từ Hải sử dụng số từ chỉ số lượng nhiều: mười vạn, động từ mạnh: dậy đất, rợp đường. Cho thấy tương lai huy hoàng chỉ cần sau một năm có thể làm nên sự nghiệp lớn để rước Thúy Kiều về với cuộc sống vinh hiển hạnh phúc. Lời nói vừa là lời động viên Kiều, vừa cho thấy sự bản lĩnh, tự tin của Từ Hải, chàng ý thức sâu sắc tài năng, năng lực của bản thân. Ngoài ra, Từ Hải còn an ủi vợ: “Bằng nay bốn biển không nhà/ Theo càng thêm bận biết là đi đâu”. Trong sự an ủi có sự lo lắng, giải thích để Thúy Kiều an lòng ở lại.

Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi. Không gian mở ra vô cùng rộng rãi, khoáng đạt xứng với tầm vóc vĩ đại, với tráng trí bốn phương của Từ Hải. Câu thơ đã thể hiện hiện chí lớn của người anh hùng: khao khát được vẫy vùng, tung hoành giữa trời đất cao rộng giống như lời giới thiệu của Nguyễn Du “Đội trời đạp đất ở đời”. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi: tái hiện hình ảnh người anh hùng Từ Hải: chim bằng tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng tạo nên sự nghiệp lớn. Chim bằng bay lên cùng gió mây chính là hình ảnh người anh hùng Từ Hải trong giây phút lên đường.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc là yếu tố tạo nên thành công của tác phẩm. Từ Hải là hình tượng mang tính ước lệ được thể hiện qua hình ảnh, qua các hành động cử chỉ. Từ Hải là con người sánh ngang tầm vũ trụ, mang trong mình hùng tâm tráng trí lớn lao.

Đoạn trích Chí khí anh hùng đã khắc họa thành công hình tượng Từ Hải với phẩm chất và chí khí lớn lao của người anh hùng. Từ Hải mang trong mình khát vọng lớn làm nên sự nghiệp vĩ đại. Qua nhân vật này, Nguyễn Du cũng gửi gắm mơ ước về tự do, công lí trong xã hội cũ.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 5

Nguyễn Du là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, được mệnh danh là đại thi hào, trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại nhiều tác phẩm hay và có giá trị, nổi bật nhất có thể kể đến đó chính là đại kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng là một trong những đoạn trích khá tiêu biểu, Nguyễn Du đã miêu tả chân dung cũng như khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải.

Trong đoạn trích Chí khí anh hùng, tác giả Nguyễn Du đã tập trung miêu tả và làm nổi bật lên vẻ đẹp ý chí và phẩm chất của Từ Hải. So với nhân vật Từ Hải trong tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện thì nhân vật Từ Hải của Nguyễn Du hoàn toàn khác, đó không phải một tên tướng cướp như nguyên mẫu mà là một người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất có bản lĩnh và ý chí phi thường. Cảm hứng ca ngợi cùng bút pháp ước lệ tượng trưng khiến cho nhân vật Từ Hải hiện lên lớn lao, kì vĩ, mang đầy đủ phẩm chất của người những người anh hùng xưa.

Khi Thúy Kiều đang tuyệt vọng, chìm đắm trong cuộc sống đau khổ, ê chề nơi lầu xanh thì Từ Hải đã xuất hiện và cứu nàng ra khỏi chốn tửu sắc đầy thị phi ấy. Nhờ có Từ Hải mà Thúy Kiều được báo ân báo oán, được hưởng hạnh phúc vợ chồng như những người phụ nữ bình thường khác. Tuy cuộc sống vợ chồng hạnh phúc nhưng vẫn không thể che khuất được khát vọng lập thân to lớn của Từ Hải. Vì vậy mà dù không đành lòng nhưng Từ Hải vẫn phải để Thúy Kiều ở lại còn bản thân mình thì ra đi thực hiện hoài bão:

“Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Thúy Kiều và Từ Hải đã có nửa năm bên nhau, cuộc sống êm ấm, hạnh phúc nhưng với hoài bão lớn của người anh hùng, Từ Hải đã “động lòng bốn phương”. Cách sử dụng từ ngữ đầy tính ước lệ đã làm nổi bật lên khát vọng lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Dù yêu thương, trân trọng tình yêu với Thúy Kiều nhưng khát vọng anh hùng đã không cho phép Từ Hải lùi bước, tương lai, sự nghiệp phía trước “mênh mang” chưa xác định nhưng với bản lĩnh kiên cường, khát vọng lớn lao ấy hình ảnh ra đi của Từ Hải đẹp đẽ như những bậc trượng phu xưa.

Đối với Thúy Kiều mà nói, Từ Hải không chỉ là người chồng mà nàng thương yêu, trân trọng mà đó còn là người mà nàng mang ơn, chính Từ Hải đã cứu nàng ra khỏi chốn lầu xanh. Trước quyết định ra đi của Từ Hải, nàng biết không thể ngăn cản nhưng cũng không đành lòng để chàng ra đi đơn độc, Thúy Kiều đã bày tỏ mong muốn được đi theo để chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chàng:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”

Thúy Kiều đề cao quan niệm “xuất giá tòng phu” của đạo đức Nho giáo xưa, nàng muốn được đi theo để tiện bề chăm sóc cũng như giúp đỡ cho Từ Hải. Trước yêu cầu đầy chân thành của Thúy Kiều, Từ Hải đã rất cảm động nhưng cuối cùng chàng không đồng ý vì sợ Thúy Kiều thân con gái đi theo sẽ phải chịu khổ. Như để an ủi nàng, Từ Hải đã hứa hẹn bao giờ lập lên sự nghiệp lớn sẽ rước nàng “nghi gia”:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Theo Từ Hải, Thúy Kiều chưa thoát khói thói nữ nhi thường tình đồng thời đó cũng là lời động viên để nàng không phải lo lắng khi mình lên đường thực hiện nghiệp lớn. Là một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất, Từ Hải quyết tâm ra đi gây dựng nghiệp lớn để có thể nắm trong tay “mười vạn tinh binh”. Và khi sự nghiệp đã thành, chàng sẽ trở về để đón Kiều nghi gia trong “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời”.

Qua những lời đối thoại của Từ Hải với Thúy Kiều trước lúc ra đi đã thể hiện được chí khí lớn lao của người anh hùng mang trong mình khát vọng lớn. Tuy nói Thúy Kiều đi theo sẽ thêm vướng bận nhưng thật ra nguyên nhân chính Từ Hải không muốn Thúy Kiều đi theo là vì không muốn nàng phải chịu khổ, sợ nàng không thể thích ứng được với cuộc sống bốn bể là nhà:

“Bằng ngay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận, biết là đi đâu”

Để Thúy Kiều có thể yên tâm hơn, Từ Hải đã khẳng định thời gian mà mình ra đi là một năm, Từ Hải đã động viên Thúy Kiều về một tương lai chiến thắng, chàng sẽ trở về trong sự hiển hách, vinh quang:

“Đành lòng chờ đó ít lâu

Chầy chăng là một năm sau vội gì.”

Cuộc chia tay giữa Từ Hải cũng thật khác lạ, đó không phải là những lời tâm tình nỉ non mà lại là những lời hứa hẹn về một tương lai tất thắng, qua đó ta có thể thấy được những phẩm chất trượng phu trong con người của Từ Hải, đó là con người dùng hành động để thể hiện tình cảm với người mình yêu.

Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã xây dựng thành công hình tượng người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất Từ Hải, đó không chỉ là một con người giàu tình cảm mà còn là một người anh hùng có khát vọng lớn cùng ý chí, quyết tâm đầy mạnh mẽ, quyết liệt.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 6

Truyện Kiều là một trong những kiệt tác để đời trong nền văn học Việt Nam của Nguyễn Du. Với tài và tâm của mình, Nguyễn du vận dụng sáng tạo ngôn ngữ , nghệ thuật và sự thấu hiểu cảm thông tái hiện cuộc đời đầy sóng gió của Thúy Kiều và những mối tình nàng trải qua với bao đau khổ. Trong đó có anh hùng Từ Hải được khắc họa qua đoạn trích Chí Khí Anh Hùng.

Thúy Kiều sống trong cảnh nhơ nhớp lầu xanh , nhưng may mắn mỉm cười với nàng khi nàng gặp Từ Hải, được vị anh hùng chuộc khỏi chốn lầu xanh và cưới làm vợ. Sau nửa năm lửa đượm hương nồng, Từ Hải muốn tạo dựng cho mình sự nghiệp lớn nên đã từ biệt Thúy Kiều và hình ảnh người anh hùng lúc lên đường được tái hiện trong bốn câu đầu:

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Như chúng ta biết “anh hùng” là người trong bụng có chí lớn,có mưu cao, có tài bao trùm cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia. Và khi chàng dứt khoát ra đi để lại tình riêng “nửa năm hương lửa đương nồng”, những hạnh phúc vợ chồng giản dị, riêng tư, mang đi trong mình chí hướng bốn phương , quyết hướng đến sự nghiệp lí tưởng lớn lao cao cả. Dường như ý chí đó trở thành bản năng của người anh hùng không thể ngăn cản nổi. Người anh hùng ấy với tư thế đối diện với trời bể mênh mang, làm chủ mọi thứ , oai phong lẫm liệt “thanh gươm yên ngựa”, mạnh mẽ và dứt khoát. Khi nhìn bóng dáng Từ Hải ta lại nhớ đến hình ảnh người chinh phu:

Áo chàng đỏ tựa ráng pha

Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in

Quả thật Từ Hải là một người anh hùng phi chí hướng bốn phương, chẳng thể giam mình nơi nắng không đến đầu mưa không đến mặt, một không gian chật hẹp. Mà chỉ có thể lên đường mới giải phóng được con người anh hùng ấy. Trong cảnh tiễn biệt Từ Hải , tác giả ngụ ý để cho Từ Hải sẵn sàng trên yên ngựa và thanh kiếm bên mình, mới để Kiều và Từ Hải nói lời từ biệt. Biết rằng chồng mình tung hoành tứ phương, sống trong cảnh màn trời chiếu đất nhưng Thúy Kiều vẫn một lòng theo cùng, luôn muốn chia sẻ nỗi lo, tâm trạng, gánh vác cùng chàng những mệt nhọc mà phận làm thê nên làm. Thúy Kiều thuyết phục Từ Hải bằng đạo phu thê xưa cùng với tình cảm chân thành thể hiện sự thấu tình đạt lí, trong nghĩa trọng tình. Nhưng Từ Hải- đấng anh hùng lại nhẹ nhàng nói với Kiều bằng đạo tri âm:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì

Lời thuyết phúc của Từ Hải “tâm phúc tương tri” thể hiện sự tôn trọng Kiều, mong muốn nàng hiểu mình và khéo léo từ chối không để nàng phải chịu khổ bên mình. Với trí tuệ sáng suốt và một trái tim nhân hậu tấm lòng bao la , Từ Hải luôn muốn có một chiến công oanh liệt, đem đến niềm tin, tình yêu và sự trân trọng cho Thúy Kiều. Làm nên sự nghiệp cũng là lúc Từ Hải đạt được hạnh phúc mà chàng luôn hướng tới, một hạnh phúc tràn đầy cả về sự nghiệp lẫn tình yêu và đó là hạnh phúc xứng đáng với một người anh hùng.

Từ Hải trước đây cũng vậy, bây giờ mà mãi về sau vẫn mang trong mình sự tự tin sẽ làm chủ được tất cả. Chỉ vỏn vẹn thanh gươm yên ngựa cùng chí khí ngút trời nhưng Từ Hải tin rằng sẽ có trong tay “mười vạn tinh binh” về trong tiếng “chiêng dậy đất “ mang lại vẻ vang và hạnh phúc cho người con gái chàng hết mực thương yêu với lời hứa chắc nịch “năm sau” tạo thêm niềm tin vững chắc cho Thúy Kiều. tất cả mọi thứ toát ra từ Từ Hải: chí khí, tư thế, hành động , tài năng đều mang một vẻ phi thường. Chính điều đó làm cho tác giả tôn trọng, ngưỡng mộ gọi chàng là “trượng phu, mặt phi thường”, đặt nhân vật anh hùng trong một không gian đất trời rông lớn bao la, hết mực ngợi ca.

Từ Hải trong đoạn trích Chí Khí Anh Hùng thể hiện lí tưởng anh hùng của Nguyễn Du: phải chiến thắng cái bình thường, tầm thường để hướng tới cái phi thường, phải có những phẩm chất siêu phàm để trở thành một con người lí tưởng, hình mẫu được dựng lên cho ngàn đời sau.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 7

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc ta, nhắc tới thành công của ông thì không ai có thể không nhắc tới tuyệt tác Truyện Kiều. Đây là một tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc và trở thành đề tài bàn luận, nghiên cứu chưa bao giờ ngừng nghỉ. Trong tuyệt tác ấy ngoài nói về nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều thì nhân vật để lại nhiều dấu ấn cho người đọc mặc dù xuất hiện trong đoạn ngắn đó chính là nhân vật Từ Hải nằm ở đoạn trích Chí Khí Anh Hùng.

Như chúng ta đã biết, Thúy Kiều sau khi bị mắc bẫy rơi vào chốn lầu xanh chịu nhiều đau khổ, tủi nhục. Khi ấy Từ Hải đã cứu nàng ra khỏi chốn đó vì nhận ra phẩm chất cao quý của Kiều. Tình yêu giữa Từ Hải với Thúy Kiều không ngăn được chí hướng xây dựng sự nghiệp. Chính vì thế nửa năm sau đó Từ Hải đã tiếp tục lên đường gầy dựng cơ đồ:

“Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Được nửa năm, khi mà tình yêu và cuộc sống vợ chồng đương còn nồng nàn, cháy bỏng nhưng lại không sao che khuất được bốn phương. Từ Hải sớm đã “động lòng bốn phương” điều đó thể hiện cho chí lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Bằng hình ảnh ước lệ “trời bể mênh mang” đã cho ta liên tưởng tới tầm vóc lớn lao và phi thường, một người mà tình yêu, gia đình hay bất cứ thứ gì cũng không ngăn cản được bước chân của chàng. Thêm vào đó hình ảnh gươm, ngựa “lên đường thẳng rong” cho ta thấy được phong thái ung dung của Từ Hải.

Cảnh tiễn biệt của Thúy Kiều với Từ Hải được tác giả miêu tả khắc hẳn với các cảnh tiễn biệt khác đã có trong truyện như với Kim Trọng hay Thúy Kiều với Thúc Sinh. Lúc này Từ Hải đã ở thế khác hẳn, trên yên ngựa, gươm đã sẵn sàng. Có thể một mình ra đi, bốn bể là nhà, có thể là phiêu bạt nay đây mai đó nhưng vẫn không hề nao núng. Thúy Kiều biết vậy nhưng vẫn xin theo để chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chồng:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”

Tam tòng tứ đức, Thúy kiều không xin gì hơn chỉ muốn được theo chồng, cùng chồng gánh vác. Hơn nữa đây cũng không chỉ xuất phát từ chữ tòng trong “xuất giá tòng phu” mà còn đối với Kiều thì Từ Hải không chỉ là một người chồng mà còn là một vị ân nhân đã cứu nàng. Tuy nhiên xin là một chuyện mà thực tế Từ Hải đã quyết:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.”

Từ Hải trước lời cầu xin của Kiều thì bày tỏ lời trách móc khi Thúy Kiều mặc dù phẩm cách hơn người nhưng “chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”, đồng thời cũng khuyên nàng không phải quá đặt nặng việc “tòng phu”. Lời trách ngắn ngủi và sau đó là lời hứa hẹn với Kiều rằng khi nào xây dựng được cơ đồ, có trong tay mười vạn tinh binh thì chàng sẽ đón nàng về dinh, đem lại cho nàng không chỉ danh phận mà còn cả địa vị. 

Có thể thấy đây là khoảnh khắc thể hiện sâu sắc nhất chí khí của người anh hùng Từ Hải. Chàng không phải là người lụy tình, không vướng mắc mấy chuyện nữ nhi thường tình mà rất quyết đoán cho hành động của mình. Thay vì quyến luyến, bị rịn lúc tiễn biệt, thay vì nói lời yêu thương, nhung nhớ thì Từ Hải đã khẳng định sự thành công của mình trên con đường công danh. Tuy nhiên mặc dù cứng rắn như vậy nhưng chàng vẫn kín đáo thể hiện sự quan tâm, lo lắng của mình dành cho Thúy Kiều:

“Bằng ngay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận, biết là đi đâu

Đành lòng chờ đó ít lâu

Chầy chăng là một năm sau vội gì”

Biết trước rằng con đường mình đi “bốn bể không nhà”, có khi màn trời chiếu đất nhưng chàng vẫn quyết tâm đi và dùng nó làm lý do để khuyên Kiều ở nhà. Bởi chàng cho rằng nàng theo thì “càng thêm bận”. Qua đó cũng cho thấy sự lo lắng nếu Thúy Kiều theo sẽ phải chịu khổ cực. Sau lời lẽ quan tâm ấy là lời khẳng định về thời gian, một lời hứa quyết tâm thực hiện cơ đồ trong vòng một năm của Từ Hải để Thúy Kiều yên lòng ở lại vì sẽ không phải chờ đợi quá lâu. Cuối cùng đoạn trích cũng là là sự lựa chọn dứt khoái của Từ Hải:

“Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Sự quyết tâm của Từ Hải đã được đẩy lên cao nhất và không có gì có thể ngăn cản được. Qua đó ta thấy được anh hùng Từ Hải được Nguyễn Du miêu tả rất sâu sắc và sáng tạo. Từ Hải là nhân vật để Nguyễn Du gửi gắm tâm tư, tình cảm, ước mơ công lí trong hoàn cảnh xã hội đương còn tù túng. Đoạn trích góp phần tô đậm hình ảnh, tính cách của nhân vật, một nhân vật lí tưởng, mẫu người cao đẹp trong kiệt tác Truyện Kiều.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 8

Có một nhà thơ mà người Việt Nam không ai là không biết đến. Có một truyện thơ mà hơn 200 năm qua không mấy người Việt Nam không thuộc vài câu hay vài đoạn. Người ấy, thơ ấy đã từng được Tố Hữu ngợi ca:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”

Không ai khác đó chính là Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Đằng sau số phận cuộc đời nhân vật đều được gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo sâu sắc. Đó là niềm trân trọng nâng niu ước mơ khát vọng con người. Đó là tiếng nói lên án tố cáo những thế lực xấu xa đứng đằng đằng sau. Và hơn thế nữa nó phản ảnh chân thực giấc mơ tự do công lí mà đoạn trích “Chí khí anh hùng” chính là tiêu biểu nhất cho điều này.

Sau tháng ngày ân ái bên Thúc Sinh, Kiều lại một lần nữa sa thân vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, một lần nữa quay trở lại với Tú Bà để sống thân phận của người kĩ nữ hèn mọn. Cứ tưởng rằng, cuộc đời nàng đã đặt một dấu chấm hết trong tối tăm và đầy rẫy những bất hạnh. Thế nhưng, giữa cơn phong ba, Từ Hải bỗng dưng “vụt đến như một ngôi sao lạ chiếu sáng một đoạn đời nàng” (Hoài Thanh). Chàng chuộc Kiều ra, trả lại cho Kiều sự tự do xứng đáng. Hai người họ đến bên nhau với tấm lòng của những bậc tri kỉ giữa “trai anh hùng’’ và “gái thuyền quyên”. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu, thì cái “thói vẫy vùng” của bậc giang hồ lại được dịp sục sôi,cái khát khao dựng nên nghiệp lớn bỗng thúc dục mạnh mẽ bước chân người anh hùng. 

Đoạn trích chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi. Khác với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đôi ba dòng ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du với bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình. Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:

“Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập nhau. Một bên là không gian khuê phòng với “hương lửa đương nồng” với tình cảm lứa đôi đầy những cám dỗ, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Đường đường là đấng “trượng phu” Từ không một phút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình. Chàng vốn sinh ra không phải là con người của những đam mê thông thường mà là người của những sự nghiệp vĩ đại- sự nghiệp của bậc anh hùng. 

Hiểu thấu được khát khao ấy, Nguyễn Du đã trân trọng gọi nhân vật của mình bằng hai tiếng “trượng phu” – người đàn ông có trí lớn .Rõ ràng, hai chữ này chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong truyện Kiều và dành riêng cho Từ. Thứ tình cảm vợ chồng giản đơn đâu thể nào níu giữ bước chân người anh hùng thêm nữa. Tiếng gọi của lí trí thúc dục chàng đi theo đuổi và thực hiện hoài bão của cuộc đời. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa trí vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng. 

Hình ảnh cuối cùng “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của không gian mà còn mở ra tâm thế nhân vật không hề có một chút nào là do dự luôn hành động thật dứt khoát, quả quyết. Đến đây, ta chợt bắt gặp những điểm tương đồng trong thơ Nguyễn Du với các nhà thơ cùng thời. Là hình ảnh chinh phu oai hùng trước buổi ra trận:

“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”. 

Hay như: 

“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt

Xếp bút nghiêng theo việc binh đao

Dã nhà đeo bức chiến hàoThét roi cầm vị ào ào gió thu”

(Chinh phu ngâm_ Đoàn Thị Điểm)

Cả Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm đều mượn hình ảnh vốn của thiên nhiên vũ trụ để nâng cao tầm vóc, kích thước nhân vật anh hùng của mình. Thế nhưng, nếu “chí làm trai” trong những câu thơ của “chinh phụ ngâm” là lập nên sự nghiệp là lưu danh, lập công với núi sông thì với “chí anh hùng” lập nên sự nghiệp lại là để yên bề gia thất. Có thể nói đúng như những lời nhận định của Hoài Thanh “Từ Hải hiện ra trong bốn câu đầu không phải người của một nhà, một họ, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương…” chỉ bằng ngòi bút xuất thần của thi nhân cùng với cái nhìn đầy trân trọng ngưỡng mộ dành cho nhân vật. Lời thơ tuy ít mà ý thơ thì trải ra đến vô cùng.

Lẽ thường, cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng những dùng dằng chẳng nỡ của kẻ ở với người đi. Với Từ và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. Nàng không muốn một thân một mình, giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo, nàng một mực muốn được sẻ chia, được gánh vác sự nghiệp với Từ Hải. Lời lẽ nghe sao mà tha thiết thế:

Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cùng một lòng xin đi”

Kiều một lòng xin đi theo âu cũng là hợp tình hợp lí với đạo Nho truyền thống. Nho giáo viết đã phận nữ nhi “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phụ tử tòng tử”. Thế nhưng, trái với những mong mỏi của nàng, Từ ngay lập tức đáp lại:

Từ rằng: “Tam phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”

Mới nghe qua thì cứ nghĩ là một lời trách cứ nhưng đằng sau đó lại là lời động viên người tri kỉ của mình biết vượt lên những tình cảm thông thường để sánh cùng trí lớn của người anh hùng. Vì vậy, sau này khi nói về nỗi nhớ nhung da diết của Thúy Kiều dành cho Từ Hải, Nguyễn Du viết:

“Cánh hồng bay bổng tuyệt vời

Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”

Nàng hướng con mắt về phương trời xa không chỉ để tìm kiếm một dáng hình thân thuộc khi xưa, đó còn là sự ngóng đợi vào sự nghiệp lớn lao mà Từ Hải đã dốc lòng dựng xây:

“Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất, bóng cây rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Ngày chàng hoàn thành xong nghiệp lớn cũng sẽ chính là ngày chàng trở về đón nàng trong tư cách là một người chủ tướng chỉ huy mười vạn tinh binh với chiêng chống dậy đất, cờ quạt dậy đường. Những lời thốt lên từ người anh hùng không hề mang tính chất khoa trương mà đầy quả quyết chắc chắn thể hiện sự tự tin tuyệt đối của nhân vật vào cơ đồ mà mình tạo dựng. Niềm tin mãnh liệt của Từ truyền sang cho Kiều và lan tỏa ra khắp tất thấy bạn đọc. Đoạn trích kết lại với hai câu thơ gây ấn tượng sâu đậm bở hình ảnh ước lệ:

“Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Trong thơ ca trung đại cổ điển ,hành động “dứt áo ra đi” không phải là quá xa lạ, nó mang tính chất lưu luyến bịn rịn chẳng nỡ rời xa. Thế nhưng, đặt trong đoạn trích và đặt trong hình tượng Từ Hải thì đó lại thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán của bậc nam nhi. Phải chăng vì thế mà Nguyễn Du đã không chút do dự nâng nhân vật của mình lên, ví hình ảnh chàng lúc lên đường với hình ảnh chim bằng cất cánh bay vào muôn trùng dặm khơi? Hình ảnh đó phần nào thể hiện cái nhìn lãng mạn và khát vọng thoát khỏi thời đại mình- một tư tưởng tiến bộ vượt bậc so với những người đương thời.

Đoạn trích “Chí khí anh hùng” xây dựng hình tượng Từ Hải bằng bút pháp ước lệ hóa kết hợp với lối ngôn ngữ giàu sức gợi đã khẳng định rõ phẩm chất cốt lõi của người anh hùng không để tình cảm riêng rằng buộc chí lớn luôn luôn hành động đề hướng tới sự nghiệp cao cả, vĩ đại. Nhờ đó mà nhân vật có một sức sống đậm sâu trong lòng bạn đọc muôn đời.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 9

Nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, ta không thể nào không nhắc đến "Truyện Kiều" – một tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu sắc, đề cao giá trị con người và lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến thối nát. Đoạn trích "Chí khí anh hùng" trích trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du đã dành những lời thơ của mình để nói về Từ Hải – người anh hùng lí tưởng có những phẩm chất cao đẹp, phi thường.

Có thể nói trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng nhân vật Từ Hải hoàn toàn mới so với hình tượng nhân vật này trong "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, ở "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, hình tượng Từ Hải giống như một tướng cướp đã bị lược bỏ, thay vào đó là một hình tượng Từ Hải như một vị anh hùng tuyệt đẹp, phi thường. Hình tượng này là sự hợp nhất của hình tượng nhân vật có tính ước lệ – là nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du và hình tượng con người vũ trụ với nét vĩ đại, lớn lao.

Sau khi bị mắc bẫy và rơi vào chốn lầu xanh lần thứ hai, Kiều luôn sống trong tâm trạng đau khổ, giày vò. Giữa lúc ấy, Từ Hải xuất hiện như một vị cứu tinh giúp Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh đầy nhơ nhớp ấy. Nhưng tình yêu giữa Thúy Kiều và Từ Hải vẫn không thể nào che khuất đi ước mơ gây dựng một sự nghiệp lớn lao ở con người này. Đó chính là lí do mà khi mối tình của họ vừa chớm nở được "nửa năm" thì Từ Hải đã tiếp tục lên đường với khát khao cháy bỏng gây dựng sự nghiệp của mình:

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong

Mặc dù trong thời gian sáu tháng, tình yêu của họ luôn nồng nàn, cháy bỏng nhưng với chí lớn và khát khao công danh nghiệp lớn Từ Hải thoắt đã "động lòng bốn phương". "Lòng bốn phương" ở đây là hình ảnh tượng trưng, ước lệ cho chí nguyện lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Hình ảnh "trời bể mênh mang" cũng mang ý nghĩa tương tự như vậy. Chúng như một sự ước lệ tạo nên một tầm vóc lớn lao, phi thường cho Từ Hải. 

Có thể nói tình yêu hay bất cứ một cái gì cũng không đủ sức để ngăn cản được bước chân của chàng. Trong cả một tác phẩm dài, Nguyễn Du chỉ dành duy nhất một từ "trượng phu" cho Từ Hải như thể khẳng định một chí khí lớn ở chàng. Hình ảnh "thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong" diễn tả một phong thái ung dung của người "trượng phu" trên con đường gây dựng sự nghiệp ấy.

Đối với Thúy Kiều, Từ Hải không chỉ như một người chồng mà còn như một vị ân nhân có ơn vô cùng lớn đã cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh ô nhục. Vì vậy, trước quyết tâm ra đi vì nghiệp lớn của chồng mình, Thúy Kiều đã xin đi theo để là người chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chàng:

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi

Nàng xin đi để được làm trọn chữ "tòng" vì theo nàng thì "xuất giá tòng phu" lấy chồng thì phải theo chồng, nguyện cùng chồng gánh vác mọi chuyện. Nhưng lời Từ Hải đã quyết, như để làm an lòng Thúy Kiều:

Từ rằng: Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Trước lời xin đi theo của Thúy Kiều, Từ Hải như trách Kiều: "Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình"', đó cũng như một lời khuyên Kiều đừng xem nặng quá vấn đề "lấy chồng là phải theo chồng", hãy xem nhẹ chuyện tình cảm vì sự nghiệp lớn lao của chồng. Với một quyết tâm, chí khí lớn lao, Từ Hải nói như hứa hẹn sẽ gây dựng được một cơ đồ to lớn, nắm chắc trong tay "mười vạn tinh binh" và chàng sẽ trở về để đón Kiều trong "tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời". Lúc thành công quay trở lại cũng là lúc Từ Hải sẽ "rước nàng nghi gia", đem lại địa vị và danh phận cho người mà chàng xem là tri âm tri kỉ. 

Những lời của Từ Hải vào khoảnh khắc tiễn biệt này càng làm rõ "chí khí anh hùng" của nhân vật này, thay vì những lời nói thể hiện sự bịn rịn, quyến luyến khi chia tay thì là những ước mơ, sự khẳng định nhất định sẽ thành công của chàng.

Từ Hải còn thể hiện chí khí của mình ở việc cho rằng Thúy Kiều đi theo sẽ "càng thêm bận" nhưng sâu thẳm bên trong là sự lo lắng cho Kiều khi đi theo sẽ phải chịu cực khổ, nay đây mai đó "bốn bể không nhà":

Bằng ngay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận, biết là đi đâu

Chàng còn dám khẳng định chắc chắn thời gian mà mình sẽ quay về đó là khoảng thời gian một năm. Từ Hải khuyên Kiều ở nhà đợi chàng trở về trong sự chiến thắng vẻ vang, hiển hách:

Đành lòng chờ đó ít lâu

Chầy chăng là một năm sau vội gì.

Cách chia tay của Từ Hải rất khác biệt ở chỗ những lời chia tay được thay bằng những lời hứa vào một chiến thắng không xa, sự quyến luyến được thay bằng một quyết tâm vào tương lai.

Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi

Chàng dứt khoát ra đi với một quyết tâm sắt đá như cánh chim bằng khi đã cất cánh tung bay trên bầu trời thì phải bay thật xa mới nghỉ cũng như Từ Hải khi đã chiến thắng, thành công thì mới quay trở về.

Với đoạn trích "Chí khí anh hùng", Nguyễn Du đã xây dựng được một hình tượng người anh hùng lí tưởng hoàn toàn mới. Có thể nói Nguyễn Du đã thực sự thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật này chính bằng tài năng nghệ thuật thể hiện ở sự sáng tạo độc đáo và sự đam mê văn chương của mình.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 10

Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau

Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.

Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi. Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng.

Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. 

Chữ trượng phu trong Truyện Kiểu chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát cùa chàng. Bôn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).

Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.

Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều - Kim Trọng, Thúy Kiều - Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.

Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của dạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu..., mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng. Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.  Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khi anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo.

Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậv mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.

Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.

Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao. Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dậm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngáy ngất say men chiến thắng cùa con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.

Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải. Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành ! rong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.

Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải - nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 11

Nếu Kim Trọng là một người thư sinh đèn sách hiếu học thì Từ Hải là một người anh hùng với khí phách hiên ngang. Từ Hải là người đã cứu Thúy Kiều thoát khỏi cảnh sống nhơ nhớp, ô nhục khi nàng rơi vào lầu xanh lần thứ hai. Hai người chung sống với nhau rất hạnh phúc nhưng do Từ Hải muốn có được sự nghiệp lớn lao nên đã từ biệt Thúy Kiều ra đi. Ý chí, quyết tâm ấy của chàng được thể hiện qua đoạn trích "Chí khí anh hùng" nằm trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du.

Đoạn trích này nằm ở vị trí câu 2213 đến câu 2230 thể hiện lí tưởng về người anh hùng của tác giả. Bốn câu thơ đầu của đoạn trích đã thể hiện khát vọng lên đường vì sự nghiệp của Từ Hải:

"Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong".

Trong lúc tình yêu và hạnh phúc vợ chồng đang nồng đượm, yên ấm, Từ Hải quyết chí ra đi, rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Nam nhi trong xã hội xưa muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiệp, có được những công trạng lớn lao. Chẳng vậy mà Nguyễn Công Trứ từng viết:


"Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể".

Từ Hải là một đấng nam nhi muốn "vẫy vùng" nên đã "động lòng bốn phương". Chàng là người có ý chí lập công danh, sự nghiệp lớn. Động từ "thoắt" vừa thể hiện một trạng thái nhanh chóng vừa thể hiện sự dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Tác giả Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình thế khó xử khi một bên là hạnh phúc vợ chồng chốn khuê phòng như một cám dỗ còn một bên là không gian rộng lớn thỏa sức thể hiện tráng trí bốn phương. Không làm bạn đọc thất vọng, bậc trượng phu ấy đã lựa chọn con đường theo đuổi hoài bão, lí tưởng cuộc đời mình. Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng nhân vật Từ Hải khi gọi chàng là "trượng phu" - người nam nhi có chí lớn, là bậc anh hùng trong thiên hạ. Dù cuộc sống vợ chồng còn nhiều lưu luyến, vẻ đẹp khiến "hoa ghen", "liễu hờn" của người vợ Thúy Kiều còn níu bước chân người anh hùng nhưng Từ Hải vẫn quyết lên đường chinh chiến để thực hiện khát vọng "vẫy vùng trong bốn bể" mà không một chút do dự, phân vân. Một con người "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai" như Từ Hải muốn thỏa sức tung hoành khắp thiên hạ cũng là điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải ra đi một mạch cùng thanh gươm trên yên ngựa trong cõi "trời bể mênh mang" thật oai phong, lẫm liệt. Những hạnh phúc cá nhân riêng tư không thể làm chùn bước chân của người anh hùng. Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng, mà là người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Chàng đối diện với trời đất, vũ trụ bằng một tâm thế đầy chủ động.

Cuộc chia ly nào cũng gắn với nỗi buồn, những giọt nước mắt và cuộc chia ly của Thúy Kiều - Kim Trọng cũng không ngoại lệ:

"Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"

Nho giáo đã quy định người phụ nữ phải tuân theo luật "tam tòng": ở nhà theo cha, xuất giá theo chồng, chồng chết theo con. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến luật lệ của đạo Nho để xin đi theo chồng. Trong lúc "hương lửa đương nồng", nàng không muốn phải chịu cảnh xa cách, chia lìa với Từ Hải - một người chồng nhưng đồng thời cũng là một người ân nhân cứu mạng Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh. Nàng muốn được theo chồng, muốn nâng khăn sửa túi và cùng chồng sẻ chia những khó khăn trong cuộc đời. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng bởi lẽ nữ nhi lấy chồng thì phải theo chồng. Dù phải chịu những vất vả, gian nan thì Kiều cũng nguyện một lòng ở bên Từ Hải. Nhưng với nghĩa khí của một bậc quân tử, Từ Hải đã đáp lại rằng:

"Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia"

Hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau đến mức sâu sắc vậy tại sao Kiều vẫn "chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình". Đó là lời trách cứ Thúy Kiều tuy là tri âm tri kỉ mà tại sao lại không thấu hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đó cũng là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt qua những trắc trở trước mắt để hướng về tương lai tốt đẹp sau này và mong muốn nàng đừng quá lo lắng cho mình. Từ Hải thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng tình cảm chân thành, sâu nặng. Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, công danh đến khi trở thành một con người xuất chúng, phi thường và nắm giữ trong tay "mười vạn tinh binh"thì chàng sẽ quay trở về rước Kiều "nghi gia" bằng những hình thức lễ nghi trang trọng. Vợ chồng đoàn tụ trong âm thanh rộn rã của "tiếng chiêng dậy đất" và khung cảnh ngập tràn bóng cờ trên các con đường.

Để từ chối khéo léo mong muốn của Thúy Kiều, Từ Hải đã sử dụng những lời lẽ đầy sức thuyết phục:

"Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!"

Chàng từ chối mong muốn của Thúy Kiều là vì nàng sẽ làm bận lòng mình hay thật tâm chàng không muốn người vợ của mình phải chịu những khổ cực, vất vả? Đối với đấng nam nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ thường tình nhưng đối với phận nữ nhi như Thúy Kiều thì việc đó không hề dễ dàng và rất khó thích nghi. Có lẽ vì những lí do trên mà Từ Hải khuyên Kiều "đành lòng" chờ đợi ngày chàng thành công trở về. Một năm chờ đợi không phải thời gian quá dài nhưng nó lại thể hiện chí khí,lòng quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải. Việc gây dựng sự nghiệp, công danh không phải là chuyện ngày một ngày hai mà đó còn là chuyện của cả đời người nhưng Từ Hải lại hứa với Thúy Kiều sẽ đạt được công danh sau một năm nữa. Phải là người có quyết tâm cao độ, tin vào khả năng của bản thân thì mới có lời hứa như vậy.

Nếu cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong "Chinh phụ ngâm" được Đặng Trần Côn miêu tả:

"Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước giây giây lại dừng"

thì cuộc chia tay của Từ Hải và Thúy Kiều trong đoạn trích "Chí khí anh hùng" được Nguyễn Du miêu tả với sự dứt khoát:

"Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi".

Người xưa có câu anh hùng khó qua ải mĩ nhân nhưng với khát vọng lớn lao của con người đầu đội trời chân đạp đất thì ải mĩ nhân không làm khó được Từ Hải. Hành động "dứt áo ra đi" của chàng thể hiện thái độ dứt khoát, không chút tơ vương, vướng bận chuyện cá nhân. Theo truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử, "chim bằng là giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chín ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khát khao làm nên sự nghiệp lớn". Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ chim bằng thật oai phong và có sức mạnh phi thường. Đó là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ trung đại.

"Chí khí anh hùng" đã miêu tả cuộc chia ly giữa "trai anh hùng" và "gái thuyền quyên" đầy dứt khoát nhưng nổi bật lên trong đoạn trích là chí khí của người anh hùng Từ Hải. Đó là tính cách hiên ngang, ngay thẳng của bậc "trượng phu" trong thiên hạ. Nhân vật này được Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng đáng là bậc nam nhi "vẫy vùng trong bốn bể", không vì "hương lửa đương nồng" mà chùn chân, nhụt chí.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 12

Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.

Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.

Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau

Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.

Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:

Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.

Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng.

Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiều chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).

Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.

Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều - Kim Trọng, Thúy Kiều - Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.

Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của đạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu..., mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.

Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.

Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khí anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo.

Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.

Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.

Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:

Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.

Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dặm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngây ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.

Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.

Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành ! rong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.

Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải - nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 13

Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.

Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.

Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau

Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.

Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:

Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.

Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng.

Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiều chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).

Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.

Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều - Kim Trọng, Thúy Kiều - Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.

Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của đạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu..., mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.

Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.

Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khí anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo.

Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.

Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.

Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:

Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.

Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dặm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngây ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.

Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.

Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành ! rong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.

Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải - nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 14

Từ Hải “khách biên đình” oai phong lẫm liệt:

“Râu hùm hàm én mày ngài.
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.

Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, đã tái sinh cuộc đời nàng, nâng Kiều thành một mệnh phụ phu nhân:

“Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”.

Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó. Từ Hải đã giã biệt phu nhân để lên đường chinh chiến quyết “rạch đôi sơn hà”:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang.
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Bức chân dung Từ Hải hiện lên trong cảnh giã biệt thật đẹp. Bốn phương trời xa vẫy gọi, “thoắt đã động lòng” đấng trượng phu. Cuộc sống êm ấm gối chăn đầy hạnh phúc “hương lửa đương nồng” cũng không thể níu giữ. Một cái nhìn vời vợi “trời bể mênh mang”. Đó là cái nhìn mang tầm vũ trụ của một anh hùng chí lớn, như Nguyễn Công Trứ từng thổ lộ:

“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.
(Chí anh hùng)

“Thoắt” nghĩa vụt chốc, diễn ra rất nhanh và bất ngờ. Thoắt đã thể hiện sự chấn động vô cùng mạnh mẽ trong tâm hồn đấng trượng phu. Từ Hải đã ra đi với khát vọng lập nên sự nghiệp, bằng võ công của bậc tài trai:

“Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Kiều đã coi chữ “tòng” làm trọng; tòng phu là một trong đạo tam tòng của người phụ nữ ngày xưa. Đó cũng là một nét đẹp đạo đức Thuý Kiều:

“Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Từ Hải đã nói với Kiểu bao lời tình nghĩa. Không thể đế cho giọt nước mắt. tiếng thở dài của người vợ đẹp níu giữ. Từ Hải khuyên Kiều hay khẽ nhắc mình: “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình ?”. Hứa với Kiều về một ngày mai huy hoàng, một ngày mai sum vầy hạnh phúc:

“Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ra sẽ rước nàng nghi gia”.

Đó là lời hứa danh dự của một đấng trượng phu phi thường. Có tin vào chí khí và sức mạnh “rạch đôi sơn hà” của đáng tài trai “đội trời đạp đất” mới có lời hứa như dao chém đá ấy. Với Từ Hải, bốn phương vẫy gọi là chiến công đang chờ đón, là một ngày mai hiển hách có một lực lượng hùng hậu “mười vạn tinh binh ‘, ‘huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam”. Thời gian đợi chờ mà Từ Hải an ủi Kiều cũng là một lời hứa:

“Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Hình ảnh cánh chim bằng bay vút muôn dặm khơi là hình ảnh người anh hùng mang chí lớn tung hoành vẫy vùng trong bốn bể:

“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.

Đọc “Truyện Kiều”, ta bắt gặp hình ảnh Từ Hải đã trở lại Lâm Tri sau một năm trời giã biệt. Trong cảnh “Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân”. Từ Công hỏi phu nhân:

“Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
Anh hùng mới biết anh hùng.
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?”.

Qua đoạn thơ 18 câu này (từ câu 2213 - 2230), nhân vật Từ Hải đã được Nguyễn Du miêu tả với tấm lòng quý mến ngợi ca về chí khí anh hùng và khát vọng sự nghiệp phi thường. Từ Hải là một nhân vật anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp trong “Truyện Kiều” của thi hào Nguyễn Du.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 15

Truyện Kiều là một trong những kiệt tác để đời trong nền văn học Việt Nam của Nguyễn Du. Với tài và tâm của mình, Nguyễn du vận dụng sáng tạo ngôn ngữ , nghệ thuật và sự thấu hiểu cảm thông tái hiện cuộc đời đầy sóng gió của Thúy Kiều và những mối tình nàng trải qua với bao đau khổ. Trong đó có anh hùng Từ Hải được khắc họa qua đoạn trích Chí Khí Anh Hùng.

Thúy Kiều sống trong cảnh nhơ nhớp lầu xanh , nhưng may mắn mỉm cười với nàng khi nàng gặp Từ Hải, được vị anh hùng chuộc khỏi chốn lầu xanh và cưới làm vợ. Sau nửa năm lửa đượm hương nồng, Từ Hải muốn tạo dựng cho mình sự nghiệp lớn nên đã từ biệt Thúy Kiều và hình ảnh người anh hùng lúc lên đường được tái hiện trong bốn câu đầu:

Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Như chúng ta biết “anh hùng” là người trong bụng có chí lớn,có mưu cao, có tài bao trùm cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia. Và khi chàng dứt khoát ra đi để lại tình riêng “nửa năm hương lửa đương nồng”, những hạnh phúc vợ chồng giản dị, riêng tư, mang đi trong mình chí hướng bốn phương , quyết hướng đến sự nghiệp lí tưởng lớn lao cao cả. Dường như ý chí đó trở thành bản năng của người anh hùng không thể ngăn cản nổi. Người anh hùng ấy với tư thế đối diện với trời bể mênh mang, làm chủ mọi thứ , oai phong lẫm liệt “thanh gươm yên ngựa”, mạnh mẽ và dứt khoát. Khi nhìn bóng dáng Từ Hải ta lại nhớ đến hình ảnh người chinh phu:

Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in

Quả thật Từ Hải là một người anh hùng phi chí hướng bốn phương, chẳng thể giam mình nơi nắng không đến đầu mưa không đến mặt, một không gian chật hẹp. Mà chỉ có thể lên đường mới giải phóng được con người anh hùng ấy.

Trong cảnh tiễn biệt Từ Hải, tác giả ngụ ý để cho Từ Hải sẵn sàng trên yên ngựa và thanh kiếm bên mình, mới để Kiều và Từ Hải nói lời từ biệt. Biết rằng chồng mình tung hoành tứ phương, sống trong cảnh màn trời chiếu đất nhưng Thúy Kiều vẫn một lòng theo cùng, luôn muốn chia sẻ nỗi lo, tâm trạng, gánh vác cùng chàng những mệt nhọc mà phận làm thê nên làm. Thúy Kiều thuyết phục Từ Hải bằng đạo phu thê xưa cùng với tình cảm chân thành thể hiện sự thấu tình đạt lí, trong nghĩa trọng tình. Nhưng Từ Hải- đấng anh hùng lại nhẹ nhàng nói với Kiều bằng đạo tri âm:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì

Lời thuyết phúc của Từ Hải “tâm phúc tương tri” thể hiện sự tôn trọng Kiều, mong muốn nàng hiểu mình và khéo léo từ chối không để nàng phải chịu khổ bên mình. Với trí tuệ sáng suốt và một trái tim nhân hậu tấm lòng bao la , Từ Hải luôn muốn có một chiến công oanh liệt, đem đến niềm tin, tình yêu và sự trân trọng cho Thúy Kiều. Làm nên sự nghiệp cũng là lúc Từ Hải đạt được hạnh phúc mà chàng luôn hướng tới, một hạnh phúc tràn đầy cả về sự nghiệp lẫn tình yêu và đó là hạnh phúc xứng đáng với một người anh hùng.

Từ Hải trước đây cũng vậy, bây giờ mà mãi về sau vẫn mang trong mình sự tự tin sẽ làm chủ được tất cả. Chỉ vỏn vẹn thanh gươm yên ngựa cùng chí khí ngút trời nhưng Từ Hải tin rằng sẽ có trong tay “mười vạn tinh binh” về trong tiếng “chiêng dậy đất “ mang lại vẻ vang và hạnh phúc cho người con gái chàng hết mực thương yêu với lời hứa chắc nịch “năm sau” tạo thêm niềm tin vững chắc cho Thúy Kiều. tất cả mọi thứ toát ra từ Từ Hải: chí khí, tư thế, hành động , tài năng đều mang một vẻ phi thường. Chính điều đó làm cho tác giả tôn trọng, ngưỡng mộ gọi chàng là “trượng phu, mặt phi thường”, đặt nhân vật anh hùng trong một không gian đất trời rộng lớn bao la, hết mực ngợi ca.

Từ Hải trong đoạn trích Chí Khí Anh Hùng thể hiện lí tưởng anh hùng của Nguyễn Du: phải chiến thắng cái bình thường, tầm thường để hướng tới cái phi thường, phải có những phẩm chất siêu phàm để trở thành một con người lí tưởng, hình mẫu được dựng lên cho ngàn đời sau.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 16

Nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, ta không thể nào không nhắc đến "Truyện Kiều" – một tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu sắc, đề cao giá trị con người và lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến thối nát.

Đoạn trích "Chí khí anh hùng" trích trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du đã dành những lời thơ của mình để nói về Từ Hải – người anh hùng lí tưởng có những phẩm chất cao đẹp, phi thường.

Có thể nói trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng nhân vật Từ Hải hoàn toàn mới so với hình tượng nhân vật này trong "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, ở "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, hình tượng Từ Hải giống như một tướng cướp đã bị lược bỏ, thay vào đó là một hình tượng Từ Hải như một vị anh hùng tuyệt đẹp, phi thường. Hình tượng này là sự hợp nhất của hình tượng nhân vật có tính ước lệ – là nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du và hình tượng con người vũ trụ với nét vĩ đại, lớn lao.

Sau khi bị mắc bẫy và rơi vào chốn lầu xanh lần thứ hai, Kiều luôn sống trong tâm trạng đau khổ, giày vò. Giữa lúc ấy, Từ Hải xuất hiện như một vị cứu tinh giúp Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh đầy nhơ nhớp ấy. Nhưng tình yêu giữa Thúy Kiều và Từ Hải vẫn không thể nào che khuất đi ước mơ gây dựng một sự nghiệp lớn lao ở con người này. Đó chính là lí do mà khi mối tình của họ vừa chớm nở được "nửa năm" thì Từ Hải đã tiếp tục lên đường với khát khao cháy bỏng gây dựng sự nghiệp của mình:

Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong

Mặc dù trong thời gian sáu tháng, tình yêu của họ luôn nồng nàn, cháy bỏng nhưng với chí lớn và khát khao công danh nghiệp lớn Từ Hải thoắt đã "động lòng bốn phương". "Lòng bốn phương" ở đây là hình ảnh tượng trưng, ước lệ cho chí nguyện lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Hình ảnh "trời bể mênh mang" cũng mang ý nghĩa tương tự như vậy. Chúng như một sự ước lệ tạo nên một tầm vóc lớn lao, phi thường cho Từ Hải. Có thể nói tình yêu hay bất cứ một cái gì cũng không đủ sức để ngăn cản được bước chân của chàng. Trong cả một tác phẩm dài, Nguyễn Du chỉ dành duy nhất một từ "trượng phu" cho Từ Hải như thể khẳng định một chí khí lớn ở chàng. Hình ảnh "thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong" diễn tả một phong thái ung dung của người "trượng phu" trên con đường gây dựng sự nghiệp ấy.

Đối với Thúy Kiều, Từ Hải không chỉ như một người chồng mà còn như một vị ân nhân có ơn vô cùng lớn đã cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh ô nhục. Vì vậy, trước quyết tâm ra đi vì nghiệp lớn của chồng mình, Thúy Kiều đã xin đi theo để là người chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chàng:

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi

Nàng xin đi để được làm trọn chữ "tòng" vì theo nàng thì "xuất giá tòng phu" lấy chồng thì phải theo chồng, nguyện cùng chồng gánh vác mọi chuyện.

Nhưng lời Từ Hải đã quyết, như để làm an lòng Thúy Kiều:

Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Trước lời xin đi theo của Thúy Kiều, Từ Hải như trách Kiều: "Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình"', đó cũng như một lời khuyên Kiều đừng xem nặng quá vấn đề "lấy chồng là phải theo chồng", hãy xem nhẹ chuyện tình cảm vì sự nghiệp lớn lao của chồng. Với một quyết tâm, chí khí lớn lao, Từ Hải nói như hứa hẹn sẽ gây dựng được một cơ đồ to lớn, nắm chắc trong tay "mười vạn tinh binh" và chàng sẽ trở về để đón Kiều trong "tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời". Lúc thành công quay trở lại cũng là lúc Từ Hải sẽ "rước nàng nghi gia", đem lại địa vị và danh phận cho người mà chàng xem là tri âm tri kỉ. Những lời của Từ Hải vào khoảnh khắc tiễn biệt này càng làm rõ "chí khí anh hùng" của nhân vật này, thay vì những lời nói thể hiện sự bịn rịn, quyến luyến khi chia tay thì là những ước mơ, sự khẳng định nhất định sẽ thành công của chàng.

Từ Hải còn thể hiện chí khí của mình ở việc cho rằng Thúy Kiều đi theo sẽ "càng thêm bận" nhưng sâu thẳm bên trong là sự lo lắng cho Kiều khi đi theo sẽ phải chịu cực khổ, nay đây mai đó "bốn bể không nhà":

Bằng ngay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu

Chàng còn dám khẳng định chắc chắn thời gian mà mình sẽ quay về đó là khoảng thời gian một năm. Từ Hải khuyên Kiều ở nhà đợi chàng trở về trong sự chiến thắng vẻ vang, hiển hách:

Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì.

Cách chia tay của Từ Hải rất khác biệt ở chỗ những lời chia tay được thay bằng những lời hứa vào một chiến thắng không xa, sự quyến luyến được thay bằng một quyết tâm vào tương lai.

Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi

Chàng dứt khoát ra đi với một quyết tâm sắt đá như cánh chim bằng khi đã cất cánh tung bay trên bầu trời thì phải bay thật xa mới nghỉ cũng như Từ Hải khi đã chiến thắng, thành công thì mới quay trở về.

Với đoạn trích "Chí khí anh hùng", Nguyễn Du đã xây dựng được một hình tượng người anh hùng lí tưởng hoàn toàn mới. Có thể nói Nguyễn Du đã thực sự thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật này chính bằng tài năng nghệ thuật thể hiện ở sự sáng tạo độc đáo và sự đam mê văn chương của mình.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 17

Truyện Kiều là kiệt tác trong sáng tác của Nguyễn Du, cũng là một trong những tác phẩm làm nên sự hưng thịnh văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Qua Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du không chỉ thể hiện sự đồng cảm, xót xa với cuộc đời truân chuyên của nàng Kiều mà còn gửi gắm ước mơ về người anh hùng có thể cứu dân, dẹp loạn thông qua hình tượng Từ Hải. Trong đoạn trích “Chí khí anh hùng”, nhân vật Từ Hải xuất hiện nổi bật với những phẩm chất phi thường và khát vọng cao đẹp của người anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”.

Trải qua bao biến cố của cuộc đời, những tưởng cuộc đời Thúy Kiều mãi bị vùi dập trong những đau đớn, ê chề thì Từ Hải đã xuất hiện, mang theo ánh sáng hi vọng cho cuộc đời nàng. Có thể nói gặp gỡ và nên duyên cùng với Từ Hải là hạnh phúc hiếm hoi trong cuộc đời của Thúy Kiều. Tuy nhiên, cuộc sống hạnh phúc với nàng Kiều cũng không thể làm nguôi đi chí lớn của người anh hùng:

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Sau nửa năm chung sống hạnh phúc với nàng Kiều, Từ Hải đã quyết định ra đi để thực hiện nghiệp lớn. Từ Hải vốn là người người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất với khát vọng tung hoành khắp muôn phương “nghênh ngang một cõi biên thùy”. Vì vậy dù đang sống trong những ngày hạnh phúc nhất cuộc đời cùng người mà mình yêu thương, trân trọng thì người anh hùng ấy cũng không thể quên đi chí lớn của người làm trai “Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”.

Tư thế ra đi của Từ Hải được tác giả Nguyễn Du tái hiện qua một động từ “thoắt” thể hiện sự mau lẹ, dứt khoát của người trượng phu. “Trời bể mênh mang” không chỉ là hình ảnh ước lệ thể hiện sự rộng lớn trời đất, nơi người anh hùng thỏa sức tung hoành ngang dọc mà còn gợi ra tầm vóc lớn lao, phi thường của người anh hùng. Hình ảnh gươm ngựa “lên đường thẳng rong” góp phần làm nổi bật lên phong thái ung dung, tư thế đĩnh đạc, hiên ngang của Từ Hải.

Thấu hiểu khát vọng và quyết tâm của Từ Hải, Kiều không ngăn cản mà bày tỏ nguyện vọng muốn đi theo để tiện bề chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chồng:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”

Thúy Kiều muốn đi theo Từ Hải để cùng sẻ chia, gánh vác làm trọn đạo “tam tòng chữ đức” của một người vợ và làm trọn tình nghĩa với một người tri kỉ, một người ân nhân có công cứu mạng. Tuy cảm động trước tấm lòng của nàng Kiều nhưng Từ Hải đã quyết chí ra đi mà không muốn vướng bận bởi tình cảm nam nữ và cũng là muốn bảo vệ nàng Kiều khỏi những hiểm nguy nơi chiến trường nên đã từ chối:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng binh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Dù hiểu được tấm lòng của Thúy Kiều nhưng Từ Hải vẫn cố gắng khuyên nhủ Kiều và muốn nàng thoát khỏi thói “nữ nhi thường tình” và hứa hẹn về tương lai tươi sáng, khi nghiệp lớn thành công, cơ đồ được gây dựng sẽ “rước nàng nghi gia”. Qua những lời nói của Từ Hải với Thúy Kiều, ta có thể thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người anh hùng, Từ Hải không để tình cảm chi phối mà vô cùng quyết đoán, dứt khoát với hành động của mình. Cũng cần phải hiểu rằng không phải sự dứt khoát của Từ Hải khi ra đi là vì vô tình hay trọng công danh hơn tình cảm. Chàng là người sống tình cảm hơn bất cứ ai, thay vì quyến luyến, động lòng thì Từ Hải muốn thể hiện bằng hành động, bằng quyết tâm chiến thắng để mang đến nàng Kiều không chỉ là danh phận mà còn là tình cảm.

“Bằng ngay bốn bể là nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”

Nếu ở những câu thơ trên Từ Hải có ý trách móc nàng Kiều vì sự yếu đuối của nữ nhi thường tình thì ngay câu thơ sau chàng đã kín đáo thể hiện sự quan tâm, động viên với nàng. Từ Hải mang tráng khí khắp bốn phương với toàn bộ quyết tâm và tự tin nhưng chàng cũng hiểu rằng con đường mình đang đi sẽ vô cùng chông gai, đó là cuộc sống màn trời chiếu đất, bốn bể không nhà. Từ Hải không muốn Thúy Kiều đi theo một là không muốn vướng bận, hai là muốn nàng phải xông pha vào chốn hiểm nguy cùng mình. Cuối cùng, để lại bao lưu luyến, Từ Hải dứt khoát lên đường:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Từ Hải là nhân vật hội tụ đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ, phi thường của người anh hùng. Khi xây dựng nhân vật Từ Hải trong đoạn trích Chí khí anh hùng, tác giả Nguyễn Du đã kín đáo thể hiện quan niệm về người anh hùng và ước mơ công lí.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 18

Trên diễn đàn văn học Việt Nam, Thúy Kiều xuất hiện trong trang thơ của đại thi hào Nguyễn Du với số phận “hồng nhan bạc mệnh” qua mười lăm năm lưu lạc. Nhưng trong quãng đường đầy rẫy oan khổ đó, có những lúc nàng Kiều được tận hưởng những niềm hạnh phúc về lứa đôi, về gia đình. Đó chính là thời điểm nàng gặp gỡ Từ Hải. Vị anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” đó đã đem đến cho người phụ nữ tài sắc vẹn toàn một danh phận, một vị trí xứng đáng. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã khắc họa thành công bức chân dung nhân vật Từ Hải với phẩm chất, chí khí, lí tưởng hiên ngang và mang tầm vóc vũ trụ.

Trong tác phẩm “Đoạn trường tân thanh”, “Chí khí anh hùng” là trích đoạn thuộc phần “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều tình cờ gặp Từ Hải – vị anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”. Khác với Thúc Sinh, Từ Hải đã cho Kiều một danh phận chính đáng. Với cảm hứng ngợi ca kết hợp bút pháp lãng mạn hóa, tác giả Nguyễn Du đã phác họa thành công vẻ đẹp của hình tượng nhân vật anh hùng Từ Hải với chí khí, tầm vóc, phẩm chất phi thường.

Trước hết, tác giả Nguyễn Du đã gợi ra không gian cuộc sống “Nửa năm hương lửa đương nồng” của Từ Hải và Thúy Kiều. Mặc dù đã tìm được “tri âm, tri kỉ” nhưng cuộc sống ấm êm, hạnh phúc vẫn không thể dập tắt khát vọng của Từ Hải: “Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”. Tác giả Nguyễn Du đã dùng từ “trượng phu” kết hợp cụm từ ước lệ “lòng bốn phương” với thái độ trân trọng, ngưỡng mộ, khâm phục để diễn tả chí nguyện lập công, lập danh lớn lao của người anh hùng. Và tư thế làm chủ, hướng ra phương trời tự do đã được tái hiện rõ nét hơn nữa:

“Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Rõ ràng, Từ Hải không phải là con người của những đam mê, khát vọng thông thường. Đó là bậc trượng phu luôn hướng đến những không gian bao la, mang tầm vóc vũ trụ của “trời bể mênh mang”. Trong không gian vĩ mô đó, con người hiện lên với khát vọng làm chủ: Một người, một ngựa, một gươm hiên ngang, mạnh mẽ “lên đường thẳng rong”, tự tin về tương lai phía trước. Như vậy, với thái độ trân trọng, ngợi ca, ngưỡng mộ và kính phục, tác giả đã khắc họa nhân vật Từ Hải với tư thế hiên ngang cùng những khát vọng phi thường.

Ý chí quyết tâm trong việc “lập công, lập danh” của Từ Hải càng được thể hiện rõ nét hơn nữa trong cuộc đối thoại với Thúy Kiều. Là bậc tri kỉ của người anh hùng, Thúy Kiều thấu hiểu những khát vọng của chồng và xin đi theo chàng. Trước mong muốn của nàng, Từ Hải cũng đưa ra những lí lẽ từ chối “thấu tình đạt lí”:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Qua những lời lẽ đó, chúng ta có thể thấy được Từ Hải không hề quyến luyến, bịn rịn mà quên đi khao khát, ước vọng lớn lao của bản thân. Thậm chí, chàng còn tự tin khẳng định về niềm tin vào viễn cảnh tương lai của bản thân. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh thuộc phạm trù không gian để thể hiện niềm tin sắt đá đó: “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất”, “bóng tinh rợp đường”. Và thời gian mà chàng hứa hẹn với Thúy Kiều “một năm sau vội gì” càng khẳng định rõ nét hơn quyết tâm, niềm tin mãnh liệt thực hiện đến cùng lí tưởng của người anh hùng:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Hành động dứt khoát, mạnh mẽ, không do dự của người anh hùng đã được thể hiện rõ qua những động từ “quyết”, “dứt áo”, “ra đi”. Bằng cảm hứng ngợi ca, khẳng định và lí tưởng hóa, tác giả đã tái hiện viễn cảnh không gian ra đi mang tầm vóc vĩ mô của người anh hùng. Giữa không gian “gió mây”, “dặm khơi” kì vĩ, rộng lớn, con người hiện lên với tư thế sánh ngang tầm vũ trụ. Hình ảnh “chim bằng” sải cánh trên bầu trời cao rộng, trong bao la “dặm khơi” cùng gió, cùng mây đã làm nổi bật tư thế của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, quyết tâm ra đi vì nghiệp lớn. Đó là khát vọng vùng vẫy bốn bể trong khung trời tự do và thoát khỏi mọi khuôn khổ, bế tắc để làm nên sự nghiệp lẫy lừng.

Như vậy, qua đoạn trích Chí khí anh hùng, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng người anh hùng với khát vọng lớn lao vùng vẫy “bốn bể năm châu” cùng ý chí sắt đá, tư thế hiên ngang, lẫm liệt làm chủ vũ trụ thông qua những hình tượng có tính ước lệ như “lòng bốn phương”, “mặt phi thường”,.... Qua đó, chúng ta có thể thấy được thái độ trân trọng ngợi ca của tác giả đối với hình tượng nhân vật.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 19

Đoạn Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) thuộc phần gia biến và lưu lạc trên đoạn trường mười lăm năm. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thuý Kiều được gặp Từ Hải, người anh hùng rồi đây sẽ cứu vớt nàng ra khỏi cuộc đời thanh lâu đau khổ. Người mà đai diện cho lí tưởng, đạo lí công bằng mà Nguyễn Du gửi gắm khi xây dựng trong tác phẩm. Người mà Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng, tình cảm, khối mâu thuẫn khó giải quyết bằng lời của tác giả.

