Phân tích bức tranh Tứ Bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (33 mẫu)

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 1

I. MỞ BÀI

Thơ Tố Hữu dễ đến với mọi tấm lòng, không chỉ vì nội dung mà còn do giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc. Điều này được bộc lộ khá rõ trong phần đầu bài thơ Việt Bắc.

II. THÂN BÀI

1. Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của Tố Hữu trong Việt Bắc

a) Bài thơ nói đến nghĩa tình cách mạng nhưng thi sĩ lại dùng giọng của tình thương, lời của người yêu để trò truyện, giãi bày tâm sự. Cả bài thơ được viết theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao, dân ca, và phần đầu này cũng thế - nó là lời giãi bày tâm sự giữa người đi (người về xuôi) với người ở lại là đồng bào Việt Bắc. Mười lăm năm cách mạng thành mười lăm năm ấy tha mặn nồng, người đi người ở thành mình - ta, ta - mình quấn quýt bên nhau trong một mối ân tình sâu nặng.

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.

b) Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết ấy tạo nên âm hưởng trữ tình sâu đậm của khúc hát ân tình cách mạng Việt Bắc, từ khúc hát đạo đầu Mình về mình có nhớ ta... đến những lời nhắn gửi, giãi bày Mình đi có nhớ những ngày - Mình về rừng núi nhớ ai... Ta đi ta nhớ những ngày - Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi..., đến những nỗi nhớ da diết sâu nặng:

Nhớ gì như nhớ người yêu,

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương.

Nhớ từng băn khói cùng sương,

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

…..Nhớ người mẹ nắng cháy lưng,

Dịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.

2. Nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc trong Việt Bắc

a) Thể thơ: Trong phần đầu (cũng như cả bài thơ), Tố Hữu đã sử dụng thể thơ dân tộc, đó là thể thơ lục bát. Thi sĩ đã nhuần nhuyễn thể thơ này và có những biến hoá, sáng tạo cho phù hợp với nội dung, tình ý câu thơ. Có câu tha thiết sâu lắng như bốn câu mở đầu, có câu nhẹ nhàng thơ mộng (Nhớ gì như nhớ người yêu...) lại có đoạn hùng tráng như một khúc anh hùng ca (Những đương Việt Bắc của ta... Đèn pha bật sáng như ngày mai lên)

b) Kết cấu: Kết cấu theo lối đốì đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao dân ca là kết cấu mang đậm tính dân tộc. Nhờ hình thức kết cấu này mà bài thơ có thể đi suốt một trăm năm mươi câu lục bát không bị nhàm chán.

c) Hình ảnh: Tố Hữu có tài sử dụng hình ảnh dân tộc một cách tự nhiên và sáng tạo trong bài thơ: Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn; mưa nguồn suối lũ; bước chân nát đá (sáng tạo từ câu ca dao: trông cho chân cứng đá mềm). Có những hình ảnh chắt lọc từ cuộc sống thực cũng đậm tính dân tộc: miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai; hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son và đặc biệt là tình đậm đà của tình giai cấp:

Thương nhau chia củ sắn lùi,

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

d) Ngôn ngữ: Tính dân tộc được thể hiện rõ nhất trong cặp đại từ nhân xưng ta - mình, mình - ta quấn quýt với nhau và đại từ phiến chỉ ai. Đây là một sáng độc đáo và cũng là một thành công trong ngôn ngữ thơ ca của Tố Hữu. nhạc điệu: Trong bài thơ là nhạc điệu dân tộc với thể thơ lục bát nhịp nhàng, thiết, ngọt ngào, sâu lắng nhưng biến hoá, sáng tạo, không có đơn điệu (có hùng tráng như cảnh "Việt Bắc ra quân", trang nghiêm như cảnh buổi họp trung ương, chính phủ...)

III. KẾT BÀI

Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân của Tố Hữu đã góp phần quan trọng vào thành công của bài thơ Việt Bắc, cho nó nhanh chóng đến với người đọc và vẫn sống mãi trong lòng nhân ta từ khi ra đời cho đến hôm nay.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 2

a) Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc:

+ Tố Hữu là một nhà thơ trữ tình chính trị lớn, thơ ông luôn phản ánh những chặng đường đấu tranh gian khổ song cũng nhiều thắng lợi của dân tộc.

+ "Việt Bắc" là bài thơ xuất sắc của Tố Hữu mang đậm chất dân tộc, tổng kết về cuộc kháng chiến anh hùng của dân tộc, đồng thời là lời tri ân sâu nặng về tình nghĩa cách mạng.

- Dẫn dắt vào vấn đề: bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc

+ Bức tranh tứ bình được xem là những vần thơ tuyệt bút trong bài thơ Việt Bắc.

b) Thân bài

* Khái quát chung về bài thơ

- Hoàn cảnh sáng tác: 

+ Tháng 10-1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về lại Hà Nội.

+ Nhân sự kiện có tính chất lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc để ghi lại không khí bịn rịn nhớ thương của kẻ ở người đi.

- Giá trị nội dung: Bài thơ khẳng định tình nghĩa thủy chung gắn bó, tình cảm uống nước nhớ nguồn của những cán bộ cách mạng đối với thủ đô kháng chiến, quê hương cách mạng và người dân Việt Nam.

* Luận điểm 1: Bức tranh mùa đông ấm áp, lắng dịu.

- Cảnh thiên nhiên:

+ "rừng xanh", "hoa chuối đỏ tươi"

-> Sắc xanh bao la của rừng núi điểm những bông hoa chuối đỏ tươi như bó đuốc sáng rực xua đi sự lạnh lẽo, hiu hắt của núi rừng, thắp lên ngọn lửa ấm áp, mang lại ánh sáng hơi ấm cho nơi đây.

- Hình ảnh con người:

+ "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" : ánh nắng phản chiếu vào những lưỡi dao tạo nên vẻ đẹp lấp lánh.

-> Trước thiên nhiên bao la của núi rừng, con người trở nên kì vĩ, hùng tráng hơn với hoạt động phát nương, làm rẫy. Thiên nhiên dường như đang hô ứng để làm bật lên hình ảnh của con người.

* Luận điểm 2: Bức tranh mùa xuân rực rỡ, chói chang.

- Cảnh thiên nhiên:

+ "mơ nở trắng rừng" : sắc trắng của hoa mơ đặc trưng của núi rừng Tây Bắc vào mùa xuân.

-> Sắc trắng ấy làm bừng sáng cả khu rừng, làm dịu mát tâm hồn con người.

- Con người:

+ “đan nón”, “chuốt từng sợi giang” 

-> Đôi bàn tay khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút, cần mẫn vào từng sản phẩm lao động.

=> Người lao động hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, khéo léo và cần mẫn, vẻ đẹp của sự tài nghệ, thuần thục mà cũng hết sức giản dị.

* Luận điểm 3: Bức tranh mùa hạ rộn ràng, náo nức.

- Cảnh thiên nhiên:

+ “rừng phách đổ vàng” 

-> Màu vàng rực của thiên nhiên dường như chuyển đột ngột qua từ “đổ” hòa quyện với tiếng ve kêu khiến cho cảnh thêm sinh động, có hồn và tưng bừng hơn.

+ “Ve kêu rừng phách đổ vàng” gợi nhiều liên tưởng:

Có thể là màu vàng hòa quyện với tiếng ve kêu tưng bừng, đầy sức sống

Cũng có thể chính tiếng ve đã đánh thức rừng phách nở hoa

- Hình ảnh con người:

+ “Nhớ cô em gái hái măng một mình”

-> Con người vẫn tiếp tục ở trạng thái cần cù lao động, tuy xuất hiện một mình nhưng lại không gợi cảm giác buồn bã, đơn độc, bởi có sự đồng điệu, hô ứng với thiên nhiên đang ở độ chín, độ đẹp nhất.

=> Vẻ đẹp của sự cần mẫn, chịu thương chịu khó của con người nơi đây.

* Luận điểm 4: Bức tranh mùa thu êm ái, ngọt ngào.

- Cảnh: 

+ "trăng rọi hòa bình" : ánh trăng dịu nhẹ, huyền ảo gợi không khí thanh bình, yên ả

-> Ánh sáng của “hòa bình”, niềm vui và tự do chiếu sáng lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc.

- Hình ảnh con người:

+ "tiếng hát ân tình thủy chung" -> Con người vẫn say sưa cất tiếng hát, mộc mạc, chân thành.

=> Hình ảnh con người được khai thác thông qua hình thức sinh hoạt văn hóa đặc trưng của người dân Việt Bắc đó là lối hát giao duyên, đó là tiếng hát ân tình, thủy chung.

=> Sự hòa quyện giữa cảnh và người trong bức tranh theo từng mùa đã nói lên nét đẹp tâm hồn của con người nơi đây.

* Đặc sắc nghệ thuật

- Thể thơ lục bát thuần dân tộc

- Sử dụng kết cấu đối đáp trong văn học dân gian

- Ngôn ngữ giản dị

- Hình ảnh thơ gần gũi mà tinh tế.

- Giọng thơ thiết tha, đậm chất nhạc.

c) Kết bài

- Khái quát lại vẻ đẹp của bức tranh tứ bình Việt Bắc.

- Nêu cảm nhận chung của em về bức tranh ấy.

4. Kiến thức mở rộng

- Tứ bình là bộ tranh bốn bức, cùng treo với nhau, thường vẽ các cảnh câu cá, đốn củi, cày ruộng, đọc sách hoặc xuân, hạ, thu, đông.

- Trong bài thơ Việt Bắc, bức tranh tứ bình là những nét vẽ mà tác giả Tố Hữu đã phác họa về cảnh sắc và con người nơi đây với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông bằng những hình ảnh đặc trưng rất riêng Việt Bắc, những ân tình mang phong vị Việt Bắc.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 3

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Tố Hữu: là nhà thơ, người chiến sĩ cách mạng.

Thơ ông toát lên tinh thần dân tộc nhưng vô cùng ngọt ngào sâu lắng.

Việt Bắc là bài thơ tiêu biểu: tái hiện không khí cách mạng, khẳng định tình nghĩa quân dân nồng nàn tha thiết mà nổi bật là 10 câu lục bát miêu tả bức tranh tứ bình của thiên nhiên Việt Bắc.

2. Thân bài

* Hoàn cảnh ra đời của bài thơ:

– Được viết sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 kết thúc thắng lợi.

– Trung ương đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô.

– Bài thơ ghi lại khoảng khắc chia tay bịn rịn xúc động và những kỉ niệm kháng chiến không thể nào quên của các chiến sĩ cách mạng và nhân dân miền núi.

* Phân tích bức tranh tứ bình

– Hai câu đầu: lời khẳng định tình cảm thắm thiết của người đi với cảnh và người ở lại.

Bức tranh thứ nhất:

+ cảnh: mùa đông trên cánh rừng xanh bạt ngàn nổi bật bởi hoa chuối đỏ tươi.

+Con người: Dáng hình khỏe khoắn đi làm nương, tư thế tự tin làm chủ thiên nhiên, làm chủ núi rừng.

Bức tranh tiếp theo: mùa xuân ở miền núi.

+ Đặc trưng bởi sắc trắng tinh khôi của hoa mơ “ mơ nở trắng rừng”

+ Hình ảnh con người: khéo léo kiên nhẫn “chuốt từng sợi giang”.

Bức tranh thiên nhiên và con người trong mùa hạ.

+ xuất hiện âm thanh rộn rã của tiếng ve, màu sắc rực rỡ “ rừng phách đổ vàng”

+ con người thầm lặng trong công việc thường ngày: “hái măng một mình”.

Bức tranh cuối cùng: đêm trăng sáng trong mùa thu.

+ ánh trăng hòa bình: biểu tượng cho sự tư do vui tươi

  + con người: cất lên tiếng hát giao duyên ngọt ngào giàu tình cảm.

* Kết luận

– Thể thơ lục bát nhẹ nhàng giàu nhịp điệu tạo nên bức tranh thật đẹp về cảnh và người.

– Đoạn thơ mang nét cổ điển và hiện đại. Vừa là bức tranh thiên nhiên hoàn mĩ vừa là bức tranh khắc họa con người đầy đẹp đẽ.

3. Kết bài

– khẳng định những nét đặc sắc của bài thơ

– Nêu cảm nhận của bản thân: Tố Hữu phải là một nghệ sĩ tài ba và có  tấm long yêu thương con người yêu cuộc sống sâu sắc mới có thể viết ra những dòng thơ hay như vậy.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 4

I/ Mở bài

– Có thể nói “Việt Bắc” là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Lời thơ như khúc hát ân tình tha thiết về Việt Bắc, quê hương của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

– Bên cạnh bức tranh đậm chất sử thi về cuộc sống đời thường gần gũi, hay tình cảm của người lính cách mạng thân thiết được bao bọc bởi thiên nhiên vô cùng tươi đẹp

II/ Thân bài:

* Nhận xét chung:

Đoạn thơ là bức tranh được dệt bằng ngôn từ nghệ thuật toàn bích, rất hoàn hảo. Ở đó có sự hoà quyện giữa cảnh và người, giữa cuộc đời thực với tấm lòng của nhà thơ cách mạng nhiệt huyết.

Mười câu thơ đặc săc trên nằm trong trường đoạn gồm 62 câu thơ diễn tả tâm tình của người cán bộ sắp sửa rời Việt Bắc, nơi mình đã gắn bó với bao tình cảm máu thịt.

1/ Hai câu đầu:

Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi:

Ta về, mình có nhớ ta

Nhưng thực ra, câu hỏi trong hai câu thơ này đơn giản chỉ để mà hỏi, hỏi để tạo thêm cái cớ để giải bày nỗi lòng của mình:

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Câu thơ dường như có nhịp điệu êm ái nhờ những điệp từ tạo và các thanh bằng (6/8) như một lời ru ngọt ngào của mẹ và bà năm nào, một câu hát không chỉ diễn tả tâm trạng tha thiết của nhân vật trữ tình. Là lời ca ngợi về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Trong ngôn ngữ Việt, hoa còn có ý nghĩa biểu trưng về thiên nhiên, về những gì tươi đẹp, tươi tắn nhất. Trong thơ xưa bút hát lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho con người rất phổ biến, việc đối xứng con người với thiên nhiên cũng là một cách để nói lên vẻ đệp của con người.

2/ Tám câu thơ sau:

– Nhận xét:

Bốn câu thơ lục bát còn lại trong đoạn thơ là một bức tranh liên hoàn về con người và thiên nhiên Việt Bắc. Và ở đây nhiều người đánh giá là một bộ tứ bình (xuân, hạ, thu, đông). Nhà thơ đã kế thừa nghệ thuật hội hoạ cổ truyền của dân tộc trong khi miêu tả bức tranh thiên nhiên. Mỗi một câu thơ như đã khắc hoạ một bức tranh cụ thể nhưng cũng có thể ghép lại thành một bộ liên hoàn:

– Bức tranh thứ nhất:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn thiên nhiên Việt Bắc. Trên cái nền xanh bạt ngàn của núi rừng đại ngàn, nổi bật lên hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi. Bởi thế, thiên nhiên hùng vĩ ấy không xa lạ; trái lại, gần gũi, thân thiết với con người:

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh điểm nổi rõ hơn cảnh, thật là một nét tài tình của Tố Hữu thể hiện trong thơ. Nghệ thuật điểm xuyết của tác giả còn trở lên độc đáo hơn: càng chọn điểm nhỏ nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có sự nhấp nháy (nắng ánh) của hình ảnh và cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch, bỗng có sức sống, sự chuyển động.

– Bức tranh thứ hai

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Khác hẳn với bức tranh thứ nhất, bức tranh thơ thứ hai mở đầu có sự định vị về thời gian (Ngày xuân). Nhưng tự thân thời gian ấy cũng đã mở ra không gian:

Ngày xuân mở nở trắng rừng

Cách điệp âm (mơ/nở; trắng/rừng) cùng với hình ảnh của hoa mơ (màu trắng) tạo ra một không gian vừa rộng lớn nhẹ nhàng và thanh thoát. Ở bức tranh thơ thứ nhất, nghệ thuật miêu tả của tác giả độc đáo ở điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc màu sáng (hoa đỏ, nắng ánh) để diễn tả sự chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà thơ lại hướng cái nhìn vào sự bao quát điệp trùng để tìm cái rạo rực (tiềm ẩn) của thiên nhiên.

Trên cái nền không gian rộng lớn và háo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một hoạt độnh có vẻ tỉ mỉ:

…Người đan nón chuốt từng sợi giang.

Đó là hình ảnh thực. Trong chuỗi hoài niệm của tác giả, hình ảnh người đan nón chỉ là một điểm gợi nhớ. Câu thơ như gợi lên cách cảm, cách nhìn của tác giả hơn là tả thực. Đó là hình ảnh đặc trưng dễ nhận thấy của sinh hoạt đời thường ở Việt Bắc. Với nhiều người, nó có thể nhỏ nhặt, không đáng nhớ. Với một nhà thơ ân tình như Tố Hữu, đó lại là hình ảnh khắc sâu trong tâm khảm.

– Bức tranh thứ ba

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Câu thơ mở đầu bằng âm thanh tiếng ve như giúp người đọc cảm nhận được đã có bước biến chuyển về thời gian sang hè. Ý thơ trong câu tơ như vừa có âm thanh rộn ràng, vừa có màu sắc đặc trưng của rừng Việt Bắc. Âm thanh và màu sắc sinh động ấy tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Hoa và người Việt Bắc trong thơ Tố Hữu hoà quỵên, cùng tôn vinh lẫn nhau. Đan hòa vớin hau mà làm nổi bật lên cho nhau. Và chính sự hài hoà đó đã tạo nên chất thơ ân tình của Tố Hữu. Vì thế, không nên suy diễn, giàu chất tượng trưng với những nét sinh hoạt, lao động của cuộc sống thực tại.

– Bức tranh thứ tư

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Câu thơ có kiểu mở đầu bằng sự định vị cả không gian lẫn thời gian “ rung thu”. Đến đây, ta chú ý các kiểu định vị ở những câu thơ trên:

Rừng xanh => không gian

Ngày xuân => thời gian

Ve kêu => âm thanh (thời gian)

Ứng với mỗi câu thơ đặc sắc và cách định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa đông, mùa xuân, mùa hạ). Không ngoại lệ câu thơ này cũng là bức tranh về một mùa của thiên nhiên (mùa thu). Nhưng có lẽ bức tranh thu là bức tranh cuối của bộ tứ bình cũng là tiếng hát cuối của một trường đoạn hoài niệm nên hình ảnh tất thảy đều trở nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn:

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông, rộng lớn nhưng hề không lạnh lẽo. “Trăng rọi hoà bình” là hình ảnh vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc đời ân tình ấy, lại vừa mang ý nghĩa cuộc sống có niềm tin, tự do. Và trong cuộc sống đó còn có cả tình nghĩa thủy chung khi đã có tự do thì ta vẫn không quên những ngày gian khó.

– Đánh giá:

Bức tranh tứ bình bằng thơ về cảnh và người Việt Bắc được tạo dệt dưới ánh sáng của hoài niệm da diết không nguôi. Thông thường, nguời ta chỉ nhớ những gì mang ấn tượng nhất của quá khứ và thời gian càng lùi xa thì ấn tượng ấy càng trở nên tươi đẹp, huyền ảo hơn và rõ nét hơn.

III/ Kết bài

– Việt Bắc được xem là bài thơ hay của Tố Hữu. Ở đó, nhà thơ thể hiện sự tài hoa, uyên bác của mình trên nhiều phương diện của nghệ thuật sáng tạo thi ca. Sự tài hoa ấy được dẫn dắt của một điệu tâm hồn đầy tình nghĩa của nhà thơ cách mạng.

– Đoạn thơ tả cảnh 4 mùa trên là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc bởi kết tinh một nghệ thuật thơ ca vừa giàu tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại trong một điệu tâm hồn đắm say.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 1

Nhắc đến những nhà văn, nhà thơ cách mạng trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, ta không thể không nhắc đến Tố Hữu với một giọng thơ đầy tính chiến đấu, đầy lý tưởng, một phong cách thơ trữ tình chính trị. Tuy nhiên, trong những bài thơ ấy vẫn chất chứa những hình ảnh đậm chất trữ tình, giàu chất thơ, mượt mà và tươi sáng. Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc chính là minh chứng tiêu biểu:

"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa và hàm chứa trong đó một nỗi nhớ nhung da diết cùng tấm lòng thủy chung của tác giả nói riêng và người cán bộ nói chung dành cho Việt Bắc:

"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người"

Hai câu thơ là lời hỏi và kể của người ra đi, muốn biết lòng người ở lại thế nào và tự bộc lộ tấm lòng của mình. Điệp ngữ "ta về" mở đầu cho hai câu thơ như đặt ra những nỗi niềm của người từ giã. Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh "hoa cùng người", phải chăng con người cũng là một bông hoa trong vườn hoa Việt Bắc. Hình ảnh tạo nên nét hài hòa giữa thiên nhiên và con người, hoa và người khi hòa vào nhau, khi tách biệt để tôn lên vẻ đẹp của nhau. Tiếp sau hình ảnh hoa và người là bức tranh bốn mùa Việt Bắc được vẽ ra hết sức chân thật cùng những màu sắc tươi tắn và âm thanh rộn ràng:

"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đeo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"

Mùa đông với màu xanh tha thiết, ngút ngàn của núi rừng trùng điệp hiện ra đầu tiên. Tác giả khắc họa mùa đông trước có lẽ bởi vì khi người cách mạng đến đây cũng vào mùa đông của đất nước và cũng chính thời điểm ấy sau mười lăm năm, người cách mạng cũng từ biệt Việt Bắc - cái nôi cách mạng Việt Nam.

Giữa cái nền xanh tươi của rừng thẳm nổi bật hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi, làm cho núi rừng không lạnh lẽo hoang vu mà trở nên ấm áp lạ thường. Những bông hoa chuối ẩn trong sương như những ngọn đuốc hồng soi sáng chặng đường mà ta từng bắt gặp trong bài thơ Tây Tiến: "Mường lát hoa về trong đêm hơi". Cái "đỏ tươi" của hoa chuối như xóa nhòa đi sự lãnh lẽo cô độc của mùa đông lãnh lẽo của núi rừng, như chất chứa, tiềm ẩn sức sống của đất trời. Sự đối lập trong màu sắc nhưng lại hài hòa trong cách diễn đạt khiến mùa đông nơi đây mang hơi hướng của mùa hèo ấm áp trong thơ Nguyễn Trãi:

"Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiện mùi hương"

Giữa thiên nhiên ấy, nét đẹp của con người Tây Bắc hiện lên với một nét độc đáo rất riêng:

"Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"

Người Việt Bắc đi rừng bao giờ cũng gài một con dao ở thắt lưng để phát quang những chướng ngại và đề phòng thú dữ. Ở đây tác giả không miêu tả gương mặt hay thần thái mà miêu tả ánh sáng phản chiếu nơi lưỡi dao gài ở thắt lưng. Ánh nắng mặt trời chiếu xuống làm cho con dao lấy lánh ánh sáng tạo nên hình ảnh con người thật đẹp không thể nào quên, tưởng chừng con người chính là nơi hội tụ của ánh sáng, vừa lung linh vừa rực rỡ. Con người được đặt giữa "đèo cao, nắng ánh", ở vị trí trung tâm giữa núi rừng Tây Bắc, vượt lên cả không gian với hình ảnh lớn lao, làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất nước với hình ảnh kỳ vĩ, lớn lao.

Đông qua rồi xuân. Mùa xuân Việt Bắc hiện lên với sắc trắng của hoa mơ làm bừng sáng cả khu rừng:

"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"

Nhắc đến mùa xuân, người ta lại nhắc đến thời điểm khí hậu mát mẻ, cỏ cây hoa lá vì thế tràn đầy sức sống, đâm chồi, nảy lộc xanh non. Ngày xuân của Việt Bắc được Tổ Hữu nhìn với cái nhìn rất độc đáo: "mơ nở trắng rừng". Nghệ thuật đảo ngữ "trắng rừng" sử dụng từ "trắng" với vai trò động từ chứ không còn là tính từ chỉ màu sắc. Thêm vào đó, động từ "nở" như sự lan tỏa của sắc trắng, lấn át mọi sắc xanh của lá rừng, tạo nên một không gian trong lành, dịu mát của hoa mơ, khiến bức tranh trở nên thanh khiết hơn, trữ tình hơn.

Giữa cái nền trắng của hoa mơ ấy, nổi bật lên hình ảnh con người lao động cần mẫn, dịu dàng: "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp một cách tự nhiên trong công việc hàng ngày. Động từ "chuốt" kết hợp với trợ từ "từng" đã thể hiện bàn tay khéo léo, tỉ mĩ, và tài hoa của người lao động. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Bắc hào hùng nhưng cũng rất hào hoa.

Mùa hè đến, tiếng ve rộn rã vang lên khắp núi rừng:

"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"

Âm vang của tiếng ve làm lá phách đổ vàng. Tưởng chừng chỉ cần tiếng ve ngân lên đã làm tiết trời đột ngột chuyển từ xuân sang hè. Câu thơ có nét tương đồng với ý thơ "Một tiếng chim kêu sáng cả rừng" của Khương Hữu Dụng. Chỉ với một câu thơ mà gợi lên cả sự vận động của thời gian, của cuộc sống. Và trên cái nền vàng của rừng phách ấy, hiện lên hình ảnh thật đáng yêu làm cho bức tranh thêm nên thơ, trữ tình. Đó là hình ảnh: "cô em gái hái măng một mình", hái măng một mình nhưng không hề cô đơn mà lại toát lên vẻ đẹp của người phụ nữ chịu thương chịu khó. Câu thơ mang nỗi niềm cảm thông và cảm kích người Việt Bắc, mà người đi không bao giờ quên được những tình cảm chân thành ấy.

Rồi mùa thu Việt Bắc hiện lên với ánh trăng thu vời vợi làm cảnh núi rừng Việt Bắc trở nên mơ màng, êm ả đầy không khí thanh bình. Từ giữa đêm trăng thu huyền ảo ấy, những tiếng hát ân tình thủy chung của con người Việt Bắc lại được cất lên làm nồng ấm cả lòng người:

"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Ở đây không có tin thắng trận, nhưng lại có tiếng hát nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc, là tiếng hát của núi rừng Tây Bắc gắn bó mười lăm năm ròng rã. Tiếng hát "ân tình" khép lại bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người, gợi cho người đi, kẻ ở và cả những độc giả hiện tại có những rung động sâu xa về tình yêu Tổ quốc.

Nếu câu lục nói về cảnh thì câu bát lại nói về người. Cái đẹp của bài thơ là sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc. Phong cảnh Việt Bắc đẹp, nên thơ, trữ tình giàu sức sống như cái nền để làm nổi bật hình ảnh những con người Việt Bắc thật đáng yêu, cần cù, giàu tình nghĩa, thủy chung, son sắt.

Với những nét phác họa đơn sơ, bình dị, bức tranh tứ bình Việt Bắc được vẽ ra với sự hòa quyện giữa cổ điện và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên, tất cả tạo nên một bức tranh tổng hòa về thiên nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ chính là một nét độc đáo trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu mà khi nhắc đến Việt Bắc, người ta lại nhớ ngay đến những tâm hồn hồn hậu, giàu nghĩa tình, thủy chung.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 2

"Việt Bắc" - bài thơ lục bát mang tầm vóc một trường ca dài 150 câu thơ, cảm xúc dâng lên mênh mông dào dạt. Bài thơ ra đời vào tháng 10 năm 1054, ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội. Qua bài thơ, Tố Hữu nói lên một cách thiết tha mặn nồng mối tình Việt Bắc, mối tình cách mạng và kháng chiến.

Đoạn thơ 10 câu dưới đây trích từ câu 43 đến câu 52 trong bài thơ "Việt Bắc" nói lên bao nỗi nhớ vô cùng thắm thiết thủy chung đối với Việt Bắc:

"Ta về mình có nhớ ta,
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".

Hai câu thơ đầu là lời hỏi - đáp của "ta", của người cán bộ kháng chiến về xuôi, ta hỏi mình "có nhớ ta". Dù về xuôi, dù xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó thiết tha với Việt Bắc: "Ta về, ta nhớ những hoa cùng người". Chữ "ta", chữ "nhớ" được điệp lại thể hiện một tấm lòng thủy chung son sắt. Nỗi nhớ ấy hướng về "những hoa cùng người", hướng về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và con người Việt Bắc thân yêu:

"Ta về, mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người".

Hai chữ "mình - ta" xuất hiện ở tần số cao trong bài thơ, cũng như ở trong hai câu thơ này đã thể hiện một cách rất đẹp tình cảm lứa đôi hòa quyện trong mối tình Việt Bắc, đồng thời làm cho giọng thơ trở nên thiết tha bồi hồi như tiếng hát giao duyên thuở nào. Đó là sắc điệu trữ tình và tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.

Tám câu thơ tiếp theo, mỗi cặp lục bát nói lên một nỗi nhớ cụ thể về một cảnh sắc, một con người cụ thể trong 4 mùa đông, xuân, hè, thu.

Nhớ mùa đông nhớ màu "xanh" của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu "đỏ tươi" của hoa chuối như những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh. Nhớ người đi nương đi rẫy "dao gài thắt lưng" trong tư thế mạnh mẽ hào hùng đứng trên đèo cao "nắng ánh...". Con dao của người đi nương rẫy phản quang "nắng ánh" rất gợi cảm:

"Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh gao gài thắt lưng".

Màu "xanh" của rừng, màu "đỏ tươi" của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của "nắng ánh" từ con dao; màu sắc ấy hòa hợp với nhau, làm nổi bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên Việt Bắc, của con người Việt Bắc đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời trong kháng chiến. Tố Hữu đã có một cái nhìn phát hiện về sức mạnh tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân ta do cách mạng và kháng chiến mang lại. Người lao động sản xuất thì hào hùng đứng trên "đèo cao" ngập nắng và lộng gió. Đoàn dân công đi chiến dịch thì "bước chân nát đá muôn tàn lửa bay". Người chiến sĩ ra trận mang theo sức mạnh vô địch của thời đại mới:

"Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo".
("Lên Tây Bắc")

Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ "nở trắng rừng". Chữ "trắng" là tính từ chỉ màu sắc được chuyển từ loại thành bổ ngữ "nở trắng rừng", gợi lên một thế giới hoa mơ bao phủ khắp mọi cánh rừng Việt Bắc màu trắng thanh khiết mênh mông và bao la. Cách dùng từ tài hoa của Tố Hữu gợi nhớ trong lòng ta câu thơ của Nguyễn Du tả một nét xuân thơ mộng, trinh bạch trong "Truyện Kiều":

"Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".

Nhớ "mơ nở trắng rừng", nhớ người thợ thủ công đan nón "chuốt rừng sợi giang". "Chuốt" nghĩa là làm bóng lên những sợi giang mỏng mảnh. Có khéo léo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới có thể "chuốt từng sợi giang" để đan thành những chiếc nón, chiếc mũ phục vụ kháng chiến, để anh bộ đội đi chiến dịch có "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan". Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, tính sáng tạo của đồng bào Việt Bắc. Mùa xuân Việt Bắc thật đáng nhớ:

"Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang".

Nhớ về Việt Bắc là nhớ mùa hè với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, là nhớ màu vàng của rừng phách, là nhớ cô thiếu nữ đi "hái măng một mình" giữa rừng vầu, rừng nứa, rừng trúc:

"Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình".

Một chữ "đổ" tài tình. Tiếng ve kêu như trút xuống "đổ" xuống thúc giục ngày hè trôi nhanh, làm cho rừng phách thêm vàng. Xuân Diệu cũng có câu thơ sử dụng chữ "đổ" chuyển cảm giác tương tự: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá..." (Thơ duyên - 1938). Câu thơ "Nhớ cô em gái hái măng một mình" là câu thơ đặc sắc, giàu vần điệu, thanh điệu. Có vần lưng: "Gái" vần với "hái". Có điệp âm qua các phụ âm "m": "măng - một - mình". Đây là những vần thơ nên họa nên nhạc, tạo nên một không gian nghệ thuật đẹp và vui, đầy màu sắc âm thanh. "Cô em gái hái măng một mình" vẫn không cảm thấy lẻ loi, vì cô đang lao động giữa nhạc rừng, hái măng để góp phần "nuôi quân" phục vụ kháng chiến. Cô gái hái măng là một nét trẻ trung, yêu đời trong thơ Tố Hữu.

Nhớ mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc, nhớ khôn nguôi, nhớ trăng ngàn, nhớ tiếng hát:

"Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".

Trăng xưa "vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân". Trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là "trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa". Người cán bộ kháng chiến về xuôi nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng "rọi" qua tán lá rừng xanh, trăng thanh mát rượi màu "hòa bình" nên thơ. "Ai" là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, "nhớ ai" là nhớ về tất cả, về mọi người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung, đã hi sinh quên mình cho cách mạng và kháng chiến.

Đoạn thơ trên đây dào dạt tình thương mến. Nỗi thiết tha bồi hồi như thấm sâu vào cảnh vật và lòng người, kẻ ở người về, mình nhớ ta, ta nhớ mình. Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng sẽ qua đi, những tiếng hát ân tình thủy chung ấy mãi mãi như một dấu son đỏ thắm in đậm trong lòng người.

