Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao hay nhất (162 mẫu)

Phân tích nỗi thống khổ của người nông dân bị áp bức trước Cách mạng qua nhân vật Chí Phèo 1

Năm 1941, truyện ngắn "Đôi lứa xứng đôi" của Nam Cao ra mắt độc giả. Đầu năm 1946, truyện được tái bản, ông đổi tên truyện thành "Chí Phèo". Nó là một tác phẩm viết về đề tài nông dân trước Cách mạng được xếp vào loại kiệt tác trong nền văn học Việt Nam hiện đại, làm cho tên tuổi Nam Cao trở thành bất tử.

Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh một cách chân thực khách quan trong từng chi tiết về nỗi thống khổ của người nông dân bị áp bức, bị lưu manh hóa trước Cách mạng.

Chí Phèo bốn mươi hay ngoài bốn mươi, lúc hắn chết? Hai mươi năm đầu, đời hắn đầy nước mắt. Tám năm đi tù trong oan uổng và uất hận. Hơn mười năm cuối đời, hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, chỉ biết rượu và chửi, chỉ có máu và nước mắt. Chỉ có ba người quan hệ với hắn là Bá Kiến, vợ ba Bá Kiến và Thị Nở. Đó là lí lịch Chí Phèo.

Chí Phèo là một đứa không cha không mẹ, tứ cố vô thân. Kiếp người của hắn khổ từ khi nằm trong bụng một người đàn bà chửa hoang, cất tiếng khóc oe oe, mẹ hắn đùm hắn vào cái váy đụp vứt ở lò gạch cũ. Khi hắn xám ngắt, anh thả ống lưới rước hắn về đem cho mụ đàn bà góa mù; sau đó mụ ta bán hắn cho bác phó cối. Và khi bác phó cối chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Một hoang thai, một vật vứt đi, một vật cho không, một vật đem bán, một kẻ bơ vơ làm thuê kiếm sống. Đó là trang đời cô đơn, đầy nước mắt của Chí Phèo. Một tuổi thơ đầy bất hạnh, đáng thương!

Năm 20 tuổi, Chí Phèo làm canh điền cho Bá Kiến. Chí Phèo bị vợ ba Bá Kiến lợi dụng "bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng" mà hắn bị đi tù bảy, tám năm. Một anh cố nông hiền lành đã bị người ta lợi dụng, bị tù oan uổng. Chính Bá Kiến là chủ mưu làm hại Chí Phèo. Nhà tù thực dân đã lưu manh hóa anh cố nông hiền lành này. Sau tám năm đi tù về, Chí hoàn toàn thay đổi. Cái đầu trọc lốc, cái mặt câng câng, cái răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy! Phải chăng Chí ngạo đời, thách thức với thiên hạ cho bõ uất ức căm hờn? Hay anh cố nông này bị nhà tù thực dân tha hóa, làm biến chất?

Nỗi thống khổ của Chí Phèo đến mức cùng cực là sau khi hắn đi tù về. Hắn đã gây ra bao "sự kiện", bao chuyện động trời. Chửi Bá Kiến, đến nỗi "mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất!". Xô xát với Lý Cường rồi rạch mặt, kêu làng ăn vạ. Cụ Bá phải xử nhũn với hắn, giết gà thết rượu, đãi thêm đồng bạc để hắn về uống thuốc! Chí Phèo đốt quán mụ bán rượu. Ngồi uống rượu với chuối xanh chấm muối ở ngôi miếu con cạnh bờ sông, cầm dao nhọn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai xin đi ở tù: "Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi ở tù"..., "con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ bắt con giải huyện". Một sự thật cay đắng phũ phàng, như Chí Phèo nói: "... bẩm quả đi ở tù sướng quá. Đi ở tù còn có cơm mà ăn, bây giờ về làng về nước, một thước cắm dùi không có, chủ làm gì nên ăn". Bá Kiến là một tên cường hào xảo quyệt "trị không lợi thì cụ dùng". Chỉ một câu mơn trớn, cụ cho Chí Phèo biết là anh ta với Lý Cường, con trai cụ " còn có họ kia đấy". Chỉ một câu nói khích, Bá Kiến sai anh đầu bò này cầm dao đi thẳng đến nhà đội Tảo đòi nợ. Vô học, ngu dốt và lưu manh (sản phẩm của chế độ thực dân), Chí Phèo đã bị Bá Kiến "chinh phục". Năm đồng bạc, năm sào vườn ở bãi sông, Chí được cụ Bá "thưởng" cho. Năm đó Chí Phèo hăm bảy hăm tám, hắn "bỗng thành ra có nhà", hắn trở thành "anh chân tay mới" của Bá Kiến.Đoạn đời hơn mười năm còn lại của Chí Phèo đầy máu và nước mắt. Hắn bị đầu độc bằng rượu và các món lợi khác. Hắn trở thành kẻ đâm thuê chém mướn. Hắn "đập phá bao nhiêu cơ nghiệp... làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện". Hai bàn tay hắn vấy đầy máu và tội ác. Cuộc đời hắn là những cơn say dài bất tận, mênh mông: "hắn đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say nóng rượu trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận". Chí Phèo đã bị cướp mất cả hình người lẫn linh hồn. Người ta biến hắn thành một con quỷ dữ. Cái mắt hắn "vàng vàng", "sạm màu lại", "vằn dọc vằn ngang... biết bao nhiêu là sẹo . Hắn bị đẩy xuống hố thẳm tội ác. Cái thẻ biên tên tuổi hắn cũng không có. Hắn không biết tuổi hắn, "hắn không còn ngày tháng nữa", cả làng Vũ Đại "đều sự hận thù tránh mặt hẳn mỗi lần hắn qua".

Chí Phèo đâu phải là kẻ mạnh! Hắn là một tên điên khùng, là một kẻ mất trí, là một con quỷ dữ. Cuộc uống rượu giữa hắn với Tự Lãng, một kẻ làm nghề thầy cúng kiêm hoạn lợn cho thấy nỗi cô đơn bơ vơ của những kiếp người đau khổ. Cuộc "làm tình" năm ngày đêm của hắn với Thị Nở, một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi, dở hơi xấu ma chê quỷ hờn là một bước ngoặt trong cuộc đời Chí? Bát cháo hành và bàn tay săn sóc của Thị Nở đã đánh thức chút ít lương tri còn sót lại trong con người Chí Phèo. Hắn buồn nhớ lại mơ ước bình dị thời trai trẻ. Hắn "thèm lương thiện". Hắn muốn tùng với Thị Nở ở chung "một nhà cho vui" "làm thành một cặp rất xứng đôi". Muốn thoát khỏi lốt quỷ dữ, muốn trở lại làm người, nhưng ai cho Chí làm người nữa? Bà cô Thị Nở không cho thị lấy "một thằng không cha", chỉ có một nghề là "rạch mặt ăn vạ". Thị Nỡ đã phải chối bỏ cuộc tình. Thị đã giúi cho hắn một cái làm cho "hắn lăn khoèo xuống sân". Ai cho Chí Phèo làm người lương thiện? Làm thế nào để mất đi những vết sẹo mảnh chai trên mặt hắn? Đó là nỗi thống khổ của Chí Phèo. Chí Phèo đã bị xô đẩy vào con đường cùng bế tắc, không có lối thoát! Hắn đã uống rượu cho thật say! Hắn đến gặp Bá Kiến để "đòi lương thiện". Hắn đà đâm chết Bá Kiến rồi hắn tự sát! Đó là quy luật khốc liệt ở đời: "ác giả ác báo!". Từ một cố nông lương thiện, Chí Phèo bị biến thành quỷ dữ, bị cướp mất cả hình người lẫn linh hồn, rồi từ quỷ dữ mà "thèm lương thiện", mà muốn được trở lại làm người nhưng không thể được, không ai cho Chí được làm người!. Đó là một kiếp người đầy máu và nước mắt. Đó là nỗi thống khổ của Chí Phèo, nỗi thống khổ của người nông dân bị lưu manh hóa trước cách mạng.

Nam Cao đã khắc họa và xây dựng nhân vật Chí Phèo thành một nhân vật điển hình cho sự thống khổ và lưu manh hóa của tầng lớp nông dân nghèo trong xã hội thực dân phong kiến. Chí Phèo lại có những nét riêng, tính cách riêng. Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức... đều là đầu bò, lưu manh, nhưng mỗi đứa lại có một cách riêng, một cuộc đời riêng, một số phận riêng. Chí Phèo, Lão Hạc, Lang Rận, v.v... đều chết bi thảm, nhưng mỗi người lại tự tử, tự sát một cách khác nhau.

Nam Cao có tài kể chuyện, sử dụng ngôn ngữ nhân vật trong đối thoại, độc thoại rất sinh động, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật Chí Phèo một cách sâu sắc. Ông đã phản ánh một cách chân thực, cụ thể nỗi thống khổ của người nông dân nghèo trước cách mạng. Qua cuộc đời thống khổ và cái chết bi thảm của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã gióng lên một tiếng chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu lấy con người, hãy cứu lấy những người nông dân nghèo khổ, đau khổ, dốt nát... Hãy xóa bỏ xã hội thực dân, phong kiến nguồn gốc của sự áp bức bóc lột, của cái ác và đau thương. Qua đó, ta càng thấy rõ, truyện Chí Phèo là một kiệt tác văn chương chứa chan tinh thần nhân đạo thống thiết!

Phân tích tiếng chửi của Chí Phèo 2

Thoát khỏi dòng văn học lãng mạn tô hồng cuộc sống, Nam Cao bước chân đến với những người nông dân nghèo, có số phận đáng thương. Và ông đã vô cùng thành công khi bước vào trái tim người đọc với truyện ngắn "Chí Phèo" - hình ảnh một người nông dân từ chất phác, hiền lành đến tha hóa cả về nhân hình lẫn nhân tính. Khác với dòng ngôn ngữ bác học, văn phong chau chuốt, mượt mà, Nam Cao gây ấn tượng cho độc giả bằng hàng loạt tiếng chửi xuyên suốt tác phẩm. Tiếng chửi ấy để lại cho ta một nỗi thấm thía về một kiếp người nhưng lại bị cự tuyệt quyền làm người.

"Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: "Chắc nó trừ mình ra!". Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này! A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo? Mà có trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết."

Ngay mở đầu truyện ngắn, Chí Phèo gây ấn tượng cho ta bằng hình ảnh một kẻ ngật ngưỡng say, "vừa đi vừa chửi". Bình thường, người ta chỉ "chửi" khi đang tức giận một điều gì hay một người nào đó. Tiếng chửi gây mất hoà khí với mọi người xung quanh, nhưng đôi khi nó giúp chúng ta bớt căng thẳng vì "bõ tức". Nhưng, Chí có xích mích điều gì hay với ai mà lại phải chửi? Lia cận cảnh vào những đối tượng mà Chí đang xích mích, đó là "trời", "đời", "làng Vũ Đại', "ai không chửi nhau với hắn", "người đẻ ra hắn". Tiếng chửi của một kẻ tưởng chừng như say rượu ấy lại có lớp , bài bản, từ cao xuống thấp, từ xa đến gần, từ không xác định đến xác định. Tuy nhiên, cái đối tượng tưởng chừng như xác định: "người đẻ ra hắn" thì "hắn không biết", "cả làng Vũ Đại cũng không ai biết". Thành ra, tiếng chửi ấy vu vơ, cất lên cao rồi lại lọt thỏm giữa không trung.

Thật vậy, hắn chửi "trời" nhưng "trời có của riêng nhà nào". Đối tượng mở đầu của tiếng chửi là "trời". Bầu trời trong xanh, cao vời vợi yên bình, nhưng trong mắt hắn cũng thật đáng chửi. Vì bầu trời ôm trọn tất cả loài người vào lòng, không chừa một ai cả. Bầu trời ấy đã đón nhận hắn - một người nông dân lương thiện lại còn đón nhận thêm bá Kiến - người huỷ hoại cả cuộc đời hắn. Và phải chăng, bi kịch bị bà Ba gọi vào bóp chân khiến bá Kiến ghen tuông cũng là câu chuyện do "trời" sinh ra. Yếu tố tưởng chừng như duy tâm ấy lại phản ánh cả xã hội đương thời thối nát, không có chỗ cho người lương thiện dung thân. "Trời" như một câu cửa miệng, một thông lệ để kêu ca cho tất cả những số phận bi kịch.

Và rồi hắn chửi "đời": "đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai". Đời là cuộc sống, số phận của một con người từ lúc mới sinh đến khi ra đi. Chửi đời tức là chửi "tất cả", chửi không sót một thứ gì. Cứ ngỡ tưởng, hắn chửi đời người khác nhưng thực ra, hắn cũng đang chửi đời hắn. Hắn chửi từng câu chuyện, từng bước đi trong cuộc đời mình. Dường như, mọi thứ đổ sập trước mắt hắn đều đáng để cay cú, nhạo báng, chế giễu. Cũng phải thôi khi người ta sinh ra trong "chăn ấm nệm êm" thì hắn lại sinh ra bên "cái lò gạch bỏ không". Phải chăng, đó cũng là một dấu hiệu báo trước cho cuộc sống với hàng tấn bi kịch về sau. Đời đã bất công với hắn, đã đối xử tệ với hắn, nên hắn phải "chửi". Giá mà cuộc đời hắn được suôn sẻ, giá mà đời ưu ái hắn hơn thì biết đâu, tiếng chửi ấy đã thay bằng tiếng "cảm ơn".

Cha mẹ cho hắn hình hài của người nhưng cả làng Vũ Đại đã tước đi quyền làm người, biến hắn trở thành con quỷ dữ khiến người ta trở nên ghê sợ. Còn nhớ, từ lúc hắn sinh ra đến năm 20 tuổi, hắn lớn lên trong vòng tay bao bọc của người làng. Tuy nhiên, họ lại "chuyền tay" nhau - một người chỉ nuôi hắn trong một thời gian nhất định. Làng Vũ Đại chỉ nuôi cho "sống" , chứ không ai dạy Chí cách "sống". Chí hoàn toàn không được hưởng tình yêu thương hay sự chỉ bảo của bất kỳ một ai cả. Cuộc đời hắn là bức tranh với những mảnh ghép không hoàn hảo. Sự nuôi dưỡng mà làng Vũ Đại cho hắn là quá ít để hắn phải nhớ ơn suốt đời. Trái lại, cả làng ai cũng coi hắn là một sinh vật cần phải tránh xa, cần phải cự tuyệt. Ơn một, oán đến mười, đó là lý do vì sao hắn phải chửi. Chửi cả làng, tức là không chừa một người nào. Vậy mà ai cũng nghĩ: "chắc nó trừ mình ra". Cả làng Vũ Đại đều đáng chửi vì không cho hắn được sống như một con người. Hắn đã chai sạn cảm xúc đến độ thứ bật ra không phải là tiếng khóc mà lại là tiếng chửi.

Ta thấy, chỉ cần một bát cháo hành, một người con gái xấu đến "ma chê quỷ hờn" mà hắn đã "thèm làm hoà với mọi người biết bao". Có lẽ, con nhím ấy sẽ không còn xù lông nếu mọi người biết vuốt ve, xoa dịu những tổn thương trong trái tim nó.

Và rồi, hắn "chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn". Cả làng Vũ Đại có ai dại gì mà động vào hắn? Bởi vậy, ai cũng đều đang không "chửi nhau với hắn". Nực cười, lại có người chửi người không chửi nhau với mình sao? Như một đứa trẻ con làm nũng mẹ, chửi là một cách để Chí thu hút sự chú ý, sự quan tâm của người khác. Trong thâm tâm, Chí chỉ mong muốn có người đáp lại lời hắn dù bằng hình thức giao tiếp thấp nhất là tiếng chửi.

Người dân Việt Nam từ lâu đã gắn liền với đạo lý:

"Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con"

Tuy nhiên, Chí không những không "thờ mẹ kính cha" mà lại "chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra hắn". Ở một khía cạnh nào đó, người ta nhìn vào hắn như một đứa con bất hiếu. Xong, trở lại với bậc cha mẹ, họ chỉ biết đẻ hắn ra rồi để hắn tự sinh tự diệt. Vậy, công cha có còn như "núi Thái Sơn", nghĩa mẹ có còn như "nước trong nguồn chảy ra"? Hắn không được hưởng chút nào từ tình yêu thương cha mẹ ngoài việc "đẻ hắn ra". Mà đẻ hắn ra rồi, hắn nào có sung sướng, hạnh phúc gì? Thà từ đầu đừng có hắn còn hơn. Hắn không hề biết ơn việc mình có mặt trên đời này khiến cho hắn cũng chẳng thiết tha gì việc trả nghĩa cha mẹ. Tiếng chửi đó không phải của một người con bất hiếu mà là của một người con bất hạnh. Thành ra, tiếng chửi đó có phần đáng thương hơn là đáng trách.

Chí chửi nhiều như vậy mà "không ai lên tiếng, không ai ra điều". Tiếng chửi của Chí không đơn thuần là muốn nhiếc móc hay hờn trách ai mà chỉ muốn được giao tiếp với loài người. Người ta thường nói "yêu nhau lắm cắn nhau đau" hay "yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi". Chửi những cái "đau", những cái "roi vọt" không đơn thuần là ghét mà nó là một cách để tìm kiếm tình thương. Vậy mà không có một ai cho hắn cơ hội cả. Chỉ có một mình hắn cô độc đến đáng thương, tự chửi rồi tự mình nghe.

Và đó là vì sao hắn cảm thấy "tức", "tức chết đi được mất", "có khổ hắn không", "có phí rượu không". Nếu không uống rượu, chắc hắn cũng không can đảm để làm như vậy. Thế mà uống rượu rồi, can đảm rồi, nhưng kết quả thu về lại hoàn toàn chẳng có gì. Chỉ có mình hắn với "ba con chó giữ". Đẳng cấp của một con người đã bị hạ xuống tận hàng con vật. Đây chính là sự coi thường, sự nhục nhã lớn nhất mà mọi người dành cho Chí. Dù trong cơn say, hắn vẫn nhận ra điều này và nó làm cho hắn "tức chết đi được". Bao nhiêu công sức mà hắn "tìm kiếm sự chú ý" đều đổ xuống sông xuống bể khiến hắn khổ tâm, đau đớn lắm.

Những cụm từ cảm thán như: "tức thật", "tức chết đi được mất", "mẹ kiếp",... cũng những cụm từ mang ý nghĩa phủ định như: "chắc nó trừ mình ra", "không ai ra điều", "không biết" đã diễn tả thành công giọng điệu phẫn uất, căm hờn của một cái tôi cô đơn, bị ruồng bỏ. Những cụm từ cảm thán ấy đã bộc lộ được cảm xúc của Chí một cách chân thực và rõ nét. Và khác với lối văn phong hoa mỹ, chau chuốt, Nam Cao sử dụng lối nói gần gũi, thân thiết với người đọc. Cũng phải thôi vì đối với một người như Chí, phải sử dụng cái tiếng chửi thô, sơ, nguyên bản mới thể hiện được hết con người. Cũng như ông Hai trong Làng của Kim Lân, Chí là một người nông dân với lối ngôn ngữ thuần Việt. Nhưng qua lối chửi của Chí, mùi lưu manh như hiện rõ trong từng câu từng chữ.

Nước mắt dường như đã gắn liền với truyện ngắn của Nam Cao. Ông tỏ ra sùng bái, tin tưởng vào giọt nước mắt - sự thiện lương của con người đến độ gần như không có một câu chuyện nào không có chi tiết giọt nước mắt. Giọt nước mắt chính là bi kịch cuộc đời của một nhân vật. Và phải chăng, tiếng chửi của Chí cũng là một hình thức khác của tiếng khóc. Hình thức này độc đáo hơn, tiêu cực hơn nhưng lại đậm phần chân thực, đau đớn hơn.

Đầu những thế kỷ XX, người ta đã coi chị Dậu là hình mẫu tiêu biểu cho những số phận khổ cực của người nông dân: bị ép buộc, phải bán con, bán chó,... Xong, Chí Phèo xuất hiện như một cơn sóng mới xô đi hình ảnh đó, chiếm lấy ngôi vị "người nông dân với số phận bi thảm nhất" : bị tha hoá cả về nhân hình lẫn nhân tính, bị cự tuyệt quyền làm người. Có thể nói, Nam cao đã phản ánh thật xuất sắc xã hội đương thời thối nát, buộc con người muốn sống được thì phải tha hoá.

Vì sao truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao lại được coi là kiệt tác? 3

Truyện ngắn của Nam Cao ra đời gây một tiếng vang lớn trên văn đàn Việt Nam thời bấy giờ. Nó là một dẫn chứng hùng hồn chứng minh cho thắng lợi của quan điểm nghệ thuật vì dân sinh của các văn tiến bộ. Truyện ngắn xuất sắc này đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong đội ngũ các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945.

Qua nhiều truyện ngắn của mình, Nam Cao đã tố cáo trước dư luận tình hình thống khổ của nhân dân dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến. Họ là nạn nhân của bọn cường hào áp bức và tham nhũng. Bạo lực đen tối, sưu cao thuế nặng cùng nhiều hủ tục khác ở nông thôn đã đồn đẩy họ vào bước đường cùng, thậm chí tước đoạt quyền sống, quyền làm người của họ. Hình tượng có giá trị tố cáo xã hội sâu sắc là nhân vật chí phèo trong truyện ngắn cùng tên - Một nông dân lương thiện bị bần cùng hóa, lưu manh hóa. Chính vì có ý nghĩa hiện thực to lớn và giá trị nghệ thuật sâu sắc nên truyện ngắn này được đánh giá là một kiệt tác trong nền văn xuôi Việt Nam.

Mở đầu tác phẩm, tác giả đã khắc họa thật sinh động và tài tình chân dung có một không hai của gã Chí Phèo say rượu: "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng tất cả làng Vũ Đại cũng nhủ: "Chắc nó trừ mình ra!". Không ai lên tiếng cả. Tức thật!ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi mất! Đã thế hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với nhau với hắn nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn khổ đến nông nỗi này ? Aha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà cứ chửi đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại không ai biết.