Hội ngộ - rồi chia li đó là hai mặt của một quá trình. Nó là quy luật tự nhiên trong đời sống con người và cũng như là quy luật tình cảm riêng tư khó nói thành lời. Chẳng thế mà chia li đã trở thành thi tài, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, nhà văn đi vào khai thác sao. Từ trong câu ca dao quen thuộc: vầng trăng ai xẻ làm đôi, Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng đến vầng trăng ai bẻ làm đôi; Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường (Truyện Kiều - Nguyễn Du) và ngay cả Cuộc chia li màu đỏ (Nguyễn Mĩ). Ta vẫn bắt gặp những giọt nước mắt long lanh, nóng bỏng, sáng ngời của kẻ ở - người đi. Nhưng có một cuộc chia li làm bạn đọc ấn tượng bởi Chí khí anh hùng, tràn đầy niềm tin lạc quan, tươi sáng chứ khôngnhuộm màu quan san. Đó là cuộc chia li của Từ Hải với Thuý Kiều để lên đường đi khởi nghĩa.

Đoạn Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) thuộc phần gia biến và lưulạc trên đoạn trường mười lăm năm. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thuý Kiều được gặp Từ Hải, người anh hùng rồi đây sẽ cứu vớt nàng ra khỏi cuộc đời thanh lâu đau khổ. Người mà đai diện cho lí tưởng, đạo lí công bằng mà Nguyễn Du gửi gắm khi xây dựng trong tác phẩm. Người mà Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng, tình cảm, khối mâu thuẫn khó giải quyết bằng lời của tác giả.

Sau cuộc gặp gỡ đặc biệt, trong hoàn cảnh cũng rất đặc biệt, Thuý Kiều - Từ Hải đã tìm thấy sự hoà hợp về tâm hồn của nhau, ở họ vừa có sự thấy hiểu chân thành vừa có sự đồng cảm cho nhau. Hai khoảng trống về tâm hồn đã được lấp đầy, san sẻ cho nhau bằng tình yêu. Sự tương xứng ấy tạo nên một kết thúc có hậu của miền cổ tích khi:

Trai anh hùng gái thuyên quyên

Phi nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.

Trước khi đi vào tìm hiểu đoạn trích, ta hãy hiểu xem con người này có gì đặc biệt mà Nguyễn Du giành nhiều ưu ái khi xây dựng Từ Hải là người anh hùng lí tưởng. Một ngựa, một gươm - Từ Hải đã vung lên lưỡi gươm công lí cứu vớt con người khốn khổ, và chắp cánh cho ước mơ hoài bão của họ bay cao, bay xa mãi.

Sự xuất hiện một nhân vật mới trên chặng đường số phận của Thuý Kiều lần này mang một ý nghĩa giá trị nghệ thuật đặc biệt.

Hình tượng Từ Hải không chỉ phản ánh một quan niệm mới mẻ, tự do vềquan hệ luyến ái nam nữ.

Một đời được mấy anh hùng

Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi!

Chính là lời nói giản dị, chân thành, trân trọng Thuý Kiều của Từ Hải đã là lời tỏ tình tế nhị kín đáo mà phá vỡ khoảng cảnh vốn rất dề xuất hiện giữa nhân vật anh hùng với con người bình thường như Kiều. Có thể nói rằng Nguyễn Du thật có biệt tài xây dựng, khắc họa tính cách từng nhàn vật một cách đậm nét rõ ràng. Đặc biệt là nhân vật Từ Hải. Hơn bất cứ những hình tượng nào khác trong tác phẩm, Từ Hải phản ánh khát vọng tự do một khuynh hướng tự do không chỉvượt khỏi lễ giáo, đạo đức chính thống mà còn là một người nổi loạn đối lập với trật tự chính trị phong kiến. Hình tượng Từ Hải - con người đã san phẳng bất bình, bênh vực người bị áp bức bằng nghĩa khí và tài năng cá nhân - tạo nên nội dung phong phú sâu sắc của Truyện Kiều.

Từ Hải dường như đã bẻ gãy xiềng xích mà xã hội phong kiến trói buộc con người, chàng phủ định chính quyền nhà vua, và đối với chàng tự do cao hơn hết thảy:

Chọc trời khuấy nước mặc dầu

Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!

Với khí thế ngang tàng của sự tự do, không phải là cảnh:

Áo xiêm ràng buộc lấy nhau

Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?

Mà lại cái tư thế hiên ngang giữa đất trời, thoả chí anh hùng:

Giang hồ quen thói vẫy vùng

Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.

Hình ảnh cây cung và thanh kiếm đã tạo nên một nét mới trong tínn cách của Từ Hải. Cũng như Kim Trọng, Từ Hải có một tâm hồn cao thượng và đượm chất thơ. Nhưng khác với các nhân vật trong tác phẩm, Từ Hải còn làm độc giả say mê bởi cái cốt cách của một kẻ ngang tàng, hào phóng.

Nguyễn Du xây dựng Từ Hải là nhân vật lí tưởng có cốt cách phi thường nhưng đứng trước Kiều “Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng". Tuy nhiên chàng luôn đứng trên lập trường và lợi ích của cộng đồng, tình cảm và lí tưởng của chàng luôn thống nhất chứ không đồng nhất. Vì vậy mà:

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yến ngựa lên dường thẳng rong.

Sống trong hạnh phúc yêu thương, khi hơi ấm tình cảm vợ chồng ở độ mặn nồng, đằm thắm, Từ Hải vẫn không quên sự nghiệp lớn, chí làm trai mà theo như Nguyễn Công Trứ:

Chí làm trai nam bắc tây đông

Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể.

Điểm này ở Từ Hải đã cho thấy sự phù hợp trong tính cách của chàng đó là đội trời đạp đất ở đời. Tư thế ra đi của Từ Hải dứt khoát khồng có chút gì lưu luyến - bịn rịn như Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, không có lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Mà ở đoạn trích Chí khí anh hùng (Truyện Kiều - Nguyễn Du), người Trượng phu mang trong mình tầm vóc lớn lao của thời đại giao cho, đối lập với một không gian bao la, trông vời trời bể mênh mông là tầm vóc của người anh hùng: Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong. Chỉ mới bốn câu thơ thôi Nguyễn Du đã khắc hoạ một nhân vật, người anh hùng bằng xương bằng thịt. Bởi miêu tả là người anh hùng cho nên ngôn ngữ của Nguyễn Du là sự kính phục, trân trọng. Cách miêu tả cũng khác, không gian, thời gian được mở rộng để phù hợp với khí phách của nhân vật chăng?

Người anh hùng ra đi không muốn vướng bận nữ nhi, không chút mềm yếu trước lời nói của thê tử:

Nàng rằng: phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.

Thuý Kiều là người sâu sắc đến mấy cũng không thoát khỏi chuyện phu - thê quyến luyến. Nàng chỉ muốn theo Từ Hải đi để làm trọn bổn phận làm vợ của mình, mà không nghĩ đến việc lớn của chàng. Vì thế Từ Hải đã trách khéo nàng tâm phúc tương tri tức là hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc như thế, cần gì phải quan tâm đến chuyện nghĩa theo chồng như đạo Nho bắt làm. Sau đó chàng động viên Thuý Kiều ở nhà yên tâm đợi tin vui:

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chuông dậy đất bóng tỉnh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường

Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Còn bây giờ giữa trời đất bao la bốn bể không nhà, nàng mà đi theo chi làm bận tâm thêm, huống chi chưa biết rõ là đi đâu. Vì vậy nàng hãy dằn lòng chờ đợi chỉ một hai năm vội gì. Thế rồi chàng:

Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Hình ảnh con chim bằng được lấy điển tích từ truyện ngụ ngôn kể rằng chim bằng là một giống chim rất lớn, đập cách làm động nước trong ba ngàn dặm, thường tượng trưng cho những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn Du đã ví Từ Hải như là con chim bằng đã đến lúc tung cánh bay lên cùng gió mây.

Cuộc sống của một con người luôn khao khát không trung, tự dothỏa chí vẫy vùng, không bao giờ chịu sống trong cảnh tù túng, gò bó trong không gian nhỏ bé thường ngày của người bình thường. Khi miêu tả người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và cử chỉ ngôn ngữ mang ý nghĩa mạnh mẽ, dứt khoát như: thoắt đã, thẳng giong, sao chưa thoát khỏi, dậy đất, phi thường, vội gì, quyết lời dứtáo ra đi,... Ngoài ra thêm các từ chữ Hán để bộc lộ tư tưởng tình cảm của tác giả, rồi dùng điển cố, điển tích...và cả xây dựng thời gian, không gian mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang, ...

Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vật Từ Hải dường như xuất hiện từ một giấc mơ, từ một giấc mơ hùng vĩ về chính phía mà hàng triệu người khốn khổ áp bức hằng ôm ấp. Vì vậy mà khi xây dựng, Nguyễn Du đã có những sáng tạo các phương thức nghệ thuật riêng, để biểu đạt khát vọng của mình và của thời đại Nguyễn Du sống - khát vọng về sự tự do, công bằng lẽ phải. Từ một cuộc chia li mà nói lên được toàn bộ chí khí anh hùng của Từ Hải.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 20

Truyện Kiều không chỉ xuất sắc về ngôn ngữ nghệ thuật mà còn về nội dung ý nghĩa độc đáo,sâu sắc.Nguyễn Du đã phản ánh một hiện thực xã hội bất công ,tàn bạo chà đạp nên quyền sống của con người biệt là những người phụ nữ.Điều ấy khiến Truyện Kiều thấm đượm tinh thần nhân đạo.Và khi đưa Tù Hải-người anh hùng đầu đội trời,chân đạp đất vào như một nét sáng tạo trong cốt truyện Nguyễn Du đac thể hiện giấc mơ về một xã hội công bằng tự do.Vẻ đẹp, phẩm chất anh hùng hiên ngang của Từ Hải được thể hiện rõ qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”.
Sau khi bị rơi vào lầu xanh lần hai,cuộc đời Thúy Kiều tưởng như bế tắc hoàn toàn .Giữa lúc nỗi buồn đang dâng nên cao trào thì Từ Hải đột nhiên xuất hiện .Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm ,tri kỉ.Trong vũng  lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh ,Từ Hải đã tinh tương nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều với con mắt tinh đời.Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan tình cho mình.Sau cuộc gặp gỡ đặc biệt ,Kiều và Hải đã tìm thây sự hòa hợp về tâm hồn của nhau .Hai khoảng trống về tâm hồn đã được lấp đầy, san sẻ cho nhau bằng tình yêu.Sự tương xứng ấy đã tạo nên một kết thúc có hậu:
Trai anh hùng gái thuyền quyên
Phi nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.
Cuộc sống đôi lứa vừa mới chớm nở được “nửa năm” thì Từ Hải ra đi thực hiện nghiệp lớn:
Nửa năm hương khói đương nồng
Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Mặc dù trong thời gian sáu tháng ,tình yêu của họ luôn mặn nồng ,hạnh phúc “nửa năm hương khói đương nồng”nhưng tâm chí Từ Hải luôn suy nghĩ đến việc lớn lao,khát khao lập công danh nghiệp lớn .Vì thế Từ Hải “thoát đã động lòng bốn phương” là hợp lý. “Lòng bốn phương” ở đây là hình ảnh ước lệ tượng trưng cho chí nguyện lập công danh ,sự nghiệp của Từ Hải tạo nên tầm vóc lớn lao phi thường cho người chàng.Có thể nói tình yêu hay bất cứ một thứ gì khác cũng không ngăn nổi bước chân của chàng.Trong 3254 câu Kiều ,Nguyễn Du chỉ dành duy nhất một từ “trượng phu” cho Từ Hải để khẳng định sự trân trọng,kính phục của ông đối với Từ Hải.Nguyễn Du xây dựng hình ảnh Từ Hải song song,sánh ngang với hình ảnh trời đất.Nhắc đến Từ Hải là thấy hình ảnh cao rộng của trời đất vũ trụ .Những từ láy,từ biểu cảm chỉ độ rộng ,độ cao càng khắc họa rõ hơn tư thế của Từ Hải. Cái nhìn của chàng không phải là cái nhìn bình thường mà là “trông vời”-cái nhìn ẩn chứa sự sáng suốt và suy nghĩ phi thường.Hình ảnh “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”diễn tả phong thái ung dung ,hiên ngang không vướng bận của người anh hùng trên đường ra đi gây dựng sự nghiệp.
Đối với Thúy Kiều ,Từ Hải không chỉ như một người chồng mà còn như một vị ân nhân ,một tri âm tri kỉ .Vì vậy ,trước quyết tâm ra đi thực hiện nghiệp lớn của chồng mình ,Thúy Kiều đã xin đi theo để chăm sóc ,nâng khăn sửa túi cho chàng:
Nàng rằng : Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Kiều biết Từ Hải ra đi trong cảnh “bốn bể không nhà” nhưng vẫn nguyện đi theo.Chữ “tòng” không chỉ đơn giản như trong sách vở của Nho giáo rằng phận nữ nhi phải “xuất giá tòng phu” mà còn bao hàm ý thức chia sẻ nhiệm vụ ,đồng lòng tiếp sức cho Từ khi gặp khó khăn trong cuộc sống.
Trước lời xin đi theo của Kiều , Từ Hải như khiển trách :
Từ rằng : Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình.
Từ Hải nói rằng Kiều chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình  vừa là lời khiển trách vừa  mong Kiều cứng cỏi hơn vừa là lời dặn dò và niềm tin Từ Hải gửi gắm nơi Thúy Kiều.Đã là “tâm phúc tương tri”
thì Kiều phải hiểu ,động viên ,chia sẻ ,là chỗ dựa tinh thần vững chắc , từ đó vượt qua sự bịn rịn của nữ nhi thường tình để Hải có thể yên tâm lên đường ra đi thực hiên nghiệp lớn .Để rồi một ngày nào đó Từ Hải trong sự nghiệp vẻ vang đón Kiều về nhà chồng trong danh dự:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất ,bóng râm rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Qua lời hứa với Thúy Kiều , ta thấy được lý tưởng lớn lao của Từ Hải.Nguyễn Du đã sự dụng một loạt các từ ngũ thuộc phảm trù không gian như “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất “…gợi nên khát vọng lớn lao ,mang tầm vóc vũ trụ của người anh hùng.Khát vọng “ làm cho rõ mặt phi thường “ chính là khát vọng xây dựng một sự nghiệp ,công danh lẫy lừng ,xuất chúng,hơn người.Thành công ấy sx chính là sính lễ để Từ Hải rước người tri kỉ “nghi gia”.Những lời nói của Từ Hải vào khoảnh khắc tiễn biệt này càng làm rõ chí khí anh hùng của nhân vật này ,thay vì những lời nói thể hiện sự bịn rịn ,quyên luyến khi chia tay thì là những ước mơ ,sự khẳng định nhất định sẽ thành công của chàng.
Từ Hải còn thể hiện chí khí anh hùng của mình ở việc cho rằng Thúy Kiều đi theo sẽ “càng thêm bận” nhưng sâu thẳm bên trong là sự lo lắng cho Kiều khi đi theo sẽ phải chịu khổ cực ,nay đây mai đó :
Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!
Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi… tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dậm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngáy ngất say men chiến thắng cùa con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.
Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động.Từ Hải hiện nên như một vị anh hùng đầy phóng khoáng ,dứt khoát ,nhanh nhẹn và oai nghiêm,có lý tưởng công danh lớn,rạch ròi giữa lý tưởng và tình cảm. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải – nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào qua đó cho thấy giấc mơ về một xã hội tự do,công bằng của Nguyễn Du.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 21

Nguyễn Du là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, ông được mệnh danh là đại thi hào, suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị, nổi bật trong số đó có thể kể đến kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng là một trong những đoạn trích khá tiêu biểu, Nguyễn Du đã miêu tả chân dung cũng như khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải.

          Nguyễn Du tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào dân tộc". Tổ tiên của Nguyễn Du có nguồn gốc từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan. Bốn nghề chơi: cầm, thư, thi, hoạ bốn nghề đều thông thạo. Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản. Năm 1780, Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án ănm Canh Tý bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Nét nổi bật trong tác phẩm của Nguyễn Du chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành... nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả, là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy, thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện thơ.

     Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường. Bốn câu mở đầu đoạn trích là khát vọng lên đường của Từ Hải:

"Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong".

     Khoảng thời gian nửa năm ấy có biết bao nhiêu kỷ niệm đẹp bên Thúy Kiều, tình yêu đang lúc mặn nồng thì Từ Hải quyết định ra đi, rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ, là người đàn ông có tài năng xuất chúng. Từ Hải đã "động lòng bốn phương", ý chí muốn làm nên nghiệp lớn. Hình ảnh "trời bể mênh mang" như thể hiện được ý chí lớn lao của Từ Hải. Khát khao được vẫy vùng, tung hoành bốn phương là một sức mạnh tự nhiên không có gì ngăn cản nổi. Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải vốn đã là một anh hùng hảo hán "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai", đã từng "Nghênh ngang một cõi biên thùy". Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn,  không có gì cản được bước chân chàng.

     Bất kể cuộc chia li nào cũng đẫm nước mắt và nỗi buồn, Thúy Kiều và Từ Hải cũng không ngoại lệ:

"Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"

     Trong lúc "hương lửa đương nồng" nàng không muốn cách xa Từ Hải- người chồng đồng thời là ân nhân cứu mạng thoát khỏi chốn lầu xanh. Thúy Kiều một lòng một dạ muốn theo chồng mình "Nàng rằng: Phận gái chữ tòng", nhắc đến chữ tòng trong lễ giáo phong kiến, có chồng thì phải theo chồng để được đi theo. Nàng muốn đi theo chồng để nâng khăn sửa túi, có người bầu bạn, cùng chia sẻ những khó khăn cuộc đời mà chồng phải chịu. Dù biết là rất gian nan và khó khăn nhưng vẫn một lòng xin theo. Đó là mong muốn chính đáng, hợp lí, thuận tình. 

     Từ Hải đã từ chối mong muốn của Kiều, đó là phản ứng tất yếu của một người anh hùng chân chính:

"Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?"

     "Tâm phúc tương tri" nghĩa là hai người đã hiểu nhau sâu sắc, Từ Hải coi Kiều là tri kỉ, hiểu mình hơn ai hết tại sao vẫn chưa thoát khỏi "nữ nhi thường tình". Đó là một lời trách nhẹ Thuý Kiều tại sao không thấu hiểu cho hành động của mình đồng thời đó còn là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt lên thứ tình cảm thông thường để làm vợ một người anh hùng, vượt qua những bất trắc trước mắt để hướng về một tương lai tốt đẹp hơn. Từ Hải hứa với Thúy Kiều bằng tình cảm sâu nặng:

"Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia"

     "Mười vạn tinh binh”, “Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường” nghĩa là tương lai thành công. Chàng phải đi đến khi nào lập nên sự nghiệp, có tinh binh đi sau, có lá cờ rợp đất thì mới trở về tìm nàng để cho nàng có một cuộc sống sung sướng. “Rõ mặt phi thường” chứng tỏ được tài năng xuất chúng. Từ Hải nói lên niềm tin tưởng sắt đá vào tương lai, sự nghiệp. “Rước nàng nghi gia” nghĩa là cho Kiều danh phận, cuộc sống viên mãn. Từ Hải là người anh hùng có chí khí, thống nhất giữa khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với người tri kỉ.

     Để từ chối khéo ước nguyện muốn đi theo của Kiều, Từ Hải đã sử dụng những lời lẽ hết sức thuyết phục:

"Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!"

     Chàng không cho Kiều đi theo vì không muốn vợ mình phải chịu khổ cực, vất vả. Bốn bể không có nhà thì làm sao một người con gái như nàng Kiều có thể chịu đựng được. Việc gây dựng sự nghiệp không phải ngày một ngày hai nên Từ Hải không muốn vướng bận ảnh hưởng đén việc lớn, nếu Kiều đi theo sẽ không chăm sóc được cho nàng một cách trọn vẹn. Vì thế đành hứa hẹn và an ủi nàng "Đành lòng chờ đó ít lâu". Từ Hải là một người chồng tâm lí, người anh hùng nhưng vẫn rất chân thực, đời thường. Là con người có khát vọng lớn lao, tin tưởng vào tương lai, có thể đem lại hạnh phúc cho Kiều.

     Cuộc chia tay của Thúy Kiều và Từ Hải trong đoạn trích được miêu tả với sự dứt khoát:

"Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi".

     Hành động "dứt áo ra đi" của chàng thể hiện thái độ dứt khoát, không chút tơ vương, vướng bận chuyện cá nhân.  Qua đó, ta có thể khẳng định được Từ Hải chính là bậc anh hùng cái thế, có tầm vóc phi thường, sánh ngang với trời đất, vũ trụ. Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ chim bằng thật oai phong và có sức mạnh phi thường. Đó là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ trung đại.

          Với nghệ thuật sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng; lời thoại bộc lộ tính cách, hình ảnh ẩn dụ Nguyễn Du đã xây dựng nên hình tượng một người anh hùng có khí phách hiên ngang, phi thường. Một con người khí chất hơn người, hoài bão lớn lao và niềm tin sắt đá vào tài năng của mình. Nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng đáng là bậc nam nhi "vẫy vùng trong bốn bể", không vì "hương lửa đương nồng" mà chùn chân, nhụt chí.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 22

Thuý Kiều vừa thoát chốn hang hùm thì lại rơi vào ổ rắn. Nàng bị Bạc Bà, Bạc Hạnh đẩy vào lầu xanh lần thứ hai nên luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

        Thế rồi người anh hùng Từ Hải đột nhiên xuất hiện, tìm đến với Thuý Kiều như tìm đến với tri âm tri kỉ. Với con mắt tinh đời, Từ Hải đã nhận ra giá trị tài sắc cùng phẩm chất cao quý của Thuý Kiều. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình nên khiêm nhường bày tỏ:

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau.

        Hai người, một là gái giang hồ, một đang bị triều đình coi là làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều cũng nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình vợ chồng dù mặn nồng đến mấy cũng không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc chàng ra đi để tiếp tục nghiệp lớn. Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du nói tới Từ Hải, một hình tượng nhân vật thể hiện ước mơ lãng mạn của nhân dân về một người anh hùng lí tưởng có những phẩm chất phi thường. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy tự tin, tự hào và chí khí anh hùng.

        Đối với Từ Hải, trước sau Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ yêu mến, trân trọng và kính phục. Ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thuý Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm dừng chân. Thuý Kiều là một trang tuyệt sắc, được Từ Hải coi là tri kỉ, tri âm và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ay vậy mà chỉ mới vui hưởng hạnh phúc bên Thuý Kiều chưa được bao lâu, Từ Hải đã lại dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

        Hình ảnh Từ Hải trong bốn câu thơ đầu được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết chàng là một tráng sĩ có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng gần như đã trở thành một bản năng tự nhiên, không gì có thể kiềm chế nổi.

        Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thuý Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai; đã từng: Nghênh ngang một cỡi biên thuỳ. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế mà không có gì cản được bước chân chàng.

        Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng nói để Thuý Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu là cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng.

        Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa, Từ Hải chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng theo tiếng gọi của trời biển mênh mang và lập tức một mình chàng với Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ Trượng phu trong Truyện Kiều chỉ xuất hiện một lần dành riêng để nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã khẳng định Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn lao. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát. Bốn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý: Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương” (Hoài Thanh). Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như Từ Hải chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp, tù túng. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: “Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.

        Trong cảnh chia tay, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi sau đó mới để cho chàng nói với Kiều những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thuý Kiều còn nói sao được nữa?! Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thuý Kiều – Kim Trọng, Thuý Kiều – Thúc Sinh chăng ?! Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời từ biệt với Thuý Kiều. Sự thật chưa chắc đã như vậy nhưng cần phải miêu tả như thế thì mới thể hiện được hết sự quyết đoán và cốt cách phi thường của người anh hùng Từ Hải.

        Thuý Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi: Nàng rằng: Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của đạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu…, mà còn ngụ ý tiếp sức, muốn cùng được chia sẻ, gánh vác với chồng.

        Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí phi thường của chàng:  

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”.

        Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng đáng là phu nhân của một bậc trượng phu.

        Lí tưởng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khí anh hùng. Khi chia tay chàng không tỏ ra quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng không thể làm cho chàng quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự không muốn xa Kiều, Từ Hải sẽ chấp nhận cho nàng đi theo.

        Từ Hải là con người khát khao sự nghiệp phi thường. Đang sống trong hạnh phúc vợ chồng ngọt ngào, nồng thắm nhưng khi tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong, Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Đối với chàng, sự nghiệp là trên hết bởi nó chẳng những là ý nghĩa cao cả của cuộc sống mà còn là điều kiện để chàng đáp ứng những ước ao mà người tri kỉ tức Thuý Kiều đã tin tưởng gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn hàm chứa cái ý Từ Hải khuyên Thuý Kiểu hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều : Cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang của Từ Hải.

        Từ Hải còn là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên tự coi mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp dường như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng : Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để : Làm cho rõ mặt phi thường với Thuý Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hai đã khẳng định muộn nhất thì cũng không quá một năm, chàng sẽ nhất định trở về với cả một cơ đồ to lớn.

        Không chút vấn vương, bi luỵ, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

        Nguyễn Du mượn hình ảnh chim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để so sánh với Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi… tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.

        Hình ảnh: Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi lần bay thì chín vạn dặm mới nghỉ, đã diễn tả những phút giây ngây ngất say men chiến thắng của người anh hùng lúc lên đường.

        Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và thủ pháp miêu tả có tính chất ước lệ để lí tưởng hoá, biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường. Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du.

        Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ cháy trong lòng dân chúng giữa cảnh đời tù túng của xã hội phong kiến đương thời. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ thì chúng ta sẽ thấy còn thêm một lí do nữa là vì chàng bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thuý Kiều. Điều chắc chắn là khát khao của Từ Hải muốn được tung hoành trong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải – nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 23

    Từ Hải là một giấc mơ của Nguyễn Du, giấc mơ anh hùng, giấc mơ tự do và công lý. Cho nên Từ Hải là một người chí khí, một người siêu phàm. Con người ấy đến từ một giấc mơ và ở lại như một huyền thoại. Hiện diện trong “Truyện Kiều” như một nhân cách sử thi, Từ Hải đã làm nên những trang sôi động nhất, hào sảng nhất trong cái thế giới buồn đau dằng dặc của “Đoạn Trường Tân Thanh”. Đoạn trích “Chí Khí Anh Hùng” là một đoạn trích tiêu biểu khắc họa rõ nét chí khí anh hùng của Từ Hải.

    Văn bản nói về cuộc chia tay giữa Thúy Kiều và Từ Hải sau nửa năm chung sống mặn nồng. Từ Hải lên đường thể hiện quyết tâm mưu đồ việc lớn của người anh hùng có hùng tâm tráng trí cao cả, lớn lao.

    Trước đoạn trích này, ngay từ khi Từ Hải xuất hiện, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy hình ảnh người anh hùng ngay từ vẻ đẹp ngoại hình:

Râu hùm hàm én mày ngài

Vai năm thước rộng thân mười thước cao

   Hay vẻ đẹp ở phương diện tài năng:

Đường đường một đấng anh hào

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.

    Để làm bật vẻ đẹp đó, bốn câu thơ đầu đã vẽ lên hình ảnh người anh hùng với khát khao, hoài bão lớn lao, cao đẹp:

“Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

     Giữa lúc cuộc sống của Từ Hải và Thúy Kiều đang ở độ đằm thắm, mặn nồng nhất thì Từ Hải quyết định dứt áo lên đường thực hiện nguyện vọng lớn lao. Theo lẽ thường, những người đàn ông sẽ khó có đủ quyết tâm để rời bỏ hạnh phúc riêng tư. Còn Từ Hải lại là một người hoàn toàn khác, mặc dù đang trong giai đoạn hạnh phúc nhất, nhưng sâu thẳm trong trái tim Từ Hải khát khao, hoài bão, nguyện vọng đó vẫn luôn âm ỉ cháy bỏng, chỉ chờ thời cơ thích hợp để thực hiện. Thái độ lên đường của Từ Hải hết sức dứt khoát, hành động “thoắt” cho thấy sự thay đổi nhanh chóng trong con người Từ Hải. Chỉ cần nghĩ đến những khát khao, hoài bão lớn của đời người là chàng đã muốn lên đường ngay lập tức. Tư thế lên đường “trông vời” đó là cái nhìn thẳng về phía trước, thể hiện một thái độ tự tin, mạnh mẽ của con người có bản lĩnh kiên định, vững vàng. Các từ ngữ Nguyễn Du miêu tả quyết tâm của Từ Hải hết sức đắt giá: “trượng phu”, “động lòng bốn phương”, “trời bể mênh mông” cho thấy một không gian hoạt động rộng lớn, đó là không gian thiên nhiên, vũ trụ để Từ Hải thỏa sức vẫy vùng, thể hiện hùng tâm, tráng trí của mình.

    Qua bốn câu thơ đầu Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh của một người anh hùng lí tưởng, phi thường, có ước mơ, có hoài bãi cao cả, có chí lớn ôm trọn của trời đất. Nguyễn Du đã rất khéo léo khi xây dụng hình ảnh người anh hùng Từ Hải qua không gian rộng lớn, qua tư thế, hành động mạnh mẽ, dứt khoát.

    Qua cuộc đối thoại với Thúy Kiều vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải càng được thể hiện rõ nét hơn. Trước hết những lời đối thoại của Từ Hải đã cho thấy tình cảm chàng dành cho Thúy Kiều, chàng ý thức được sự lo lắng, băn khoăn, hiểu được ý định xin được đi theo của nàng Kiều nên đã nói chuyện với nàng để giải tỏa nỗi băn khoăn ấy. Chàng còn khẳng định tình cảm tri ân tri kỉ giữa hai người, rồi trách móc nàng Kiều vẫn chưa thoát khỏi chuyện nữ nhi thường tình:

Từ rằng: Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình.

    Từ Hải một người có ý chí, quyết tâm, ôm mộng lớn bao trùm thiên hạ bởi vậy vợ chàng, tri âm tri kỉ của chàng cũng phải la người phụ nữ mạnh mẽ, hiểu chuyện, không nên có những thái độ giống như những người phụ nữ bình thường khác. Ngoài ra, để làm Thúy Kiều yên tâm, chàng còn khẳng định, đưa ra lời hứa hẹn:

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp trời

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

    Câu thơ là lời khẳng định tình cảm sâu sắc Từ Hải dành cho Thúy Kiều, đó làm tấm lòng trân trọng, luôn lo lắng cho Thúy Kiều của Từ Hải. Đồng thời Từ Hải cũng phân tích để Thúy Kiều hiểu được việc nàng muốn đi theo là không phù hợp: Bằng nay bốn bể không nhà/ Theo càng thêm bận biết là đi đâu. Để rồi một lần nữa Từ hứa hẹn chắc chắn một năm sau sẽ trở về đón nàng trong vinh quang. Đằng sau những lời nói của Từ Hải ta còn thấy được khát vọng lớn lao của người anh hùng: muốn có một đội quân tinh nhuệ, hùng hậu, đủ sức làm rung chuyển thiên hạ. Bày tỏ mục đích ra đi vì sự nghiệp lớn của mình là để khẳng định bản lĩnh nam nhi. Khát vọng lớn lao của người anh hùng Từ Hải thể hiện qua thái độ dứt khoát, kiên quyết dẹp bỏ tình riêng hết lòng vì sự nghiệp lớn.