Đoạn thơ mang vẻ đẹp một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà phong cách dân tộc. Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10 - 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng - Tố Hữu cũng thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc qua bốn mùa: đông - xuân - hè - thu, theo dòng chảy lịch sử. Mỗi mùa có một nét đẹp riêng dạt dào sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trăng xanh hòa bình. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất hữu tình, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nói đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương đi rẫy, là người đan nón, là cô em gái hái măng, là những ai đang hát ân tình thủy chung. Tất cả đều thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của đồng bào Việt Bắc: cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời trong lao động, kiên nhẫn, khéo léo, tài hoa, trẻ trung lạc quan yêu đời, ân tình thủy chung với cách mạng và kháng chiến.

Một giọng thơ ngọt ngào, tha thiết bồi hồi cứ quyện lấy tâm hồn người đọc. Nỗi nhớ được nói đến trong "Việt Bắc" cũng như trong đoạn thơ này cho thấy một nét đẹp trong phong cách thơ Tố Hữu: chất trữ tình công dân và tính dân tộc, màu sắc cổ điển và tính thời đại được kết hợp một cách hài hòa.

Hình tượng đẹp, phong phú, gợi cảm. Một không gian nghệ thuật đầy sức sống, với những đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, cấu trúc cân xứng hài hòa, để lại trong tâm hồn ta một ấn tượng sâu sắc như Bác Hồ đã viết: "Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay..."

Thơ đích thực "là ảnh, là nhân ảnh..., từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la" (Nguyễn Tuân). Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình mến yêu Việt Bắc, tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ "nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp", để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 3

Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng tiêu biểu của phong trào thơ ca Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Những tác phẩm của ông như một vũ khí nhằm chống lại quân xâm lược, động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân.

Bài thơ "Việt Bắc" được tác giả viết trong những ngày tác giả đóng quân ở vùng Việt Bắc. Bài thơ thể hiện tình quân dân gắn bó, thiết tha sâu sắc, khi chia tay kẻ ở người đi biết bao lưu luyến, lúc chia tay được tác giả viết lên thành những vần thơ nhiều cảm xúc, nghẹn ngào tâm tư tình cảm.

Xuyên suốt trong bài thơ là những dòng tâm sự, thể hiện tình cảm giữa mình và ta, giữa quân và dân chứa chan, sâu sắc. Tác giả Tố Hữu là người đã tham gia trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nên những vần thơ của ông vô cùng giản dị, mộc mạc gần gũi, khi đọc bài thơ lên ta có thể cảm nhận được sự thiêng liêng, nặng trĩu tâm tư trong tình cảm của người chiến sĩ

Bài thơ Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát truyền thống gần gũi, với người nghe. Trong bài thơ nghệ thuật so sánh, ẩn dụ được tác giả Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt tài tình thể hiện sự tinh tế trong phong cách ngôn ngữ của tác giả. Đặc biệt bài thơ còn xúc động lòng người khi tác giả phác họa lên một bức tranh tứ bình về thiên nhiên con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp.

Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người

"Ta" và "mình" thể hiện tình quân dân, nhưng với ngôn ngữ mộc mạc, thể hiện sự gắn bó như người thân trong một gia đình, như những người bạn tri kỷ lâu năm. Nay phải cách xa biết bao tâm sự, bao nhiêu lưu luyến không nỡ rời đi

Tác giả Tố Hữu đã vô cùng khôn khéo khi dẫn dắt người đọc tới những cảnh đẹp vô cùng nên thơ lãng mạn của núi rừng Việt Bắc, vẽ lên một mùa đông ấm áp, nhưng ngập tràn tình yêu thương, niềm tin của những con người phúc hậu nơi đây.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Thiên nhiên Việt Bắc mở ra khiến cho người đọc ngẩn ngơ, bởi vẻ đẹp rất trữ tình của núi rừng Tây Bắc. Những bông hoa chuối đỏ tươi nở lên giữa mùa đông lạnh giá làm cho khung cảnh thiên nhiên tuy lạnh giá nhưng vô cùng sinh động, ấm áp lòng người bởi sắc đỏ của hoa chuối rừng chính nét quyến rũ rất riêng của núi rừng Việt Bắc. Hình ảnh người con gái đi hái măng, lấy nấm với con dao sắc nhọn là vũ khí phòng thân, công cụ làm việc thể hiện sự sinh động của con người trong công việc thường nhật của mình

Đồng thời ánh nắng mùa đông là cho không khí trở nên ấm áp hơn bao giờ hết, không phải là màu u ám, ảm đạm mà chúng ta thường thấy trong những bài thơ khác miêu tả về mùa đông. Mùa đông trong thơ của Tố Hữu vẫn đẹp, vẫn sinh động hấp dẫn lòng người hơn bao giờ hết.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Trong hai câu thơ này tác giả đã linh hoạt chuyển đổi thời gian từ mùa đông sang mùa xuân. Từ hình ảnh hoa chuối rừng đỏ tươi sang sắc hoa mơ trắng trong tinh khiết, thể hiện không khí mùa xuân đang ngập tràn trên mảnh đất Tây Bắc.

Hoa mơ chính là dấu hiệu báo trước khi mùa xuân tới, bởi loại hoa này thường chỉ ra vào mùa xuân, giống như hoa đào và hoa mai. Hình ảnh một rừng hoa mơ trắng thơm ngát quyến rũ, làm say đắm lòng người được gợi mở trong câu thơ làm cho người đọc ngây ngất trước cảnh đẹp của thiên nhiên nơi đây. Hình ảnh người con gái chuốt từng sợi giang để làm dây gói bánh chưng, bánh tét, làm nón lá khiến cho không khí mùa xuân càng gần gũi ấm áp hơn bất kỳ lúc nào

Hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng luôn gắn liền với những con người nơi đây. Khi tác giả Tố Hữu nhớ về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc tác giả luôn nhớ về những con người, những hoạt động của con người nơi đây thể hiện tình cảm sâu đậm của tác giả với mảnh đất gắn bó suốt 15 năm.

Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình

Sang mùa hè tiếng ve kêu là dấu hiệu của mùa hè đã đến. Mùa hè là mùa sôi động, nó khác hẳn với sự ấm áp của mùa đông, sự tinh khôi của màu xuân, khi mùa hè tới rừng núi Việt Bắc râm ran tiếng ve kêu, màu vàng của hổ phách kết hợp với tiếng ve khiến cho thiên nhiên nơi đây. Tiếng ve đã phá vỡ sự tĩnh lặng, thể hiện sự chuyển biến thời gian mạnh mẽ.

Bức tranh thiên nhiên về mùa hè của núi rừng Việt Bắc sáng rực màu vàng của hổ phách, huyên náo tiếng ve kêu. Ở mỗi bức tranh tác giả luôn kết hợp thiên nhiên với bóng dáng con người, thể hiện sự kết hợp khôn khéo giữa con người và thiên nhiên nơi đây.

Giữa không gian bao la của núi rừng Việt Bắc tác giả đã khôn khéo kết hợp thiên nhiên có hình ảnh người con gái hái măng rừng, một hành động quen thuộc, gần gũi nhưng được Tố Hữu vẽ lên thật dịu dàng, nên thơ.

Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Hình ảnh mùa thu trên núi rừng Việt Bắc thật dịu dàng, nên thơ trữ tình hình ảnh ánh trăng hòa bình, sáng trong nên thơ thể hiện sự tròn đầy, chung thủy trước sau như một của người dân nơi đây với cách mạng, với những chiến sĩ anh dũng đã hy sinh thân mình để bảo vệ dân tộc, bảo vệ mảnh đất thân yêu này.

Qua đoạn thơ này ta thấy tác giả Tố Hữu là người vô cùng sâu sắc, tinh tế trong ngôn ngữ cũng như trong quan sát. Ông đã khéo léo gợi lên bức tranh tứ bình thiên nhiên, con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp khiến người đọc ám ảnh khó quên.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 4

Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu cho nền văn Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà thơ với tư tưởng cộng sản, một nhà thơ lớn, thơ ông gắn liền với cách mạng. Tố Hữu còn gắn bó với dân sâu sắc. Vì vậy mà trong các tác phẩm của ông luôn gần gũi với nhân dân. Ông để lại một sự nghiệp văn chương phong phú, giàu giá trị với phong các trữ tình - chính trị sâu sắc đậm đà bản sắc dân tộc. Tiêu biểu là bài Việt Bắc. Có thể nói, kết tinh của tác phẩm được lắng đọng trong mười câu thơ diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hòa quyện thành bức tranh tứ bình.

"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"

Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954 ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, các cơ quant rung ương Đảng và chính quyền từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ sống gắn bó với Việt Bắc nhiều năm, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay lưu luyến ấy. Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc là những ấn tượng không phai về sự hòa quyện của người dân với thiên nhiên núi rừng cao đẹp.

"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"

Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ. Nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư tình cảm, nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người về Thủ đô. Hai câu đầu là lời hỏi đáp của ta của người cán bộ kháng chiến về xuôi. Ta hỏi mình có nhớ ta. Người cách mạng về xuôi hỏi người Việt Bắc để bộc lộ tâm trạng của mình là dù có ở nơi xa xôi , dù có xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó với Việt Bắc. Chữ "ta" và "nhớ" được điệp đi điệp lại thể hiện lòng thủy chung son sắc. Nỗi nhớ hướng về "những hoa cùng người" hướng về thiên nhiên , núi rừng và con người Việt Bắc. "Hoa" là sự kết tinh của hương sắc, còn "người" là kết tinh của đời sống xã hội. Xét cho cùng, "người ta là hoa của đất". Hoa và người được đặt cạnh nhau càng làm tôn lên vẻ đẹp cho nhau, làm sáng lên cả không gian núi rừng, Việt Bắc trùng điệp.

Những câu thơ tiếp theo tái hiện cụ thể, chân thực vẻ đẹp bốn mùa của chiến khu. Cảnh và người hòa quyện đan xen vào nhau. Cứ một câu thơ lục tả cảnh thì lại có một câu thơ bát tả người. Mỗi mùa có một vẻ đẹp nét đặc trưng riêng tạo thành một bức trannh tứ bình ngập tràn ánh sáng , màu sắc , đường nét âm thanh vui tươi, ấm áp.

"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"

Mở đầu cho bức tranh tứ bình lại là khung cảnh mùa Đông. Chúng ta vẫn luôn thắc mắc rằng tại sao tác giả không diễn tả mùa theo trật tự quy luật tự nhiên là Xuân, Hạ, Thu, Đông lại là mùa Đông trước. có lẽ vì, thời điểm tác giả sáng tác bài thơ này là vào tháng 10 năm 1954, đó là thời điểm của mùa đông nên khung cảnh mùa đông việt bắc tạo cảm hứng để ông viết về mùa đông trước.

Nhớ về mùa đông Việt Bắc, tác gủa không nhớ về cái giá buốt, lạnh lẽo, âm u. Tố Hữu nhớ đến những ngày màu đông rực rỡ, nắng ấm. Màu xanh bạt ngàn của núi rừng Việt Bắc. nó giống như màu nên flamf nổi bật lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh "hoa chuối đỏ tươi" - hình ảnh đặc trưng của rừng núi Việt Bắc vào mùa đông, nó giống như ngọn đuốc, đốm lửa rực rỡ thắp sáng bức tranh mùa đông, xua tan đi cái u tối, lạnh lẽo của núi rừng nơi đây. Cả không gian như được sưởi ấm. Tô điểm thêm nét đẹp đặc trưng của mùa Đông Việt Bắc. Đằng sau bức tranh mùa đông ấy, ẩn hiên lên hình ảnh người nông dân lao động leo lên đèo cao để đi làm nương rẫy. Một hình ảnh khỏe khoắn của người lao động như được tỏa sáng, rực rỡ hơn. Tố Hữu sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, ông không dùng "ánh nắng" là một danh từ mà lại dùng "nắng ánh" - một động từ, nhằm làm cho hình ảnh người lao động đẹp và rực rỡ hơn.

Kết thúc mùa đông lạnh giá, Tố Hữu đưa chúng ta đến với mùa Xuân ấm ấp vui hơn

"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"

Mùa xuân - hình ảnh bông hoa "mơ nở trắng rừng" là loài hoa đặc trưng của mùa xuân nơi Việt Bắc. Hoa nở trắng xóa cả khu rừng. Màu không phải màu trăngs điểm như trong bài Truyện Kiều của Nguyễn Du "cành lê trắng điểm một vài bông hoa". Đó là màu trắng tinh khiết, tinh khôi khoác lên cho núi rừng Việt Bắc. Và đằng sau mùa xuân tinh khiết, nhẹ nhàng, thơ mộng ấy. Nhà thơ nhớ đến những người đan nón. Hình ảnh "người chuốt từng sợi giang" đã làm nổi bật đức tính cần cù, tỉ mĩ, khéo léo, tài hoa của những con người nơi đây. Họ đã làm ra những sợi giang nõn nà để đan thành những chiếc nón. Đó là vật để che nắng che mưa không thể thiếu của người dân nơi đây và đó cũng có thể là thứ quà tặng dành cho những người mà họ yêu thương.

"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"

Khi âm thanh của tiếng ve vang lên, đó là âm thanh đặc trưng của mùa hè. Rừng phách đột ngột đổ vàng. Đó là sự chuyển biến đột ngột làm cho người ta có cảm giác khi tiếng ve vang lên thì những lá cây của cây phách từ lá màu xanh chuyển sang màu vàng. Cả không gian Việt Bắc như được nhuộm sắc vàng rực rỡ. Thời gian mang đến cho ta màu sắc và ẩn sâu trong cái sắc vàng rực rỡ ấy là hình ảnh cô em hái măng . Ở đó, toát lên được sự cần mẫn, cần cùm siêng năng , chăm chỉ . Măng là thứ rau để nuôi sống bộ đội cách mạng. Và hình ảnh cô gái hái măng một mình cho thấy được sự yên tĩnh, thư thái. Câu thơ làm ta liên tưởng đến câu:

"Trám bùi để rụng , măng mai để già"

Nếu như đặc trưng của mùa đông là hoa mơ, mùa xuân là hoa chuối, mùa hè là hoa phách vàng. Vậy còn mùa thu là hoa gì? Mùa thu không có hoa mà mùa thu có người. mà con người là loài hoa đẹp nhất. "Người ta là hoa của đất".

Khác với nền văn học trung đại, một nền văn học mà các nhà văn lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho cái đẹp thì nền văn học hiện đại lại lấy con người làm tiêu chuẩn cho cái đẹp. Điều này được thể hiện rất rõ ở câu thơ tả mùa thu của Tố Hữu.

"Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"

Nếu câu thơ lục là câu thơ tả hình ảnh ánh trăng thì câu thơ bát có "tiếng hát ân tình". Cặp đôi "trăng - nhạc" góp phần tạo nên vẻ đẹp lung linh, lãng mạn. Đất nước ta lúc ấy đang trong thời kì kháng chiến khốc liệt nhưng ở nhwunxg câu thơ của Tố Hữu ta chỉ thấy được sự bình yên, hòa bình, êm ả và ân tình thủy chung

Đoạn thơ dạt dào tình thương, tha thiết nỗi nhớ bồi hồi thấm sâu vào cảnh và người. Kẻ ở người về thì "ta nhớ mình" "mình nhớ ta". Tình cảm ấy vô cùng tha thiết, thiêng liêng, biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng đi qua nhưng ân tình thủy chung cách mạng giữa Việt Bắc vớ con người về xuôi vẫn luôn thủy chung son sắc, in đậm trong lòng người.

Tóm lại, với 10 câu thơ , Tố Hữu đã hài hòa trong câu lục tả cảnh , câu bát tả người, Và sự hài hòa ấy tạo nên một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp , đầy màu sắc. Qua đó, Tố Hữu bộc bạch được tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và sự thủy chung son sắc với những con người chất phát, hiền hòa nơi đây. Sự yêu mến và tự hào của Tố Hữu với Việt Bắc . Và ở mỗi bản thân chúng ta, cần phải biết đến những địa danh của Đất Nước mình, yêu mến và luôn tự hào về vẻ đẹp diệu kì của nó. Điều quan trọng hơn hết, chúng ta cần ghi nhớ công ơn to lớn của những chiến sĩ đã hi sinh ra sức chiến đấu dựng xây khiến chúng ta có được một đất nước yên bình , xinh đẹp như ngày hôm nay.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 5

Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình - nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi.

Và cứ thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi "Ta - mình" của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết "Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.

"Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve keo rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã "Thủ đô gió ngàn" về với "Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình". Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân - hạ - thu - đông.

Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:

"Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"

Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta", câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.

Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:

"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"

Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu "đỏ tươi" - gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

"Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương"

Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.

Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" . Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn.Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất - "đèo cao". Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do "Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta". Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy:

"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"

Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". "Trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ "nở" làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:

"Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ"

Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.

Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:

"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"

Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ "đổ" là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.

Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: "Nhớ cô em gái hái măng một mình". Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.

Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát:

"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình dọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:

"Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về"

Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.

Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung" gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 6.

Tố Hữu được xem là “lá cờ đầu” trong phong trào thơ Cách mạng Việt Nam với những tác phẩm lưu mãi với thời gian. Thơ ông viết về chính trị nhưng không khô khan, mà ngược lại, dễ đi sâu vào lòng người bởi tình cảm và giọng văn trữ tình truyền cảm. “Việt Bắc” được sáng tác trong hoàn cảnh chia ly tiễn biệt giữa quân và dân tại căn cứ địa Việt Bắc sau kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được xem như lời tâm tình chan chứa nỗi niềm của Tố Hữu đối với mảnh đất anh hùng này. Đặc biệt người đọc chắc hẳn sẽ không quên bức tranh tứ bình bằng thơ tuyệt đẹp trong “Việt Bắc”.

Xuyên suốt bài thơ “Việt Bắc” là dòng tâm tư, tình cảm chan chứa và sâu lắng của Tố Hữu dành cho quân và dân từng tham gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Người đọc sẽ bắt gặp những hình ảnh gần gũi, đời sống bình dị, cả những con người chân chất Việt bắc qua lời thơ Tố Hữu. Phải có một tình cảm da diết, phải là người “nặng” tình thì Tố Hữu mới thổi hồn vào từng câu đối đáp bằng thơ lục bát nhuần nhuyễn như vậy.

Có thể nói rằng điểm sáng của cả bài thơ toát lên từ bức tranh tứ bình tuyệt đẹp của núi rừng Việt Bắc qua giọng thơ dìu dặt, trầm bổng của Tố Hữu. Người đọc sẽ được chìm đắm trong khung cảnh hữu tình, nên thơ của “xứ Tiên” này.

Khổ thơ được mào đầu bằng câu đối đáp nhẹ nhàng giữa “ta” – “mình”:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Thật khéo léo và tinh tế khi Tố Hữu truyền đạt tình cảm một cách kín đáo như thế này. Ngôn ngữ gần gũi, cách diễn tả  nhẹ nhàng cũng đã khiến người đọc thấy rất thấm. Tố Hữu hỏi “người” nhưng thực ra là hỏi “mình” và câu trả lời nằm ngay trong câu hỏi. Lời mào đầu sâu sắc này sẽ dẫn người đọc lần lượt khám phá nét đặc trưng của núi rừng Việt Bắc trải dọc theo 4 mùa.

Dẫn dắt người đọc cùng tham quan cảnh tiên nơi Việt Bắc, Tố Hữu đã vẽ lên một bức tranh mùa đông ấm áp, tràn đầy tin yêu:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Người đọc ngẩn ngơ trước mùa đông nơi vùng cao Tây Bắc với vẻ đẹp đặc trưng của nó. Phải nói rằng tuy là mùa đông nhưng qua thơ Tố Hữu, cảnh sắc không buồn, không trầm lắng, mà người lại rất sáng, rất ấm áp qua hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”. Màu đỏ của hoa chuối chính là nét điểm xuyết, là ánh sáng làm bừng lên khung cảnh rừng núi mùa đông Việt Bắc. Đây được xem là nghệ thuật chấm phá rất đắc điệu của Tố Hữu giúp người đọc thấy ấm lòng khi nhớ về Việt Bắc. Ánh nắng hiếm hoi của mùa đông hắt vào con dao mang theo bên người của người dân nơi đây bất chợt giúp người đọc thấu được đời sống sinh hoạt và lao động của họ. Màu đỏ của hoa chuối quyện với màu vàng của nắng trên đèo cảo đã tạo thành một bức trang mùa đông rạng rớ, đầy hi vọng.

Bức tranh mùa xuân ở núi rừng Việt Bắc hiện lên thật trữ tinh, thơ mộng như tiên cảnh:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Đọc hai câu thơ này, người đọc dường như mường tượng ra khung cảnh mùa xuân nơi núi rừng thật hiền hòa, dịu êm, ấm áp. Màu trắng của mơ gợi lên một bức tranh nên thơ trên cái nền dịu nhẹ của màu sắc. Hoa mơ được xem là loài hoa báo hiệu mùa xuân ở Tây bắc, cứ vào độ xuân thì, chúng ta sẽ bắt gặp treenn những con đường màu sắc ấy. Mùa xuân Tây Bắc, Tố Hữu nhớ đến hình ảnh “người đan nón” với động tác “chuốt từng sợi giang” thật gần gũi. Động từ “chuốt” được dùng rất khéo và tinh tế khi diễn tả về hành động chuốt giang mềm mại, tỉ mỉ của người đan nón. Phải thật sâu sắc và am hiểu thì Tố Hữu mới nhận ra được điều này. Chữ “chuốt” như thổi hồn vào bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc, tạo nên sự hòa hợp thiên nhiên và con người.

Bức tranh mùa hè sôi động dưới ngòi bút của Tố Hữu:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Tiếng ve kêu vàng giữa “rừng phách” đã làm nên cái động giữa muôn vàn cái tĩnh. Màu vàng của rừng phách là đặc trưng báo hiệu mùa hè về trên xử sở vùng cao. Tiếng ve như xé tan sự yên tĩnh của núi rừng, đánh thức sự bình yên nơi đây. Từ “đổ” dùng rất đắc điệu, là động từ mạnh, diễn tả sự chuyển biến quyết liệt, lôi cuốn của màu sắc. Bức trang mùa hè chợt bừng sáng, đầy sức sống với màu vàng rực của rừng phách. Ở mỗi bức trang thiên nhiên, người đọc đều thấy thấp thoáng bóng dáng con người. Có thể nói đây chính là sự tài tình của Tố Hữu khi gắn kết mối tâm giao giữa thiên nhiên và con người. Giữa rúi bao la, thấp thoáng bóng dáng “cô gái hái măng” tuyệt đẹp đã khiến cho thiên nhiên có sức sống hơn.

Và cuối cùng chính là bức tranh mùa thu nhẹ nhàng:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Mùa thu về trên Tây Bắc với hình ảnh ánh trăng dịu, mát lành. Thiên nhiên dường như rất ưu ái cho mùa thu xứ bắc với sự tròn đầy, viên mãn của ánh trăng. Không phải là ánh trăng bình thường, mà trăng nơi đây là trăng của hòa bình, ánh trăng tri kỉ rọi chiếu những năm tháng chiến tranh gian khổ. Chính ánh trăng ấy đã mang đến vẻ đẹp riêng của mùa thu Việt bắc. Tố Hữu nhìn trăng, nhớ người, nhớ tiếng hát gợi nhắc ân tình và thủy chung.

Thật vậy với 4 cặp thơ lục bát ngắn gọn, 4 mùa của thiên nhiên Việt Bắc được gợi tả sắc nét, tràn đầy sức sống. Tác giả thật tài tình, khéo léo, vốn hiểu biết rộng cũng như tình cảm sâu nặng đối với mảnh đất này mới có thể thổi hồn vào thơ. Bức tranh tứ bình này sẽ khiến cho người đọc thêm yêu, thêm hiểu hơn cảnh vật và con người nơi đây.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 7.

“Ôi! Nỗi nhớ,có bao giờ thế!”.Nỗi nhớ đi qua thời gian,vượt qua không gian.Nỗi nhớ thấm sâu lòng người…Và nỗi nhớ ấy cứ ray rứt,da diết trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng miền xuôi khi xa rồi Việt Bắc thân yêu-nơi đã từng nuôi nấng mình trong những ngày kháng chiến gian lao….

Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Trong cùng một đoạn thơ ngắn nhưng từ “ nhớ” đã được lặp lại năm lần.Nỗi nhớ xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối đoạn.Hai dòng đầu là lời khơi gợi, “nhắc khéo”:mình có nhớ ta không?Riêng ta,ta vẫn nhớ!Cách xưng hô gợi vẻ thân mật,tình cảm đậm đà tha thiết.Ta với mình tuy hai mà một,tuy một mà hai. Người ra đi nhớ những gì?Việt Bắc có gì để mà nhớ,để mà thương?Câu thơ đã trình bày rất rõ?

“Ta về,ta nhớ những hoa cùng người’

Núi rừng,phong cảnh Việt Bắc được ví như “ hoa”.Nó tươi thắm,rực rỡ và “thơm mát”.Trong bức tranh thiên nhiên ấy,hình ảnh con người hiện lên,giản dị,chân chất,mộc mạc mà cao đẹp vô cùng!Con người và thiên nhiên lồng vào nhau,gắn kết với nhau tạo nên cái phong thái riêng của Việt Bắc.
Bốn mùa đất nước đi qua trong những câu thơ ngắn gọn bằng các hình ảnh,chi tiết chắc lọc,đặc trưng.Mỗi mùa mang một hương vị độc đáo riêng.
Mùa đông,rừng biếc xanh, điểm lên những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh nắng vàng rực rỡ.Xuân đến, cả khu rừng bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ.Hè sang, có ve kêu và có “ rừng phách đổ vàng”.Và khi thu về,thiên nhiên được thắp sáng bởi màu vàng dìu dìu của ánh trăng. Đoạn thơ tràn ngập những màu sắc chói lọi,rực rỡ: xanh, đỏ, vàng, trắng…Những màu sắc ấy đập mạnh vào giác quan của người đọc.Tiếp xúc với những câu thơ của Tố Hữu,ta như được chiêm ngưỡng một bức tranh sinh động.Trong đó,những gam màu được sử dụng một cách hài hoà tự nhiên càng tôn thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.
Thời gian vận hành nhịp nhàng trong những dòng thơ.Nó bước những bước rắn rỏi,vững chắc khiến ta chẳng thể thấy phút giao mùa.Thiên nhiên Việt Bắc còn được mô tả theo chiều dọc thời gian. Buổi sáng hoa “mơ nở trắng rừng”,trưa nắng vàng rực rỡ và khi đêm về,trăng dọi bàng bạc khắp nơi…Núi rừng Việt Bắc như một sinh thể đang biến đổi trong từng khoảnh khắc….
Và cái phong cảnh tuyệt vời,đáng yêu ấy càng trở nên hài hoà,nắng ấm,sinh động hẳn lên khi xuất hiện hình ảnh của con người.con người đang lồng vào thiên nhiên,như một đoá hoa đẹp nhất,có hương thơm ngào ngạt nhất.Mỗi câu thơ tả cảnh đi cặp với một câu thơ tả người.Cảnh và người đan xen vào nhau một cách hài hoà.Đây là những con người lao đông,gắn bó,hăng say với công việc.Kẻ “dao gài thắt lưng”,người “ đan nón”, “cô em gái hái măng một mình” và tiếng hát ân tình của ai đó vang lên giữa đêm rừng núi xôn xao…Hình ảnh con người là nét đẹp của thiên nhiên thêm rực rỡ.Chính họ đã thắp sáng thiên nhiên,làm cho thiên nhiên thêm rực rỡ.Chính họ đã gợi nên nỗi nhớ da diết cho người ra đi.Đọc đoạn thơ,ta có cảm nhận những vẻ đẹp bình dị mà trong sáng của tâm hồn người Việt Bắc.ở đó họ đối xử với nhau bằng tình nghĩa mặn mà,chân thật,bằng sự thuỷ chung “trước sau như một”.Họ đã nuôi chiến sĩ,nuôi cách mạng,nuôi cuộc

kháng chiến của dân tộc….Những con người Việt Bắc tuy bình dị nhưng thật anh hùng.
Khơi gợi hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây,TốHữu đã thể hiện một tình cảm tha thiết,ân tình sâu nặng và nỗi nhớ thương sâu sắc.Ta với mình,mình với ta đã từng:

“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa,chăn sui đắp cùng.”

Đã từng san sẻ những ngọt bùi,gian nan vất vả như thế!Ta,mình làm sao có thể quên nhau được.Tình cảm mến thương ấy đã ăn sâu vào tâm hồn kẻ ở,người đi.Vì thế,khi ra đi,nhớ là nỗi niềm khắc đậm sâu trong tâm khảm,tình cảm của tác giả.
Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng.Cả khổ thơ ôm chứa niềm lạc quan,vui sống và
tin tưởng vào cuộc sống.Nó mang âm điệu trữ tình,thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết và tấm lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu.Cuối đoạn thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm.Kỉ niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại….
Những câu thơ của Tố Hữu có tính khái quát cao so với toàn bài.Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc.Nỗi nhớ trong thơ của TốHữu đã đi vào tâm hồn người đọc,như khúc dân ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng,dịu dàng…..



Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 8.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp khi mà cánh đồng văn chương Việt Nam đang được làn gió “Thơ mới” thổi qua thì Tố Hữu lại tìm về với những vần thơ truyền thống. Khi đọc “Việt Bắc” ấn tượng ban đầu mà người đọc dễ dàng nhận thấy là tính dân tộc, tính dân gian rất đậm đà của bài thơ. Trong khi “Thơ mới’ đang chiếm ưu thế một cách tuyệt đối thì ta lại thấy xuất hiện trên thi đàn tập thơ “Từ ấy” nổi bật là bài “Việt Bắc” là đỉnh cao của sự tìm về cội nguồn văn thơ dân tộc. “Việt Bắc” là một trường ca tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp. Bài thơ ra đời và đi vào lòng người bằng giọng điệu ân tình thuỷ chung như ca dao, khắc hoạ sâu sắc nỗi niềm của người con rời “ thủ đô kháng chiến” mà trong thâm tâm đầy ắp kỷ niệm nhớ thương. Trong tâm trạng kẻ ở – người đi, hình bóng của núi rừng – con người Việt Bắc vẹn nguyên cùng ký ức với bao hình ảnh đơn sơ mà cảm động. Để hôm nay những câu thơ còn rung động lòng người với những sắc màu, âm thanh tươi rói hơi thở của núi rừng chiến khu, hơi ấm của người tình lan toả:

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao ắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng, Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hoà bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

Đọc “Việt Bắc” ta thấy rằng việc tác giả chọn cho bài thơ thể lục bát, lối đối đáp với một cặp đại từ nhân xưng “mình – ta” là rất phù hợp và hiệu quả. Hẳn không ít người đọc thắc mắc trong ca dao, tục ngữ có rất nhiều cặp đại từ nhân xưng được dùng phổ biến như: “chàng-nàng”, “anh-em”, “ta-nàng”, “mình-ta”, vậy tại sao Tố Hữu lại chọn cho bài thơ cặp “mình-ta”. Ở đây dường như nhà thơ có ẩn ý. Mình là ta và ta cũng có thể là mình. Cặp đại từ nhân xưng này có khả năng bao quát hết những cặp còn lại. “Mình-ta” có thể hiểu là anh em, mẹ con, hai người đang yêu nhau hay xa hơn là mối quan hệ trừu tượng giữa con người với núi rừng Việt Bắc. Chỉ là một cặp đại từ nhân xưng thôi mà có thể nói đến nhiều khía cạnh tình cảm khác nhau. Tố Hữu quả là người biết vận dụng văn thơ truyền thống một cách tinh tế và điêu luyện đến khâm phục.
Cảm hứng chính trị xuyên suốt một đời thơ Tố Hữu. Với tâm tình lẽ sống của nhà thơ “Việt Bắc” là kết tinh của tình cảm riêng – chung. Hoà điệu tự nhiên của hai luồng tình cảm: dân tộc và cách mạng. Tiếng nói từ nhân vật trữ tình nhập vai cũng chính là những lời suy ngẫm, tình cảm của nhà thơ thật khó tách bạch chủ thể và nhân vật. Ở đó cái tôi gắn với phẩm chất và tình cảm dân tộc, tiếng nói riêng tư “mình-ta” đã nói hộ tấm lòng của nhân dân và những người con cách mạng. Chất tự sự trữ tình chính trị như những lời thầm thì tâm sự cùng mọi người thuyết phục lòng người. Nổi nhớ là cảm xúc chủ đạo của bài thơ, gắn với “mình – ta, ta – mình”, là cung bậc thiết tha của tình cảm, là miền ký ức không phai mờ của người ra đi. Nỗi nhớ ở đây mựơn nguyên màu sắc ca dao, là sự nối tiếp, là khía cạnh tinh vi trong mối quan hệ khắng khít: hoa – người. Quê hương hiện hình trong vẻ đẹp cụ thể: vẻ đẹp tinh tuý của thiên nhiên (hoa) hoà hợp với vẻ đẹp và sức sống của con người. Mỗi một hình ảnh “hoa cùng người” như đem lại ấn tượng riêng biệt về nét đẹp của núi rừng Việt Bắc. Sự nối tiếp, đan xen sắc màu làm nên mạch cảm xúc của đoạn thơ, nỗi nhớ qua từng câu thơ càng trở nên đậm đà, mãnh liệt và da diết hơn. Nhà thơ dường như hướng toàn bộ tâm tư, ngòi bút của mình về con người nơi đây với những phẩm chất bình thường mà vĩ đại.
Tố Hữu đã khéo léo vận dụng thành công đặc trưng tái hiện không gian vô cực của thi ca gói trọn bốn mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông trong những sắc màu đẹp nhất, hài hoà nhất. Mỗi bức tranh gồm hai mảng: một mảng xa, một mảng gần. Mỗi bức đều có sự gắn bó giữa thiên nhiên với con người, sự gắn bó trong nỗi nhớ những hoa cùng người của nhà thơ:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Nét son của bức tranh núi rừng ở đây là màu đỏ tươi của hoa chuối khiến cho núi rừng đã xanh lại càng thêm xanh. Chấm phá của tranh thuỷ mặc điểm một sắc đỏ trong không gian xanh bao la, không gian mang sức sống mãnh liệt.
Mùa đông trong câu thơ của Tố Hữu cũng lan toả hơi ấm mùa hè, không hề có cảm giác lạnh lẽo, bởi sắc đỏ của hoa chuối như phun trào từ giữa màu xanh của rừng. Bên cạnh nét đẹp của hoa là nét đẹp khoẻ khoắn của người. “Nắng ánh dao gài thắt lưng” là hình ảnh của người dân miền sơn cước. Cách doán dụ không phải tình cớ ngẫu nhiên mà chọn con dao đi rừng-vật bất ly thân của người miền núi-nét đặc trưng của cuộc sống Việt Bắc. Con người nổi bật trong không gian đèo cao, càng nổi bật trong ánh nắng, thành một điểm sáng giữa khung cảnh mùa đông mang trong mình nét hiên ngang hùng vĩ của núi rừng.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Không gian mùa xuân bừng sáng trong sắc hoa mơ. Sức sống mùa xuân lan toả khắp núi rừng Việt Bắc. Giữa nền trắng hoa mơ nổi bật “người đan nón”. Nỗi nhớ ở đây cụ thể đến từng chi tiết “chuốt từng sợi giang”. Dường như đối với Tố Hữu bao nhiêu sợi giang là bấy nhiêu sợi nhớ. Nỗi nhớ cứ liên tiếp, đan xen vào nhau và kéo dài suốt bốn mùa trong năm. Trong tả cảnh không có một âm vang nào của nùi rừng nhưng vẻ đẹp của mùa xuân vẫn sinh động nhờ hoạt động của con người. Sợi nhớ, sợi thương đan dày trong tâm tưởng, con người đẹp tự nhiên trong những công việc tỉ mẩn hàng ngày.

“Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Không gian nỗi nhớ hình như rõ nét nhất, đậm đà nhất trong bức tranh này- nỗi nhớ mùa hạ. Và cũng đọng lại hình ảnh ngọt ngào thân thương nhất của “cô em gái hái măng”. Câu thơ tả cảnh giàu sức biểu cảm, tiếng ve ran gọi màu vàng tràn ngập không gian, không gian lung linh hơn khi sắc vàng đổ xuống. Ấn tượng màu vàng đẹp như bức vẽ tả thực vừa làm xao xuyến lòng người trong tiếng ve dóng dả gọi hè, như gọi cả màu vàng đất trời về phủ kín cánh rừng.

“Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

Không gian chuyển về đêm như hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mĩ của núi rừng Việt Bắc. Đêm thu và ánh trăng nhẹ nhàng như lan toả vào màu xanh của núi rừng. Vẻ đẹp của khu rừng dưới ánh trăng gợi lên sự huyền ảo, khung cảnh gợi hồn thơ. Nỗi nhớ cũng mênh mang như ánh trăng trở thành “tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Nhớ không cụ thể một đối tượng nào. Chúng ta liên tưởng đến câu ca dao:

“Nhớ ai ra vào ngẩn ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai”

Tình người bâng khuâng trong câu thơ gợi cảm xúc đồng điệu giữa kẻ ở người đi. Đọng lại trong nỗi nhớ là “ân tình thuỷ chung” dào dạt. Đoạn thơ diễn tả nỗi nhớ gắn với hình ảnh của núi rừng và bốn mùa hoà chung sắc màu đa dạng làm nên vẻ hấp dẫn cho bức tranh phong cảnh trữ tình. Thời gian diễn tả tuần tự, nhưng không làm phai nỗi nhớ, mà thờ gian trôi đi càng làm nỗi nhớ thêm tha thiết,sâu lắng. mỗi mùa đến đều có một không gian đặc trưng và khi đi qua đều để lại một khoảnh khắc đẹp và đáng cất giữ trong tâm hồn – đó là khi nhà thơ bắt nhịp cùng không gian – cảnh vật. Đó là tình yêu đích thực, rung động chân thành của trái tim nhà thơ. Cũng là tấm lòng của những người con kháng chiến sâu nặng với “thủ đô kháng chiến”.


Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 9.

“Việt Bắc” là một trong những tập thơ hay nhất của đời thơ Tố Hữu. Linh hồn của tập thơ này chính là bài thơ cùng tên “Việt Bắc”. Bao trùm lên cả bài thơ là nỗi nhớ của anh bộ đội Cụ Hồ với người dân áo tràm, của người miền xuôi với người miền ngược. Đoạn thơ bình giảng là lời tâm tình của chàng trai với cô gái, khẳng định những tình cảm, những kỷ niệm, những ấn tượng không bao giờ phai cho dù phải chia xa xứ sở Việt Bắc:

“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trắng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

Trích đoạn bình giảng bao gồm mười câu thơ đơợc chia thành năm cặp lục bát. Cặp đầu tiên là lời nói có tính chất đưa đẩy nhưng không phải không giấu kín những tình ý sâu xa. Ở đây người con trai ướm hỏi cô gái:

“Ta về mình có nhớ ta”

Nhưng khi cô gái còn chưa kịp trả lời thì chàng trai cũng đã khẳng định tình cảm của mình:

“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Ẩn ý của người về ở đây là: chẳng biết ta về mình có nhớ ta hay không nhưng ngay cả khi mình không nhớ ta thì ta vẫn cứ nhớ mình. Nội dung chính của trích đoạn bình giảng tập trung vào tám câu thơ còn lại. Tám câu thơ là bốn cặp lục bát, mỗi cặp là một bức tranh thiên nhiên tương ứng với một mùa nào đó ở núi rừng Việt Bắc. Bốn bức tranh hợp lại thành một bộ tứ bình hoàn chỉnh.
Có lẽ trong bộ tranh tứ bình này, Việt Bắc hiện ra đầu tiên trong bức tranh mùa đông. Gam màu chủ đạo của bức tranh này đó là gam màu xanh:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”

Đọc câu thơ này ta nhận thấy nghệ thuật quen thuộc trong thơ ca cổ điển được Tố Hữu sử dụng khá nhuận nhuyễn: nghệ thuật chấm phá. Tố Hữu nghiêng về gợi nhiều hơn tả, không hề miêu tả rừng xanh như thế nào mà chỉ gợi lên qua hai tiếng “rừng xanh”. Chúng ta có thể hình dung ra những cánh rừng già với một màu xanh vừa thâm u, vừa yên tĩnh. Trên nền xanh thâm u, trầm mặc ấy, Tố Hữu đả điểm thêm vào đó những bông hoa chuối rừng. Màu đỏ của nó làm sáng rực cả khung cảnh. Những bông hoa chuối rừng chẳng khác nào những bó đuốc đang bập bùng cháy. Màu đỏ của hoa chuối trong bài thơ này còn tượng trưng cho màu đỏ của lý tưởng của Cách mạng.
Hiện lên trên bức tranh này, người Việt Bắc đang trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào lưỡi dao lóe sáng làm cho cảnh càng sống động hơn:

“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Hình ảnh người Việt Bắc trên đỉnh đèo cao đã làm toát lên phẩm chất của họ. Đó là những con người tự tin, hào hùng, đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ núi rừng. Cũng có thể, hình ảnh con người trên đỉnh đèo cao trong câu thơ này chính là những anh bộ đội Cụ Hồ đã hơn một lần bước vào trong thơ Tố Hữu.
Trong bộ tranh tứ bình, gam màu Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt: từ màu xanh thâm u, trầm mặc của rừng già trong những ngày mùa đông nay đã chuyển sang màu trắng thanh khiết của hoa mơ khi mùa xuân đến:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng”

Giờ đây, trước mắt chúng ta là những cánh rừng Việt Bắc hiện lên với màu trắng thanh khiết của hoa mơ. Nó vừa gợi lên sự trang trọng, thiêng liêng nhưng không kém phần bình dị, gần gũi. Ở bức tranh Việt Bắc những ngày mùa xuân, ta không chỉ thấy màu trắng của rừng mơ mà màu trắng còn hiện ra qua những chiếc nón, màu trắng của những sợi giang. Người Việt Bắc lại hiện lên trong bức tranh này qua nỗi nhớ của người về. Đó là những con người lao động:

“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Hai chữ “chuốt từng” đã làm toát lên phẩm chất của con người Việt Bắc: cần mẫn, tài hoa, chịu thương chịu khó.
Có lẽ bức tranh đẹp nhất trong bộ tranh tứ bình này chính là Việt Bắc với mùa hè bởi ở đây không chỉ có sắc màu của núi rừng Việt Bắc mà còn có âm thanh của mùa hạ. Đó là tiếng ve kêu:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng”

Câu thơ chỉ có sáu âm tiết mà chứa đựng cả một chuỗi vận động liên hoàn: ve kêu gợi mùa hè đến, mùa hè nhuộm vàng rừng phách. Nhưng dường như chính tiếng ve đã nhuộm cho rừng phách ngả vàng. Nghĩa là âm thanh đã chuyển hóa thành màu sắc. Những ngày cuối xuân cả rừng phách vẫn còn non tơ đến mơ màng thế mà chỉ cần vài tiếng ve trong những ngày đầu tiên của mùa hè thì cả rừng phách nhất loạt chuyển sang màu vàng. Vì tốc độ mau lẹ như vậy, Tố Hữu sử dụng từ “đổ” là hoàn toàn chính xác. Chỉ có chữ “đổ” mới thể hiện được trong chốc lát cả rừng phách kia bỗng lênh láng sắc vàng. Chữ “đổ” đã đạt đến độ chính xác của văn chương bởi nó là những ngôn từ mô tả đúng tình, đúng cảnh, đúng người. Hiện lên trong bức tranh ấy, người Việt Bắc lại xuất hiện trong công việc:

“Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Hình ảnh cô em gái trong câu thơ này hiện lên trong nỗi nhớ của người về, được bao bọc trong cái nhìn đầy thương cảm của nhân vật trữ tình. Hai chữ “một mình” đã khắc họa hình ảnh những con người lao động Việt Bắc thầm lặng, giàu đức hi sinh, kiên trì, nhẫn nại. Kết thúc bộ tứ bình, vầng trăng hòa bình đã xuất hiện:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình”

Nếu ba bức tranh trên Tố Hữu đều vẽ nên cảnh Việt Bắc vào ban ngày thì đến đây Việt Bắc lại hiện về trong đêm tối. Thiên nhiên Việt Bắc đã hiện lên thêm phần phong phú và đa dạng. Ta không chỉ thấy cảnh sắc hiện ra trước ánh ngày với màu vàng của nắng, màu vàng của rừng phách, màu vàng của những đọn măng, màu trắng của hoa mơ, của những chiếc nón, và màu đỏ tươi của hoa chuối rừng, … Cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc còn hiện về dưới ánh trăng lung linh, huyền ảo. Bức tranh này đã hiện ra cùng với tiếng hát:

“Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Nghe tiếng hát của những con người Việt Bắc ta lại toát lên phẩm chất mới của họ. Đó là những con người suốt cả cuộc đời thủy chung son sắt với Đảng, với Cách Mạng.

Đọc lại đoạn trích bình giảng, ta nhận thấy cặp từ xưng hô nhất quán mà Tố Hữu sử dụng là “ta” và “mình”. Ấy vậy mà ở câu thơ cuối cùng ta lại bắt gặp đại từ phiếm chỉ “ai” và “nhớ ai”. Suy đến cùng, “ai” chính là mình trong lòng ta mà thôi.
Hiện lên trong nỗi nhớ của người về là thiên nhiên với bốn mùa và con người Việt Bắc cùng bốn dáng điệu khác nhau. Tình cảm Cách Mạng đã hòa chung vào tình yêu lứa đôi. Đây là một nét đẹp, một thành công của Tố Hữu trong đoạn thơ này.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 10

Pauxtôpxki đã từng nói “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp”. Quả đúng như thế, trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã mở đường đến với cái đẹp của bộ tranh tứ bình và cũng là mở đường đi tới tình yêu quê hương đất nước :
Ta về mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa… Trong đó, “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ được làm vào tháng 10.1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm hứng từ không khí của buổi chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết nên bài thơ này. Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc với cảnh đẹp bốn mùa Xuân – Hạ Thu – Đông.
Hai câu thơ mở đầu mang cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là cảm xúc nhớ nhung không nguôi về Việt Bắc:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ bâng khuâng thấm vào hồn người và cảnh vật. Vẫn là cách xưng hô “Ta – Mình” ngọt ngào trong ca dao gợi nhiều cảm xúc. “Ta” chỉ người đi, “mình” chỉ người ở lại. Điệp từ “ta” được nhắc lại bốn lần cùng với từ “hoa” là âm “a” (âm mở) khiến cho dòng cảm xúc của người đi như bỗng trở nên mênh mang sâu lắng hơn. Người về mang theo nỗi nhớ “những hoa cùng người”. “Hoa” là vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc còn “người” là vẻ đẹp của con người lao động Việt Bắc. Bốn cặp câu tiếp theo, câu lục nhắc đến hoa thì câu bát lại nói đến người. Hoa và người đều hài hòa trong những câu thơ đầy lãng mạn, trẻ trung của hồn thơ Tố Hữu. Nói “nhớ những hoa cùng người” phải chăng là nỗi nhớ trong nỗi niềm bâng khuâng, da diết cứ tuôn chảy khắp thiên nhiên, núi rừng chiến khu.
Bức tranh mùa đông mở ra thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đầy sức sống:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc vào tháng 10.1954, khi ấy miền Bắc nước ta đang vào mùa đông. Cho nên, mùa Đông là mùa trong hiện tại, cũng là mùa mở ra bộ tranh tứ bình. Cũng có ý kiến cho rằng, sở dĩ mùa đông là mùa bắt đầu trong đoạn thơ này là vì Tố Hữu lấy cảm hứng từ thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu đông.
Nhắc đến mùa đông người ta thường nghĩ đến cảnh rét mướt , lụi tàn, lòng người thì cô đơn, tiết trời thì u ám. Nhưng đến với mùa đông trong thơ Tố Hữu thì ngược lại, thiên nhiên ở đây lại giàu sức sống và ấm áp. Hai màu sắc đối lập mà hài hòa “xanh” – “đỏ tươi” mang đến bao cảm xúc. Màu xanh là màu của sự sống, màu của cánh rừng mùa đông tươi tốt chứ không hề tàn lụi. Hoa chuối “đỏ tươi” nở rộ lung linh dưới ánh mặt trời. Trong gam màu hội họa, màu đỏ là gam màu nóng, cho nên, chính nó cũng đã xua đi gam màu lạnh lẽo của rừng xanh mang đến sự ấm áp cho bức tranh thiên nhiên.
Bức tranh màu đông càng sống động hơn bởi sự xuất hiện của con người, ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất lương thực cung cấp cho kháng chiến. Con người tỏa sáng trong từng câu chữ “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một điểm hội tụ của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do, làm chủ lao động, làm chủ tình thế với đôi cánh tay như hai cánh bay lên: “Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta” (Nguyễn Đình Thi). Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi. Có thể nói, giữa hoang sơ tráng lệ, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Bức tranh mùa xuân lan tỏa và bừng sáng một sức sống hoang dại và mãnh liệt của hoa mơ:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Nếu như phương Nam nắng gió nổi tiếng với sắc vàng của hoa Mai, Hà Nội với màu đỏ của hoa đào thì Việt Bắc có đặc trưng riêng bởi màu trắng của hoa mơ. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng. Động từ “nở” nằm ở giữa câu làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Nở trắng cả thời gian “ngày xuân”, nở trắng cả không gian “trắng rừng”. Như vậy là màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón Bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:
Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Dưới bóng hoa mơ dịu mát, thấp thoáng hình ảnh con người lao động với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Người Việt Bắc đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày, đó là công việc đan nón bằng thủ công, một nghề truyền thống của Việt Bắc. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay và phẩm chất của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc tạo nên nét đáng yêu của con người làm chủ nơi đây.
Bức tranh mùa hạ Việt Bắc óng vàng tựa như một bức tranh sơn mài vừa đậm chất cổ điển vừa mang những đường nét hiện đại:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Câu thơ thứ nhất có hai hình ảnh: tiếng ve và hoa phách. Tiếng ve là đặc trưng của mùa hạ. Hoa phách là đặc trưng của mùa hè Việt Bắc. Những ngày cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh bạt ngàn, những nụ hoa còn náu kín trong kẽ lá, khi bản đàn ve vừa dạo khúc đầu tiên của mùa hè thì những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông, cả rừng phách lai láng sắc vàng. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Đặc biệt, câu thơ tựa như một bức sơn mài càng ngắm càng đẹp, càng ngắm càng say mê. Tranh mùa hè mà cứ cảm tưởng như màu vàng trong tranh của những danh họa phương Tây vẽ về mùa thu.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Trong thơ xưa, người phụ nữ miền sơn cước thường xuất hiện với những thân phận đau buồn hay sự cô đơn, hiu hắt:
Cô hái mơ ơi! Cô gái ơi!
Chẳng trả lời tôi lấy một lời
Cứ lặng mà đi rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt, lá mơ rơi
(Nguyễn Bính)
Trong thơ Tố Hữu, người em xuất hiện rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương. Hai chữ “một mình” mà vẫn không gợi lên cái cô đơn hiu hắt bởi cô đang làm bạn với thiên nhiên tươi đẹp, đang làm chủ lao động, làm chủ tự do. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả. Ba chữ “măng – một – mình” đi liền với nhau tạo nên nhạc tính làm giọng thơ trở nên da diết bâng khuâng. Người đi rồi mà dường như hồn còn lạc giữa bạt ngàn hoa phách. Và dường như, nhớ em, anh không chỉ nhớ trong quá khứ, trong hiện tại mà còn nhớ em trong cả tương lai nữa, vì mai về rồi lại thương em lẻ loi đơn chiếc một mình.
Khép lại bộ tranh tứ bình là bức tranh mùa thu cùng tiếng hát chia tay giã bạn để lại âm vang nghĩa tình kháng chiến:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Có ai đó đã nói rằng: núi rừng Việt Bắc nhiều sắc hoa nhưng có loài hoa lạ “Hoa trăng”. Trăng đẹp nhất là trăng mùa thu. Có lẽ chính vì vậy mà bức tranh thiên nhiên và con người càng trở nên gần gũi, thân thương hơn bao giờ hết. Chữ “rọi” rất hay, nó diễn tả được ánh trăng tràn ngập cả không gian bao la. Đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc.
Giữa bao la ánh trăng vàng dịu mát ấy lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng tình cảm, mang phong vị ca dao, dân ca đậm hồn dân tộc. Cách miêu tả giàu hình ảnh, sử dụng nhiều động từ và hình ảnh giàu tính biểu cảm. Phối màu sống động. Điệp từ nhớ biến hóa linh hoạt để lại trong lòng bao dư vị khó quên: nhớ ta – ta nhớ những hoa cùng người; nhớ người đan nón – nhớ cô em gái – nhớ ai tiếng hát. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ giàu tính tạo hình về thiên nhiên và con người Việt Bắc, mở rộng hơn nữa, đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng trong tâm hồn của nhà thơ cách mạng – Tố Hữu.
Vâng! Bộ tranh tứ bình Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước. Nói về lòng yêu nước, nhà văn I-li-a Ê-ren-bua của nước Nga từng nói: Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang Von-ga, con sông Von-ga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Đọc bộ tranh tứ bình của Việt Bắc lại càng yêu thương thấm thía hơn cảnh đẹp của quê hương đất nước mình trên khắp mọi nẻo đường quê. Yêu quê hương nào đâu chỉ là yêu văn hóa, yêu con người, yêu tiếng mẹ đẻ mà yêu quê hương, yêu đất nước mình còn là vì những cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp ấy. Tố Hữu đã mang vào tận tâm hồn ta vẻ đẹp thiên nhiên bốn mùa tươi đẹp cho ta yêu những điều bình dị, thân thiết, gắn bó trong cuộc sống hằng ngày. Thiên nhiên đất nước ta thật đẹp thật hào hùng mà cũng thật lãng mạn biết bao. Đó là Lũng Cú đến mũi Cà Mau với chiều dài đất nước từ cực Bắc đến cực Nam, từ Tây sang Đông. Nơi có biết bao danh thắng thiên nhiên mà nhân dân đã góp công sức tạo thành. Những sông suối thiên nhiên chảy vào dòng sông thi ca lấp lánh bao vần thơ đẹp: sông Hương, sông Thu Bồn, sông Đà Rằng, sông Hồng “tiếng hát bốn ngàn năm”. Những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái… do tình yêu thủy chung của con người tạo nên. Cho đến cả những người dân bình dị cũng góp tuổi góp tên mình dựng xây nên “tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”.
Trong không gian sinh tồn ấy, con người Việt Nam đã sinh sống và làm việc, cùng yêu thương, đoàn kết, chia bùi sẻ ngọt, cùng chống lại bao kẻ thù hung bạo để bảo vệ độc lập dân tộc. Con người Việt Nam thật đáng tự hào, họ là những con người “sống giản dị, chết bình tâm”. Thời chiến tranh quyết xông pha trận mạc, cái chết có hề chi dù “trăm thân phơi ngoài nội cỏ, ngàn xác này gói trong da ngựa” . Thời bình, họ “cần cù làm lụng”, “súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”. Đó là vẻ đẹp của lối sống yêu chuộng hòa bình, coi trọng danh dự, phẩm giá con người.
Ngày nay, sống trong thời bình nhưng chúng ta cũng không ngừng nâng cao cảnh giác trước những diễn biến hết sức phức tạp của khu vực và thế giới, nhất là cuộc chạy đua vũ trang toàn cầu. Một cuộc chiến có thể xảy ra. Hơn bao giờ hết, mỗi bạn trẻ cần tích cực học tập để có kiến thức, nâng cao lòng yêu nước và quyết tâm bảo vệ quê hương nếu xảy ra biến cố. Nên nhớ rằng: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, đá có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” (Hồ Chí Minh). Hãy yêu đất nước mình từ con đường đi học đến nhành cây, ngọn cỏ, từng giọng nói thầy cô đến ánh mắt mẹ cha âu yếm nhìn ta mỗi buổi về nhà.
Xin cảm ơn nhà thơ Tố Hữu đã mang đến cho ta những vần thơ đẹp về thiên nhiên nhiên và con người Việt Bắc mà cũng là cảnh trí, con người Việt Nam. Vẻ đẹp của bộ tranh tứ bình ấy giúp ta cảm nhận thấm thía hơn tình yêu thiên nhiên của tác giả và cũng giúp chúng ta ngộ ra được tình yêu đất nước nào đâu phải ở đâu xa, yêu những điều bình dị quanh ta cũng là yêu đất nước, quê hương. Vâng! Hãy yêu quê hương, đất nước mình, vì “Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nổi thành người” (Đỗ Trung Quân)

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 11

Tố Hữu, cây bút trữ tình chính trị xuất sắc nhất của Văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông luôn bám sát từng sự kiện, từng mốc lịch sử của dân tộc. Việt Bắc chính là bản tổng kết về cuộc kháng chiến chống Pháp, đồng thời thể hiện niềm vui, niềm tự hào của ông về chiến thắng của dân tộc. Nhưng đằng sau tính chất sự kiện lịch sử ấy, trong Việt Bắc còn có những vần thơ rất đẹp, rất giàu cảm xúc khi viết về thiên nhiên, đó là bức tranh tứ bình. Có thể coi bức tranh tứ bình là một trong những điểm nhấn quan trọng nhất, tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

    Bức tranh tứ bình được trích từ câu 43 đến câu 52 của tác phẩm. Đây là đoạn thơ đặc sắc nhất, hoàn toàn có thể tách riêng như một tác phẩm độc lập. Đoạn thơ gồm có mười câu chia thành hai phần, hai câu đầu là sự khái quát về cảm xúc chủ đạo được nói đến trong đoạn là nỗi nhớ; phần còn lại là vẻ đẹp của bốn mùa, ứng với bốn cặp lục bát. Lối vẽ theo kiểu bộ tứ bình là lỗi khác họa rất được ưa chuộng của văn học trung đại. Sử dụng hình thức này, một lần nữa Tố Hữu tạo nên tính dân tộc đậm đà cho tác phẩm.

    Mở đầu tác phẩm là bức tranh mùa đông:

    Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

    Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

    Thiên nhiên được khắc họa bằng màu xanh thẫm đặc trưng của đại ngàn và trên nền xanh thẫm ấy, Tố Hữu sử dụng nghệ thuật chấm phá để đưa vào hình ảnh “rừng xanh hoa chuối đỏi tươi” dù chỉ là một bông hoa nhưng sắc đỏ của nó đã làm bừng sáng cả không gian, xua tan cảm giác lạnh lẽo của mùa đông Việt Bắc. Con người lao động xuất hiện trong tư thế khỏe khoắn, một mình đối diện với thiên nhiên nhưng không bị thiên nhiên che khuất mà vượt lên đó trong tư thế là chủ vũ trụ. Ở đây Thiên nhiên dường như còn đang hô ứng để làm bật lên hình ảnh của con người, ánh nắng phản chiếu vào những lưỡi dao tạo nên vẻ đẹp lấp lánh, không hề sắp đặt mà đó là vẻ đẹp tự nhiên.

    Bức tranh mùa xuân lại được Tố Hữu khắc họa hết sức trong sáng, tinh khiết:

    Ngày xuân mơ nở trắng rừng

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

    Điểm nhấn của bức tranh chính là sắc trăng thanh khiết, tao nhã của rừng mơ. Đây là loài hoa đặc trưng của núi rừng Tây Bắc. Tuy cả bức tranh là một sắc trắng, nhưng không hề tạo ra cảm giác đơn điệu, bởi tác giả đã động từ hóa từ “trắng” kết hợp với động từ “nở” khiến cho người đọc có cảm giác sắc trắng không hề tĩnh lặng mà đang có sự vận động từ một điểm lan ra cả bức tranh. Bởi vậy bức tranh tuy ít chi tiết mà vẫn vô cùng sống động. Tương ứng với vẻ đẹp thiên nhiên, là vẻ đẹp của người dân lao động ở Việt Bắc. Với đôi bàn tay khóe léo, tài hoa, họ chuốt từng sợi giang, đó là vẻ đẹp của tự tài nghệ, thuần thục mà cũng hết sức giản dị.

    Vẻ đẹp của bức tranh mùa hẹ được khắc họa bằng âm thanh, màu sắc rất đặc trưng:

    Ve kêu rừng phách đổ vàng

    Nhớ cô em gái hái măng một mình

    Âm thanh của tiếng ve rộn rã, vui tươi; sắc vàng ấm nóng ngập tràn cả không gian. Tác giả đã rất xuất sắc khi dùng các từ “đổ” để diễn tả quá trình biến đổi màu sắc. Quá trình ấy diễn ra mau lẹ, đột ngột và vô cùng bất ngờ. “Ve kêu rừng phách đổ vàng” là một câu thơ gợi nhiều liên tưởng cho người đọc. Vừa có thể hiểu là tiếng ve kêu trong rừng phách đổ vàng, vừa có thể hiểu tiếng ve kêu làm cho rừng phách đổ vàng, nếu hiểu theo cách này có thể thấy sức sống của bạn vật đang độ viên mãn căng đầy nhất. Hình ảnh con người vẫn tiếp tục ở trạng thái cần cù lao động. Cô em gái xuất hiện một mình nhưng lại không gợi cảm giác buồn bã, đơn độc, bởi có sự đồng điệu, hô ứng với thiên nhiên đang ở độ chín, độ đẹp nhất.

    Bức tranh cuối cùng là bức tranh mùa thu, với ánh trăng lan tỏa khắp nơi:

    Rừng thu trăng rọi hòa bình

    Nhớ ai tiếng hát ân tình, thủy chung

    Trăng vốn là thi đề muôn thuở của thơ ca, và trăng vào mùa thu là lúc trăng tròn và đẹp nhất. Miêu tả trăng của chiến khu Việt Bắc tác giả đã tái tạo không khí bình yên, tĩnh lặng. Vẻ đẹp của vầng trăng không đơn thuần là vẻ đẹp của thiên nhiên, mà còn là vẻ đẹp của hòa bình. Hình ảnh con người được khai thác thong quá hình thức sinh hoạt văn hóa đặc trưng của người dân Việt Bắc đó là lối hát giao duyên, đó là tiếng hát ân tình, thủy chung.

    Với thể thơ lục bát thuần dân tộc, đạt đên độ mẫu mực. Câu thơ ngắt nhịp đều đặn, cùng với hiểu quả vần đã làm cho đoạn thơ đậm chất nhạc. Hình ảnh không cầu kì, song được chọn lọc kĩ lưỡng bởi vừa toát lên sự giản dị vừa thể hiện vẻ đẹp tinh tế.

    Bức tranh tứ bình là đoạn thơ xuất sắc nhất trong bài thơ Việt Bắc. Nếu cắt theo chiều ngang thì đoạn thơ là bức tranh toàn cảnh về bốn mùa trong năm của Việt Bắc. nếu cắt theo chiều dọc lại có thể thấy vẻ đẹp vừa song song, vừa hòa quyện đó là vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đoạn thơ cũng cho thấy bút pháp tài tình, ngôn ngữ thơ tinh tế tài hoa của Tố Hữu.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 12

Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của Tố Hữu và cũng là của thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Mượn lời đối đáp của một đôi bạn tình trong phút chia tay, bài thơ thể hiện tình sâu nghĩa nặng của các dân tộc Việt Bắc đối với cách mạng, với Đảng và Bác Hồ; đồng thời bộc lộ tình cảm mặn nồng thủy chung của người cán bộ cách mạng, cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc mà nhà thơ gọi một cách trân trọng là “quê hương cách mạng”. Rời Việt Bắc, bao nhiêu nỗi nhớ dâng đầy trong lòng người ra đi. Người cán bộ cách mạng không quên dành một khoảng nhớ thiết tha cho thiên nhiên và con người Việt Bắc. Nội dung ấy được thể hiện bằng năm cặp thơ lục bát vừa mượt mà, đằm thắm, vừa êm ả như ca dao lại vừa trang trọng như những vần thơ cổ điển:

Ta về, mình có nhớ ta 
Ta về ta nhớ những hoa cùng người 
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi 
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. 
Ngày xuân mơ nở trắng rừng 
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang 
Ve kêu rừng phách đổ vàng 
Nhớ cô em gái hái măng một mình 
Rừng thu trăng rọi hoà bình 
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.