Quả là một nguồn gốc xuất thân đầy bí ẩn. Ấy thế nhưng thân Chí Phèo mọi người đều rõ. Hắn chính là đứa trẻ bỏ rơi lúc lọt lòng, trong chiếc lò gạch bỏ hoang giữ đồng không mông quạnh. Một anh đi thả ống lươn lúc sáng sớm đã mang hắn về làng. Tuổi thơ hắn bơ vơ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Không thân thích, không tác đất cắm dùi hắn lớn lên như thú hoang, như cỏ dại, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Đó là cuộc đời khốn khổ của kè cùng hơn cả dân cùng ở nông thôn ngày trước.

Chí Phèo phải chịu đựng mọi nỗi đau bất hạnh như bao nông dân nghèo cực khác, nhưng điều bất hạnh lớn nhất của hắn ta là không được sống bình thường ngay trong cuộc đời nghèo khổ mà lương thiện của mình. Anh thanh niên có cái tên hiền lành, dễ thương là Chí đã bị xã hội vạn ác cướp đi cả bộ mặt người cùng tính người, bị biến thành gã lưu manh hung tợn Chí Phèo nên đã bị dân làng gạt ra khỏi cộng đồng một cách không thương tiếc

Chí vốn là anh trai cày cục mịch, chất phát, làm tá điền cho nhà Lý Kiến. Chỉ vì cơn ghen bóng ghen gió của tên cường hào nham hiểm này mà Chí bị bắt đi tù. Bảy, tám năm trong tù, sống chung với tầng lớp cặn bã của xã hội, tâm hồn Chí đã bị nhuộm đen. Cái phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột. Từ mặt mũi đến tính cách của hắn đã trở nên quái dị, đáng sợ.

Bọn thống trị trong làng mà tiêu biểu là Bá Kiến- kẻ đã gây ra bi kịch của cuộc đời Chí Phèo - giờ đây lại dùng thủ đoạn nham hiểm và sức mạnh của đồng tiền để mua chuộc, sai khiến, sử dụng Chí Phèo như con dao trong tay đồ tể, gây họa cho bao người.

Chí Phèo phản ứng gay gắt, quyết liệt với xã hội bằng thái độ ngang ngược, liều lĩnh. Lúc nào hắn cũng say, cũng giận dữ, sẵn sàng dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ, kêu làng...Quá trình biến đổi dữ dội trong tính cách của chí Phèo tố cáo sự hủy hoại ghê gớm của xã hội thối nát đối với phẩm chất nhân cách của người lao động.

Chí Phèo là hiện thân của nỗi đau khổ tột cùng: Sinh ra là người mà không được làm người. Để quên đi nỗi đau bất hạnh ấy Chí Phèo dùng rượu để giải khuây: Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn tồn tại trên đời. Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say; hắn say thì hắn làm bất kì cái gì người ta sai hắn làm. Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua.

Bởi say rượu triền miên nên hầu như hắn bị tê liệt về ý thức, sống mù tối trong kiếp sống thú vật. Trong một cơn say, vô tình Chí Phèo gặp Thị Nở,một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ngẩn ngơ, nghèo đói quá lứa lỡ thì và dòng giống có mả hủi. Chút tình thương yêu của Thị Nở đã khơi bùng lên ngọn lửa lương tri còn leo lét trong tâm thức âm u của Chí Phèo, thức tỉnh bản chất lương thiện trong hắn. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng là bậc thầy phân tích tâm lí: Khi Chí Phèo mở mắt thì trời sáng đã lâu. Mặt trời chắc đã cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài đủ biết. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn mới chỉ hơi lờ mờ. Ở đây người ta thấy chiều lúc chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng. Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say.

Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy...Chao ôi là buồn!

Những âm thanh quen thuộc ấy vọng đến tai Chí Phèo bỗng trở thành tiếng gọi của sự sống và lay động sâu xa tâm hồn hắn: "Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn, cày thuê vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm...Tỉnh dậy hắn thấy già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu...Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa, cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và "ốm đau".

Trái tim tưởng như chai đá của Chí Phèo dần dần sống dậy. Cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Hắn khao khát được sống cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với dân làng Vũ Đại. Chí Phèo háo hức nghĩ tới một tương lai tốt đẹp.

Nhưng chút tình yêu thương của Thị Nở không đủ mạnh để cứu Chí Phèo. Con đường trở lại làm người của hắn đã bị một trở lực ghê gớm ngăn cản. Định kiến xã hội biểu hiện qua sự cấm đoán gay gắt của bà cô Thị Nở không cho phép Chí Phèo đặt chân lên nhịp cầu hy vọng. Một lần nữa Chí Phèo bị ruồng rẫy, hắt hủi phũ phàng. Từ đỉnh cao hi vọng, hắn rơi vào vực thẳm tuyệt vọng. Hắn ôm mặt khóc rưng rức vì cảm nhận sâu sắc số phận bất hạnh và bi kịch không lối thoát của mình rồi lại tìm đến rượu.

Đau đớn thay tiếng kêu tuyệt vọng của Chí Phèo khi vác dao đến nhà Bá Kiến để hỏi tội hắn: Tao muốn làm người lương thiện! Ai cho tao lương thiện? làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách...biết không! Căm thù cao độ và không còn lối thoát, Chí Phèo đã giết chết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt thân mình để giải quyết bi kịch của số phận. Hành động quyết liệt ấy cho thấy một một khi phần người đã sống dậy thì Chí Phèo không chấp nhận trở lại kiếp thú hoang.

Nỗi thống khổ của Chí Phèo đã bị tước đoạt quyền làm người, không được nếm trải đủ những buồn vui, sướng khổ của kiếp người. Chí Phèo chết trong nỗi đau đớn tột cùng bởi khao khát mãnh liệt được làm người lương thiện đã bị định kiến xã hội dập tắt một cách tàn nhẫn. Câu hỏi cuối cùng trong những giây phút tỉnh táo cuối cùng của cuộc đời Chí Phèo chất chứa khao khát, đớn đau, phẫn uất và tuyệt vọng. Nó có giá trị tố cáo rất lớn cái xã hội thực thực dân phong kiến vô nhân đạo và có sức thức tỉnh, nay động mạnh mẽ, làm cho tâm hồn người đọc day dứt khôn nguôi. Đó chính là giá trị nhân văn cao cả của tác phẩm.

Qua hình tượng nhân vật bất hủ của Chí Phèo, Nam Cao muốn đề cập tới, một vấn đề quan trọng là: Làm thế nào để con người được sống đúng nghĩa là người trong xã hội phi nhân tính đương thời? Tác phẩm mang ý nghĩa triết lý sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật độc đáo đã khẳng định Nam Cao là cây bút bậc thầy về truyện ngắn và tôn vinh tác giả lên vị trí hàng đầu trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Cảm nhận của anh chị về cảnh Chí Phèo tỉnh dậy sau trận ốm trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao 4

Truyện ngắn Nam Cao rất hiện đại trong kết cấu tâm lí và ngôn ngữ giàu chất sống. Nhưng đặc sắc hơn cả là nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật mà văn học thời kỳ sau còn chịu ảnh hưởng.

Chí Phèo là tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp cầm bút của nhà văn. Bên cạnh nội dung hiện thực sâu sắc và tư tưởng nhân đạo mới mẻ là nghệ thuật tả tâm lí nhân vật đặc sắc, nhất là đoạn tả tâm trạng Chí Phèo lúc tỉnh rượu rồi khao khát sống. Đây là đoạn văn tiêu biểu cho bút pháp tả tâm lí của Nam Cao: Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc… cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau.

Sau khi ở tù về, Chí Phèo trở thành người khác hẳn: lưu manh, côn đồ, hung hăng, dữ tợn và lúc nào cũng say. Hắn bị bá Kiến biến thành tay sai và sống u mê tăm tối gần mười mấy năm trời. Một đêm trăng sáng bên bờ sông, Chí Phèo gặp Thị Nở. Sáng hôm sau tỉnh rượu, Chí Phèo nhận biết thế giới quanh mình và nhận ra cảnh ngộ cay đắng, bi đát của cuộc đời. Trích đoạn miêu tả dòng suy nghĩ của Chí về thực trạng cuộc đời trong hiện tại và cả tương lai.

Hắn thấy hắn… Ngôn ngữ độc thoại cho thấy lần đầu tiên Chí Phèo sống nội tâm. Hắn chủ ngữ là con người lý trí tỉnh táo, hắn bổ ngữ là con người thân phận: già và cô độc. Chí Phèo đang suy tư, nhìn nhận về mình.

Con người tự nhận thức là một bước tiến của nhân loại đưa con người đến với ánh sáng trí tuệ và cũng là bước chuyển biến quan trọng trong số phận Chí Phèo. Dấu chấm than rớt xuống cùng cụm từ Buồn tay cho cuộc đời như một tiếng thở dài não nuột, Chí không biết chia sẻ cùng ai. Trực giá cho thấy đời hắn buồn, rồi từ đó hắn nhận ra cuộc sống thật buồn mà chính cuộc sống làm đời hắn buồn.

Lí do khiến hắn buồn đã rõ. Con người ham sống thì thường sợ tuổi già. Tuổi già đến nhanh quá nên Chí cho là phi lý: Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Điều Chí thắc mắc là hoàn toàn có lý vì có bao giờ hắn tỉnh để nhận biết thời gian, thậm chí là không gian sống của hắn. Chủ nghĩa hoài nghi là dấu hiệu đầu tiên của nhận thức. Chí Phèo bắt đầu nhận thức lại. Quy luật chảy trôi của thời gian mà Chí Phèo xem là nghịch lý thì Chí Phèo đã nhìn thấy rõ để tiếc nuối quãng đời mê muội, tội lỗi đã qua và tha thiết yêu cuộc đời này biết bao nhiêu, nhất là khi Chí Phèo vừa được nghe những âm thanh trong trẻo từ thế giới tươi xanh vọng vào.

Dòng độc thoại nội tâm tiếp tục với giọng điệu buồn da diết: Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ngoài bốn mươi chưa hẳn là già nhưng chắc chắn là không còn trẻ. Phép so sánh độc đáo của Nam Cao cho thấy sức khỏe của Chí đã bắt đầu đổ dốc, càng về cuối tốc độ càng nhanh hơn. Trận ốm lúc tờ mờ sáng là những lá vàng báo hiệu rằng mùa thu cuộc đời đã đến, khiến Chí Phèo giật mình thảng thốt lo âu khi sắp trôi về mùa đông tàn lạnh. Khả năng bươn chải với cuộc mưu sinh đã hạn chế, sự mệt mỏi đã bắt đầu xuất hiện, trong khi đó Chí Phải bắt đầu sống từ thời điểm này thì có gì buồn hơn.

Chí đang nhìn về quá khứ buồn, hiện tại đắng nên thấy trước tương lai đầy bất trắc, lo âu: Chí Phèo hình như đã trông trước thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau. Mạch suy tư của Chí Phèo rất phù hợp với quy luật tâm lý, khi con người cô độc đối diện với chính mình và thấy không ai hiểu được mình. Chí thấy ba tảng đá đang đè nặng lên cuộc đời và có quan hệ tương tác. Tuổi già thường sinh bệnh tật. Tuổi già thường phải sống cô đơn. “Cái gì khô héo hơn cọng rơm khô? – Một trái tim đau buồn!” (Ma-ha-bha-ra-ta) nên sự cô độc đáng sợ hơn tất cả vì cảnh trống trải không nơi nương tựa, sự thiếu thốn tình cảm và nỗi buồn sẽ làm hao mòn sinh lực khiến sinh nhiều bệnh tật. Chí Phèo đã và đang sống giữa sa mạc cô đơn, cách ly với xã hội nên tha thiết được trở về để hưởng chút nắng ấm của bình minh, của tình người nơi mảnh đất lương thiện.

Khao khát hoàn lương mà bất lực, con người cô độc thường sợ hãi nên lúc này Chí Phèo thấy tương lai xám mịt, tâm tư nặng trĩu và Chí đã rưng rưng nước mắt.

Diễn biến tâm lí của Chí Phèo lúc này được phản ánh đúng quy luật, dòng độc thoại nội tâm, mạch suy nghĩ theo từng bước phát triển tự nhiên, không có sự áp đặt chủ quan của tác giả. Khi đối diện với chính mình trong không gian bó hẹp, chịu áp lực bởi hoàn cảnh nên nhân vật thụ động trong suy nghĩ và quẩn quanh với một điều duy nhất: già, đói rét, bệnh tật, cô độc. Do đó, đặc điểm tâm lí nhân vật đã phản ánh số phận.

Nam Cao thường có giọng văn lạnh như ở trích đoạn này, giọng điệu nhẹ nhàng, mềm mại; phép so sánh giàu chất trữ tình, vừa lột tả được nỗi buồn da diết của Chí vừa thể hiện được sự cảm thông của nhà văn. Có những câu văn pha trộn ngôn ngữ gián tiếp với trực tiếp: Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… cho thấy tác giả như nhập hẳn vào tâm trạng nhân vật để lắng nghe và cùng chia sẻ nên biểu hiện được chiều sâu tình cảm nhân đạo.

Khi đặt nhân vật trong quan hệ với chính nó và quan hệ với môi trường, nhân vật vừa có nhu cầu nhận thức vừa có nhu cầu giao tiếp nên đoạn trích đã đưa ra khái niệm con người tự nhận thức và con người cô độc. Con người tự nhận thức thì sẽ lớn hơn chính nó, vì vậy mà nó tự khắc xung đột với môi trường khi trước đó nó dung hòa được. Con người cô độc là sự nhảy cảm của Nam Cao về bản chất nguyên thủy của con người rất cần đoàn thể cộng đồng. Đó là chất triết lí của nhà văn Nam Cao.

Phân tích cuộc đời của Chí Phèo từ khi ra tù đến khi gặp Thị Nở 5

Đề tài về người nông dân vốn là một nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn. Đặc biệt là vấn đề quyền sống, quyền làm người của con người giữa xã hội cũ đầy rối ren. Tuy nhiên không phải khép lại đầy bế tắc như “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, hay bi lụy như cái chết trong “Lão Hạc”, với chủ nghĩa nhân văn và lòng nhân đạo Nam Cao đã tạo nên một kiệt tác mang tên “Chí Phèo”. Đây có thể coi là một bài ca về lương thiện và khát vọng sống mãnh liệt của con người trong xã hội cũ. Và diễn biến nhân vật Chí Phèo sau khi ra tù đến khi gặp được tình yêu đích thực của cuộc đời mình thực sự khiến người đọc xúc động không nguôi.

Nam Cao được biết đến là một cây viết xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực phê phán (1930 -1945) một nhà văn đề cao quyền sống của con người và mang trong mình chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.

Chí Phèo chính là đứa con tinh thần mang đậm yếu tố nhân văn mà nhà văn muốn gửi gắm lúc sinh thời. Chí là đại diện cho tầng lớp lao động khốn khổ đang chịu sự dày vò áp bức đến cùng cực của xã hội. Sự thay đổi về nhân cách con người Chí cũng chính là do bàn tay của thế lực phong kiến mà ra.

Chí Phèo chẳng biết xuất thân từ đâu, cũng chẳng ai biết ai đã sinh ra gã. Chỉ biết hắn được một người bán cối nhặt được ở cái lò gạch cũ đầu làng. Hắn lớn lên như cỏ dại, Chí cũng từng có một thời tuổi trẻ đẹp đấy chứ. Gã trai mới hơn hai mươi tuổi đầu, đẹp mã non nớt đi làm thuê cho nhà Bá Kiến. Chí đã từng mơ ước về một mái nhà mà ở đó vợ dệt vải, ươm tơ chồng cày ruộng. Ôi cái ước mơ rất bình thường và cũng rất đời đấy những tưởng đã thành hiện thực thì ôi thôi những biến cố bắt đầu ập đến với cuộc đời Chí. Nó như một dấu chấm hết cho cái nhân cách rất con người của gã.

Chỉ vì ghen tuông mù quáng, mà Bá Kiến nhỡ đẩy Chí Phèo vào tù. Và sau mấy năm ăn cơm tù bản chất con người gã trai ngây thơ lương thiện ngày nào đã bị tha hóa một cách không ngờ.

Sau những ngày ở tù là những cơn say triền miên đến bất tận của Chí. Chí chẳng bao giờ tỉnh vì hắn chỉ biết đến rượu, dường như chỉ rượu mới mang đến cho hắn khoái cảm mạnh mẽ để tiếp tục sống. Hết rượu hắn lại đến ăn vạ Bá Kiến, nào thì rạch mặt cho máu chảy lênh láng nào là vừa đi vừa chửi… Hắn chửi cho hả dạ chửi cho sướng cái mồm, chán thì chửi cha chửi mẹ chửi người đã sinh ra gã và đẩy gã đến cái nước khốn cùng này. Nhưng sâu trong tâm trí hắn biết người trực tiếp đẩy hắn đến cái bờ vực thẳm này chẳng ai khác đó chính là Bá Kiến. Thế nên hắn chỉ biết tìm đến Bá Kiến để thỏa mãn những cơn say. Cực chẳng đã Bá Kiến đành thuê hắn làm tay sai chuyên đi đòi nợ thuê cho mình. Và như thế cái vòng quẩn quanh của sự bất lương cứ bao trùm lấy hắn.

Những tưởng cuộc đời của Chí mãi mãi sẽ là những ngày say sỉn bất tận đến quên trời đất, là những bài ca chửi không có hồi kết thế nhưng một cuộc gặp gỡ định mệnh đã làm thay đổi cuộc đời gã. Cho gã biết thế nào là “nhân cách” và “lương thiện”

Có thể gọi cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở là ánh sáng cuộc đời hắn cũng phải mà là bước hụt sâu vào tăm tối cũng không sai. Nhưng chính sự gặp gỡ đó đã khiến con người Chí có những thay đổi đáng để chúng ta suy ngẫm.

Chí gặp Thị vào một đêm trăng thanh gió mát và như thường lệ Chí lại say. Và cái đứa con gái xấu ma chê quỷ hờn xấu nhất cái làng Vũ Đại ấy đã dìu Chí vào lều. Đắp lại cho y cái manh chiếu rách và cũng từ cái đêm định mệnh ấy Chí đã thành con người khác.

Sáng dậy Chí như trở thành một con người khác. Lần đầu tiên Chí tỉnh sau bao ngày dài chìm đắm trong cơn say. Y lắng nghe cái nhịp đập của cuộc sống của con người sao mà thân thương đến thế, tiếng mấy chị bán hàng rong kể chuyện rau dưa muối cà, tiếng mái chèo khua vào nhau như thức tỉnh con người gã. Lần đầu tiên hắn nhớ hắn cũng từng có ước mơ bình dị như thế một gia đình bình thường chồng cấy cày, vợ dệt vải. Hình ảnh Thị Nở bưng bát cháo hành vào chính là một bước ngoặt khiến Chí khao khát lương thiện và tính người.

Lần đầu tiên Chí cảm nhận được trên đời này hóa ra vẫn còn có người thương hắn quan tâm hắn. Cũng là lần đầu tiên hắn được ăn món ăn ngon đến thế nó không phải là cao lương mĩ vị chỉ là một bát cháo trắng thêm vài cọng hành với vài hạt muối nhưng nó chứa đựng cả tình thương. Dẫu rằng nó đến từ cái người đàn bà đen đúa xấu nhất làng bấy giờ. Thế nhưng với Chí chưa bao giờ hắn thấy Thị Nở đẹp như lúc này, Thị đẹp quá, vẻ đẹp rất đỗi lương thiện mà hắn hằng ao ước. Phải chăng đó chính là vẻ đẹp của sự giác ngộ của lương tri tình người.

Để Chí Phèo một kẻ đã từng nghĩ mình mãi mãi ở bên cái dốc kia của lương thiện bỗng “hồi sinh” và khát sống, khát khao lương thiện hơn bao giờ hết. Đây cũng chính là một dụng ý nghệ thuật, một khát vọng nhân đạo mà Nam Cao gửi gắm vào trong tác phẩm của mình.

Thế nhưng dường như cái chạm chân đến lương thiện của Chí mới vừa hé mở đã bị đóng lại bởi những định kiến trớ trêu của xã hội. Đến cả người đàn bà xấu đắng xấu cay, nhà lại có mả hủi như Thị Nở mà cũng chẳng thèm lấy Chí bởi bị bà cô ngăn cản. Chẳng ai lại gắn bó với một kẻ suốt ngày chỉ biết rạch mặt ăn vạ như Chí. Và thế là như một vòng luẩn quẩn, lương thiện chẳng hồi sinh được bao lâu lại chết yểu. Cuộc đời Chí lại rơi vào một hố đen của sự túng quẫn, của sự kì thị và tự kết liễu bằng cái chết.

Không phải đến Chí Phèo Nam Cao mới bộc lộ được tuyên ngôn nhân đạo trong văn học của mình. Mà từ trước đến nay các tác phẩm của ông luôn nhắm đến tình yêu thương con người với con người. Chí Phèo chính là đại diện cho một tầng lớp con người dưới sự giày xéo của thế lực phong kiến. Hiện thân của Chí cùng những diễn biến tâm lí của gã chính là sự khát sống, khát lương thiện mà ai cũng từng ao ước.

Phân tích cuộc đời của Chí Phèo từ khi ra tù đến khi gặp Thị Nở 6

Nam Cao là nhà văn của những người nông dân lao động. Bằng ngòi bút nhân đạo sâu sắc của mình ông sáng tạo nên truyện ngắn "Chí Phèo". Chí Phèo là hiện thân cho sự đau khổ khốn cùng của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Cuộc đời Chí là một chuỗi bi kịch bất hạnh, đặc biệt là thời gian sau khi ra tù đến khi gặp Thị Nở.

Chí Phèo là một đứa trẻ đáng thương với tuổi thơ đầy bất hạnh. Hắn không cha, không mẹ, không người thân thích, không tấc đất cắm dùi, bị bỏ rơi “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp” ở cái lò gạch cũ bỏ không. Chí bơ vơ, hết đi ở cho nhà này đến nhà khác nhưng được lớn lên trong sự yêu thương của những người dân nghèo. Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho nhà lí Kiến. Khi ấy, hắn là một anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành như đất, làm việc chăm chỉ quần quật. Nhưng vì cơn ghen tuông vu vơ, vô lý, bá Kiến (khi ấy là lý) đẩy Chí vào tù.

Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào ác bá, tàn nhẫn nhào nặn, biến anh nông dân hiền lành, khỏe mạnh, lương thiện và tự trọng thành tên lưu manh hóa. Bảy tám năm sau, Chí rời khỏi nhà tù. Nhà tù thực dân đã làm méo mó đi nhân dạng của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Trở về làng Vũ Đại, người ta đã không nhận ra hình dạng con người của anh canh điền ngày ấy. Trước mắt họ chỉ là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế”.

Những người từng yêu thương nuôi nấng hắn lớn lên ngày xưa lại lựa chọn quay lưng với hắn hôm nay. Cả xã hội ruồng bỏ hắn. Tên tuổi hắn cũng không có trong sổ làng, người ta vẫn chỉ khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả mọi người đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Ngày nào hắn cũng chửi, nhưng ai cũng nghĩ “mặc thây cha nó” “chắc nó chừa mình ra”, ai cũng chẳng thèm nghe. Hắn khác nào “những người say rượu hát”. Sự xuất hiện của tiếng chửi cùng cái dáng “vừa đi vừa chửi” của Chí gây cho người đọc nỗi ám ảnh khôn nguôi về bi kịch của một người bị tha hóa đang gặm nhấm nỗi cô đơn tuyệt vọng. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn, chửi cả “ đứa nào đẻ ra chính hắn”. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. “Hắn thèm được người ta chửi, chửi hắn có nghĩa là còn công nhận hắn là người”. Thế nhưng hắn cứ chửi, đáp lại hắn chỉ là “sự im lặng đáng sợ”, “ chỉ có 3 con chó dữ với 1 thằng say rượu”. Ra tù, Chí hoàn toàn bị xã hội cự tuyệt quyền làm người một cách tuyệt đối.

Nhân hình méo mó biến dạng, nhân tính cũng tha hóa bởi nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân bắt nhốt một anh canh điền hiền lành khỏe mạnh rồi trả về cho xã hội một kẻ lưu manh liều mạng. Chí xông thẳng đến nhà Bá Kiến, chửi “mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, hắn đập vỡ vỏ chai, rạch mặt cho máu chảy rồi kêu trời ăn vạ. Chí Phèo hận Bá Kiến và hành động như một tên đầu bò ngang ngược trước cổng nhà lão ta. Nhưng Bá Kiến là người mưu mô xảo quyệt, chỉ bằng một bữa rượu, vài câu mơn trớn, vài đồng bạc đãi thêm Bá Kiến đã làm “Chí Phèo vô cùng hả hê”. Thậm chí, hắn còn mơ hồ về chuyện “có họ” với lý Cường. Sau đó, Chí lại dở trò lưu manh đốt quán mụ bán rượu, vác dao đến nhà cụ Bá xin đi ở tù "bẩm quả đi ở tù sướng quá!”.

Trong sáu ngày sau khi ra tù, hắn đến nhà Bá Kiến gây sự hai lần. Hắn không sợ hãi Bá Kiến mà dám nghiến răng hăm dọa: “con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”. Bá Kiến đâu phải kẻ địa chủ bình thường, thủ đoạn của hắn làm Chí nhanh chóng trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Chí đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ, để rồi sau đó, chính hắn lại trở thành con quỷ dữ ghê tởm của làng Vũ Đại. Hắn dần chìm vào vũng bùn tăm tối, đầy tội ác. Ý niệm về thời gian mất dần, hắn không biết “đã dài bao nhiêu năm rồi”, hắn “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?’’. Khuôn mặt Chí Phèo lúc bấy giờ giống như “cái mặt của con vật lạ” với bao nhiêu sẹo “vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai rạch mặt ăn vạ! Cuộc đời hắn dần dần chồng chất tội lỗi lẫn tội ác “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”; “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”. Hắn đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu, để đắm mình trong những cơn say từ ngày này qua ngày khác. Và bán đi linh hồn mình, biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Ngỡ rằng, Chí đã trượt dài trên con đường lưu manh hóa không cách nào quay lại. Nhưng, tấm lòng nhân đạo của Nam Cao vẫn phát hiện ra cái tiềm ẩn trong Chí, để cho Chí gặp Thị Nở và thức tỉnh lương tâm, linh hồn mình. Cuộc gặp gỡ vô tình với Thị Nở đã gây ra nhiều biến động trong tâm lý của Chí Phèo. Giữa ngã rẽ của sự thức tỉnh nhân tính, của khát khao được sống làm người bi kịch lại xuất hiện, cuộc đời Chí lại tiếp tục bước sang trang khác...

Có thể nói, quãng thời gian từ sau khi ra tù đến khi gặp Thị Nở là quãng thời gian đau khổ, đầy bi kịch của Chí Phèo. Với ngòi bút hiện thực xuất sắc, cách miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế và logic, Nam Cao đã khắc họa thành công nhân vật Chí Phèo - kẻ lưu manh tha hóa do tội ác của xã hội thực dân. Ngôn ngữ truyện đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, nhưng mang đậm hơi thở đời sống, văn hoá đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, đồng thời cũng là ngôn ngữ của nhân vật, giọng điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc. Qua đó, Nam Cao đã tái hiện chân thực bản chất của xã hội đương thời, hủy hoại con người, đẩy người nông dân vào con đường lưu manh hóa để tồn tại. Nhà văn cũng thể hiện niềm cảm thương sâu sắc với những cuộc đời khốn khổ, gửi gắm giá trị nhân đạo sâu sắc. "Chí Phèo" nhờ vậy đã trở thành tác phẩm tiêu biểu cho tài năng và tấm lòng của Nam Cao, đặc biệt trở thành tác phẩm văn học xuất sắc của nền văn học Việt Nam.

Xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Trang truyện khép lại, song trong trái tim người đọc vẫn còn ám ảnh cái dáng đi lảo đảo khi say rượu của Chí Phèo. Và cho đến hôm nay, "Chí Phèo" vẫn là một tác phẩm có sức sống lâu bền trong các thế hệ độc giả.

Cảm nghĩ của em về hình ảnh nước mắt của nhân vật Chí Phèo 7

Chí Phèo vừa là tên tác phẩm vừa là tên nhân vật trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Chí Phèo mang một bi kịch một cuộc đời mà không được là một con người hoàn lương. Những giọt nước mắt của Chí Phèo khi thì làm con người ta thấy mỉa mai hả dạ nhưng đôi lúc chính những giọt nước mắt ấy khiến cho độc giả trở nên chua xót nghẹn ngào.

Giọt nước mắt đầu tiên của Chí Phèo cũng giống như những đứa trẻ khác đó chính là giọt nước mắt của những đứa trẻ chào đời. Nhưng khác ở chỗ đó không phải là tiếng khóc cất tiếng báo hiệu cho sự có mặt của mình trong cuộc đời này mà là của sự khát sữa và lạnh giá bị bỏ rơi trong lò gạch cũ. Giọt nước mắt ấy như báo hiệu cho một cuộc đời không mấy may mắn và hạnh phúc của Chí Phèo.

Tiếp đến chính là những giọt nước mắt cảm thấy nhục nhã khi bị bà Ba nhà Bá Kiến lợi dụng. Ngay sau đó anh bị Bá Kiến kiếm cớ đẩy một con người hiền lành lương thiện vào nhà tù. Chí vốn dĩ là chàng trai hiền lành khỏe mạnh, đi ở cho nhà Bá Kiến. Nhưng một điều không còn lạ lẫm trong thế giới ấy nữa một người già như Bá KIến lại có năm thê bảy thiếp nhưng Bá Kiến lại già nua cho nên bà ba– vợ của bá Kiến đã kiếm cớ lẳng lơ với Chí Phèo nhưng bị từ chối.

Bá Kiến tức giận và nhẫn tâm lập ra mưu để đẩy Chí vào tù lúc bấy giờ nước mắt Chí lại rơi vì nhục nhã và uất hận. Xã hội đã khiến cho Chí phải rơi vào cảnh tù đày như thế bởi vốn Chí thiện lương mà bị đẩy vào con đường tù tội một cách oan uổng.

Chí Phèo sau những năm tháng tù ngục đã trở về làng với bộ dạng gớm ghiếc: răng trắng hớn, xăm trổ đầy mình. Dường như giọt nước mắt của một người đàn ông được thể hiện qua những câu chửi mà mở đầu đoạn trích nhà văn Nam Cao đã cho Chí xuất hiện một cách đầy ấn tượng. Chí chửi trời chửi đời, chửi những người làng Vũ Đại nhưng dường như không ai chú ý tới Chí ngoài mấy con chó chực đứng xung quanh để sủa. Chẳng một ai quan tâm một ai muốn qua lại một người như Chí Phèo - lời chửi ấy như một tiếng khóc vừa uất ức vừa căm hận không thể nén lại.

Chí Phèo còn có những giọt nước mắt lúc ăn vạ, khi trở về làng lại trở thành thành tay sai đắc lực của Bá Kiến, ngoài đi đòi nợ thuê cho Bá Kiến thì Chí còn rạch mặt ăn vạ và làm tổn thương cả tinh thần lẫn thể xác của chính bản thân mình.

Giọt nước mắt có thể nói đắt giá nhất và hạnh phúc nhất trong đời của Chí Phèo chính là giọt nước mắt khi được Thị Nở chăm sóc. Lúc say Chí đã lỡ ăn nằm với Thị ở ngoài bờ chuối. Thị như người đã cứu rỗi cho người như Chí nấu cháo và chăm sóc Chí như người yêu của mình. Chí Phèo cảm thấy cảm động vô cùng trước sự chăm sóc của thị và ngay lập tức nghĩ tới ngôi nhà nhỏ cùng với một cuộc sống lương thiện.

Thật xót xa khi giọt nước mắt hạnh phúc ấy không được bao lâu thì Chí đối mặt với những giọt nước mắt của đau khổ. Bà cô Thị cấm Thị qua lại với Chí cho nên Chí đến thẳng nhà Bá Kiến cái kẻ mà làm cho Chí ra nông nỗi này. Chí mặc nhiên đòi người lương thiên mặc nhiên muốn sống một cuộc sống bình thường như bao người khác và cái kết cục cuối cùng khi Chí đã giết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình giải cứu cho mọi nỗi đau trên cuộc đời này mà Chí phải chịu đựng.

Những giọt nước mắt của Chí Phèo xuyên suốt tác phẩm. Một tác phẩm với những con người những nhân vật bất hạnh. Những giọt nước mắt ấy qua những lần xuất hiện đã phần nào để lại những suy nghĩ trong lòng người đọc.

Phân tích hình tượng nhân vật Bá Kiến 8

Ngô Tất Tố thành công với bức tranh hiện thực cùng khổ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng còn Nam Cao lại khiến người ta nhớ khi viết về đề tài sự lưu manh của con người trong một thời đại tối tăm. Năm 1941, truyện ngắn Chí Phèo (lúc đầu có tên là Đôi lứa xứng đôi) ra đời là một lời cảnh tỉnh con người trước hiện thực tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là một xã hội tàn nhẫn với lắm kẻ lưu manh, đểu giả và thâm sâu. Chúng sẵn sàng vùi dập hay hãm hại con người. Chúng cũng sẵn sàng tước đoạt ở người khác quyền sống, sự sống. Nhân vật Bá Kiến là một điển hình sâu sắc cho loại con người ấy.

Nếu nhân vật Nghị Quế nổi bậc ở cái tính ăn bẩn, keo kiệt và thô lỗ của hắn, nhân vật Nghị Hách đặc sắc ở cái nết dâm bậy, thì ở nhân vật Bá Kiến hội tụ đầy đủ mọi điều xấu xa, bỉ ổi ở trên đời. Có thể nói cái xằng bậy nào hắn ta cũng có. Hắn cũng có đủ bản lĩnh của một tên cáo già, gian hùng khét tiếng. Hắn chính là đại diện cao nhất của cái xã hội tàn bạo, bất nhân, cạn kiệt tình người. Đó là một xã hội "quần ngư tranh thực" đầy ghê tởm. Ở đó, kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, từng người, từng người lũ lượt đánh mất bản chất lương thiện vốn có của mình chỉ vì miếng ăn.

Bá Kiến là một nhân vật phản diện điển hình. Qua nhân vật Bá Kiến, mọi điều dơ bẩn của cái xã hội thối nát ấy được phơi bày rõ ràng, chân thực, sinh động và đầy xót xa.

Có thể nói, cái trí xảo và gian tham của Bá Kiến cũng có dòng có dõi. Hắn xuất thân trong một gia đình đã từng bốn đời làm Lí trưởng. Bản thân hắn làm Lí trưởng rồi Chánh tổng. Cái xuất thân dòng dõi ấy, khiến Bá Kiến kế thừa mọi mánh khóe ở đời. Bằng đủ mọi mưu mô và thủ đoạn khôn khéo, hắn đã lần lượt leo lên đỉnh cao danh vọng. Từ tiên chỉ làng Vũ Đại hắn leo lên làm Bá hộ rồi Chánh hội kỳ hào, Huyện hào. Đến cả cái danh Bắc Kì nhân dân đại biểu hắn cũng chiếm lấy. Hắn khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Đâu chỉ có dân lành mới sợ cái uy của cụ Bá, mà cả bọn lưu manh lẫn cường cào đối đối nghịch cũng dè chừng và kiên nể hắn ta lắm. Ở làng Vũ Đại, Bá Kiến quyền uy chẳng khác gì một tên chúa đất.

Tuy không chú ý tô đậm nhân vật này nhưng Bá Kiến lại rất nổi bậc trong tác phẩm. Bằng một vài sự miêu tả của Nam Cao cũng đủ làm nhân vật này in đậm trong trí nhớ người đọc. Bá Kiến tuy là một nhân vật loại hình nhưng với những nét độc đáo, khiến nhân vật này rất ấn tượng, không thể nào quên.

Trước hết, Bá Kiến là loại cường hào cáo già lọc lõi. Tên "chúa đất" nào chẳng tham lam, gian manh chuyên đi đè đầu cưỡi cổ nông dân. Nhưng tham lam kiểu Bá Kiến là một loại hiếm thấy.

Sự gian manh sừng sỏ của Bá Kiến thể hiện sâu sắc trong cách hắn trị người và cách hắn đã đẩy Chí Phèo, một anh nông dân hiền lành như cục đất vào tù và khuất phục Chí Phèo sau khi hắn ra khỏi tù.

Nhà văn để cho Bá Kiến xuất hiện đầu tiên trước độc giả đúng lúc Chí Phèo say rượu, đến cổng nhà hắn để rạch mặt, kêu làng, ăn vạ. Vừa trông thấy Chí Phèo nằm trước cửa, không nhúc nhích như thể gần chất, Bá Kiến hiểu ngay cơ sự. Hắn thừa biết ý định của Chí Phèo khi gây ra hành động này. Với sự từng trải của một tên cáo già gian hùng, Bá Kiến biết rõ tác hại của đám đông nhốn nháo này. Với địa vị là Bá hộ, quyền uy thét ra lửa, không thể để Chí Phèo làm cho mất mặt. Bá Kiến đã mau chóng tìm được cách đối phó hữu hiệu.

Trước hết, hắn xua đám đông ra về. Hắn biết rõ sự ồn ào của đám đông càng làm cho con thú kia thêm hung hăng. Chí Phèo cũng mượn đám đông để gây khó cho hắn. Bá Kiến ra lời quát tháo mọi người chẳng qua là kế trì hoãn, kéo dài thời gian để Chí Phèo vơi bớt cơn say rượu. Đối với hắn, cái loại ngang bướng như Chí Phèo đâu phải là chưa từng gặp. Hắn có nhiều kinh nghiệm trừng trị loại "đầu bò" như Chí lắm rồi.

Mặt khác, trước đám đông, hắn không thể nói lời nhũn nhặn để dụ dỗ Chí Phèo được. Muốn dụ dỗ, ắt phải nhún nhường. Đường đường là một cụ bá hét ra lửa mà để đám dân đen chứng kiến cảnh ngọt nhạt với một thằng cùng đinh, thì còn ra cái thể thống gì?

Với người nhà, hắn quát lấy lệ, đuổi họ vào nhà. Với người làng, hắn vạch rõ phận sự không liên quan để khiến họ về nhà: "cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?". Dù rất hả hê và muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng họ cũng lảng dần đi vì nể sợ cái uy của cụ Bá.

Đến khi "chỉ còn trơ lại Chí Phèo", thì cái tài phỉnh dụ của Bá Kiến mới bộc lộ hết ra. Trước hết, cụ bắt đầu giở giọng đường mật, nịnh nọt, dỗ dành Chí Phèo. Lão nhún nhường gọi Chí bằng anh rồi vồn vã mời Chí vào nhà uống nước.

Sự xuống nước của lão già ranh ma ấy khiến cho cơn hung hăng của Chí phèo vơi đi cả nửa. Chí cũng ngạc nhiên lắm nhưng để xem chuyện gì đang xảy ra, Chí đã nghe theo lão. Bá Kiến đã chiến thắng ngay ở bước đầu tiên. Chỉ cần Chí Phèo ngheo theo lão việc này, thì tất sẽ nghe theo việc khác nữa.

Không để Chí Phèo kịp nhận ra trò bịp ấy, lão lập tức tiến một bước thâm độc khác. Lão nhận mình có họ có hàng với Chí Phèo. Dĩ nhiên, Chí Phèo chẳng biết thật giả thế nào. Nhưng cũng thấy được đối đãi, trong lòng không giận nữa.

Chỉ cần Chí Phèo ngồi lên ghế là Bá Kiến biết mình đã thắng. Để hoàn toàn khuất phục con quỷ ấy, Bá Kiến hô người giết gà, mua rượu thết đãi Chí Phèo như đối đãi với hàng thượng khách. Chí Phèo nhận rượu nghĩa là chấp nhận cái "tấm lòng" của Bá Kiến, nghĩa là không gây sự nữa. Cuối bữa rượu, Bá Kiến còn biếu Chí Phèo mấy đồng bạc để ru lòng gã lang thang này.

Bá Kiến như đi vào suy nghĩ của người khác, thấu hiểu mọi điều và dự đoán chính xác mọi hành động. Cái lão già "khôn róc đời" ấy quả thật rất đáng sợ.

Đặc biệt, Nam Cao đã để cho nhân vật Bá Kiến độc thoại nội tâm nhằm phơi bày những ý nghĩ tỉnh táo nhưng nham hiểm của hắn. Đó là những phương châm, thủ đoạn thống trị người nông dân rất khôn ngoan và hiệu quả mà Bá Kiến đã đúc rút từ bốn đời làm tổng lý.

Với những kẻ lì lợm như Chí Phèo trị không được thì lão dùng. Cái kế của lão đó là "dùng những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò". Kế sách ấy không những thâm độc, nham hiểm mà còn rất côn đồ. Với lão, sự đời không nên cố chấp. Không ăn được thì buông bỏ, hà tất cố đấm ăn xôi để mang họa vào thân. Lão luôn tâm niệm "bám thằng có tóc chứ không bám thằng trọc đầu". Với triết lý "thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân", "mềm nắn rắn buông" hết sức mềm dẻo, uyển chuyển và hợp lý

Nhờ "biết mềm, biết cứng, biết thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù" rất được việc trong chuyện đến "tác hại bất cứ anh nào không nghe mình". Bá Kiến đã tập hợp được một phe cánh, bè đảng xung quanh mình. Thế lực và sức mạnh không ngừng được tăng cường, lấn át tất cả, làm cho bọn cường hào đối địch trong làng phải nể sợ, kiêng dè.

Sự gian xảo của hắn được phơi bày trọn vẹn trong âm mưu hại người. Nếu ghét kẻ nào, lão ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, đưa vào chốn tù tội hoặc khốn cùng. Nhưng rồi lão lại dắt tay họ lên để họ phải cảm ơn. Lão sẵn sàng dùng mọi cách để đòi được số tiền cần lấy, để rồi ném trả với luận điệu thương hại giả dối vì thương kẻ bần hàn cùng túng quá. Hắn diễn kịch cứ như thật. Vì thế mà nhận cho ra bộ mặt thật của tên cáo già Bá Kiến không phải là điều dễ dàng.

Tất cả những thói lưu manh, côn đồ, đểu giả ấy được rèn luyện chỉ để bóc lột người khác mà thôi. Bá Kiến nổi tiếng hơn ở cái danh "già đời trong nghề đục khoét". Để vơ vét được nhiều tiền của, lão đã vận dụng hết các ngón nghề điêu luyện, không trừ ngón nào. Với người nông dân hiền lành nhưng khốn khó, lão tha hồ bóp nặn trong những vụ thu thuế. Không cách này thì cách khác, người nông dân phải cật lực nộp đủ tiền thuế. Không có thì lão cho vay. Mà vay thì phải trả gấp năm gấp mười.

Đối với "những thằng bạt mạng" hắn không ngừng thu nạp để giúp hắn dùng trong việc đòi nợ hay gây thanh thế cho hắn. Hắn luôn dùng đúng, người đúng việc. Bởi thế mà, không có cái nợ nào hắn không đòi được, không có kẻ thù nào mà hắn không làm cho điêu đứng, tán gia bại sản. Chí phèo đối với hắn như một con tốt thí mạng. Bằng tiền, hắn mua chuộc cả con người Chí. Hắn biến thù thành bạn. Những người bạn "đặc biệt" của hắn sớm hôm quanh quẩn quanh làng, hễ có việc là hắn sai bảo.

Nam Cao cũng đã vạch rõ nhân cách bỉ ổi, đê tiện của lão cáo già vô sỉ ấy. Bá Kiến không chỉ mưu mô mà còn là một lão già mất nết, dâm đãng và đồi bại. Chuyện lão có bốn năm bà vợ thì cũng thường tình. Nhưng ở tuổi ngoài sáu mươi mà hắn còn ghen bóng, ghen gió. Nỗi hậm hực của lão đối với "những thằng trai trẻ" đã khiến hắn nhẫn tâm đẩy bao con người vô tội vào tù ra tội. Chính hắn lại là người rất háo sắc và thích chơi bời, trác táng, sa đọa và hư hỏng hơn ai hết. Hắn bí mật đi lại với vợ Binh Chức. Câu chuyện ăn chơi của lão ở trên tỉnh thì ai cũng biết.