     Khát vọng lớn lao của Từ Hải còn được thể hiện ở lời khẳng định chỉ trong vòng một năm ngắn ngủi sẽ hoàn thành sự nghiệp lớn để trở về. Đối với một người nam nhi làm sự nghiệp lớn, gây dựng cơ đồ chỉ trong một năm quả là quá ngắn ngủi. Qua lớn khẳng định đó cho thấy sự bản lĩnh, tự tin của Từ Hải vào tài năng của mình. Thông qua lời đối thoại với Thúy Kiều đã khắc họa rõ nét, chân thực những khát vọng lớn lao, cao cả, mạnh mẽ và cả tình yêu tha thiết Từ Hải dành cho Thúy Kiều.

    Hai câu thơ cuối thể hiện quyết tâm của Từ Hải: Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi. Các từ quyết, dứt, ra đi cho thấy hành động mạnh mẽ, dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Hình ảnh cánh chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn được Nguyễn Du sử dụng để nói lên lí tưởng, khát vọng, hoài bão cao đẹp của người anh hùng.

    Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc họa thành công người anh hùng Từ Hải mang trong mình khát khao lớn lao, được vùng vẫy trong bốn biển. Đồng thời hình ảnh Từ Hải cũng gửi gắm niềm tin về công lý, về sự nghiệp của Nguyễn Du.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 24

Chí khí anh hùng được trích từ phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc" trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đây là phần do Nguyễn Du sáng tạo ra không có trong nguyên tác chữ Hán. Đoạn trích đã vẽ lên chân dung người anh hùng Từ Hải vô cùng đẹp đẽ, đồng thời gửi gắm những thông điệp ý nghĩa qua nhân vật này.

    Văn bản nói về cuộc chia tay giữa Thúy Kiều và Từ Hải sau nửa năm chung sống mặn nồng. Từ Hải lên đường thể hiện quyết tâm mưu đồ việc lớn của người anh hùng có hùng tâm tráng trí cao cả, lớn lao. Trước đoạn trích này, ngay từ khi Từ Hải xuất hiện, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy hình ảnh người anh hùng ngay từ vẻ đẹp ngoại hình:

Râu hùm hàm én mày ngài

Vai năm thước rộng thân mười thước cao

   Hay vẻ đẹp ở phương diện tài năng:

Đường đường một đấng anh hào

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.

    Để làm bật vẻ đẹp đó, bốn câu thơ đầu đã vẽ lên hình ảnh người anh hùng với khát khao, hoài bão lớn lao, cao đẹp:

“Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

     Giữa lúc cuộc sống của Từ Hải và Thúy Kiều đang ở độ đằm thắm, mặn nồng nhất thì Từ Hải quyết định dứt áo lên đường thực hiện nguyện vọng lớn lao. Theo lẽ thường, những người đàn ông sẽ khó có đủ quyết tâm để rời bỏ hạnh phúc riêng tư. Còn Từ Hải lại là một người hoàn toàn khác, mặc dù đang trong giai đoạn hạnh phúc nhất, nhưng sâu thẳm trong trái tim Từ Hải khát khao, hoài bão, nguyện vọng đó vẫn luôn âm ỉ cháy bỏng, chỉ chờ thời cơ thích hợp để thực hiện. Thái độ lên đường của Từ Hải hết sức dứt khoát, hành động “thoắt” cho thấy sự thay đổi nhanh chóng trong con người Từ Hải. Chỉ cần nghĩ đến những khát khao, hoài bão lớn của đời người là chàng đã muốn lên đường ngay lập tức. Tư thế lên đường “trông vời” đó là cái nhìn thẳng về phía trước, thể hiện một thái độ tự tin, mạnh mẽ của con người có bản lĩnh kiên định, vững vàng. Các từ ngữ Nguyễn Du miêu tả quyết tâm của Từ Hải hết sức đắt giá: “trượng phu”, “động lòng bốn phương”, “trời bể mênh mông” cho thấy một không gian hoạt động rộng lớn, đó là không gian thiên nhiên, vũ trụ để Từ Hải thỏa sức vẫy vùng, thể hiện hùng tâm, tráng trí của mình.

    Qua bốn câu thơ đầu Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh của một người anh hùng lí tưởng, phi thường, có ước mơ, có hoài bãi cao cả, có chí lớn ôm trọn của trời đất. Nguyễn Du đã rất khéo léo khi xây dụng hình ảnh người anh hùng Từ Hải qua không gian rộng lớn, qua tư thế, hành động mạnh mẽ, dứt khoát.

    Qua cuộc đối thoại với Thúy Kiều vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải càng được thể hiện rõ nét hơn. Trước hết những lời đối thoại của Từ Hải đã cho thấy tình cảm chàng dành cho Thúy Kiều, chàng ý thức được sự lo lắng, băn khoăn, hiểu được ý định xin được đi theo của nàng Kiều nên đã nói chuyện với nàng để giải tỏa nỗi băn khoăn ấy. Chàng còn khẳng định tình cảm tri ân tri kỉ giữa hai người, rồi trách móc nàng Kiều vẫn chưa thoát khỏi chuyện nữ nhi thường tình:

Từ rằng: Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình.

    Từ Hải một người có ý chí, quyết tâm, ôm mộng lớn bao trùm thiên hạ bởi vậy vợ chàng, tri âm tri kỉ của chàng cũng phải la người phụ nữ mạnh mẽ, hiểu chuyện, không nên có những thái độ giống như những người phụ nữ bình thường khác. Ngoài ra, để làm Thúy Kiều yên tâm, chàng còn khẳng định, đưa ra lời hứa hẹn:

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp trời

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

    Câu thơ là lời khẳng định tình cảm sâu sắc Từ Hải dành cho Thúy Kiều, đó làm tấm lòng trân trọng, luôn lo lắng cho Thúy Kiều của Từ Hải. Đồng thời Từ Hải cũng phân tích để Thúy Kiều hiểu được việc nàng muốn đi theo là không phù hợp: Bằng nay bốn bể không nhà/ Theo càng thêm bận biết là đi đâu. Để rồi một lần nữa Từ hứa hẹn chắc chắn một năm sau sẽ trở về đón nàng trong vinh quang. Đằng sau những lời nói của Từ Hải ta còn thấy được khát vọng lớn lao của người anh hùng: muốn có một đội quân tinh nhuệ, hùng hậu, đủ sức làm rung chuyển thiên hạ. Bày tỏ mục đích ra đi vì sự nghiệp lớn của mình là để khẳng định bản lĩnh nam nhi. Khát vọng lớn lao của người anh hùng Từ Hải thể hiện qua thái độ dứt khoát, kiên quyết dẹp bỏ tình riêng hết lòng vì sự nghiệp lớn. Khát vọng lớn lao của Từ Hải còn được thể hiện ở lời khẳng định chỉ trong vòng một năm ngắn ngủi sẽ hoàn thành sự nghiệp lớn để trở về. Đối với một người nam nhi làm sự nghiệp lớn, gây dựng cơ đồ chỉ trong một năm quả là quá ngắn ngủi. Qua lớn khẳng định đó cho thấy sự bản lĩnh, tự tin của Từ Hải vào tài năng của mình. Thông qua lời đối thoại với Thúy Kiều đã khắc họa rõ nét, chân thực những khát vọng lớn lao, cao cả, mạnh mẽ và cả tình yêu tha thiết Từ Hải dành cho Thúy Kiều.

    Hai câu thơ cuối thể hiện quyết tâm của Từ Hải: Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi. Các từ quyết, dứt, ra đi cho thấy hành động mạnh mẽ, dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Hình ảnh cánh chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn được Nguyễn Du sử dụng để nói lên lí tưởng, khát vọng, hoài bão cao đẹp của người anh hùng.

    Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc họa thành công người anh hùng Từ Hải mang trong mình khát khao lớn lao. Đồng thời hình ảnh Từ Hải cũng gửi gắm niềm tin về công lý, về sự nghiệp của Nguyễn Du.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 25

             Đọc Kiều, bao thế hệ người đọc không khỏi thốt lên rằng: “Tố Như ơi, Lệ chảy quanh thân Kiều!” (Tố Hữu). Tuy vậy, bên cạnh những tình cảnh đớn đau, Kiều đã có những giây phút hạnh phúc thực sự, như khi bên vị anh hùng Từ Hải. Vậy mà “Hạnh phúc ngắn chẳng tày gang”, chia li giữa hai người vẫn xảy ra khi Từ động chí nam nhi. Kiều lại lần nữa rơi vào cô đơn lẻ bóng, tình cảnh ấy được thể hiện rõ trong trích đoạn “Chí khí anh hùng”, một trong những trích đoạn tiêu biểu nhất dựng lên hình ảnh vị anh hùng trong lí tưởng của Nguyễn Du.

             Nguyễn Du, với tư cách là một cây đại thụ của nền văn học nước nhà đã cho ra đời không biết bao nhiêu kiệt tác khẳng định được tài năng và tâm hồn cao cả của mình. Trong số ấy, nổi bật lên là truyện thơ Nôm mang tên “Truyện Kiều”. Tác phẩm dài 3254 câu lục bát, là minh chứng rõ ràng nhất cho ngòi bút tài ba của vị thi sĩ làng Tiên Điền. Đoạn trích nằm từ câu 2213 đến câu 2230, nói về nhân vật Từ Hải quyết chí ra đi để tạo dựng sự nghiệp sau một khoảng thời gian ngắn ngủi mặn nồng với nàng Kiều. Hình tượng anh hùng lí tưởng hiện lên với những phẩm chất phi thường.

             Bốn câu thơ đầu mở ra khát vọng, chí lớn của vị anh hùng chót động lòng bốn phương:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.”

Dường như Nguyễn Du tạo ra cuộc gặp gỡ giữ nàng Kiều và chàng Kim chỉ để tạo ra phút chốc nghỉ ngơi trên con đường sự nghiệp của Từ Hải. Và quả như thế thật, mối tình của họ sau này dù không đến kết thúc viên mãn nhưng ít ra đã tạo ra những giây phút thực sự cho cả hai. Nguyễn Du đã dùng cách gọi trân trọng nhất dành cho bậc anh hào để gọi Từ Hải: “trượng phu”. Bậc trượng phu không chỉ có tài mà phải vẹn toàn cả đức và Từ đều có cả hai thứ ấy. Hoàn cảnh chia li mở ra bằng sự lí giải tài tình của Tố Như. Trước là khoảng thời gian “nửa năm” hai người chung sống ân tình với nhau, sau là không gian “hương lửa đương nồng” say đắm ái tình. Tất cả chợt lùi về sau, nhường chỗ cho khoảng không gian vũ trụ của “bốn phương”, của “trời bể mênh mang”. Trong không gian ấy, tầm vóc người anh hùng cũng được nâng lên tầm vũ trụ. Chỉ với tính từ “thoắt” đã thể hiện được sự mau lẹ, quyết đoán, không có sự phân vân, trăn trở. Cuộc sống đang lúc viên mãn thì Từ lại lên đường lập công danh sự nghiệp. Sự thức tỉnh của chí khí anh hùng đã vượt lên những điều bình thường để làm điều phi thường, như Hoài Thanh đã từng bình rằng Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”.

             Mười hai câu tiếp lại mở ra cuộc đối thoại đẫm buồn của cuộc chia li Thúy Kiều – Kim Trọng:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi

Từ rằng: Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Bằng nay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Chỉ bằng đôi lời ngắn ngủi nhưng ta cũng thấy được sự thấu hiểu, trân trọng với ước mơ, hoài bão của chồng của nàng Kiều. Và cũng bởi lẽ thế, nàng mong muốn được đi cùng chồng. Cuộc đời người phụ nữ ngày xưa gắn chặt với lễ giáo phong kiến: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” vậy nên mong muốn theo chồng sẻ chia những khó khăn cũng không có gì là khó hiểu. Từ Hải hiểu nỗi lòng nàng và cũng khéo léo từ chối bằng một loạt hình ảnh thể hiện chí lớn của mình. “Mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường” thực chất tượng trưng cho tầm vó phi thường của Từ Hải . Từ muốn một tay dựng lên cơ đồ của bậc đế vương. Để Kiều yên tâm, chàng cũng hẹn ước “Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”. Chàng từ chối Kiều bởi vừa không muốn nàng chịu vất vả cùng mình, lại vừa muốn không bận lòng để tập trung cho sự nghiệp. “Bốn bể không nhà” có chút gì đó cô đơn nhưng lại càng tô đậm thêm quyết tâm thực hiện chí lớn của vị anh hùng. Việc xây dựng công danh trước nay không phải là câu chuyện của ngày một ngày hai nhưng Từ lại hẹn ước với Kiều sau “một năm” phải chăng là thái độ tự mãn quá đáng? Không hề, đó là niềm tin vào bản thân, là lòng quyết chí đã lên tới cao độ kết tinh trong một người trượng phu. Một loạt những hình ảnh ước lệ xuất hiện càng làm nổi bật hoài bão, khát vọng lớn lao của Từ Hải. Người trượng phu lên đường để làm trọn chí “tang bồng”, để đem hạnh phúc vẻ vang về cho nữ nhân của mình.

             Cuối cùng chính là hình ảnh Từ Hải ra đi không chút bịn rịn, lưu luyến như các cuộc chia tay bình thường khác mà hành động đã thể hiện rõ quyết tâm của mình:

“Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”

Hai hành động mạnh mẽ đi liền nhau: “quyết lời”, “dứt áo” mang phong cách mạnh mẽ, dứt khoát của bậc trượng phu lúc li biệt. Đặc biệt hình ảnh so sánh ở câu thơ cuối đoạn trích tạo nên nét nghĩa thật thú vị. Nguyễn Du ví Từ Hải như cánh chim cưỡi gió bay ngoài biển khơi. Đây thực chất là mượn ý của Trang Tử: chim bằng khi cất cánh thì như đám mây ngang trời và bay chín vạn dặm mới nghỉ chứ không như loài chim thường chỉ biết quanh quẩn bên những cành cây. Đây chính là chí khí quyết thắng của những bậc phi thường tại nơi tiễn biệt. Đừng hiểu rằng Từ muốn cưỡi mây đạp gió vì ham mê quyền lực tầm thường mà bởi Từ chứng kiến những “đoạn trường” đớn đau mà Kiều phải chịu nên cần khẳng định bản thân, đem những công lí về cho người phụ nữ mình yêu thương nói riêng và bao mảnh đời bất hạnh khác ngoài kia nói chung.

             Hình tượng Từ hải được dựng xây thành công đã thể hiện rõ lí tưởng của Nguyễn Du về người anh hùng đương thời của mình. Những con người ấy không bao giờ để tình cảm riêng ràng buộc chí lớn mà biến tình riêng ấy thành động lực để vươn tới chí lớn bằng những hành động đích thực. Đoạn trích sử dụng dày đặc các hình ảnh tượng trưng nhằm mô phỏng rõ tầm vóc của người anh hùng. Nhân vật bất giác tăng thêm sức sống trong lòng bạn đọc muôn đời.

             Bút lực của Nguyễn Du thể hiện qua đoạn trích “Chí khí anh hùng” nói riêng cả cả thiên truyện thơ nói chung không đời nào có thể phủ nhận, đến nỗi Tố Hữu từng viết rằng:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”

Bằng vài dòng thơ, Nguyễn Du đã lên án cả một xã hội bất công vô lí vùi dập những thân phận yếu nhỏ như Kiều, thể hiện niềm trân trọng sâu sắc với chí lớn của những ước mơ con người và cả tấm lòng nhân đạo sâu sắc qua từng câu chữ,…Ước mơ về tự do công lí, về khát khao thực hiện được lí tưởng của bản thân đâu phải chỉ là câu chuyện của một đời mà là của muôn đời. Người ta nói Nguyễn Du có tầm nhìn xuyên cả không gian, thời gian là bởi lẽ ấy!

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 26

Nguyễn Du-  đại thi hào dân tộc. Ông nhìn đời với con mắt của một người đứng giữa dông tố cuộc đời và điều đó khiến tác phẩm của ông chứa một chiều sâu chưa từng có trong văn học Việt Nam trung đại. Tác  phẩm nổi tiếng làm lên tên tuổi ông chính là “ Đoạn trường tân thanh” hay ngắn gọn là “ Truyện Kiều”. Tác phẩm chứa đựng tấm lòng nhân đạo, lời tố cáo đanh thép đối với xã hội phong kiến và phản ảnh chân thực giấc mơ tự do công lí mà bài thơ “Chí khí anh hùng” có được.

Đoạn trích  “Chí khí anh hùng” là trích đoạn thuộc phần “Gia biến và lưu lạc” nằm ở vị trí câu 2213 đến câu 2230 thể hiện lí tưởng về người anh hùng của tác giả. Trải qua nhiều sóng gió, Thúy Kiều đã gặp được Từ hải nàng được Từ Hải chuộc khỏi nơi kĩ nữ và trả lại cho nàng sự tự do xứng đáng.  Đoạn trích nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động muốn được tung hoành  rong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí .

Bốn câu thơ đầu của đoạn trích đã thể hiện khát vọng dứt khoát lên đường vì sự nghiệp của Từ Hải :

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.


Thời gian nửa năm cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở. Nam nhi trong xã hội xưa muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiệp, có được những công trạng lớn lao vì thế chàng quyết định không chút do dự từ biệt Thúy Kiều và lập tức một mình với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong dứt áo ra đi. Lòng bốn phương ở đây có thể hiểu là ý chí lập công danh, sự nghiệp của kẻ làm trai trong xã hội phong kiến.Từ “ thoắt” thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng.  Trông về trời bể mênh mông, công danh sự nghiệp chưa thành chàng – một nam nhi trượng phu sẽ chẳng có gì ngăn cản được trí lớn của Từ Hải.
Trước sự ra đi kiên quyết của Từ Hải, Thúy Kiều xin nguyện được đi theo để được chăm sóc, lo lắng cho chàng:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Mong muốn ấy vô cùng chính đáng bởi lẽ nữ nhi lấy chồng thì phải theo chồng. Trong xã hội phong kiến xưa kia, dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng Nho giáo đã thể chế hóa bằng “đạo Tam tòng”: Tại gia tòng phụ; xuất giá tòng phu; phu tử tòng tử tức ý nói nhà theo cha; lấy chồng theo chồng; chồng chết theo con trai. Nàng nguyện được đi theo chồng, được chăm lo cùng chồng gánh vác mọi chuyện. Dù là vậy nhưng chàng muốn quyết ra đi một mình tìm công danh sự nghiệp, ngoài kia sao tránh khỏi nhiều điều rủi ro tai họa chàng lại càng không muốn vướng bận bởi tình cảm nam nữ và cũng là muốn bảo vệ nàng Kiều khỏi những hiểm nguy nơi chiến trường nên đã từ chối. Mong muốn nàng ở quê nhà đợi mình để rồi sau này chàng sẽ trở về. Vậy nên, chàng đã lấy lí lẽ và đáp rằng:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Tâm phúc tương tri  có nghĩa biết nhau từ trong thâm tâm, hiểu rõ bụng dạ của nhau. Nàng và Từ Hải đã rõ hết nỗi lòng của nhau vậy mà lại chưa thể thoát khỏi nư nhi thường tình. Đây cũng có thể xem như một lời trách Thúy Kiều đã hiểu được tâm tư của chàng muốn lập công danh nhưng vẫn vấn vương chuyện tình cảm, đồng thời động viên nàng nên vượt qua sự cô đơn khó khăn để hướng về tương lai tươi đẹp sau khi chàng trở về. Khi thấy “ mười vạn tinh binh”, “ tiếng chiêng”, “bóng quân lính”  là lúc chàng trở về cùng với cơ đồ cất công dựng xây của mình. Lúc đó chàng sẽ rước nàng nghi gia.  Từ Hải là con người rất mực tự tin câu nói như một lời khẳng đinh, kiên quyết của một người nam nhi đại trượng phu.

“Bằng ngay bốn bể là nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”

Dứt áo ra đi bốn bể mênh mông đâu cũng là nhà, là nơi dừng chân của nam nhi đại trượng phu. Chí lớn tung hoành bốn phương, con đường phía trước sẽ gặp rất nhiều khó khăn bão tố phong ba. Vậy nên chàng lo lắng nay nàng theo chàng sẽ càng thêm vướng bận và gặp nhiều rủi do vốn có trên đường đi cùng chàng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn. Vậy nên nàng không cần lo lắng và vội vàng hãy cứ yên tâm ở nhà đợi Từ Hải lập công danh sự nghiệp.

Hai câu thơ cuối đoạn càng khẳng định thêm quyết tâm lên đường của Từ Hải :

“Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Chàng dứt áo ra đi thể hiện một sự quyết tâm không chút do dự mà lên đường. Khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành rong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường. Hình ảnh gió mây gợi sự mênh mông, hùng vĩ trước sự ra đi của đấng nam nhi. Từ Hải hiện lên với tư thế sánh ngang tầm vũ trụ tự do tung hoàng.

Đoạn trích “Chí khí anh hùng”  thấy được thành công to lớn của Nguyễn Du chính là tài năng xây dựng nhân vật dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao lí tưởng và độc đáo.  Nhân vật Từ Hải xuất hiện nổi bật với những phẩm chất phi thường và khát vọng cao đẹp của người anh hùng ước mơ hướng tới công lí.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 27

Người anh hùng Từ Hải và nàng Kiều tài sắc đang sống êm đềm bên nhau nhưng chàng muốn có sự nghiệp lớn.nên sau nửa năm đã quyết định từ biệt Kiều ra đi. 4 câu thơ đầu đã cho ta thấy rõ khát vọng lên đường của người anh hùng

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.

Nửa năm: thời gian TK – Từ Hải sống bên nhau

Trong đoạn mở đầu văn bản chí khí anh hùng là hình ảnh “hương lửa”. Đây là một hình ảnh ước lệ dùng để chỉ tình yêu => “Hương lửa đương nồng”: Tình yêu nồng nàn, say đắm của Thúy Kiều – Từ Hải. Thời điểm Từ Hải ra đi lập nên sự nghiệp lớn cũng chính là lúc cuộc sống lứa đôi với Thúy Kiều mới đang bắt đầu và vô cùng mặn nồng hạnh phúc.

“Trượng phu” (Đại trượng phu): Là từ chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng => Nguyễn Du dùng cách nói này thể hiện thái độ trân trọng với các vị anh hùng. Nó dựng lên dáng vẻ bệ vệ, oai nghiêm, đĩnh đạc của một tướng võ.

“Thoắt” (Tính từ): Chỉ sự dứt khoát, mau lẹ, kiên quyết, nhanh chóng trong khoảnh khắc bất ngờ. Nói lên cách xử sự dứt khoát, khác thường của Từ Hải.

“Động lòng bốn phương” (cụm từ ước lệ): Chí chí khí anh hùng tung hoành thiên hạ. Đó cũng là lí tưởng anh hùng thời đại, không bị ràng buộc bởi vợ con, gia đình mà ở bốn phương trời, ở không gian rộng lớn, quyết mưu cầu sự nghiệp phi thường => Bối cảnh dẫn đến cuộc chia ly: Người anh hùng gặp người đẹp tri kỉ, đang say đắm trong hạnh phúc lứa đôi, chợt nghĩ đến chí lớn chưa thành, đã động lòng bốn phương, dứt áo ra đi theo tiếng gọi của ý chí.

Câu thơ miêu tả vẻ đẹp người anh hùng trong chí khí anh hùng đặc sắc nhất đó chính là

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.

“Thanh gươm yên ngựa”: Người anh hùng rong ruổi chinh chiến trên yên ngựa với thanh gươm. “Thẳng rong”: đi liền 1 mạch. => Với tư thế oai phong, hào hùng sánh ngang với trời đất, thể hiện sự kiên quyết, dứt khoát, ra đi hiên ngang, độc lập, không vướng bận. Với cách đặt nhân vật sánh ngang với không gian trời bể mênh mang, không gian vũ trụ rộng lớn => Cảm hứng vũ trụ, con người vũ trụ với kích thước phi thường, không gian bát ngát, nâng cao tầm vóc người anh hùng

Trước ý chí quyết tâm mưu cầu nghiệp lớn của Từ Hải, TK chấp nhận và ngỏ ý muốn theo Từ Hải. Từ Hải đã từ chối mong muốn của Kiều và thể hiện rõ lý tưởng anh hùng của mình

Nàng rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

“Tâm phúc tương tri”: Coi Kiều là tri kỉ của mình, hiểu Từ Hải hơn ai hết, hơn hẳn người vợ bình thường – tầm thường.

“Nữ nhi thường tình”: khuyên Kiều vượt lên tình cảm thông thường để xứng làm vợ một anh hùng.

=> Từ chối mong muốn của Kiều và mong muốn Kiều là tri âm, tri kỉ xứng đáng nhất.

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Trong đoạn 2 bài thơ chí khí anh hùng lớp 10 người anh hùng nêu lên lý tưởng của mình:

“Mười vạn tinh binh”, “Tiếng chiêng dậy đất”, “Bóng tinh rợp đường” => Hình ảnh âm thanh hào hùng => Niềm tin sắt đá, sự quyết tâm, khát vọng lớn lao, cao cả về một sự nghiệp lẫy lừng

Mục đích ra đi: làm cho rõ mặt phi thường => chứng tỏ khả năng hơn người, bản lĩnh, ý chí phi phàm => Nguyễn Du đã thể hiện hình ảnh người anh hùng oai phong, bản lĩnh với lý tưởng cao cả, ý chí, hoài bão lớn lao.

Lời hứa: “Sẽ rước nàng nghi gia”. Một lời hứa sẽ cho Thúy Kiều một cuộc sống có danh phận, viên mãn bên người chồng thành công trong sự nghiệp => Từ Hải là người anh hùng có chí khí, thống nhất giữa khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với người tri kỉ.

“Bốn bể không nhà”: Thực tế gian nan, vất vả của buổi đầu lập nghiệp.

Lời hẹn: “Một năm sau”: Khẳng định ý chí, bản lĩnh, sự tự tin.

=> Những câu sau không chỉ nói lên hoàn cảnh thực tại của người anh hùng đầy rẫy những khó khăn mà còn nói lên tính cách rất dứt khoát, chí khí nhưng cũng rất tâm lí, gần gũi của Từ Hải.

Hành động: “Quyết lời” + “Dứt áo ra đi” => Thái độ, cử chỉ, hành động dứt khoát, không hề do dự, không để tình cảm bịn rịn làm lung lạc và cản bước ý chí của người anh hùng.

Ẩn dụ: “Chim bằng”: Tượng trưng về người anh hùng có lí tưởng cao đẹp, hùng tráng, phi thường, mang tầm vóc vũ trụ. => Đem hình ảnh chim bằng để ẩn dụ cho tư thế ra đi của Từ Hải, Nguyễn Du muốn khẳng định Từ Hải chính là bậc anh hùng cái thế, có tầm vóc phi thường, sánh ngang với đất trời, vũ trụ.

Qua bài nghị luận văn học chí khí anh hùng Nguyễn Du đã thể hiện ước mơ về người anh hùng lí tưởng của mình. Người anh hùng ấy hiện lên với một bức chân dung kì vĩ, chí khí với bản lĩnh và tài năng phi thường, nhằm thực hiện giấc mơ công lí. Tác giả xây dựng nhân vật bằng những hình ảnh ước lệ, thông qua hành động, lời thoại trực tiếp, thể hiện sự tự tin, bản lĩnh nhân vật => Lý tưởng hóa nhân vật mang cảm hứng ngợi ca.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 28

 Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du nổi tiếng với tập truyện Kiều - một kiệt tác văn học, một tác phẩm tiêu biểu trong nền văn học trung đại Việt Nam. Trong đó phải kể đến đoạn trích Chí khí anh hùng. Đoạn trích thể hiện trung thành cảm hứng của Nguyễn Du về người anh hùng Từ Hải.

  Từ Hải là một người anh hùng. Phẩm chất anh hùng đã được bộc lộ qua suy nghĩa và hành động của chàng. là một anh hùng suy nghĩ của Từ Hải cũng khác những người thường. Chí lập công danh sự nghiệp luôn nung nấu trong tâm can người anh hùng này, kể cả hạnh phúc nồng nàn với nàng Kiều xinh đẹp, tài năng cũng không thể làm chàng nguôi quên lí tưởng: 

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Chàng không muốn một người phụ nữ tài sắc như Thúy Kiều phải sống như một phụ nữ bình thường. Từ Hải muốn đối đãi với Kiều cho tương xứng với tầm vóc của nàng. Và hành động, ta thấy Từu Hải dứt khoát, quyết đoán, không do dự: 

- Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

- “Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Điều đáng chú ý là người anh hùng Từ Hải trong đoạn trích thể hiện thái độ trân trọng Thúy Kiều. Trong khi xã hội vùi dập Kiều thì Từ Hải luôn nghĩ đến việc làm sao để đối đãi với nàng tương xứng với nhan sắc, sắc đẹp và nhân cách của nàng. Ngay từ lần đầu gặp Thúy Kiều, Từ Hải dã có đánh giá Kiều rất cao "Bấy lâu nghe tiếng má đào - Mắt xanh chẳng để ai vào có không". và chàng luôn hành động nhất quán với cách đánh giá này.

Thấu hiểu khát vọng, ý chí làm nên nghiệp lớn của chồng nên Kiều không ngăn cản mà muốn được đi theo Từ Hải để cùng chia sẻ, chăm sóc, làm tròn bổn phận, tình nghĩa của một người vợ cũng là một người ân nhân cứu mạng. Tuy xúc động trước tấm chân tình của Kiều nhưng Từu Hải quyết chí ra đi một mình không muốn Kiều phải khổ sở, phải đến nơi nguy hiểm nên chàng đã từ chối . Để trả lười yêu cầu của Thúy Kiều được cùng lên đường với Từ Hải, chàng nói:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng binh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

“Bằng ngay bốn bể là nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”

Trong đoạn thơ trên,Từ Hải bộc lộ rõ phảm chất của người anh hùng qua một loạt lạp luận: Người anh hùng không để cho tình vợ con ràng buộc chí lớn; người anh hùng muốn làm nên một sự nghiệp lớn "có trong tay mười vạn tinh binh - Làm cho rõ mặt phi thường"; người anh hùng vững tin vào khả năng thành công "chầy chăng là một năm vội gì?". Lập sựu nghiệp anh hùng đối với chàng có nhiều ý nghĩa mà một ý nghĩa quan trọng là để có điều kiện đối đãi với Thúy Kiều xứng đáng với phẩm chất của nàng "Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia". Đay cũng là một nét phi thường của người anh hùng Từ Hải vì quan niệm của chàng đối lập hẳn với cái xã hội đã chà đạp lên phẩm giá của Kiều.

Nhân vật Từ Hải được nahf phê bình Hoài Thanh nhận xét: " Từ Hải không phải là một người thực, nhưng Từ Hải cũng không phải là một sự bịa đặt. Từ Hải là một nhân vật anh hùng ca. Từ Hải là một cái mộng. Từ Hải là cái mọng lớn nhất trong đời Nguyễn Du: cái mộng anh hùng". Qua đoạn trích chí khí anh hùng, Nguyễn Du đã kín đáo gửi gắm quan niệm về người anh hùng và ước mơ công lí qua nhân vật Từ Hải.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 29

Hình tượng nhân vật Từ Hải được xây dựng trong truyện Kiều là một nhân vật anh Hùng với những phẩm chất phi thường đáng trân trọng. Nguyễn Du đã dùng cả đoạn trích Chí Khí anh hùng để cho người đọc thấy được những phẩm chất đáng quý ấy.