Đoạn thơ này thể hiện nỗi nhớ của người miền xuôi đối với quê hương cách mạng nhưng nếu tách ra thì nó giống như một bài thơ hoàn chỉnh – bài thơ ca ngợi thiên nhiên và con người Việt Bắc, mảnh đất đã từng gắn bó máu thịt với người cán bộ miền xuôi. Những câu thơ tự nhiên như tuôn chảy từ trong lòng, không một chút dụng công mà thiên nhiên Việt Bắc cũng như con người nơi đây hiện lên trên trang thơ đẹp như một bộ tứ bình. Vì sao vậy? Có lẽ vì thi nhân đã bao nhiêu năm trời sống cùng đồng bào Việt Bắc, mến thương từng hoạt động của họ, đã bao nhiêu mùa ngắm nhìn phong cảnh, thuộc các mùa hoa của núi rừng. Nói cách khác,thiên nhiên và con người Việt Bắc đã có chỗ đứng danh dự trong tâm hồn nhà thơ, làm nên máu thịt của thi sĩ để lúc này, khi chia tay Việt Bắc, cảm xúc yêu thương đã đến độ chín ấy như tự nó chảy trên trang giấy mà thành thơ vậy. Phải chăng đó là chân lí mà Chế Lan Viên đã [từng khái quát: “Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”?
Đoạn thơ gồm năm cặp thơ lục bát thì cặp thơ đầu tiên giới thiệu chung về nội dung và cảm xúc, vừa là lời thoại lại vừa là cái có đế tác giả bày tỏ lòng mình:

Ta về, mình có nhớ ta 
Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Cuộc chia tay giữa những người kháng chiến và Việt Bắc, giữa miền ngược và miền xuôi đã trở thành cuộc chia tay giữa những người yêu nhau với lối hát giao duyên, vói cách xưng hô “mình” – “ta” thân thiết, trìu mến. Đây cũng chính là sự nổi tiếp giọng điệu trữ tình thông nhất trong toàn bài. Cách điệp từ ” ta về” ở đau câu đã tạo ra một sự đăng đối rat tinh tế. Câu trên là hòi người, câu dưới lại là giãi bày lòng mình với một giọng điệu chân tình, ngọt ngào, tha thiết. Đặt câu hỏi trước khi giãi bày tâm sự, tác giả Tố Hữu đà khiến cho tình cảm của kẻ ở người đi có quan hệ hai chiều và nhờ đó mà quân quýt, khắng khít, khiến cho lòng người vương vấn nhiều hơn. Có lẽ đó cùng là lí do khiên cho cách xưng hô “mình” — “ta” cứ trở đi trở lại trong hai dòng thơ và chiếm tới một nửa dung lượng của câu thơ sáu chữ. Cùng với phong vị phảng phất ca dao, câu thơ đã tạo ra một lối nói đưa đẩy mặn mà, thắm thiết. Nỗi nhớ về những tháng ngày gắn bó với cảnh và người Việt Bắc cứ hiện dần lên trong tâm trí người đi: nhớ trước nhất là “hoa cùng người”. Từ “cùng” được sử dụng không chỉ biểu hiện sự phong phú của vẻ đẹp miền đất này mà còn gợi lên một cảm giác giao hòa, đăng đốì. Hoa và người cùng hòa quyện, cùng sóng đôi trong nỗi nhớ cũng như cái đẹp thiên nhiên Việt Bắc không thể tách ròi vẻ đẹp của con người noi đây.
Bốn cặp lục bát tiếp theo thực sự là một bộ tranh tứ bình ngợi ca thiên nhiên và con người Việt Bắc – một bộ tranh lộng lẫy những sắc màu và ánh sáng, được hiện lên qua nỗi nhớ của tác giả. Đầu tiên là hình ảnh một cánh rừng xanh với hoa chuối đỏ, mà lại đỏ tươi như những bó đuốc bập bùng cháy xua đi cái giá rét của mùa đông;
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” Câu thơ miêu tả mùa đông nơi núi rừng Việt Bắc nhưng không gợi lên cái lạnh lẽo, hoang vu, thê lương mà thể hiện ấn tượng về một cuộc sống đang hồi sinh trên quê hương cách mạng. Mùa đông xuất hiện trong câu thơ tươi tắn và ấm áp. Trên cái nền xanh mênh mông của núi rừng Việt Bắc bỗng tràn ngập một gam màu rực rờ, ấm nóng với hình ảnh của hoa chuối rừng. Nó giống như những đổm lửa lớn mang một vẻ đẹp lạ kì, đầy ân tượng. Như sự tiếp nối của thời gian, đông qua thì xuân đến, hai câu tiếp theo, nhà thơ tiếp tục miêu tả mùa xuân Việt Bắc:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Tác giả giúp ta cảm nhận một màu trắng lung linh, tinh khiết làm bừng sáng cả không gian, bừng sáng cả đất trời, bừng sáng cả bức tranh thơ. Tác giả tả cảnh mùa xuân bằng màu trắng tinh khôi, một màu trắng choáng ngợp như dâng tràn sức sống mới mẻ của mùa xuân đẹp đẽ, thơ mộng đên bâng khuâng. Nó khiến ta không thể không liên tưởng đến màu trắng cùng trong trẻo nhu thế trong câu thơ của Nguyễn Du:

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

(‘Truyện Kiều)

Có lẽ Tố Hữu rất tâm đắc vói hình ảnh mơ nở trắng rừng này nên trong bài thơ Theo chân Bác, nó lại xuất hiện một lần nữa:

Ôi sáng xuân nay xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ.

Sẽ thật thiếu sót nếu không miêu tả mùa hè Việt Bắc. Nơi đây có những vẻ đẹp, lãng mạn, mộng mơ mà không nơi nào có. Đó chính là hình ảnh:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Ai đã từng đến Việt Bắc hẳn còn nhó vẻ đẹp kì ảo của rừng phách. Những ngày cuối xuân, rừng phách tràn ngập một màu xanh nhưng kì diệu thay, những nụ hoa vàng đã núp mình trong những kẽ lá ,Khi hè sang , chúng nhất loạt trổ hoa. Chỉ vài ba ngày, cả rừng phách như được nhuộm một sắc vàng kì ảo. Nhà thơ dùng chữ “đổ’ thật hay, với từ này, màu vàng như một thứ nước nhuộm vàng cả mặt đất và chân trời, nó khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”. Nhưng cái hay của câu tho Tố Hữu là chỗ: Khi tiếng ve kêu thì rừng phách đổ vàng. Tố Hữu làm ta liên tưởng đên mối quan hệ kì lạ giữa sắc màu và âm thanh . Ta có cảm giác bản nhạc của mùa hè – ve kêu – đã tạo nên một sắc vàng kì ảo. Và dường như, sắc vàng của rừng phách đã gọi dậy tiếng ve. Một sự tương giao kì lạ trong thiên nhiên. Chỉ mấy câu thơ mà bạn đọc đã cảm nhận được nhiều sự chuyển biến: chuyển đổi về không gian từ xanh sang vàng, chuyển đổi về thời gian từ xuân sang hạ, chuyên đổi về cảm giác từ thính giác sang thị giác,…
Cuối cùng, sau những gam màu rực rõ, tươi vui, Tố hữu đem đến cho người đọc cảm giác mênh mông, êm ái qua màu vàng dịu mát của ánh trăng huyền diệu tỏa xuống cánh rừng trong một đêm thu:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Điều kì diệu là rừng ấy , trăng ấy lại hiện lên trong nỗi nhó nên nó càng lung linh, thơ mộng. Trăng tròn vành vạnh trong đêm rằm tháng tám, tỏa sáng núi rừng, phủ lên cỏ cây hoa lá màu trắng sữa tinh khiết. Bầu trời thu cao rộng, núi rừng trong sắc thu cũng thật yên bình. Điều quan trọng là bầu trời rộng lớn và vầng trăng thu tròn trịa ấy đã để thương, để nhớ trong lòng tác giả với những kỉ niệm thật lãng mạn, nên thơ nơi “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”.
Qua đoạn thơ như một bộ tranh tứ bình trên, ta thấy thiên nhiên Việt Bắc đâu có phải là nơi xa xôi, hẻo lánh, hoang vu mà với Tố Hữu nó thật sự đẹp như một xứ mơ, như xứ sở của truyện thần tiên mà cũng gần gũi, thân thương như ca dao, cổ tích.
Hình ảnh thiên nhiên đẹp như một xứ mơ ấy chính là cái nền để con người xuất hiện. Bức tranh thiên nhiên không lạnh lẽo hoang vu mà trái lại rất ấrn áp là bởi trên đó đã xuất hiện những hình ảnh của con người Việt Bắc. Người Việt Bắc hiện lên trong thơ Tố Hữu không gây cảm giác lạ như những chàng thợ săn, những ông mo, bà ké trong những tiểu thuyết đường rừng trước năm 1945. Họ hiện lên trên trang thơ với vẻ đẹp của người lao động cần cù, chịu khó. Đó là một tư thế hiên ngang trên đèo cao lộng gió và ánh sáng:

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Con người chính là trung tâm của bức tranh thiên nhiên với tư thế àm chủ đất trời, tự do và phóng khoáng. Có cảm giác như trên vùng rẻo cao lồng lộng ấy, giữa một màu xanh ngút ngàn của cây cỏ/ con người tỏa sáng như một mặt trời thứ hai giữa thiên nhiên. Đọc câu thơ, trưóc mắt người đọc như hiện ra bức tranh sinh động về Việt Bắc mà nối bật trên đó là hình ảnh con người, những người dân lao động đang làm nương, làm rẫy. Bóng dáng con người xuất hiện trong câu thơ thật độc đáo (không xuất hiện trực tiếp mà qua ánh nắng phản chiêu từ “dao gài thắt lưng” – một công cụ lao động quen thuộc của người Việt Bắc). Một câu thơ tám chữ có sự trầm bổng của thanh điệu: mở đầu là vần bằng rồi lên cao dần ở chữ “nắng ánh” là vần trắc và rồi lại hạ thấp ờ chữ “lưng” ở cuối dòng thơ. Có cảm giác như nhịp điệu câu thơ lên xuống chính là nhịp điệu đều đặn của những tâm lưng nhấp nhô lúc ẩn lúc hiện sau bóng cây, nhịp điệu của lao động hòa lẫn với sự trùng điệp bất tận của núi đồi.
Cũng có khi con người xuất hiện trực tiếp qua dáng ngồi cần mẫn, chăm chú đan nón, đẹp như một nghệ nhân:

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Như vậy, con người lao động Việt Bắc không chỉ có tư thế khỏe khoắn, khóang đạt mà còn ẩn chứa sự tài hoa, khéo léo trong đôi bàn tay chăm chỉ , chịu thương chịu khó của mình. Chữ “chuốt” thật hay. Nó không chi thể hiện sự cần cù mà còn giúp ta cảm nhận được cái đẹp nảy sinh từ đôi bàn tay ấy. Chữ “từng” gợi tả đức tính cần mẫn, cách làm ti mỉ, công phu. Có khéo tay mới “chuốt từng sợi giang” mỏng và bóng để đan thành những chiếc nón xinh xắn, một trong những sản phẩm thú công mĩ nghệ đặc trưng của Việt Bắc. Con người cần cù và tài hoa ấy thật đáng nhớ vì như Nguyễn Đình Thi từng ca ngợi:

Tay người như có phép tiên

Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ.

Hình ảnh con người Tây Bắc lại tiếp tục hiện ra qua câu thơ “Nhớ cô em gái hái măng một mình”, một câu thơ hay ở vần điệu, sự hiệp vần “gái” – “hái” (vần lưng) và cách điệp phụ âm đầu trong các từ “măng – một — mình” tạo cho câu thơ nhạc điệu riêng. Cô gái Việt Bắc trẻ trung, xinh tươi, lạc quan yêu đời, đi hái măng giữa rừng vầu, rừng nứa một mình trong khúc nhạc rừng, tuy chỉ có “một mình” mà chẳng cô đơn. Con người ấy đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Giữa một không gian nghệ thuật đầy màu sắc và âm thanh của suối rừng, cô gái Việt Bắc xuất hiện thật hồn nhiên và đáng yêu lạ! Đến câu kết của đoạn thơ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”, ta thấy hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc.” Ai” là đại từ phiếm chỉ gợi lên bao hoài niệm, bâng khuâng. Tiếng hát ân tình thủy chung giữa “ta” và “mình”, giữa “ta” với “ai” được thử thách trong cay đắng ngọt bùi, trong máu lửa “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” nên không bao giờ có thể quên được.
Đoạn thơ của Tố Hữu viết về thiên nhiên và con người Việt Bắc là đoạn thơ tràn đầy tình cảm nhớ nhung và thương mến vói niềm tự hào đô’i với Việt Bắc “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”, và chiến khu bất khả xâm phạm “Rừng che hộ đội, rừng vây quân thù”. Có thể nói, Tố Hữu không chỉ ca ngợi Việt Bắc mà còn viết nên những vần thơ đẹp nhất ca ngợi đất nước và con người Việt Nam trong lửa đạn. Nguyễn Đình Thi nhận xét “những hình ảnh thơ này đã làm bừng sáng cả núi rừng Việt Bắc, và nó dường như cũng làm xôn xao cả khoảng trời hồi tưởng của thi nhân và người đọc”. Người lao động xuât hiện trên trang thơ Tô’ Hữu không phải là anh hùng, những người làm nên chiến công phi thường trong kháng chiên. Trái lại, họ chỉ là những người lao động bình thường với những vẻ đẹp gần gũi, đáng yêu. Viết về họ, Tố Hữu bộc lộ lòng yêu thương thắm thiết và sự cảm phục sâu xa.
Bốn cặp câu lục bát còn là bức tranh tứ bình làm nên bộ tứ bình về bốn mùa trong năm. Bốn cặp thơ lục bát này có cùng một kết câu: câu lục tả cảnh, câu bát tả người. Cặp nọ nối tiếp cặp kia, mùa nọ nối tiếp mùa kia, hài hòa, cân xứng, nhịp nhàng như bước đi của vũ trụ. Nó làm ta nhớ đến những đoạn thơ rất hay trong Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều hay bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ. Nó làm ta liên tưởng đến những bức tranh tứ thời, tứ mùa, tứ quý, tứ linh; nói cách khác, nó làm cho đoạn thơ nhuốm màu sắc cổ điển. Bình luận về bộ tranh tứ bình này của Tố Hữu nhà thơ Xuân Diệu khẳng định “Không thua kém bất kì bộ tranh thơ nào trong văn chương phương Đông”.
Tuy nhuốm màu cổ điển nhưng bức tranh thơ này của Tố Hữu vẫn có những nét rất hiện đại. Phủ lên bức tranh ấy không phải là cái màu trang trọng quý phái như tranh tứ bình cổ điển mà trái lại, nó bình dị thậm chí vô cùng dân dã như một biểu tượng của cái đẹp nhân dân. Các bộ tranh tứ bình thời cổ điển thường bắt đẩu bằng mùa xuân và khép lại bằng mùa đông như diễn tả nhịp đi đều đặn, tròn trịa của vũ trụ trong một năm. Trái lại, bộ tranh của Tố Hữu bắt đầu từ mùa đông và kết thúc từ mùa thu — thời điểm Tố Hữu viết bài thơ này. Phải chăng Tố Hữu muốn dùng nó như biểu tượng cho bước đi của cách mạng từ mùa đông giá lạnh khó khăn đến mùa thu huy hoàng thắng lợi? Cách viết ấy vừa có cái lí của logic tâm trạng lại vừa thóat khỏi những quy phạm của văn chương cổ điển.

Đoạn thơ vẽ nên bức tranh về cảnh vật và con người Việt Bắc mà ai đã đọc dù chỉ một lần sẽ không thể nào quên. Nó đem lại cho bài thơ Việt Bắc vốn ấm áp tình người có thêm cái huy hoàng xanh tươi của núi rừng Việt Bắc. Nói cách khác, nó đã góp phần hoàn chỉnh bức tranh Việt Bắc trong trái tim người ra đi. Đây là một đoạn thơ ngắn mà lời thơ vừa bình dị, trang nhã vừa giản dị hàm súc. Cảnh vừa như thực lại vừa như mơ, vừa như một cuộn phim lại vừa nhịp nhàng, thanh thoát như một bức tranh tả cảnh. Nó đã bộc lộ nét tài hoa của “nhà thơ của cách mạng, của lí tưởng cộng sản”. Từ những vấn đề của cuộc sống cách mạng và kháng chiến, Tố Hữu có thể viết những tứ thơ nên nhạc, nên tình làm xôn xao tâm hồn bạn đọc và nói như Xuân Diệu “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị đạt đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 13

Cuộc chia tay đầy lưu luyến nhớ thương giữa những người cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc được nhà thơ Tố Hữu phản ánh trong bài thơ “Việt Bắc” như cuộc chia tay của một đôi bạn tình. Ta và mình đã sống với nhau mười lăm năm keo sơn gắn bó, giờ đây phải chia tay để đi làm nhiệm vụ mới. Bài thơ được kết cấu theo lối hát đối đáp dân tộc. Đoạn trích dưới đây là lời của người cán bộ kháng chiến nói lên nỗi thương nhớ của mình đối với Việt Bắc, với thiên nhiên tươi đẹp và với con người Việt Bắc tình nghĩa:

“... Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

Mở đầu đoạn thơ, người cán bộ kháng chiến hỏi Việt Bắc có nhớ “ta” không và diễn tả nỗi nhớ của mình với Việt Bắc một cách khái quát:

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”

Điệp từ “Ta về” và “nhớ” tăng cường nhạc điệu êm ái hợp với tình cảm thương nhớ và nhấn mạnh tình cảm tha thiết giữa người đi kẻ ở. Trong nỗi nhớ của người ra về, ấn tượng sâu đậm nhất là “hoa” và “người”. “Hoa” là biểu tượng của thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp. Đặt “hoa” bên cạnh “người” làm tôn lên niềm yêu mến trân trọng của người về đối với nhân dân các dân tộc Việt Bắc tình nghĩa.

Đoạn thơ còn lại diễn tả nỗi nhớ dào dạt của người về xuôi đối với Việt Bắc. Nỗi nhớ hiện lên trong từng sắc màu, từng dáng vẻ, gợi hình ảnh của thiên nhiên và con người trong từng thời gian và không gian của Việt Bắc. Người ra về nhớ cả hình ảnh bốn mùa của Việt Bắc. Cũng là cái cớ để nhà thơ phác họa vẻ đẹp rực rỡ và thơ mộng của núi rừng và gợi hình ảnh của nhân dân Việt Bắc ân tình thủy chung.

Đây là mùa đông với màu xanh tha thiết lại đột ngột bùng lên màu “hoa chuối đỏ tươi” như ngọn lửa của rừng, ấm áp tin yêu:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Vẻ đẹp của màu sắc„ của hoa lá, của ánh sáng, của hương hoa hòa quyện với vẻ đẹp của con người.

Giữa “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” đã nổi bật lên hình ảnh người lao động miền núi:

“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Tố Hữu quan sát rất tinh. Người đi rừng bao giờ cũng có một con dao trần dắt lưng lấp lánh ánh sáng mặt trời. Hình ảnh “đèo cao nắng ánh”... ấy làm sao mà quên được?

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Bức tranh mùa xuân lại được chuyển sang gam màu lạnh. Ngày xuân, rừng núi phủ một màu trắng tinh khiết của hoa mơ. Động từ “nở” khiến cho màu sắc như đang vận động, màu trắng càng có sức ám ảnh đối với người đọc. Dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh cô gái lao động Việt Bắc hiện lên thanh mảnh, dịu dàng:

“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Mùa hè, âm thanh của tiếng ve là đặc trưng của rừng núi Việt Bắc:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng”

Tác giả đã sử dụng bút pháp ấn tượng. Tưởng chừng như tiếng “ve kêu” đậm đặc, rung chuyển cả cây rùng khiến cho lá “phách đổ vàng”. Ân tượng ấy mang lại nét lạ cho phong cách thơ Tố Hữu. Giữa cảnh rừng mùa hè, bất chợt gặp một cô gái “hái măng một mình”, phong cảnh thật là hữu tình.

Cảnh thu Việt Bắc lại được miêu tả về đêm với bầu trời cao rộng và mảnh trăng thu thanh bình.

‘Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

Những đêm trăng thu nổi lên “tiếng hát ân tình thủy chung” như tạc vào trong dạ của người ra đi. Trong trí nhớ của họ, phong cảnh Việt Bắc đầy màu sắc như một cái nền để làm nổi bật hình ảnh người Việt Bắc đảm đang, tình nghĩa, thủy chung.

Như vậy là màu sắc, đường nét, âm thanh của rừng núi Việt Bắc được miêu tả trong sự vận động của thời gian, không gian. Mùa nào, cảnh rừng Việt Bắc cũng đẹp, cũng nên thơ đáng yêu, đáng nhớ. Có thể coi đấy là bộ tranh tứ bình đặc sắc của cảnh rừng Việt Bắc kháng chiến in đậm trong tâm trí của người về.

Đây là đoạn thơ đặc sắc trong bài thơ “Việt Bắc” nổi tiếng của Tố Hữu. Đoạn thơ đã diễn tả được tình cảm nhớ thương Việt Bắc sâu nặng của người cán bộ kháng chiến khi rời Việt Bắc để trở về Thủ đô Hà Nội. Ngôn ngữ uyển chuyển, ngọt ngào. Những từ “ta”, “mình” được nhà thơ sử dụng có ý nghĩa mới. Những từ vốn rất riêng được Tố Hữu dùng với nghĩa chung, khiến cho cái chung có sức rung động lạ thường. Nhạc điệu của câu thơ lục bát êm dịu, có sức ngân vang trong lòng người đọc như một khúc hát ru kỉ niệm. Điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần với nhiều cấp độ khác nhau tăng cường nhạc điệu du dương của đoạn thơ và nhấn mạnh được nỗi lòng lưu luyến của tác giả với chiến khu, với cảnh, với người Việt Bắc. Đặc biệt hơn cả là trong tâm tưởng của người ra về in sâu hình ảnh sắc màu của bức tranh tứ bình tươi sáng, rực rỡ, thơ mộng. Đoạn thơ đã diễn tả được một khía cạnh sâu sắc của chủ đề bài thơ “Việt Bắc” là tình cảm thủy chung - thủy chung với cách mạng.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 14

  Trong số những tác phẩm của nhà thơ Tố Hữu, nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam, thì Việt Bắc là tập thơ hay nhất. Tập thơ viết về thời kỳ kháng chiến chống thức dân Pháp. Bài thơ cùng tên Việt Bắc trong tập thơ được gọi là tác phẩm đỉnh cao của Tố Hữu. Bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh chia ly tiễn biện giữa quân và dân ta tại căn cứ địa Việt Bắc sau kháng chiến chống Pháp. Được xem như lời tâm tình chứa chan củ Tố Hữu dành cho mảnh đất và con người nơi đây. Và đọc bài thơ, người đọc chắc chắn sẽ ấn tượng bởi bức tranh tứ bình được vẽ bằng thơ của Tổ Hữu.

               Đọc Việt Bắc có thể khẳng định rằng, điểm sáng xuyên suốt bài thơ chính là từ bức tranh tứ bình tuyệt đẹp của núi rừng Việt Bắc. Người đọc chắc chắn sẽ chìm đắm trong bức tranh nên thơ mà trữ tình ấy. Khổ thơ đầu được dạo đầu bằng câu đối đáp mình- ta:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

Tố Hữu biểu đạt tình cảm một cách vô cùng kín đáo và khéo léo. Ngôn từ gần gũi, nhẹ nhàng khiến cho người đọc cảm thấy rất rung động. Tưởng như Tố Hữu đang hỏi người khác nhưng thật ra là hỏi chính mình. Người đọc sẽ lần lượt từ đây khám phá nét đặc trưng của núi rằng Việt Bắc bốn mùa.

Và để dẫn dắt người đọc cùng thưởng thức cảnh thiên nhiên Việt Bắc, Tố Hữu đã vẽ lên một bức tranh mùa đông ấm áp, yêu thương:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèn cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Hai câu thơ khiến cho người đọc ngẩn ngơ trước khung cảnh mùa đông nơi vùng cao Tây Bắc. Mùa đông qua thơ Tố Hữu không buồn, không ảm đạm trầm lắng mà lại rất ấm áp và tươi sáng. Hình ảnh hoa chuối đỏ tươi như điểm xuyết, làm sáng bừng lên khung cảnh rừng núi Việt Bắc vào mùa đông. Đây là nghệ thuật chấm phá rất đắc điệu của Tố Hữ. Giữa mùa đông, một chút ánh nắng hiếm hoi hắt vào con dao khiến cho con người nơi đây cảm thấy ấm áp, đầy hy vọng.

Và rồi bức tranh mùa xuân ở núi rừng Việt Bắc hiện lên một cách trữ tình và nên thơ:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Hai câu thơ khiến cho ta liên tưởng đến khung cảnh mùa xuân êm dịu và ấm áp. Một bức tranh nên thơ, dịu nẹ với màu trắng hoa mơ, loài hoa được xem là loài hoa báo hiệu mùa xuân ở miền Tây Bắc. Bởi cứ vào độ xuân thì, đâu đâu cũng sẽ bắt gặp những con đường mang màu sắc ấy. Mùa xuân ở đây khiến cho tác giả nhớ ngay đến hình ảnh “ người đan nón chuốt từng sợi giang. Với động từ chuốt khéo léo và tinh tế thể hiện sự mềm mại, nhãn nại của người đan nón. Phải sâu sắc, yêu thương đến đâu Tố Hữu mới có thể nhìn ra được điều đó, sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người nơi đây.

Tiếp đến là bức tranh mùa hè vô cùng sôi động:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Giữa rừng phách nhuộm vàng bởi ánh nắng của mùa hè trên xứ sở vùng cao, một tiếng ve kêu đã khiến cho không gian trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Tiếng ve kêu như xé tan đi sự yêu tĩnh, đánh thức sự bình yêu của mùa đông. Giữa rừng núi bao la, bức tranh mùa hè chợt bừng sáng với sắc vàng của rừng phách. Và ở đây tiếp tục xuất hiện hình ảnh của con người, đó là cô gái hái măng tuyệt đẹp, khiến cho không gian thiên nhiên trở nên bớt hiu quạnh và có sức sống hơn.

Bức tranh cuối cùng được Tố Hữu vẽ lên chính là bức tranh mùa thu êm đềm, dịu dàng hơn bao giờ hết:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Đến đây, có thể thấy mùa thu về trên vùng rừng núi Tây Bắc rất êm đềm với hình ảnh ánh trăng dịu dàng và thanh mát. Mùa thu dường như là mùa được thiên nhiên ưu ái nhất với sự viên mãn, vẹn tròn của ánh trăng. Ánh trăng ở đây không phải là ánh trăng bình thường, mà là trăng hòa bình, ánh trăng như người bạn tri kỷ đi soi sáng những người lính trong những năm tháng cách mạng khó khăn gian khổ. Ánh trăng chính là vẻ đẹp rất riêng của mùa thu Việt Bắc. Ánh trăng khiến cho tác giả bồi hồi nhớ người nào đó, nhớ tiếng hát ân tình mà thủy chung, son sắt.

                Chỉ với bốn cặp thơ ngắn gọn mà súc tích, bức trang bốn mùa của thiên nhiên Việt Bắc được khắc họa rõ nét, tràn đầy sức sống. Tố Hữu thật sự là một nhà thơ vô cùng tài hoa, với tình cảm sâu nặng của mình đã thổi hồn vào bài thơ, khiến cho bức tranh tứ bình trở nên sinh động, khắc sâu trong lòng người đọc những xúc cảm khó gọi thành tên.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 15

Trong không khí hân hoan của văn chương nghệ thuật khi đón nhận thơ mới, Tố Hữu lại lựa chọn nằm ngoài làn gió thời đại, quay về với hồn phách dân tộc. Với thể thơ lục bát cổ truyền, bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu làm sống lại không chỉ hào khí của một thời lửa cháy mà còn cả tình quân dân như cá với nước. Như một bài dân ca trữ tình, từng câu thơ thắp sáng trong lòng người đọc kỷ niệm thương nhớ trong những năm kháng chiến chống Pháp ở rừng Việt Bắc. Nơi ấy không chỉ có tình người mà còn có cả cảnh vật nên thơ trữ tình, làm nên một bức tranh tứ bình mang đậm nét riêng của Việt Bắc:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

Vốn mang nặng tình cảm với cảnh vật và con người nơi rừng núi Việt Bắc, Tố Hữu đã vẽ nên một Việt Bắc không những thấm đẫm tình người mà ngày cả thiên nhiên nơi đây cũng khiến lòng người xuyến xao. Thi nhân từ trước đến nay vẫn luôn không thể cưỡng lại sức hấp dẫn của thiên nhiên, và Tố Hữu cũng vậy. Bằng vài nét phác họa, rừng Việt Bắc hội tụ cả bốn mùa hiện lên trước mắt người đọc. Bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông được gói gọn trong tám câu thơ lục bát.

Không theo lẽ thường bắt đầu bằng xuân rồi hạ, thu rồi đông, Tố Hữu bắt đầu bức tranh của mình bằng hình ảnh mùa đông – một quy luật thường thấy đối với tranh tứ bình. Mùa đông ấy hiện lên thật đẹp :

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ấm dao gài thắt lưng.”

Không có không khí lạnh lẽo, cũng chẳng có chút tư vị khô khốc nào của mùa đông chính là nét hay và đặc sắc trong nghệ thuật tả cảnh của Tố Hữu. Thay vì miêu tả không khí ra sao, cảnh vật như nào một cách cụ thể, ông lựa chọn những chi tiết đắt giá nhất, tiêu biểu nhất dùng làm biểu tượng cho mùa đông Việt Bắc. Ở đây là hoa chuối. Trên nền rằng xanh mát tươi non mơn mởn là màu đỏ tràn đầy ấm áp của hoa chuối. Điều này khiến cho vạn vật xung quanh đều như được sưởi ấm. Lối tả mang gợi nhiều hơn đặc tả giúp người đọc thỏa chí sáng tạo, suy ngẫm và tự vẽ nên cho mình bức tranh mùa đông Việt Bắc. Nắng ấm thậm chí không mất đi  mà còn tô điểm thêm cho ánh đỏ hoa chuối, làm nó càng thêm chói lọi hơn. Hình ảnh :Dao gài thắt lưng làm khung cảnh như được tiếp thêm sức sống của hơi ấm con người, xua tan đi không khí hoang dã của vừng rừng thâm u. Đó cũng là vẻ đẹp của lao động – vẻ đẹp không bao giờ mất đi giữa cuộc sống này.

Đông qua thì xuân tới mang theo trăm hoa đua nở.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón truốt từng sợ giang.”

Vùng núi Tây Bắc vốn nổi tiếng bởi ắc trăng hoa mơ hoa mận. Mỗi khi mùa mơ mận về, cả cánh rừng đại ngàn lại ngập trong sắc trắng tinh khôi như vườn địa đàng. Không khí mùa xuân lan tỏa muôn nơi, thổi bừng lên sức sống. Tràn ngập không khí là sự tinh khôi ngất ngây lòng người. Và trung tâm của khung cảnh trắng tinh khiết ấy là con người Tây Bắc đang « truốt từng sợi giang ». Bao nhiêu sợi giang là bấy nhiêu sợi nhớ sợi thương. Tuy cảnh vật tĩnh lặng nhưng lại vẫn sống động bởi sự xuất hiện của con người lao động – những con người « đẹp tựa chân lý sinh ra ».

Nỗi nhớ về người và vật cứ đan xen mỗi lần nhớ về vùng núi thân quen, kéo dài từ năm này sang năm khác, khiến tâm tưởng tác giả không thôi bồi hồi xúc động. Chẳng mấy chốc mà hạ đã sang :

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Rừng núi hạ sang  thường râm ran tiếng ve kêu, nơi nơi đều tràn ngập ánh nắng cháy bỏng tuôn chảy như mật, rót lên từng tán cây, ngọn cỏ. Và đến tận bức tranh mùa hạ, con người mới hiện lên một cách cụ thể,rõ ràng. Đó là hình ảnh đầy ngọt ngào và thân thương của “cô em gái hái

măng”. Trong tiếng ve râm ran là nắng hạn lung linh cùng người con gái vẫn hăng say lao động tạo nên vẻ đẹp của sự nhiệt huyết, sự căng tràn của sức sống tươi vui. Tiếng ve gọi hè kết thúc sẽ là lúc tiết trời nhường bước cho thu sang :

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Từ bao lâu trăng thu vẫn được xem là đẹp nhất. Vậy nhưng ánh trăng ở đây không phải chỉ ánh trăng bình thường mà đó là ánh sáng của độc lập tự do, là ánh trăng sáng tỏ của các mạng tháng Tám. Và ở giữa khung cảnh khơi gợi lòng người, tình người, ánh trăng như luồn lách thật sâu vào tâm tương thi nhân đê thấy nỗi nhớ nhung trong lòng mà không có bất cứ đối tượng cụ thể nào. Nhớ nhung bâng khuâng trong câu thơ Tố Hữu khiến người đọc, người nghe nhớ đến nỗi nhớ của Nguyễn Bính

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai.

Có lẽ đó là nỗi hoài niệm về những ngày tháng chung lưng đấu cật ở chiến khu Việt Bắc – nơi đầu não của cách mạng.

Bốn cặp câu thơ chữ ít ý nhiều hòa vào tâm hồn người đọc, giăng mắc và vấn vương như chẳng bao giờ rời khỏi. Việt Bắc khiến trái tim nhà thơ rung động bởi vẻ đẹp ở cả cảnh vật lẫn con người. Và hơn thế, nhớ về Việt Bắc, Tố Hữu còn đang nhớ lại tình nghĩa nặng sâu của những con người trong kháng chiến chống Pháp.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 16

Tố Hữu được coi là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của mảng thơ cách mạng. Là một người đã giác ngộ cách mạng từ rất sớm và giữ nhiều trọng trách trong bộ máy chính phủ, Tố Hữu còn để lại cho đời sau rất nhiều các tác phẩm có giá trị… Trong đó Việt bắc là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông – một nhà thơ trữ tình chính trị, có khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn. "Việt Bắc" là khúc hùng ca, cùng là khúc tình ca về núi rừng Việt Bắc, cuộc kháng chiến và những con người gắn liền với nó. Trong khúc ca hào hùng nhưng cũng lãng mạn ấy, vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt bắc hiện lên rõ nét và sinh động dưới ngòi bút tài hoa của Tố Hữu:

"Ta về mình có nhớ ta,

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Tác giả đã vẻ lên khung cảnh lên núi rừng với chất liệu là tâm hồn ân tình của một thi nhân và màu vẽ là những thi tù bay bổng. Để rồi, khung cảnh ấy hiện lên là một bức tranh tứ bình nhiều màu sắc, âm thanh hài hòa, bay bổng. Trước khi mở ra bức tranh, nhà thơ mở đầu bằng một lời ướm hỏi:

"Ta về mình có nhớ ta,

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người"

Hai câu thơ là một lời hỏi. Hỏi mà không phải chỉ để hỏi xem, liệu người ở lại hay là những người dân Việt bắc có nhớ "ta" không, có nhớ những chiến sĩ, cán bộ phải trở về xuôi không mà là còn để bộc lộ cảm xúc, thổ lộ nỗi lòng bản thân người ra đi (đồng thời cũng chính là nỗi lòng tác giả): Nhớ những hoa cùng người. Tố Hữu không dùng từ "và" mà dùng từ "cùng", ta hiểu "cùng" cũng giống như "và" nhung nó lại còn gợi cho ta cảm giác hòa quyện giữa hoa và người. Nó thể hiện sự gắn bó, hòa quyện như một của hoa – cái đẹp tượng trưng cho thiên nhiên Việt Bắc và con người – nhân dân Việt bắc. Dường như chỉ cần nhớ về người là hình ảnh của hoa, của cả Việt Bắc hiện lên hay chỉ cần nhớ về Việt Bắc là ở đó cũng có những hình ảnh chất phác, mộc mạc của người ở lại.