Đặc tả nhân vật Bá Kiến là một trong những thành công nghệ thuật của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo. Những loại cường hào như Bá Kiến trong xã hội là không hiếm. Sức mạnh đích thực nằm ở cái cách Nam Cao miêu tả, vừa rõ ràng vừa khinh bỉ tột độ. Cộng với lớp từ ngữ phong phú, chân thực giống như một chất tẩy rửa từng bước lột trần bộ mặt xấu xa, đê tiện, bỉ ổi và dâm ô của Bá Kiến.

Nhân vật Bá Kiến vừa mang bản chất chung của giai cấp địa chủ cường hào, vừa có những nét riêng biệt sinh động không giống bất kỳ một tên địa chủ nào khác trong văn học. Điều đó giải thích vì sao hắn luôn được chúng ta nhắc đến khi cần ám chỉ một kẻ có quyền lực, gian hùng và nham hiểm. Hắn là cái nguyên nhân không chỉ dẫn đến cái bi kịch thảm khốc của cuộc đời Chí Phèo mà còn của biết bao con người lương thiện khác.

Người đọc hả hê khi nhìn thấy Bá Kiến nằm giãy chết trong vũng máu. Nhưng người đọc cũng lập tức lo âu và suy nghĩ. Bá Kiến này chết nhưng trong xã hội vẫn còn có biết bao Bá Kiến khác. Những kẻ đối địch bấy lâu của cá kiến chờ đợi cái chết của lão mà nhảy lên tiếp tục đè đầu, cưỡi cổ người nông dân. Kiếp sống lầm than không bao giờ dứt.

Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ; đồng thời là lời kết tội đanh thép xã hội thực dân - phong kiến đẩy con người vào bi kịch cùng cực, bế tắc, tuyệt vọng. Nhân vật Bá Kiến quả là một thành công ngoài dự định của nhà văn. Cách miêu tả nhân vật phản diện, cách điển hình hóa nhân vật, khác sâu đời sống nội tâm có lẽ Nam Cao là nhà văn thành công nhất.

Bên cạnh Suy nghĩ về hình tượng nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn Chí Phèo các em cần tìm hiểu thêm những nội dung khác như Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo từ buổi sáng sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời để thấy rõ bi kịch của nhân vật này hay phần Phân tích nhân vật Chí Phèo để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao. nhằm củng cố kiến thức của mình.

Phân tích hình tượng nhân vật Bá Kiến 9

Bá Kiến là một trong số những nhân vật điển hình xuất sắc, được xây dựng đặc biệt thành công của văn học hiện thực nói chung và của Nam Cao nói riêng.

Trong tiểu thuyết Tắt đèn, khi xây dựng thành nhân vật địa chủ nghị Quế keo kiệt, thô lỗ, Ngô Tất Tô đã mô tả khá rõ gia cảnh, rồi đến những hành động và cử chỉ của hắn. Nhưng đối với bá Kiến, Nam Cao không hề tá diện mạo, chỉ nói đến giọng nói ngọt nhạt, tiếng quát rất sang và cái cười Tào Tháo mà y tự phụ hơn đời. Bằng vài chi tiết, nhà văn đã tạo cho bá Kiến những nét độc đáo, khiến người đọc khó quên. Tuy vậy, nhân vật này trở thành sống động chủ yếu do năng lực miêu tả nội tâm sắc sảo của tác giả.

Nhà văn để cho bá Kiến xuất hiện lần đầu trước độc giả đúng lúc Chí Phèo say rượu, đến cổng nhà hắn rạch mặt ăn vạ. Cảnh tượng thật hỗn loạn, huyên náo. Thoáng nhìn qua, bá Kiến đã hiểu cơ sự, hắn nhanh chóng tìm ra được kế sách thích hợp nhất để đối phó. Với sự từng trải, bá Kiên biết rất rõ tác hại của đám đông đang tụ tập kia. Bố con bá Kiến thêm mất mặt, nếu để dân làng chứng kiến hành động thô lỗ của Chí. Cụ bá cũng thừa biết tâm lý của những thằng đầu bò như Chí Phèo: đám đông kia chính là hậu thuẫn, kích thích để nó hung hăng hơn. Cũng cần phải có thời gian để Chí Phèo tỉnh rượu, đỡ táo tợn. Vả lại, nếu còn đám đông, bá Kiến khó có thể diễn thành công mánh khóe mua chuộc, dụ dỗ. Muốn dụ dỗ ắt phải nhún nhường. Đường đường là một cụ bá hét ra lửa mà để đám dân đen chứng kiến cảnh phải ngọt nhạt với thằng cùng đinh thì còn ra thể thống gì? Bởi vậy, việc đầu tiên bá Kiến tìm cách giải tán đám đông. Trước hết, hắn quát mấy bà vợ và đuổi vào nhà. Những người đến xem không thể không hiểu đây là cụ đuổi khéo mình. Tiếp theo, quay sang bọn người làng, dịu giọng hơn một chút, y bảo: "Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?". Đến đây tất nhiên không ai nói gì, họ lảng dần đi. Cho dù có tò mò, muốn biết sự tình, nhưng họ vẫn nể, vẫn sợ cụ bá. Vả lại, ngay vợ cụ cũng phải vào nhà rồi... Đến khi chỉ còn trơ lại Chí Phèo, cụ bắt đầu giở giọng đường mật, gọi đầy tớ cũ của mình - nay đã bị biến thành con vật gớm ghiếc - bằng anh, vồn vã mời Chí vào nhà uống nước. Chưa đủ, cụ tiên chỉ làng Vũ Đại còn nhận có họ hàng với anh cùng đinh khốn khổ này, rồi giết gà, mua rượu cho hắn uống, rồi còn đãi thêm đồng bạc để về uống thuốc.

Cách cư xử ấy, chứng tỏ cụ bá lõi đời đã đi guốc vào bụng dạ Chí Phèo lúc này: vừa ưa phỉnh nịnh, vừa hám cái lợi trước mắt. Rốt cuộc, cụ bá khôn róc đời chuyển bại thành thắng, đạt được cả hai mục đích: vừa tạm dập tắt ngọn lửa hờn căm trong con người Chí, vừa chuẩn bị biến Chí thành tay sai lợi hại. Như vậy, chỉ qua một tình huống, một pha rạch mặt ăn vạ của Chí Phèo, cái xảo quyệt, lọc lõi của tên cường hào bá Kiến được thể hiện một cách sinh động và đầy ấn tượng.

Già đời đục khoét, đè đầu cưỡi cổ nông dân, bá Kiến đã rút được nhiều kinh nghiệm phong phú, trong cái nghề Làm việc quan. Phải biết thế nào là mềm nắn, rắn buông. Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn, đập ghế, đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì lại vứt trả lại năm hào "vì thương anh túng quá". Nhiều khi trị không được thì bá Kiến lại dùng, vì cũng phải có những thằng đầu bò chứ? Không có những thằng đầu bò lấy đâu ai trị những thằng đầu bò?

Cái nham hiểm ghê người của nhân vật này còn ở chỗ tìm cách làm cho lũ đàn em, hoặc đám dân làng sinh chuyện, tức là chém giết, đốt phá lẫn nhau để hắn có dịp mà ăn!

Bên cạnh việc khắc họa sinh động bản chất xảo quyệt, gian hùng của bá Kiến, Nam Cao không quên vạch trần nhân cách bỉ ổi của tiên chỉ làng Vũ Đại trong những

mối quan hệ kín đáo. Khi cần đặc tả sự đê tiện và thói dâm ô vô độ của tên cường hào này, nhà văn đã bỏ qua nhiều chi tiết rất cụ thể và phong phú của nguyên mẫu lý Bính ở làng Đại Hoàng quê ông. Ngay cái việc gỡ gạc của cụ lý đối với người đàn bà vắng chồng, lại có tiền, lẫn máu ghen tuông của hắn cũng chỉ được lướt qua. Tác giả chỉ đề mấy dòng tả ý nghĩ của cụ bá về người vợ thứ tư trẻ đẹp ngồn ngộn sức sống (Nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ. Khác gì nhai miếng thịt bò lựt sựt khi rụng gần hết răng). Chỉ một vài chi tiết, nhưng nhờ sự chọn lọc, nên vẫn đủ sức khắc sâu trong người đọc về một nhân cách thảm hại.

Như vậy, bá Kiến vừa mang bản chất chung của giai cấp địa chủ cường hào, vừa có những nét riêng sinh động, không giống bất cứ một nhân vật địa chủ nào trong văn học đương thời. Điều đó giải thích vì sao hắn luôn được chúng ta nhắc đến, khi cần ám chỉ một kẻ có quyền, có chức, nham hiểm và gian hùng. Nhân vật này ghi nhận trình độ xây dựng nhân vật điển hình bậc thầy của Nam Cao.

Phân tích hình tượng nhân vật Bá Kiến 10

Nhà văn Nam Cao có phần đã dựa vào những người thật việc thật ở quê hương mình để xây dựng truyện ngắn Chí Phèo. Đại diện cho giai cấp thống trị ở làng Vũ Đại chính là Bá Kiến. Qua nhân vật này, bộ mặt xấu xa tàn bạo của bọn cường hào, địa chủ bị phơi bày rất rõ nét.

Không giống một số nhân vật địa chủ trong những tác phẩm khác của Nam Cao, ở Chí Phèo, Bá Kiến hiện lên với tư cách là một nhân vật điển hình hoàn chỉnh. Khi xây dựng nhân vật địa chủ nghị Quế keo kiệt, thô lỗ; Ngô Tất Tố đã miêu tả khá tỉ mỉ gia cảnh, rồi kể đến những hành động và ngôn ngữ của hắn trong Tắt đèn. Nhưng đối với Bá Kiến, nhà văn Nam Cao không hề tả diện mạo, chỉ nói đến tiếng quát "rất sang" và "cái cười Tào Tháo" mà y vẫn tự phụ hơn đời. Chỉ đơn sơ vài chi tiết nhưng ông đã tạo cho Bá Kiến một bề ngoài khá độc đáo, khiến người đọc khó quên. Tuy vậy, nhân vật này trở thành sống động cơ bản còn do tài miêu tả nội tâm sắc sảo, chân thật của tác giả.

Nam Cao để cho Bá Kiến xuất hiện lần đầu tiên trước độc giả đúng lúc Chí Phèo say rượu, đến cổng nhà hắn rạch mặt, kêu làng ăn vạ. Cảnh tượng thật huyên náo, hỗn loạn. Vừa thấy Chí Phèo "nằm dài, không nhúc nhích rên khẽ như gần chết", "thoáng nhìn qua", lão "đã hiểu cơ sự"; lão nhanh chóng tìm ra được kế sách thích hợp nhất để ứng phó. Với sự từng trải, lão biết rõ tác hại của đám đông này. Bố con lão thêm mất mặt, nếu để dân làng chứng kiến hành động thô tục của Chí Phèo. Lão cũng thừa biết tâm lý của thằng "đầu bò", đám đông kia chính là hậu thuẫn kích thích để nó hung hăng hơn. Và, cũng cần phải có ít nhiều thời gian để Chí Phèo giã rượu, đỡ táo tợn. Vả lại, trước đám đông người, Bá Kiến khó có thể diễn thành công mánh khóe, mua chuộc, dụ dỗ. Muốn dụ dỗ, ắt phải nhún nhường. Đường đường là một cụ Bá hét ra lửa, mà để đám dân đen chứng kiến cảnh phải ngọt nhạt với một thằng cùng đinh thì còn ra thể thống gì? Bởi vậy, việc đầu tiên, Bá Kiến tìm cách giải tán đám đông. Trước hết, lão "quát mấy bà vợ", và đuổi họ vào nhà. Chắc những người "tuôn đến xem" nghe tiếng quát "rất sang" này đủ hiểu: cụ Bá muốn đuổi khéo mình. Tiếp theo "quay sang bọn người làng", Bá Kiến dịu giọng hơn một chút "cả các ông các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?". Đến đây, tất nhiên, "không ai nói gì, người ta lảng dần di". Cho dù vừa tò mò, vừa hả hê, nhưng họ vẫn nể, vẫn sợ cụ Bá. Vả lại, ngay vợ của cụ cũng phải giở giọng đường mật, gọi đầy tớ cũ của mình, nay như đã biến thành con vật gớm ghiếc bằng "anh", vồn vã mời Chí Phèo "vào nhà uống nước". Chưa đủ, cụ "tiên chí làng Vũ Đại", "khét tiếng trong hàng huyện", còn nhận có họ hàng với anh cùng đinh này "rồi giết gà mua rượu cho hắn uống, xong lại đãi thêm đồng bạc để về uống thuốc..". Chỉ cần Chí Phèo ngồi lên, Bá Kiến biết là đã thắng. Tuy vậy, cụ vẫn quát mắng lí Cường, sau khi đã "đưa mắt nháy con một cái".

Với cách cư xử của lão, chứng tỏ bá Kiến đã đi guốc vào bụng dạ Chí Phèo lúc này: ưa phỉnh nịnh, ham cái lợi trước mắt... Rốt cuộc, Bá Kiến "khôn róc đời" đã đạt được cả hai mục đích: vừa tạm dập tắt ngọn lửa hờn căm trong con người Chí Phèo, vừa chuẩn bị biến Chí Phèo thành tay sai lợi hại. Trong mọi tình huống tên cường hào này đều hiện rõ cái bản chất xảo quyệt lọc lõi , nó được thể hiện một cách rất sinh động. Già đời đục khoét, đè đầu cưỡi cổ nông dân, cụ Bá đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm phong phú, trong "cái nghề làm việc quan". Phải biết "thế nào là mềm nắn rắn buông". Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì vứt trả lại năm hào, "vì thương anh túng quá!". Cụ có không ít thủ đoạn thâm hiểm "trị không được thì cụ dùng". "Cụ nghĩ bụng: cũng phải có những thằng đầu bò chứ? Không có những thằng đầu bò. thì lấy ai trị những thằng đầu bò?". Cái nham hiểm ghê tởm của nhân vật này là ở chỗ tìm cách cho lũ đàn em, hoặc đám dân làng "sinh chuyện"- tức là đốt phá, chém giết lẫn nhau, để lão "có dịp mà ăn!"

Bá Kiến đã vận dụng triệt để những kinh nghiệm đó để biến Chí Phèo - một thanh niên chất phác, tự trọng và khỏe mạnh thành "con quỷ dữ làng Vũ Đại", sẵn sàng theo lệnh hắn để đi đâm chém, rồi phải kết liễu cuộc đời mình một cách thảm khốc. Rõ ràng, bi kịch của Chí Phèo đã góp phần quan trọng hoàn thiện chân dung gian hùng của Bá Kiến.

Bên cạnh việc khắc họa sinh động sâu sắc bản chất lọc lõi, xảo quyệt. Nhà văn Nam Cao đã vạch trần nhân cách bỉ ổi của "tiên chỉ làng Vũ Đại" trong những mối quan hệ kín đáo. Và tác giả tài năng là ở chỗ: khi cần đặc tả sự lợi dụng đê tiện và thói dâm ô vô độ của tên cường hào này, ông đã bỏ qua nhiều chi tiết rất phong phú, rất cụ thể và sinh động của nguyên mẫu. Lí Bính ở làng Đại Hoàng. Ngay cái việc gỡ gạc của cụ lí đối với người đàn bà vắng chồng và có tiền, lẫn máu ghen tuông của hắn cũng chỉ được lướt qua. Tác giả để có mấy dòng tả ý nghĩ cụ Bá về người vợ trẻ và đẹp... nhưng vẫn đủ sức khắc sâu trong người đọc một nhân cách bỉ ổi và thảm hại.

Như vậy, Bá Kiến vừa mang bản chất chung của giai cấp địa chủ cường hào, vừa có những nét riêng biệt sinh động không giống bất kì một tên địa chủ nào trong văn học. Điều đó giải thích vì sao hắn luôn được chúng ta nhắc đến, khi cần ám chỉ một kẻ có quyền lực, gian hùng và nham hiểm.

Bằng nhân vật Bá Kiến, nhà văn Nam Cao đã ghi nhận những thành công mới mẻ trong việc xây dựng nhân vật. Điều này chứng tỏ sự tiến bộ đáng kể của ông nói riêng, phương pháp sáng tác hiện thực ở giai đoạn 1939 - 1945 nói chung.

Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo 11

Nam Cao là một nhà văn lớn của dân tộc. Ông chuyên viết về người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ. Họ không những nghèo mà thậm chí còn bị đẩy vào bước đường cùng, bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính. Điển hình trong đó là tác phẩm Chí Phèo. Qua những biến cố nghiệt ngã trong cuộc đời Chí từ một chàng thanh niên hiền lành chịu khó trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại, Nam Cao không những nói lên sự thật cay đắng về số phận của những người nông dân bất hạnh và bất lực dưới ách thống trị tàn ác của thực dân phong kiến, mà còn thể hiện giá trị nhân đạo rất sâu sắc. Ông cảm thương và xót xa cho những mảnh đời cơ cực.

Trung tâm của tác phẩm là Chí Phèo – đại diện cho những người nông dân bị bần cùng hóa tới mức đánh mất chính bản thân mình, lao vào con đường tội lỗi và tối tăm. Chí dù không cha không mẹ nhưng Chí vẫn trở thành một con người tốt. Chí làm thuê làm mướn, chịu thương chịu khó kiếm sống nuôi thân. Nhưng đường đời vốn dĩ lắm truân chuyên, Chí bị gia đình Bá Kiến đẩy vào tù. Năm tháng tù đày và lòng hận thù biến Chí trở thành một con người hoàn toàn khác từ ngoại hình cho đến tính cách. Chí xăm trổ những hình thù quái dị, cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn… trông gớm chết. Trước đây Chí tốt đẹp bao nhiêu thì giờ đây lại xấu xa, tồi tệ bấy nhiêu. Con đường tha hóa của Chí tỉ lệ thuận với sự tàn ác, bất nhân của chế độ phong kiến. Trong xã hội ấy còn rất nhiều người giống như Chí. Chí chỉ là một nhân vật điển hình trong phần người đông đảo ấy. Họ bị như vậy không phải vì bản thân quá yếu hèn, không có nghị lực vươn lên, mà vì sự tàn ác của chế độ quá lớn. Trong khi đó họ lại chỉ là những người nông dân thấp cổ bé họng, không tiền, không địa vị, không học thức. Làm sao có thể chống lại được với giai cấp đầy quyền lực và tàn nhẫn? Nam Cao bày tỏ sự xót thương và đồng cảm sâu sắc với Chí và những con người bất hạnh như Chí.

Trong chuỗi ngày dài dằng dặc với những niềm cay đắng chồng chất giống như những vết sẹo chằng chịt trên khuôn mặt trong những lần vạch mặt ăn vạ, nhà văn đã đưa thị Nở đến với Chí. Sự kiện này đã làm Chí tỉnh thức và tìm lại được chính mình. Sau đêm gặp thị, Chí tỉnh táo và nhận thức được mọi thứ xung quanh mình. Cuộc sống thật giản đơn mà lại hạnh phúc đến vậy. Tiếng mái chèo gõ cá, tiếng chim hót, tiếng người nói lao xao đi chợ, và dáng dấp của một người đàn bà ngay cạnh bên, tất cả đã mang đến cho Chí sự quyết tâm trở lại làm người lương thiện. Đằng sau những tiếng chửi chua ngoa, sau những trận rượu say xỉn triền miên, ta lại thấy một Chí Phèo đầy lòng nhân ái và giàu tình yêu thương. Có thể thị dở hơi nên thị không ý thức được điều mình đang làm là sống cùng với một thằng không cha không mẹ, chuyên đi rạch mặt ăn vạ nhưng Chí đang hoàn toàn tỉnh táo.

Trước mặt Chí là người đàn bà ế chồng, xấu xí và ngờ nghệch nhưng điều đó có là gì khi Chí cảm nhận được tình cảm rất chân thật và trong sáng của thị. Thị chẳng hề đắn đo suy nghĩ hay có bất kì một thành kiến nào đối với một kẻ đi ở tù về như Chí. Thị dở nhưng tấm lòng của thị rất thánh thiện. Bát cháo hành thị nấu được nêm gia vị bằng sự đồng cảm, bằng tình yêu thương rất chân thật. Bát cháo ấy đã đánh thức phần người trong Chí trỗi dậy. Chí muốn cùng thị thực hiện ước mơ ngày nào của mình: có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải thêu thùa. Ước mơ ấy không chỉ của riêng Chí mà của rất nhiều người. Chí không chê thị dở, lại càng không chê thị xấu. Có thể do tình yêu mù quáng, nhưng ước mơ kia của Chí là điều rất đúng đắn và nghiêm túc. Sau bao nhiêu biến cố xảy ra, sau những vết sẹo kéo dài trên mặt, Chí lại trở về là một con người rất hiền lành, rất tốt tính. Mối tình của Chí với thị như một ân huệ mà Nam Cao muốn dành cho đứa con đẻ của mình, để Chí được một lần trong đời sống hạnh phúc dù chỉ là ít ỏi. Bởi ngay sau đó, thị đã nghe lời bà cô cự tuyệt Chí.

Thêm lần nữa Chí chìm vào cơn say. Nhưng cơn say này khác với những cơn say trước. Bởi nó có lẫn men rượu với hơi cháo hành thoang thoảng. Sự tuyệt vọng và lòng hận thù lại trào dâng trong Chí, dẫn bước chân Chí tới thẳng nhà Bá Kiến dù trong đầu xác định đến nhà thị Nở để giết chết con khọm già nhà nó. Nhưng họ đâu có tội tình gì. Chí ra nông nỗi này đều do Bá Kiến gây nên. Chí giết chết hắn rồi tự tử. Chí không muốn sống tiếp cuộc đời đằng đẵng những khổ đau này nữa. Ngay cả một ước mơ giản đơn nhất Chí cũng không được quyền thực hiện. Chí được sinh là làm người nhưng lại sống như một con quỷ dữ, chẳng ai dám lại gần Chí. Cho tới khi thị đến nhưng cuối cùng thị cũng quay lưng lại với Chí. Chí cảm thấy cô đơn và lạc lõng giữa biển người mênh mông. Chí sợ rằng tuổi già của mình sẽ trở nên cô độc và đau khổ… Chí chết, Chí sẽ không còn phải tiếp tục chìm trong men say nữa, cũng chẳng phải xuất hiện trước mặt mọi người với dáng dấp trông gớm chết.