Cả một chặng đường lưu lạc đầy nhục nhã ê chề đã xảy ra với Thúy Kiều, một người phụ nữa tài sắc vẹn toàn, sau khi thoát khỏi lầu xanh, nghĩ lại phận đời đau buồn, Kiều đã rơi vào cảnh tuyệt vọng.

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Giữa lúc nỗi đâu buồn dâng lên đến cao trào thì Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kỉ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau

Từ Hải lúc này đang bị coi là giặc, vì giám đứng lên chống lại triều đình, chống lại cái xấu, cái ác. Nhưng khi gặp Từ Hải, Kiều đã siêu lòng và hai người đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.

Nguyễn Du đã dành một tình cảm đặc biệt đối với Từ Hải, đó là thái độ trân trọng đối với chàng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Người anh hùng với phẩm chất đáng quý ấy có khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đâ trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.

Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng.

Từ Hải đang muốn ra đi để thực hiện chí lớn, sự nghiệp vĩ đại, không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiểu chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát cùa chàng. Bôn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).

 Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.

Một phẩm chất đáng quý trong con người anh hùng này còn thể hiện ở tư thế lên đường để thực hiện chí lớn: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều - Kim Trọng, Thúy Kiều - Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.

Dù biết cuộc ra đi này của Từ Hải là nguy hiểm, khó khăn nhưng Kiều vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của dạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu..., mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng. Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Khí phách hiên ngang, kiên cường của Từ Hải, thể hiện ngay cả khi chàng nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyếu luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo. Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậv mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.

Tự tin vào tài năng và phẩm chất của mình chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.

Khi chia tay chàng đã có những cử chỉ, lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao. Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dậm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngáy ngất say men chiến thắng cùa con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.

Hình tượng nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du xây dựng rất thành công, chàng xuất hiện với một diện mạo và phẩm chất phi thường. Chàng chính là hiện thâm của công lí để cứu giúp những con người yếu thế bị chà đạp trong xã hội, chàng luôn có ý đinh ngang dọc trời đất để cứu giúp cuộc đời chứ không màng danh lợi chức quyền.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 30

Nguyễn Du được biết đến bởi kiệt tác “Truyện Kiều” dường như mỗi một đoạn, mỗi câu thơ đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” . Có thể nói rằng đằng sau số phận cuộc đời nhân vật đều được gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo sâu sắc. Đó còn là một niềm trân trọng nâng niu ước mơ khát vọng con người. Đó chính là tiếng nói lên án tố cáo những thế lực xấu xa đứng đằng đằng sau. Và hơn thế nữa nó dường như đã phản ảnh chân thực giấc mơ tự do công lí mà đoạn trích đặc sắc – bài thơ “Chí khí anh hùng” chính là tiêu biểu nhất cho điều này.

Và sau tháng ngày ân ái bên Thúc Sinh, Kiều như  lại một lần nữa sa thân vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, một lần nữa nàng Kiều phải quay trở lại với Tú Bà để sống thân phận của người kĩ nữ hèn mọn kia. Cứ tưởng rằng, cuộc đời nàng Kiều đã đặt một dấu chấm hết trong tối tăm và đầy rẫy biết bao điều bất hạnh. Thế nhưng, trong những cơn phong ba bão tố, Từ Hải  bỗng như “vụt đến như một ngôi sao lạ chiếu sáng một đoạn đời nàng” (Hoài Thanh). Chàng đã chuộc Kiều ra, trả lại cho Kiều một sự tự do xứng đáng. Dường như hai người họ đến bên nhau với tấm lòng của những bậc tri kỉ giữa “trai anh hùng’’ và “gái thuyền quyên”. Nhưng hạnh phúc chưa đến được bao lâu, thì dường như cái “thói vẫy vùng” của bậc giang hồ lại được dịp sục sôi. Và chính cái khát khao dựng nên nghiệp lớn bỗng thúc dục mạnh mẽ bước chân người anh hùng. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi. Khác hẳn với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” dường như chỉ thuật lại trong đôi ba dòng ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du thì với tài năng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất cho cuộc đời mình.

Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:

“Nửa năm hương lửa đương nồng

Trựơng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Nguyễn Du quả thật như đã làm khó bậc anh hùng khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập nhau. Một bên có thể coi là không gian khuê phòng với “hương lửa đương nồng” với tình cảm lứa đôi đầy những cám dỗ, nhưng lại có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái lại với đó một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Đường đường được biết đến là đấng “trượng phu” Từ không một phút níu kéo giằng xé hay phân vân mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình. Chàng là người vốn sinh ra không phải là con người của những đam mê thông thường mà là  mẫu người của những sự nghiệp vĩ đại- sự nghiệp của bậc anh hùng. Hiểu thấu được những khát khao ấy, tác giả Nguyễn Du đã trân trọng gọi nhân vật của mình bằng hai tiếng “trượng phu” – người đàn ông có trí lớn trong trời đất. Dường như hai chữ này chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong truyện Kiều và dành riêng cho Từ Hải mà thôi. Có thể nói rằng thứ tình cảm vợ chồng giản đơn đâu thể nào níu giữ bước chân người anh hùng được thêm nữa. Có thể nói tiếng gọi của lí trí thúc dục chàng đi theo đuổi và thực hiện hoài bão của cuộc đời. Và dường như cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt để được thỏa trí vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng. Và chính những hình ảnh cuối cùng “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện lên được hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của không gian mà ở đây dường như còn mở ra tâm thế nhân vật không hề có một chút nào là do dự luôn hành động thật dứt khoát, quả quyết. Đến đây, ta như đã chợt bắt gặp những đểm tương đồng trong thơ Nguyễn Du với các nhà thơ cùng thời với ông. Là hình ảnh chinh phu oai hùng trước buổi ra trận:

“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”

Hay như:

“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt

Xếp bút nghiêng theo việc binh đao

Dã nhà đeo bức chiến hào

Thét roi cầm vị ào ào gió thu”

( Chinh phu ngâm_ Đoàn Thị Điểm)

Ngay cả nhà Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm đều như đã mượn hình ảnh vốn của thiên nhiên vũ trụ mục đích là để nâng cao tầm vóc, kích thước nhân vật anh hùng của mình. Thế nhưng, nếu như mà “chí làm trai” trong những câu thơ của “chinh phụ ngâm” chỉ là sự lập nên sự nghiệp là lưu danh, lập công với núi sông thì với “chí anh hùng” trong “Truyện Kiều” lại là lập nên sự nghiệp lại là để yên bề gia thất.

Lẽ thường, trong những cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng những dùng dằng chẳng nỡ của kẻ ở với người đi. Nhưng ở đây với Từ Hải và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. Nàng Kiều dường như không muốn một thân một mình, giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo. Và lúc này nàng một mực muốn được sẻ chia, được gánh vác sự nghiệp với Từ Hải. Lời lẽ nghe sao mà tha thiêt thế:

Nàng rằng: “ Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cùng một lòng xin đi”

Kiều một lòng xin đi theo Từ Hải âu cũng là hợp tình hợp lí với đạo Nho truyền thống. Nho giáo đã dạy phận nữ nhi phải “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phụ tử tòng tử”. Thế nhưng, trái ngược với những mong mỏi của nàng, Từ ngay lập tức đáp lại:

Từ rằng: “Tam phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”

Mới nghe qua hẳn ai ai thì cứ nghĩ là một lời trách cứ nhưng đằng sau đó lại là lời động viên người tri kỉ của mình biết vượt lên những tình cảm thông thường để sánh cùng trí lớn của người anh hùng. Có lẽ mà vì vậy, sau này khi nói về nỗi nhớ nhung da diết của Thúy Kiều dành cho Từ Hải, Nguyễn Du viết:

“Cánh hồng bay bổng tuyệt vời

Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”

Nàng hướng con mắt về phương trời xa không chỉ để tìm kiếm một dáng hình thân thuộc khi xưa, đó còn là sự ngóng đợi vào sự nghiệp lớn lao mà Từ Hải đã dốc lòng dựng xây:

“Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất, bóng cây rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Khi ngày chàng hoàn thành xong nghiệp lớn thì ngày đó cũng sẽ chính là ngày chàng trở về đón nàng trong tư cách là một người chủ tướng chỉ huy mười vạn tinh binh với chiêng chống dậy đất, cờ quạt dậy đường. Vfa dường như những lời thốt lên từ người anh hùng không hề mang tính chất khoa trương hay khoe gì cả mà đầy quả quyết chắc chắn thể hiện sự tự tin tuyệt đối của nhân vật vào cơ đồ mà mình tạo dựng. Dường như chính những niềm tin mãnh liệt của Từ truyền sang cho Kiều và lan tỏa ra khắp tất thẩy bạn đọc.

Đoạn trích kết lại với hai câu thơ gây ấn tượng sâu đậm bở hình ảnh ước lệ:

“Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Trong thơ ca trung đại cổ điển xưa có thể thấy hành động “dứt áo ra đi” không phải là quá xa lạ. Và dường như nó mang tính chất lưu luyến bịn rịn chẳng nỡ rời xa. Thế nhưng, đặt trong đoạn trích và đặt trong hình tượng anh hùng Từ Hải thì đó lại thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán của bậc nam nhi. Và phải chăng vì thế mà Nguyễn Du đã không chút do dự nâng nhân vật của mình lên, ví hình ảnh chàng lúc lên đường với hình ảnh chim bằng sự cất cánh bay vào muôn trùng dặm khơi? Có thể khẳng định rằng hình ảnh đó phần nào thể hiện cái nhìn lãng mạn và khát vọng thoát khỏi thời đại mình- một tư tưởng tiến bộ vượt bậc so với những người đương thời.

Đoạn trích đặc sắc “Chí khí anh hùng”  cũng đã xây dựng hình tượng Từ Hải bằng bút pháp ước lệ hóa kết hợp với lối ngôn ngữ giàu sức gợi dường như cũng đã khẳng định rõ phẩm chất cốt lõi của người anh hùng không để tình cảm riêng rằng buộc chí lớn luôn luôn biết hành động đề hướng tới sự nghiệp cao cả, những trọng trách lớn lao. Nhờ đó mà nhân vật mà Nguyễn Du xây dựng luôn có một sức sống đậm sâu trong lòng bạn đọc muôn đời.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 31

Đoạn trích “Chí khí anh hùng” trích trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã dành những lời thơ của mình để nói về Từ Hải – người anh hùng lí tưởng có những phẩm chất cao đẹp, phi thường.

Có thể nói trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng nhân vật Từ Hải hoàn toàn mới so với hình tượng nhân vật này trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, ở “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, hình tượng Từ Hải giống như một tướng cướp đã bị lược bỏ, thay vào đó là một hình tượng Từ Hải như một vị anh hùng tuyệt đẹp, phi thường. Hình tượng này là sự hợp nhất của hình tượng nhân vật có tính ước lệ – là nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du và hình tượng con người vũ trụ với nét vĩ đại, lớn lao.

Sau khi bị mắc bẫy và rơi vào chốn lầu xanh lần thứ hai, Kiều luôn sống trong tâm trạng đau khổ, giày vò. Giữa lúc ấy, Từ Hải xuất hiện như một vị cứu tinh giúp Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh đầy nhơ nhớp ấy. Nhưng tình yêu giữa Thúy Kiều và Từ Hải vẫn không thể nào che khuất đi ước mơ gây dựng một sự nghiệp lớn lao ở con người này. Đó chính là lí do mà khi mối tình của họ vừa chớm nở được “nửa năm” thì Từ Hải đã tiếp tục lên đường với khát khao cháy bỏng gây dựng sự nghiệp của mình:

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong

Mặc dù trong thời gian sáu tháng, tình yêu của họ luôn nồng nàn, cháy bỏng nhưng với chí lớn và khát khao công danh nghiệp lớn Từ Hải thoắt đã “động lòng bốn phương”. “Lòng bốn phương” ở đây là hình ảnh tượng trưng, ước lệ cho chí nguyện lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Hình ảnh “trời bể mênh mang” cũng mang ý nghĩa tương tự như vậy. Chúng như một sự ước lệ tạo nên một tầm vóc lớn lao, phi thường cho Từ Hải. Có thể nói tình yêu hay bất cứ một cái gì cũng không đủ sức để ngăn cản được bước chân của chàng. Trong cả một tác phẩm dài, Nguyễn Du chỉ dành duy nhất một từ “trượng phu” cho Từ Hải như thể khẳng định một chí khí lớn ở chàng. Hình ảnh “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” diễn tả một phong thái ung dung của người “trượng phu” trên con đường gây dựng sự nghiệp ấy.

Đối với Thúy Kiều, Từ Hải không chỉ như một người chồng mà còn như một vị ân nhân có ơn vô cùng lớn đã cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh ô nhục. Vì vậy, trước quyết tâm ra đi vì nghiệp lớn của chồng mình, Thúy Kiều đã xin đi theo để là người chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chàng:

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi

Nàng xin đi để được làm trọn chữ “tòng” vì theo nàng thì “xuất giá tòng phu” lấy chồng thì phải theo chồng, nguyện cùng chồng gánh vác mọi chuyện.

Nhưng lời Từ Hải đã quyết, như để làm an lòng Thúy Kiều:

Từ rằng: Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Trước lời xin đi theo của Thúy Kiều, Từ Hải như trách Kiều: “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”‘, đó cũng như một lời khuyên Kiều đừng xem nặng quá vấn đề “lấy chồng là phải theo chồng”, hãy xem nhẹ chuyện tình cảm vì sự nghiệp lớn lao của chồng. Với một quyết tâm, chí khí lớn lao, Từ Hải nói như hứa hẹn sẽ gây dựng được một cơ đồ to lớn, nắm chắc trong tay “mười vạn tinh binh” và chàng sẽ trở về để đón Kiều trong “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời”. Lúc thành công quay trở lại cũng là lúc Từ Hải sẽ “rước nàng nghi gia”, đem lại địa vị và danh phận cho người mà chàng xem là tri âm tri kỉ. Những lời của Từ Hải vào khoảnh khắc tiễn biệt này càng làm rõ “chí khí anh hùng” của nhân vật này, thay vì những lời nói thể hiện sự bịn rịn, quyến luyến khi chia tay thì là những ước mơ, sự khẳng định nhất định sẽ thành công của chàng.

Từ Hải còn thể hiện chí khí của mình ở việc cho rằng Thúy Kiều đi theo sẽ “càng thêm bận” nhưng sâu thẳm bên trong là sự lo lắng cho Kiều khi đi theo sẽ phải chịu cực khổ, nay đây mai đó “bốn bể không nhà”:

Bằng ngay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận, biết là đi đâu

Chàng còn dám khẳng định chắc chắn thời gian mà mình sẽ quay về đó là khoảng thời gian một năm. Từ Hải khuyên Kiều ở nhà đợi chàng trở về trong sự chiến thắng vẻ vang, hiển hách:

Đành lòng chờ đó ít lâu

Chầy chăng là một năm sau vội gì.

Cách chia tay của Từ Hải rất khác biệt ở chỗ những lời chia tay được thay bằng những lời hứa vào một chiến thắng không xa, sự quyến luyến được thay bằng một quyết tâm vào tương lai.

Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi

Chàng dứt khoát ra đi với một quyết tâm sắt đá như cánh chim bằng khi đã cất cánh tung bay trên bầu trời thì phải bay thật xa mới nghỉ cũng như Từ Hải khi đã chiến thắng, thành công thì mới quay trở về.

Với đoạn trích “Chí khí anh hùng”, Nguyễn Du đã xây dựng được một hình tượng người anh hùng lí tưởng hoàn toàn mới. Có thể nói Nguyễn Du đã thực sự thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật này chính bằng tài năng nghệ thuật thể hiện ở sự sáng tạo độc đáo và sự đam mê văn chương của mình.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 32

Truyện Kiều là kiệt tác của nền văn học Việt Nam. Nguyễn Du đã rất thành công khi xây dựng nhân vật Thúy Kiều nhưng phải đến khi Từ Hải xuất hiện người đọc mới thấy đây là hình tượng nhân vật lí tưởng gửi gắm ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” cho ta cái nhìn chân thực nhất về vẻ đẹp của người anh hung Từ Hải

Từ Hải xuất hiện vào lúc Thúy Kiều chán chường, tuyệt vọng, đau khổ tột cùng khi lần thứ hai bước chân vào lầu xanh. Chàng giống như một vị cứu tinh, cứu vớt cuộc đời Kiều, hơn hết đó là tri kỉ gặp tri kỉ để được tri âm. Từ Hải đã nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy chân dung Từ Hải sắc nét và chân thực nhất với chí khí của một anh hùng trong thiên hạ.

Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Cuộc hôn nhân hạnh phúc với Thúy Kiều không làm chàng mải mê mà quên đi nghiệp lớn. Dù thời gian không quá dài, sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đâ trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.

Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Chữ “trượng phu” trong Truyện Kiểu chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du dựng lên chân dung người anh hùng lí tưởng là Từ Hải. Chữ “thoắt” thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát cùa chàng. Bôn chữ “động lòng bốn phương” nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh). Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng lên đường hoàn thành sự nghiệp và cũng chính là hoài bão lớn nhất của cuộc đời. sự kiên định, vững vàng trong tư thế ra đi ngạo nghễ, hiên ngang ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong tâm trí của người anh hùng.

Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. điều đó đã hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.

Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ đối mặt  với tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.

Lời Kiều ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm và tấm long chân thành tha thiết. Chữ tòng ở đây được dung với ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.

Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường.

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Bằng nay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

“Tâm phúc tương tri” có nghĩa là hai ta đã hiểu thấu lòng dạ nhau, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.

Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khi anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả.

Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Đối với Từ Hải, sự nghiệp công danh chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậv mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình” còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng.

Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.

Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi… tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 33

Nhà thơ Nguyễn Du là một nhà thơ nổi tiếng của quê hương Việt Nam chúng ta, tác giả được mệnh danh là một đại thi hào bởi ông đã sáng tác nhiều tác phẩm kiệt xuất có giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Đoạn trích "Chí khí anh hùng" là một đoạn trích nói lên sự cương quyết ra đi của Từ Hải muốn làm nên công danh sự nghiệp lớn của một trang nam tử hán.

Trong đoạn trích "Chí khí anh hùng" nhà thơ Nguyễn Du đã tập trung để xây dựng hình tượng Từ Hải vô hùng vô cùng nổi bật. Từ Hải trong tác phẩm Truyện Kiều không phải một tên tướng cướp mà là một trang nam tử hán đại trượng phu với những nét vẽ phóng khoáng mang đầy đủ tính cách của một người anh hùng thời xưa.

Khi Thúy Kiều đang đau đớn tuyệt vọng vì bị bán vào lầu xanh lần hai, thì Từ Hải xuất hiện sự gặp gỡ giữa Thúy Kiều và Từ Hải đã đưa tới cho cuộc đời Thúy Kiều một sự đột phá trong cuộc đời. Nàng không những thoát khỏi cảnh lầu xanh mà còn được chuộc thân, được lên thành mệnh phụ phu nhân có quyền hành trong tay và Từ Hải đã giúp nàng có thể báo ân báo oán làm những điều mình muốn. Tuy trong cuộc sống chồng vợ của Thúy Kiều và Từ Hải có nhiều hạnh phúc, sự tương đồng trong suy nghĩ, nhưng trong sâu thẳm trái tim của Từ Hải vẫn còn canh cánh một nỗi niềm chàng vẫn muốn làm được một điều gì đó thật xứng đáng với trang nam tử của mình. Từ Hải không muốn chôn vùi tuổi trẻ của mình trong việc tửu sắc và chuyện nhi nữ thường tình.


Trong khổ thơ đầu của đoạn trích "Chí khí anh hùng" Nguyễn Du đã khắc họa rõ về thời gian mà Thúy Kiều và Từ Hải bên nhau đã nửa năm tình cảm vợ chồng khá nồng đậm, nhưng dù như vậy thì trong thâm tâm của Từ Hải vẫn muốn được ra đi lên đường làm tiếp những việc lớn còn dở dang của mình Dù Từ Hải rất yêu thương Thúy Kiều không muốn xa nàng, không chê xuất thân thanh lâu của nàng nhưng trong lòng từ hải vẫn còn nhiều điều chưa trọn vẹn chàng muốn làm nên sự nghiệp lớn khát khao được thành danh, nổi tiếng và lưu danh thiên cổ. Đó là ước mơ chính đáng của một người đàn ông chí khí muốn làm việc lớn. Đối với Thúy Kiều thì việc người đàn ông của mình Từ Hải ra đi khiến nàng lo lắng nhiều lắm. Nàng sợ chàng đi rồi có nhiều bến cố xảy ra Thúy Kiều sợ cảnh thanh lâu, sợ phải một mình đối diện với những nhớ mong mòn mỏi. Nên nàng đã nói lên mong ước của mình với Từ Hải. Thúy Kiều muốn đi theo Từ Hải nâng khân sửa túi cho chàng dù có khó khăn nào cùng nhau vượt qua.

Nàng rằng phân gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cung quyết lòng xin đi

 Thúy Kiều nói tới việc phận gái phải theo chồng phải phò trợ cho ngường chồng của mình nên nàng mong có thể đi theo Từ Hải giúp đỡ chàng những công việc hàng ngày, để vợ chồng có thể gần nhau hơn. Những mong muốn của Thúy Kiều hoàn toàn chính đáng đúng với thân phận làm vợ, là người phụ nữ. Tình cảm của Thúy Kiều dành cho Từ Hải cũng khiến chúng ta cảm động vô cùng bởi nàng đã toàn tâm toàn ý với Từ Hải đấng phu quân của mình, thật lòng muốn gắn bó keo sơn vơi chàng.

Từ rằng tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy dất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Trong những câu thơ này thể hiện Từ Hải muốn thể hiện rõ tâm trí của mình muốn thoát khỏi việc nhi nữ thường tình, không muốn mang theo Thúy Kiều đi bởi dọc đường có nhiều nguy hiểm nếu cho nàng đi vừa bảo vệ nàng thì sẽ cản trở bước tiến của Từ Hải. Từ Hải mong Thúy Kiều an tâm ở nhà chờ chàng bao giờ chàng làm được sự nghiệp lớn sẽ quay về đón nàng và cho nàng vẻ vang. Những câu thơ đều thể hiện một khát vọng lớn trong lòng Từ Hải chàng muốn được thỏa sức mình vẫy vùng với trời cao rộng lớn không muốn vương vấn những chuyện nam nữ. Một người đàn ông luôn mơ ước tạo nên sự nghiệp như Từ Hải thật đáng kinh trọng biết bao. Những câu thơ Từ Hải thể hiện rõ ước mơ lớn lao của mình mong có một sự nghiệp to lớn không bị vướng bận những chuyện nhỏ nhặt.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 34

Từ Hải xuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu đội trời chân đạp đất. Khi cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, là vì việc nghĩa, là vì trọng Kiều như một tri kỉ. Nhưng khi kết duyên cùng Kiều, Từ thực sự là một người đa tình.Song dẫu đa tình, Từ không quên mình là một tráng sĩ. Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa đất trời cao rộng. Từ Hải là một bậc anh hùng có chí lớn và có nghị lực để đạt được mục đích cao đẹp của bản thân. Chính vì thế, tuy khi đang sống với Kiều những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh phúc nhưng Từ không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc, chợt "động lòng bốn phương", thế là toàn bộ tâm trí hướng về "trời bể mênh mang", với "thanh gươm yên ngựa" lên đường đi thẳng.

Không gian trong hai câu thứ ba và thứ tư (trời bể mênh mang, con đường thẳng) đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải.Tác giả dựng lên hình ảnh "Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong" rồi mới để cho Từ Hải và Thuý Kiều nói lời tiễn biệt. Liệu có gì phi lôgíc không ? Không, vì hai chữ "thẳng giong" có người giải thích là "vội lời", chứ không phải lên đường đi thẳng rồi mới nói thì vô lí. Vậy có thể hình dung, Từ Hải lên yên ngựa rồi mới nói những lời chia biệt với Thuý Kiều. Và, có thể khẳng định cuộc chia biệt này khác hẳn hai lần trước khi Kiều từ biệt Kim Trọng và Thúc Sinh. Kiều tiễn biệt Kim Trọng là tiễn biệt người yêu về quê hộ tang chú, có sự nhớ nhung của một người đang yêu mối tình đầu say đắm mà phải xa cách. Khi chia tay Thúc Sinh để chàng về quê xin phép Hoạn Thư cho Kiều được làm vợ lẽ, hi vọng gặp lại rất mong manh vì cả hai đều biết tính Hoạn Thư, do đó gặp lại được là rất khó khăn. Chia tay Từ Hải là chia tay người anh hùng để chàng thoả chí vẫy vùng bốn biển. Do vậy, tính chất ba cuộc chia biệt là khác hẳn nhau.

Lời Từ Hải nói với Kiều lúc chia tay thể hiện rõ nét tính cách nhân vật. Thứ nhất, Từ Hải là người có chí khí phi thường. Khi chia tay, thấy Kiều nói :


Nàng rằng : "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ Hải đã đáp lại rằng :
Từ rằng : "Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình".

Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều. Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng. Chàng muốn lập công, có được sự nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều về nhà chồng trong danh dự :

Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia".

Quả là lời chia biệt của một người anh hùng có chí lớn, không bịn rịn một cách yếu đuối như Thúc Sinh khi chia tay Kiều. Sự nghiệp anh hùng đối với Từ Hải là ý nghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có làm được như vậy mới xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của người đẹp.

Thứ hai, Từ Hải là người rất tự tin trong cuộc sống :

Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì !


Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện Từ là người rất tự tin trong cuộc sống. Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công trở về với cả một cơ đồ lớn.

Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn từ Hán Việt và ngôn ngữ bình dân, dùng nhiều hình ảnh ước lệ và sử dụng điển cố, điển tích. Đặc biệt, nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du tái tạo theo khuynh hướng lí tưởng hoá. Mọi ngôn từ, hình ảnh và cách miêu tả, Nguyễn Du đều sử dụng rất phù hợp với khuynh hướng này.

Về từ ngữ, tác giả dùng từ trượng phu, đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này và chỉ dùng cho nhân vật Từ Hải. Trượng phu nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn. Thứ hai là từ thoắt trong cặp câu :

Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng ấm, người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng "thoắt" nhớ đến mục đích, chí hướng của đời mình. Tất nhiên chí khí đó phù hợp bản chất của Từ, thêm nữa, Từ nghĩ thực hiện được chí lớn thì xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thuý Kiều dành cho mình. Cụm từ động lòng bốn phương theo Tản Đà là "động bụng nghĩ đến bốn phương" cho thấy Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Hai chữ dứt áo trong Quyết lời dứt áo ra đi thể hiện được phong cách mạnh mẽ, phi thường của đấng trượng phu trong lúc chia biệt.
Về hình ảnh, "Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi" là một hình ảnh so sánh thật đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Tác giả muốn ví Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn. Không chỉ thế, trong câu thơ còn diễn tả được tâm trạng của con người khi được thoả chí tung hoành "diễn tả một cách khoái trá giây lát con người phi thường rời khỏi nơi tiễn biệt". Nói thế không có nghĩa là Từ Hải không buồn khi xa Thuý Kiều mà chỉ khẳng định rõ hơn chí khí của nhân vật. Hình ảnh : "Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong" cho thấy chàng lên ngựa rồi mới nói lời tiễn biệt, điều đó diễn tả được cái cốt cách phi thường của chàng, của một đấng trượng phu trong xã hội phong kiến.

Về lời miêu tả và ngôn ngữ đối thoại cũng có những nét đặc biệt. Kiều biết Từ Hải ra đi trong tình cảnh "bốn bể không nhà" nhưng vẫn nguyện đi theo. Chữ "tòng" không chỉ giản đơn như trong sách vở của Nho giáo rằng phận nữ nhi phải "xuất giá tòng phu" mà còn bao hàm ý thức sẻ chia nhiệm vụ, đồng lòng tiếp sức cho Từ khi Từ gặp khó khăn trong cuộc sống. Từ Hải nói rằng sao Kiều chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình không có ý chê Kiều nặng nề mà chỉ là mong mỏi Kiều cứng rắn hơn để làm vợ một người anh hùng. Từ nói ngày về sẽ có 10 vạn tinh binh, Kiều tin tưởng Từ Hải. Điều đó càng chứng tỏ hai người quả là tâm đầu ý hợp, tri kỉ, tri âm.

Đoạn trích ngợi ca chí khí anh hùng của nhân vật Từ Hải và khẳng định lại một lần nữa tình cảm của Thuý Kiều và Từ Hải là tình tri kỉ, tri âm chứ không chỉ đơn thuần là tình nghĩa vợ chồng.        

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 35

Nguyễn Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông đã đóng góp cho nền văn học trung đại Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Và có thể nói Truyện Kiều (Đoạn trường Tân thanh) là kiệt tác của ông nói riêng và của nền văn học Việt Nam nói chung. Đọc Truyện Kiều, cùng với chàng thư sinh Kim Trọng, Từ Hải cũng là nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Và hình tượng nhân vật Từ Hải hiện lên thật rõ nét qua đoạn trích Chí khí anh hùng (từ câu 2213 đến 2230).

Giữa chốn lầu xanh của Bạc Bà, Bạc Hạnh, Từ Hải tìm đến Thúy Kiều như tìm đến một người tri âm tri kỉ. Để rồi khi ra khỏi chốn “thanh lâu” ấy người anh hùng và người con gái tài sắc vẹn tròn ấy đã có cuộc sống thật êm ấm, hạnh phúc. Nhưng dù hạnh phúc, yên vui như thế nào đi nữa cũng không thể mãi níu giữ bước chân, khát vọng của người anh hùng. Và bốn câu thơ mở đầu đoạn trích đã cho chúng ta thấy rõ khát vọng lên đường của người anh hùng Từ Hải.

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Hai câu thơ đã vẽ nên hoàn cảnh cuộc sống của Thúy Kiều và Từ Hải. “Nửa năm” đấy là quãng thời gian họ chúng sống cùng nhau, trong hương say ngọt ngào của tình yêu và hạnh phúc “hương lửa đương nồng”. Nhưng cũng chính trong lúc căng tràn của tình yêu, của hạnh phúc ấy, Từ Hải – người anh hùng phi thường cả ngoại hình lẫn tài trí ấy lại quyết tâm ra đi. Cụm từ “động lòng bốn phương” đã thể hiện rõ cho chúng ta thấy khát vọng lên đường, thỏa chí tung hoành bốn phương, không vướng bận cuộc sống gia đình, vợ con.

Và để rồi người anh hùng ấy ra đi trong tư thế thật đẹp, thật hào hùng.

Trông vời trời bể mênh mông

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong

Câu thơ “Trông vời trời bể mênh mông” với cảm hứng vũ trụ đã giúp chúng ta cảm nhận được sự lớn lao, phi thường  trong khát vọng của người anh hùng Từ Hải. Để rồi, người anh hùng ấy một mình một ngựa ra đi, với tư thế “lên đường thẳng rong” – ra đi không chút bịn rịn không chút luyến lưu. Như vậy, bốn câu thơ đầu đoạn trích đã giúp chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc về khát vọng và tư thế của người anh hùng.