Từ nỗi nhớ người và hoa, hoa và người, tác giả mường tượng về bức tranh tứ bình của thiên nhiên núi rừng Việt bắc. Khác với bức tranh tứ bình trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du hay "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn, bức tranh này mang một vẻ rất Tố Hữu – một nhà thơ trữ tình chính trị. Nếu những bức tranh khác thường được miêu tả theo trình tự thời gian: Xuân – hạ – thu – đông hay không gian: từ góc nhìn gần đến xa thì với Tố Hữu, không còn là những chuẩn mực thông thường, những trình tự quen thuộc. Tác giả đảo trình tự mùa đông – xuân – hạ – thu để miêu tả cái ấm dần lên của đất trời, cũng là ánh nhìn lạc quan của một nhà thơ cách mạng trong hoàn cảnh đất nước đã kí xong hiệp định Giơ – ne – vơ và hòa bình đã lập lại toàn miền bắc.

Mở đầu với mùa đông, tác giả miêu tả: Trên nền xanh bạt ngàn, bao la của những cánh rừng Việt bắc, tưởng chừng như mùa đông chỉ có hoang vu, lạnh lẽo, tác giả đã sử dụng nghệ thuật chấm phá làm xua đi cái băng giá, heo hút, đem lại sự ấm áp với nàu đỏ tươi của hoa chuối. Bức tranh thiên nhiên mùa đông tràn ngập với sắc xanh và đỏ lại được điển xuyết bằng hình ảnh con người: đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Tuy thiên nhiên là bạt ngàn nhưng không vì thế mà hình ảnh con người trở nên nhỏ bé mà thay vào đó, hình ảnh người dân Việt bắc còn trở nên nổi bật và tỏa sáng. Con người đứng trên "đèo cao" – nhìn thì nhỏ nhưng chính tầm nhìn chuyển từ dưới lên cao  vói "nắng ánh" đã khiến con người trở nên lớn lao, làm chủ núi rừng. Hình tượng đó còn trở nên rực rỡ bởi ánh nắng phản chiếu lên lưỡi dao trên thắ lưng của người đi đường rừng. Như vậy, mùa đông hiện nên không hề lạnh lẽo mà ngược lại, tạo cho con người sự ấm áp.

Sang đến mùa xuân, tác giả miêu tả hình ảnh thiên nhiên có mơ nở trắng rừng gắn liền với hình ảnh con người "đan nón chuốt từng sợi giang". Các từ đồng âm "mơ", "nở", "trắng – rừng như làm lan tỏa sắc trắng tinh khôi của hoa mơ để thế vào sắc xanh và đỏ của mùa đông. Sắc trắng bừng lên tinh khiết với hoạt động tỉ mỉ của con người lao động: đan nón – chốt từng…để ca ngợi vẻ đẹp của những con người thầm lặng nơi đây, luôn lao động chăm chỉ để góp phần xây dựng đất nước mà ít ai biết đến.

Mùa hè trong trí nhớ của tác giả như một lễ hội của cảnh vật. Ve kêu báo hiệu thời gian, tiếng ve như tràn ngập cả khu rừng và sắc vàng của cây phách như cũng tràn ngập cả Việt bắc. Từ "đổ" là một động từ rất đắt, thiên nhiên không chỉ tỉ mỉ chấm hay tô từng mảng màu vàng mà đổ gam màu ấy trải khắp, tràn trề, tùy hứng mà ấn tượng. Trong khung cảnh ấn tượng đó, con người hiện lên "một mình" nhưng không hề mang nét buồn rầu, ảm đạm mà như đang hòa nhập vào lễ hội thiên nhiên, hái măng hay cũng chính là hoạt động sản xuất, sinh hoạt luôn diễn ra hăng hái.

Mùa thu cũng là mùa kết thúc trong đoạn thơ về bức tranh tứ bình cũng là thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến gian nan oanh liệt, thời điểm chia ly giữa Việt bắc và những người kháng chiến. Bức tranh mùa thu được phác họa trong gam màu dịu mát của ánh trăng thanh bình. 

Hòa bình là sự kiện lớn lao đem lại niềm vui cho cả dân tộc, nhưng hòa bình cũng là thời điểm chia tay đầy bâng khuâng, lưu luyến giữa Việt bắc và những người kháng chiến. Mô tả tiếng hát "ân tình" của người ở lại nhắc nhở sự "thủy chung" của người ra đi trên nền ánh trăng "hòa bình" có lẽ là dụng ý nghệ thuật sâu sắc của nhà thơ khiến câu thơ hàm chứa một tâm nguyện đinh ninh: những đổi thay trong cuộc sống hòa bình sẽ không bao giờ có thể làm người đi thay lòng đổi dạ.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 17

Tác giả Tố Hữu được xem là một nhà văn cách mạng trong thời kỳ đầu tiên của nước ta. Mỗi tác phẩm của ông đều thể hiện tinh thần yêu quê hương, đất nước, tinh thần kiên cường ý chí anh hùng của người chiến sĩ cách mạng, chiến sĩ bộ đội cụ Hồ

Bài thơ Việt Bắc được tác giả sáng tác khi chia tay với bà con dân tộc Tây Bắc sau mười lăm năm gắn bó trong kháng chiến chống thực dân Pháp, để những chiến sĩ cách mạng trở về quê hương, về lại thủ đô thân yêu sau nhiều năm xa cách.

Bài thơ chính là tâm sự tình cảm nỗi niềm của tác giả khi phải rời xa mảnh đất thân thương đã từng che chở cho mình trong chiến tranh. Tình cảm quân dân gắn bó thân thiết máu thịt. Đặc biệt trong bài thơ hiện lên bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người vùng núi Việt Bắc vô cùng tươi đẹp.

Bài thơ chính là tâm tư tình cảm chứa chan sâu sắc của tác giả Tố Hữu dành cho những người dân nơi đây. Nơi gắn bó những kỷ niệm không thể nào quên vào sinh ra tử trong kháng chiến chống thực dân pháp gian lao, khổ cực.

Trong bài thơ người đọc bắt gặp hình ảnh gần gũi, giản dị, mộc mạc của những con người dân tộc Việt Bắc chân chất trong những lời thơ nồng nàn tình cảm của Tố Hữu.

Bức tranh tứ bình là bức tranh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc vô cùng tươi đẹp sinh động.

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Tác giả Tố Hữu thật tinh tế khi truyền đạt tình cảm của mình thông qua lối xưng hô gần gũi giữa ta và mình như những người yêu nhau hoặc người thân trong gia đình.

Từ những lời thơ giản dị đó tác giả đã dẫn dắt người đọc vào bức tranh tứ bình vẽ lên một bức tranh thiên nhiên vào mùa đông ở Việt Bắc vô cùng sinh động, nhiều sức sống:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Màu đỏ của hoa chuối rừng như xóa tan đi sự lạnh lẽo hoang vu của núi rừng Việt Bắc, hoa chuối màu đỏ thể hiện sự ấm áp, thể hiện lòng nhiệt huyết đang chảy trong huyết mạch của mỗi con người. Nó cũng là biểu tượng của niềm tin vào sự hy vọng.

Ánh nắng hiện lên càng làm cho bức tranh mùa đông trở nên ấm áp không hề hiu quạnh, hay ảm đạm như khung cảnh mùa đông mà chúng ta thường thấy trong thơ mỗi khi viết về mùa đông.

Người dân tộc vùng Việt Bắc khi đi làm nương rẫy đều mang theo một con dao bên mình để phòng vệ, hoặc chặt lá rừng che lối đi, kiếm củi hái măng… tất cả mọi sinh hoạt của họ đều cần đến sự trợ giúp của những nông cụ lao động. Đặc biệt là con dao.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Trong hai câu thơ này hình ảnh mùa xuân trong khu rừng toàn một màu trắng của hoa mơ, một bức tranh thiên nhiên dịu dàng, ấm áp thể hiện sự thanh tao. Màu trắng trong bức tranh gợi nên chất thơ nhẹ nhàng làm say đắm lòng người bởi vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của mùa xuân trong rừng Việt Bắc.

Tác giả Tố Hữu luôn gắn liền thiên nhiên với một hoạt động của con người nơi đây. Hình ảnh người con gái dịu dàng chuốt từng sợi giang nhẹ nhàng đan nón, khiến cho bức tranh mùa xuân trở nên mềm mại, tinh tế hơn bao giờ hết.

Người con gái hiền lành, lương thiện đó đã đi vào trái tim tác giả, trở thành một kỷ niệm sâu đậm khó phai.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Trong mùa hè tiếng ve kêu râm ran trong rừng phách đã làm cho không khí của núi rừng Việt Bắc tĩnh lặng trở nên huyên náo, phá tan không gian yên tĩnh. Màu vàng của rừng hổ phách chính là đặc trưng riêng của mùa hè vùng cao Việt Bắc. Trong tiếng ve du dương những giai điệu mùa hè đó, hình ảnh người con hái măng trong rừng một mình, không hề gợi lên sự cô đơn, hiu quạnh mà càng tăng thêm phần sinh động cho bức tranh mùa hè.

Cô gái đó vừa hái măng vừa ca hát cùng những chú ve, tạo nên những bản nhạc riêng cho mình. Cô gái làm việc với tinh thần hăng say, quên hết mệt nhọc.

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Trong hai câu thơ này hình ảnh mùa thu hiện lên trên núi rừng Tây Bắc với ánh trăng sáng tỏ, dịu dàng, mát trong. Thiên nhiên đã ưu ái dành cho xứ sở Tây Bắc rất nhiều cảnh đẹp thể hiện sự tròn đầy, chung thủy của ánh trăng rằm.

Ánh trăng hòa bình chính là ánh trăng của sự tự do, của khát khao giải phóng dân tộc đã thành công. Ánh trăng cũng biết điều đó nên nó có vẻ to đẹp hơn thường ngày.

Ánh trăng tròn đầy thủy chung như những con người vùng đất Tây Bắc này, đã cùng với các chiến sĩ cách mạng vượt qua nhiều gian nan, thử thách để có kết quả thắng lợi như ngày hôm nay. Tình cảm thủy chung son sắc giữa quân và dân không bao giờ thay đổi.

Bài thơ Việt Bắc là một bài thơ vô cùng xuất sắc của tác giả Tố Hữu. Bức tranh tứ bình được tác giả khắc họa vô cùng tinh tế thể hiện vẻ đẹp thiên nhiên, cũng như con người của vùng Tây Bắc.



Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 18

Xuyên suốt bài thơ “Việt Bắc” là dòng tâm tư, tình cảm chan chứa và sâu lắng của Tố Hữu dành cho quân và dân từng tham gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Người đọc sẽ bắt gặp những hình ảnh gần gũi, đời sống bình dị, cả những con người chân chất Việt bắc qua lời thơ Tố Hữu. Phải có một tình cảm da diết, phải là người “nặng” tình thì Tố Hữu mới thổi hồn vào từng câu đối đáp bằng thơ lục bát nhuần nhuyễn như vậy.

Có thể nói rằng điểm sáng của cả bài thơ toát lên từ bức tranh tứ bình tuyệt đẹp của núi rừng Việt Bắc qua giọng thơ dìu dặt, trầm bổng của Tố Hữu. Người đọc sẽ được chìm đắm trong khung cảnh hữu tình, nên thơ của “xứ Tiên” này.

Khổ thơ được mào đầu bằng câu đối đáp nhẹ nhàng giữa “ta” – “mình”:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Thật khéo léo và tinh tế khi Tố Hữu truyền đạt tình cảm một cách kín đáo như thế này. Ngôn ngữ gần gũi, cách diễn tả  nhẹ nhàng cũng đã khiến người đọc thấy rất thấm. Tố Hữu hỏi “người” nhưng thực ra là hỏi “mình” và câu trả lời nằm ngay trong câu hỏi. Lời mào đầu sâu sắc này sẽ dẫn người đọc lần lượt khám phá nét đặc trưng của núi rừng Việt Bắc trải dọc theo 4 mùa.

Dẫn dắt người đọc cùng tham quan cảnh tiên nơi Việt Bắc, Tố Hữu đã vẽ lên một bức tranh mùa đông ấm áp, tràn đầy tin yêu:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Người đọc ngẩn ngơ trước mùa đông nơi vùng cao Tây Bắc với vẻ đẹp đặc trưng của nó. Phải nói rằng tuy là mùa đông nhưng qua thơ Tố Hữu, cảnh sắc không buồn, không trầm lắng, mà người lại rất sáng, rất ấm áp qua hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”. Màu đỏ của hoa chuối chính là nét điểm xuyết, là ánh sáng làm bừng lên khung cảnh rừng núi mùa đông Việt Bắc. Đây được xem là nghệ thuật chấm phá rất đắc điệu của Tố Hữu giúp người đọc thấy ấm lòng khi nhớ về Việt Bắc. Ánh nắng hiếm hoi của mùa đông hắt vào con dao mang theo bên người của người dân nơi đây bất chợt giúp người đọc thấu được đời sống sinh hoạt và lao động của họ. Màu đỏ của hoa chuối quyện với màu vàng của nắng trên đèo cảo đã tạo thành một bức trang mùa đông rạng rớ, đầy hi vọng.

Bức tranh về mùa Xuân ở núi rừng Việt Bắc hiện lên thật trữ tinh, thơ mộng như tiên cảnh:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Đọc hai câu thơ này, người đọc dường như mường tượng ra khung cảnh mùa xuân nơi núi rừng thật hiền hòa, dịu êm, ấm áp. Màu trắng của mơ gợi lên một bức tranh nên thơ trên cái nền dịu nhẹ của màu sắc. Hoa mơ được xem là loài hoa báo hiệu mùa xuân ở Tây bắc, cứ vào độ xuân thì, chúng ta sẽ bắt gặp treenn những nẻo đường màu sắc ấy. Mùa xuân Tây Bắc, Tố Hữu nhớ đến hình ảnh “người đan nón” với động tác “chuốt từng sợi giang” thật gần gũi. Động từ “chuốt” được dùng rất khéo và tinh tế khi diễn tả về hành động chuốt giang mềm mại, tỉ mỉ của người đan nón. Phải thật sâu sắc và am hiểu thì Tố Hữu mới nhận ra được điều này. Chữ “chuốt” như thổi hồn vào bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc, tạo nên sự hòa hợp thiên nhiên và con người.

Bức tranh mùa hè sôi động dưới ngòi bút của Tố Hữu:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Tiếng ve kêu vàng giữa “rừng phách” đã làm nên cái động giữa muôn vàn cái tĩnh. Màu vàng của rừng phách là đặc trưng báo hiệu mùa hè về trên xử sở vùng cao. Tiếng ve như xé tan sự yên tĩnh của núi rừng, đánh thức sự bình yên nơi đây. Từ “đổ” dùng rất đắc điệu, là động từ mạnh, diễn tả sự chuyển biến quyết liệt, lôi cuốn của màu sắc. Bức trang mùa hè chợt bừng sáng, đầy sức sống với màu vàng rực của rừng phách. Ở mỗi bức trang thiên nhiên, người đọc đều thấy thấp thoáng bóng dáng con người. Có thể nói đây chính là sự tài tình của Tố Hữu khi gắn kết mối tâm giao giữa thiên nhiên và con người. Giữa rúi bao la, thấp thoáng bóng dáng “cô gái hái măng” tuyệt đẹp đã khiến cho thiên nhiên có sức sống hơn.

Và cuối cùng chính là khung cảnh của Thu  nhẹ nhàng:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Mùa thu về trên Tây Bắc với hình ảnh ánh trăng dịu, mát lành. Thiên nhiên dường như rất ưu ái cho mùa thu xứ bắc với sự tròn đầy, viên mãn của ánh trăng. Không phải là ánh trăng bình thường, mà trăng nơi đây là trăng của hòa bình, ánh trăng tri kỉ rọi chiếu những năm tháng chiến tranh gian khổ. Chính ánh trăng ấy đã mang đến vẻ đẹp riêng của mùa thu Việt bắc. Tố Hữu nhìn trăng, nhớ người, nhớ tiếng hát gợi nhắc ân tình và thủy chung.

Thật vậy với 4 cặp thơ lục bát ngắn gọn, 4 mùa của thiên nhiên Việt Bắc được gợi tả sắc nét, tràn đầy sức sống. Tác giả thật tài tình, khéo léo, vốn hiểu biết rộng cũng như tình cảm sâu nặng đối với mảnh đất này mới có thể thổi hồn vào thơ. Bức tranh tứ bình này sẽ khiến cho người đọc thêm yêu, thêm hiểu hơn cảnh vật và con người nơi đây.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 19

Tố Hữu là người đại diện xuất sắc của thơ ca cách mạng Việt Nam và cũng là nhà thơ có phong cách riêng trong sáng tác. Tô Hữu có giọng thơ trữ tình đằm thăm, các sáng tác của ông luôn gắn liền với các chặng đường quan trọng của lịch sử dân tộc. Vì vậy thơ Tố Hữu vừa đậm đà tính dân tộc nhưng không tách rời tính hiện đại.
“Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, được sáng tác sau chiến thắng Điện Biên Phủ , miền Bắc được hoàn toàn giải phóng . Những cơ quan Chính phủ rời Việt Bắc về thủ đô Hà nội. TH đã viết bài thơ để ôn lại một thời kì kháng chiến gian khổ và hào hùng, thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những con người kháng chiến đối với nhân dân Việt Bắc, đối với quê hương cách mạng. Đoạn trích trong SGK Ngữ Văn lớp 12 nằm ở phần I của bài thơ Việt Bắc. Trong bề bộn của những kí ức và hoài niệm, bức tranh sáng, đẹp về Việt Bắc hiện ra trong nỗi nhớ của người về xuôi như một dấu son tươi nguyên của kỉ niệm:

” Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh rao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

Câu đầu đoạn thơ như là lời ướm hỏi đầy lưu luyến của người ra đi đối với người ở lại. “Ta về mình có nhớ ta”. Câu trên là câu hỏi không cần câu trả lời, nó được nếu ra như một cái cớ cho sự giãi bày tâm tình ở câu dưới : “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ hoa là nhớ tới cái đẹp của thiên nhiên VB, mà cái đẹp của VB lại không thể tách rời cái đẹp của con người VB. Vì vậy , như một cặp song hành đối xứng, hễ nhớ dến người thì hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiện lên dáng người.

Tám câu thơ tiếp theo vẽ ra bức tranh tứ bình về bốn mùa ở VB. Trong nền thơ ca và văn học VN, bức tranh tứ bình xuất hiện không ít , như khung cảnh ” trông bốn bề” trong “Chinh phụ ngâm” ( Đoàn Thị Điểm ) , đoạn ” buồn trông” trong “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” ( Nguyễn Du ) , hay ở dòng hồi tưởng về quá khứ huy hoàng của con hổ trong “Nhớ rừng” ( Thế Lữ ). Thế nhưng, trong VB, bức tranh bốn mùa hiện lên với vẻ đẹp và sắc thái thiên nhiên rất riêng theo trình tự : Đông – Xuân – Hạ – Thu.

Bước vào khung cảnh mùa đông VB, đôi mắt ta như bị choáng ngợp bởi sắc xanh bạt ngàn của núi rừng. Đâu đó hình ảnh hoa chuối bập bùng như những bó đuốc làm cho không gian trở nên ấm áp, xua tan đi vẻ lạnh lẽo, hoang vu vốn có của mùa đông. Trong ánh nắng dàn trải khắp không gian, ta thấy ánh lên tia sáng từ chiếc dao gài thắt lưng của một người lao động. Người đứng trên đỉnh đèo cao, nắng từ trên cao chói xuống dao ở thắt lưng, lóe sáng, Nó tạo ra một dáng vẻ vững chãi và khí thế của người làm chủ núi rừng.

Chuyển sang mùa xuân, màu xanh của cỏ cây nhường chỗ cho màu trắng tinh khiết , mơ mộng của hoa mơ. Hình ảnh mơ nở trắng xóa cả một rừng làm ta liên tưởng tới cảnh đẹp thiên nhiên khi Bác về nước:

” Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về …Im lặng, con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”
( -Theo chân Bác- Tố Hữu )

Trên nền không gian trong sáng, tinh khôi đó, hình ảnh người đan nón cần mẫn, cẩn trọng chuốt từng sợi giang tạo cho ta cảm giác thật ấm áp và bình dị.

Mùa xuân đi qua, mùa hạ đến. Nhắm mắt và lắng tai nghe, ta sẽ cảm nhận được “nhạc ve”. Tác giả muốn nói đến tiếng ve kêu râm ran trong rừng phách vàng hay muốn nói chính tiếng ve kêu kéo màu vàng bao trùm lên rừng hoa phách ? Đây có thể nói là câu thơ tả cảnh thiên nhiên hay nhất của TH. Đọc câu thơ lên ta co thế cảm nhận được sự chuyển đổi từ thính giác sang thị giác trước khung cảnh thiên nhiên. Đặc biệt từ “đổ” gợi cho ta sự chuyển màu mau lẹ từ sắc trắng sang vàng , bừng sáng cả núi rừng VB. Ta chợt nhớ Khương Hữu Dụng cũng có một câu thơ có cấu trúc tương tự : “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Nếu Khuơng Hữu Dụng nhờ vào tiếng chim để khám phá ra vẻ đẹp thiên nhiên buổi bình minh thì Tố Hữu dựa vào tiếng ve đã kéo cả một mùa hè ra khỏi lớp vỏ cũ kĩ.

Hè đến, hình ảnh con người cũng xuất hiện với dáng vẻ hoàn toàn khác. Nếu như hai mùa trước, bóng dáng con người chỉ xuất hiện một cách gián tiếp và thấp thoáng thì lần này , con người VB hiện ra rõ nét và sinh động hơn rất nhiều, dưới hình ảnh một người thiếu nữ đang chăm chỉ hái măng một mình.
Từ ” cô em gái” mà tác giả sử dụng cất lên như lời gọi tình tứ, thân quen, thể hiện tình cảm chân thành , tha thiết.
Ta chợt nhận ra dù bất cứ mùa nào, con người VB cũng hiện lên trong dáng vẻ lao động cần mẫn. Như vậy, trong đôi mắt tác giả , vẻ đẹp của co người chân chính gắn liền với vẻ đẹp lao động, chuyên cần.

Tạm biệt mùa hè với những gam màu rực rõ, mùa thu đến mang một cảm giác nhẹ nhàng, bình yên. MÙa thu với ánh trăng huyền ảo , trải dài khắp núi rừng làm ta liên tưởng đến câu thơ:

” Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
(-Cảnh khuya- Hồ Chí Minh)

Trong thơ của Bác của Bác có tiếng hát của thiên nhiên thì trong thơ của Tố Hữu cũng có tiếng hát: tiếng hát của con người, tiếng hát giữa người ở và người đi. Có thể nói đây là bản hòa âm của hai tâm hồn đồng điệu. Tiếng hát ân tình ấy vượt qua trập trùng núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của thời gian mà vướng vít bước chân người đi, nó vấn vương trong lòng người đi kẻ ở, vấn vương trong cả tâm hồn người đọc. Đặc biệt điệp từ “nhớ được lặp lại nhiều lần khiến cả đoạn thơ bao trùm một tình cảm nhớ thương da diết.

Bức tranh có buối trưa đầy ánh nắng, có bầu trời đêm mát dịu ánh trăng . Mùa nào cũng có nét đẹp, nét đáng yêu và mỗi mùa là một bức tranh thơ mộng. Nhờ đó mà bức tranh theo kiểu bộ tứ bình của nghệ thuật truyền thống Đông phương đã đạt đến độ hài hòa , cân xứng theo hai mảng xa và gần : mảng xa là thiên nhiên, mảng gần là con người, thiên nhiên và con người quấn quýt nhau. Thiên nhiên làm nền cho con người, con người thổi hồn mình vào cảnh thiên nhiên khiến thiên nhiên trở nên sống động và đẹp hơn. Tất cả hòa quyện vào nhau trong nỗi nhớ về VB của người ra đi. Cùng với giọng điệu tâm tình ngọt ngào, ngôn ngữ trữ tình, chính trị đã tạo nên sức hấp dẫn riêng của bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng. Qua đó ta thấy được tình cảm sâu sắc, tha thiết của Tố Hữu dành cho thiên nhiên và con người nơi Việt Bắc, quê hương cách mạng.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 20

Tố Hữu chẳng phải ngẫu nhiên, chẳng phải cố tình, tất cả là sự vừa phải khi viết Việt Bắc. Nếu như ở trong đoạn thơ đầu, là giây phút chia ly giữa người đi, kẻ ở, là thời điểm muốn đi rồi lại muốn dừng thì chuyển sang 10 câu thơ này, một bức tranh thiên nhiên đã được vẽ ra thật tuyệt mỹ. Hơn vậy, trong tranh vẫn đong đầy tình cảm thương mến, vẫn đong đầy nỗi nhớ nhung, một tình cảm thật đẹp trong bức tranh tứ bình lung linh sắc màu.

Tố Hữu là một chiến sĩ cách mạng tiên phong, thơ ông bất cứ khi nào cũng khiến cho mỗi đọc giả cảm thấy hừng hực khí thế chiến đấu, tràn ngập tình yêu Tổ quốc, ông không phải là người giỏi viết tình ca như Xuân Quỳnh, Xuân Diệu, thế nhưng rõ ràng, với Việt Bắc, nhà thơ đã rất thành công khi tấu lên một cung đàn, một bản nhạc thật đẹp về nỗi nhớ thương. Đoạn thơ mở đầu bằng 2 câu thơ:

“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần nằm gọn gàng trên 2 câu thơ. Một câu hỏi tu từ được đặt ra với rất nhiều những gửi gắm. Đại từ xưng hô mình ta lại tiếp tục được sử dụng mang tới sự gần gũi, mộc mạc, nói một cách hoa mỹ hơn thì đó là cụm từ hội tụ đầy đủ phong vị Việt Nam. Đoạn thơ mở ra biết bao trường nhớ nhung da diết. Câu hỏi “Ta mình mình có nhớ ta” của người đi vẫn còn đang bỏ ngỏ. Thật lạ lùng, là câu hỏi bỏ ngỏ ấy lại mang một ý thật tình tứ, rất giống với những câu hát giao duyên:

“Mình về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”

Câu hỏi ấy xét cho cùng cũng chính là cái cớ để nhân vật trữ tình bộc bạch lòng mình, khẳng định tình cảm đậm sâu gắn bó với con người Việt Bắc, không gian Việt Bắc. Có thể thấy, 15 năm là khoảng thời gian thực sự đủ dài để người đi kịp ghi lại tất cả những khoảnh khắc nơi đây, về khung cảnh, về con người. Thiên nhiên và con người Việt Bắc đã trở thành nguồn ký ức không thể phai mờ trong tâm trí của những người đi.

Tố Hữu sử dụng danh từ “hoa” bởi lẽ, hoa chính là biểu tượng của thiên nhiên, đẹp nhất, tinh khôi nhất, nồng thắm nhất. Đó cũng chính là vẻ đẹp kết tinh của cuộc sống. Đồng bào Việt Bắc cũng chính là những bông hoa đẹp nhất, tươi thắm nhất – một loài hoa thật đặc biệt – thật khiến người ta dễ nhớ nhung. Nhà thơ đã rất khéo léo và tinh tế khi sử dụng từ nối “cùng”, không phải là từ “và” không phải là từ “với” mà đó là từ “cùng” tạo ra trạng thái cảm xúc quấn quýt, vấn vương, hòa quyện giữa thiên nhiên và con người. Hai câu thơ mở đầu cho đoạn thơ thật đặc biệt, thật tinh tế, thật ý nhị, trữ tình.

Mùa đông, được nhắc tới với sự lạnh lẽo vào cô đơn vô chừng thế nhưng trong bức tranh mùa đông Tố Hữu đem đến lại thật rực rỡ, ấm nồng:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Giữa một không gian xanh bất tận, sắc hoa chuối đỏ tươi đột ngột bừng lên như một ngọn lửa ấm áp xua đi không gian giá lạnh nơi đại ngàn. Màu sắc mà hình ảnh tạo nên một bức tranh đường nét vừa hài hòa, vừa ấn tượng và dễ gây những rung cảm trong lòng người đọc. Mùa đông hiện lên với sắc đỏ ấm nồng của hoa chuối, với hình ảnh của con người lao động mang vẻ đẹp đầy kiêu hãnh giữa rừng xanh mênh mang.

Giữa một không gian xanh bất tận của đại ngàn, giữa những vườn chuối được ấp ủ tình yêu thương để bùng lên những ấm áp dù rất nhỏ thế những điều kỳ diệu là ngọn lửa ấy dù nhỏ nhưng lại đủ để lan tỏa ra khắp không gian núi đồi nơi đây. Hình ảnh được lựa chọn cho câu thơ của mình đó chính là hình ảnh hoa chuối rừng. Loài hoa này có khá nhiều sự khác biệt đối với hoa chuối ta, dáng chúng mọc thẳng với màu đỏ tươi như phát sáng, chiếu thẳng diện vào cảm giác của con người. Con người bây giờ đang đi giữa một màu xanh bất tận, xanh lá, xanh trời và cả đôi mắt của người cũng mang trọn một màu xanh biêng biếc.

Giữa một khoảng xanh mênh mông và vô tận đó, nhà thơ không miêu tả cụ thể, chi tiết hình dáng của con người mà chỉ nhanh mắt chớp lấy một hình ảnh thần tình nhất. Đó là khoảnh khắc khi ánh sáng của mặt trời chiếu xuống lưỡi dao gài ngang lưng. Con người bây giờ, như một điểm hội tụ của anh sáng giữa núi rừng đại ngàn mênh mông, giữa lá xanh và hoa đỏ. Trong không gian ấy, con người không cô đơn, nhỏ bé mà rất mực kiêu hãnh, oai hùng, khỏe khoắn trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất trời.

Trong nỗi nhớ về khung cảnh của Việt Bắc mùa đông, nỗi nhớ ấy không lạnh lẽo và ấm áp vô cùng. Nơi núi cao, nơi đại ngàn, mùa đông không hoang vụ, không tàn tạ, thê lương mà ấm áp vô ngần. Đông qua xuân tới, đất trời cũng có những đổi thay:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Đến đây nên xanh trầm tĩnh đã nhường chỗ cho nền trắng tinh khiết của hoa mơ rừng. Hai chữ “trắng rừng” khiến cảnh rừng như bừng sáng. Phải nói rằng đây là một hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu. Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu được sắc hoa này. Về sau, trong bài “Theo chân Bác”, Tố Hữu sẽ viết:

“Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giói nở hoa mơ
Bác về. Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”.

Trên nền cảnh ấy hiện ra hình ảnh người Việt Bắc trong một công việc thầm lặng: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi gịang”. Hai chữ “chuốt từng” gợi ra được dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Không biết người đan nón kia gửi vào từng sợi giang nỗi niềm gì, ước mơ gì?

“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.”

Trong những bức tranh trên, chúng ta mới chỉ thấy màu sác, đường nét và ánh sáng. Đến đây chúng ta còn nghe thấy được âm thanh của rừng, đó là tiếng nhạc ve. Nhạc ve làm cho không khí trở nên xao động. Phải nói rằng trong các bức tranh ở đây thi Việt Bắc mùa hè là đặc sắc hơn cả. Trong câu thơ, chúng ta thấy dường như có một phản ứng dây chuyền chạy từ đầu đến cuối câu thơ. Ve kêu gọi hè đến, hè đến làm cho những rừng phách ngả sang màu vàng. Ai đã lên Việt Bắc, dễ thấy hình ảnh kỳ lạ của những cánh rừng phách.

Trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, những cây phách vẫn là màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá. Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Chi cổ vài ba ngày mà những rừng phách đã lênh láng sắc vàng. Chữ “đổ” là một chữ tinh tế. Nó nhấn mạnh vào khía cạnh mau lẹ trong việc biến đổi màu sắc, đồng thời diễn tả những trận mưa hoa vàng rừng phách mỗi khi có một luồng gió ào qua.

Rõ ràng, gam màu đến đây đã thay đổi hẳn, sắc trắng đã nhường chỗ hẳn cho sác vàng. Dường như âm thanh đã làm đổi thay màu sắc. Trên nền cảnh ấy xuất hiện một hình ảnh lao động đấy kiên nhẫn của một cô gái Việt Bắc: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hình ảnh này làm toát lên dáng điệu chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm, giàu đức hy sinh. Bao bọc lên hình ảnh này dường như chúng ta thấy sự cảm thương kín đáo của người viết.

