Phân tích cảm nhận về tình yêu trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao 1
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao xưa và nay vẫn được xem là một truyện ngắn tiêu biểu, xuất sắc của văn học sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Tác phẩm được chú ý khai thác ở các khía cạnh tố cáo xã hội phi nhân tính, sự áp bức của giai cấp thống trị, số phận con người bị tha hoá... nhiều hơn là nhìn từ góc độ tình yêu.
Toàn bộ nội dung, kết cấu tác phẩm gắn liền với cuộc đời của nhân vật chính là Chí Phèo, có một chi tiết đáng lưu ý là: Các biến cố làm nên những đổi thay to lớn, những bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo cũng như trong kết cấu tác phẩm lại đến từ hình bóng những người đàn bà. Tuy nhiên có bóng dáng đẩy Chí Phèo vào chốn tăm tối những cũng có gương mặt tuy xấu xí nhưng lại đưa Chí Phèo ra nơi ánh sáng của cõi minh triết.
Cuộc đời Chí Phèo đột nhiên chuyển hướng do việc tiếp xúc miễn cưỡng với bà Ba Bá Kiến, một người "đàn bà phốp pháp, má hây hây", để từ một anh nông dân hiền lành chất phác trở thành một tên tù, một tên lưu manh mất hết nhân tính, mất luôn cả ý thức về mình lẫn ý thức làm người. Tuy nhiên, lần gặp gỡ với Thị Nở lại mang đến một hệ quả ngược, nó làm đảo lộn tất cả. Chính cuộc gặp gỡ với Thị Nở chứ không phải một biến cố xã hội nào đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời Chí Phèo và quyết định số phận của cả Chí Phèo lẫn Bá Kiến.
Chút tình cảm tưởng chừng rất vu vơ giữa Chí Phèo và Thị Nở ấy đã tác động, chi phối một cách sâu sắc đến quan hệ giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Từ đó có thể thấy không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo bắt đầu từ buổi tối trước khi gặp Thị Nở, cái buổi tối mà hắn "vừa đi vừa chửi", để rồi từ đó mối quan hệ dây mơ rễ má với Bá Kiến, những khúc, đoạn trong cuộc đời Chí Phèo như một cuốn phim quay chậm được tái hiện. Tất cả những chi tiết này có tính chất như một đường truyền, một lời đề dẫn hay như những hoạ tiết có tính chất phông nền để làm nổi bật tác động của tình yêu, tình người đến cuộc đời Chí qua nhân vật Thị Nở.
Một trong những đặc trưng phong cách của Nam Cao là sử dụng những yếu tố trái khoáy, ngược nhau để mô tả hiện thực. Tên của tác phẩm cũng thường hàm chứa một điều trái khoáy như Lang rận, Chí Phèo, Tình già... Bản thân sự tồn tại nhếch nhác của nhân vật Lang rận cùng với vẻ bề ngoài bẩn thỉu là một sự trái ngược, mâu thuẫn với nghề nghiệp, vị thế xã hội mà nhân vật mang vác. Tất cả những đối nghịch đó được thâu tóm trong một cái tên: Lang rận, và được khắc sâu hơn trong sự tương phản giữa vẻ bên ngoài nhếch nhác, thấp kém với đời sống tâm hồn cao đẹp. Hay trong truyện Nửa đêm, người cha có tên là Thiên Lôi nhưng lại đặt tên con là Đức - như hai mặt của một quá trình biện chứng nhân quả...v.v.
Từ những chi tiết đó có thể hiểu tại sao Nam Cao lại lạ hoá câu chuyện tình Chí Phèo - Thị Nở như vậy. Không lãng mạn thơ mộng như các câu chuyện tình của Tự Lực Văn Đoàn, buổi tối gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở bắt đầu bằng hình ảnh Chí Phèo "vừa đi vừa chửi... chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo", cuộc đời hắn chìm trong những cơn say.
Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để "nhớ rằng hắn có ở đời". Tức trong hắn chỉ tồn tại không phải ý thức mà là một khối u u mê mê, tối tăm đặc quánh, vô cảm, vô thức. Ngay cả sự hiện hữu của bản thân, hắn cũng không nhận thức được, hắn chỉ kinh ngạc rồi cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi khi phát hiện ra mình dưới dạng một cái bóng trên đường trăng nhễ nhại, méo mó, xệch xạc. Chính hình ảnh này hướng đến sự ẩn dụ về một dạng tồn tại bất toàn của con người trong xã hội cũ. Con người không được sống thực là chính mình mà chỉ là những cái bóng, nhưng cũng không được là cái bóng của chính mình mà là bóng của giai cấp thống trị nên thành "cái vật xệch xạc, một cái gì đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại". Với cái bóng đó, với ý thức hiện hữu về sự méo mó của chính mình, Chí Phèo đến với Thị Nở. Đó là cuộc gặp gỡ tất yếu là hệ quả từ hai cuộc đời trống rỗng và bất toàn của hai con người.
Thị Nở trước khi gặp Chí Phèo vốn chỉ là một thực thể không có đường nét cá tính gì đặc biệt mà còn khùng khùng dại dại, còn dung nhan là những đường nét tự nhiên, thô mộc đến mức dị hợm: Trên một khuôn mặt ngắn ngủn, có cái mũi "vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành" và một đôi môi "cũng cố to cho không thua cái mũi" hơn nữa, lại dày và có "màu thịt trâu xám ngoách". Toàn bộ "nhan sắc" của Thị Nở được Nam Cao tóm lại trong một nhận xét là "xấu đến ma chê quỷ hờn". Từ hai cuộc đời, hai thân phận khiếm khuyết, hai trí tuệ mông muội tăm tối của Chí Phèo - Thị Nở, Nam Cao đã để cho họ kết hợp lại như một sự liên kết hoàn hảo để tạo ra một con người mới thống nhất trong sự bừng nở trở lại của một trí tuệ minh triết. Đó là Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
Với Nam Cao, tình yêu không đi liền với sự lý tưởng hoá đối tượng, với sự hâm mộ sùng bái người yêu mà bắt đầu chỉ thuần tuý là bản năng. Ánh trăng trong mắt của Chí Phèo đêm gặp Thị Nở mang đầy màu sắc nhục thể, cứ "xanh rời rợi như là ướt nước". Cây dâu tây gần bờ sông thì "thân mềm oặt", những tàu chuối trong vườn nhà hắn thì "nằm ngửa, ưỡn cong cong lên" thỉnh thoảng lại "giẫy lên đành đạch như là hứng tình". Cái bóng - dấu ấn về sự hiện hữu méo mó của bản thân Chí Phèo cũng được phát hiện trong lúc này. Hành động chiếm đoạt Thị Nở của Chí Phèo lúc đầu chỉ thuần tuý là bản năng nhưng chính trong cõi âm u của bản năng ấy một ánh loé diệu kỳ đã bùng dậy hé mở cho ta nhìn thấy bản thể tốt đẹp của con người.