Nếu bốn câu thơ đầu thể hiện khí thế ra đi của người anh hùng thì mười hai câu thơ tiếp theo, tác giả đã tái hiện một cách chân thực và sâu sắc cuộc đối thoại đầy xúc động giữa Thúy Kiều và Từ Hải. Lắng nghe những lời nói của Thúy Kiều đối với Từ Hải chắc hẳn người đọc sẽ hiểu tại sao Từ Hải lại tìm đến Thúy Kiều như tìm đến một người tri kỉ:

Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Hai câu thơ thật ngắn gọn, thật nhẹ nhàng nhưng đã cho chúng ta thấy rõ lòng yêu thương, quý trọng và thấu hiểu chồng hết mực của Thúy Kiều, đồng thời, qua đó cũng cho thấy rõ sự quyết tâm, ước muốn được đi cùng Từ Hải của Kiều “chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.

Trước nỗi lòng của Thúy Kiều, những lời đáp lại của Từ Hải càng thể hiện rõ chí khí, vẻ đẹp của nhân vật. Trước hết, trong lời đáp của mình, Từ Hải đã từ chối ước muốn của Thúy Kiều, khẳng định nàng mãi là tri âm tri kỉ của mình nhưng đồng thời cũng trách nàng chưa thoát khỏi suy nghĩ của “nữ nhi thường tình” những dường như ẩn sau lời trách ấy chính là lời động viên, an ủi Kiều của Từ Hải. Chàng muốn Thúy Kiều phải khác với những người nữ nhi khác để xứng đáng là tri âm tri kỉ với chàng – một bậc anh hùng:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình

Đồng thời, trong lời đáp của mình với Thúy Kiều, Từ Hải cũng thể hiện rõ niềm tin vào một tương lai, một sự nghiệp tươi sáng và cất lên lời hứa với Kiều.

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

     Việc sử dụng các từ ngữ “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường”, “rõ mặt phi thường” đã cho chúng ta thấy rõ niềm tin của Từ Hải vào một tương lai tốt đẹp, rạng rỡ của người anh hùng này. Và lúc sự nghiệp huy hoàng, thành danh chính là lúc Từ Hải rước Kiều nghi gia. Lời thơ vừa như một lời hứa, vừa như một lời động viên an ủi Thúy Kiều vừa như một lời tự ý thức được tài năng của bản thân trong Từ Hải. Như vậy, qua mười hai câu thơ và đặc biệt qua lời đáp của Từ Hải đối với Thúy Kiều đã cho chúng ta thấy rõ khí chất, chí khí anh hùng của Từ Hải.

Đặc biệt, hai câu thơ kết thúc đoạn trích đã thể hiện rõ quyết tâm ra đi của người anh hùng Từ Hải:

Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi

     Mượn hình ảnh ẩn dụ chim bằng, Nguyễn Du đã thể hiện rõ nét về hình ảnh người anh hùng Từ Hải với lí tưởng cao đẹp, hùng tráng, phi thường, mang tầm vóc vũ trụ. Người anh hùng ấy ra đi thật dứt khoát, không đắm say trong hương nồng của tình yêu, của hạnh phúc mà có quên đi khát vọng, ý chí của người anh hùng.

     Tóm lại, đoạn trích Chí khí anh hùng với việc sử dụng nhiều hình ảnh tượng trưng ước lệ, cùng việc sử dụng hình thức đối thoại đã cho chúng ta thấy rõ vẻ đẹp, chí khí của người anh hùng Từ Hải. Đồng thời, qua nhân vật Từ Hải Nguyễn Du cũng gửi gắm vào đó ước mơ của mình về người anh hùng.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 36

Trong bài viết Một phương diện của thiên tài Nguyễn Du: “Từ Hải" đăng trên báo Thanh nghị, số 36, tháng 5 -1943, nhà phê bình Hoài Thanh viết: “Thực suốt cả quyển Đoạn trường tân thanh tức là Truyện Kiều không có chỗ nào ngòi bút Nguyễn Du hân hoan bằng những khi Từ Hải nói hay nói đến Từ Hải (…).Biết đâu Từ Hải chẳng là cái mộng tưởng lớn nhất trong đời Nguyễn Du”. Nhân xét và phỏng đoán (có màu sắc khẳng định) nói trên của nhà phê bình thật đáng được chia sẻ, một khi ta đã đọc kĩ Truyện Kiều và hơn thế nữa đọc đến những tác phẩm văn học Trung Hoa xưa có nói đến nhân vật Từ Hải, nhất là Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tàm Tài Nhân – cuốn sách mà Nguyễn Du đã dựa vào đó để dựng nên kiệt tác của mình. Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một anh hùng toàn vẹn.Từ “anh hùng” và cùng với nó là những từ có cùng trường nghĩa luôn hiện khi nhà thơ nói đến chàng dù thông qua lời trần thuật hay lời nhân vật khác. Thậm chí, nhà thơ đã để cho nhân vật nhiều lần tự xưng mình là anh hùng – một con người tự tin đến thế là cùng! Dĩ nhiên, muốn chứng minh nhân vật của mình là anh hùng, riêng việc dùng từ như trên chưa đủ. Nguyễn Du rất hiểu điều đó, vì vậy đã dụng tâm tạo dựng một không gian riêng – không gian mở, không gian bao la – để Từ Hải xuất hiện.

Bên cạnh đó, nhà thơ cũng không quên vận dụng cách thức miêu tả ngoại hình và hành động có tính ước lệ, khoa trương để tô đậm cốt cách hơn người, hơn đời của Từ Hải. Nói tóm lại để thấy được chí khí anh hùng ở con người này, ta có thể giở bất cứ trang nào trong Truyện Kiều có nhắc đến hai chữ Từ Hải, hay nhắc đến hành tích, sự nghiệp và cả kết cục số phận của chàng. Tuy nhiên, dù điều trên là có thật, nhiều người vẫn muốn chú ý trước hết đến tình huống Từ Hải tạm biệt Thuý Kiều để lên đường theo đuổi nghiệp lớn. Ai bảo khí phách anh hùng của một kẻ nam nhi chỉ được thể hiện rõ nét khi anh ta đứng giữa vòng tên đạn bời bời? Nguyễn Du không hoàn toàn nghĩ thế. Ông dụng tâm miêu tả sâu cách ứng xử của Từ Hải với mĩ nhân, với hạnh phúc được sống cùng mĩ nhân, qua đó mà làm bật nổi cốt cách hơn đời có ở chàng. Nghĩ cho cùng, đây là một lựa chọn nghệ thuật tuyệt đối phù hợp. Bao giờ mĩ nhân chả là một cửa ải khó vượt đối với những kẻ nam phi, những bậc anh hùng?.

Trước đoạn kể buổi Từ Hải lên đường, Nguyễn Du chỉ nói hết sức vắn tắt về cuộc sống hạnh phúc của cặp “Trai anh hùng, gái thuyền quyên”. Ông không rề rà miêu tả, dù rề rà một chút trong trường hợp này cũng có thể chấp nhận được, bởi tâm lí độc giả vẫn muốn dành thêm ưu ái cho Thuý Kiều – một con người đã nếm trải vô số bất hạnh trong cuộc đời. Không, nhà thơ quá hiểu Từ Hải. Một khi nghiệp lớn chưa thành, chàng không đành tâm vui hưởng hạnh phúc, với mĩ nhân, dù người đó là hồng nhan tri kỉ. Và chàng đã ra đi giữa lúc khó ra đi nhất, giữa lúc ái tình đang toả hương ngây ngất.


Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.

Từ thoắt cùng với chi tiết “lên đường thẳng rong ” đã vẽ lên rất linh hoạt tính cách của một con người hành động, làm việc gì cũng nhanh chóng, dứt khoát. Ai cũng biết Từ Hải rất yêu, rất trọng Kiều, nhưng cái chí tung hoành giữa bốn phương vẫn lớn hơn giúp chàng vượt qua trạng thái bịn rịn, nhùng nhằng một cách nhẹ nhàng. Từ Hải là con người biết sống cho tình yêu nhưng cũng là con người của mênh mang trời bể. Đây chính là chỗ phân biệt chàng với những nhân vật đàn ông khác tùng yêu nàng Kiều như Kim Trọng và Thúc Sinh. Vả chăng, chàng ra đi cũng là để gây dựng một cuộc sống mới, cho chàng và cả chính nàng Kiều nữa. Chàng không đứng khoanh tay chờ đợi sự ưu ái của số phận, của cuộc đời hay ngồi phấp phỏng âu lo vì những điều bất hạnh khó dự liệu sẽ tới. Chàng biết chủ độnggiành lấy cái mà chàng thấy mình cùng người tri kỉ đáng được hưởng. Đoạn đối thoại sau đã làm rõ tất cả những điều đó:


Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,

Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi”.

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường

Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu

Chầy chăng là một năm sau, vội gì!

Quả có một cái gì đó như là sự vô lí trong trình tự kể của tác giả: tại sao lại nói chuyện Từ Hải “lên đường thẳng rong” trước chuyện hai người đối thoại với nhau? Đây là một cái “lỗi” trong nghệ thuật trần thuật hay là sự cố ý? Theo Tản Đà, Nguyễn Du đã “vội lời”. Kể ra nhận xét như thế cũng chẳng sai. Nhưng nếu hiểu rằng trong nghệ thuật viết tiểu thuyết, trình tự kể không nhất thiết phải ứng khớp với trình tự của câu chuyện được kể, nó là một cái gì mang tính ước lệ, thì ta lại thấy Nguyễn Du có cái lí của mình. Ông không để cái tiểu tiết làm hại tinh thần chung của một đoạn thơ có mục tiêu làm rõ sự dứt khoát trong hành động của người anh hùng Từ Hải. Vả chăng có thể biện minh rằng: Từ Hải tuy chưa thực sự cất bước ra đi nhưng chí của chàng thì đã ruổi rong cùng thanh gươm, yên ngựa. Nói thẳng một lèo như thế, câu thơ dễ gây ấn tượng về một con người có hành tung như ngọn gió vừa mới thấy đây mà phút chốc thân đã ởngoài muôn dặm.

Một số người nghĩ rằng đoạn đối thoại này là do Nguyễn Du sáng tạo ra không có trong Kim Vân Kiều truyện. Sự thực không hoàn toàn như vậy. Trong tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân vẫn có, nhưng nó được đặt trong bốicảnh Từ Hải chuộc Kiều ra, không đưa Kiều về quê nhà mà lại dựng một toà nhà để cùng ăn ở với Thuý Kiều. Khi Kiều thắc mắc chàng mới nói rõ sự tình: “Chứ như nay, ta chỉ trơ trọi một mình, khi đưa nàng nào biết về đâu?”. Nguyễn Du có cách xử lí nghệ thuật khác, tuân theo cấu trúc tự sự riêng của chính Truyện Kiều và cũng hợp với tính cách các nhân vật của ông hơn. Ông không để cho Kiều thắc mắc về những điều vụn vặt, cũng không để cho Từ Hải nói những lời chưa phải lúc. Ông thích quan sát nhân vật trong những cuộc chia tay và muốn những cuộc chia tay đó phải nói được một điều gì lớn hơn chính bản thân sự việc được kể.

Hãy xem Từ Hải đã “đả thông tư tưởng” cho nàng Kiều như thế nào khi nàng một lòng xin đi. Thoạt tiên, chàng trách nàng “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”. Trách nhưng thực chất là đề cao, bởi trong suy nghĩ của chàng, Kiều là người “tâm phúc tương trí” và chàng muốn nàng luôn như vậy. Đã nói đến chuyệntương tri, bao nhiêu tâm sự, hoài bão phút chốc được biểu lộ. Thì ra chàng có tâm nguyện “Làm cho rõ mặt phi thường”, muốn sự tồn tại của mình giữa cuộc đời phải đặc biệt có ý nghĩa. Chàng không chấp nhận sự vô danh. Khi chưa đạt được điều ấy thì chàng chưa thể an hưởng hạnh phúc. Khái niệm hạnh phúc của chàng có một nội hàm riêng. Hạnh phúc là hạnh phúc của kẻ làm nên nghiệp lớn, và điều rất đáng chú ý nữa là hạnh phúc của việc biết đem nghiệp lớn để tặng cho người mình yêu. Chàng tự thấy trong thời điểm hiện tại, nghi lễ đón rước Kiều chưa thật xứng với phẩm chất của nàng, ít nhất đó là một việc đòi hỏi chàng phải ra tay. Phân tích đến đây, ta bỗng phân vân không biết nên gọi Từ Hải là gì cho đúng. Một anh hùng có cốt cách phong lưu hay một kẻ phong lưu tràn đầy khí chất anh hùng? Có lẽ nói thế nào cũngphải tuỳ theo góc độ nhìn nhận, bởi Từ Hải là một nhân cách đã tích hợp được tất cả những phẩm chất đó. Nếu nhấn mạnh vào cốt cách phong lưu ta có thể quên lưu ý lời dặn dò ân cần cùng sự thu xếp chu đáo mà chàng đã thể hiện với nàng Kiều. Nếu nhấn mạnh vào khí độ anh hùng, ta lại phải hết sức tán thưởng lời nói đầy quyết đoán, tự tin “Chầy chăng là một năm sau, vội gì”. Đang lúc bốn bể không nhà mà đã thấy trước một viễn cảnh nào “mười vạn tinh binh”, nào “tiếng chiêng dậy đất”, nào “bóng tinh rợp đường”, thì đó quả là con người biết làm chủ cuộc đời mình và biết sắp xếp lại thế giới theo một trật tự mà bản thân mong muốn. Thực tế cho thấy Từ Hải đã làm được điều chàng hứa. Không nghi ngờ gì, đây chính là nhân vật chủ động nhất trong thế giới nhân vật của Truyện Kiều. Giữa cuộc sống đầy những xáo trộn bất trắc mà ở đó con người luôn lâm vào thế bị động, thế bị dồn đuổi, Từ Hải quả là một giấc mơ đẹp của Nguyễn Du và của biết bao người có hùng tâm tráng chí.


Trong các đoạn thơ kể về cuộc chia tay giữa Thuý Kiều với Kim Trọng và Thuý Kiều với Thúc Sinh, Nguyễn Du luôn để nàng Kiều lời sau nói hết. Điều đó thật thuận tình và hợp lẽ. Nhưng trong đoạn thơ này, Từ Hải lại là người chấm dứt cuộc đối thoại. Thì Kiều còn biết nói gì hơn! Nàng hiểu Từ Hải và tin chàng, một cách tuyệt đối, ít nhất là trong thời điểm này. Thế rồi Từ Hải ra đi. Như được gió bốc. Hay chính chàng là một trận gió lớn đùng đùng thổi qua đời Kiều?

Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Chim bằng đã bay đi nhưng tiếng vẫy của nó vẫn còn để lại dư âm, để lại niềm tin tưởng và hi vọng, trong lòng Thuý Kiều và trong lòng bao độc giả mơ ước một cuộc sống tụ do, khoáng đạt!.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 37

Có thể nói trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng nhân vật Từ Hải hoàn toàn mới so với hình tượng nhân vật này trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, ở “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, hình tượng Từ Hải giống như một tướng cướp đã bị lược bỏ, thay vào đó là một hình tượng Từ Hải như một vị anh hùng tuyệt đẹp, phi thường. Hình tượng này là sự hợp nhất của hình tượng nhân vật có tính ước lệ – là nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du và hình tượng con người vũ trụ với nét vĩ đại, lớn lao.

Sau khi bị mắc bẫy và rơi vào chốn lầu xanh lần thứ hai, Kiều luôn sống trong tâm trạng đau khổ, giày vò. Giữa lúc ấy, Từ Hải xuất hiện như một vị cứu tinh giúp Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh đầy nhơ nhớp ấy. Nhưng tình yêu giữa Thúy Kiều và Từ Hải vẫn không thể nào che khuất đi ước mơ gây dựng một sự nghiệp lớn lao ở con người này. Đó chính là lí do mà khi mối tình của họ vừa chớm nở được “nửa năm” thì Từ Hải đã tiếp tục lên đường với khát khao cháy bỏng gây dựng sự nghiệp của mình:

Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong

Mặc dù trong thời gian sáu tháng, tình yêu của họ luôn nồng nàn, cháy bỏng nhưng với chí lớn và khát khao công danh nghiệp lớn Từ Hải thoắt đã “động lòng bốn phương”. “Lòng bốn phương” ở đây là hình ảnh tượng trưng, ước lệ cho chí nguyện lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Hình ảnh “trời bể mênh mang” cũng mang ý nghĩa tương tự như vậy. Chúng như một sự ước lệ tạo nên một tầm vóc lớn lao, phi thường cho Từ Hải. Có thể nói tình yêu hay bất cứ một cái gì cũng không đủ sức để ngăn cản được bước chân của chàng. Trong cả một tác phẩm dài, Nguyễn Du chỉ dành duy nhất một từ “trượng phu” cho Từ Hải như thể khẳng định một chí khí lớn ở chàng. Hình ảnh “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” diễn tả một phong thái ung dung của người “trượng phu” trên con đường gây dựng sự nghiệp ấy.

Đối với Thúy Kiều, Từ Hải không chỉ như một người chồng mà còn như một vị ân nhân có ơn vô cùng lớn đã cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh ô nhục. Vì vậy, trước quyết tâm ra đi vì nghiệp lớn của chồng mình, Thúy Kiều đã xin đi theo để là người chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chàng:

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi

Nàng xin đi để được làm trọn chữ “tòng” vì theo nàng thì “xuất giá tòng phu” lấy chồng thì phải theo chồng, nguyện cùng chồng gánh vác mọi chuyện.
Nhưng lời Từ Hải đã quyết, như để làm an lòng Thúy Kiều:

Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Trước lời xin đi theo của Thúy Kiều, Từ Hải như trách Kiều: “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”’, đó cũng như một lời khuyên Kiều đừng xem nặng quá vấn đề “lấy chồng là phải theo chồng”, hãy xem nhẹ chuyện tình cảm vì sự nghiệp lớn lao của chồng. Với một quyết tâm, chí khí lớn lao, Từ Hải nói như hứa hẹn sẽ gây dựng được một cơ đồ to lớn, nắm chắc trong tay “mười vạn tinh binh” và chàng sẽ trở về để đón Kiều trong “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời”. Lúc thành công quay trở lại cũng là lúc Từ Hải sẽ “rước nàng nghi gia”, đem lại địa vị và danh phận cho người mà chàng xem là tri âm tri kỉ. Những lời của Từ Hải vào khoảnh khắc tiễn biệt này càng làm rõ “chí khí anh hùng” của nhân vật này, thay vì những lời nói thể hiện sự bịn rịn, quyến luyến khi chia tay thì là những ước mơ, sự khẳng định nhất định sẽ thành công của chàng.


Từ Hải còn thể hiện chí khí của mình ở việc cho rằng Thúy Kiều đi theo sẽ “càng thêm bận” nhưng sâu thẳm bên trong là sự lo lắng cho Kiều khi đi theo sẽ phải chịu cực khổ, nay đây mai đó “bốn bể không nhà”:

Bằng ngay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu

Chàng còn dám khẳng định chắc chắn thời gian mà mình sẽ quay về đó là khoảng thời gian một năm. Từ Hải khuyên Kiều ở nhà đợi chàng trở về trong sự chiến thắng vẻ vang, hiển hách:

Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì.

Cách chia tay của Từ Hải rất khác biệt ở chỗ những lời chia tay được thay bằng những lời hứa vào một chiến thắng không xa, sự quyến luyến được thay bằng một  quyết tâm vào tương lai.

Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi

Chàng dứt khoát ra đi với một quyết tâm sắt đá như cánh chim bằng khi đã cất cánh tung bay trên bầu trời thì phải bay thật xa mới nghỉ cũng như Từ Hải khi đã chiến thắng, thành công thì mới quay trở về.

Với đoạn trích “Chí khí anh hùng”, Nguyễn Du đã xây dựng được một hình tượng người anh hùng lí tưởng hoàn toàn mới. Có thể nói Nguyễn Du đã thực sự thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật này chính bằng tài năng nghệ thuật thể hiện ở sự sáng tạo độc đáo và sự đam mê văn chương của mình.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 38

Từ Hải là một giấc mơ của đại thi hào Nguyễn Du, giấc mơ anh hùng,giấc mơ tự do và công lý.Cho nên Từ Hải là một người chí khí,một người siêu phàm.Con người ấy đến từ một giấc mơ và ở lại như một huyền thoại.Hiện diện trong “Truyện Kiều” như một nhân cách sử thi,Từ Hải đã làm nên những trang sôi động nhất,hào sảng nhất trong cái thế giới buồn đau dằng dặc của “Đoạn Trường Tân Thanh”. Đoạn trích “Chí Khí Anh Hùng” là một đoạn trích tiêu biểu khắc họa rõ nét chí khí anh hùng của Từ Hải.

Kiều bị lừa vào lầu xanh lầnthứ 2, tâm trạng nàng vô cùng đau khổ và tuyệt vọng. May sao Từ Hải đột ngột xuất hiện, đã xem Kiều như tri kỉ và chuộc nàng thoát khỏi lầu xanh. Cả 2 đều là những con người thuộc tầng lớp thấp kém (một gái lầuxanh, một tướng giặc) bị xã hội phong kiến thối nát lúc bấy giờ ruồng rẫy, coi thường, và họ đã đến với nhau trong 1 tình cảm gắn bó của đôi tri kỉ. Từ Hải đánh giá cao sự thông minh, khéo léo của Kiều và ngược lại Kiều nhận ra ở Từ Hải có chí khí anh hùng hiếm có trong thiên hạ, đồng thời cũng là người duy nhất có thể giải thoát cho nàng. Nhưng dù yêu thương,trân trọng Từ Hải, Kiều cũng không thể giữ chân bậc anh hùng cái thế.Đã đến lúc Kiều để Từ Hải ra đi lập sự anh hùng.Tính cách và chí khí của Từ Hải được biểu hiện qua cách sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn từ Hán Việt,ngôn ngữ bình dân, dùng nhiều hình ảnh ước lệ và sử dụng điển cố, điển tích.Đặc biệt nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du tái tạo theo khuynh hướng lí tưởng hóa.Mọi ngôn từ, hình ảnh và cách miêu tả Nguyễn Du đều sử dụng rất phù hợp với khuynh hướng này.

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”.

“Nửa năm” là khoảng thời gian chung sống của Từ Hải và Kiều,thời gian chưa đủ dài để dập tắt hương lửa nồng nàn của “trai anh hùng,cái thuyền quyên”.Vậy nhưng,Từ Hải vội dứt áo ra đi,Từ không quên mình là một tráng sĩ.Trong xã hội phong kiến,đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa trời đất cao rộng.Tác giả dùng từ “trượng phu” đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này và dùng cho nhân vật Từ Hải.”Trượng phu” nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn.Từ “thoắt” nghĩa là nhanh chóng trong khoảng khắc bất ngờ.Đó là cách xử sự bất thường,dứt khoát của Từ Hải. Nếu là người không có chí khí,không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng nàn người ta dễ quên những việc khác.Nhưng Từ Hải thì khác,ngay khi đang hạnh phúc,chàng “thoắt” nhờ đến mục đích, chí hướng của đời mình .Tất nhiên chí khí đó phù hợp với bản chất của Từ Hải,hơn nữa,Từ Hải nghĩ thực hiện được chí lớn thì mới xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thúy Kiều dành cho mình .Cụm từ “động lòng bốn phương” theo Tản Đà là “động bụng nghĩ đến bốn phương”cho Từ Hải “không phải người một nhà,một họ,một xóm,một làng mà là người của trời đất,của bốn phương”(Hoài Thanh).Chính vì thế, chàng hướng về “trời bể mênh mang”, với “thanh gươm yên ngựa” lên đường đi thẳng:

“Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong”.

Không gian trời bể mênh mang,con đường thẳng đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hai. Tác giả dựng lên hình ảnh “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong”rồi mới để cho Từ Hải và Thúy Kiểu nói lời tiễn biệt.Liệu có gì phi lôgic không?Không,vì hai chữ “thẳng dong” có người giải thích là “vội lời”,chứ không phải lên đường đi thẳng rồi mới nói lời tiễn biệt.Ta có thể hình dung, Từ Hải lên yên ngựa rồi mới nói những lời chia biệt với Thúy Kiều.Lời Từ Hải nói với Thúy Kiều lúc chia tay thể hiện rõ rính cách nhân vật. Thứ nhất,Từ Hải là người có chí khí phi thường,khi chia tay thấy Kiểu nói:

Nàng rằng : “Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Từ Hải đã đáp lại rằng:
Từ rằng : ”Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”.

Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều. Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng. Chàng muốn lập công, có được sự nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều về nhà chồng trong danh dự:

Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”.

Quả là lời chia biệt của một người anh hùng có chí lớn, không bịn rịn một cách yếu đuối như Thúc Sinh khi chia tay Kiều. Sự nghiệp anh hùng đối với Từ Hải là ý nghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có làm được như vậy mới xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của người đẹp.
Thứ hai, Từ Hải là người rất tự tin trong cuộc sống:

Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì !

Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện Từ là người rất tự tin trong cuộc sống. Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công trở về với cả một cơ đồ lớn.

Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi

Hai chữ “dứt áo” thể hiện phong cách mạnh mẽ, phi thường của đấng trượng phu trong lúc chia biệt.Hình ảnh “Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”là một hình ảnh so sánh đẹp đẽ và đầy ý nghĩa.Tác giả muốn ví Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn.Không chỉ thể trong câu thơ còn diễn tả được tâm trạng của con người khi được thỏa chí tung hoành “diễn tả một cách khoái trá trong giây lát con người phi thường rời khỏi nơi tiễn biệt”.Chia li và hội ngộ,hội ngộ và chia li, hai sự kiện trái ngược và nối tiếp chia cái đời thường của mỗi người ra thành những chặng đường giàu ý nghĩa hơn. Phải,nếu không có chia li và hội ngộ,cuộc sống chỉ là một dòng chảy đơn điệu và tẻ nhạt.Nếu hội ngộ là sướng vui,hạnh phúc thì chia li là sầu muộn,đau buồn. Có lẽ vì thế mà thơ ca viết về chia li nhiều hơn,thấm thía hơn? Trong “Truyện Kiều” Nguyễn Du đã ba lần khắc họa những cuộc chia biệt.Đó là Kiều tiễn Kim Trọng về quê hộ tang chú,ở đó có sự nhớ nhung của một người đang yêu mối tình đầu say đắm.Đó là cuộc chia tay Thúc Sinh để chàng về quê xin phép Hoạn Thư cho Kiều được làm vợ lẻ,hi vọng gặp lại mong manh.Cuộc chia tay Từ Hải là chia tay người anh hùng để chàng thỏa chí vẫy vùng bốn biển.Do vậy tính chất ba cuộc chia biệt là hoàn toàn khác hẳn nhau.Vậy nhưng,bằng tài hoa của một người nghệ sĩ bậc thầy, Nguyễn du đã khắc họa thành công chân dung nhân vật Từ Hải với những dấu ấn riêng biệt.

Dưới hình thức một cuộc chia li, đoạn trích “Chí khí anh hùng” mang chở khát vọng tự do, công lí của Nguyễn Du. Từ Hải như một con đại bàng vỗ cánh làm xáo động cả đất trời. Chỉ có đôi cánh ấy mới che chở được những nạn nhân sống dưới gần trời tăm tối của thể giới “Truyện Kiều”.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 39

“Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

Nguyễn Du xưa đã từ giã cõi đời không một lời trăn trối, mang theo cả một tâm sự bi kịch, u uất không giải tỏa cùng ai. Những ai đã sống sâu sắc với cuộc đời hẳn thấu hiểu lắm tâm sự của Nguyễn Du - một con người suốt đời đi tìm tri kỉ giữa cõi đời đen bạc. Tố Như ơi! Xin người hãy “ngậm cười nơi chín suối”, vì “cả cuộc đời này hiểu Nguyễn Du” có biết bao nhiêu người như Huy Cận, Bùi Kỷ, Tế Hanh, Chế Lan Viên, ... và đặc biệt Tố Hữu đã làm thơ giãi bày, giải toả hộ Người những uất hận kia. Bài thơ “Kính gửi cụ Nguyễn Du” ra đời như bắc nhịp cầu tri âm đến với những tâm sự của Tố Như trong “Độc Tiểu Thanh ký” đồng thời cũng khẳng định ý nghĩa đặc biệt cuả tiếng nói tri âm trong văn chương, nói như nhà văn Bùi Hiển: “Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm thông sẻ chia giữa người đọc và người viết là trên hết”.

Là một nhà văn đã từng nếm trải những vinh quang và cả những cay đắng trong nghề văn, Bùi Hiển hiểu hơn ai hết ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm giữa nhà văn và người đọc. Đã có những thời người ta chỉ đề cao vai trò của tác giả và tác phẩm mà xem nhẹ yếu tố bạn đọc. Đúng, nhà văn là người tạo ra tác phẩm bằng tài năng và tâm huyết của mình. Nhưng lẽ nào anh chỉ muốn tác phẩm ấy là chỉ của riêng anh, chỉ mình anh biết, anh hay? Nếu thế tác phẩm của nhà văn ấy sẽ sớm đi vào quên lãng, không một ai biết đến. Phải chăng vì vậy mà M. Gorki đã viết: “Người tạo lên tác phẩm là tác giả nhưng người quyết định số phận tác phẩm lại là độc giả?” Tác phẩm văn học chỉ sống được trong tấc lòng của những người tri kỷ - là bạn đọc. Thế nhưng không phải bạn đọc nào cũng hiểu được tác phẩm và thông điệp thẩm mĩ của tác giả. Thực tế văn học đã có biết bao chuyện đáng buồn - người đọc hiểu hoàn toàn sai lệch giá trị của tác phẩm và suy nghĩ của nhà văn. Cho nên ở bất kỳ thờ đại nào, bất kỳ nền văn học dân tộc nào cũng rất cần có tiếng nói tri âm của bạn đọc dành cho tác giả. Nghĩa là bạn đọc ấy phải cảm thông, sẻ chia với những nỗi niềm tâm sự, nghĩ suy của người viết gửi trong tác phẩm.

Ý kiến của nhà văn Bùi Hiển, vì thế, có thể xem như một yêu cầu lý tưởng trong tiếp nhận văn học mọi thời đại, mọi dân tộc. Vậy vì sao Bùi Hiển lại đề cao ý nghĩa của tiếng nói tri âm như vậy? Có lẽ đó là yếu tố đặc thù của lĩnh vực văn chương. Nếu như trong các ngành khoa học, khi một chân lý khoa học được tìm ra là đúng đắn thì sớm hay muộn nó sẽ được công nhận và khẳng định. Còn với văn học thì sao? Những nghĩ suy và tâm trạng của nhà văn sâu sắc, nhiều tầng bậc, không phải một thời, một người là có thể hiểu thấu để mà cảm thông chia sẻ. Tiếp nhận văn học, họ phụ thuộc và nhiều yếu tố, có khi do tâm lý và tâm thế tiếp nhận, cũng có khi do môi trường văn hóa mà người đọc đang sống, đang tiếp thu... Chuyện khen chê, khẳng định hay phủ định trong văn chương là điều dễ thấy. Bởi vậy phải là người đọc có con mắt xanh mới có thể thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ với người viết được.

Thế nhưng cơ sở nào đem lại sự cảm thông, chia sẻ giữa người đọc và người viết? Trước hết cần phải bắt đầu từ quy luật của sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ cầm bút trước tiên là để giãi bày lòng mình, khi những trăn trở, suy nghĩ, day dứt, dằn vặt vui hay buồn không thể nói với ai thì người nghệ sĩ tìm đến văn học bởi “thơ là tiếng lòng” là tiếng nói hồn nhiên nhất của trái tim và “có những điều chỉ nói được bằng thơ”.Người nghệ sĩ sáng tác trước hết cũng do chính mình hoặc cho những người thực sự hiểu mình mà thôi. Phải chăng vì vậy khi Dương Khuê mất Nguyễn Khuyến đã không viết thơ vì:

“Câu thơ nghĩ đắn đo không viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa.”