Dù Chí chết, nhưng còn có một Chí Phèo con trong bụng thị Nở. Thị cúi xuống và nghĩ tới cái lò gạch xa xa. Bá Kiến chết còn có Lý Cường. Hắn cũng gian ác và xảo trá như cha hắn.

Chí chết, câu chuyện kết thúc nhưng những bất công và những số phận bất hạnh như Chí Phèo vẫn còn tồn tại nhiều trong xã hội. Không biết rằng có bao nhiêu thị Nở để mang đến niềm hạnh phúc dù là ít ỏi cho những cuộc đời ấy. Qua đó, nhà văn Nam Cao muốn gửi gắm và bày tỏ niềm xót thương, sự đồng cảm của mình đối với người nông dân cùng khổ. Đồng thời ông cũng ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp, những tấm lòng lương thiện còn sót lại sau những xô bồ, bon chen của cuộc sống lao đao, lận đận.

Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, Nam Cao đã dựng lên một Chí Phèo mang giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc.

Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo 12

Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những kiệt tác của văn học hiện thực khi viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Trong tác phẩm, nhà văn Nam Cao không chỉ phơi bày nỗi khổ của con người, khổ vì đói nghèo, khổ vì tha hóa nhân cách mà còn thể hiện sự đồng cảm, trân trọng với những giá trị “người” bên trong những con người đầy khổ đau, những nạn nhân đáng thương của xã hội ấy. Tinh thần nhân đạo sâu sắc cũng là một trong những giá trị nổi bật làm nên sức sống mạnh mẽ của Chí Phèo trong lòng của mỗi độc giả.

Giá trị nhân đạo hiểu một cách đơn giản nhất, đó chính là sự cảm thông, đồng cảm trước nỗi đau của con người, là sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn của những con người bé nhỏ; giá trị nhân đạo còn thể hiện trong thái độ bênh vực con người, lên án những thế lực bạo tàn đã chà đạp, tước lên quyền tự do, quyền sống của họ.

Trong truyện ngắn Chí Phèo, tư tưởng nhân đạo của nhà văn Nam Cao được thể hiện ở chỗ hướng ngòi bút khám phá đời sống bị đọa đày cả về thể xác và tinh thần của những người lao động lương thiện. Chí Phèo là anh canh điền hiền lành, lương thiện nhưng cuộc sống bất công đã đẩy Chí đến con đường lưu manh hóa, trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại. Thế nhưng, tác giả Nam Cao không lên án Chí như một thứ người- vật như bao người dân làng Vũ Đại mà ông đã hướng ngòi bút đến khám phá đến nội tâm sâu thẳm của con quỷ dữ ấy.

Bên ngoài vẻ bất cần, liều lĩnh của kẻ chỉ biết “rạch mặt ăn vạ” lại là bản chất của một người nông dân lương thiện với những khát khao bình dị “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải”. Và khi ý thức được bi kịch khủng khiếp của cuộc đời mình, khi biết không thể quay lại con đường lương thiện như mình khao khát thì Chí thà lựa chọn cái chết chứ kiên quyết không chịu làm con quỷ dữ nữa.

Thế mới thấy bên trong những con người bị tha hóa cả về nhân hình lẫn nhân tính như Chí Phèo vẫn tồn tại những phần rất người, đó là bản chất lương thiện sáng trong mà hoàn cảnh đen tối của xã hội không thể diệt trừ mà chỉ có thể làm nó bị tê liệt.

Thị Nở là người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, lại dở hơi, nhà có mả hủi nhưng bên trong diện mạo xù xì, gớm ghiếc ấy lại là tình thương đầy ấm áp, là tấm lòng thiện lương đáng quý. Và cùng chính sự quan tâm, thương yêu chân thành của Thị Nở đã cảm hóa và thức tỉnh phần nhân tính còn lại bên trong Chí Phèo. Cũng từ khi gặp được Thị, Chí Phèo đã nhớ về những mơ ước bình dị khi còn trẻ, khát khao được lương thiện và làm hòa với mọi người.

Cũng qua tấn bi kịch tha hóa của Chí Phèo, tác giả Nam Cao đã cất lên tiếng kêu cứu đầy thảm thiết và phẫn uất khi giá trị của con người bị cái đen tối, bất công của xã hội chà đạp, tha hóa. Từ đó tác giả đặt ra vấn đề nhức nhối: làm thế nào để cứu con người khỏi cái xã hội vùi dập vô nhân tính ấy, mang đến cuộc sống chính đáng để con người được sống lương thiện. Cần phải tiêu diệt xã hội bất công không tình người ấy để con người được sống nhân đạo hơn.

Không chỉ phơi bày bi kịch của người lương thiện khi bị chà đạp, tha hóa về nhân hình, nhân tính tác giả Nam Cao còn lên án gay gắt hiện thực xã hội phong kiến bạo tàn đã gây nên bao bi kịch cho con người. Đại diện cho giai cấp thống trị ở đây chính là Bá Kiến, lão cường hào ma mãnh, xảo quyệt của làng Vũ Đại, một tay hắn đã đẩy bao kẻ vào con đường tha hóa, phá nát bao cơ nghiệp của những người dân bất hạnh. Đến cuối tác phẩm, tác giả Nam Cao đã để cho Chí Phèo vung dao lên để giết chết Bá Kiến, thể hiện thái độ phẫn uất trước sự tồn tại của cái bạo tàn, xấu xa.

Tuy nhiên, Bá Kiến chết thì vẫn còn Lí Cường, Chí Phèo chết thì cũng sẽ còn bao kẻ lương thiện khác cũng có thể tiếp tục bị đẩy đến con đường lưu manh hóa. Chỉ có thể bảo vệ cuộc sống lương thiện của con người khi xã hội phong kiến bạo tàn, chế độ người bóc lột người bị tiêu diệt.

Tư tưởng nhân đạo của nhà văn Nam Cao còn được thể hiện thông qua thái độ đồng cảm, trân trọng đối với giá trị của con người. Đó là phần lương thiện bên trong con người Chí Phèo, tình thương yêu đáng trân trọng bên trong Thị Nở. Nam Cao đã thể hiện thái độ trân trọng đối với những con người ở đáy sâu tăm tối của xã hội để thấy được ánh sáng tình người bên trong con người họ.

Có thể nói Chí Phèo là truyện ngắn mang giá trị nhân đạo sâu sắc khi hướng đến đồng cảm, trân trọng giá trị bên trong tâm hồn của những con người bất hạnh, nạn nhân của xã hội.

Phân tích giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo hay nhất 13

Nói về người nông dân trong xã hội cũ, không thể không nhắc tới tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Ông đã xây dựng nhân vật điển hình là Chí Phèo và Thị Nở để hình tượng hóa những người nông dân sống bần cùng, khổ cực dưới ách thống trị tàn ác của bọn thực dân phong kiến. Bằng lối viết chân thực và ngòi bút sắc sảo, Nam Cao đã mang đến cho người đọc một tác phẩm có giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc.

Giá trị hiện thực là những sự thật được phản ánh thông qua nhân vật và những sự kiện mà tác giả đề cập đến. Trong Chí Phèo, Nam Cao đã dựng lên một Chí Phèo với những bước ngoặt đầy nghiệt ngã và một thị Nở xấu đến mức ma chê quỷ hờn, nhưng chính thị lại là người tác động mạnh mẽ đến Chí Phèo. Chí Phèo bị bà ba dâm đãng của Bá Kiến lợi dụng, rồi bị đẩy vào tù. Chí ôm lòng hận thù theo mình suốt những năm tháng tù đày. Ra tù, Chí trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, suốt ngày ôm chai rượu say xỉn. Chí đi tới đâu là chửi tới đó. Vô tình, Chí lại rơi vào tay Bá Kiến và làm tay sai đắc lực cho hắn, chuyên đi đâm thuê chém mướn cho hắn. Chí trở nên “nổi tiếng” khiến ai cũng khiếp sợ. Sau đêm vô tình gặp thị Nở bên gốc chuối, hai người đã ở với nhau như vợ chồng. Bát cháo của thị như một ân nghĩa cao đẹp mà cả đời Chí lần đầu tiên được nhận. Nhưng được vài ngày, thị nghe lời bà cô quay lại cự tuyệt Chí. Chí đau khổ và lại rơi vào tuyệt vọng một lần nữa. Trong cơn uất hận, Chí cầm dao đến nhà Bá Kiến giết chết hắn rồi tự tử.

Có lẽ nhà văn cũng rất buồn, rất đau khổ khi khái quát số phận nghiệt ngã của người nông dân qua nhân vật Chí Phèo. Là nhà văn, ông không thiếu những ngôn từ hoa mỹ. Nhưng với ông, văn chương chính là nơi để nói lên sự thật chứ không phải đánh bóng sự thật. Chí là một đứa trẻ mồ côi. Chí cũng rất hiền lành, chịu khó làm thuê làm mướn để kiếm sống. Nhưng xã hội bất công và giai cấp gian ác đã không cho Chí được sống yên bình trong kiếp người nông dân. Chí bị đẩy vào tù. Lòng uất hận vì bị tù oan khiến Chí thay đổi tính nết và cả ngoại hình. Chí ra tù với dáng dấp của một thằng “săng đá” và được Nam Cao cảm nhận bằng ba từ “trông gớm chết”. Chí xăm trổ, cái mặt câng câng, cái đầu cạo trọc lốc, cái răng trắng hếu… Những từ ngữ ấy quá đủ cho ta thấy Chí hiện giờ mang dáng hình của một kẻ “đầu gấu”. Đã thế, Chí còn chìm trong cơn say triền miên. Chí đi tới đâu là chửi tới đó. Nhưng không một ai thèm đáp lại tiếng chửi của Chí. Chí chỉ mong ai đó nói lên một tiếng để Chí biết rằng Chí vẫn được coi là người. Nhưng chỉ có tiếng lũ chó sủa inh ỏi và tiếng trẻ con nô đùa chạy theo trêu ghẹo Chí. Dường như Chí bị loại bỏ khỏi xã hội làm người.

Hình ảnh của Chí lúc này là hình ảnh của những người nông dân bị bần cùng hóa như Chí. Họ rơi vào hoàn cảnh khó khăn, tới bước đường cùng và đánh mất nhân cách của chính mình. Qua đó, Nam Cao muốn phơi bày tội ác của bọn thực dân phong kiến đã đẩy người nông dân vào tình cảnh này. Nếu không bị đẩy vào tù, Chí vẫn là một con người rất lương thiện, hiền lành và chịu khó. Chí vẫn sống với vai trò là một kẻ đi làm thuê làm mướn để tự nuôi thân. Và nếu xã hội không thành kiến với những kẻ ở tù về, có lẽ Chí cũng không phải chìm đắm trong những cơn say, cũng không phải gào thét lên những lời chửi rủa chua ngoa để mong có ai đó đáp lại lời mình, để Chí biết rằng Chí vẫn được coi là một con người thực sự. Nhưng bản chất xã hội lúc bấy giờ quá tàn ác, quá bất nhân. Chí đã trở thành con quỷ dữ, bọn chúng vẫn không tha.

Dù Chí được gặp thị Nở nhưng đó cũng chỉ là một tình huống để Nam Cao dẫn dắt bước chân Chí đến nhà Bá Kiến, giết chết hắn để xóa tan đi phần nào sự phẫn nộ trong lòng. Thị Nở cũng là một nhân vật điển hình cho người nông dân. Dù thị dở hơi, xấu xí, xấu tới mức ma chê quỷ hờn nhưng đó lại là những nét thô sơ nhất của tự nhiên. Tạo hóa đã không ưu ái thị về vẻ bề ngoài nhưng lại đặt vào thị tấm lòng nhân hậu vô cùng lớn lao. Thị và Chí vô tình gặp nhau trong đêm tối. Sau cơn mê về xác thịt, tình yêu trong hai con người bần cùng nhất của xã hội đã nhen nhóm và trở thành ngọn lửa rực sáng. Chí được thị ban tặng cho bát cháo hành mà cả đời Chí cũng chẳng bao giờ dám mơ tới. Chí sống giữa cuộc đời nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên Chí tỉnh táo và cảm nhận được những hương vị của cuộc sống đời thường. Rất giản dị nhưng thật đẹp làm sao. Tiếng chèo thuyền, tiếng chim hót, tiếng mọi người đi chợ nói chuyện với nhau… Những âm thanh ấy ngày nào chẳng có, vậy mà hôm nay Chí mới để ý. Những tình tiết trong cuộc tình ngắn ngủi của Chí đã phản ánh một sự thật về bản chất của người nông dân. Dù họ đã phải trải qua bao cay đắng, nhưng sau cùng lòng lương thiện vẫn luôn tồn tại, chỉ là có những lúc nó bị nhấn chìm bởi hoàn cảnh sống. Chính thị Nở đã làm cho bản chất của Chí sống lại. Nhưng cũng lại là thị đẩy Chí vào bước đường cùng thêm một lần nữa khi thị chối từ tình cảm của Chí.

Sự kiện này nói lên một sự thật cay đắng về thành kiến, về quan niệm của dân làng Vũ Đại đối với những kẻ đã bị tha hóa như Chí. Họ nhìn Chí bằng ánh mắt khinh thường và họ không còn coi Chí là người nữa. Dù trước đó thị đã yêu Chí, đã có cảm giảm thinh thích khi khắc đến hai chữ vợ chồng, nhưng vì thị chỉ là người đàn bà ế chồng và dở hơi. Hơn nữa thị lại bị người bà cô của mình quán xuyến. Sự thật đau đớn khi bị người yêu cự tuyệt khiến Chí rơi vào đau khổ tột cùng. Những tưởng cuộc đời từ nay sẽ được yên ấm nhưng bi kịch lại đến. Chút hi vọng mong manh cuối cùng của Chí đã nhanh chóng bị dập tắt bởi thành kiến của xã hội. Lúc này Chí đã quyết định đến nhà Bá Kiến, giết chết hắn rồi tự kết liễu cuộc đời mình.

Bá Kiến và cả gia đình hắn là đại diện cho tầng lớp thống trị tàn ác, bất nhân. Chính bọn chúng đã lợi dụng những người nông dân lương thiện như Chí, biến họ trở thành con quỷ dữ và không còn cơ hội được quay trở lại làm người nữa, khiến họ phải đi vào ngõ cụt và tận cùng là cái chết. Nhưng một kẻ liều lĩnh và đã trải qua quá nhiều biến cố như Chí, cái chết không còn là nỗi sợ hãi nữa. Chí chết nhưng trước khi chết, Chí muốn kéo theo cả kẻ đã làm mình ra nông nỗi này.

Còn thị, dù thị dở hơi, nhưng khi Chí chết thị vẫn đủ tỉnh táo để nhìn xuống bụng và nghĩ đến một cái lò gạch bỏ hoang. Nam Cao không viết tiếp nhưng người đọc vẫn hiểu ý định của thị. Và đứa con trong bụng thị sẽ là một Chí Phèo con. Cuộc đời người nông dân vẫn còn nhiều người phải khổ. Chí Phèo chết chưa phải là đã hết. Bá Kiến chết cũng vẫn còn Lý Cường. Thậm chí hắn còn lạnh lùng và ác độc hơn Bá Kiến. Quá dễ dàng để Nam Cao viết lên cái kết có hậu nhưng ông trân trọng sự thật, và ông cũng muốn phơi bày sự thật về xã hội đương thời để người đọc thấy rằng cuộc sống người nông dân rất khổ cực. Họ vừa phải đương đầu với cuộc sống mưu sinh, vừa phải gồng mình lên gìn giữ lấy nhân phẩm của mình. Nhiều người đã gục ngã trước hoàn cảnh, lâm vào con đường tội lỗi và bị tha hóa nhân cách như Chí.

Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình và những lời văn chân thực, giàu cảm xúc, nhà văn đã bày vẽ lại cuộc sống thực tế của những người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ. Đồng thời ông cũng vạch tội bọn thực dân phong kiến đã tàn nhẫn đẩy người nông dân vào cảnh sống lầm than. Chúng không những bóc lột tiền bạc, sức lao động của dân nghèo mà còn trà đạp lên tâm hồn và nhân cách cao cả của họ, biến họ thành những con quỷ dữ giữa cuộc đời.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 14

Chí Phèo là sự hình thành của những mối xung đột giai cấp, đặc biệt là giai cấp thống trị và bị trị, những mối xung đột xuyên suốt tác phẩm tạo thành mạch chảy chính trong nội dung. Chí Phèo với ba lần đến nhà bá Kiến là thể hiện tài nghệ bậc thầy của Nam Cao trong việc tổ chức các mối xung đột, là tấm lòng của Nam Cao với những người nông dân bị tha hoá, lưu manh hoá trong xã hội ấy – nhà văn của tình thương lớn.

Mối xung đột ấy tập trung thể hiện giữa hai tuyến nhân vật Chí Phèo – bá Kiến. Mối xung đột đi theo mạch ngầm, dai dẳng. Từ lâu rồi dường như mối quan hệ giữa Chí Phèo và bá Kiến là mối quan hệ phụ thuộc, gắn bó. Từ khi Chí Phèo còn là anh canh điền khoẻ mạnh làm thuê cho gia đình bá Kiến, là kẻ tôi tớ mang nguồn gốc họ hàng với bá Kiến. Sự khăng khít ấy là bước đệm cho Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiến lần đầu, đối với Chí Phèo thì con đường đến nhà bá Kiến đã quá đỗi thân quen với hắn. Con đường mòn ấy đi vào trong trí nhớ hắn từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành như con đường của sự phụ thuộc. Lần này ngay sau khi từ tù ra, nơi hắn tìm đến đầu tiên tất nhiên là nhà bá Kiến, kẻ đã ngấm ngầm đẩy hắn vào tù tội, nhơ bẩn, phó mặc hắn cho những tội ác thực dân và biến hắn thành kẻ lưu manh tha hoá. Sự tìm đến để trả thù là động cơ tất yếu của Chí Phèo. Hắn đem cuộc đời hắn đánh cuộc với số phận, thách thức với người đứng đầu làng Vũ Đại.

Những năm tháng tù tội, bản chất lưu manh hận thù khiến hắn sắt đá và liều lĩnh. Màn trả thù của hắn diễn ra ở hai cảnh: phủi và rạch mặt ăn vạ. Tiếng chửi của thằng Chí, tiếng chửi chua ngoa cứ quất thẳng vào mặt ông bá. Hắn cóc sợ đời khi đối chọi với người đứng đầu làng Vũ Đại. Hắn thù và men rượu đã cho hắn thêm cái gan liều lĩnh của ông Trời. Nhưng việc chửi ấy thành ra là không hiệu quả khi ông bá thì đi vắng mà chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu. Đâm ra là hắn phải rạch mặt ăn vạ. Hắn tự hành hạ bản thân để đối phó với ông bá. Nghe thử mà xem những tiếng ăn vạ nghe đến xé ruột ầm. ĩ làng xóm của hắn: “Ôi làng nước ôi. Cứu tôi với… Ôi làng nước ôi…! Bố con thằng Kiến nó đâm chết tôi! ”. Người đọc tưởng chừng như xung đột lên đến đỉnh điểm, cao trào thì sự xuất hiện và cái uy của ông bá làm màn kịch lắng xuống và xung đột, mâu thuẫn được giải quyết ổn thoả. Ông bá đã xoay chuyển tình thế một cách nhanh chóng bằng cái đầu óc cáo già, khôn róc đời, bằng tiếng cười, tiếng quát của mình.

Sự xoay chuyển mâu thuẫn, xung đột ấy đã tạo cho cốt truyện sự bất ngờ, độc đáo và ly kỳ. Nam Cao đã thể hiện cái nhìn tinh tế, sâu sắc của một nhà văn bậc thầy. Ông đưa mâu thuẫn lên đỉnh điểm rồi lại hạ nó xuống thành các mạch xung đột ngấm ngầm ngày càng gay gắt và mạnh mẽ hơn. Nam Cao đã để cho bá Kiến khoác lên mình Chí Phèo một cái danh hão của họ hàng để xung đột lắng xuống một cách êm đẹp, ổn thoả. Nhưng sự nhận họ nhận hàng ấy không giấu nổi cái lai lịch bất minh của Chí Phèo mà chỉ càng làm thêm nhơ nhuốc, đen tối. Chí Phèo với lần thứ nhất đến nhà bá Kiến trả thù nhưng kết quả hắn đạt được lại hoàn toàn trái ngược. Hắn được cái danh họ hàng với ông bá, được ông tiếp đón ân cần, được ông cho tiền uống rượu. Ấy là quá sức tưởng tượng với hắn. Những cái lợi trước mắt làm mờ mắt hắn, làm hắn không nhận ra kẻ thù trực tiếp của cuộc đời hắn mà ngoan ngoãn nghe theo lời bá Kiến, ra về trong niềm tự hào, kiêu hãnh. Chí Phèo đến nhà bá Kiến lần thứ nhất và kết quả của nó là sự tất yếu khi Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiến lần thứ hai. Lần này hắn đến với động cơ hoàn toàn khác. Đến để xin được đi ở tù. Cuộc sống làng Vũ Đại đối với hắn còn khắc nghiệt hơn những năm tháng hắn đi ở tù. “Đi ở tù còn có cơm mà ăn, bây giờ về làng về nước một thước cắm dùi không có, chả làm gì lên ăn”. Câu nói say khướt của Chí Phèo gợi trong lòng bạn đọc nhiều suy ngẫm. Nhìn cả về một xã hội thối nát bất công thì sự sống con người nhỏ nhoi mỏng manh. Nơi đây, nơi làng Vũ Đại xã hội phong kiến nửa thực dân thu nhỏ này thì cuộc sống của con người lương thiện bị bóp nghẹt. Họ bị dồn vào bước đường cùng, bước đường tha hóa.