Nam Cao đã vượt trước những nhà văn của thời đại ông ở chỗ không dừng lại ở những tình yêu lý tưởng thuần tuý tinh thần như của Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt (Khái Hưng), Lan và Ngọc trong Hồn bướm mơ tiên (Khái Hưng), Thanh và Ngọc trong Dòng sông Thanh Thuỷ (Nhất Linh), mà ông đã hợp nhất tình yêu trong sự hoà hợp tinh thần và thể xác. Đó là những chi tiết làm căn cứ để khẳng định đây là tình yêu chứ không thuần tuý là bản năng khi Nam Cao tiếp tục miêu tả thêm lúc Chí Phèo đau bụng và ói mửa, được Thị Nở dìu về lều... Hành động ban đầu là bản năng đã làm sống dậy tình yêu, sống dậy phần nhân tính tưởng không có hay đã chết trong con người của cả Chí Phèo lẫn Thị Nở. Ở đây có sự tái sinh, phục sinh của tinh thần nhờ tình yêu và sự gắn kết hai thân xác. Nó đã cải hóa, tái sinh Chí Phèo, tình yêu cho Chí Phèo và Thị Nở ý thức về chính mình.
Trước đây, họ chỉ là hai khối mông muội, Chí Phèo thì hung bạo và triền miên trong vô thức và những cơn say vô tận: "Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận". Vậy nhưng trong tình cảm với Thị Nở, Chí Phèo đã tìm thấy chính mình, khám phá ra chính mình, hơn thế nữa khám phá ra sự sống. Con người ý thức, con người cảm xúc của Chí Phèo sống dậy. Lần đầu tiên hắn tỉnh hẳn rượu, đó là cái tỉnh của ý thức.
Tại sao Chí Phèo "càng uống lại càng tỉnh ra?". Bởi vì tình yêu của hắn và Thị Nở đã làm thay đổi tâm điểm cuộc sống của hắn. Tâm điểm đó đã trượt từ cõi u minh của vô thức những ngày trước đây về với cõi thực tại, bắt Chí Phèo thừa nhận một thực tại cuộc sống đang tồn tại dù có hay không có hắn. Nó định vị tâm điểm cuộc sống của Chí Phèo từ những cơn say nghiêng ngả vào một cuộc sống bình thường. Chính vì vậy mà hắn tỉnh, hắn đã nhìn thấy chính bản thân mình. Thấy "bâng khuâng" rồi "lòng mơ hồ buồn"rồi "nghĩ vẩn vơ"... Thị Nở cũng thế, lần đầu tiên Thị lắng nghe cảm xúc của tâm hồn mình để "trằn trọc" "nghĩ ngợi" "tưởng tượng bâng quơ" .v.v..
Những giới hạn của cuộc đời Chí Phèo như đã được phá bỏ, nó mở rộng, liên thông với cuộc đời bên ngoài. Chính tình yêu đã mở thông lối về với cuộc đời của Chí Phèo, hắn cảm nhận được cuộc sống xung quanh:"Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn !".
Tình yêu cũng gia tăng thêm kích thước cho cuộc đời hắn. Trước đây Chí Phèo vô cảm, vô tâm, không có ý thức về chính bản thân mình nhưng nay hắn có cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là quá khứ với những kỷ niệm yêu thương đầm ấm, là mùi hương từ bát cháo hành và những săn sóc ân cần của Thị Nở, những kỷ niệm xa xưa cũng hiện về. Hắn từng mơ tới một viễn cảnh bình yên với chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải... hắn còn sợ già, sợ cô độc và muốn làm hòa với mọi người, muốn làm người lương thiện. Sự chuyển vị này là hệ quả tất yếu do tình yêu đem lại, nó khắc họa một cách sâu sắc bản thể bất toàn và cô độc của Chí Phèo lẫn Thị Nở trước khi yêu và được yêu. Chính tình yêu đã bù đắp khiếm khuyết trong tâm hồn, tái sinh một cuộc đời và làm giàu có đời sống nội tâm của nhân vật này rất nhiều.
Chính vì thức tỉnh, vì đã được khai hóa và giàu có nhờ tình yêu nên khi bị Thị Nở từ chối "và ngoay ngoáy cái mông đít ra về", Chí Phèo mới cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ. Sức mạnh của tình yêu đã đưa hai nhân vật này đến một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống, trong khi thực tại lại không như vậy, nó vẫn tồn tại những định kiến xã hội không dễ buông tha cho con người nên thiên đường tình yêu, khát vọng làm người của Chí rơi tõm vào hiện thực trần trụi và vỡ toang, buộc Chí Phèo phải đối diện với hiện thực với nỗi đau khổ, tuyệt vọng để vùng lên cầm dao giết chết Bá Kiến.
Lời chì chiết của bà cô Thị Nở như là một chi tiết "giải thiêng" tình yêu của Chí Phèo. Nó thực tế, trần trụi đến tàn nhẫn. Đó là cái giá mà Chí Phèo và Thị Nở phải trả để đến với nhau, những thành trì xung quanh tình yêu ấy không dễ gì phá nên Chí Phèo tự kết liễu đời mình là một cách chọn lựa thích hợp nhằm chối bỏ sự thỏa hiệp, quay lại cuộc sống trước kia.
Sau những tác phẩm về tình yêu của Tự Lực Văn Đoàn của chủ nghĩa lãng mạn thì Chí Phèo của Nam Cao là một khám phá. Bởi Nam Cao vẫn viết về tình yêu nhưng không phải về bản thân tình yêu Chí Phèo - Thị Nở, mà sâu xa hơn, Nam Cao muốn hướng người đọc đến những vấn đề ngoài tình yêu. Đó là vấn đề về văn hóa, về con người và xã hội, về bản năng và vô thức, những ý niệm về thân phận con người, sự tự do thoát khỏi những buộc ràng của định kiến xã hội, khao khát làm người.
Chính vì vậy tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao không mang dáng dấp của truyện tình theo nghĩa thông thường ta vẫn hiểu, cũng không chuyển tải nội dung tình yêu theo cách thông thường mà theo một cách rất trái khoáy, rất nghịch dị mang dấu ấn riêng của Nam Cao. Nó làm cho hiện thực cuộc sống không còn bị gò ép trong cái khuôn khổ thông thường, quen thuộc trong cái nhìn của mọi người mà hiện ra một cách đột ngột bất ngờ tạo sự ngạc nhiên trong cảm nhận.
Phân tích cảm nhận về tình yêu trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao 2
Không son phấn ngọc ngà, cũng chẳng giàu sang. Thậm chí, thị Nở còn có dung mạo khiến người nhìn khiếp sợ. Nam Cao đã dựng lên thị xấu tới mức ma chê quỷ hờn. Còn Chí Phèo cũng chẳng hơn gì khi chỉ là một thằng say rượu, trên mặt chằng chịt những vết rượu dài do rạch mặt ăn vạ. Nhưng tình yêu của hai con người ấy dành cho nhau lại vô cùng đáng quý. Họ đã bước vào trang văn của Nam Cao qua tác phẩm Chí Phèo với một tình yêu bất ngờ, say đắm và lẫn với tình người cao quý, thiêng liêng.