Thế nhưng thơ là “tiếng nói điệu đồng đi tìm những tâm hồn đồng điệu”. Nhà thơ đồng thời cũng là người đọc thơ. Như Tế Hanh nói: “Đọc thơ đồng chí ngỡ thơ mình”. Nhà văn viết tác phẩm như ban phát phấn thông vàng đi khắp nơi, mong có người theo phấn tìm về. Cho nên bạn đọc là mốt mắt xích không thể thiếu trong chu trình sáng tác - tiếp nhận tác phẩm. Bạn đọc cũng là những người có suy nghĩ, tình cảm,cảm xúc, có niềm vui, nỗi buồn, có cảnh ngộ và tâm trạng, nhiều khi bắt gặp sự đồng điệu với nhà văn, nhà thơ. Khi hai luồng sóng tâm tình ấy giao thoa thì tác phẩm rực sáng lên trở thành nhịp cầu nối liền tâm hồn với tâm hồn, trái tim với trái tim. Cho nên người đọc đến với thơ để tìm thấy chính mình, thấy những suy nghĩ, cảm xúc của chính mình mà nhà thơ bằng tài năng đã gửi gắm qua những câu thơ. Phải chăng vì thế Lưu Quý Kì viết: “Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm hồn của chính mình”. Và như thế Bá Nha đã tìm được Tử Kì, những tri âm đã gặp được nhau qua chiếc cầu văn chương. Văn học quả là có sức cảm hoá thật kỳ diệu.

Có lẽ chính bởi ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương mà có biết bao nhiêu nhà thơ, nhà văn đã sáng tác nhưng tác phẩm mà đối tượng lại chính là các nhà văn, nhà thơ. Bằng Việt viết về Pauxtôpxki, Ximônôp sung sướng khi tìm được tri âm là Tố Hữu:

“Ở đây tôi thấy thơ tôi

Sống trong bản dịch tuyệt vời của anh”

Trường hợp của Nguyễn Du và Tố Hữu trong hai bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” và “Kính gửi cụ Nguyễn Du” cũng không nằm ngoài mạch nguồn cảm hứng giàu giá trị nhân văn ấy.

Có thể thấy hai bài thơ đều là tấc lòng của hai nhà thơ gửi gắm cho những người nghệ sĩ sống khác thời đại. Nguyễn Du viết về Tiểu Thanh, cách Tố Như ba trăm năm nhưng đồng thời Tiểu Thanh cũng là một nhà thơ. Sống cô đơn, vò võ một mình trong sự ghen tuông cay nhiệt của người vợ cả, sự thiếu đồng cảm của chính người chồng, Tiểu Thanh đã tìm đến thơ để ký thác tâm tình, để tìm đến một tri âm vô hình cho khuây khoả nỗi cô đơn. Thế mà thói đời cay nghiệt, khi nàng chết, những vần thơ của nàng cũng phải giã từ cõi đời trong ngọn lửa ghe tuông, đố kỵ. Những câu thơ sót lại của nàng khiến Tố Như rung động. Một trái tim lúc nào cũng căng lên như dây đàn nối đất với trời và nỗi đau của con người có thể làm sợ giây ấy rung lên bần bật. Dễ hiểu vì sao Nguyễn Du lại viết hay, xúc động về Tiểu Thanh như vậy. Còn Tố Hữu trong những năm tháng chống Mĩ cứu nước nhất là trong những ngày kỷ niệm ngày sinh của Nguyễn Du, đã xúc động viết lên “Kính gửi cụ Nguyễn Du”. Tố hữu đã thể hiện sự cảm thông, chia sẻ với bi kịch của Nguyễn Du và hết lời ca ngợi giá trị của thơ ca Tố Như. Như thế hai bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” và “ Kính gửi cụ Nguyễn Du” đều thể hiện tiếng nói tri âm giữa Nguyễn Du, Tố Hữu - người đọc đồng thời cũng là những nhà thơ với Tiểu Thanh, Nguyễn Du- những người nghệ sĩ sống khác thời đại. Sự trùng hợp tuyệt đẹp này còn góp phần khẳng đinh giá trị nhân đạo sâu sắc, mênh mông của dân tộc và văn học Việt nam. Bởi lẽ Tiểu Thanh, Nguyễn Du là ai nếu như không phải là những người tài hoa và bạc mệnh?

Mặc dù vậy, bản chất của lao động nghệ thuật bao giờ cũng là sáng tạo. Cho nên hai bài thơ dù giống nhau ở cảm hứng nhưng nội dung tiếng nói tri âm và cách thể hiện có sự khác biệt sâu sắc. Trước hết “Độc Tiểu Thanh ký” là tiếng nói tri âm của một cá nhân dành cho một cá nhân. Nguyễn Du thấu hiểu nỗi khổ của Tiểu Thanh - người con gái sống khác dân tộc, khác thời đại. Có một khoảng không gian và thời gian diệu vợi, hun hút cách ngăn hai người nhưng chính văn chương đã xoá nhoà khoảng cách địa lý, biên giới lịch sử để họ tìm đến với nhau. Nguyễn Du xót thương co cảnh ngộ của nàng:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.”

Bài thơ mở đầu bằng câu thơ nói về quy luật nghiệt ngã của cuộc đời. Dòng đời lạnh lùng chẳy trôi, cuốn theo bao con người, bao số phận, tàn phá bao cảnh sắc. Hồ Tây xưa đẹp đẽ, rực rỡ là thế, giờ chỉ còn là một đống đất hoang lạnh, vắng vẻ, tiêu điều. Một sự biết đổi thật ghê gớm! “Tận” nghĩa là biết đổi hết, sạch trơn. Cảnh xưa đã không còn. Câu thơ nghe ngậm ngùi, thoáng gợi sự đời dâu bể “thương hải vi tang điền” hay xót xa nỗi niềm “thế gian biến đổi vũng nên đồi” trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là quy luật của tự nhiên, sao ta không khỏi day dứt? Bởi lẽ cũng với sự đổi thay ấy, là sự ra đi của kiếp người, đời người. Tiểu Thanh nàng hỡi, sự hiện diện của nàng trên cõi đời này còn gì đâu nếu không còn những vần thơ sót lại. Nhưng thay những vần thơ ấy - tấc lòng của nàng đã đến được với bến bờ tri âm - ấy chính là Nguyễn Du. Nguyễn Du hiểu lắm nỗi oan nghiệt của nàng:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu.

Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.”

Cả cuộc đời Tiểu Thanh hiện lên qua hai chữ: chi phấn và văn chương. Nói đến son phấn là nói đến tài sắc, nói đến văn chương là nói đến tài năng. Người là người tài năng, nhan sắc trọn vẹn, thế sao cuộc đời nàng lại đau khổ dường vậy? Nhà thơ đã thổi hồn vào son phấn, văn chương để chúng cất lên tiếng nói bi phẫn, xót xa. Son phấn có thần chắc pphải xót xa vì những việc sau khi chết còn văn chương không có mệnh mà còn bị đốt bỏ. Hỡi cuộc đời, son phấn, văn chương để cất lên tiếng nói bi thương thấu thiết ấy? Hai câu thực cũng chính là chìa khoá mở cửa vào hai câu luận:

“ Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kì oan ngã tự cư”

Thế là đâu chỉ Tiểu Thanh, đó là số bất hạnh của bao nhiêu con người. Hai chữ “cổ kim” gợi dòng thời gian miệt mài chảy trôi, vô thuỷ vô chung từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, trên đó thấp thoáng tiếng khóc của nàng Kiều, tiếng ai oán của cô Cầm, tiếng hát của người ca nữ đất Long Thành, người hát rong ở Thái Bình, tiếng van lơn của người mẹ ăn xin,... Đó là nỗi hận của bao kiếp người, bao cuộc đời, bao thế hệ. Giờ đây tất cả cùng về đổ xuống câu thơ của Tố Như. Một mối hận chất chứa, dày đặc thế mà trời khôn hỏi. Hỏi người, người không biết. Hỏi trời, trời không đáp. Cho nên Nguyễn Du tự lý giải cho mình:

“Phong vận kì oan ngã tự cư.”

Tiểu Thanh đau khổ, bao con người đau khổ chính bởi nỗi oan lạ lùng vì phong nhã. Thì ra chính “chi phấn, văn chương” kia là nguyên nhân gây ra nỗi khổ dường này! Nhà văn tự coi mình là người cùng hội, cùng thuyền với Tiểu Thanh và những người tài hoa bạc mệnh. Thế là Nguyễn Du đã “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Tố như sở dĩ là tri âm bở lẽ ông thấy mình trong cuộc đời và văn thơ Tiểu Thanh. Cho nên bài thơ kết thúc bằng tâm sự của chính Nguyễn Du

“Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

Thương người rồi mới thương mình. Thương người càng sâu sắc thì thương mình cảnh da diết. Tiểu Thanh đã có may mắn là tìm được tri âm nơi - Nguyễn Du, thế còn Nguyễn Du thì ai là tri âm đây? Bài thơ kết thúc mà nỗi đau cứ khắc khoải, đau đáu khôn nguôi. Tố Như đã từng cho mình mang nỗi sầu “vị tằng khai” không giải toả được, sâu thẳm như nước sông Lam dưới chân núi Hồng: “Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngã” Cho nên ông không hỏi người ở hiện tại mà hướng về người cách mình hơn ba trăm năm xa xôi, vô tri kỉ ở một nàng Kiều trong trang sách, ở Tiểu Thanh cách mình ba trăm năm và ở một dân tộc khác. Bài thơ khép lại mà đau đáu nỗi đau không tri âm, không tri kỉ giữa cõi đời đen bạc. Như vậy, hiểu Tiểu Thanh, day dứt trước số phận nàng, ráo riết tìm ra câu trả lời nhưng cuỗi cùng nguyễn Du bế tắc, rơi vào thuyết hư vô, siêu hình như trong truyện Kiều:

“Ngẫm hay muôn sự tại trời

Trời kia đã bắt làm người có thân

Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao”

Cho nên bài thơ đẫm nước mắt trong giọng điệu bi phẫn, sầu tủi, nghẹn ngào. Dẫu sao tấm lòng tri âm của Tố Như với Tiểu Thanh cũng vô cùng cao quý, đáng trân trọng.

Hai trăm năm sau Nguyễn Du, Tố Hữu đứng trên đỉnh cao của thời đại, của dân tộc, hướng về quá khứ cha ông, với niềm xót xa thương cảm. Biết bao nhà thơ đồng cảm với Nguyễn Du như ở Tố Hữu, sự đồng cảm ấy sâu sắc, mênh mông hơn. Trước hết, nhà thơ hiểu, chia sẻ với bi kịch của Nguyễn Du:

“Hỡi lòng tê tái thương yêu

Giữa dòng trong đục, cánh bèo lênh đênh

Ngổn ngang bên nghĩa bên tình

Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao?

Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào

Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường!”

Tưởng như đó là những lời Tố Hữu viết về Thuý Kiều. Mà quả thực, nhà thơ tỏ lòng thương cảm với nàng Kiều tài sắc mà như cánh bèo lênh đênh. Nàng đã từng đứng trước sự lựa chọn chữ “Hiếu” và chữ “Tình” khi quyết định bán mình chuộc cha, đã từng xao lòng trước vinh hoa để rồi xót xa thấy ngọn cờ đào Từ Hải, kết liễu đời mình nơi dòng Tiền Đường định mệnh. Thế nhưng qua sự so sánh “đành như thân gái”, người đọc hiểu được đó là lời tâm huyết gan ruột của Tố Hữu gửi Tố Như. Trong cuộc đời bể dâu kia, Tố Như cũng như cánh bèo chìm nổi, từng đớn đau trước bi kịch cuộc sống “sống hay không sống” và sống như thế nào giữa đen tối và tội ác, “giữa dòng trong, dòng đục kia?”. Nguyễn Du cũng đã từng đứng trước sự lựa chọn giữa “nghĩa”và “tình”. Người hiểu xã hội phong kiến đã đến hồi cáo chung, hiểu được sự mọt rỗng của triều Lê nhưng tình với nhà Lê, tư tưởng phù Lê của tôi trung không thờ hai chủ nên Người đã từng chống lại Tây Sơn. Thế nhưng trong đêm đen cuộc đời, người đâu đã thoát khỏi bi kịch. Người thấy triều đại Tây Sơn là tiến bộ, thậm chí còn hướng về những tướng lĩnh Tây Sơn tài hoa trong “Long thành cầm giả” nhưng cuối cùng lại theo Nguyễn Ánh, làm quan cho triều Nguyễn. Bi kịch không tự giải thoái được, Người “đành như thân gái sóng xao Tiền Đường” phó mặc cho số phận. Tố Hữu thấy Thuý Kiều là hiện thân của Nguyễn Du. Nguyễn Du viết truyện Kiều để ký thác tâm sự chính mình. Đó thực sự là một tấm lòng tri âm sâu sắc.

Không chỉ hiểu bi kịnh của Nguyễn Du, Tố Hữu còn chia sẻ cảm thông với bi kịch tình đời của Người:

“Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương:

Dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng...

Nhân tình , nhắm mắt, chưa xong

Biết đâu hậu thế khóc cùng Tố Như?

Mai sau dù có bao giờ...

Câu thơ thuở trước, đâu ngờ hôm nay”

Phải thương cảm Tố Như sâu sắc lắm, Tố Hữu mới có thể nhận thấy bi kịch ẩn sâu này. Nguyễn Du cả một đời yêu thương con người, cả đến khi nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa nguôi nỗi đau đáu hỏi người ba trăm năm sau: Ai người khóc Tố Như? Tố Hữu sử dụng ý thơ ấy thật linh hoạt. Khóc cùng không chỉ khóc cho Tố Như mà cùng Tố Như khóc cho nỗi đau của con người. Đó phải chăng cũng là điều Tố Như tìm kiếm, trăng trối trước lúc đi xa?

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”

Tiếng thơ ai nghe vừa trìu mến, vừa thân thương, vừa ngưỡng phục. Tiếng thơ của Nguyễn Du thấu lòng người, thấu cả trời xanh. Dường như trời xanh cũng rung động bởi những vần thơ ấy. Thật là một tầm vóc lớn lao, vĩ đại! Không những vậy, Tỗ Hữu còn nghe thấy trong tiếng thơ ấy hồn của dân tộc, lời của nước non:

“Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”

Tố Hữu đã từng ví tiếng nói của Hồ Chí Minh như lời non nước:

“Con nghe Bác, tưởng nghe lời non nước

Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau...”

Lần thứ hai ông lại hình dung hình ảnh so sánh để ca ngợi sự vĩ đại của một nhà thơ - một danh nhân văn hoá lỗi lạc của dân tộc và thế giới. Tiếng thơ của Nguyễn Du là tiếng nói của cá nhân đã trở thành lời của non nước. Non nước mượn thơ người để vọng lời. Trong tiếng thơ ấy có cả tiếng lòng của dân tộc, của nước non. Cho nên nó có tầm vóc ngang hàng với không gian vũ trụ, dằng dặc mà còn gợi không gian mênh mông cho tiếng thơ cụ Tiên Điền vang vọng, chảy trôi. Hôm nay, mai sau, thậm chí nghìn năm sau người Việt Nam vẫn không quên được tiếng thơ ấy vì: “Tiếng thơ như tiếng mẹ ru tháng ngày”

Thơ của Nguyễn Du được ví với “tiếng thơ”, “lời non nước”, “lời nghìn thu”, “tiếng thương”, rồi “tiếng mẹ ru”. Đó là những cấp bậc đánh giá hay chăng chính là con đường đi vào bất tử của thơ Nguyễn Du? Cái đích cuối cùng của thơ là “chảy đến lòng người” nên hình ảnh tiếng mẹ ru chính là cách đánh giá cao nhất dành cho một tiếng thơ. Tiếng thơ ấy đã nhập vào nguồn mạch văn hoá, vào đời sống tâm hồn, tình cảm của người dân Việt Nam trở thành dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng bao thế hệ. Tiếng thơ ấy là tình thương của mẹ dành cho người con, là hiện thân của tình mẹ mênh mông. “Thương” là nội dung bản chất, là cội nguồn hay là phương tiện của tiếng thơ? Và hiểu theo cách nào cũng là sự tri âm tuyệt đối của Tố Hữu và Tố Như rồi. Bởi lẽ Nguyễn Du là “nhà nhân đạo lỗi lạc” (Niculin), là trái tim lớn suốt đời mang nặng nỗi thương đời:

“Đau đớn thay phận đàn bà”

Không chỉ thấu hiểu, sẻ chia với cuộc đời, ngợi ca thơ Nguyễn Du, Tố Hữu còn tìm cách lí giải nỗi đau của Nguyễn Du. Ông cho rằng nỗi đau ấy không phải do trời mà chính là do xã hội vạn ác thời Nguyễn Du gây nên:

“Gớm quân Ưng khuyển, ghê bầy Sở Khanh

Cũng loài hổ báo, ruồi xanh

Cũng phường gian ác hôi tanh hại người!”

Chính thằng bán tơ, bè lũ Mã Giám Sinh, Tú Bà, Ưng Khuyển, Sở Khanh mới là những kẻ gieo mầm đau khổ cho Nguyễn Du, Tiểu Thanh, Thuý Kiều. Cho nên muốn thay đổi số phận phải tiêu diệt xã hội vạn ác ấy đi. Và tiếng trống ba hồi gọi quân kết thúc bài thơ là sự giải quyết ấy. Xã hội nay vẫn còn những kẻ ác, nhưng cả dân tộc ra trận để tiêu diệt kẻ thù để cuộc đời nhiều hạnh phúc và tình yêu hơn. Tố Hữu không sa vào tư tưởng bi quan như Nguyễn Du bởi ông là nhà thơ của cách mạng, được luồng gió mới của thời đại thổi mát. Nguyễn Du ơi, xin người hãy yêu lòng. Những cô Kiều, cô Cầm, người mẹ ăn xin...của Người sẽ không còn đau khổ nữa đâu.

Chính sự khác nhau về tiếng nói tri âm ấy đã chuyển hoá thành hình thức nghệ thuật khác nhau. Bài “Độc Tiểu Thanh ký” của Tố Như viết theo thể thơ Đường luật, cô đúc, hàm xúc nhưng phảng phất giọng điệu bi phẫn do rất nhiều thanh trắc, dấu nặng tạo cảm giác trĩu nặng, ngưng đọng. Còn Tố Hữu sử dụng thành công thể lục bát nhẹ nhàng, đằm thắm, trang trọng; hình thức tập Kiều, lẩy Kiểu để chuyển tải giọng điệu lạc quan, hào hứng, say mê.

Như vậy, tiếng nói tri âm giữa người đọc và người viết là điều văn học dân tộc nào, thời đại nào cũng hướng tới. Điều đó đặt ra yêu cầu với nghệ sĩ phải sáng tác từ những cảm xúc chân thành nhất, da diết nhất. Và người đọc hãy sống hết mình với tác phẩm để hiểu được thông điệp thẩm mỹ của tác giả, để chia sẻ cảm thông với tác giả. Mỗi người hãy rung lên khúc đàn Bá Nha - Tử Kì để văn chương mãi tươi đẹp, kỳ diệu.

Tôi muốn đến với Nguyễn Du như đến với một con người suốt đời khắc khoải, da diết với thân phận con người. Nguyễn Du đã từng rỏ bao nhiêu nước mắt khóc thương những người đau khổ ấy, lẽ nào ta lại chẳng một lần khóc cho Nguyễn Du để bi kịch của Người sẽ tan như bóng hình Trương Chi trong chén nước của Mị Nương xưa.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 40

Người ta mỗi khi nhắc tới Kiều đều bảo là hồng nhan bạc phận nhưng thực ra bên cạnh Kiều sẽ luôn có những trang hảo hán rat ay giúp đỡ vì lòng yêu mến nàng Kiều. Một trong số đó chính là Từ Hải một anh hung đầu đội trời chân đạp đất có công giúp Kiều báo ân báo oán, giúp Kiều có một gia đình mà không sợ đên sự đáng ghen của người khác. Thế nhưng Từ Hải cũng đến và ra đi vì sự nghiệp lớn để lại những nỗi buồn thương và mong muốn của Thúy Kiều.

Có thể nói những chàng quân tử như Kim Trọng hay Thúc SInh Từ Hải đến với cuộc đời Kiều sau đó ra đi để lại cho Kiều biết bao nhiêu nỗi buồn. cuộc đời của Kiều vốn phải chịu nhiều đau khổ nhiều tủi nhục những người đàn ông của cuộc đời nàng cũng khiến cho nàng buồn phiền vì pahir chia li từ biệt quá nhiều. qua đoạn trích cũng phần nào hé mở tâm trạng của nàng Kiều khi phải chia tay với Từ Hải lên đường tìm nghiệp lớn.

Chân dung của người anh hùng Từ Hải hiện lên thật oai phong lẫm liệt được chấm phá bởi những nét khỏe khoắn. đó là hình ảnh của một người anh hùng thứ thiệt, đầu đội trời chân đạp đất

“Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”

Từ hải đang đà nồng ấm với nàng Kiều nhưng vì ý chí của người anh hùng, cái bản chất anh hùng trong Từ Hải bỗng trỗi dậy cho nên đã quyết chí phất áo ra đi. thời gian nửa năm không quá là dài những Từ Hải – một con người coi bốn bể là nhà thỏa sức tung hành thì lại không thể nào bó buộc mình trong căn nhà cùng với Thúy Kiều, chàng cũng yêu Kiều lắm nhưng người anh hùng vốn đã như thế không thể nào làm trái lại được. Nguyễn Du thật là tài tình và lột tả đúng bản chất anh hùng của Từ Hải qua từ “thoắt” và “ động

Trước sự quyết định của Từ Hải khi quyết chí lên đường ra đi thì Thúy Kiều thấy buồn trong tâm thảm mình, nàng bất chấp biết bao khó khăn chông gia trước mắt để một lòng xin theo Từ Hải, nàng thật sự đã rất yêu từ Hải

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. ”

Như vậy Thúy Kiều một mực đòi theo Từ Hải là vì tình yêu nhưng cũng là chọn cách giữ đúng tình nghĩa và cái đạo lí của nàng dành cho Từ Hải. bởi một điều rằng ngày xưa người ta thường có câu xuất giá tòng phu và ở đây Kiều cũng coi chàng Từ như một người chòng của mình, nên mong muốn thuận theo chữ tòng ấy mà muốn đi cùng chàng. Kiều vừa mới được hạnh phúc chưa lâu, thì phải rời xa hạnh phúc của mình, không có người đàn ông bên cạnh để bảo vệ san sẻ cho nàng nữa

Trước những gì Kiều bày tỏ thì Từ Hải cũng cho thấy những triết lí và một lòng ra đi vì chí khí của mình trỗi dậy

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi tường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Khi nghe những lời Kiều giãi bày Từ Hải hỏi Kiều sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình, một người anh hùng mà nói ra đi chỉ có một mình với thanh gươm con ngựa mà thôi chứ không thể nào mà lại có thể mang theo người con gái được. Từ hải lại càng không để cho người mình yêu phải chịu cực khổ cùng mình trên dòng đời được. từ đó chàng nói lên nguyện vọng và ý chí của mình là khi nào mà chàng làm nên sự nghiệp thì khi đó chàng mới đón nàng về thành vợ thành chồng và hưởng vinh hoa phú quý. Bây giờ thêm chỉ thấy bận chứ không thể làm nên chuyện lớn được. cuối cùng thì Từ Hải cũng dứt áo dứt khoát ra đi

“Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi. ”

Trước những tình cảm và tình yêu thương mà Kiều dành cho Từ hải cho chúng ta thấy được cũng như bào nhiêu người phụ nữ khác thì Kiều vẫn mong muốn có một cuộc sống ấm no. Nhưng những gì nàng có thể làm được chỉ là nỗi buồn. Từ Hải dứt áo ra đi tìm chí lớn. Những tình cảm và hành động của Từ Hải cũng chỉ là muốn cho sau này cả hai có một cuộc sống vinh hoa và không muốn Kiều chịu chịu khổ nữa.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 41

Nhân vật chính trong tác phẩm Truyện Kiều là Thúy Kiều. Nàng là một người con gái có sắc, nét đẹp, sự quyến rũ của nàng khiến “Hoa ghen đua thắm, liễu hờn kém xanh”, có tài khiến người trong thiên hạ ai nấy đều công nhận “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Tuy nhiên, câu nói “hồng nhan bạc mệnh” như thể để nói cho chính nàng và thân phận nhiều bèo dạt của nàng. Từ quyết định bán mình chuộc cha, cuộc đời Kiều rẽ sang một chương kiếp mới với cuộc sống đằng đẵng kéo theo những ngày đen tối, những ngày tháng chịu tủi cực, bất hạnh. Hai lần bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều tưởng chừng đã hết hy vọng cho cuộc đời mình, nàng chán chường, buồn tủi vô cùng.

Thế rồi, Từ Hải xuất hiện, người anh hùng ấy đã cứu rỗi cuộc đời Kiều, đưa Kiều trở lại những ngày ánh sáng. Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, báo ân báo oán cho Kiều và cho Kiều một danh phận phu nhân người người kính nể. Đoạn trích Truyện Kiều phần bài thơ chí khí anh hùng lớp 10 bắt đầu sau khi Kiều đã báo ân báo oán xong.

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau

Với nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du có nhiều niềm yêu quý, ông khắc họa nhân vật mình với những bản lĩnh, ý chí, cốt cách của một nhân vật anh hùng. Từ Hải là một nhân vật có tinh thần trượng nghĩa, là một người đàn ông quân tử. Việc cứu Kiều thoát khỏi lầu xanh và giúp Kiều báo ân báo oán phần nào khắc họa được những khía cạnh tiêu biểu trong tính cách, chí khí của nhân vật này.

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Trước khi gặp gỡ và nên duyên với Thúy Kiều, Từ Hải cũng vốn là người anh hùng đội trời đạp đất, tung hoành ngang dọc, bốn phương đều là nhà, bởi vậy, dù cho kết đôi cùng Thúy Kiều, có một gia đình hạnh phúc với Thúy Kiều thì Từ Hải cũng không thể ở vậy mãi, chí khí với những ước mơ, hoài bão luôn thúc giục chàng dong ngựa lên đường. Đó cũng chính là vẻ đẹp người anh hùng trong chí khí anh hùng của nhân vật Từ Hải

Câu văn “động lòng bốn phương” và động từ “thoắt” cho thấy đây không phải là những suy nghĩ chợt đến chợt đi, mà đó là chính kiến thành nền tảng tính cách của Từ Hải, nếu không có sự sẵn sàng từ lâu, một người dù mưu trí, dũng cảm đến đâu với sự nghiệp lớn không thể  dễ dàng nói ra từ “thoắt” được.

Thúy Kiều là một người con gái thông minh, tinh tế, thấy Từ Hải như vậy, không nỡ can ngăn, nhưng không phải vì muốn ngày ngày được ỏ bên người chồng mà phần nhiều là vì lo lắng, nàng muốn được cùng đi với Từ Hải, muốn được san sẻ những nỗi vất vả với Từ Hải, muốn được cùng gánh vác chuyện đại sự với Từ Hải. Tuy nhiên, Từ Hải cũng lo cho Thúy Kiều rất nhiều:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Từ Hải lo lắng cho những nỗi vất vả của Thúy Kiều nếu phải theo Từ Hải đi chiến sự. Chàng mong sao Thúy Kiều có thể hiểu cho nỗi lòng của chàng. Từ Hải rất coi trọng Thúy Kiều, nhất ngôn nói nàng là phu nhân, cho thấy Từ Hải yêu thương Kiều rất nhiều.

Tuy nhiên, chàng vẫn là một vị hảo hán với những khẩu khí anh hùng không chút bi lụy, chia tay Thúy Kiều. Trong cảm nhận về đoạn trích chí khí anh hùng ta thấy được, thay vì nói những lời mật ngọt quyến luyến, Từ Hải vẫn bộc bạch những tư tưởng của mình, động viên Thúy Kiều để nàng an tâm. Từ Hải ra đi với tư thế hiên ngang, lẫm liệt vô cùng:

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Ra đi để làm sự nghiệp lớn, bởi vậy, Từ Hải mang cho mình thái độ kiên quyết, quyết tâm vô cùng. Hình tượng người anh hùng của Từ Hải được khắc họa một cách thật rõ nét khi phân tích bài thơ chí khí anh hùng. Từ Hải là một trong những nhân vật anh hùng tiêu biểu trong những tác phẩm của Nguyễn Du. Trong một xã hội với bao điều xấu, điều ác thì Từ Hải chính là biểu tượng của sự phục thiện, của những mong muốn điều tốt đẹp đến với cuộc sống của con người.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 42

Từ Hải có lẽ là nhân vật Nguyễn Du yêu thích nhất trong truyện Kiều. Một danh nhân người Pháp đã từng nói: Ở một nhà văn ước vọng là hiện thân của tính khí thật bị dồn nén không được quyền phát triển. Từ những căn cứ ấy, Từ Hải như một nơi để gưi gắm những mong ước của Nguyễn Du trong đoạn trích Chí Khí Anh Hùng.

Ta thấy rằng, cuộc đời Kiều dường như đã bị bế tắc hoàn toàn khi lần thứ hai rơi vào lầu xanh, đúng lúc đó Từ Hải bỗng xuất hiện và đưa Kiều thoát khỏi cảnh ô nhục. Hai người đã sống hạnh phúc, trai anh hùng gái thuyền quyên. Nhưng Từ Hải không bằng lòng với cuộc sống êm đềm bên cạnh nàng Kiều tài sắc. Từ Hải quyết ra đi thực hiện nghiệp lớn, vì vậy sau nửa năm chung sống chàng đã từ biệt Kiều ra đi. Trong cuộc đời Kiều có rất nhiều cuộc chia tay, song có lẽ trong đoạn trích Chí Khí Anh Hùng tác giả đã tái hiện cảnh Kiều chia tay Từ Hải để chàng ra đi thực hiện nghiệp lớn  lại mang một tâm trạng hoàn toàn khác. Tuy nhiên trong đoạn trích này không tập chung khắc họa cảnh chia tay mà đã khắc họa lên một Từ Hải tầm vóc, quyết tâm đạt đến khát vọng.

Đoạn trích nằm từ câu thơ 2213 tới câu 2230 đoạn trích này là sáng tạo riêng của Nguyễn Du so với cốt truyện của Thanh Tâm tài nhân. Trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân chúng ta không thấy có cảnh tiễn biệt của hai người và những nhớ mong chờ đợi của Thúy Kiều sau đó. Nguyễn Du đã tinh tế thêm đoạn này vào nhằm khắc họa rõ hơn hình ảnh Từ Hải. với Nguyễn Du, Từ Hải là người không có quá khứ nghĩa là không có tung tích của một kẻ tầm thường.

Nhan đề của đoạn trích là Chí Khí Anh Hùng, từng từ ngữ ở trong nhan đề đều mang một ý nghĩa nhất định. Ở đây “chí” có nghĩa là mục đích cao cần hướng tới, “khí” là nghị lực để đạt tới mục đích, “chí khí anh hùng” là lí tưởng, mục đích cao và nghị lực lớn của người anh hùng.