Bộ tranh này kết thúc bằng bức tranh thu. Ba bức tranh trên là cảnh ngày, riêng bức này là cảnh đêm. Bức tranh vẽ ra những ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành một khung cảnh huyền ảo:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

“Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Nó xui khiến ta nhớ đến một câu thơ cũng viết vể đêm rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh: “Trăng lồng cồ thụ bóng lồng hoa”. Đây đúng là khung cảnh trữ tình dành cho những cuộc hát giao duyên. Cho nên nó là cảnh cuối cùng: “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Chữ “ai” là cách nói bóng gió, ám chỉ người đang hát cùng với mình, làm cho lời lẽ trở nên tình tứ hơn. Và qua tiếng hát chúng ta thấy được phẩm chất ân tình, chung thuỷ của người Việt Bắc.

Nhớ người Việt Bắc, người về còn nhớ cả “Tiếng hát ân tình thuỷ chung” . Đó là tâm hồn, là tình cảm của những con người miệt mài, chăm chỉ với công việc, lặng lẽ cưu mang trong mình những rung động, cảm xúc trước đất trời, trước cuộc đời. Có thể nói đây cũng là bản hòa âm của hai tâm hồn đồng điệu. Tiếng hát ân tình ấy vượt qua trập trùng núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của thời gian mà vướng vít bước chân người đi, nó vấn vương trong lòng người đi kẻ ở, vấn vương trong cả tâm hồn người đọc.

Đoạn trích là bốn bức họa bằng thơ rất tài tình của Tố Hữu. Cảnh và người hòa quyện, đan xen khiến bức tranh nào cũng thật sinh động, ấm áp. Đoạn thơ vừa đậm chất dân tộc [thể thơ, giọng tâm tình, tha thiết] vừa mang đậm vẻ đẹp, hơi thở của thời đại [hình ảnh thơ, tình cảm cách mạng trong thơ. Nghệ thuật điệp – láy đi láy lại từ “nhớ” cùng các câu hỏi tu từ liên tiếp, dồn dập đã diễn tả thành công tình cảm tha thiết, sâu nặng của người về.

Qua đoạn thơ, ta thấy rõ đặc điểm thơ và vẻ đẹp hồn thơ Tố Hữu, kết tinh trong tình cảm lớn, lẽ sống lớn: tình cảm cách mạng, lẽ sống thủy chung với cách mạng. Vẻ đẹp bức tranh tứ bình bao gồm bốn bức tranh, bốn cảnh sắc, bốn dáng điệu. Tố Hữu đã thâu tóm được những gì là đặc trưng nhất của quê hương cách mạng. Điều thú vị là tất cả đều hiện lên trong điệp khúc nhớ thương. Những chữ “nhớ” đứng ở đầu câu tạo nên âm hưởng rất mặn mà, da diết của nỗi nhớ. Trong nỗi nhớ tất cả đều hiện lên lung linh hơn, huyền ảo hơn.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 21

Với giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, những áng thơ văn Tố Hữu để để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm lắng sâu. “Việt Bắc” là một bài thơ nổi tiếng tác giả viết năm 1954. Cảm xúc, hình ảnh, nghĩ suy trong tác phẩm mà nhà thơ gửi tới người đọc khiến cho ta càng thêm yêu mến và trân quý tâm hồn, tài năng Tố Hữu. Bức tranh tứ bình trong bài cũng là một nét đặc sắc đã lưu lại trong tâm trí người đọc nhiều ấn tượng.

Nỗi thơ thiết tha bồi hồi ấy đọng lại trong bức tranh tứ bình về con người và cảnh vật thiên nhiên Tây Bắc, trước hết đó là sự phác họa những nét cảnh mùa đông:

·       “Ta về, mình có nhớ ta

·       Ta về ta nhớ những hoa cùng người

·       Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

·       Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Một mùa đông rực rỡ và ấm nồng nơi núi rừng Tây Bắc đã được nhà thơ phác họa một cách sinh động. Đó là mùa đất trời nơi đây tràn ngập sắc “đỏ”, “tươi” rực rỡ của hoa chuối rừng trên nền xanh trầm tĩnh của cỏ cây rừng lá, của ánh nắng ấm áp lửng lơ, tràn ngập khắp không gian khoáng đạt. Trên cái nền thơ mộng ấy, con người Việt Bắc xuất hiện với vẻ đẹp khỏe khoắn trong tư thế lao động: “dao gài thắt lưng”. Hai từ “nắng ánh” khiến lời thơ Tố Hữu như bừng sáng, góp phần làm nổi bật hơn vẻ đẹp của con người trong lao động, những con người đang trong tư thế vươn lên đỉnh đèo. Mùa đông trong thơ xưa thường diễn tả cái tiêu điều, hiu quạnh, những cơn gió lạnh và một bầu không khí man mác buồn. Đông Hồ từng viết:

·       “Em nhớ: một sáng ngày mùa đông

·       Gió bấc ào ào tiếng hãi hùng

·       Theo khe cửa sổ gió thổi rú

·       Chỉ nghe tiếng gió mà lạnh lùng”


Hay như nhà thơ Ngô Chi Lan từng bày tỏ:

·       “Lò sưởi bên mình ngọn lửa hồng

·       Giải buồn chén rượu lúc sầu đông

·       Tuyết đưa hơi lạnh xông rèm cửa

·       Gió phẩy mùa băng giải mặt sông”



Cái buồn, cái sầu ấy ta lại không bắt gặp ở mùa đông trong thơ Tố Hữu. Nhà thơ viết về mùa đông Tây Bắc lại thắm tươi và nồng ấm sắc màu, sức sống. Con người trong cảnh sắc ấy khỏe khoắn và chủ động.

·       “Ngày xuân mơ nở trắng rừng

·       Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”


Đó là cặp câu thơ lục bát tiếp theo nhà thơ miêu tả về thiên nhiên và con người Việt Bắc khi xuân về. Sự dịu dàng, trong trẻo, tinh khôi của sắc trắng hoa mơ “nở trắng rừng” đã làm lòng người đọc biết bao xao xuyến. Trên nền cảnh ấy, con người hiện ra trong công việc của cuộc sống giản dị đời thường. Động từ “chuốt” đã tinh tế làm toát lên vẻ tài hoa, cần mẫn, khéo léo của con người lao động nơi đây. Sự thanh tao thơ mộng của đất trời, sự giản dị, khéo léo của con người cùng hòa điệu làm ý thơ Tố Hữu càng thêm nổi bật và ấn tượng.

Nhà thơ Bàng Bá Lân từng bày tỏ cảm nghĩ của mình qua những dòng thơ trong “Trưa hè”:

·       “Trời lơ lửng cao vút không buông gió

·       Đồng cỏ cào khô cánh lượt hồng

·       Êm đềm sóng lụa trên trên lúa

·       Nhạc ngựa đường xa lắc tiếng đồng

·       Quán cũ nằm lười trong sóng nắng

·       Bà hàng thưa khách ngủ thiu thiu

·       Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm

·       Đứng lặng trong mây một cánh diều”



Mùa hè với Bàng Bá Lân là vậy, bình yêu mà và cùng đáng nhớ. Còn với Tố Hữu, mùa hè Việt Bắc là:

·       “Ve kêu rừng phách đổ vàng

·       Nhớ cô em gái hái măng một mình”



Sắc màu tươi sáng của rừng phách và âm thanh rộn rã của tiếng ve được nhà thơ tái hiện chân thực. Từ “đổ” trong câu thơ được xem như nhãn tự bộc lộ trọn vẹn ý nghĩ của nhà thơ. Phải chăng, nhà thơ đang muốn nói đến sự tương quan kỳ diệu của thanh âm và màu sắc đã khiến cho cảnh vật nơi đây như có linh hồn, có sự giao cảm mạnh mẽ. Người Việt Bắc hiện ra trong một vẻ gì đó thật lặng lẽ nhưng vẫn rất hiền hòa như một điểm nhấn lắng sâu giữa không khí sôi động của thiên nhiên đất trời mùa hạ.

Được nhắc đến cuối cùng, nhưng cách thể hiện của nhà thơ về mùa thu vẫn khiến người đọc không khỏi ấn tượng và lưu luyến. Một Việt Bắc trong trẻo. Một Việt Bắc thanh tịnh dưới ánh trăng. Đó là những gì ta cảm nhận được qua hai câu thơ:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Trên cái nền hiền hòa của thiên nhiên ấy con người hiện ra với vẻ thắm thiết ân tình trong tiếng hát thân thương cũng là tiếng lòng thủy chung Cách mạng đượm tình sâu nghĩa thẳm.

Để có thể phác họa nên bức tranh tứ bình của cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Bắc sống động như vậy, nhà thơ đã vận dụng khéo léo đồng thời bút pháp cổ điển và hiện đại. Sự tinh tế và tài hoa ấy đã góp phần giúp cho bức tranh tứ bình trong “Việt Bắc” có một vị trí đặc biệt trong lòng người đọc bao thế hệ, góp phần làm đa dạng hơn những bài thơ, áng văn viết về “bức tranh tứ bình”.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 22

·       “Khi ta ở đất chỉ là nơi ở

·       Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Hương sắc của hồn đất, núi, sông và con người Việt Bắc thực sự đã hóa thành tâm hồn Tố Hữu rồi. Việt Bắc đã hóa thành thứ tình cảm vấn vương để bay bổng trong từng lời thơ “Việt Bắc”, để họa lên tình người thắm đượm và thảo lại những nét tứ bình của xuân - hạ - thu – đông. Bức tranh tứ bình trong bài thơ “Việt Bắc” tựa như một tuyệt tác để Tố Hữu lưu giữ khi rời xa, để tìm về khi nhớ và ghi lại để trao gửi yêu thương.

Đông thường lạnh lẽo, thế mà cái tình Tố Hữu lại chọn đông để mở đầu cho bộ tranh về bốn mùa Việt Bắc:

·       “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

·       Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Ta thấy sắc đỏ, thậm chí là sắc “đỏ tươi”, rực rỡ giữa muôn ngàn xanh của lá và cỏ cây. Sắc đỏ như ánh lửa hồng nổi bật giữa rừng, xua đi cái lạnh lẽo mà cố nhân vẫn thường gán cho mùa đông. Nhà thơ sử dụng bút pháp chấm phá, gợi cảnh chỉ qua một sắc đỏ giữa thăm thẳm rừng xanh, một nghệ thuật ngôn từ mà thi nhân xưa thường sử dụng. Nhưng tranh và thơ của Tố Hữu lại mang thêm cả sắc hiện đại, đông không còn thê lương với sắc màu ảm đạm mà lại rực rỡ, tươi sáng, ánh sắc son thiên nhiên và ánh màu “dao gài thắt lưng”. Sự phản chiếu của ánh mặt trời vào chiếc dao là hình ảnh tả thực nhưng câu thơ không dùng để tả thực mà để gợi, gợi về một dáng người gài dao bên thắt lưng trong tư thế vươn mình lên cao. Sức sống của cây rừng cùng tư thế chủ động của con người đã làm bức tranh mùa đông khỏe khoắn và đầy nhựa sống.

Bức tranh đông thảo xong, ngòi bút lại vẽ nên bức tranh xuân tràn sinh khí. Nhưng sinh khí xuân lại không nằm ở búp nõn, không nằm ở sắc mai vàng tươi hay đào thắm mở, mà xuân Việt Bắc lại thanh thanh trong sắc trắng hoa mơ:

·       “Ngày xuân mơ nở trắng rừng

·       Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Hoa mơ – thứ hoa tỏa sắc của núi rừng Việt Bắc, nay đã “nở trắng rừng”. Xuân về, muôn hoa khoe sắc, mơ cũng trổ hoa để phủ sắc trắng thanh dịu, nhẹ êm lên những dáng núi dáng sông. Con người lại một lần nữa xuất hiện ở câu bát trong công việc lao động: “chuốt từng sợi giang”. Động từ “chuốt” và chữ “từng” gợi ra đôi bàn tay tài hoa, khéo léo, tỉ mẩn. Ta còn thấy dáng vẻ của một người lao đông, nay đã hóa thành người nghệ sĩ đang tập trung thật sâu vào công việc của mình. Bức họa xuân này thanh tao, đằm thắm từ người cho đến cảnh.

Xuân qua, hạ tới. Nhắc đến mùa hạ là nhắc đến sắc vàng nắng rót mật, là tiếng ve râm ran những cung đường ngập ánh mặt trời. Sắc vàng, ve kêu cũng là hạ của Việt Bắc:

·       “Ve kêu rừng phách đổ vàng

·       Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Ve kêu, là mùa hạ. Song, lại không thấy nắng. Sắc vàng kia, là sắc vàng của rừng phách, những tán lá phách tựa như đổ sắc vàng xuống mặt đất. Có lẽ không phải không có nắng, chỉ là màu vàng của nắng hòa vào màu vàng của cây phách, hay cũng có thể là rừng phách đậm sắc quá nên che mất màu vàng của ánh mặt trời rồi ! Cây phách là loài cây đặc trưng của Việt Bắc, mà hồn Việt Bắc đậm đà quá, ngòi bút nhà thơ vì thế mà thảo nên sắc vàng của thứ tình cảm thắm đượm này. Câu lục là thiên nhiên, câu bát là con người, hình ảnh “cô em gái” xuất hiện nhỏ bé, cô đơn: “một mình” nhưng lại không hiu quạnh mà vẫn tràn nhựa sống. Nét vẽ phác nhỏ nhắn nhưng con người lại nổi bật giữa một vùng thiên nhiên, tư thế con người gắn với lao động vẫn luôn là tâm điểm của mọi ánh nhìn và con người luôn là đích đến của mỗi nhà văn nhà thơ.
Cũng đã sắp hoàn thành bộ tứ bình rồi, Tố Hữu vẽ nốt bức họa thu. Thu là mùa của những hoài niệm, của thanh bình và dịu êm. Thu Việt Bắc mà Tố Hữu nhớ lại cũng thanh thanh như thế:

·       “Rừng thu trăng rọi hòa bình

·       Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”


Ánh trăng, không khí hòa bình của những ngày sau cách mạng gợi ra cái yên tình, thanh bình đơn sơ. Trong không gian yên lặng ấy, bỗng vang lên tiếng hát của ai đó. Đại từ phiếm chỉ “ai” không dùng để hỏi mà để nhớ lại, để đại diện cho tấm lòng của người hát, tấm lòng “ân tình” và “thủy chung”. Chữ “nhớ” khiến câu hát như vọng lại từ miến kí ức, khiến nỗi lòng nhung nhớ như tràn đầy khắp các câu thơ, ngọn lửa lòng của quyến luyến, gắn bó và thắm nghĩa tình lại sáng lên. Vậy là bộ tứ bình đã hoàn tất.

Thiên nhiên hiện lên trong những câu lục, bao giờ cũng gắn với một chữ: “rừng”. Con người hiện lên trong những câu bát, bao giờ cũng gắn với lao động. Đó là cái tứ thơ của bộ tứ bình này, là bút pháp thơ đặc trưng của đoạn thơ miêu tả cảnh bốn mùa Việt Bắc. Bốn bức tranh, bốn nét phác họa, cùng là bút pháp chấm phá, vừa cổ điển, vừa dân gian trong câu hát “mình” – “ta”, vừa hiện đại trong xúc cảm đầy nhựa sống. Tố Hữu đã họa lên cả vùng Việt Bắc, bốn mùa đều tươi sáng bởi nghĩa bởi tình, bốn bức tranh đều là tấm lòng trao gửi nồng đượm yêu thương.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 23

Chế Lan Viên đã từng nhận xét rằng “Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường, nhà thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo, còn Tố Hữu, anh chỉ sử dụng tình cảm và trái tim trần”. Tình cảm thiết tha, mãnh liệt cùng “trái tim trần” ấy đã được Tố Hữu thể hiện qua bài thơ Việt Bắc- tác phẩm được coi là đỉnh cao của thơ ông. Trong “Việt Bắc”, đoạn thơ được coi là hay nhất, kết tinh những tài hoa nhất của ngòi bút Tố Hữu chính là đoạn thơ về bức tranh tứ bình, một bức tranh tuyệt diệu vừa đậm đà vẻ đẹp truyền thống vừa mang nét tươi mới của vẻ đẹp hiện đại

·       “Ta về mình có nhớ ta

·       Ta về ta nhớ những hoa cùng người

·       Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

·       Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

·       Ngày xuân mơ nở trắng rừng

·       Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

·       Ve kêu rừng phách đổ vàng

·       Nhớ cô em gái hái măng một mình

·       Rừng thu trăng rọi hòa bình

·       Nhớ ai tiếng hát ấn tình thủy chung.


Bài thơ được viết trong hoàn cảnh tháng 10- 1954, khi chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, những người kháng chiến từ chiến khu Việt Bắc trở về miền xuôi. Trung ương Đảng và Chính phủ từ quê hương cách mạng về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Đó là một cuộc chia tay lịch sử để đưa đất nước tiếp tục đi lên trong giai đoạn mới. Nhân sự kiện có tính lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc để gợi về những ân nghĩa, nhắc nhớ sự thủy chung của con người đối với con người và đối với quá khứ, đối với cách mạng nói chung. Nằm trong mạch cảm xúc về nỗi nhớ ấy, bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc hiện lên thật ấn tượng.
Đoạn thơ là nỗi nhớ của người về miền xuôi nhắn gửi với người ở lại. Đó là nỗi nhớ khôn nguôi da diết được bộc lộ một cách trực tiếp:

·       “Ta về mình có nhớ ta

·       Ta về ta nhớ những hoa cùng người”


Thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng linh hoạt khiến câu thơ mềm mại, điệu thơ uyển chuyển, nhịp thơ đều đặn, phối âm trầm bổng, dễ ngâm dễ thuộc. Cách xưng hô “mình-ta” tạo một bầu sinh quyển thấm đẫm không khí tâm tình, đó là cách nói tình tứ của thiếp, của chàng trong ca dao xưa. Nói tình cảm chính trị mà dẫn dắt bằng tình cảm lứa đôi, thơ Tố Hữu chính trị nhưng không khô khan, chính trị mà vẫn đậm đà màu sắc dân tộc. Câu hỏi tu từ ở đầu đoạn thơ kết hợp với phép điệp “ta” và “nhớ” càng khẳng định và nhấn mạnh thêm nỗi nhớ da diết của người về thủ đô. “Hoa” là thiên nhiên, “người” là con người Việt Bắc. Vậy nỗi nhớ của tác giả, hay của những người chiến sĩ về xuôi ấy bao trùm cả người, cả vật, nỗi nhớ về cảnh hay cũng là nỗi nhớ về ân tình cách mạng.
Sau lời mở đầu đầy da diết ấy, Tố Hữu đã vẽ lên bức tranh mùa đông rất chân thực, mang đậm hơi thở của núi rừng trong thời đại mới:

·       “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”

·       Mùa đông trong thơ xưa thường mang vẻ ảm đạm gắn với sương sa tuyết phủ:

·       “Sương như búa bổ mòn gốc liễu”

·       (Chinh phụ ngâm)


Còn mùa đông trong thơ Tố Hữu không tái tê, ảm đạm như thơ xưa mà ấm nóng, tươi tắn sắc màu “rừng xanh”, “hoa chuối đỏ tươi”. Cái màu “đỏ tươi”- gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Giữa khung cảnh ấy hiện lên hình ảnh người lao động, tuy nhỏ bé nhưng họ không bị chìm lấp đi giữa bạt ngàn xanh mát:
“Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng”
Chính nắng ánh chiếu lấp lánh trên cao vào con dao người người đi rừng giắt ở thắt lưng đã khiến con người trở thành một điểm sáng di động và là trung tâm của bức tranh. Con người hiện lên không chỉ đẹp trong khung cảnh lao động và còn đẹp ở tư thế chủ động làm chủ thiên nhiên, làm chủ núi rừng ấy. Đó là hình ảnh đẹp về con người lao động mới. Vẻ đẹp ấy sau này sẽ tiếp tục được ngân vang trong thơ Huy Cận (Đoàn thuyền đánh cá), tùy bút của Nguyễn Tuân (Người lái đò sông Đà) và truyện ngắn của Nguyễn Thành Long (Lặng lẽ Sa Pa).

Đông qua, xuân lại tới. Tố Hữu đã góp vào gia tài thi liệu của mùa xuân một sắc riêng của Việt Bắc: đó là hoa mơ trắng với một không gian thoáng rộng, sáng bừng lên một màu tinh khôi thanh khiết:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng”

Bao rùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng. Từ “trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu sắc dường như lấn át màu xanh của lá và bừng sáng cả khu rừng trong mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Và âm điệu của hai chữ “trắng rừng” đã thể hiện được cảm giác ngỡ ngàng, hạnh phúc của nhân vật trữ tình trước vẻ đẹp tràn đầy sức sống của đất trời Việt Bắc. Từ “nở” làm cho sức sống mùa xuân lan tỏa tràn trề nhựa sống. Giữa thiên nhiên tuyệt vời như thế, con người dường như cũng khoan thai hơn:

·       “ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Đó vẫn là hình ảnh của con người lao động với dáng vẻ thanh mảnh, dịu dàng, đôi bàn tay khéo léo “chuốt từng sợi giang”. Cái tài của Tố Hữu nằm ở việc sử dụng từ ngữ thật chọn lọc. Chỉ một từ “ chuốt” mà làm hiện lên sự nhẹ nhàng nâng niu, vẻ đẹp tỉ mỉ cần cù cùng sự khéo léo của con người lao động mới. Con người ở đây chính là chủ nhân của mùa xuân đang tô điểm cho sắc xuân của đất trời thêm lộng lẫy.

Trong bốn bức tranh tuyệt vời của thiên nhiên Tây Bắc, có lẽ bức tranh mùa hè là sinh động nhất bởi nó xôn xao tiếng nói của cả màu sắc lẫn âm thanh:

·       “ Ve kêu rừng phách đổ vàng”

Câu thơ độc đáo không phải ở việc chọn lựa âm thanh và sắc màu đặc trưng mà ở sự chuyển giao giữa hai thứ ấy. Tiếng ve kêu không chỉ một hay vài con mà là cả rừng ve đậm đặc. Cái âm thanh vang rền của tiếng ve làm cho màu vàng của rừng phách như rung chuyển, rung lên thành tiếng. Còn âm thanh của rừng phách lại như nhuộm vàng của tiếng ve. Các động từ “kêu”, “đổ” đã thể hiện thật tài tình không khí rạo rực và sắc màu nồng nàn đặc trưng của mùa hạ. Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến:

·       “Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn heo hắt như thơ xưa mà trái lại, rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu thương chịu khó của cô gái vùng cao. Đằng sau đó ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.

Bức tranh cuối cùng được khắc họa bằng bút pháp chấm điểm tả diện của Tố Hữu là bức tranh mùa thu:

·       “Rừng thu trăng rọi hòa bình”



Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng ngọn núi, từng bản làng Việt Bắc. “Trăng” là một thi liệu cũ nhưng vẫn được Tố Hữu diễn tả bằng cái nhìn rất nhìn rất mới: cái nhìn tươi tắn, khỏe khoắn của con người cách mạng.

·       “ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”


Cảm xúc “nhớ” lại hiện lên lặp lại tronng câu thơ cuối. Tiếng hát ân tình thủy chung của “ai” vang vọng. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhớ lẽ sống thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười năm lăm gắn bó thiết tha mặn nồng. Đó cũng chính là chủ thể trữ tình cất lên lời ân tình thủy chung với Việt Bắc, với cách mạng, với quê hương xứ sở này. Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát say đắm lòng người.

Tác giả đã chọn đặc trưng của bốn mùa để khắc họa khiến thiên nhiên Việt Bắc đẹp và thân thương vô cùng. Từ khi trở thành chiến khu cách mạng, Việt Bắc không u ám xa xôi nữa mà gần gũi, thân thương với mỗi người. Bằng tài năng bậc thầy về thơ ca, bức tranh tứ bình của Tố Hữu không chỉ vẽ lên hình ảnh một quê hương cách mạng tươi sáng, căng tràn sức sống, ấm áp sắc màu mà còn khắc họa được bức chân dung con người mới, con người kháng chiến trong công cuộc dựng xây, kiến thiết đất nước. Đoạn thơ vì thế mà chan chứa niềm tin, niềm tự hào, lạc quan của nhà thơ cách mạng.

Mới mẻ nhưng cũng rất truyền thống. Với kết cấu cổ điển, thể thơ lục bát, đoạn thơ là khúc hát ân tình, ân nghĩa, lời thơ gần gũi, đi vào lòng người muốn thế hệ, trở thành điệu hồn chung của dân tộc.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 24

Tố Hữu đã từng nói : “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”, chính những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc để rồi thơ ca đã trào ra bao nỗi nhớ thương vô vàn. Việt Bắc chính là những rung động mạnh liệt ấy của Tố Hữu. Bài thơ là kết tinh, là di sản của “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Tác phẩm là một khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Bài thơ được viết ra như lời hát tâm tình của một mối tình thiết tha đầy lưu luyến giữa người kháng chiến và đồng bào Việt Bắc được thể hiện qua lăng kính trữ tình – chính trị, đậm tính dân tộc và ngòi bút dạt dào cảm xúc của thi nhân. Đặc biệt là bức tranh tứ bình đươc nhà thơ khắc họa trong đoạn thơ:

·       “Ta về, mình có nhớ ta

·       Ta về ta nhớ những hoa cùng người

·       Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

·       Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

·       Ngày xuân mơ nở trắng rừng

·       Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

·       Ve kêu rừng phách đổ vàng

·       Nhớ cô em gái hái măng một mình

·       Rừng thu trăng rọi hoà bình

·       Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940, gồm sáu tỉnh viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Nơi đây, cán bộ chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình (1940 – 1954). Sau hiệp định Giơnevơ, tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc. Buổi chia tay lịch sử ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Trải dài khắp bài thơ là niềm thương nỗi nhớ về những kỷ niệm kháng chiến gian khổ nhưng nghĩa tình.
Trong đoạn thơ trên, nhân vật trữ tình nhớ về cảnh thiên nhiên và con người lao động Tây Bắc bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông như một bức tranh tứ bình cổ điển mê đắm hôn người.
Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa và hàm chứa trong đó một nỗi nhớ nhung da diết cùng tấm lòng thủy chung của tác giả nói riêng và người cán bộ nói chung dành cho Việt Bắc:

·       "Ta về, mình có nhớ ta

·       Ta về, ta nhớ những hoa cùng người"

Hai câu thơ là lời hỏi và kể của người ra đi, muốn biết lòng người ở lại thế nào và tự bộc lộ tấm lòng của mình. Điệp ngữ "ta về" mở đầu cho hai câu thơ như đặt ra những nỗi niềm của người từ giã. Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh "hoa cùng người", phải chăng con người cũng là một bông hoa trong vườn hoa Việt Bắc. Hình ảnh tạo nên nét hài hòa giữa thiên nhiên và con người, hoa và người khi hòa vào nhau, khi tách biệt để tôn lên vẻ đẹp của nhau. Tiếp sau hình ảnh hoa và người là bức tranh bốn mùa Việt Bắc được vẽ ra hết sức chân thật cùng những màu sắc tươi tắn và âm thanh rộn ràng:

·       "Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

·       Đeo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"

Mùa đông với màu xanh tha thiết, ngút ngàn của núi rừng trùng điệp hiện ra đầu tiên. Tác giả khắc họa mùa đông trước có lẽ bởi vì khi người cách mạng đến đây cũng vào mùa đông của đất nước và cũng chính thời điểm ấy sau mười lăm năm, người cách mạng cũng từ biệt Việt Bắc - cái nôi cách mạng Việt Nam.
Giữa cái nền xanh tươi của rừng thẳm nổi bật hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi, làm cho núi rừng không lạnh lẽo hoang vu mà trở nên ấm áp lạ thường. Những bông hoa chuối ẩn trong sương như những ngọn đuốc hồng soi sáng chặng đường mà ta từng bắt gặp trong bài thơ Tây Tiến: "Mường lát hoa về trong đêm hơi". Cái "đỏ tươi" của hoa chuối như xóa nhòa đi sự lạnh lẽo cô độc của mùa đông lạnh lẽo của núi rừng, như chất chứa, tiềm ẩn sức sống của đất trời. Sự đối lập trong màu sắc nhưng lại hài hòa trong cách diễn đạt khiến mùa đông nơi đây mang hơi hướng của mùa hè ấm áp trong thơ Nguyễn Trãi:

·       "Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

·       Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"

Giữa thiên nhiên ấy, nét đẹp của con người Tây Bắc hiện lên với một nét độc đáo rất riêng:
"Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Người Việt Bắc đi rừng bao giờ cũng gài một con dao ở thắt lưng để phát quang những chướng ngại và đề phòng thú dữ. Ở đây tác giả không miêu tả gương mặt hay thần thái mà miêu tả ánh sáng phản chiếu nơi lưỡi dao gài ở thắt lưng. Ánh nắng mặt trời chiếu xuống làm cho con dao lấy lánh ánh sáng tạo nên hình ảnh con người thật đẹp không thể nào quên, tưởng chừng con người chính là nơi hội tụ của ánh sáng, vừa lung linh vừa rực rỡ. Con người được đặt giữa "đèo cao, nắng ánh", ở vị trí trung tâm giữa núi rừng Tây Bắc, vượt lên cả không gian với hình ảnh lớn lao, làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất nước với hình ảnh kỳ vĩ, lớn lao.

Đông qua rồi xuân. Mùa xuân Việt Bắc hiện lên với sắc trắng của hoa mơ làm bừng sáng cả khu rừng:

·       "Ngày xuân mơ nở trắng rừng

·       Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"


Nhắc đến mùa xuân, người ta lại nhắc đến thời điểm khí hậu mát mẻ, cỏ cây hoa lá vì thế tràn đầy sức sống, đâm chồi, nảy lộc xanh non. Ngày xuân của Việt Bắc được Tổ Hữu nhìn với cái nhìn rất độc đáo: "mơ nở trắng rừng". Nghệ thuật đảo ngữ "trắng rừng" sử dụng từ "trắng" với vai trò động từ chứ không còn là tính từ chỉ màu sắc. Thêm vào đó, động từ "nở" như sự lan tỏa của sắc trắng, lấn át mọi sắc xanh của lá rừng, tạo nên một không gian trong lành, dịu mát của hoa mơ, khiến bức tranh trở nên thanh khiết hơn, trữ tình hơn.

Giữa cái nền trắng của hoa mơ ấy, nổi bật lên hình ảnh con người lao động cần mẫn, dịu dàng: "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp một cách tự nhiên trong công việc hàng ngày. Động từ "chuốt" kết hợp với trợ từ "từng" đã thể hiện bàn tay khéo léo, tỉ mĩ, và tài hoa của người lao động. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Bắc hào hùng nhưng cũng rất hào hoa.

Mùa hè đến, tiếng ve rộn rã vang lên khắp núi rừng:

·       "Ve kêu rừng phách đổ vàng

·       Nhớ cô em gái hái măng một mình"

Âm vang của tiếng ve làm lá phách đổ vàng. Tưởng chừng chỉ cần tiếng ve ngân lên đã làm tiết trời đột ngột chuyển từ xuân sang hè. Câu thơ có nét tương đồng với ý thơ "Một tiếng chim kêu sáng cả rừng" của Khương Hữu Dụng. Chỉ với một câu thơ mà gợi lên cả sự vận động của thời gian, của cuộc sống. Và trên cái nền vàng của rừng phách ấy, hiện lên hình ảnh thật đáng yêu làm cho bức tranh thêm nên thơ, trữ tình. Đó là hình ảnh: "cô em gái hái măng một mình", hái măng một mình nhưng không hề cô đơn mà lại toát lên vẻ đẹp của người phụ nữ chịu thương chịu khó. Câu thơ mang nỗi niềm cảm thông và cảm kích người Việt Bắc, mà người đi không bao giờ quên được những tình cảm chân thành ấy.
Nhớ mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc, nhớ khôn nguôi, nhớ trăng ngàn, nhớ tiếng hát:

·       "Rừng thu trăng rọi hòa bình,

·       Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".


Trăng xưa "vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân". Trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là "trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa". Người cán bộ kháng chiến về xuôi nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng "rọi" qua tán lá rừng xanh, trăng thanh mát rượi màu "hòa bình" nên thơ. "Ai" là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, "nhớ ai" là nhớ về tất cả, về mọi người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung, đã hi sinh quên mình cho cách mạng và kháng chiến.

Đoạn thơ trên đây dào dạt tình thương mến. Nỗi thiết tha bồi hồi như thấm sâu vào cảnh vật và lòng người, kẻ ở người về, mình nhớ ta, ta nhớ mình. Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng sẽ qua đi, những tiếng hát ân tình thủy chung ấy mãi mãi như một dấu son đỏ thắm in đậm trong lòng người.