Không ai có thể ngờ được rằng hai con người ấy lại có thể yêu nhau. Chí không cha không mẹ, cuộc đời và xã hội đưa đẩy biến Chí thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại suốt ngày chìm trong cơn say triền miên. Còn thị cũng ở dưới đáy của xã hội, không ai để ý tới vì thị vừa dở hơi lại vừa xấu xí. Ấy vậy mà trong đêm tối, hai con người ấy đã vô tình ngã vào nhau, gắn bó với nhau và rồi mang đến cho nhau những hương vị thực sự của tình yêu. Khi yêu người ta vẫn thường chỉ nhìn thấy những điều tốt đẹp của người yêu. Thị cũng vậy, dẫu trước khi gặp thị, Chí là kẻ côn đồ, là tay sai của Bá Kiến đi đâm thuê chém mướn để đòi nợ. Nhưng trong lúc này, bằng đôi mắt của tình yêu, thị lại thấy Chí rất hiền. Thị còn nấu cho Chí một bát cháo hành đầy tình nghĩa, giúp Chí hạ nhiệt cơn sốt và thoát khỏi vũng bùn lầy tăm tối mà Chí đang vùng vẫy trong đó.
Tình của thị rất trong sáng, vừa có tình vừa có nghĩa. Có thể do thị dở hơi, không nhận thức được nhiều. Nhưng về phía Chí Phèo, rõ ràng Chí hiểu rằng thị chỉ là một người đàn bà dở hơi, xấu xí. Nhưng điều đó có quan trọng không khi trong lúc tuyệt vọng nhất, đau khổ nhất, chính người đàn bà dở hơi ấy đã đem lại ánh sáng cho cuộc đời Chí ? Không những là tình yêu mà còn là tình nghĩa, tình người, khiến Chí bừng tỉnh giữa những cơn say dài tăm tối. Chính tình yêu ấy đã kéo Chí quay trở lại với ước mơ giản dị đến thánh thiện ngày nào : có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải thêu thùa. Cuộc sống thật bình dị nhưng ấm áp và yên vui. Cũng chính tình yêu của thị đã khiến Chí thêm yêu đời, yêu cuộc sống khi Chí cảm nhận được những điều bé nhỏ xung quanh mình : tiếng chim hót líu lo, tiếng mái chèo gõ cá, tiếng người đi chợ nói chuyện lao xao. Những điều ấy ngày nào cũng có nhưng đến giờ Chí mới để ý. Chí không muốn uống rượu nữa. Chí muốn quay đầu lại làm lại từ đầu. Chí cũng hiểu rằng mình có thể làm được điều đó và chính thị sẽ là chiếc cầu nối cho Chí.
Dù ban đầu họ ngã vào nhau vì ham muốn của thể xác. Nhưng sau đó, họ lại bẽn lẽn, thẹn thùng và tình tứ nhìn nhau như đôi trai gái mới hẹn hò. Thị thấy thị như yêu hắn : đó là lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người chịu ơn. Một người như thị Nở càng không quên được. Cho nên thị nghĩ : mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau ! Ăn nằm với nhau như vợ chồng. Tiếng vợ chồng thấy ngường ngượng mà thinh thích. Đó vẫn là điều mong muốn âm thầm của con người khốn nạn ấy chăng ? Hay là sự khoái lạc của xác thịt đã làm nổi dậy những tính tình mà thị chưa bao giờ biết đến ? Đến ngay cả chính tác giả cũng ngờ vực đặt ra câu hỏi đó là ham muốn của thể xác hay của tình yêu đích thực ? Nhưng ngay sau đó, lại diễn ra rất nhiều điều thay đổi trong con người Chí. Đó hoàn toàn không đơn thuần là sự ham muốn xác thịt, mà sâu thẳm là tình người, là tình yêu thực sự. Bởi nếu không yêu, không thương, thị đã bỏ mặc Chí và Chí cũng không nghĩ nhiều về cuộc đời như thế. Chí nghĩ đến tình người nhiều hơn là tình yêu. Chí ăn năn, lòng bâng khuâng và khát khao được trở lại cuộc sống yên bình ngày nào. Rồi Chí nghĩ đến tuổi già cô độc. Sự cô độc còn đáng sợ hơn cả bệnh tật. Không ai bên cạnh, không người sẻ chia... May mắn được gặp thị, thị dẫu dở hơi nhưng thị vẫn là người lương thiện. Thị khác hẳn với những kẻ tỉnh táo, khôn ngoan trong làng. Chỉ có mình thị còn nhìn nhận Chí là người. Hoặc cũng có thể thị dở hơi nên không nhận ra Chí là con quỷ dữ. Nhưng rõ ràng ngay lúc này, trước mặt thị, Chí đâu có dữ dằn gì. Ngược lại, nụ cười của Chí còn làm khuấy động tâm hồn ngờ ngệch của người đàn bà ế chồng này. Người khác thấy thị dở, thị xấu. Nhưng Chí lại thấy thị có duyên và đáng yêu vô cùng. Khi nhìn nhận mọi thứ bằng sự yêu thương chân thành, mọi thứ đều trở nên đáng quý và đáng trân trọng biết bao. Giá như thị đến với Chí sớm hơn, có lẽ Chí đã không lấn quá sâu vào con đường tội lỗi, và có lẽ trên khuôn mặt Chí cũng không có quá nhiều vết sẹo như thế. Nhưng cuộc đời mà, dẫu Nam Cao cũng thương Chí lắm, thương người nông dân lắm, nhưng ông không thể biến hóa sự thật một cách quá mức. Lòng đồng cảm của ông rất lớn lao nhưng ông vẫn phải để nguyên sự thật của xã hội đương thời nghiệt ngã. Ở đó, người nông dân bị kìm kẹp, bị đàn áp, bị bần cùng hóa tới mức đánh mất nhân tính, đánh mất tình yêu và những khát khao lương thiện tốt đẹp.