Cái nghịch lý “đi ở tù” của Chí Phèo tưởng chừng như vô lý nhưng lại rất xác thực với cuộc đời hắn. Lần này Chí Phèo tìm lại đến bá Kiến với giọng điệu hoàn toàn khác. Lối xưng con – cụ của hắn sao mà ngọt xớt vậy. Hắn đang dần tìm đến con đường tha hóa, dần thành tay sai cụ bá. Cụ bá bằng sự mưu mẹo, gian ngoa của bè lũ thống trị đã nhanh chóng xoay mũi dao của Chí Phèo sang phe cánh đối lập. Đấy là khi cụ áp dụng cái cách trị người, cụ để chúng tự xử lẫn nhau, ở giữa mà hưởng lợi. Cụ bá đã thể hiện đầy đủ bản chất của bè lũ thống trị phong kiến nham hiểm, gian ngoa, độc ác, mưu mẹo. Thế mà Chí Phèo với bản chất ngu dốt của người nông dân không nhận ra thủ đoạn của lão cáo già mà răm rắp làm theo. Kết quả mà hắn thu được từ lần thứ hai này là sự chiến thắng đầy hoan hỉ trước đội Tảo, một phe cánh hùng mạnh có thế lực trong cái làng Vũ Đại này. Chí Phèo còn giương giương tự đắc “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng tao”, khi Chí Phèo hoan hỉ nhất cũng chính là lúc hắn rơi vào nơi sâu nhất của con đường tha hoá, con đường không lối thoát. Lần thứ hai Chí Phèo đến nhà bá Kiến đã hoàn thiện con đường tha hoá của hắn, đã biến hắn thành tay sai đắc lực của bá Kiến. Chí Phèo đã trao nốt phần cuộc đời tha hoá của mình vào tay con quỷ bá Kiến. Cuộc đời hắn thế là chấm dứt không lối thoát.

Lần thứ ba Chí Phèo đến nhà bá Kiến là bước ngoặt quan trọng đỉnh điểm cho ba bận Chí Phèo đến nhà bá Kiến. Lần này hắn tìm đến nhà bá Kiến là để nó cự tuyệt. Vẫn con đường quen thuộc ấy, những bước chân hắn sao vẫn tự lần mò tìm đến với bá

Kiến trong sự thức tỉnh. Hắn đã nhận ra kẻ thù lớn nhất của cuộc đời mình là bá Kiến. Động cơ Chí Phèo đến nhà bá Kiến khác hoàn toàn so với hai lần trước. Lần này hắn ‘đến để đòi hỏi lương thiện. Sự khát khao quyền sống lương thiện, bi, kịch trong cự tuyệt quyền làm người đã dẫn lối cho hắn đến với bá Kiến. Rút dao xông vào, hận thù trong hắn đã bùng phát tiếp sức cho hắn xông thẳng vào kẻ thù “Chỉ có một cách… biết không!… Chỉ còn một cách là… cái này! Biết không!… ” Kết quả của lần ba này là cái chết của Chí Phèo và bá Kiến. Nam Cao dẫn xung đột đi từ cái mạch ngấm ngầm đến đỉnh điểm là hai cái chết. Đây là hai cái chết tất yếu. Cái chết của bá Kiến – cái ác phải đền tội, ác giả ác báo. Cái chết của bá Kiến đánh dấu sức mạnh của người nông dân trong quá trình đấu tranh với giai cấp thống trị. Còn cái chết của Chí Phèo là sự chấm dứt chuỗi đời bi kịch, kết thúc số phận đau khổ bế tắc của người nông dân, đồng thời cái chết của Chí Phèo thể hiện niềm tin của Nam Cao vào con người. Sự chiến thắng tư tưởng nhân văn Nam Cao. Những tưởng người nông dân lệ thuộc vào giai cấp thống trị nhưng hai cái chết đã phủ định hoàn toàn.

Nam Cao bằng ngòi bút tổ chức xung đột bậc thầy đã thể hiện mối xung đột giữa giai cấp thống trị và bị trị theo một mạch ngầm dẫn đến đỉnh điểm. Nam Cao với ba lần Chí Phèo đến nhà bá Kiến đã thể hiện tài năng và tình cảm của nhà văn lớn.

Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam Cao 15

Nam Cao được biết đến là một cây bút tài hoa trên diễn đàn văn học Việt Nam, những tác phẩm ra đời mang màu sắc hiện thực sâu sắc. Những tác phẩm của ông mang cái nhìn về thời đại và cuộc sống hoàn toàn mới,cũng như hình ảnh trong các tác phẩm cũng đa dạng và phong phú,mang những mảng tính cách mà sự pha trộn sáng tối lại như được tương phản rõ rệt. Chí Phèo là một tác phẩm điển hình khi nhắc tới Nam Cao. Đây là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao, câu chuyện cũng gợi một những ý nghĩa nhân văn sâu sắc

Tác phẩm mở đầu thật đặc sắc và đầy ấn tượng với tiếng vừa đi vừa chửi của Chí Phèo, và xung quanh hắn chỉ có mấy con chó đứng chầu chực sủa. Ngoài mấy con chó, không có ai đáp lời hắn. Mở đầu truyện ngắn rất đỗi tài tình và tự nhiên, giống như chúng ta đang chứng kiến khung cảnh ấy vậy. Những âm thanh hay cụ thể là những tiếng chửi của Chí Phèo lại làm cho mọi thứ trở nên sống động,mọi hình ảnh như mở ra trước mắt.Có thể nói hình ảnh Chí say rượu, vừa đi vừa chửi,chửi những gì mà hắn thấy. Có lẽ, dường như mọi người ở cái làng Vũ Đại đã quen với hình ảnh này của nó, cho nên cứ khi nào hắn chửi mọi người cũng chẳng để ý và nghĩ rằng:” chắc hắn trừ mình ra”. Tới đây ắt hẳn mọi người lại ngạc nhiên tại sao hắn lại có hành động như vậy, theo thông thường người ta chửi bới khi uất ức một chuyện gì hay quá áp lực. Quả là như vậy,hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bỏ hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Lí Kiến. Vì ghen tuông với sự trẻ trung lực lưỡng của hắn và vì bà Ba để ý tới hắn, nên Bá Kiến tìm cách bỏ tù hắn, để hắn không thể xuất hiện nữa. Như có một sự vô cớ, Chí Phèo vốn dĩ là một người lương thiện, nghèo đói nên đi ở, nhưng trong xã hội đó,ai có tiền có quyền người đó được làm mọi thứ, và cứ thế từ một con người lương thiện, Chí dần bị đẩy vào con đường tha hóa và lưu manh hóa.

Sau khi được thả tù, bộ dạng Chí thay đỏi hẳn,với cái đầu cạo trọc và hàm răng trắng hếu, trên mặt hiện lên vết sẹo dài. Trông hắn chẳng khác gì một con quỷ, quỷ đội lốt trong hình hài của một con người. Và người hắn tìm đến đầu tiên không ai khác chính là Bá Kiến.Khi biết Chí đứng trước nhà mình vừa say vừa ăn vạ, Lí Cường ra mắng hắn,nhưng ngay sau đó,Chí Phèo đã rạch mặt, những vết máu trên khuôn mặt đầy sẹo dọc ngang nằm trước cổng nhà Bá Kiến dưới nhiều con mặt dò xét của người dân nơi đây.Khác với Lí Cường, Bá Kiến là người khôn khéo,khi thấy hình ảnh đó,quay sang Lí Cường mắng sa sả như tỏ ra nhượng bộ, rồi đỡ Chí Phèo dậy. Hắn biết tên Chí Phèo luôn luôn ưa nhẹ,lại thích được mềm mỏng nên sau đó hắn đã mời Chí vào nhà và cho ăn uống hậu hĩnh. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ờ tù lần nữa vì Chí cho rằng đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm dùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dùng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ,có vườn cho Chí. Sau khi Chí đã hoàn thành công việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Bắt đầu từ lúc này Chí bõng nhiên trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh.

Dường như cuộc sống và con người của Chí Phèo lúc này đây đã thực sự thay đổi khi một lần trong lúc uống say ,hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị Nở được khắc họa là người nghèo rót mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích và Họ đã ăn nằm với nhau và thứ tình cảm đó đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí. Có lẽ hình ảnh bát cháo hành của Thị như liều thuốc tiên đánh thức con người lương thiện luôn giấu kín trong một bộ dạng quỷ dữ của hắn. Cái mùi cháo hành thơm kia như đã bốc lên và cử chỉ quan tâm của Thị đã khiến chí bùi ngùi và chợt nhận ra, anh muốn có một gia đình, với vợ dệt vải chồng đi làm, cứ thế cuộc sống êm đềm trôi qua. Nhưng, dường như niềm vui sướng chưa được bao lâu thì người bà cô đã khuyên Thị không nên ở với hắn,rồi Thị cũng là người duy nhất quay lưng lại với hắn thì cuối cùng cũng bỏ đi. Chiếc thang bắc cầu cho lòng lương thiện của Chí được sang bến bờ được sống như một người bình thường giờ đây hắn cũng không còn nữa. Chính vì thế,mà Chí Phèo đã mang dao tới nhà bá Kiến kết thúc đời bá Kiến và sau đó cũng tự sát, hắn không còn một lựa chọn nào khác.khi nghe được tin này, nhiều người tỏ ra hả hê, còn riêng Thị Nở lại nhìn xuống bụng và nghĩ tới cái lò gạch bỏ hoang không người qua lại.

“Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn đặc sắc mà dường như dung lượng hiên thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, và tình huống khác nhau…tác phẩm như mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Chúng ta có thể dễ nhận thấy và phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích-từng mối quan hệ giữa nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (Bá Kiến, thị Nở). Dù là theo cách nào đi chăng nữa thì tất cả đều làm nổi bật nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện.

Dường như hình ảnh làng Vũ Đại được ví như một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng ,hiện thực cuộc sống được khơi ra từ những tình huống truyện đặc sắc và những chi tiết nhỏ nhất nhưng khiến độc giả không thể bỏ qua. Truyện ngắn “Chí Phèo” mở đầu và kết thúc theo kết cấu vòng, khi mở đầu truyện với hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang thì kết thúc truyện cũng như vậy, đó là chi tiết khi biết chí phèo tự sát, Thị Nở bỗng đã nhìn ngay xuống bụng mình và lại nghĩ ngay tới hình ảnh cái lò gạch, không biết một cuộc sống sẽ bắt đầu như thế nào, kết thúc mở khiến cho độc giả có nhiều liên tưởng thú vị. Ngôn ngữ trong tác phẩm là một điều không thể bỏ qua, lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không luân theo trình tự tuyến tính của.cốt truyện. Nam Cao dường như đã bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi. Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý ngay từ khi mới đặt tay lên trang giấy. Ông đã thật tài tình khi đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Thông qua đây, việc sử dụng này có ý nghĩa rất lớn đến việc đi sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Chính bởi nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động.

Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam Cao 16

“Chí Phèo” của Nam Cao là kiệt tác của văn học hiện thực phản ảnh đậm nét xã hội phong kiến đầy rẫy những tội ác và bất công, đồng thời khắc họa thành công hình ảnh người nông dân bị bần cùng hóa. Đọc những trang viết của Nam Cao, người đọc có thể mường tượng ra được bức tranh xã hội phong kiến nhiều ám ảnh.

Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh nhân vật Chí Phèo – một người nông dân lương thiện nhưng bị xã hội chèn ép, chà đạp, đẩy đến bước đường cùng thành kẻ sát nhân. Nam Cao đã để cho nhân vật Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm bằng “tiếng chửi”. Một loạt tiếng chửi của Chí Phèo như mở màn một cuộc đời nhiều tăm tối của hắn “Hắn chửi trời, hắn chửi đất, hắn chửi cả làng Vũ Đại. Hắn chửi đứa nào đẻ ra hắn…”.

Chí Phèo sinh ra tại một cái lò gạch cũ, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi hắn đi ở cho Bá Kiến. Bá Kiến vì ghen tuông mà đã đẩy Chí Phèo vào tù, nơi đó bắt đầu hình thành những oán hận và cả nỗi đau. Chí Phèo đã dần đánh mất đi bản thân, đánh mất đi sự lương thiện. Sau mấy năm ở tù, CHí Phèo về làng, trở thành một con người khác. Nam Cao đã khắc họa rõ từng đường nét trên khuôn mặt của Chí Phèo, như phản ánh sự đau lòng của chế độ và sự tha hóa của một đời người. Chí Phèo xuất hiện “Cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Hình ảnh người nông dân hiền lành đã biến mất sau những năm tháng ở tù.

Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí Phèo. Hắn trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ, hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình ở làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm giếc và hành động tàn bạo.

Cuộc sống của một con người thay đổi hoàn toàn, hắn lấy nghề rạch mặt, đâm thuê chém mướn làm nghề sống. Chí Phèo bị người làng xa lánh, hắn trở về làm cho nhà Bá Kiến. Lại một lần nữa người đọc thấy được sự bế tắc, bước đường cùng của Chí Phèo. Hắn lại trở về nơi ngày xưa đã đẩy hắn vào cảnh cơ cực như bây giờ. Có lẽ đây chính là sự bế tắc của người dân thấp cổ bé họng trong xã hội phong kiến.

Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo. Đây là hình tượng điển hình cho sự tha hóa trong xã hội phong kiến, là sự bế tắc, cùng đường lạc lối.

Nhưng Nam Cao đã không để cuộc đời Chí Phèo dừng lại ở đó, tác giả đã khơi gợi sự khát thèm yêu thương, khát thèm cuộc sống như một con người nơi hắn. Tình huống truyện Chí Phèo gặp Thị Nở ở vườn chuối sau lần hắn uống rượu say khướt. Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành đã khiến người đọc vẫn cảm thấy còn chút gì đó hi vọng cho một cuộc đời bình dị. Thị Nở xấu xí, thô kệch, nhưng lại là vết sáng trong cuộc đời tăm tối của Chí Phèo. Sự xuất hiện của Chí Phèo thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với Chí Phèo, đánh thức lương tri, đánh thức bản tính lương thiện của hắn. “Bát cháo hành” là một chi tiết nghệ thuật giàu giá trị nhân văn, cho tình người còn lấp lánh giữa xã hội thối nát.

Sau khi gặp gỡ với Thị Nở, hắn thấy cuộc đời ngoài kia thật tốt đẹp, nghe thấy những người đàn bà đi chợ đang nói chuyện. Hơn hết có một chi tiết, một suy nghĩ khiến người đọc chùng xuống “Hắn thấy già yếu, bệnh tật, và cô độc còn đáng sợ hơn cả đau ốm bệnh tật…hắn khát khao làm hòa với mọi người”. Có lẽ đã đến lúc hắn nhận ra cần một cuộc sống như mọi người, không phải rạch mặt ăn vạ nữa. Cuộc sống bình dị ấy nhưng với Chí lại quá xa vời.

Xã hội phong kiến nghiệt ngã, không để cho Chí Phèo được làm người lương thiện khi bà cô của Thị Nở xuất hiện. Bà cô phản đối chuyện Thị Nở và Chí Phèo, còn dùng những từ cay độc để mắng mỏ Chí Phèo. Bà cô là hiện thân của xã hội phong kiến, cự tuyệt khát khao làm người, quyết dồn Chí vào bước đường cùng. Chính điều này đã khiến cho Hắn đau, rơi vào tuyệt vọng và quyết tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến.

Hình ảnh ám ảnh người đọc là hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nằm giữa vũng máu ở sân nhà Bá Kiến. Hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước khi chết Chí phèo còn hét lên “Ai cho tao làm người lương thiện”, xã hội này không cho, con người cũng không cho. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.

Nam Cao với ngòi bút sâu sắc đã xây dựng nhân vật điển hình trong xã hội điển hình như kéo người đọc về với thời kỳ đau thương của đất nước ta hồi đó. Nghệ thuật đặc tả tính cách, hành động đã khiến cho truyện ngắn thêm sinh động, hấp dẫn.

Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam Cao 17

“Chí Phèo” chỉ là một truyện ngắn và là một truyện ngắn sáng tác trong những ngày đầu mới cầm bút của Nam Cao viết về đề tài nông dân, nhưng tác phẩm chính là sự tổng hợp, kết tinh đỉnh cao của ngòi bút nhà văn. Có thể nói rằng, “Chí Phèo” là một bản án cáo trạng đanh thép đối với một xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy người nông dân vào con đường bần cùng hóa trước Cách mạng. Đồng thời, tác phẩm cũng là một câu chuyện chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Trước hết, tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao đã khắc họa tấn bi kịch của người nông dân trước Cách mạng. Trong tác phẩm này, Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế hay thiên tai dịch họa mà nhà văn lại hướng đến một phương diện khác, đó là hình tượng người nông dân cố cùng bị xã hội phá hủy về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính và bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo chính là bị cướp đi hình hài của một con người, bị đẩy ra khỏi xã hội loài người và phải sống kiếp sống đớn đau như thú vật. Chí từ một anh canh điền lương thiện khỏe mạnh, vì hầu hạ bà Ba, khiến cụ Bá ghen ghét đẩy vào lao tù. Từ đây, con đường tha hóa của người nông dân chất phác bắt đầu như trượt dốc không phanh. Ra khỏi tù, người ta không nhận ra thằng Chí Phèo trước đây nữa mà thay vào đó là một hình hài quỷ dữ: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm […]. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”

Với ngòi bút hiện thực, nhà văn Nam Cao đã chỉ ra rằng, để tồn tại thì những người nông dân hiền lành khốn khổ đã dần trở nên lưu manh hóa và bất cần. Họ không chỉ bị tha hóa về nhân hình mà còn bị tha hóa cả về nhân tính.

Ở tù về, Chí như biến thành một con quỷ dữ, chuyên rạch mặt ăn vạ, la làng ầm ĩ. Trở thành tay sai đòi nợ cho Bá Kiến: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Không những thế, những hành động dã man ấy hắn đều làm trong lúc say: “ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, […] đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say”. “Những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang” khiến cho hắn chưa bao giờ tỉnh táo để ý thức về những việc mình đã và đang làm.

Chính vì trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” mà tất cả mọi người đều cố tránh xa hắn, ngay cả khi hắn “kêu làng, không bao giờ người ta vội đến” bởi đã quá quen với cảnh hắn la làng ăn vạ. Không ai thèm chửi nhau với hắn, không ai công nhận hắn, ngay cả Thị Nở – người phụ nữ “xấu ma chê quỷ hờn” cũng không cần hắn. Khi ấy, hắn mới tỉnh ngộ nhận ra bi kịch thê lương của mình: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Hắn kêu lên: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa”. Đó là những câu hỏi đầy cay đắng và không có lời giải đáp. Lương thiện của con người là ở trong chính mỗi người chúng ta. Vậy mà Chí lại phải đi “đòi” lương thiện. Chính cái xã hội vô nhân tính đã cướp mất lương thiện và còn khốn nạn hơn, ngay cả cái quyền được làm một con người tử tế cũng bị xã hội ấy tước đoạt mất.

Qua tấn bi kịch của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã cho người đọc thấy một hiện thực xót xa về cuộc sống và số phận của người nông dân trước Cách mạng. Đó chính là cuộc sống bế tắc và bần cùng, người nông dân từ tha hóa đã dẫn đến lưu manh hóa. Phản ánh bi kịch ấy, nhà văn Nam Cao cũng chỉ rõ nguyên nhân là mẫu thuẫn xã hội sâu sắc đã đẩy người nông dân đến bước đường cùng.

Trong tác phẩm, một bên, nhà văn xây dựng hình tượng giai cấp phong kiến thống trị mẫu thuẫn với một bên là người nông dân lương thiện nghèo đói. Hình tượng điển hình cho giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn chính là nhân vật Bá Kiến. Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là cái lối quát “rất sang”, lối nói ngọt nhạt và nhất là “cái cười Tào Tháo”. Chính sách cai trị của hắn rất khôn ngoan, rảo hoạt: “mềm nắn, rắn buông”, “bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu”, “chỉ bóp đến nửa chừng” và “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại vớt nó lên để nó đền ơn”, dùng thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò, bởi “Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình”… Tất cả đã cho thấy tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến, lợi dụng cái ác để trục lợi cho mình và dùng cái ác để làm nên cái ác lớn hơn.

Trong khi giai cấp thống trị lọc lõi khôn đời thì người nông dân thấp cổ bé họng lại lâm vào đường cùng, trở thành nạn nhân bị bóc lột và bị đẩy vào con đường tha hóa đến tội nghiệp.

Bị đẩy vào tù một cách oan ức, ra tù, Chí muốn tìm đến nhà Bá Kiến để tính sổ. Vậy mà từ chỗ hung hăng đòi “liều chết với bố con” lão Bá Kiến, chỉ sau mấy câu ngọt nhạt và mấy hào lẻ của cụ Bá, Chí Phèo đã trở thành một tên tay sai mới của lão. Xây dựng nên hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã cho người đọc thấy được số phận, tình cảnh của người nông dân trước Cách mạng bị xã hội phong kiến đầy bất công đẩy vào con đường tha hóa, bị tước hết giá trị và tư cách của một con người. Mâu thuẫn giữa người nông dân và giai cấp địa chủ ấy được đẩy lên cao trào khi mà Chí đã nhận ra người đã đẩy mình đến cảnh tha hóa chính là Bá Kiến và người cần giết cũng chính là lão ta.

Tuy Chí Phèo đã thức tỉnh được tình cảnh tha hóa của mình và nhận diện được kẻ thù của mình nhưng lúc đó đã là quá muộn. Đây cũng chính là một bi kịch đau đớn của người nông dân và của một con người. “Chí Phèo” là một bản cáo trạng đanh thép đối với xã hội phong kiến bất công đã đẩy con người ta và con đường tha hóa cùng cực nhất. Tuy vậy, nhưng tác phẩm cũng là một minh chứng về tình yêu thương và sự thực tỉnh lương tri của con người.