Đoạn thơ mang vẻ đẹp một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà phong cách dân tộc. Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10 - 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng - Tố Hữu cũng thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc qua bốn mùa: đông - xuân - hè - thu, theo dòng chảy lịch sử. Mỗi mùa có một nét đẹp riêng dạt dào sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trăng xanh hòa bình. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất hữu tình, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nói đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương đi rẫy, là người đan nón, là cô em gái hái măng, là những ai đang hát ân tình thủy chung. Tất cả đều thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của đồng bào Việt Bắc: cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời trong lao động, kiên nhẫn, khéo léo, tài hoa, trẻ trung lạc quan yêu đời, ân tình thủy chung với cách mạng và kháng chiến.

Một giọng thơ ngọt ngào, tha thiết bồi hồi cứ quyện lấy tâm hồn người đọc. Nỗi nhớ được nói đến trong "Việt Bắc" cũng như trong đoạn thơ này cho thấy một nét đẹp trong phong cách thơ Tố Hữu: chất trữ tình công dân và tính dân tộc, màu sắc cổ điển và tính thời đại được kết hợp một cách hài hòa.

Hình tượng đẹp, phong phú, gợi cảm. Một không gian nghệ thuật đầy sức sống, với những đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, cấu trúc cân xứng hài hòa, để lại trong tâm hồn ta một ấn tượng sâu sắc như Bác Hồ đã viết: "Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay..."

Thơ đích thực "là ảnh, là nhân ảnh..., từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la" (Nguyễn Tuân). Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình mến yêu Việt Bắc, tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ "nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp", để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 25

Ngoài là một nhà thơ xuất sắc ,Tố Hữu còn là một người chiến sĩ cách mạng hết lòng vì đất nước. Bởi vậy thơ ông luôn toát lên ý chí cách mạng và tinh thần dân tộc sâu sắc  mang đậm khí thế hào hùng nhưng cũng ngọt ngọt ngào phong vị trữ tình sâu lắng. Việt Bắc là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Tố Hữu. Bài thơ vừa là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến vừa  là khúc tình ca mang đầy màu sắc khi miêu tả thiên nhiên và con người vùng núi mà nổi bật nhất là đoạn thơ khắc họa bức tranh bốn mùa tuyệt đẹp.

“ Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.

 Tố Hữu viết bài thơ này vào tháng 10 năm 1954 sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi miền Bắc được giải phóng trở lại và tiếp tục cuộc sống mới.  Những người chiến sĩ cách mạng sau bao năm tháng chiến đấu gian khổ từ căn cứ miền núi trở về lại miền xuôi. Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về lại thủ đô. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lớn của đất nước có vai trò như là một áng văn tổng kết lại mười năm năm kháng chiến gian khổ mà đầy tình nghĩa ấm áp của người dân miền núi giản dị hiền hậu. Bên cạnh nhưng câu thơ mang đậm khí thế hào hùng ghi lại cuộc kháng chiến bài thơ còn có những đoạn thơ thấm đẫm chất trữ tình dạt dào tình cảm thắm thiết. Cho nên ngoài miêu tả cuộc cách mạng Tố Hữu còn miêu tả cuộc sống và thiên nhiên Việt Bắc nơi ông và đồng đội gắn bó như ruột thịt. Nhớ về miền núi là nhớ về con người và thiên nhiên đầy màu sắc tươi đẹp. Bằng thể thơ lục bát truyền thống tác giả đã vẽ lên hình ảnh Việt Bắc qua bốn mùa trong năm tạo thành bức tranh tứ bình tuyệt đẹp và hoàn thiện. Cũng giống như những đoạn thơ khác phần mở đầu là lời đối đáp mình- ta quen thuộc trong ca dao, nó như lời mở đầu của đưa đẩy trong các cuộc hát giao duyên:

“Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.”

 Người trở về vừa ướm hỏi vừa khẳng định tình cảm của mình với người ở lại. Dù không còn gắn bó nhưng vẫn luôn nhớ về nơi này với những gì đẹp nhất “những hoa cùng người”. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên đất trời. Và mỗi con người ở đây cũng như những bó hoa tươi đẹp toát lên ở tâm hồn và phẩm chất, họ luôn nồng hậu, tình nghĩa. Người và hoa hiện diện trong nỗi nhớ của người đi. Nhớ đến hoa là nhớ đến người và nhớ đến người là luôn xuất hiện sắc hoa tươi tắn. Nhờ thế chủ mà chủ đề của đoạn thơ đã được giới thiệu một cách rất tự nhiên đó là hoa và con người Việt Bắc những câu thơ tiếp theo đã lần lượt vẽ lên rõ ràng hình ảnh đó:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.

 Nói đến miền núi Việt Bắc là nói đến sự bạt ngàn của những cánh rừng nơi con người và thiên nhiên chung sống hài hòa gắn bó. Vậy nên gam màu chủ đạo của bức tranh đầu tiên này là một màu xanh tươi mát bất tận của các loại cây rừng nó gợi ra hình ảnh một xứ sở êm đềm, lặng lẽ và càng yên tĩnh hơn trong mùa đông giá rét. Thời tiết lạnh lẽo nhưng trên cái nền xanh mênh mông đó nổi bật lên một gam màu tươi tắn rực rỡ đó là màu đỏ của những bông hoa chuối rừng. Bông hoa chuối đỏ tươi với thân tròn, đầu thuôn nhọn về phía trước như những ngọn đốt cháy rực. Hoa chuối là một loài hoa quen thuộc và tác giả không miêu tả nhiều về nó chỉ với hai chữ “đỏ tươi” nhưng cũng đã gợi lên sự rực rỡ lạ thường làm không gian xanh ngát trở nên sáng hơn, rất đẹp khi có điểm nhấn cực kỳ ấn tượng đó. Đồng thời khung cảnh núi rừng lại được tô điểm thêm bởi tia nắng ở câu tiếp theo “ Đèo cao nắng ánh” càng làm cho không khí vốn trầm mặc đơn điệu trở nên tươi tắn và sinh động hơn rất nhiều trên nền cảnh thiên nhiên ấy hình ảnh con người xuất hiện:

“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.

 Vùng miền núi với những ngọn đồi cao thấp tạo nên địa hình hiểm trở  đặc trưng cho nơi đây. Người dân Việt Bắc lao động ở đó, đứng trên những ngọn đồi cao làm công việc thường ngày. Dù trời vào đông nhưng trên núi vẫn có  nắng dịu nhẹ ấm áp. Những tia nắng chiếu xuống ngọn đồi, chiếu cả vào chiếc  dao làm rừng tạo nên ánh sáng chói lóa như có thêm một mặt trời thứ hai. Ánh nắng mặt trời lấp lánh đi  theo con người lao động không chỉ gợi lên sự lung linh mà hình ảnh này còn thể hiện một tư thế tự tin, vững chãi của người làm chủ núi rừng bạt ngàn rộng lớn. Tố Hữu  mô tả con người trong tư thế ấy không chỉ ở mỗi bài thơ này, trong bài Lên Tây Bắc tác giả cũng viết:

“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá ngụy trang reo với gió đèo.”

Những dãy núi, ngọn đồi kỳ vĩ nối tiếp nhau với địa hình hiểm trở khó đi, nhưng những con người vẫn lao động không ngại gian khổ đã gắn bó với núi rừng và làm chủ nơi bạt ngàn kỳ vĩ đó. Hình ảnh con người vẫn hiện lên thật đẹp nổi bật với ánh sáng của sự hy vọng và vươn lên. Tố Hữu đã rất tài tình khi viết lên câu thơ này song song cùng màu đỏ tươi  của bông hoa chuối là con người khỏe khoắn sáng lên ánh dao phản chiếu mặt trời chói lóa. Ở bức tranh thứ hai cảnh vật lại mang một vẻ đẹp khác:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đang nón chuốt từng sợi giang”.

 Sau màu xanh ngắt ngút ngàn của núi rừng là màu trắng  tinh khiết của hoa mơ. Chữ “trắng rừng” khiến cả khu rừng như bừng sáng lên phải nói rằng đây là một hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với Tố Hữu nó không chỉ nói lên màu trắng của hoa mơ mà còn như thể hiện sự trong sáng mới mẻ của cuộc sống mới sau này vậy. Trong bài Theo chân Bác Tố Hữu cũng nói đến sắc trắng của rừng mơ

“ Ôi Sáng xuân nay xuân 41

Trắng rừng biên giới ngói nở hoa

Bác về im lặng con chim hót

Thánh thót bờ lau  vui ngẩn ngơ”.

 Mùa xuân ở miền núi mang đặc trưng bởi sắc trắng của những chùm hoa mơ rừng. Đó là màu trắng tinh khôi trong trẻo thanh khiết của đất trời ngày xuân mới bắt, đầu một năm mới. Trên nền trắng tinh khôi đó hiện lên hình ảnh con người trong công việc thầm lặng mà đầy tính nghệ thật :

“ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.

 Người miền núi không chỉ đi làm nương rẫy mà họ còn làm những việc thủ công đòi hỏi sự khéo léo, bền bỉ. Hai chữ “chuốt từng” như miêu tả một hành động vô cùng tỉ mỉ và cẩn thận. Con người Việt Bắc không chỉ khỏe mạnh cần cù mà còn rất tài hoa. Hai bức tranh đầu tiên đã vẽ lên hình ảnh con người và thiên nhiên trong hai mùa đông và xuân với đường nét, màu sắc và ánh sáng đến bức tranh tiếp theo đã xuất hiện âm thanh:

“ Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

 Âm thanh rộn rã của tiếng ve trong mùa hè đã làm  tưng bừng rộn rã cả không gian núi rừng. Trời nắng gắt, tiếng ve càng làm cho không gian sao động, tác giả sử dụng động từ “đổ” thật độc đáo và gợi hình như có sự phản ứng theo dây chuyền. Âm thanh rộn rã của tiếng ve đã làm những rừng phách chuyển màu  vàng. Từ “đổ” là một động từ mạnh diễn tả trạng thái nhanh và bất ngờ. Đây là một hình ảnh kỳ lạ và đặc biệt ở những cánh rừng phách Việt Bắc:  trong những ngày cuối cùng của mùa xuân những cây phách vẫn có màu xanh, nụ hoa vẫn giấu kín trong những kẽ lá nhưng khi tiếng ve đầu tiên của mùa hạ cất lên chúng đột ngột nở rộ những chùm hoa vàng rực. Cả rừng cây cởi bỏ bộ áo trắng tinh khiết của hoa mơ vào mùa xuân để khoác lên mình tấm áo vàng rực rỡ trong mùa hè sôi động gay gắt. Trên nền tràn ngập màu sắc ấy lại là hình ảnh rất bình dị của con người: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Giữa sự sôi động rực rỡ của cảnh vật trong mùa hè là sự kiên nhẫn thầm lặng của một người con gái  một mình hái những búp măng rừng. Hình ảnh đó  toát lên dáng điệu chịu thương chịu khó giàu đức hi sinh. Ta thấy được cả sự cảm thương kín đáo của tác giả qua câu thơ.

 Bộ tranh tứ bình kết thúc bằng bức tranh mùa thu trong đêm. Cả ba bức tranh trước đều miêu tả cảnh ngày, riêng bức tranh cuối này lại được miêu tả vào ban đêm. Phải chăng mùa thu là mùa mà vầng trăng tròn và sáng nhất.

 “Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

 Khu rừng trong đêm âm u tĩnh mịch mà lấp lánh sáng ngời bởi ánh trăng và đó chính là hình ảnh của sự tự do. Ánh trăng sáng tươi đẹp trên nền bầu trời hòa bình của dân tộc. Trong đêm trăng tươi đẹp những con người Việt bắt cất lên câu hát ngọt ngào đó là câu hát giao duyên đằm thắm vui tươi. Nhớ về con người là nhớ về hình dáng lao động và cả tiếng hát của họ. Âm thanh đó không chỉ  làm xao xuyến tâm hồn mà bó còn  có một sức ám ảnh khôn nguôi.

 Bằng những câu thơ lục bát nhẹ nhàng với cách sử dụng từ ngữ linh hoạt đầy  tài hoa, Tố Hữu đã vẽ lên bức tranh tứ bình tuyệt đẹp về con người và thiên nhiên nơi rừng núi hoang sơ mà tươi đẹp Việt Bắc. Đoạn thơ mang nét cổ điển của thi ca truyền thống khi miêu tả cảnh thiên nhiên thành bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp và trọn vẹn nhưng cũng mang màu sắc vô cùng tươi mới hiện đại bởi trong bức tranh đó luôn có hình ảnh con người đang xen một cách hài hòa. Con người nổi bật trên nền thiên nhiên, làm chủ thể cho vẻ đẹp. Việt Bắc vì thế được miêu tả hoàn thiện trong bốn mùa mỗi mùa đều mang màu sắc và hoạt động riêng của con người nhưng đều đẹp và thơ mộng.

 Mười câu thơ trên chính là đoạn thơ tiêu biểu nhất trong tác phẩm Việt Bắc một bài thơ dài và ý nghĩa. Phải có một tài năng đặc biệt, một tấm lòng yêu đời yêu người tha thiết Tố Hữu mới có thể viết lên những câu thơ hay đến như vậy.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 26

Tố Hữu là một trong số những gương mặt tiêu biểu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông là đỉnh cao của khuynh hướng trữ tình - chính trị, mang đậm khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn và tinh thần dân tộc. Và có thể nói, Việt Bắc là một trong số những sáng tác tiêu biểu nhất cho đặc điểm thơ Tố Hữu. "Việt Bắc" là khúc anh hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về kháng chiến và về con người. Và có lẽ, những ai đã đọc Việt Bắc sẽ không thể nào quên được vẻ đẹp của bức tranh tứ bình trong bài thơ - vẻ đẹp với sự gắn bó, hòa quyện giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc.

Mở đầu đoạn thơ miêu tả bức tranh tứ bình trong "Việt Bắc" là một câu hỏi tu từ - một câu hỏi để lại trong lòng bạn đọc ấn tượng khôn nguôi:

Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Với hình thức câu hỏi tu từ, ngắt nhịp chẵn cùng việc sử dụng điệp từ "ta" tác giả như muốn nhấn mạnh nỗi nhớ, cùng tấm lòng thủy chung son sắt của mình. Nỗi nhớ ấy, tấm lòng ấy gửi đến "hoa cùng người". Cách nói tách đôi "hoa" và "người" giúp người đọc nhận thấy sự kết hợp hài hòa, đan xen vào nhau giữa "hoa" - thiên nhiên Việt Bắc với "người" - những người dân Việt Bắc, những người tham gia vào cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ của dân tộc.

Những nét vẽ đầu tiên cho bức tranh tứ bình trong bài thơ là khung cảnh mùa đông đẹp đẽ, tràn đầy sức sống nơi núi rừng Tây Bắc của Tổ quốc:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Hình ảnh thiên nhiên gợi ấn tượng đậm nét với bạn đọc về khung cảnh thiên nhiên Việt Bắc vào đông với một màu xanh bạt ngàn, vô tận ánh ngời lên sức sống mãnh liệt của thiên nhiên, cảnh vật nơi đây. Và để rồi, trên cái nền xanh ấy là sự điểm xuyết màu đỏ rực rỡ của những bông hoa chuối rừng. Hai gam màu ấy quyện hòa vào nhau dưới ánh nắng vàng làm cho bức tranh thêm sinh động ấm áp. Trên cái nền thiên nhiên vào đông ấy, hình ảnh con người hiện lên thật khỏe khoắn, mạnh mẽ và đầy chủ động "dao gài thắt lưng". Con người ở đây được đặt trong không gian thiên nhiên rộng lớn, bao la, kì vĩ song vẫn nổi bật lên một cách vững chãi, sánh ngang với tầm vóc thiên nhiên.

Không chỉ là khung cảnh Việt Bắc vào đông mà hình ảnh vào xuân của thiên nhiên Việt Bắc cũng được tác giả miêu tả một cách sinh động, độc đáo:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Có thể nói, sắc trắng của hoa đào, hoa mận đã trở thành nét đặc trưng riêng của thiên nhiên Tây Bắc mỗi độ xuân về và ở đây, tác giả Tố Hữu đã thể hiện rõ điều đó. Đó là một bức tranh mùa xuân viên mãn và tràn đầy sức sống với sắc trắng của rừng mơ tinh khôi, trẻ trung, thơ mộng. Cái đẹp, cái quyến rũ của thiên nhiên dường như được tăng lên bội phần bởi chính cảm xúc trầm trồ, ngưỡng mộ của tác giả qua cách sử dụng từ "trắng rừng". Trên cái nền xao xuyến ấy của thiên nhiên, hình ảnh con người hiện lên thật lặng lẽ. Từng động tác "chuốt từng sợi giang" vừa gợi sự cẩn trọng, tỉ mỉ vừa gợi sự khéo léo, tài hoa của những người lao động Việt Bắc. Dường như, bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu ân tình được người lao động gửi trọn vào trong đấy.

Nếu như bức tranh mùa xuân được tác giả vẽ lên bằng màu sắc của thiên nhiên Việt Bắc thì bức tranh mùa hè được tác giả gợi nên từ cả màu sắc lẫn âm thanh:

Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình

Thiên nhiên có sự quyện hòa giữa sắc vàng của phách và âm thanh của tiếng ve để rồi như rộn lên những cảm xúc yêu mến, xốn xao khi phải chia li. Âm thanh và màu sắc cộng hưởng vào nhau, dường như, tiếng ve đã đánh thức màu sắc để tạo nên sự chuyển động mau lẹ "rừng phách đổ vàng". Chữ "đổ" được tác giả sử dụng thật tinh tế, gợi nên sự căng tròn, tràn trề và cả nguồn sống rạo rực. Trong cảnh sắc ấy, con người vẫn âm thầm "một mình" chăm chỉ "hái măng". Đó chính là hình ảnh người lao động chịu thương, chịu khó lặng thầm cống hiến cho đất nước, cho kháng chiến.

Hình ảnh kết thúc bức tranh tứ bình trong Việt Bắc đó chính là bức tranh về mùa thu - mùa thu hòa bình:

Mùa thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Bức tranh thiên nhiên hiện lên thật đẹp đẽ trong vẻ êm đềm, thơ mộng với ánh trăng tỏa sáng, chiếu rọi khắp núi rừng. "Trăng rọi hòa bình" là hình ảnh gợi tới ngày mai tươi sáng. Có thể nói, đây là một hình ảnh thơ được tạo nên bởi sự hòa quyện giữa cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng lịch sử. Và để rồi, trong không khí ấy, con người hiện lên không phải bởi gương mặt, hình dáng mà bởi tiếng hát, với nét đẹp tâm hồn từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam: ân tình, thủy chung, lạc quan và luôn tin vào một ngày mai tươi sáng.
Tóm lại, bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc hiện lên thật đẹp, thật sinh động bởi nó có sự gắn bó, hòa quyện giữa thiên nhiên và con người. Đồng thời, qua đó, chúng ta thấy được tài năng của Tố Hữu trong việc sử dụng ngôn ngữ, lựa chọn hình ảnh và tấm lòng ân tình, thủy chung của ông đối với quê hương cách mạng Việt Bắc.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 27

Đoạn trích này được xem là đặc sắc nhất Việt Bắc. 10 câu lục bát thu gọn cả sắc màu 4 mùa, cả âm thanh cuộc sống, cả thiên nhiên con người Việt Bắc.

"Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"


Phép láy đầu câu "Ta về" nhấn nốt chủ âm xoáy vào câu hỏi người ở. Từ "ta" điệp lại trong cấu trúc "ta về ta nhớ" lại nhấn mạnh tình cảm người đi. "Ta nhớ hoa cùng người". Hình ảnh hoa và người xuất hiện kế liền bên nhau trong nỗi nhớ của người đi làm ta liên tưởng tới câu ca "Người ta hoa đất" Tố Hữu lựa chọn thật đắt hình ảnh đối xứng : hoa – người. Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của thiên nhiên, kết tinh từ hương đất sắc trời, tương xứng với con người là hoa của đất. Bởi vậy đoạn thơ được cấu tạo: câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con người. Nói đến hoa hiển hiện hình người, nói đến người lại lấp lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau tỏa sáng bức tranh thơ. Bốn cặp lục bát tạo thành bộ tứ bình đặc sắc, trong đó nỗi nhớ đằm sâu làm tươi rói sắc màu tâm trạng:

Trước hết đó là nỗi nhớ mùa đông Việt Bắc - cái mùa đông thủa gặp gỡ ban đầu, đến hôm nay vẫn sáng bừng trong kí ức.


"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"



Câu thơ truyền thẳng đến người đọc cảm nhận về một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già. Cái màu xanh ngằn ngặt đầy sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá. Cái màu xanh chứa chất bao sức mạnh bí ẩn "Nơi thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng". Màu xanh núi rừng Việt Bắc":


"Rừng giăng thành lũy thép dμy
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù"



Trên cái nền xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn làm ấm cả không gian, ấm cả lòng người. Hai chữ "đỏ tươi" không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân. Câu thơ gợi nhớ hình ảnh thơ trong "Cuộc chia ly màu đỏ" của Nguyễn Mĩ:

"Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn ng ười"

Có thể thấy cái màu đỏ trong câu thơ Tố Hữu như điểm sáng hội tụ sức mạnh tiềm tàng chốn rừng xanh đại ngàn, lấp lóa một niềm tin rất thật, rất đẹp. Trên cái phông nền hùng vĩ và thơ mộng ấy, hình ảnh con người xuất hiện thật vững trãi, tự tin. Đó là vẻ đẹp của con người làm chủ núi rừng, đứng trên đỉnh trời cùng tỏa sáng với thiên nhiên, "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng". Chỉ một nét chấm phá: "Nắng ánh dao gài", nhà thơ đã lột tả vẻ đẹp của con người Việt Bắc từ dáng vẻ đến tâm hồn.

Cùng với sự chuyển mùa (mùa đông sang mùa xuân) là sự chuyển màu trong bức tranh thơ: Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cả không gian sáng bừng lên sắc trắng của rừng mơ lúc sang xuân. "Ngμy xuân mơ nở trắng rừng" Trắng cả không gian "trắng rừng", trắng cả thời gian "ngμy xuân". Hình ảnh này khá quen thuộc trong thơ Tố Hữu, hình ảnh rừng mơ sắc trắng cũng đi vào trường ca "Theo chân Bác" gợi tả mùa xuân rất đặc trưng của Việt Bắc:

"Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ"

Cái sắc trắng tinh khôi bừng nở mỗi độ xuân về làm ngơ ngẩn người ở, thẫn thờ kẻ đi. Người đi không thể không nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc, và lại càng không thể không nhớ đến con người Việt Bắc, cần cù uyển chuyển trong vũ điệu nhịp nhàng của công việc lao động thầm lặng mà cần mẫn tài hoa:

"Nhớ ngươi đan nón chuốt từng sợi giang"

Hai chữ "chuốt từng" gợi lên dáng vẻ cẩn trọng tài hoa dường như bao yêu thương đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón. Cảnh thì mơ mộng, tình thì đượm nồng. Hai câu thơ lưu giữ lại cả khí xuân, sắc xuân tình xuân vậy.Tài tình như thế thật hiếm thấy.

Bức tranh thơ thứ 3 chuyển qua rừng phách - một loại cây rất thường gặp ở Việt Bắc hơn bất cứ nơi đâu. Chọn phách cho cảnh hè là sự lựa chọn đặc sắc, bởi trong rừng phách nghe tiếng ve ran, ngắm sắc phấn vàng giữa những hàng cây cao vút, ta như cảm thấy sự hiện diện rõ rệt của mùa hè. Thơ viết mùa hè hay xưa nay hiếm, nên ta càng thêm quí câu thơ của Tố Hữu:


"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"



ở đây có sự chuyển đổi cảm giác rất thú vị: Tiếng ve kêu - ấn tượng của thính giác đã đem lại ấn tượng thị giác thật mạnh. Đây cũng là trường hợp câu thơ của Khương Hữu Dụng.

"Một tiếng chim kêu sáng cả rừng"

Tiếng chim kêu trong thơ Khương Hữu Dũng mang chức năng đánh thức, thắp sáng cả một miền rừng, thì tiếng ve kêu trong thơ Tố Hữu còn mang ý vị đồ họa không những không gian mà cả thời gian. Sự chuyển mùa qua sự chuyển màu trên thảo mộc cỏ cây: Những ngày cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh, những nụ hoa còn náu kín trong kẽ lá. Khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông, đồng loạt tung phấn, cả rừng phách lênh láng sắc vàng. Chữ "đổ" được dùng thật chính xác, tinh tế. Nó vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc mμu, vừa diễn tả tμi tình từng đợt mưa hoa rừng phách khi có ngọn gió thoảng qua, vừa thể hiện chính xác khoảng khắc hè sang. Tác giả sử dụng nghệ thuật âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy cảnh thực mà vô cùng huyền ảo. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh cô em gái hiện lên xiết bao thơ mộng, lãng mạn: "Cô em gái hái măng một mình" nghe ngọt ngào thân th ương trìu mến. Nhớ về em, là nhớ cả một không gian đầy hương sắc. Người em gái trong công việc lao động hàng ngày giản dị: hái măng. Rất tự nhiên song là cả một công phu dựng cảnh: Rừng phách vào hè, những trận mưa đầu mùa gọi dậy những búp măng non, vừa nhu nhú lên mặt đất, trong lớp áo tơi mỏng kia, là nõn măng ngọt giòn. Những ngón tay khéo léo của em gái bóc lớp áo măng mỏng tang, hái lấy đọt măng non, nom thật mềm mại uyển chuyển. Vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng ấy còn được tô đậm ở hai chữ "một mình" nghe cứ rưng rưng xao xuyến lạ, bộc lộ thầm kín niềm mến thương của tác giả. Nhớ về em, nhớ về một mùa hoa...

Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong thời điểm chia tay giã bạn. Hình ảnh ánh trăng dọi qua kẽ lá dệt lên mặt đất một thảm hoa trăng lung linh huyền ảo. Ta nhớ tới câu thơ:

"Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"

Dưới ánh trăng thu, tiếng hát ân tình càng làm cho cảnh thêm ấm áp tình người. Đại từ phiếm chỉ "Ai" đã gộp chung người hát đối đáp với mình làm một, tạo một hòa âm tâm hồn đầy bâng khuâng lưu luyến giữa kẻ ở, người đi, giữa con người và thiên nhiên.

Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng hòa kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc... Tiếng ve của mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng mơ, vàng ửng của hoa phách... Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên thật bình dị, thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 28

"Việt Bắc" là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ của Tố Hữu. Được biết đến như một tác phẩm nổi bật của thơ ca kháng chiến, Việt Bắc đã có một vị trí vững chắc trong lòng người đọc.

Tác phẩm ra đời vào tháng mười năm 1954, nhân sự kiện cơ quan trung ương Đảng rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội sau chiến thắng Điện Biên Phủ.  Bài thơ là nỗi lòng của người ra đi và kẻ ở lại trong phút chia tay đầy bâng khuâng lưu luyến và nỗi nhớ của người ra đi dành cho Việt Bắc. Trong hồi ức của người ra đi, cảnh vật thiên nhiên Việt Bắc thật đẹp, đẹp như một bức tranh tứ bình. 

"Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

 Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung."

Bức tranh tứ bình được miêu tả qua nhãn quan của người ra đi. Nó được tái hiện bằng hồi ức của tác giả về Việt Bắc. Một bức tranh nhiều màu sắc làm cho bài thơ thêm sống động. Mở đầu là lời khẳng định lòng mình ra đi nhưng vẫn nhớ "hoa cùng người". Bức tranh tứ bình được miêu tả cả bốn mùa xuân – hạ – thu – đông. Vào mùa đông giữa bạt ngàn sắc xanh của rừng núi là "hoa chuối đỏ tươi". Những bông hoa chuối đỏ rực nổi bật trên màu xanh của rừng xanh xanh đỏ đỏ, tạo nên màu sắc sống động cho câu thơ. Màu đỏ của hoa chuối như những đốm lửa xua tan đêm đông giá lạnh, sưởi ấm không gian xung quanh bao trùm lấy nó. Mùa đông là vậy, còn mùa xuân, thiên nhiên Việt Bắc lại được bừng sáng bởi sắc mơ thanh khiết "mơ nở trắng rừng". Khung cảnh thật tuyệt đẹp! Như chỉ chờ xuân sang, mơ đồng loạt nở rộ nhuộm cả cánh rừng một màu trắng tinh khiết khiến ai chứng kiến cũng phải xao xuyến. Sang mùa hạ, phù hợp với cái nắng chói chang là sắc vàng của rừng phách hòa vào tiếng ve râm ran: "ve kêu rừng phách đổ vàng". Đặc sắc nghệ thuật của câu thơ này là cách sử dụng từ "đổ". "Đổ" là ào ạt trút xuống nhanh chóng tràn ra. Từ "đổ" này đã làm tăng thêm tính gợi hình cho câu thơ. Nó khiến cả không gian trước mát người đọc giờ chỉ là một màu duy nhất đó là sắc vàng rực rỡ. Mùa thu, cảnh vật lại dịu lại và ảo diệu. Ánh trăng dịu hiền cùng tiếng hát ân tình làm cho câu thơ như lắng lại. Nhưng đặc biệt hơn ánh trăng ấy không phải là ánh trăng bình thường mà là ánh trăng của những ngày đầu độc lập. Ánh trăng ấy là ánh trăng của hòa bình độc lập. Một bức tranh thiên nhiên với đầy đủ bốn mùa đã hiện ra trước mắt người đọc một cách sống động. Nhưng cảnh sắc sẽ không hoàn hảo nếu thiếu đi hình ảnh con người. Trong bức tranh bốn mùa của Tố Hữu luôn có sự xuất hiện của bóng dáng con người. Tố Hữu đã sử dụng những hình ảnh gắn liền với công việc của họ để gợi nhớ. Những con người trong thơ Tố Hữu đều là những người lao động lên rẫy phát nương với "dao gài thắt lưng" hay người chăm chỉ "chuốt từng sợi giang", hay "cô gái hái măng một mình". Tất cả những nét đẹp nơi con người Việt Bắc đã được thể hiện một cách chân thực qua thơ Tố Hữu. Chắc hẳn phải là người yêu và dành nhiều tình cảm cho Việt Bắc lớn lắm thì mới có thể vẽ ra một bức tranh hoàn hảo đến vậy. Bức tranh ấy như tô điểm thêm nét đặc sắc cho bài thơ.

Khép lại bức tranh tứ bình, trong lòng người đọc vẫn còn nhiều bâng khuâng. Đoạn thơ đã đọng lại trong tâm trí độc giả là một cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, đẹp, màu sắc và tràn đầy sức sống. Không chỉ thế, đoạn thơ còn thể hiện những con người lao động ở Việt Bắc rất tuyệt. Tóm lại, đoạn thơ bức tranh tứ bình là một trong những đoạn hay nhất của bài. Nó vừa có đặc sắc nghệ thuật, vừa tạo điểm nhấn cho tác phẩm.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 29

Chiến tranh bùng nổ, tiếng gọi của lòng yêu nước thôi thúc bao thanh niên lên đường bảo vệ Tổ quốc. Cùng với dòng người ấy, Tố Hữu cũng góp mặt trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Dùng ngòi bút cỗ vũ cách mạng, tuyên truyền lí tưởng yêu nước, Tố Hữu đã viết lên bài thơ “Việt Bắc”. Bài thơ đã ca ngợi cuộc kháng chiến hào hùng, ca ngợi tình cảm quân dân và thể hiện niềm tự hào về quê hương đất nước. Những điều đó hội tụ trong đoạn thơ ngắn miêu tả bức tranh tứ bài trong bài thơ “Việt Bắc”:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

Đoạn thơ trên bao gồm hai nội dung miêu tả, một là thiên nhiên và một là con người. Dù là cảnh hay người thì đều được khắc họa bằng những nét vẽ rất trong sáng, thơ mộng và thân thương.

Trước hết, trong cảm nhận của Tố Hữu, thiên nhiên Việt Bắc đẹp như một bộ tứ bình. Khác với thông thường, tứ bình về tứ mùa là “xuân, hạ, thu, đông” thì tứ bình nơi Việt Bắc được bắt đầu từ mùa đông:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”

Mùa đông Việt Bắc rất đặc trưng ở vẻ xanh trầm mặc. Sưởi ấm cho không gian, một bông hoa chuối đỏ như sưởi ấm không gian ngút ngàn lạnh lẽo. Hơn nữa, lại còn là “đỏ tươi”, màu đỏ đầy sức sống. Nhờ vậy, bức tranh thiên nhiên thật tươi sáng và gần gũi.

Mùa xuân Việt Bắc như ngập tràn trong sắc trắng hoa mơ, mang vẻ đẹp tinh khiết lạ thường:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng”

Cách nói “trắng rừng” thật độc đáo. Đẩy tính từ bổ trợ “trắng” lên trước “rừng” như thể nhấn mạnh vào màu sắc. Rừng không còn “xanh” nữa mà như hoàn toàn ngập trong sắc “trắng” tinh khôi.

Đến mùa hè, thiên nhiên lại tắm trong sắc vàng của hoa phách và tiếng ve rộn rã:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng”

Cách miêu tả rất sinh động! Tác giả diễn tả một bức tranh đang có sự chuyển động thú vị: khi tiếng ve đầu tiên cất lên thì cả rừng phách nhất loạt bung nở hoa vàng, sự nở rộ nhanh tới mức như ai đó đang đổ chất vàng lóng lánh xuống rừng già.