Chí cũng vậy. Dù tình yêu của thị đã làm Chí đổi thay. Nhưng sự nghiệt ngã của lòng người, của người bà cô ế chồng của thị đã khiến thị quay lại cự tuyệt Chí. Chí lại rơi vào tuyệt vọng, khổ đau. Chí lại uống rượu để quên đi hết mọi chuyện. Nhưng lần này, Chí càng uống càng tỉnh. Và rồi Chí chọn cái chết để kết liễu cuộc đời mình, cũng là kết thúc một cuộc tình bi đát, đau thương. Có người nói, nếu Chí không yêu thị, không gặp thị, có lẽ Chí đã không chết thê thảm như vậy. Nhưng khi nhìn nhận ở góc độ thực tế của lòng nhân đạo, cái chết đối với Chí là điều nên làm. Bởi ta hiểu rằng, trong xã hội tàn ác, bất nhân ấy, nếu Chí còn sống, chắc chắn Chí sẽ lại là tay sai cho Bá Kiến, nối dài thêm cánh tay giết người cho hắn. Chí sẽ là nỗi ám ảnh khiếp sợ của dân làng Vũ Đại. Thà rằng lúc này Chí chết đi để được dừng lại những tội ác đó còn hơn tiếp tục sống trong tội lỗi, trong dày vò.
Dù sao tình yêu của Chí Phèo và thị Nở cũng vẫn là một tình yêu rất đẹp. Tình yêu ấy không những là sự tình cờ, mà còn là tình người thiêng liêng, cao quý. Đến một người dở hơi như thị còn có tình có nghĩa, huống chi những người khác tỉnh táo, khôn ngoan ? Tình yêu trong xã hội hiện nay cũng vậy, ngoài yêu hãy biết thương, biết trân trọng nhau, biết cùng nhau cố gắng hướng đến những điều tốt đẹp. Nhà văn Nam Cao đã dựng lên một cuộc tình thật đẹp, thật ý nghĩa. Có thể người trong cuộc khiến người ta bật cười mỗi khi nhắc tới, nhưng chính tình yêu của họ lại là bài học sâu sắc cho mọi người giữa cuộc đời đầy mưu mô, tính toán. Rằng khi yêu hãy yêu thật lòng, hãy nghĩ đến những điều tốt đẹp, hãy bỏ qua cho nhau, cảm thông chia sẻ lẫn nhau. Như Chí không hề để ý đến tính tình dở hơi và "vẻ đẹp trời cho" của thị, hay chính thị cũng chẳng khinh ghét một người đàn ông không cha không mẹ, lại chuyên rạch mặt ăn vạ... Họ đã bù đắp cho nhau, làm nên một tình yêu thật đáng ngưỡng mộ. Dù sau đó cuộc tình tan vỡ nhưng đó là vì thời thế, vì xã hội. Vì thế, tình yêu ấy vẫn rất đáng trân trọng và ngợi ca.
Phân tích cảm nhận về tình yêu trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao 3
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao xưa và nay vẫn được xem là một truyện ngắn tiêu biểu, xuất sắc của văn học sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Tác phẩm được chú ý khai thác ở các khía cạnh tố cáo xã hội phi nhân tính, sự áp bức của giai cấp thống trị, số phận con người bị tha hoá... nhiều hơn là nhìn từ góc độ tình yêu.
Toàn bộ nội dung, kết cấu tác phẩm gắn liền với cuộc đời của nhân vật chính là Chí Phèo, có một chi tiết đáng lưu ý là: Các biến cố làm nên những đổi thay to lớn, những bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo cũng như trong kết cấu tác phẩm lại đến từ hình bóng những người đàn bà. Tuy nhiên có bóng dáng đẩy Chí Phèo vào chốn tăm tối nhưng cũng có gương mặt tuy xấu xí nhưng lại đưa Chí Phèo ra nơi ánh sáng của cõi minh triết.
Cuộc đời Chí Phèo đột nhiên chuyển hướng do việc tiếp xúc miễn cưỡng với bà Ba Bá Kiến, một người "đàn bà phốp pháp, má hây hây", để từ một anh nông dân hiền lành chất phác trở thành một tên tù, một tên lưu manh mất hết nhân tính, mất luôn cả ý thức về mình lẫn ý thức làm người. Tuy nhiên, lần gặp gỡ với Thị Nở lại mang đến một hệ quả ngược, nó làm đảo lộn tất cả. Chính cuộc gặp gỡ với Thị Nở chứ không phải một biến cố xã hội nào đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời Chí Phèo và quyết định số phận của cả Chí Phèo lẫn Bá Kiến.
Chút tình cảm tưởng chừng rất vu vơ giữa Chí Phèo và Thị Nở ấy đã tác động, chi phối một cách sâu sắc đến quan hệ giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Từ đó có thể thấy không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo bắt đầu từ buổi tối trước khi gặp Thị Nở, cái buổi tối mà hắn "vừa đi vừa chửi", để rồi từ đó mối quan hệ dây mơ rễ má với Bá Kiến, những khúc, đoạn trong cuộc đời Chí Phèo như một cuốn phim quay chậm được tái hiện. Tất cả những chi tiết này có tính chất như một đường truyền, một lời đề dẫn hay như những hoạ tiết có tính chất phông nền để làm nổi bật tác động của tình yêu, tình người đến cuộc đời Chí qua nhân vật Thị Nở.
Một trong những đặc trưng phong cách của Nam Cao là sử dụng những yếu tố trái khoáy, ngược nhau để mô tả hiện thực. Tên của tác phẩm cũng thường hàm chứa một điều trái khoáy như Lang rận, Chí Phèo, Tình già... Bản thân sự tồn tại nhếch nhác của nhân vật Lang rận cùng với vẻ bề ngoài bẩn thỉu là một sự trái ngược, mâu thuẫn với nghề nghiệp, vị thế xã hội mà nhân vật mang vác. Tất cả những đối nghịch đó được thâu tóm trong một cái tên: Lang rận, và được khắc sâu hơn trong sự tương phản giữa vẻ bên ngoài nhếch nhác, thấp kém với đời sống tâm hồn cao đẹp. Hay trong truyện Nửa đêm, người cha có tên là Thiên Lôi nhưng lại đặt tên con là Đức - như hai mặt của một quá trình biện chứng nhân quả...v.v.
Từ những chi tiết đó có thể hiểu tại sao Nam Cao lại lạ hoá câu chuyện tình Chí Phèo - Thị Nở như vậy. Không lãng mạn thơ mộng như các câu chuyện tình của Tự Lực Văn Đoàn, buổi tối gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở bắt đầu bằng hình ảnh Chí Phèo "vừa đi vừa chửi... chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo", cuộc đời hắn chìm trong những cơn say.
Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để "nhớ rằng hắn có ở đời". Tức trong hắn chỉ tồn tại không phải ý thức mà là một khối u u mê mê, tối tăm đặc quánh, vô cảm, vô thức. Ngay cả sự hiện hữu của bản thân, hắn cũng không nhận thức được, hắn chỉ kinh ngạc rồi cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi khi phát hiện ra mình dưới dạng một cái bóng trên đường trăng nhễ nhại, méo mó, xệch xạc. Chính hình ảnh này hướng đến sự ẩn dụ về một dạng tồn tại bất toàn của con người trong xã hội cũ. Con người không được sống thực là chính mình mà chỉ là những cái bóng, nhưng cũng không được là cái bóng của chính mình mà là bóng của giai cấp thống trị nên thành "cái vật xệch xạc, một cái gì đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại". Với cái bóng đó, với ý thức hiện hữu về sự méo mó của chính mình, Chí Phèo đến với Thị Nở. Đó là cuộc gặp gỡ tất yếu là hệ quả từ hai cuộc đời trống rỗng và bất toàn của hai con người.