Tình cờ gặp Thị Nở trong một đêm say đã khiến Chí trở thành một con người khác. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Chí cảm thấy bao nhiêu điều mới mẻ: thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng huyên náo của những người đàn bà đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Hắn thấy lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn” và lần đầu tiên cảm thấy sợ tuổi già, đói rết, ốm đau và cô độc. Được Thị Nở chăm sóc, thương yêu, hắn bỗng nhớ lại mơ ước về một mái ấm gia đình “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ ở nhà dệt vải” thời trai trẻ. Có thể thấy rằng, dù Thị Nở là người đàn bà dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn nhưng lại là người không hề chê bai Chí, là người săn sóc, quan tâm đến anh ta một cách dịu dàng và ân cần nhất. Chính tình yêu ấy làm cho “Xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu”, làm cho con quỷ dữ bao năm đã biến mất, thay vào đó là một con người khao khát lương thiện, khao khát làm người chân chính.

“Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” như một lời cầu hôn của Chí với Thị Nở. Bày tỏ mong muốn ấy một cách rất chân thực, giản dị mà chất phác đúng kiểu một anh nông dân, Chí mong muốn được làm lại từ đầu, được sống một cuộc đời khác, cuộc đời bình dị giống như bao người mà Thị Nở chính là cầu nối, là người vun trồng cùng hắn xây dựng. Phải nói rằng, tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết đắt giá để qua đó thể hiện ý nghĩa của sự hồi sinh và khẳng định sức sống của thiên lương, lương thiện trong mỗi con người. Phát hiện và miêu tả tài tình sự thức tỉnh lương tri của Chí Phèo chính là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao.

Thế nhưng, điều đáng nói là con người đã biết hoàn lương nhưng xã hội ấy lại không thể nào chấp nhận lại họ được nữa. Chí Phèo vừa mới mơ ước về một gia đình thì đã bị bà cô Thị Nở tạt ngay cho một gáo nước lạnh. Chí hiểu rằng, mình có cố gắng làm sao đi nữa thì cũng không thể xóa hết những tội lỗi mà mình gây ra, không thể nào mà trở về hòa nhập với cuộc sống được nữa. Ý thức được điều này, cũng là ý thức được kẻ gây ra bi kịch cho mình, Chí đã tìm đến nhà Bá Kiến kết liễu lão ta và cả chính mình. Điều này là tất yếu bởi lẽ, cánh cửa hoàn lương của Chí đã đóng sầm trước mắt. Để giải quyết sự bế tắc đó, Chí chỉ còn cách là kết thúc cuộc đời mình và kẻ gây nên tội ác. Cái chết ấy là cái chết của một bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa trở về làm người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người.

Với tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao không chỉ phơi bày bộ mặt xã hội đen tối, bất công mà nhà văn còn đồng cảm với những bi kịch khổ đau của người nông dân thấp cổ bé họng trước Cách mạng. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của con người và khao khát thay đổi thực tại để vươn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam Cao 18

Chí Phèo là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao (1917 - 1951), một ngòi bút bậc thầy cách nay đã hơn sáu mươi năm.

Mở đầu tác phẩm Chí Phèo xuất hiện trong tư thế khật khưỡng của kẻ say rượu vừa đi vừa chửi. Hắn chửi vung tất cả. Chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những đứa không chửi nhau với hắn. Đây chính là lí do để ngay phần tiếp theo, tác giả kể về lai lịch của Chí. Hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bỏ hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Bá Kiến. Có thể vì ghen tuông, nghi cho bà ba vốn tính lẳng lơ có tư tình với anh canh điền khoẻ mạnh, Bá Kiến cho người bắt Chí giải lên huyện và đẩy vào lao tù.

Ngay sau khi ở tù về, Chí đã uống rượu say khướt rồi cầm vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến (lúc này Bá Kiến đã là Bá bộ) chửi Lí Cường con trai Bá Kiến xông ra hành hung Chí, được thể Chí đã dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ. Đang thế, Bá Kiến xuất hiện, lên giọng mắng Lí Cường rồi dùng lời ngon ngọt để an ủi Chí, lại mời Chí vào nhà tiếp đãi cơm rượu hậu hĩnh, cho Chí một đồng bạc đem về Chí vô cùng hả hê. Từ đó, khi nào hết tiền hắn, lại đến ăn vòi. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ở tù lần nữa với cách lập luận đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm rùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dụng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ, có vườn cho Chí. Sau khi Chí hoàn thành việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Lúc này Chí mới 27, 28 tuổi. Cũng bắt đầu từ đây, Chí trờ thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh. Chí Phèo đã thực sự trở thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại", ai ai cũng đều sợ hắn và tránh mặt hắn.

Một lần trong buổi tối sáng trăng, sau khi được uống rượu với Tự Lãng, hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị là người nghèo rớt mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích. Họ đã ăn nằm với nhau và đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí. Nhờ thứ tình cảm này mà bao nhiêu mơ ước hiền lành thời trai trẻ bỗng thức đậy, hắn muốn có một tổ ấm gia đình bình dị. Rồi Chí bị cảm. Thị Nở đã ân cần chăm sóc, nấu cháo hành cho hắn ăn giải cảm... Tưởng được bền lâu, nào ngờ chỉ được vẻn vẹn năm ngày, đến ngày thứ sáu, bà cô thị Nở đi buôn chuyến trở về. Bà đã xỉ vả mắng nhiếc thị vì đã biết được chuyện giữa Thị với Chí Phèo. Do đấy, Thị Nở đến mắng Chí Phèo và bỏ mặc Chí trong tuyệt vọng. Thế rồi Chí khóc, Chí lại tìm đến rượu, khi say hắn dắt dao vào lưng, nói là đi đâm chết “nó", tức đâm chết hai cô cháu nhà Thị Nở. Nhưng bước chân khật khưỡng của Chí cứ thế đến nhà Bá Kiến. Hắn xông vào Bá Kiến, vung dao đòi làm người lương thiện. Trong cơn tỉnh say cuối cùng này. Chí đã vung dao đâm chết Bá Kiến và cũng tự kết liễu cuộc đời mình.

Nghe tin hai cái chết, trong lúc bao người, bao kẻ hả hê, Thị Nở nghĩ đến Chí “sao có lúc nó hiền như đất và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn”. Thị lo mình có chửa. Khép lại câu chuyện là hình ảnh thị nhìn nhanh xuống bụng và “đột nhiên thị thấy cái lò gạch thoáng hiện, xa nhà cửa và vắng bóng người qua lại”.

Đây là một truyện ngắn mà dung lượng hiên thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, có nhiều lớp thời gian..., mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Có thể phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích từng mối quan hệ giữa nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (Bá Kiến, Thị Nở). Đâu đi theo con đường nào cũng cần làm nổi bật rõ nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện. Sức mạnh của truyện ngắn trước hết là chi tiết. Cách phân tích dưới đây cố gắng đi theo tình huống này.

Làng Vũ Đại, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng. Về kết cấu và ngôn ngữ truyện. Trước nhất phải kể đến kết cấu. Nếu xét về kết cấu hình tượng, truyện Chí Phèo cũng có một cốt truyện có thể kể được nhưng điều đáng nói ở đây là kết cấu văn hán truyện. Nam Cao đã rất có ý thức sáng tạo và huy động kết cấu tham gia vào việc xây dựng nhân vật cũng như đắp bồi thêm bề dày, bề sâu các lớp nghĩa cho tác phẩm. Thứ nhất, Nam Cao sử dụng kết cấu vòng tròn. Đó là sự trở lại chi tiết “cái lò gạch bỏ hoang” ở phần kết truyện hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang nơi Chí bị bỏ rơi lúc mới đẻ ở phần đầu truyện được nhà văn sử dụng để cho Thị Nở đột nhiên thấy thoáng hiện ra khi nhìn xuống bụng, sợ nhỡ may mình có chửa. Kết truyện nay có sức gợi rất lớn. Điều này gì nếu không phải là khả năng tái sinh của Chí Phèo? Chừng nào còn tồn tại cái xã hội kiểu làng Vũ Đại thì chừng đó sẽ còn nảy nòi ra loại người như Chí. Môi trường này cần được thay đổi. Nếu như đặt vấn đề hãy cứu lấy nhân cách con người thì rõ ràng phải bắt đầu từ việc cứu lấy môi trường đã huỷ hoại nhân cách. Thứ hai, các thành phần lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không luân theo trình tự tuyến tính của cốt truyện. Nam Cao bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi; Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý và ham mê theo dõi ngay lập tức.

Về yếu tố ngôn ngữ truyện có nhiều điều có thể bán được nhưng ở đây chỉ xin đơn cử một cách thức sử dụng ngôn ngữ hết sức sáng tạo và độc đáo kiểu Nam Cao. Ông đã đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Điều này có tác dụng rất lớn cho phép nhà văn soi quét, lách sâu vào thế giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động. Chỉ cần đơn cử đoạn mở đầu truyện là đã thấy thủ pháp nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đan xen, hoà trộn như thế’ nào. Đây là một kĩ thuật của ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại mà không phải nhà văn cùng thời nào với Nam Cao cũng đã biết và sử dụng. Hiểu như vậy mới thấy sự cách tân và đóng góp vào kĩ thuật tiểu thuyết của Nam Cao thực sự là không nhỏ và có nhiều ý nghĩa cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.

Tóm lại, chỉ với tác phẩm Chí Phèo đã dù thấy Nam Cao trong buổi mạt kỳ của chủ nghĩa hiện thực phê phán nước ta đã có công đưa nó lên một tầm cao mới về cả nội dung và nghệ thuật trước khi nó im tiếng.

Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam Cao 19

Chỉ là một truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông dân, nhưng Chí Phèo là sự tổng hợp, sự kết tinh của ngòi bút Nam Cat về đề tài này. Nếu như Nam Cao có thể được coi là "nhà văn của nông dân" , cùng với Ngô Tất Tố, thì trước hết vì ông có Chí Phèo.

Khác với truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực được phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.

Những năm 1940 - 1945, nông thôn vẫn là một đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo chiều hướng khác nhau. Trước hết là đi vào phong tục tập quán dân quê, sự lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác, cô cậu và những đứa cháu bên nội, bên ngoại.

Trên bối cảnh chung của văn học hiện thực thời kì 1940 - 1945, Chí Phèo là một hiện tượng đột xuất. Giông như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông tố.... thời Mặt trận dân chủ, Chí Phèo cũng là "bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt". Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn, đa dạng nhiều màu sắc của bức tranh về đời sông xã hội nông thôn.

Song, dựng lên bức tranh xã hội ở nông thôn, Nam Cao trước hết tập trung nổi bật mối xung đột giai cấp đối kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị và người nông dân bị áp bức bóc lột. Tức là, cũng như tác giả Tắt đèn, Bước cùng.... Nam Cao đã phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp.

Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình khá hoàn chỉnh về giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn: Bá Kiến.

Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là khái quát "rất sang" ("bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh mọi người"), lối nói ngọt nhạt, và nhất là "cái cười Tào Tháo" ("cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy") - tất cả đều cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào "khôn róc đời" này. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc của "cụ tiên chỉ": đó là thói ghen tuông thảm hại của lão cường hào háo sắc mà sợ vợ - lão cay đắng nhận ra mình "già yếu quá " mà "bà Tư" thì "cứ trẻ, cứ phây phây", "nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ... khác gì nhai miếng bò lựt sựt khi rụng gần hết răng". Đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính vắng chồng... Và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà "cụ Bá" được hoàn chỉnh, còn có "Bà Tư" quỷ cái "thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại "cứ bóp lên trên, trên nữa''... Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng, - tuy không kém thâm thúy, chứ không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào.

Ông tập ưung ngòi bút vào việc soi sáng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội tâm rất mực sinh động của "cụ tiên chỉ làng Vũ Đại" về cái "nghề tổng lí"cho thấy Nam Cao chẳng những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu rất sâu các mối quan hệ xã hội ở nông thôn. Bá Kiến đã lặng lẽ nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra từ bốn đời tổng lí những phương châm, thủ đoạn thống trị khôn ngoan: "mềm nắn, rắn buông", "bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu", "thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân", "chỉ bóp đến nửa chừng", "hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn"... Còn đây là chính sách dùng người của lão: "không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò", "thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù. Những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình (...). có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn.... "... Tất cả đều nhằm sao cho vừa bóp nặn được nhiều nhất, vừa giữ chắc cái ghế thống trị. Tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến còn thể hiện trong việc hắn nhẹ nhàng "khích" Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đẩy những kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ chém nhau, để kẻ nào sống "cũng có lợi cụ cả"! Bá Kiến thật là một con hổ biết cười!.

Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao không đi vào nan sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan tham lại những, thiên tai địch họa.... ở Chí Phèo và nhiều truyện nữa, nhà văn đi vào một phương khác: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải ở chỗ tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một không: không nhà, không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở..., mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động, độc đáo của Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau cái chân dung gã say rượu chửi lảm nhảm được vẽ bằng những nét bút tưởng đâu là kí họa gây cười ấy, nếu đọc kĩ còn có thể thấy một cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Không, tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Hắn từ "chửi trời" đến "chửi đời" rồi "chửi ngay tất cả làng Vũ Đại..." .Và hắn bỗng tức tối khi thấy "không ai lên tiếng cả"... Trong cơn say hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thìa "nông nỗi" khôn khổ của thân phận. Đó là "nông nỗi" không có người nào chịu chửi lại hắn! Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng với... hi vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu yêu cầu giao tiếp phát đi liên tục đó chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Và vẫn còn lại một mình Chí Phèo trong sa mạc cô đơn: Hắn cứ "chửi rồi lại nghe", "chỉ có ba con chó dữ một thằng say rượu!...

Cảnh mở đầu đột ngột của thiên truyện đó chẳng những đã giới thiệu hấp dẫn tính cách độc đáo của nhân vật mà còn hé thấy tình trạng bi đát của một số phận. Chí Phèo trước hết là một hiện tượng có tính quy luật, tính phổ biến, sản phẩm của tình trạng áp bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Đây là hiện tượng những người nông dân lao động bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Bá Kiến đẩy anh canh điền hiền lành vào tù; nhà tù thực dân - chỗ dựa tin cậy của bọn phong kiến trong việc đàn áp nông dân - đã tiếp tay lão cường hào để giết chết phần người trong con người Chí, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người nông dân lương thiện thành một con quỷ dữ. Với ngòi bút hiện thực tỉnh táo ông vạch ra rằng, những người nông khốn khổ phải giành lấy sự tồn tại sinh vật bằng việc bán cả nhân phẩm ấy, đã trở thành lực lượng phá hoại mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị thâm độc lợi dụng, Vì thế mà Chí Phèo từ chỗ hung hăng đến nhà Bá Kiến, tuyên bố "liều chết với bố con" lão, chỉ cần mấy câu nói ngọt xớt, chuỗi cười Tào Tháo và mấy hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mới của lão. Hiện tượng mỉa mai, đau xót rất phổ biến và có tính quy luật mà ngòi bút phân tích xã hội sâu sắc Nam Cao đã vạch ra.

Giá trị điển hình, sức mạnh tố eáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết là ở chỗ làm nổi bật lên cái hiện tượng có tính quy luật vẫn hằng diễn ra ở xã hội nông thôn đầy bất công và tội ác đương thời đó. Vấn đề của Chí Phèo là vấn đề nông dân - với ý nghĩa đó, vẫn có thể nói Chí Phèo là một hình tượng điển hình về nông dân.

Truyện ban đầu được tác giả đặt tên là Cái lò gạch cũ; hình ảnh cái lò gạch cũ được xuất hiện ở phần mở đầu và cả khi kết thúc truyện. Rõ ràng đó là ý nghệ thuật của Nam Cao. Cái lò gạch cũ như là một biểu tượng về sự hiện tất yếu của hiện tượng Chí Phèo, gắn liền với tuyến chủ đề chính của tác phẩm.

Câu chuyện mối tình Chí Phèo - Thị Nở quả là hấp dẫn đặc biệt. Song mặc dù giọng văn bông lơn, có lúc như chế giễu, mặc dù đối với một số người, đó là sự hấp dẫn của loại truyện tình bờ hụi của hạng nữa người ngợm, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, "đôi lứa xứng đôi", thì đây vẫn thật sự là truyện có một nội dung hết sức nghiêm túc, chứa đựng một tư tưởng nhân đạo thật mới mẻ, độc đáo đem lại cho tác phẩm một tầm vóc bất ngờ.

Ban đầu, Chí Phèo đến với Thị Nở một cách rất... Chí Phèo. Trong một đêm "rười rượi những trăng", có những tầu chuối nằm ngửa ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rười rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên đành như là "hứng tình", Chí Phèo rất say và cảm thấy "bứt rứt", "ngứa ngáy" da thịt, đã xông tới người đàn bà khốn khổ "dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn". Khi Thị Nở hốt hoảng kêu làng, thì "cái thằng trời đánh không chết ấy lại kêu to hơn, "vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống"! Trâng no, lì lợm đến thế là cùng! Nhưng điều kì diệu đã xảy ra là, nếu như ban đầu, Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng giống đực ở gã đàn ông Chí Phèo, thì sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của đàn bà khốn khổ ấy đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong Chí Phèo. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ cùa ngòi bút Nam Cao.

Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn và lòng "bâng khuâng", "mơ hồ buồn". Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ nể chèo đuổi cá...Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay bỗng trở nên vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo, trở thành những tiếng gọi tha thiết của cuộc sống vẳng đến bên tai lần đầu tiên tỉnh táo của anh. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Dưới ánh sáng của tia chớp ấy, Chí Phèo bỗng nhìn rõ tất cả cuộc đời mình: những ngày xưa "rất xa xôi " đã từng "ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng! Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Cái hiện tại đáng buồn: "già mà vẫn cô độc", cái tương lai còn đáng buồn hơn: "đói rét và ốm đau và cô độc cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau". Nếu như bao nhiêu năm nay, Chí Phèo "bao giờ cũng say", "say tận", "có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời", thì hôm nay lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh táo, tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Trước đi Chí Phèo sống và hành động hoàn toàn vô thức, hắn không thể biết và không cần biết hắn là gì và đã làm những gì: "hắn không biết rằng hắn là con quỷ .. của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng (...). Hắn biết đâu vì làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say... Giờ đây, lần đầu tiên, Chí Phèo nhận ra sự hiện hữu của mình, đối mặt với chính mình, và đồng thời, cũng lần đầu tiên, nhận ra sự bế tắc tuyệt vọng của thân phận mình. Khi thấy Thị Ni bưng cháo hành đến, hắn "rất ngạc nhiên" và hết sức xúc động uBởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho". Hắn ăn bát cháo từ tay Thị Nở và bỗng nhận thấy rằng cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị cháo hành này chính là hương vị của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị, mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo mắt "như ươn ướt", "ôi sau mà hắn hiền, ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt của mình". Trở lại là anh canh điền trong trắng năm xưa cảm thây bị xúc phạm khi bị cái bà ba "quỷ cái" gọi lên bóp chân, trở lại anh nông dân lương thiện từng mơ ước cuộc sống gia đình hạnh phúc hết sức bình dị khiêm nhường trong lao động... "Đó là cái bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi... "

Như vây là, lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trong Chí Phèo cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động, bao lâu nay bị cho lấp, vùi dập nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân, nói rộng ra là cả cái xã hội tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái "bản tính tốt" ấy của anh "Trần trụi giữa bầy sói", anh không thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại anh phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều và mạnh, những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, " hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm" - xét cho cùng, Chí Phèo không chịu trách nhiệm về những hành động của mình: linh hồn của anh đã bị cướp đi rồi.

Nhưng hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh anh và linh hồn anh đã trở về. Anh thấy "thèm lương thiện", "muốn làm hòa với mọi người biết bao!", Anh như rưng rưng và bẽn lẽn trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được nhận vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Tình của Thị Nở chẳng những đã thức tĩnh anh mà còn hé mở cho anh con đường trở lại làm người, trở lại cuộc đời, và anh hồi hộp hy vọng.

Đã hơn một lần, Nam Cao viết về những mối tình của những kẻ bị cả xã hội miệt thị, lăng nhục độc ác: Lang Rận - mụ Lợi, Đức - Nhi, Chí Phèo - Thị Nở... Tuy vẫn giữ giọng văn khách quan, hài hước, nhà văn đã dứt khoát đứng ra làm luật sư cãi trắng án cho những con người bất hạnh, bị mọi người hắt hủi đó, nhất là khi họ bị ném vào tình thế nhục nhã, trở thành cái đích cho những mũi tên chế giễu độc ác của người đời đầy thành kiến mu muội. Ông đã đanh thép bênh quyền được yêu của họ và khẳng định tính chính đáng của những mối tình như thế. Có gì là không chính đáng nếu như những con người trong khi bị cả xã hội xua đuổi ấy đã đến với nhau, tìm thấy ở nhau sự giao cảm, chia sẻ nỗi lòng? Vì nếu tình yêu chân chính là tình yêu làm nhân đạo hóa con người, nâng cao sống, thì đã có mấy lần tình yêu có tác dụng nhân đạo hóa kì diệu, cảm động như mối tình Thị Nở - Chí Phèo? Chẳng phải tình yêu thương tuy đơn giản, có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí ấy đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ dữ Chí Phèo, đưa hắn từ cõi địa ngục trở về cõi người đó sao? Chẳng phải một sự hóa giải thần bí nào mà chỉ là một tình yêu rất mực trần tục, nhưng là tình yêu đích thực con người, thật lành mạnh, khỏe khoắn. Mô típ nghệ thuật này được xử lí bằng một tư tưởng nhân đạo lớn lao và một bút lực phi thường, chỉ có Nam Cao.

Tư tưởng nhân đạo và hút lực phi thường đó còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy hấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt hấp dẫn; không phải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính kịch, biến hóa khôn lường, mà còn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm.

Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như là một bi kịch số phận, song nếu hiểu cho chặt chẽ, chính xác thì chỉ từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khao khát trở lại làm người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí Phèo mới thật sự rơi vào tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người.