Mùa thu, Việt Bắc thật thơ mộng:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình”

Ánh trăng sáng rõ, hiền hòa và tươi mát phủ kín khắp không gian. Ánh trăng tròn đầy gợi ngày tết Trung thu đoàn viên, yên ấm bên gia đình. Ánh trăng sáng quá, đẹp quá! Vậy nên rõ là đất nước đang loạn lạc nhưng sao vẫn thấy thật yên bình. Thiên nhiên Việt Bắc thật gần gũi và thơ mộng.

Cùng với nỗi nhớ về 4 mùa thiên nhiên Việt Bắc chính là con người. Bộ tranh tứ bình không thể thiếu đi hình ảnh con người Việt Bắc chung thủy, nghĩa tình. Con người Việt Bắc hiện lên trong tư thế làm chủ núi rừng:

“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Hình ảnh con người đứng trên đỉnh cao, nắng chiếu vào con dao gài bên thắt lưng phản chiếu lóe sáng một đường dài trên rừng già thật kỳ vĩ. Con người Việt Bắc tựa chủ nhân của cánh rừng đại ngàn.

Thế rồi, con người Việt Bắc thật dịu dàng, đáng yêu:

“Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Tác giả gọi “cô em gái” sao mà thân thương quá. Tuy cô gái “một mình” nhưng lại đang trong trạng thái hái măng – lao động do vậy chẳng hề một mình chút nào. Cô gái hái măng phục vụ cuộc sống, phục vụ cán bộ chiến sĩ. Do đó, ta dường như cảm nhận được tinh thần mạnh mẽ, hăng say lao động trong một người em gái nhỏ nhắn.

Trong lao động kháng chiến phục vụ cách mạng, con người Việt Bắc thật cần mẫn:

“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Từ “chuốt” là nhãn tự của câu thơ. Nó gợi hình ảnh những mế, những chị em gái với bàn tay khéo lẽo, cần mẫn, tỉ mỉ đang làm ra những chiếc nón nghĩa tình.

Cuối cùng, hình ảnh con người Việt Bắc đẹp nhất được hội tụ trong tiếng hát nghĩa tình:

“Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Những con người Việt Bắc chất phác, đôn hậu, lạc quan và đầy nghĩa tình với cán bộ và với cách mạng. Tiếng hát nghĩa tình vang lên giữa cánh rừng đại ngàn không rõ từ “ai” nhưng hẳn rằng nó đến từ những trái tim đầy yêu thương.

Đoạn thơ tứ bình trong “Việt Bắc” thật đặc sắc. Cứ một câu sáu chữ về cảnh, lại đan cài một câu 8 chữ về người. Nhờ đó, không chỉ cảnh đẹp, người đẹp mà cảnh và người còn hòa hợp với nhau tuyệt đối. Cách dùng từ, gieo vần, ngắt nhịp rất linh hoạt cũng góp phần tạo nên thành công cho đoạn thơ. Những vần thơ của Tố Hữu khiến tôi thêm yêu con người và đất nước Việt Nam hơn.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 30

Việt Bắc của Tố Hữu là một trường ca tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến vĩ  đại của dân tộc chống thực dân Pháp. Bài thơ đi vào lòng người bằng  giọng điệu ân tình chung thuỷ như ca dao, khắc hoạ sâu sắc nỗi niềm của  những người con rời “thủ đô kháng chiến”, thâm tâm đầy ắp kỷ niệm nhớ  thương.Trong tâm trạng kẻ ở - người đi, hình bóng của núi rừng – con  người Việt Bắc vẹn nguyên cùng ký ức, với bao hình ảnh đơn sơ mà cảm  động. Để hôm nay, những câu thơ còn rung động lòng người với những sắc  màu, âm thanh tươi rói hơi thở của núi rừng chiến khu, hơi ấm của tình  người lan toả :

“ Ta về , mình có nhớ ta
Ta về,  ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Mùa xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợ giang
Ve kêu rùng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng dọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.          

Bài thơ được Tố Hữu viết về buổi chia tay của cán bộ kháng chiến với  người dân Việt Bắc.Bằng tiếng nói ngọt ngào tha thiết của khúc hát giao  duyên trong ca dao, nhà thơ đã ca ngợi tình cảm gắn bó thủy chung với  cách mạng, với đất nước , với nhân dân.Khổ thơ được phân tích thuộc đoạn  2 của bài thơ.Đây được coi là 10 câu thơ hay nhất diễn tả nỗi nhớ thiên  nhiên và con người VB của người ra đi.Qua nỗi nhớ ấy người đọc liên  tưởng tới thiên nhiên VB giống như 1 bức tranh tứ bình.
Hai câu thơ đầu tiên của khổ thơ đã thể hiện rõ tâm trạng của người ra đi:
“ Ta về , mình có nhớ ta
Ta về,  ta nhớ những hoa cùng người”.
Hai câu thơ sử dụng từ “mình” và “ta” quen thuộc trong ca dao, “ta” chỉ  người ra đi và “mình “ chỉ người ở lại.Cụm từ “ta về”, “nhớ” được nhắc  đi nhắc lại tới 2 lần ,trong câu thơ đầu tiên là người ra đi hỏi người ở  lại,còn trong câu thơ thứ 2 là để bày tỏ tâm trạng của người ra đi: nỗi  nhớ “hoa cùng người”. “Hoa” tượng trưng cho thiên nhiên VB, “người” là  để chỉ nhân dân VB.Nỗi nhớ hoa và người đan xen hòa trộn trong tâm trạng  của người ra đi.Trong 8 câu thơ tiếp theo nỗi nhớ ấy lần lượt hiện lên  với tất cả những gì đẹp nhất,thơ mộng nhất.
Mở đầu cho bức tranh tứ bình là khung cảnh muà đông,một mùa đông mang vẻ đẹp lạ lùng:
“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Câu thơ tả những cánh rừng VB tràn ngập 1 màu xanh của cây lá,màu xanh  của sự sống.Giữa màu xanh bạt ngàn bừng lên màu đỏ tươi của hoa  chuối,màu đỏ tươi sáng ấm áp như xua đi không khí lạnh lẽo.hoang sơ của  núi rừng .Hai màu xanh đỏ tương phản nhưng cùng tô điểm cho bức tranh  thiên nhiên thêm đẹp rực rỡ.Và giữa khung cảnh rừng núi thơ mộng ấy bỗng  hiện lên bóng người trên đèo cao.Nhà thơ ko tả dáng người , ko tả gương  mặt mà tả tư thế con người trong công việc, một tư thế khỏe khoắn của  người làm chủ thiên nhiên.Trên trời cao ánh nắng hắt xuống lưng người ,  chiếu vào con dao làm ánh lên 1 màu sáng kì diệu.Cái nắng hiếm hoi của  mùa đông đã tô điểm cho bức tranh thiên nhiên thêm tươi tắn, mang 1 vẻ  đẹp riêng độc đáo.
Màu xanh vô tận của những cánh rừng bỗng thay đổi thành 1 màu trắng của hoa mơ:
“Mùa xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợ giang”.
Hai câu thơ trên miêu tả mùa xuân của VB. “Ngày xuân” là từ báo hiệu  thời gian thay đổi,1 mùa đông qua đi 1 mùa xuân mới đến.Rừng VB vào xuân  trên khắp núi rừng những bông hoa mơ thi nhau nở rộ khoa 1 màu trắng  tinh khiết.Nghệ thuật đảo ngữ trong câu thơ “trắng rừng” có tác dụng  nhấn mạnh rừng VB bạt ngàn 1 màu trắng.Màu trắng tinh khiết của hoa mơ  như lấn át tất cả màu xanh của cây lá làm bừng sáng cả khu rừng .Câu thơ  đem lại cho người đọc 1 cảm nhận không khí xuân lan tràn, không gian  núi rừng mênh mông, thiên nhiên VB giàu sức sống.Trong sắc x ân của  thiên nhiên nhiên đất trời hiện lên hình ảnh con người lao động làm việc  chăm chỉ cần cù, miệt mài “chuốt từng sợi giang”. “Chuốt” là 1 từ chỉ  động tác làm đi làm lại, người dân Việt Bắc tỉ mỉ cẩn thận trong công  vịêc bằng đôi bàn tay khéo léo tạo nên những sản phẩm đẹp.
Thế rồi, khoảnh khắc nhàn hạ của mùa xuân cũng qua mau, qua mau, con người tiếp tục sống cuộc sống của họ.
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc bằng thị giác, lẫn thính giác. Đầu  tiên, cái độc đáo ở đây chính là âm thanh, âm thanh mùa hạ, tiếng “ve  kêu”. Câu thơ tạo ra hình ảnh nhân hóa. Con ve là loài vật, vậy mà nó  biết kêu, biết gọi, nó xui khiến rừng phách đổ vàng ở đây, chúng ta nên  dành một ít thời gian để tìm hiểu cái rừng phách kì lạ này. Rừng phách  là những cây lạ ở miền Bắc. Nó không mọc riêng rẽ mà mọc thành rừng, rất  nhạy cảm với thời tiết. Tiếng ve kêu râm ran đây đó đã báo hiệu mùa hạ,  nhưng lúc này đã là cuối hạ. Cái lạnh đang tràn ngập núi rừng, lá cây  bắt đầu chuyển sang màu vàng, cả rừng phách thay áo mới, chiếc áo vàng  óng ánh dưới ánh nắng mặt trời. Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại  càng lãng mạn hơn, vì trong cánh rừng bạt ngàn ấy có thêm bóng dáng của  một sơn nữ ”hái măng một mình”. Đọc tới đây khiến ta liên tưởng đên một  hình ảnh tương tự trong thơ Nguyễn Bính, một nhà thơ của đồng quê:
“Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn ra rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ”
Đây là khổ thơ thứ nhất trong bài thơ”Cô hái mơ”. Ta thấy có sự giống  nhau rất ngẫu nhiên: cũng là rừng núi và cô gái đang làm việc. Chỉ có  điều ở đây là “hái mơ” chớ không phải “hái măng”.
Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bằng một động từ nào khác:  bẻ, đốn… vì chỉ có nó mới phù hợp nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của  cô gái mà thôi. Ta hãy thử tưởng tượng bức tranh mùa hạ như thế này đẹp  biết bao. Cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ như thế lại khảm chạm thêm vào hình  ảnh một người thiếu nữ nhẹ nhàng làm việc. Quả thật bức tranh vừa đẹp  vừa có thần nữ. Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau,  tô điểm cho nhau.
Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thu cũng không kém phần đẹp đẽ.
”Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả  bằng ánh trăng. Việc sử dụng hình ảnh trăng thật ra cũng không có gì  độc đáo và mới mẻ. Tuy nhiên đặt vào hoàn cảnh Việt Bắc lúc bấy giờ ta  thấy được niềm mơ ước hòa bình của người cán bộ cũng như toàn dân Việt  Bắc. Tất cả đều nói lên niềm tin tưởng chiến thắng sẽ đến với cách mạng  với đất nước.
Câu thơ thiếu cụ thể nên con người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ “ai” nhòa  đi để tạo nền cho cả đoạn và cũng nhằm trả lời cho câu hỏi đầu tiên:  “Mình về có nhớ ta chăng?”. Tuy hỏi thế nhưng trong lòng họ vẫn biết  rằng con người ấy vẫn thủy chung, son sắt. Đây là lời đồng vọng trong  tâm hồn của cả hai người yêu nhau cùng nhớ, cùng thương” “nhớ ai tiếng  hát ân tình thủy chung”.
Qua đây ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết  tiếp tục âm hưởng chung của nghệ thuật ca dao. Câu thơ lục bát nhịp  nhàng, uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người  ra đi và người ở lại. Đặc biệt là qua cách xưng hô “mình” với “ta”. Ở  đây điệp từ nhớ dùng để xoáy sâu vào cảm hứng chủ đạo là hồi ức. Từ  ”rừng” lặp lại là khoảng không gian cho nỗi nhớ tồn tại. Màu sắc cũng  ảnh hưởng không ít tới bức tranh, đỏ lặng lẽ, nhưng có sức sống. Màu con  dao thể hiện sự hoạt động. Màu trắng làm thanh thoát con người và màu  vàng làm cho bức tranh rực rỡ trong hoàng hôn. Rõ ràng bức tranh đã có  sự hòa điệu của màu sắc. Bên cạnh đó,nhạc đệu dịu dàng trầm bổng khiến  cả đoạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru – khúc  hát ru kỉ niệm. Có lẽ khúc hát ru này không của ai khác là của ”ta” và  cho người nhận là “mình”. Cả ”ta” và “mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng  chung ”Tiếng hát ân tình “ và ân tình sâu nặng ấy mãi còn lưu luyến vấn  vương trong những tâm hồn chung thủy.
Chúng ta có thể thấy, ở đoạn thơ trên thiên nhiên VB hiện lên với bao vẻ  đẹp đa dạng trong hững thời gian và ko gian khác nhau, thay đổi theo  từng thời tiết,từng mùa . Gắn bó với từng khung cảnh ấy là hình ảnh  những con người bình dị, bằng những việc làm tưởng chừng như nhỏ bé của  mình, họ đã góp phần ko nhỏ vào sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng  chiến.Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ,bộ đội, sự đồng cảm và  san sẻ cùng chung mọi gian khổ và niềm vui,cùng gánh vác những trách  nhiệm nặng nề khó khăn ....càng làm cho “VB” ngời sáng lung linh trong  ánh hào quang của kỉ niệm.
Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài “Việt Bắc”.  Cảnh thiên nhiên và con người trong đây được miêu tả hết sức tuyệt vời  và tươi đẹp, tràn ngập sức sống. Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình  khiến đoạn thơ như một bản tình ca về lòng chung thủy sắt son của người  cách mạng đối với cả nhân dân, quê hương Việt Bắc.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 31

Sống ân nghĩa, thủy chung chính là một lối sống văn hóa đẹp đẽ từ ngàn đời nay của dân tộc ta. Nét đẹp đó đã được lưu giữ trong rất nhiều tác phẩm văn học khác nhau và một trong số đó ta không thể không kể đến bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu:

       “Ta về mình có nhớ ta

       …

    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

   Việt Bắc không đơn thuần chỉ là một địa danh, là một nơi để chiến đấu mà còn là nơi chưa đựng đầy những kỉ niệm, đầy tình người tha thiết, sâu nặng. Bởi vậy, trong khoảnh khắc chia tay bất cứ ai cũng bồi hồi xúc động, nhớ về những kỉ niệm đã qua. Kỉ niệm đó là lớp học, là những ngày tháng liên hoan những năm kháng chiến và còn một nỗi nhớ khác chính là về thiên nhiên và con người Việt Bắc.

   Thiên nhiên Việt Bắc trong bức tranh tứ bình hiện lên vô cùng cô đọng, hàm súc, đại diện cho bốn mùa. Mùa đông là mùa đầu tiên xuất hiện trong bức tranh tứ bình:

       Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

   Khi đọc câu thơ lên, bất chợt trong lòng mỗi người sẽ không hình dung đến mùa đông âm u, lạnh lẽo mà phải là mùa xuân ngập đầy sức sống, hay mùa hạ rực rỡ. Nhưng không, đây lại chính là bức tranh thiên nhiên Việt Bắc vào mùa đông. Trên cái nên xanh ngắt của rừng bạt ngàn là màu đỏ rực của hoa chuối. Cái ấm nóng rực rỡ dù nhỏ nhưng dường như đã làm cả bức tranh bừng sáng, trỗi dậy sức sống tiềm tàng trong đó.

   Bức tranh thứ hai chính là mùa xuân. Ở đây khung cảnh thiên nhiên mang cái thanh khiết, dịu dàng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Câu thơ làm ta bất chợt nhớ đến cảnh:“Ôi sáng xuân nay, Xuân 41/ Trắng rừng biên giới nở hoa mơ/ Bác về.. im lặng. Con chim hóa/ thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngờ”. Xuân sang hè đến rực rỡ, muôn màu sắc và âm thanh. Là tiếng ve kêu rộn ràng, như một bản đàn chào đón mùa hè, cùng với đó là sắc rực rỡ của “rừng phách đổ vàng”. Là tiếng ve làm cho rừng phách đổ vàng hay bản thân nó vốn như vậy? Dù hiểu theo cách nào thì khung cảnh hiện lên cũng thật rực rỡ và ấm áp.

   Cuối cùng là bức tranh mùa thu:

       Mùa thu trăng rọi hòa bình

   Ánh trăng dìu dịu của mùa thu lan tỏa khắp không gian. Trong màu sắc ấy, không gian ấy còn bừng lên khát vọng về một cuộc sống tự do, hòa bình. Dưới con mắt quan sát tinh tường của Tố Hữu, mỗi mùa ở nơi đây thiên nhiên hiện lên thật đẹp đẽ, thật đặc biệt. Có lẽ phải gắn bó và tha thiết yêu lắm ông mới có thể nắm bắt trọn vẹn từng nét đẹp tinh túy nhất của cảnh vật như vậy.

   Đan xen ở mỗi bức tranh là hình ảnh của con người Việt Bắc. Ông không chỉ yêu quý, trân trọng thiên nhiên nơi đây mà còn tha thiết, chân thành với con người Việt Bắc. Ở mỗi đối tượng ông đều khám phá, nắm bắt được những vẻ đẹp khu biệt của họ. Là hình ảnh ngời nông dân lên núi làm việc với lưỡi dao lấp lánh dưới ánh nắng của mùa đông. Là bàn tay khéo kéo của người đan nón thanh tĩnh “chuốt từng sợi giang” vô cùng điêu luyện. Bức tranh càng trở nên thơ mộng hơn với “Cô em gái hái măng một mình” ven suối bên tiếng ve kêu rộn rã. Và cuối cùng là tiếng hát tha thiết, trầm bổng vang vọng khăp không gian núi rừng Việt Bắc. Khúc hát vang lên cuối khổ thơ, kết hợp với hình ảnh ánh trăng càng làm rõ hơn nữa khát khao hòa bình, độc lập trong lòng tác giả.

   Khổ thơ thể hiện nỗi nhớ da diết, bởi vậy bao trùm trong từng câu từng chữ là nhịp điệu nhẹ nhàng, trầm bổng từng bước một dẫn con người ta vào quá khứ đẹp đẽ, ân nghĩa, thủy chung. Nhịp điệu ấy cùng với thể thơ lục bát càng khiến cho nỗi nhớ trở nên bâng khuâng, da diết hơn.

   Khép lại khổ thơ, nỗi nhớ bâng khuâng tha thiết vẫn trải dài, vang vọng khắp không gian. Nỗi nhớ ấy như một lời tri âm sâu nặng của tác giả đối với thiên nhiên và con người nơi đây. Đồng thời với việc lựa chọn các hình ảnh bình dị, ngôn ngữ thơ trong sáng dễ hiểu nhưng lại tạo nên một bức tranh tứ bình đặc sắc lại một lần nữa khẳng định tài năng nghệ thuật của Tố Hữu.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 32


Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim. Xưa nay thơ vẫn là cuộc đời, là lương tri, là tiếng gọi con người hãy quay về bản chất thực của mình để vươn lên cái chân, thiện, mỹ, tới tầm cao của khát vọng sống, tới tầm cao của giá trị sống. Đến với bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu trong mỗi con người luôn nồng nàn một lòng yêu nước. Và điểm sáng xuyên suốt bài thơ chính là bức tranh tứ bình đúng như có ý kiến đã từng nói: “ Thi trung hữu hoạ”.
Bài thơ “Việt Bắc” được tác giả viết trong những ngày tác giả đóng quân ở vùng Việt Bắc. Bài thơ thể hiện tình quân dân gắn bó, thiết tha sâu sắc, khi chia tay kẻ ở người đi biết bao lưu luyến, lúc chia tay được tác giả viết lên thành những vần thơ nhiều cảm xúc, nghẹn ngào tâm tư tình cảm. Đặc biệt bài thơ còn xúc động lòng người khi tác giả phác họa lên một bức tranh tứ bình về thiên nhiên con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp. Mở đầu đoạn tứ bình là hai câu chủ đề :

·       “Ta về, mình có nhớ ta

·       Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”


Mình và ta vốn là cách gọi quen thuộc xuyên suốt cả bài thơ chứa đựng những ân tình, nỗi lưu luyến nhớ thương cứ giăng mắc như tơ vươn quấn quýt. Nỗi nhớ của người đi luôn hướng đến “ hoa cùng người” . Hoa có thể hiểu là hoa chuối đỏ tươi ha y hoa mơ nở trắng rừng nhưng cũng có thể hiểu hoa là hình ảnh cho vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc. Trong đoạn thơ của Việt Bắc, cảnh vừa làm nền cho con người xuất hiện, vừa là một phần nỗi nhớ của người ra đi bên cạnh nỗi nhớ sâu đậm với con người.

Khác với bức tranh tứ bình truyền thống tả cảnh theo trình tự: xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa của Việt Bắc hiện ra trong hai thời điểm quá khứ và hiện tại nơi lưu giữ những kỉ niệm sâu sắc, đẹp nhất về thiên nhiên và con người Việt Bắc.. Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên rất bình dị, gần gũi, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng.

Mở đầu bức tranh Việt Bắc giữa mùa đông qua sự phác hoạ tinh tế cả về hình khối, màu sắc và ánh sáng:

·       “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

·       Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”


Mùa đông đến là sương giá đến, là tiết trời trở lạnh và con người chìm trong giá rét. Tố Hữu dùng sự tương phản đối lập giữa “rừng xanh” một gam màu trầm tĩnh và lạnh lẽo, đối lập với hình ảnh hoa chuối đỏ tươi, là một gam màu nóng, ấm áp và có sức mạnh xua đi lạnh giá. Người chiến sĩ trên bước đường hành quân, dõi mắt ra xa và trông thấy những nõn búp chuối đỏ tươi, vươn mình trong tiết trời giá lạnh, thực là một hình ảnh đẹp đẽ của thiên nhiên như những bàn tay vẫy gọi đầy lưu luyến. Sự phối hợp khéo léo giữa ánh sáng và màu sắc khiến bức tranh mùa đông càng trở nên rực rỡ Và con người ta như được tiếp thêm chút sức mạnh, tinh thần lạc quan để tiếp nối hành trình gian truân của mình. Hình ảnh con người bước đến đèo mới đẹp làm sao, ánh nắng chiếu vào chiếc dao gài ở thắt lưng, sáng lên lấp lánh. Với con dao đi giữa rừng, với vóc dáng lồng lộng trên đèo cao đầy nắng, tầm vóc con người như được lớn lao, mạnh mẽ, rắn rỏi hơn giữa núi rừng hùng vĩ làm tăng thêm sự cảm phục, ngưỡng mộ trong lòng người đi.

Việt Bắc khi xuân tới tiếp tục hiện ra trong nỗi nhớ người đi:


·       “Ngày xuân mơ nở trắng rừng

·       Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”


Thiên nhiền của Việt Bắc lại mở màn bằng hình ảnh những cây mơ bung nở hoa trắng, tô điểm cảnh sắc Việt Bắc đẹp đến nao lòng, thanh khiết và trong trắng như người dân nơi đây, hình ảnh hoa xuân đầy sức sống, tràn trề. Trong một bài thơ khác Tố Hữu đã từng có những câu thơ xao xuyến ấn tượng về ho mơ nơi rừng núi:


·       “Ôi sáng xuân nay, xuân 41

·       Trắng rừng biên giới nở hoa mơ.”


Biện pháp đảo ngữ “trắng rừng” chuyển đổi cảm giác đột ngột, như diễn tả một sự chuyển màu vội vàng khi trời chuyển xuân và thật mãnh liệt. Con người lúc này hiện lên không phải đối trọi với thiên nhiên như ở bức tranh mùa đông, mà là thể hiện sự tinh tế, chăm chỉ, và tỉ mỉ với công việc” chuốt từng sợi giang”. Một hình ảnh đẹp và tài hoa biết bao.

Mùa hè Việt Bắc được tái hiện trong nỗi nhớ tràn trề âm thanh và màu sắc:

·       “Ve kêu rừng phách đổ vàng

·       Nhớ cô em gái hái măng một mình.”


Sang mùa hè tiếng ve kêu là dấu hiệu của mùa hè đã đến. Mùa hè là mùa sôi động, nó khác hẳn với sự ấm áp của mùa đông, sự tinh khôi của màu xuân, khi mùa hè tới rừng núi Việt Bắc râm ran tiếng ve kêu, màu vàng của hổ phách kết hợp với tiếng ve khiến cho thiên nhiên nơi đây. Động từ “ đổ” miêu tả sự chuyển màu đột ngột, nhanh chóng của bức tranh thiên nhiên, đưa đến cảm giác ngỡ ngàng, choáng ngợp trong lòng người. Tiếng ve đã phá vỡ sự tĩnh lặng, thể hiện sự chuyển biến thời gian mạnh mẽ. Cũng như bức tranh đông hay bức tranh xuân con người hiện lên là người lao động thì ở đây là “ cô em gái hái măng một mình”. Em gái là cách gọi thân thương trìu mến, động tác hái măng gợi dáng vẻ cắm cúi, thầm lặng khiến cô gái như càng nhỏ bé hơn giữa mênh mông rừng núi, hai chữ “ một mình” đem đến cảm giác trống trải, cô đơn sau lưng người ra đi. Cảnh phảng phất buồn nhưng vẫn đẹp, một vẻ đẹp tĩnh vắng và trong sáng, vẻ đẹp và nỗi buồn đều làm lưu luyến bước chân người ra đi.

Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát

·       “Rừng thu trăng rọi hòa bình

·       Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”


Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. “ Rọi” là động từ miêu tả nguồn ánh sáng tập trung soi chiếu xuống một điểm hẹp trong không gian qua đó cũng thể hiện sự soi chiếu rõ nhất nỗi nhớ thương tha thiết của người ra đi. Mùa thu càng làm ngọt ngào hơn với tiếng hát ân tình thuỷ chung, là hình ảnh của cuộc sống hoà bình, tiếng hát vang lên giữa rừng sâu, dưới ánh trăng thanh càng làm đậm lên cảm giác tươi vui, thanh bình và sự hồi sinh sau chiến tranh gợi những tình cảm sâu xa về quê hương đất nước nghĩa tình gắn bó dân tộc.

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại cùng với biện pháp đảo ngữ, các động từ, những từ ngữ giàu sức gợi tả,..đoạn thơ trên của Tố

Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.

“ Thi trung hữu hoạ”- quả đúng là như thế. Đoạn thơ vẽ nên bức tranh về cảnh vật và con người Việt Bắc mà ai đã đọc dù chỉ một lần sẽ không thể nào quên. Nó đem lại cho bài thơ Việt Bắc vốn ấm áp tình người có thêm cái huy hoàng xanh tươi của núi rừng Việt Bắc và nói như Xuân Diệu “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị đạt đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”.

Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc,Tố Hữu 33

Bài thơ Việt Bắc đã được đánh giá là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Bài thơ có nhiều đoạn tuyệt đẹp, "không phải là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa mà nhiều ngọn bút cùng nở một lúc: bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người". Đoạn thơ đang được bình giảng này là một đoạn thơ hay, thể hiện khá đặc sắc những nội dung đó.

Mười dòng thơ này thực chất có thể xem như một bài thơ độc lập để thể hiện nỗi nhớ của "ta" khi rời Việt Bắc. "Ta về", nhưng lòng ta có bao vấn vương, thương nhớ cảnh sắc và con người Việt Bắc. Bắt đầu bằng câu hỏi tu từ: "Ta về mình có nhớ ta", Tố Hữu đã gợi liên tưởng đến câu ca dao rất quen thuộc:

Mình về có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.

Cách xưng hô mình - ta được tác giả học tập từ những áng ca dao xưa. Nhưng đến Tố Hữu, giữa ta và mình có sự chuyển hóa, khi thì chỉ người ra đi, lúc thì chỉ người ở lại. sự đắp đổi luân chuyển này góp phần thể hiện tình cảm gắn bó thân thương giữa người ra đi và người ở lại.

Cảnh chia tay giữa "mình" và "ta" hiện lên có nỗi lưu luyến, nhớ nhung nhưng hoàn toàn không mang vẻ sầu bi. Lời thơ chuyển sang thể hiện nôi nhớ của "ta" với cảnh Việt Bắc.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Bốn câu thơ đều là câu lục trong cặp lục bát nhưng được chia ra để thể hiện nỗi nhớ cảnh của "ta". Thiên nhiên Việt Bắc ở mỗi mùa, mỗi thời điểm lại mang vẻ đẹp riêng. Mùa xuân, đó là "mơ nở trắng rừng", còn mùa hạ, đó là tiếng ve ngân và sắc vàng rực rỡ của rừng phách. Cảnh ở đây khi thì tươi xanh, mát dịu, lúc lại bừng lên, rực rỡ với "hoa chuối đỏ tươi" và "rừng phách đổ vàng". Bông hoa chuối đỏ tươi giữa rừng Việt Bắc đang ngày đông giá, người đi đường bắt gặp bỗng thấy ấm lòng. Câu thơ viết về mùa đông Việt Bắc mà thấy toàn màu "đỏ tươi" và ánh sáng - "nắng ánh dao gài . Thật ấm áp và sống động, sắc màu và âm thanh của tiếng ve ngân mang đến cho cảnh Việt Bắc một vẻ quyến rũ riêng. Đứng ở mùa thu hiện tại với "trăng rọi hòa bình", nhà thơ đã có những hoài niệm về một mùa hạ ở Việt Bắc với ấn tượng mạnh mẽ nhất khi "Ve kêu rừng phách đổ vàng". "Phách" là loại cây riêng có ở núi rừng Việt Bác, thường nở hoa tháng 6, tháng 7. Trước lúc nở hoa, rừng cây đồng loạt thay lá, chuyển từ màu xanh sang sắc vàng chỉ trong vài ngày. Trong câu thơ, chữ "đô" được sử dụng thật đắc địa. Nó nhằm diễn tả sự chuyển màu đồng loạt, mau lẹ, như ai đổ tràn cốc màu xuống cánh rừng.

Nói đến "rừng phách đổ vàng" tức là đã thể hiện nét đẹp đặc thù của thiên nhiên Việt Bắc. Sự hòa điệu của sắc màu và âm thanh được nói đến một cách tự nhiên. Không biết tiếng ve ngân đã làm cho "rừng phách đổ vàng" hay sắc vàng của rừng phách đã làm dậy lên những tiếng ve ngân?

Bút pháp tả cảnh của nhà thơ đã có nhiều đặc sắc, nhưng nỗi nhớ Việt Bắc còn khiến cho bút tả người, tả tình của nhà thơ độc đáo hơn:

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Đều là những câu thơ tái hiện lại con người Việt Bắc nhưng mỗi câu lại có một nét riêng. Có khi đó là hình ảnh cụ thể, chi tiết "chuốt từng sợi giang", có khi đó chỉ là dấu ấn khó phai mờ. Gắn với cảnh Việt Bắc, đó là những con người trong lao động, nhẫn nại, cần cù "chuốt từng sợi giang". Hình ảnh của những con người ấy lồng lộng giữa khung cảnh núi rừng nhưng không bị mờ, nhòa đi mà ánh nắng đèo cao kia chỉ làm đẹp thêm cho họ. Những bàn tay cần mẫn chuốt giang đan nón, "hái măng một mình" cùng với "tiếng hát ân tình" nơi núi rừng Việt Bắc chính là những gì còn đọng sâu trong tâm trí và tình cảm của "ta" để khi "ta về", "ta" sẽ nhớ mãi "những hoa cùng người". Cảnh ấy và người ấy, nằm trong sự gắn bó, cứ nhớ cảnh lại nhớ người, nhớ người lại nhớ cảnh. Cấu trúc thơ lục bát được tác giả sử dụng trong dụng ý không thể tách rời cảnh và người. Cứ nhớ đến "Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi" lại hiện lên trong tâm khảm ánh dao gài thắt lưng của người đi rừng làm nương... Những điệp từ "nhớ" lặp đi lặp lại nhiều lần càng làm nổi rõ hơn tình cảm của "ta" khi rời Việt Bắc. Người ở lại đã cất lên tiếng hát "ân tình thủy chung" nhưng cũng là nói hộ nỗi lòng của người đi với bao nhiêu ân tình. "Ta" hẳn phải có một tình cảm yêu thương sâu sắc với cảnh và người Việt Bắc thì mới có được những dòng thơ mang nét đẹp và nhiều cảm xúc đen như thế.

Sử dụng thể thơ lục bát, mỗi câu lục bát lại nhằm diễn tả một mùa, đoạn thơ có một cấu trúc cân đối, hài hòa, trôi chảy. Chính điều này góp phần tạo nên âm điệu ngọt ngào như khúc hát ru quen thuộc, như rót vào lòng bạn đọc. Đoạn thơ mười câu thể hiện nỗi niềm nhớ cảnh, nhớ người Việt Bắc. Qua nỗi nhớ ấy, ta thấy tình cảm cách mạng và tình cảm dân tộc đã quyện hòa. vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc dung dị hiền hòa gắn bó với những con người lao động đẹp đẽ, sáng trong. Tình cảm giữa "ta" và "mình" rồi đây sẽ xa cách nhưng mãi mãi vẫn là ân tình, thủy chung.