Thị Nở trước khi gặp Chí Phèo vốn chỉ là một thực thể không có đường nét cá tính gì đặc biệt mà còn khùng khùng dại dại, còn dung nhan là những đường nét tự nhiên, thô mộc đến mức dị hợm: Trên một khuôn mặt ngắn ngủn, có cái mũi "vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành" và một đôi môi "cũng cố to cho không thua cái mũi" hơn nữa, lại dày và có "màu thịt trâu xám ngoách". Toàn bộ "nhan sắc" của Thị Nở được Nam Cao tóm lại trong một nhận xét là "xấu đến ma chê quỷ hờn". Từ hai cuộc đời, hai thân phận khiếm khuyết, hai trí tuệ mông muội tăm tối của Chí Phèo - Thị Nở, Nam Cao đã để cho họ kết hợp lại như một sự liên kết hoàn hảo để tạo ra một con người mới thống nhất trong sự bừng nở trở lại của một trí tuệ minh triết. Đó là Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
Với Nam Cao, tình yêu không đi liền với sự lý tưởng hoá đối tượng, với sự hâm mộ sùng bái người yêu mà bắt đầu chỉ thuần tuý là bản năng. Ánh trăng trong mắt của Chí Phèo đêm gặp Thị Nở mang đầy màu sắc nhục thể, cứ "xanh rời rợi như là ướt nước". Cây dâu tây gần bờ sông thì "thân mềm oặt", những tàu chuối trong vườn nhà hắn thì "nằm ngửa, ưỡn cong cong lên" thỉnh thoảng lại "giẫy lên đành đạch như là hứng tình". Cái bóng - dấu ấn về sự hiện hữu méo mó của bản thân Chí Phèo cũng được phát hiện trong lúc này. Hành động chiếm đoạt Thị Nở của Chí Phèo lúc đầu chỉ thuần tuý là bản năng nhưng chính trong cõi âm u của bản năng ấy một ánh loé diệu kỳ đã bùng dậy hé mở cho ta nhìn thấy bản thể tốt đẹp của con người.
Nam Cao đã vượt trước những nhà văn của thời đại ông ở chỗ không dừng lại ở những tình yêu lý tưởng thuần tuý tinh thần như của Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt (Khái Hưng), Lan và Ngọc trong Hồn bướm mơ tiên (Khái Hưng), Thanh và Ngọc trong Dòng sông Thanh Thuỷ (Nhất Linh), mà ông đã hợp nhất tình yêu trong sự hoà hợp tinh thần và thể xác. Đó là những chi tiết làm căn cứ để khẳng định đây là tình yêu chứ không thuần tuý là bản năng khi Nam Cao tiếp tục miêu tả thêm lúc Chí Phèo đau bụng và ói mửa, được Thị Nở dìu về lều... Hành động ban đầu là bản năng đã làm sống dậy tình yêu, sống dậy phần nhân tính tưởng không có hay đã chết trong con người của cả Chí Phèo lẫn Thị Nở. Ở đây có sự tái sinh, phục sinh của tinh thần nhờ tình yêu và sự gắn kết hai thân xác. Nó đã cải hóa, tái sinh Chí Phèo, tình yêu cho Chí Phèo và Thị Nở ý thức về chính mình.
Trước đây, họ chỉ là hai khối mông muội, Chí Phèo thì hung bạo và triền miên trong vô thức và những cơn say vô tận: "Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận". Vậy nhưng trong tình cảm với Thị Nở, Chí Phèo đã tìm thấy chính mình, khám phá ra chính mình, hơn thế nữa khám phá ra sự sống. Con người ý thức, con người cảm xúc của Chí Phèo sống dậy. Lần đầu tiên hắn tỉnh hẳn rượu, đó là cái tỉnh của ý thức.
Tại sao Chí Phèo "càng uống lại càng tỉnh ra?". Bởi vì tình yêu của hắn và Thị Nở đã làm thay đổi tâm điểm cuộc sống của hắn. Tâm điểm đó đã trượt từ cõi u minh của vô thức những ngày trước đây về với cõi thực tại, bắt Chí Phèo thừa nhận một thực tại cuộc sống đang tồn tại dù có hay không có hắn. Nó định vị tâm điểm cuộc sống của Chí Phèo từ những cơn say nghiêng ngả vào một cuộc sống bình thường. Chính vì vậy mà hắn tỉnh, hắn đã nhìn thấy chính bản thân mình. Thấy "bâng khuâng" rồi "lòng mơ hồ buồn"rồi "nghĩ vẩn vơ"... Thị Nở cũng thế, lần đầu tiên Thị lắng nghe cảm xúc của tâm hồn mình để "trằn trọc" "nghĩ ngợi" "tưởng tượng bâng quơ" .v.v..
Những giới hạn của cuộc đời Chí Phèo như đã được phá bỏ, nó mở rộng, liên thông với cuộc đời bên ngoài. Chính tình yêu đã mở thông lối về với cuộc đời của Chí Phèo, hắn cảm nhận được cuộc sống xung quanh:"Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn !".
Tình yêu cũng gia tăng thêm kích thước cho cuộc đời hắn. Trước đây Chí Phèo vô cảm, vô tâm, không có ý thức về chính bản thân mình nhưng nay hắn có cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là quá khứ với những kỷ niệm yêu thương đầm ấm, là mùi hương từ bát cháo hành và những săn sóc ân cần của Thị Nở, những kỷ niệm xa xưa cũng hiện về. Hắn từng mơ tới một viễn cảnh bình yên với chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải... hắn còn sợ già, sợ cô độc và muốn làm hòa với mọi người, muốn làm người lương thiện. Sự chuyển vị này là hệ quả tất yếu do tình yêu đem lại, nó khắc họa một cách sâu sắc bản thể bất toàn và cô độc của Chí Phèo lẫn Thị Nở trước khi yêu và được yêu. Chính tình yêu đã bù đắp khiếm khuyết trong tâm hồn, tái sinh một cuộc đời và làm giàu có đời sống nội tâm của nhân vật này rất nhiều.
Chính vì thức tỉnh, vì đã được khai hóa và giàu có nhờ tình yêu nên khi bị Thị Nở từ chối "và ngoay ngoáy cái mông đít ra về", Chí Phèo mới cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ. Sức mạnh của tình yêu đã đưa hai nhân vật này đến một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống, trong khi thực tại lại không như vậy, nó vẫn tồn tại những định kiến xã hội không dễ buông tha cho con người nên thiên đường tình yêu, khát vọng làm người của Chí rơi tõm vào hiện thực trần trụi và vỡ toang, buộc Chí Phèo phải đối diện với hiện thực với nỗi đau khổ, tuyệt vọng để vùng lên cầm dao giết chết Bá Kiến.