Mở đầu đoạn trích Nguyễn Du đã gợi ra ý chí của Từ Hải quyết đi xa

Nửa năm hương lửa đương hồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Sống với Kiểu được nửa năm, cuộc sống đang rất đằm thắm, nồng nàn thì Từ Hải muốn ra đi thực hiện nghiệp lớn, tâm chí của Từ Hải luôn suy nghĩ về những việc lớn lao, vì thế việc động lòng bốn phương là rất hợp lý. Từ “bốn phương” chỉ công việc và chí lớn của người anh hùng, nam nhi thời xưa. “Động lòng” nhán mạnh việc Từ Hải nung nấu những ý chí lớn lao, ý chí đó đã có sẵn trong con người của chàng, nó chỉ tạm lui đi trong thời gian sống cùng với Thúy Kiều giờ là lúc chàng thể hiện ý chí này. Từ “thoắt” diễn tả sự mau chóng trong việc thay đổi tâm trạng, dáng vẻ của Từ Hải, dáng vể của Từ Hải ở đây là một dáng vẻ phi thường, vì thế mà Nguyễn Du đã gọi Từ Hải là trượng phu đó là cách nói thể hiện sự trân trọng với các vị anh hùng, nó dựng lên dáng vẻ bệ vệ, oai nghiêm của các vị tướng võ. Không chỉ vậy, dáng vẻ và hành động của Từ Hải còn được tái hiệ trong hai câu thơ.

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong

Câu thơ miêu tả hành động nhìn ra xa, đồng thời khắc họa tính phóng khoáng của Từ Hải, Nguyễn Du đã xâ dựng hình ảnh từ Hải song song sánh ngang với hình ảnh trời đất, nhắc đến Từ Hải ta thấy cả hình ảnh cao rộng của trời đất vũ trụ, những từ láy, từ biểu cảm chỉ độ rộng, độ cao càng khắc họa rõ hơn tư thế của Từ Hải. Cái nhìn của chàng không chỉ là cái nhìn, cái trông bình thường mà là “trông vời” cái nhìn ẩn chứa sự sáng suốt và suy nghĩ phi thường. Hơn thế, ở đây chúng ta thấy hình ảnh Từ Hải một mình ra đi thực hiện ý nguyện của mình, việc xây dựng Từ Hải độc lập một mình không làm cho chân dung của chàng trở nên đơn độc mà càng cho thấy sự dũng mãnh của chàng. Từ Hải không bao giờ chần chừ, do dự, suy tính “thoắt đã động lòng bốn phương” là lên đường thẳng tăm ngay. Đó là dáng vẻ đầy phóng khoáng, hành động đầy sự dứt khoát, nhanh nhẹn.

Dáng vẻ, hành động ấy còn được tái hiện qua hai câu thơ cuối cùng.

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi

Tác gải đã để Từ Hải thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng tong, rồi mới để Kiều nói lời xin đi theo. Thế nhưng khi Kiều nói như vậy thì Từ Hải đã quyết định chắc chắn không lay chuyển, dặn dò xong Kiều Từ Hải ra đi ngay. Từ “quyết” và “dứt” ở đây cùng xuất hiện trong một câu thơ cho thấy sự quyết đoán của Từ Hải. Qua tất cả những câu thơ trên ta thấy một Từ Hải đầy phóng khoáng, kì vĩ, dứt khoát, nhanh nhẹn và oai nghiêm.

Nhưng trong đoạn trích này, tác giả không chỉ tái hiện Từ Hải qua dáng vẻ hành động mà còn qua lời nói, cụ thể là những lời nói với Kiều.

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình

Khi mà Kiều muốn xin chàng cho đi cùng. Điều này cho thấy Từ Hải có sự phân biệt giữa sự nghiệp và tình cảm một cách rạch ròi. Từ Hải ra đi không lưu luyến, bịn rịn tình cảm như thường tháy ở mọi người. Dù yêu thương Thúy Kiều coi nàng là tâm phúc tương chi song chàng quyết tâm ra đi thực hiện sự nghiệp một mình. Câu hỏi “sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình” khẳng định chàng là một con người có ý chí vững chắc, rất rạch ròi. Hơn những thế, Từ Hải là con người có lý tưởng công danh lớn lao, điều đó được thể hiện qua lời hứa với Thúy Kiều, những khát vọng của chàng đầy phi thường, đó là những việc phải có được.

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Từ đó ta thấy tác giả đã tái hiện Từ Hải là con người có lý tưởng rất lớn. Từ “mặt phi thường” ở đây dùng rất chúng, nó cho thấy sự tự tin kiêu hãnh của Từ Hải. Đây không phải là lời riêng của Từ Hải mà nó ẩn dấu sau đó còn có cái nhìn trân trọng và tự hào của Nguyễn Du. Bên cạnh đấy ta còn thấy Từ Hải là con người hẹn ước rất chắc chắn, chàng hẹn khi nào thành công sẽ cưới Kiều, đó là khi nào chàng đã nói rất rõ chứ chẳng hề mông lung.

Đành lòng chờ đó ít lâu

Chầy chăng là một năm sau vội gì

Đó là một năm và đúng năm sau thì Từ Hải đã qua trở lại cưới Kiều, kèm theo sự nghiệp làm cho ngay cả triều đình cũng phải e sợ. Ràng ở đây Từ Hải đã xác định rõ mục tiêu và thời gian vẽ ra một con đường cụ thể cho mình, do vậy những gì chàng nói đều chắc như đinh đóng cột. Chúng ta thấy Từ Hải là người có lí tưởng công danh lớn, rạch ròi giữa sự nghiệp và tình cảm, có cách phấn đấu cụ thể chứ không chung chung.

Từ đây chúng ta thấy với chí khí anh hùng lớn lao, chắc chắn, Từ Hải đã đem đến cho đời Kiều không phải chỉ là rung động chớm hé của buoir yêu đầu, không phải cuộc sống bình thường mà đã thức dậy ở Kiều những điều người khác không thấy được, đó là khát vọng về công bằng, về chính nghĩa. Trong Truyện Kiều, Từ Hải xuất hiện như một tia chớp cùng tiếng sấm dầm vang cả đất trời. Chàng là một ánh sáng lóe lên trong xã hội đên tối bất công và ngay cả trong cuộc đời của Kiều. Từ Hải hiện ra đột ngột rồi nhanh chóng biến mất, nhưng ta không hề có cảm giác đó là ánh sao băng, chàng đã để lại ấn tượng khá mạnh mẽ nó vụt lên trong tâm trí mọi người.

Ta thấy Kiều và Từ Hải là hai hình ảnh gặp gỡ nhau nhưng lại hoàn toàn khác biệt, nếu Kiều và mọi người là những nạn nhân của xã hội đương thời, thì trái lại Từ Hải thong rong đi lại đó đây, như mây bay, gió lượn tưởng chừng như không bị ràng buộc vào thứ gì.

Nguyễn Du đã miêu tả nhân vật từ Hải của mình bằng những từ ngữ trang trọng “trượng phu”, “mặt phi thường”  đó là những hình ảnh ước lệ mang tính vũ trụ, “động lòng bốn phương”…  Nguyễn Du đã miêu tả Từ Hải chủ yếu bằng hành động và lời nói, rất ít đi vào sâu trong nội tâm Từ Hải. Nguyễn Du chủ yếu sử dụng bút pháp lí tưởng hóa để nâng cao tầm vóc của Từ Hải.

Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ đẹp nhất để miêu tả Từ Hải, chàng là bóng dang của những người anh hùng nông dân khởi nghĩa. Nguyễn Du đã dành cho Từ Hải một tình cảm yêu quý, cảm phục chàng, ông cũng đã dồn nén giác mơ về tự do và công lí của mình trong con người Từ Hải. Cũng từ đây Nguyễn Du thể hiện quan điểm của mình về người anh hùng trong trời đất, người anh hùng phải làm được những việc lớn lao, dám nghĩ, dám làm, có dáng vẻ phóng khoáng, dứt khoát, oai nghiêm.

Qua đoạn trích ta thấy hiện ra một Từ Hải đầy phóng khoáng, dứt khoát, nhanh ẹn và oai nghiêm, có lí tưởng công danh lớn, rạch tời giữa sự nghiệp và tình cảm. Nguyễn Du đã sử dụng cách miêu tả lý tưởng hóa để miêu tả tầm vóc của Từ Hải, chàng là hiện thân cho giấc mơ tự do, công lí của Nguyễn Du.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 43

Truyện Kiều là một kiệt tác ghi dấu tên tuổi của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Mặc dù là tác phẩm dựa trên cốt truyện của Trung Quốc nhưng Nguyễn Du đã có sự sáng tạo và thêm vào đó nhiều nét văn hóa của người Việt Nam. Bài thơ là một câu chuyện dài kể về cuộc đời của nàng Kiều, một người con gái đẹp, tài năng nhưng chịu nhiều bất công. Bài thơ được trích nhiều đoạn để giảng dạy trong chương trình phổ thông. Đoạn trích Chí khí anh hùng cũng là một trong những đoạn trích độc đáo, nêu bật được tài năng thiên bẩm của Nguyễn Du.

Trong tác phẩm Truyện Kiều, nhà thơ Nguyễn Du đã dành nhiều đoạn thơ để miêu tả ngoại hình cũng như tính cách của các nhân vật trong truyện. Đoạn thơ Chí khí anh hùng cũng là một đoạn trích như vậy. Ở đoạn thơ này, ông đã dành để miêu tả Từ Hải. Từ Hải là người anh hùng lí tưởng, là hình mẫu đàn ông mà Nguyễn Du muốn gửi gắm những phẩm chất tốt đẹp nhất. Nếu như trong Kim Vân Kiều truyện nhân vật Từ Hải xuất hiện với hình ảnh là một tên tướng cướp thì trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã xóa bỏ hình ảnh đó. Trong tác phẩm của ông, Từ Hải xuất hiện là một vị tướng tài năng đức độ phi thường. Nhân vật Từ Hải dưới ngòi bút của Nguyễn Du đã trở thành hình tượng có tính ước lệ.

Trong 15 năm lưu lạc của Thúy Kiều, những ngày tháng gặp Từ Hải có lẽ là những ngày tháng tươi sáng nhất. Từ Hải xuất hiện như là một vị cứu tinh cứu vớt cuộc đời tăm tối của Thúy Kiều nơi chốn lầu xanh. Tuy nhiên, tình yêu không phải thứ mà Từ Hải đặt lên hàng đầu. Đối với chàng, sự nghiệp mới là thứ quan trọng  hơn cả. Chính vì thế mà mối tình của Từ Hải và Thúy Kiều chỉ kéo dài được nửa năm:

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong

Câu thơ mở đầu giúp người đọc nhận ra được sự mặn nồng trong mối tình của Từ Hải và Thúy Kiều. Mặc dù mặn nồng như vậy nhưng nó chỉ kéo dài có nửa thăm vì Từ Hải đã sớm “động lòng bốn phương”. Hai chữ động lòng ở đây không phải ý nói phải lòng những người con gái khác mà là hình ảnh ước lệ, tượng trưng cho ý chí muốn lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Những hình ảnh ước lệ như “trời bể mênh mang” tạo nên một tầm vóc cao lớn và vĩ đại của Từ Hải. Tình yêu kia dù có mặn nồng đến đâu cũng chẳng thể nào cản được bước chân của chàng. Cái phong thái ung dung của chàng trên con đường gây dựng nên sự nghiệp lớn ấy được thể hiện rõ qua câu thơ “Thanh gươm yên ngựa trên đường thẳng rong”.

Nghĩ đến cảnh người chồng của mình một mình trên dặm trường, Thúy Kiều không cam lòng. Từ Hải không chỉ là chồng mà còn là ân nhân cứu vớt cuộc đời nàng. Chính vì vậy mà Thúy Kiều có một mong muốn vô cùng giản dị đó là được đi theo để hầu hạ và chăm sóc cho chồng:

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi

Tư tưởng của Thúy Kiều quả đúng với đạo lý của người xưa khi cho rằng “xuất giá tòng phu” nghĩa là người phụ nữ lấy chồng rồi thì phải theo chồng, cùng chồng gánh vác mọi chuyện. Thế nhưng, ý nguyện của Thúy Kiều lại không được Từ Hải chấp thuận:

Từ rằng: Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Ở đây, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy Từ Hải là một người có tư tưởng mới mẻ. Chàng trách Thúy Kiều nhưng cũng là một lời nhắc nhở nàng hãy có những suy nghĩ tích cực hơn. Vì sự nghiệp lớn lao của chồng hãy xem nhẹ chuyện tình cảm. Những câu thơ tiếp theo Từ Hải vừa trấn an, vừa hứa hẹn vừa khẳng định với Thúy Kiều rằng chàng ra đi nhất định sẽ lập lên sự nghiệp lớn, sẽ nắm trong tay “mười vạn tinh bình”. Khi ấy, chàng sẽ quay trở về đón Kiều về nghi gia. Câu thơ cũng tỏ rõ ý chí quyết tâm của Từ Hải.

Cái chí khí anh hùng của Từ Hải còn được thể hiện qua việc lo lắng cho Kiều. Chàng sợ nàng theo chàng sẽ phải chịu sương gió dặm trường, đắng cay và khổ cực:

Bằng ngay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận, biết là đi đâu

Nói là “càng thêm bận” nhưng thực chất đó là một sự lo lắng bởi Từ Hải đi chuyến này bốn bể xung quanh không có nơi nào là nhà, cuộc sống nay đây mai đó chẳng biết là đi đâu. Chàng hẹn rằng 1 năm, chàng nhất định sẽ quay trở về. Cái hẹn cho thấy sự tự tin vào bản thân của Từ Hải:

Đành lòng chờ đó ít lâu

Chầy chăng là một năm sau vội gì

Thay vì những lời chia tay đầy tình cảm, sướt mướt như thường thấy, lời chia tay của Từ Hải chỉ toàn là lời động viên và hứa hẹn. Càng quyến luyến bao nhiêu lại càng quyết tâm bấy nhiêu:

Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi

Động từ “dứt áo” càng cho thấy rõ hơn sự quyết tâm của Từ Hải. Chàng ra đi với cái quyết tâm phải có thành công mới quay trở về.

Đoạn trích Chí khí anh hùng đã thể hiện tài năng của Nguyễn Du trong việc xây dựng hình tượng nhân vật. Đọc đoạn trích, ta càng thêm yêu mến nhân vật này và tưởng như rằng quanh đâu đây của cuộc sống cũng sẽ có những người giống như chàng.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 44

Sau khi cứu được Kiều thoát khỏi lầu xanh, Từ Hải quyết chí ra đi lập sự nghiệp anh hùng. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” là cảnh chia tay giữa Thúy Kiều và Từ Hải.

Một lần nữa rơi vào lầu xanh, Kiều tuyệt vọng, chán chường:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Từ Hải xuất hiện và ngay từ lần đầu gặp mặt, Kiều đã có dự cảm đây sẽ là người ân nhân cứu mình sau này. Nàng khiêm nhường:

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau

Nhận ra phẩm hạnh của Kiều, Từ Hải – vốn là một đấng nam nhi “đầu đội trời, chân đạp đất” đã giúp nàng thoát khỏi vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh. Lúc này, Kiều nhận ra Từ Hải là một anh hùng hảo hán. Họ đến với nhau và trở thành tri kỉ. Dẫu cuộc sống hạnh phúc ấm êm, nhưng không vì thế mà Từ quên mất chí hướng đời mình. Từ Hả khao khát được thỏa chí vẫy vùng:

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Không chút do dự, Từ quyết đi theo con đường ình đã chọn. Kiều cũng không hề ngăn cản, mà chỉ xin được cùng đi:

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.

Lời nói của Kiều cũng đầy quyết đoán như ý chí vững vàng không gì lay chuyển được của Từ. Nàng vừa muốn làm tròn đạo nghĩa vợ chồng, vừa muốn cùng chồng san sẻ gian khó. Không bị tình cảm chi phối, Từ một mực:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Từ Hải muốn Kiều vượt lên những thiếu thốn tình cảm bình thường mà trông đợi những chiến công hiển hách trong sự nghiệp của mình. Từ tin tưởng mình sẽ làm nên nghiệp lớn, đem lại vẻ vang cho Kiều. Từ có một niềm tin sắt đá, ý chí vững vàng đúng như một người anh hùng. Cuộc chia li của Từ và Kiều không đãm nước mắt, mà nó mang một vẻ hào hùng

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Chia tay đầy dứt khoát , niềm tin cao độ cùng với cảnh ra đi oai hùng đã bộ lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Từ Hải ra đi không chỉ đơn thuần là để thỏa chí nam nhi, mà còn là để thực hiện công lý, giang rộng vòng tay đón lấy những kiếp người đau khổ, bị vùi dập như Kiều.

Đoạn trích càng làm tô đậm hình tượng Từ Hải – một con người phi thường ôm những hoài bão lớn của cuộc đời. Từ Hải chính là hiện thân của khát vọng công lý, công bằng của những người dân bị áp bức, chà đạp dưới xã hội phong kiến đương thời.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 45

Cho đến giờ phút này, không ai có thể phủ nhận được tài năng của Nguyễn Du. Thông qua tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ thể hiện được tài năng thiêm bẩm mà còn thể hiện được tấm lòng của mình thông qua cách mà ông miêu tả và nhìn nhận về nhân vật của mình. Hướng đến một nhân vật anh hùng hoàn mĩ, Nguyễn Du đã biến một tên tướng cướp trong Đoạn trường tân thanh thành một người anh hùng khí phách hơn người, một người râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng thân mười thước cao, đó chính là Từ Hải. Qua đoạn trích Chí khí anh hùng, chúng ta có thể thấy rõ được cái khí phách hiên ngang, đầu đội trời chân đạp đất của nhân vật này.

Như chúng ta đã biết, Thúy Kiều sau khi bị rơi vào chốn lầu xanh lần thứ hai thì tâm trạng của nàng vô cùng chán nản mà rằng:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh

Giữa lúc ấy, Từ Hải xuất hiện như một người anh hùng cứu vớt cho cuộc đời tăm tối của Thúy Kiều. Từ đó, Từ Hải trở thành tri ân, tri kỉ của Kiều. Mặc dù vị trí của Thúy Kiều lúc này là một gái lầu xanh nhưng Từ Hải đã sớm nhận ra những phẩm chất cao quý bên trong con người nàng. Cũng chính từ lần đầu gặp gỡ như định mệnh ấy, Kiều đã ngay lập tức nhận ra chỉ có Từ Hải mới có thể giúp nàng giải được nỗi oan tình:

Rộng thương cỏ nội hoa hèn

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau

Ở thời điểm hai người gặp gỡ, Thúy Kiều và Từ Hải đều thuộc tầng lớp bị xã hội phong kiến khinh rẻ, xa lánh. Nhưng họ đã đến với nhau tâm đầu ý hợp và trở thành tri kỉ. Trong mắt của Thúy Kiều, Từ Hải là một người anh hùng còn trong mắt của Từ Hải, Thúy Kiều cũng là một người phụ nữ thanh cao tài sắc vẹn toàn. Chính vì vậy nên Từ Hải mới đem lòng yêu Thúy Kiều. Đó là một tình yêu sâu đậm thế nhưng với con người này lý trí vẫn luôn chiến thắng cảm xúc. Tình yêu có lớn nhưng không đủ để giữ chân Từ Hải. Trong con người này luôn có một khát vọng được lập công danh, được làm nên sự nghiệp lớn.

Đối với Từ Hải, Nguyễn Du luôn dành một thái độ trân trọng. Mọi hành động, cử chỉ, lời nói của Từ Hải đều cho thấy đây là một con người có cốt cách anh hùng. Chưa một giây phút nào chàng nguôi ngoai chí lớn. Cuộc hôn nhân nửa năm với Thúy Kiều dường như là một chạm dừng chân để Từ Hải nghỉ ngơi trước khi bước vào giai đoạn quyết định của sự nghiệp. Chính bởi lẽ đó nên sau nửa năm, chàng quyết định dứt khoát lên đường, tiếp tục con đường sự nghiệp vẫn còn đang hồi dang dở. Từ Hải đã nói với Thúy Kiều những lời chân tình:

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong

Mặc dù được miêu tả là con người đa tình (nếu không thì đã không có sự động lòng trước Thúy Kiều) nhưng trên hết Từ Hải vẫn là một người có chí khí. Chàng đã đặt ra mục tiêu cao nhất cho mình đó chính là lập công danh. Chính vì vậy, chàng sẵn sàng đánh đổi mọi thứ, kể cả tình yêu để đạt được mục đích đã đề ra. Trước khi gặp Thúy Kiều, Từ Hải vốn đã là một người anh hùng hảo hán. Sau khi kết duyên với Thúy Kiều, cái khát khao làm nên sự nghiệp lớn vẫn không thuyên giảm trong con người này. Chính vì vậy mà chẳng gì có thể cản được bước chân của chàng.

Từ Hải là một con người có chí khí lớn, thế cho nên Nguyễn Du mới sử dụng từ Trượng phu để nói về nhân vật của mình. Và đây cũng là nhân vật duy nhất được Nguyễn Du dùng từ trượng phu để miêu tả. Tính từ thoắt cho thấy một hành động diễn ra nhanh chóng. Quyết định đưa ra chỉ trong tích tắc và không một chút do dự càng làm bộc lộ rõ cái khí chất anh hùng của Từ Hải.

Động lòng bốn phương ở đây ý nói Từ Hải đã mơ tưởng về cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Với một người ý chí lớn như vậy thì quả là chẳng gì có thể giữ chân được chàng ở một chỗ. Sau quyết định nhanh chóng ấy, Từ Hải cũng chẳng cần thêm thời gian để chuẩn bị bởi vì chỉ cần một con tuấn mã và một thanh gươm trên tay là chàng hối hả lên đường.

Cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều và Từ Hải diễn ra hơi đặc biệt một chút. Người lên đường là Từ Hải thì đã ở trong tư thế sẵn sàng. Người ở lại là Thúy Kiều thì dường như vẫn chưa nắm bắt hết được những gì đang xảy ra. Tuy nhiên, với vai trò là một người vợ, khi chồng mình đã quyết chí như vậy thì Thúy Kiều cũng không cản ngăn. Nàng chỉ xin để được đi theo hầu, được nâng khăn sửa túi, được cùng với chồng gánh vác nhọc nhằn:

Nàng rằng phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi

Vậy nhưng, Từ Hải đã chối từ mong muốn của Thúy Kiều:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình

Ở đây, Từ Hải đã nhắn nhủ với Thúy Kiều rằng dường như nàng vẫn chưa hiểu được hết tâm tư của mình. Là vợ của một bậc trượng phu mà vẫn không thoát khỏi cái thói nữ nhi thường tình. Trong câu nói của Từ Hải có một sự dứt khoát khiến cho Thúy Kiều không thể nói thêm lời nào được nữa. Đúng là người anh hùng thì chia tay cũng khác người thường. Hoàn toàn không hề có sự quyến luyến hay bịn rịn diễn ra ở đây. Nếu có thì có lẽ chỉ xuất phát từ phía Thúy Kiều mà thôi.

Tuy nhiên, chàng cũng tỏ ra là một người thấu hiểu tâm tình của phụ nữ. Sợ Thúy Kiều ở nhà lo lắng, Từ Hải đã trấn an bằng cách:

Bao giờ mườn vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Vậy là đã rõ mục đích của Từ Hải đó là làm nên thành công. Bao giờ thành công, cầm đầu mười vạn tinh binh thì khi ấy chàng sẽ rước nàng nghi gia với chiêng trống nhộn nhịp rợp dương chứ không phải thường.

Ẩn sâu bên trong khí chất phi thường ấy là một tình thương sâu đậm dành cho Thúy Kiều. Từ Hải sợ rằng để Kiều theo cùng sẽ làm khổ nàng. Bởi vì chặng đường sắp tới đây, bốn bể không có nơi nào là nhà thì chỉ làm khổ Thúy Kiều mà thôi:

Bằng nay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu

Chầy chăng là một năm sau vội gì

Lời hẹn 1 năm có lẽ đã giúp Thúy Kiều thêm vững tâm hơn vào việc chờ đợi. Điều này cũng thể hiện sự tự tin của Từ Hải vào tương lai tươi sáng của mình. Lời chia ly cũng như một lời khẳng định và một lời ước hẹn. Rằng hãy tin vào chiến thắng và chàng sẽ mang nó trở về sớm thôi. Quyết tâm của Từ Hải được đẩy lên cao độ ở hai câu thơ cuối đoạn trích:

Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi

Vậy là Từ Hải đã dứt áo ra đi. Hình ảnh của Từ Hải thể hiện sự mạnh mẽ ước mơ về một cuộc sống tự do và công lý. Bằng việc giúp Kiều báo ân báo oán, Từ Hải trở thành biểu tượng của công lý, của lẽ phải. Chàng ra đi là để chống lại những oan ức trong xã hội, để cho xã hội không có một Thúy Kiều thứ hai.

Từ Hải qua những câu thơ của Nguyễn Du không còn là một nhân vật trong thơ nữa mà trở thành người anh hùng lý tưởng mà cả xã hội hướng tới.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 46

“Truyện Kiều” là một kiệt tác văn học của Việt Nam. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” trong truyện cười là một đoạn trích hay trong “Truyện Kiều” đã nói về Từ Hải. Từ Hải hiện lên là một hình tượng nhân vật lí tưởng dường như cũng thể hiện ước mơ lãng mạn, một con người có phẩm chất phi thương mà Nguyễn Du gửi gắm

Đoạn trích đang nói đoạn khi Thúy Kiều đã sống trong tâm trạng thực sự chán chường đến tuyệt vọng thể hiện qua câu thơ:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Lúc đang chán chường như thế thì đúng lúc Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Nhân vật Từ Hải cũng đã tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với một người tri âm, tri kỉ. Thế rồi Thúy Kiều như đang trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải thật tinh tường để có thể nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều. Bên cạnh đó thì với một con mắt tinh đời thì ngay từ lần gặp đầu tiên thì Thúy Kiều cũng đã thầm khẳng định Từ Hải chính là một người anh hùng:

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau

Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm "giặc", đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất và họ cũng đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Nhân vật Từ Hải đánh giá Kiều rất cao thế rồi cũng chính Kiều cũng đã nhận thấy được không thể giữ được chân của Từ Hải nữa bởi Từ Hải còn phải tạo dựng sự nghiệp. Thông qua đoạn trích này người ta cũng nhận thấy được chí khí anh hùng của Từ Hải như cũng thể hiệ rất rõ nét.

Đại thi hào Nguyễn Du dường như cũng luôn luôn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục. Ở nhân vật Từ Hải thì nhất cứ nhất động của chàng dường như cũng đã đều bộc lộ được cốt cách của người anh hùng. Có thể nhận được ý chí của Từ Hải cũng đã thấy được tạo dựng sự nghiệp và cuộc hôn nhân của Từ Hải cùng với Thúy Kiều như chỉ là mây bay, diễn ra vô cùng nhanh chóng và cũng kết thúc nhanh ngay cả khi họ đang cảm thấy hạnh phúc. Khi sự nghiệp của Từ Hải vẫn còn dang dở thì Từ Hải lại tiếp tục:

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Từ Hải như một nhân vật được Nguyễn Du xây dựng cũng như miêu tả là con người đa tình, nhưng đầu tiên ta cũng cảm nhận được Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Có lẽ rằng “chí” ở đây cũng được hiểu là mục đích cao cả hướng tới. Còn từ “khí” nó cũng lại là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này Từ Hải dường như luôn luôn khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên vậy và chắc chắn rằng không có gì có thể kiềm chế nổi được.

Phân tích đoạn trích Chí Khí Anh Hùng 47

Đoạn trích “Thúy Kiều gặp Từ Hải” được trích ra từ Truyện Kiều của Nguyễn Du đã ghi lại cuộc gặp gỡ và nên tình duyên của Kiều và Từ Hải, cuộc gặp gỡ ấy đầy màu sắc lãng mạn, ca ngợi Từ Hải là một người anh hùng phi thường, một tài tử đa tình và một đại hào hiệp.

    Từ Hải xuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu đội trời chân đạp đất. Khi cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, là vì việc nghĩa, là vì trọng Kiều như một tri kỉ. Nhưng khi kết duyên cùng Kiều, Từ Hải thực sự là một người đa tình. Song dẫu đa tình, Từ không quên mình là một tráng sĩ. Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa đất trời cao rộng. Từ Hải là một bậc anh hùng có chí lớn và có nghị lực để đạt được mục đích cao đẹp của bản thân. Chính vì thế, tuy khi đang sống với Kiều những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh phúc nhưng Từ không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc, chợt "động lòng bốn phương", thế là toàn bộ tâm trí hướng về "trời bể mênh mang", với "thanh gươm yên ngựa" lên đường đi thẳng.

     Không gian trong hai câu thứ ba và thứ tư (trời bể mênh mang, con đường thẳng) đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải. Lời Từ Hải nói với Kiều lúc chia tay thể hiện rõ nét tính cách nhân vật. Thứ nhất, Từ Hải là người có chí khí phi thường. Khi chia tay, thấy Kiều nói:

Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".

Từ Hải đã đáp lại rằng:

Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình".

     Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều. Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng. Chàng muốn lập công, có được sự nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều về nhà chồng trong danh dự:

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia".

    Quả là lời chia biệt của một người anh hùng có chí lớn, không bịn rịn một cách yếu đuối như Thúc Sinh khi chia tay Kiều. Sự nghiệp anh hùng đối với Từ Hải là ý nghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có làm được như vậy mới xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của người đẹp.

     Thứ hai, Từ Hải là người rất tự tin trong cuộc sống:

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!

     Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện Từ là người rất tự tin trong cuộc sống. Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công trở về với cả một cơ đồ lớn.

     Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn từ Hán Việt và ngôn ngữ bình dân, dùng nhiều hình ảnh ước lệ và sử dụng điển cố, điển tích. Đặc biệt, nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du tái tạo theo khuynh hướng lí tưởng hoá. Mọi ngôn từ, hình ảnh và cách miêu tả, Nguyễn Du đều sử dụng rất phù hợp với khuynh hướng này.

     Về từ ngữ, tác giả dùng từ trượng phu, đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này và chỉ dùng cho nhân vật Từ Hải. Trượng phu nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn. Thứ hai là từ thoắt trong cặp câu:

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động long bốn phương.

     Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng ấm, người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng "thoắt" nhớ đến mục đích, chí hướng của đời mình. Tất nhiên chí khí đó phù hợp bản chất của Từ, thêm nữa, Từ nghĩ thực hiện được chí lớn thì xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thuý Kiều dành cho mình. Cụm từ động lòng bốn phương theo Tản Đà là "động bụng nghĩ đến bốn phương" cho thấy Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Hai chữ dứt áo trong "Quyết lời dứt áo ra đi" thể hiện được phong cách mạnh mẽ, phi thường của đấng trượng phu trong lúc chia biệt.


Về lời miêu tả và ngôn ngữ đối thoại cũng có những nét đặc biệt. Kiều biết Từ Hải ra đi trong tình cảnh "bốn bể không nhà" nhưng vẫn nguyện đi theo. Chữ "tòng" không chỉ giản đơn như trong sách vở của Nho giáo rằng phận nữ nhi phải "xuất giá tòng phu" mà còn bao hàm ý thức sẻ chia nhiệm vụ, đồng lòng tiếp sức cho Từ khi Từ gặp khó khăn trong cuộc sống. Từ Hải nói rằng sao Kiều chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình không có ý chê Kiều nặng nề mà chỉ là mong mỏi Kiều cứng rắn hơn để làm vợ một người anh hùng. Từ nói ngày về sẽ có 10 vạn tinh binh, Kiều tin tưởng Từ Hải. Điều đó càng chứng tỏ hai người quả là tâm đầu ý hợp, tri kỉ, tri âm.

     Đoạn trích ngợi ca chí khí anh hùng của nhân vật Từ Hải và khẳng định lại một lần nữa tình cảm của Thuý Kiều và Từ Hải là tình tri kỉ, tri âm chứ không chỉ đơn thuần là tình nghĩa vợ chồng.