Lời chì chiết của bà cô Thị Nở như là một chi tiết "giải thiêng" tình yêu của Chí Phèo. Nó thực tế, trần trụi đến tàn nhẫn. Đó là cái giá mà Chí Phèo và Thị Nở phải trả để đến với nhau, những thành trì xung quanh tình yêu ấy không dễ gì phá nên Chí Phèo tự kết liễu đời mình là một cách chọn lựa thích hợp nhằm chối bỏ sự thỏa hiệp, quay lại cuộc sống trước kia.
Sau những tác phẩm về tình yêu của Tự Lực Văn Đoàn của chủ nghĩa lãng mạn thì Chí Phèo của Nam Cao là một khám phá. Bởi Nam Cao vẫn viết về tình yêu nhưng không phải về bản thân tình yêu Chí Phèo - Thị Nở, mà sâu xa hơn, Nam Cao muốn hướng người đọc đến những vấn đề ngoài tình yêu. Đó là vấn đề về văn hóa, về con người và xã hội, về bản năng và vô thức, những ý niệm về thân phận con người, sự tự do thoát khỏi những buộc ràng của định kiến xã hội, khao khát làm người.
Chính vì vậy tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao không mang dáng dấp của truyện tình theo nghĩa thông thường ta vẫn hiểu, cũng không chuyển tải nội dung tình yêu theo cách thông thường mà theo một cách rất trái khoáy, rất nghịch dị mang dấu ấn riêng của Nam Cao. Nó làm cho hiện thực cuộc sống không còn bị gò ép trong cái khuôn khổ thông thường, quen thuộc trong cái nhìn của mọi người mà hiện ra một cách đột ngột bất ngờ tạo sự ngạc nhiên trong cảm nhận.
Phân tích cảm nhận về tình yêu trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao 4
Chí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học hiện thực Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Thông qua tác phẩm, nhà văn Nam Cao không chỉ lên án xã hội phong kiến đen tối, vô nhân tính, bênh vực cho cùng nỗi thống khổ đến cùng cực của người nông dân nghèo mà ngòi bút nhân đạo của nhà văn Nam Cao còn thể hiện thái độ đồng cảm, trân trọng tình yêu giữa những con người khốn khổ dưới đáy xã hội là Chí Phèo và Thị Nở.
Chí Phèo và Thị Nở đều là những con người khốn khổ dưới đáy xã hội, họ là nạn nhân đáng thương của xã hội phong kiến thối nát, phải chịu những định kiến khắc nghiệt. Từ khi chấp nhận làm tay sai cho Bá Kiến, Chí Phèo từ một anh canh điền hiền lành, lương thiện đã trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại, mọi người đều khinh ghét, sợ hãi, thậm chí chối bỏ quyền làm người của Chí Phèo. Khi Chí Phèo cất tiếng chửi, không ai trong làng Vũ Đại đáp lại hắn một phần vì sợ phiền phức, mặt khác thể hiện thái độ bài xích, phủ nhận sự tồn tại của Chí Phèo. Ngay cả khi Chí Phèo chết đi người dân làng Vũ Đại cũng không có một chút đồng cảm bởi “ai chứ thằng Chí Phèo chết” thì vẫn không có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ
Thị Nở là người đàn bà xấu xí, nhà lại có mả hủi nên bị mọi người trong làng xa lánh, sợ hãi, họ nhìn Thị Nở như một cái gì đó rất tởm. Hai con người khốn khổ bị cả xã hội chối bỏ ấy tuy mang những khiếm khuyết lớn về mặt ngoại hình, nhân tính nhưng lại là mảnh ghép hoàn hảo cho nhau.
Chí Phèo vốn không phải nhan đề đầu tiên được đặt, khi được xuất bản, truyện ngắn này của Nam Cao được đặt với nhan đề “Đôi lứa xứng đôi”. Nhan đề này đã thể hiện được một phần nội dung đặc sắc của tác phẩm, đó là tình của Chí Phèo và Thị Nở. Tuy nhiên, khi xuất bản lại Nam Cao đã lựa chọn nhan đề Chí Phèo để thể hiện rõ hơn tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Trong một lần uống rượu say, gặp Thị Nở ngủ quên tại vườn chuối, Chí Phèo và Thị Nở đã có một đêm sống như vợ chồng, đây cũng là lần gặp gỡ đầu tiên, tiền đề cho mối tình Chí Phèo, Thị Nở chớm nở. Buổi sáng hôm sau, khi tỉnh cơn rượu, Chí Phèo đã bị cảm, vì thương Chí có một mình, Thị Nở đã nấu cháo hành mang sang cho Chí giải rượu. Hành động ngỡ như hết sức bình thường này lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Bát cháo hành không chỉ thể hiện tình thương của Thị Nở với Chí Phèo – con quỷ dữ bị cả làng xa lánh mà hơi ấm của bát cháo còn có sức mạnh đánh thức con người lương thiện bên trong Chí. Tình yêu của Thị Nở và Chí Phèo diễn ra thật tự nhiên, họ nhìn thấy ở nhau những giá trị tốt đẹp mà định kiến của người dân làng Vũ Đại không thể trông thấy. Chí thấy ở Thị Nở – người đàn bà xấu xí bị cả làng xa lánh vẻ đáng yêu rất duyên, Thị Nở lại thấy ở Chí vẻ hiền lành ngỡ như không bao giờ có trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại ấy.
Chí Phèo và Thị Nở đến với nhau một cách tự nhiên, chân thành như thế, họ tuy không hoàn hảo nhưng lại là một nửa hoàn hảo dành cho nhau. Nếu nói Thị Nở là người đã đánh thức phần nhân tính của Chí Phèo, mang đến những khát khao hạnh phúc, khát khao sống lương thiện của một thời trai trẻ thì Chí Phèo cũng chính là người thật lòng yêu thương, trân trọng Thị như một người đàn bà bình thường, thứ mà ngỡ như rất xa xỉ với Thị.
Chí Phèo và Thị Nở đã có một khoảng thời gian ngắn chung sống hạnh phúc với nhau. Có thể thấy cả Chí và Thị đều trân trọng đối với mối tình này, từ khi quen Thị, Chí uống ít rượu hẳn, Thị hay cười hơn mà theo như đánh giá của Chí, nụ cười đó rất duyên. Thị Nở đã mang chuyện của mình và Chí hỏi bà cô nhưng bị phản đối. Vốn tính dở hơi, lại uất ức vì những lời mắng mỏ thậm tệ của bà cô, Thị Nở đã mang toàn bộ những lời mắng chửi đấy để “ném” vào mặt Chí. Thái độ của bà cô Thị Nở cũng chính là những định kiến ngặt nghèo của xã hội, Chí đã nhận ra rằng mình không thể quay trở về với con đường lương thiện được nữa. Chí Phèo đã quyết định giết chết Bá Kiến, dùng dao tự tử để chấm dứt bi kịch không lối thoát của cuộc đời mình.
Hình ảnh Thị Nở đặt tay vào bụng khi nhìn thấy Chí Phèo chết cho người đọc một liên tưởng, phải chăng sau những ngày sống cùng Chí, một đứa trẻ đáng thương cũng đã định hình trong bụng của Thị. Đứa trẻ đó là kết tinh tình yêu của Chí – Thị nhưng cũng chính là dấu hiệu của sự lặp lại bi kịch ở Chí Phèo con.
Nhìn vào mối tình của Thị Nở, Chí Phèo người đọc cảm thấy được cái gì đó rất đáng yêu nhưng cũng không kém phần cảm động. Hai người họ bị cả xã hội quay lưng nhưng cũng chính họ lại là những con người lương thiện, khát khao yêu thương nhất.
Phân tích cảm nhận về tình yêu trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao 5
Có lẽ mọi người thường nhắc đến tình yêu với những viễn cảnh lãng mạn, đẹp đẽ và tình tứ. Trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao cũng xuất hiện một mối tình khiến không ít người để tâm. Đó là mối tình của Chí Phèo và Thị Nở. Nhưng tình yêu này không hẳn là thứ tình yêu mà mọi người vẫn thường hay nghĩ, mà sâu xa hơn tình yêu ấy còn là lòng thương cảm, là một sự kiện lớn trong nền văn học hiện thực của Việt Nam. Ở đó, Nam Cao đã dùng tình yêu để trao cho nhân vật của mình một cơ hội được làm lại cuộc đời. Nhưng tình yêu dù lớn thế nào cũng vẫn nằm trong khuôn khổ của thực tại. Nhưng điểm khác biệt ở đây là tình yêu ấy được nhà văn thể hiện qua lăng kính của văn học hiện thực nhân đạo, của giai cấp, của xã hội.
Tác phẩm xoay quanh những biến cố trong cuộc đời Chí. Nếu lấy tình yêu làm điểm mốc, ta có thể chia cuộc đời Chí thành hai giai đoạn lớn là trước và sau khi gặp Thị Nở. Trước khi gặp Thị, Chí là một tên lưu manh được Nam Cao miêu tả tóm gọn bằng hai từ “ghê tởm”. Hệ quả ấy là do những tháng ngày trong tù đã nhào nặn Chí từ một người nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một con quỷ dữ khiến cả làng vũ đại vừa ghét vừa sợ. Sau khi gặp Thị Nở, cùng với tình yêu chớp nhoáng từ người đàn bà dở hơi ấy, đời Chí đã bước sang một trang mới tươi sáng hơn, tràn đầy niềm tin và hi vọng. Nhưng hạnh phúc chẳng được bao lâu lại vụt tắt khi Thị nghe theo lời bà cô từ chối tình yêu của Chí. Lại một lần nữa Chí rơi vào tuyệt vọng. Nhưng lần này khác với những lần trước, bởi Chí đã ý thức được cuộc đời mình, Chí quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn để giữ bản thân mình nguyên vẹn không bị quay trở lại con đường làm quỷ dữ như trước kia nữa
Điều đáng nói ở đây là tình yêu của Chí và Thị tuy chỉ là một mối tình chóng vánh, hay còn gọi là tình yêu sét đánh như mọi người vẫn thường hay nói. Nhưng tình yêu này không chỉ đơn thuần dừng lại ở những cảm tính thông thường, ở xác thịt của hai con người nam và nữ, mà hơn hết nó làm thức tỉnh ý thức làm người của một con người đã chìm đắm trong mê muội, trong men say suốt bấy lâu nay. Nhất là khi Chí không còn ý thức về sự tồn tại của mình, còn Thị cũng chỉ là một người đàn bà dở hơi, xấu xí nhưng tình yêu đã làm thay đổi con người của cả hai. Từ một kẻ say xỉn, chuyên rạch mặt ăn vạ sau đêm tình bên bụi chuối đã trở thành một con người hiền lành, giàu tình yêu thương và lòng trắc ẩn.”Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dây, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn.” Lần đầu tiên Chí nhận ra “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!”. Tình yêu làm cho Chí buồn. Nhưng cái buồn ấy là dấu hiệu của hạnh phúc. Bởi biết buồn nghĩa là Chí đã quay trở lại làm một con người bình thường. Không như trước đây, Chí chỉ biết có rượu chứ có biết đâu là buồn hay vui. Rượu và những tiếng chửi chua chát, nghiệt ngã. Giờ đây Chí buồn vì tại sao mình không được yêu sớm hơn, tại sao mình không nhận ra những hương vị thường ngày của cuộc sống, rất đơn giản thôi nhưng đầy thi vị. Khác hẳn với men rượu, với những cơn say. Còn về thị, một người đàn bà tuy dở hơi, xấu xí nhưng không hiểu tình yêu có phép lạ gì mà thị vẫn ý thức được mình phải làm gì khi “người yêu” bị ốm. Thị kéo Chí về lều, nấu cho hắn một bát cháo hành. Là thị, hay là tình yêu của thị đã biến đổi cuộc đời Chí? Thêm vào đó là bát chó hành đầy tình nghĩa, đầy yêu thương càng làm cho Chí xúc động và khát khao được hòa với mọi người, được sống một cuộc sống ấm êm như trước đây Chí từng ước mơ. Chí ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải chăm non con cái, nhà cửa. Có lẽ ước mơ ấy không chỉ của riêng chí mà là của tất cả mọi người nông dân cùng thời lúc bấy giờ.
Như vậy, chính tình yêu đã cảm hóa nhân cách của hai con người. Một kẻ say triền miên với lòng thù hận, còn một kẻ dở hơi với “nhan sắc” được nhà văn tóm gọn trong mấy từ “xấu ma chê quỷ hờn”. Nhưng khi được nhìn và cảm nhận qua tình yêu, thị lại có duyên một cách lạ lùng. Chi tiết ấy khá khôi hài nhưng không kém phần sâu sắc. Bởi chỉ có tình yêu mới làm con người ta có cái nhìn tích cực đến vậy. Mặt khác, trong hoàn cảnh này, tình yêu còn cứu sống cả một con người tưởng chừng như đang rơi vào vực thẳm của tuyệt vọng, của khổ đau và tội lỗi nhưng lại được tình yêu nâng lên đến bến bờ của hạnh phúc, của hi vọng. Chí buồn nhưng người đọc lại mừng. Mừng vì Chí đã đổi thay. Đã có ý thức về bản thân mình. Còn thị tuy dở hơi những cũng nghĩ được đến hai chữ “vợ chồng”. “Tiếng vợ chồng thấy ngường ngượng mà thinh thích”.
Câu chuyện tình Chí Phèo – Thị Nở không lãng mạn thơ mộng như các câu chuyện tình của khác nhưng lại là điểm dấu ấn quan trọng cho cuộc đời Chí, cho những biến cố tiếp theo mà Nam Cao đã khéo léo gài dựng. Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để “nhớ rằng hắn có ở đời”. Tức trong hắn chỉ tồn tại không phải ý thức mà là một khối u u mê mê, tối tăm đặc quánh, vô cảm, vô thức. Ngay cả sự hiện hữu của bản thân, hắn cũng không nhận thức được, hắn chỉ kinh ngạc rồi cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi khi phát hiện ra mình dưới dạng một cái bóng trên đường trăng nhễ nhại, méo mó, xệch xạc. Chính hình ảnh này hướng đến sự ẩn dụ về một dạng tồn tại bất toàn của con người trong xã hội cũ. Con người không được sống thực là chính mình mà chỉ là những cái bóng, nhưng cũng không được là cái bóng của chính mình mà là bóng của giai cấp thống trị nên thành “cái vật xệch xạc, một cái gì đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại”. Với cái bóng đó, với ý thức hiện hữu về sự méo mó của chính mình, Chí Phèo đến với Thị Nở. Đó là cuộc gặp gỡ tất yếu là hệ quả từ hai cuộc đời trống rỗng và bất toàn của hai con người.
Thị Nở trước khi gặp Chí Phèo vốn chỉ là một thực thể không có đường nét cá tính gì đặc biệt mà còn khùng khùng dại dại, còn dung nhan là những đường nét tự nhiên, thô mộc đến mức dị hợm: trên một khuôn mặt ngắn ngủn, có cái mũi “vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành” và một đôi môi “cũng cố to cho không thua cái mũi” hơn nữa, lại dày và có “màu thịt trâu xám ngoách”. Toàn bộ “nhan sắc” của Thị Nở được Nam Cao tóm lại trong một nhận xét là “xấu đến ma chê quỷ hờn”. Từ hai cuộc đời, hai thân phận khiếm khuyết, hai trí tuệ mông muội tăm tối của Chí Phèo – Thị Nở, Nam Cao đã để cho họ kết hợp lại như một sự liên kết hoàn hảo để tạo ra một con người mới thống nhất trong sự bừng nở trở lại của một trí tuệ minh triết. Đó là Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
Với Nam Cao, tình yêu không đi liền với sự lý tưởng hoá đối tượng, với sự hâm mộ sùng bái người yêu mà bắt đầu chỉ thuần tuý là bản năng. Ánh trăng trong mắt của Chí Phèo đêm gặp Thị Nở mang đầy màu sắc nhục thể, cứ “xanh rời rợi như là ướt nước”. Cây dâu tây gần bờ sông thì “thân mềm oặt”, những tàu chuối trong vườn nhà hắn thì “nằm ngửa, ưỡn cong cong lên” thỉnh thoảng lại “giẫy lên đành đạch như là hứng tình”. Cái bóng – dấu ấn về sự hiện hữu méo mó của bản thân Chí Phèo cũng được phát hiện trong lúc này. Hành động chiếm đoạt Thị Nở của Chí Phèo lúc đầu chỉ thuần tuý là bản năng nhưng chính trong cõi âm u của bản năng ấy một ánh loé diệu kỳ đã bùng dậy hé mở cho ta nhìn thấy bản thể tốt đẹp của con người.
Nhưng sau tất cả, dù thế nào đi nữa, tình yêu vẫn phải gắn liền với thực tế. Mà thực tế lại quá bất hạnh cho cuộc đời Chí khi Chí vốn chỉ là một thằng chuyên đi rạch mặt ăn vạ. Thị dở hơi nhưng người bà cô của thị đâu có dở để cho cháu mình đi lấy một thằng không những không cha không mẹ mà còn lưu manh, dữ tợn. Dù thị có xấu xí đến mức ma chê quỷ hờn thì ngoài kia cũng vẫn còn nhiều thằng đàn ông xứng đáng với thị hơn Chí. Lại thêm một lần nữa, Chí bị đẩy xuống bước đường cùng, xuống tận đáy của xã hội. Nhưng tình yêu đã làm cho Chí thay đổi. Dù Chí vẫn tìm đến rượu và lại say. Nhưng cơn say lần này khác với những cơn say trước kia. Lại thêm hương cháo hành phảng phất lẫn với men rượu càng cho Chí như trở nên điên cuồng với tình yêu vừa bị rũ bỏ. Chí nhắm đích đến cuối cùng của mình chính là Bá Kiến. Chính hắn là kẻ đã khiến Chí trở thành con người tàn tạ như bây giờ. Cũng chính vì thế Chí mới bị thị Nở cự tuyệt. Đúng. Đúng vậy. Chí nhắm đúng lắm. Là Bá Kiến chứ không phải bất kỳ một ai khác đã đẩy Chí từ hết bi kịch này đến bi kịch khác. Lòng thù hận của Chí lại sôi sục nổi dậy. Có lẽ nỗi đau bị cha mẹ bỏ rơi từ khi mới lọt lòng còn không đau bằng nỗi đau bị người mình yêu từ chối. Bởi tình yêu ấy hơn hết tất cả tình yêu khác. Tình yêu ấy đã vực dậy Chí từ những cơn say triền miên, đã đưa Chí đi từ vũng bùn lầy lội của tội lỗi đến với những niềm mơ ước giản đơn mà thánh thiện. Sức mạnh của tình yêu đã đưa hai nhân vật này đến một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống, trong khi thực tại lại không như vậy, nó vẫn tồn tại những định kiến xã hội không dễ buông tha cho con người nên thiên đường tình yêu, khát vọng làm người của Chí rơi tõm vào hiện thực trần trụi và vỡ toang, buộc Chí Phèo phải đối diện với hiện thực với nỗi đau khổ, tuyệt vọng để vùng lên cầm dao giết chết Bá Kiến.
Giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Đây là cách mà Chí Phèo lựa chọn để ngăn không cho bản thân mình quay trở lại làm một con quỷ dữ như trước đây nữa. Chí thà chết đi còn hơn sống lay lắt, sống nhục nhã, sống mà như không sống, sống mà không được nhìn nhận làm người.
Như vậy, chính tình yêu đã làm thay đổi tất cả. Nhà văn đã rất thành công khi đưa tình yêu lên một bậc cao mới ý nghĩa hơn, cao thượng hơn và có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ hơn rất nhiều những tình yêu đôi lứa thông thường khác. Tình yêu ấy không những làm cho Chí Phí – Thị Nở bừng tỉnh giữa cuộc đời đầy mê muội mà còn làm cho người đọc có cái nhìn mới tình yêu. Rằng tình yêu rất cao đẹp nhưng luôn đi liền với thực tế hiện tại. Tình yêu và cuộc sống phải hài hòa với nhau mới có thể tạo thành một tình yêu viên mãn và trọn vẹn.