Khi hiểu ra rằng xã hội không công nhận mình, Chí Phèo vật vã đau đớn. Hắn lại uống, nhưng điều lạ là, hôm nay "hắn càng uống càng tỉnh ra". Đúng hơn là tuy say, trong tâm thức Chí Phèo lúc này vẫn có một điềm tỉnh: nỗi đau khôn cùng về thân phận, và "hắn ôm mặt khóc rưng rức". Rồi như để chạy trốn bản thân, chạy trốn nổi đau, hắn "lại uống... lại uống... đến say mềm người". Rồi hắn đi với một con dao và vừa đi vừa chửi... như mọi lần. Nhưng lại hoàn toàn khác mọi lần: hôm nay, Chí Phèo quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, càng thấm thía hơn bao giờ tội ác của kẻ thù, đã đến thẳng trước Bá Kiến "trợn mắt, chỉ tay vào mặt" lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh không thể chấp nhận trở lại kiếp sông thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn. Thế là, trước đây, để bám lại sự sống, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về. Nhiều người nghi ngờ tâm lòng của Nam Cao đối với nông dân, vì thấy người nông dân của nhà văn phần nhiều xấu xa dữ tợn. Vậy mà chính ở những người khốn khổ có bộ mặt và tính cách không mấy "đáng yêu" đó, nhiều khi ý thức nhân phẩm còn mạnh hơn cả cái chết. Lão Hạc bề ngoài dường như lẩm cẩm, gàn dở nhưng lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong cảnh cùng đường (Lão Hạc). Lang Rận cũng tìm đến cái chết vì không chịu nổi điều nhục nhã đang chờ ông ta hôm sau (Lang Rận) và ở đây là Chí Phèo?

Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn, khao khát lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện đã không thực hiện được. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ vừa mang sắc thái triết học và âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đời sững sờ và day dứt không thôi..."Ai cho tao lương thiện?". Làm thế nào để con người được sống cuộc sống con người? Đó là "một câu hỏi lớn không lời đáp chẳng những Bá Kiến không thể hiểu mà xã hội khi ấy cũng chưa thể trả lời Câu hỏi ấy được đặt ra một cách bức thiết, day dứt trong hầu như toàn bộ sáng tác Nam Cao trước cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn, độc đáo, khiến cho nhiều sáng tác của Nam Cao - trước hết là Chí Phèo - thuộc vào những trang hay nhất của nền văn xuôi Việt Nam.

Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam Cao 20

Nam Cao cây bút cuối của văn học giai đoạn 1930 – 1945, nhưng nhờ có ông và các phẩm xuất sắc của mình, Nam Cao đã làm bừng sáng cả một giai đoạn văn học, ông đã góp phần không nhỏ vào mảng tranh hiện thực xã hội Việt Nam trước cách mạng. Hai đề tài chủ yếu của ông gồm người nông dân và người trí thức, trong đó đề tài người nông dân là nổi bật hơn cả. Với đề này truyện Chí Phèo đã trở thành áng văn bất hủ của Nam Cao nói riêng và của văn học Việt Nam nói chung.

    Tác phẩm ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ do chính nhà văn đặt, nhưng sau đó đổi thành Đôi lứa xứng đôi, do nhà xuất bản đổi, nhằm tăng tính giật gân, gây chú ý với bạn đọc. Cuối cùng Nam Cao đổi tên tác phẩm thành Chí Phèo, nhằm làm nổi bật nhân vật trung tâm của tác phẩm, đề cao giá trị hiện thực và nhân đạo qua nhân vật này.

Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi ở lò gạch cũ, Chí được anh thả ống lươn nhìn thấy nhặt về, mang cho một bà góa mù nuôi, sau đó bà góa mù bán cho bác phó cối không con, bác phó cối mất đi thì sống trong sự đùm bọc của dân làng. Khi Chí lớn lên làm canh điền cho Bá Kiến, là một con người lương thiện, chăm chỉ làm lụng, nhưng vì bị bà ba gọi vào bóp chân, Bá Kiến thấy được nổi cơn ghen nên đã đẩy Chí Phèo vào tù. Từ một người nông dân hiền lành, chất phác, mang trong mình những mơ ước giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải,… Chí Phèo đã bị Bá Kiến và nhà tù thực dân làm cho tha hóa, biến chất.

    Hắn ở tù về đã trở thành một người khác hẳn: Cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt cơng cơng, hai mắt gườm gườm…, mặc bộ quần áo tây vàng với quần nái đen, phanh áo để lộ hình xăm. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, uống rượu say khướt để chửi trời, chửi đời, hắn lăn ra ăn vạ mọi người,… Chí Phèo lương thiên đã trở thành thằng lưu manh, liều lĩnh, lấy sự lưu manh để kiếm sống qua ngày. Bị Bá Kiến lợi dụng, Chí Phèo trở thành tay sai cho cái ác, hắn triền miên trong cơn say, làm bất cứ điều gì mà người tay sai bảo, gây nên biết bao tội ác và thực sự trở thành con quỷ của làng Vũ Đại.

Trong những cơn say triền miên, chưa từng có lúc nào Chí sống trong sự tỉnh táo. Nhưng hôm ấy là một ngày rất khác, Chí uống say ở nhả Tự Lãng, trên đường về nhà thấy ngứa ngáy nên Chí ra sông tắm, ở đây Chí gặp Thị Nở, họ ăn nằm với nhau. Nửa đêm Chí bị cảm nôn mửa, nhờ có Thị Nở nếu không có lẽ Chí đã chết. Sau những cơn say triền miên, đây là lần đầu tiên Chí tỉnh, hắn nhận thức được cuộc sống xung quanh: mặt trời đã lên cao với ánh nắng vàng rực rỡ, những âm thanh của cuộc sống nghe vui vẻ quá đó là tiếng chim, tiếng những người đàn bà đi chợ bán vải về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh mà bấy lâu nay Chí không còn nghe, không còn để ý nữa. Từ nhận thức về cuộc sống, Chí chuyển về nhận thức chính mình: hắn nhớ về quá khứ tươi đẹp, với mơ ước giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải,… mong ước thật giản dị và đẹp đẽ. Nhưng hiện tại chỉ là con số không tròn trĩnh, Chí nhận ra mình không vợ, không con, không tài sản, không được công nhận và bản thân đã đi sang dốc bên kia cuộc đời. Tương lai đáng sợ mở ra trước mắt, đói rét, bệnh tật và cô độc. Nhưng chính trong lúc hắn đang miên man suy nghĩ, thị Nở xuất hiện với bát cháo hành trên tay, hắn đón nhận bằng tất cả sự xúc đông và biết ơn. Hắn ăn cháo hành và chưa bao giờ thấy nó ngon đến vậy, hắn khóc, nước mắt của một kẻ tưởng chừng đã bị cướp mất nhân tính vĩnh viễn. Ngạc nhiên và cảm động (“mắt ươn ướt”) vì đây là lần đầu tiên được đàn bà cho, đây là lần đầu tiên Chí Phèo được ăn cháo, lần đầu được săn sóc bởi bàn tay đàn bà. Năm ngày sống với thị Nở đã giúp Chí hồi sinh, khao khát được làm lành với mọi người, được làm người lương thiện và thị Nở sẽ là người mở đường cho hắn.

    Niềm hạnh phúc không được bao lâu, thị Nở trình bày với bà cô về ý định nên duyên với Chí và bị gạt phát đi. Thị Nở - một người dở hơi, đùng đùng đến cự tuyệt Chí. Ban đầu hắn cười vì nghĩ Thị trêu đùa mình, rồi hắn nghĩ ngợi và hình như đã hiểu sự việc, hắn ngẩn người ra không nói được gì. Thị Nở bỏ về, Chí có đuổi theo cũng chị là vô cũng, Chí đau đớn, phẫn uất đến tận cùng. Hắn uống nhưng uống lại càng tỉnh, hơi cháo hành thoang thoảng đâu đây, hắn ôm mặt khóc rưng rức. Trong nỗi đau tột cùng hắn xách dao tìm đến nhà thị Nở để đâm chết cả nhà Thị, nhưng cuối cùng hắn đến nhà Bá Kiến như một thói quen. Nhưng đồng thời Chí Phèo mơ hồ nhận ra kẻ thù đích thực, nhận ra nguyễn nhân gốc rễ đẩy mình vào bi kịch không phải cô cháu Thị Nở mà là Bá Kiến. Chí giết Bá Kiến và tự hủy hoại chính mình. Đây là lựa chọn duy nhất của Chí, bởi hắn không thể làm người lương thiện vì làng Vũ Đại không chấp nhận hắn. Hắn cũng không thể làm con quỷ vì bản thân đã thức tỉnh. Chết là lựa chọn duy nhất của Chí Phèo. Cái chết của Chí là lời tố cáo đánh thép, sắc bén vào xã hội đương thời đã đẩy con người vào bước đường cùng.


Ngoài nhân vật Chí Phèo, Thị Nở cũng là một nhân vật đặc sắc trong tác phẩm. Thị Nợ là người quá lứa, lỡ thì, xấu ma chê quỷ hờn, lại thêm tính dở hơi ngẩn ngơ những người đần trong cổ tích, có dòng giống mả hủi. Bản thân thị Nở hội tụ đầy đủ những yếu tố không có cơ hội tìm kiếm cơ hội hạnh phúc cho bản thân. Số phận của thị cũng hết sức bi đát, thảm hại. Nhưng bản thân thị lại là người biết yêu thương, chăm sóc những người xung quanh. Trong đêm gặp Chí, Chí bị cảm lạnh, Thị là người đưa Chí về và chăm sóc chu đáo, đắp manh chiếu cho Chí rồi mới về. Dường như về rồi Thị Nở vẫn chưa yên tâm, thị động lòng thương thức dậy nấu cháo cho Chí. Thị cũng như bao người phụ nữ khác khao khát yêu thương và được yêu thương. Thị Nở sẵn sàng vượt qua định kiến, đến ở với Chí Phèo năm ngày, đó là quãng thời gian đẹp đẽ nhất, hạnh phúc nhất trong đời Thị. Nhưng cuối cùng Thị vẫn không thể vượt qua những định kiến, nghe lời bà cô, Thị Nở đã cự tuyệt tình cảm của Chí, khước từ mở đường cho Chí về với con người lương thiện. Xây dựng nhân vật Thị Nở góp phần làm nổi bật nhan vật Chí Phèo, thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Không chỉ vậy, nhờ có Thị Nở Chí Phèo mới được hồi sinh, quá đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả, niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. Nhưng cũng chính Thị Nở là người đẩy Chí Phèo vào bị kịch bị cự tuyệt làm người. Tác phẩm đã truyền tải giá trị hiện thực: vạch trần bộ mặt xấu xa của xã hội thực dân nửa phong kiến.

    Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc: Chí Phèo điển hình cho người nông dân Việt Nam bị tha hóa trước cách mạng ; nghệ thuật phân tích diễn biên tâm lí nhân vật hợp lí, giàu ý nghĩa. Cốt truyện giàu kịch tính, mang đến những bất ngờ, hấp dẫn cho người đọc. Ngôn ngữ sống động, điêu luyện, gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày nhưng vẫn giàu giá trị nghệ thuật.

Với tác phẩm Chí Phèo, tác giả đã phơi bày, vạch trần bộ mặt của xã hội thực dân nửa phong kiến phi nhân tính, đã đầy con người vào bước đường cùng, tha hóa về nhân hình và nhân tính. Nhưng bên cạnh đó còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc, niềm tin vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người. Qua tác phẩm cũng thể hiện lòng cảm thương với số phận người nông dân bất hạnh.

Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam Cao 21

Viết về đề tài người nông dân đã có rất nhiều nhà văn thành công trong đó có tên tuổi của Nam Cao với kiệt tác “Chí Phèo” tập chung khắc họa tình cảnh và số phận của nhân vật chính bị đẩy vào mức đường cùng, bị chà đạp tàn nhẫn mất nhân hình và nhân tính. Tác phẩm đã tố cáo hiện thực xã hội cũ và thể hiện tư tưởng nhân đạo, quan điểm nghệ thuật của nhà văn.

“Chí Phèo” được viết vào năm 1941 với cái tên là “Cái lò gạch cũ” dựa vào hình ảnh cái lò gạch bị bỏ hoang xuất hiện đầu và cuối câu chuyện cho thấy sự quẩn quanh bế tắc trong cuộc sống và số phận của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Nhan đề này thiên về sự bi quan, ảm đạm của nhà văn về đời sống và tiền đồ của nông dân nghèo. Sau đó nhà xuất bản đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi” hướng vào mối tình Chí Phèo-Thị Nở gây trí tò mò với người đọc. Đến năm 1946 Nam Cao lấy tên nhân vật đặt lại là “Chí Phèo” đây là sự lựa chọn thông minh và đúng đắn, mang dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Hoàn cảnh, số phận của Chí Phèo không phải là vấn đề của một tình huống cụ thể mà đó là hiện tượng phổ biến của bao người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ.

Câu chuyện “Chí Phèo” kể về cuộc đời và quá trình bị lưu manh tha hóa của nhân vật chính. Chí là một đứa trẻ bị bỏ hoang tại cái lò gạch cũ ở giữa đồng. Hắn lớn lên như cây như cỏ đi ở hết nhà này tới nhà khác. Bản chất vốn hiền lành lương thiện chỉ vì cơn ghen của Bá Kiến mà bị đẩy vào tù. Bảy, tám dưới chế độ cai trị tàn bạo của nhà tù phong kiến nửa thuộc địa làm cho tâm hồn Chí bị nhuốm đen, bị tha hóa mất hết tính người, ngoại hình bị biến dạng từ lời nói đến hành động, suy nghĩ không còn là anh canh điền chất phác. Ngày trở về làng hắn đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, bị quỷ dữ cướp đi linh hồn, bị bọn cường hào địa chủ tiêu biểu là cụ Bá hoàn thành nốt công đoạn cuối cùng biến hắn thành “con quỷ dữ”. Kể từ đó hắn bị mọi người ghẻ lạnh, xa lánh và gạch tên ra khỏi sự tồn tại của cộng đồng người làng Vũ Đại.

Mở đầu tác phẩm Nam Cao để cho nhân vật của mình xuất hiện một cách độc đáo ngất ngưởng trong cơn say cùng với tiếng chửi. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những đứa không chửi nhau với hắn, chửi cha mẹ đứa nào đẻ ra hắn. “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Nhưng điều lạ ở chỗ hắn chửi nhưng không ai đáp lại, chỉ có tiếng chó sủa và tiếng chửi của một thằng say, mọi người đều nghĩ “Chắc hắn trừ mình ra”. Cách vào truyện gây tò mò, cho người đọc băn khoăn với những câu hỏi: Tại sao Chí lại chửi nhiều đối tượng đến thế? Tại sao lại có kẻ tha hóa đến vậy? và vì sao nó chửi mà không ai thèm chửi nhau với hắn? Nam Cao đau lòng nhận xét: “Giá hắn biết hát thì có lẽ không cần chửi”, nếu biết hát thì Chí không phải khổ, mọi người cũng không cần nghe tiếng chửi của Chí. Cách thu hẹp đối tượng chửi cho thấy hắn tỉnh chứ không phải là say, chửi là chửi tỉnh chứ không phải say vì rượu mà chửi. Hắn thấm thía nỗi đau bị ghẻ lạnh mà càng uống càng chửi thì càng chẳng có ai quan tâm để mắt đến hắn. Tuổi thơ Chí đã sống trong ghèo khó, bất hạnh không có tình thương để rồi giờ đây số phận hắn vẫn không thay đổi một giọt hạnh phúc hi hữu cũng không.

Chí luôn ở trong trạng thái say tỉnh bất phân vừa về hôm trước hôm sau đã thấy ngồi ngoài chợ uống rượu với thịt chó từ trưa đến xế chiều. Anh Chí xuất hiện với ngoại hình “đầu trọc lốc như thằng sắng cá! Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngưc phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế”. Từng chi tiết được Nam Cao miêu tả thật xác đáng, Chí Phèo hiện lên dưới ngòi bút ấy đúng chất của thằng đầu bò hổ báo. Cuộc đời của hắn với tâm hồn và nhân cách có lẽ bị biến dạng méo mó từ đây cho đến khi gặp được thị Nở.

Nam Cao lột tả cuộc đời Chí là “Một cơn say dài, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở trên đời”. Lần say thứ nhất hắn xách chai đến nhà cụ Bá để rạch mặt ăn vạ, nhưng với một con người xảo quyệt, mưu mô mà thấu lòng đối phương như cụ anh Chí nhanh chóng bị hạ gục bởi mấy lời dụ dỗ ngon ngọt, chẳng biết có họ như thế nào với Lí Cường nhưng khi nghe Bá Kiến nói thế cũng thấy dịu dịu, nguôi ngoai cơn giận. Lần thứ hai hắn đến không gây gổ, ăn vạ mà dáng điệu hiền lành như cục đất, gãi đầu gãi tai xin cụ cho đi ở tù, hắn thấy đi tù sướng hơn nhưng thực chất là đòi miếng cơm, tấc đất. Mục đích và yêu cầu ấy thật chính đáng tuy nhiên lại bị tên địa chủ cường hào gian ác lợi dụng biến Chí thành tay sai đắc lực cho hắn. Kể từ đó Chí chìm đắm trong cơn say mà khi say hắn có thể làm bất cứ thứ gì mà người khác sai bảo. Chí là con quỷ thực sự “Hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện” tất cả dân làng đều sợ hắn, người ta đều tránh mặt khi hắn qua. Chị Dậu nghèo đói không có tiền nộp sưu cho chồng phải bán con bán chó nhưng không bán nhân phẩm. Còn Chí bán cả linh hồn cho quỷ để rồi bị cự tuyệt quyền làm người đến xót xa.

Như vậy cuộc đời của Chí Phèo đến đây có thể thấy rõ được hiện thực xã hội ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng, Nam Cao đã khẳng định một sự thật đau đớn mà người nông dân lương thiện bị chà đạp về tinh thần và bị bóc lột về thể xác đến cùng cực khiến cho họ trở thành con người bị lưu manh, tha hóa.

Tuy nhiên Nam Cao không để cho nhân vật của mình mãi chìm đắm trong cơn say, với tấm lòng nhân đạo ấy ông đã cho Chí Phèo có năm ngày hạnh phúc, được sống là con người đúng nghĩa. Sau khi gặp thị Nở đây thực sự là lúc hắn từ một con quỷ dữ hồi sinh sống lại với kiếp người. Thị Nở chẳng có gì ngoài ngoại hình xấu xí ma chê quỷ hờn, cái mặt ả là sự mỉa mai của hóa công lại còn là dòng giống con nhà mả hủi, nghèo và ngẩn ngơ nhưng con người ấy lại có một tấm lòng ấm áp, có sự cảm thông và quan tâm chân thành với Chí Phèo. Hai con người bị cô lập trong chính xã hội loài người tìm về được với nhau, đồng điệu trong tâm hồn.

Sáng hôm sau tỉnh dậy đây là lần đầu tiên từ khi trở về hắn hết say và tỉnh táo. Chí cảm nhận được tiếng gọi tha thiết của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng của người đi chợ nói chuyện với nhau. Cảnh tượng ấy khiến Chí nhớ về ngày xưa khi còn là anh canh điền hiền lành cũng đã từng có một thời mơ ước “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. chúng lại bỏ con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó là một ước muốn nhỏ nhoi, bình dị như bao người nông dân nghèo khó. Hắn cũng nhìn thấy được tương lai của bản thân là bệnh tật và cô đơn. Hắn chưa bao giờ tỉnh để nghĩ về điều đó giờ đây đã thực sự nhận thức được hoàn cảnh của bản thân mình.

Bát cháo hành của thị khiến cho Chí cảm động vô cùng hắn hết ngạc nhiên đến khóc vì trước giờ không có ai cho không hắn cái gì, hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi tay một người đàn bà như thế. Cứ vậy chúng thì thầm, chúng bẽn lẽn tỏ tình với nhau “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”, “Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” và chúng có năm ngày hạnh phúc ngắn ngủi cùng nhau. Trong con mắt của kẻ say tình thấy thị Nở xấu vậy mà cũng có duyên vô cùng “xấu mà e lệ cũng đáng yêu”, còn thị thấy Chí không hề đáng sợ thậm chí là còn thấy hắn hiền và đáng thương. Khi ấy Chí khao khát được hoàn lương, khao khát được sống bình yên với thị, muốn làm hòa với mọi người và thị Nở là cầu nối để hắn hòa nhập với xã hội, thị là người mở đường cho hắn. Bao nhiêu hi vọng, niềm tin, khao khát hắn đặt vào ở thị. Nhưng tiếc thay cho đôi tình nhân thị lại là người dở hơi đem câu chuyện của mình về xin ý kiến bà cô và tất nhiên bà ta không đồng ý mà dùng những lời cay nghiệt, xỉa xói thị. Đến nhà Chí ả vứt lại tất cả những lời nói ấy, sự tức giận ấy vào mặt hắn. Hắn đã chính thức bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến xã hội, đến cả thị người duy nhất hiểu và cảm thông, chấp nhận hắn cũng gạt tay hắn ra, ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về. Chí rơi vào bế tắc, tuyệt vọng hắn lại tìm đến rượu nhưng càng uống càng tỉnh, càng tỉnh lại càng đau khi ý thức rõ được hoàn cảnh của bản thân. Chí Phèo thực sự tỉnh để nhận diện rõ kẻ thù của mình là Bá Kiến để rồi dẫn đến hành động hắn cầm dao đâm chết cụ Bá và tự sát khi tiếng kêu đòi làm người lương thiện vẫn vang vọng trong đau đớn, xót xa: “Tao muốn làm người lương thiện!”, “Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?” Chí chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, hắn không thể chấp nhận kiếp sống thú hoang nên cái chết là lựa chọn đúng đắn và hợp lí nhất. Hành động đó không phải là giết người trong vô thức, cũng không phải là vụ giết người cướp của của gã Chí Phèo lưu manh thực hiện mà đó là hành động của sự thức tỉnh về quyền sống, quyền làm người của nông dân khi đã bị dồn nén quá mức uất ức vùng lên.

Chí Phèo chết nhưng chưa hết chuyện. Khi nghe tin hắn chết dân làng kéo nhau đến xem có biết bao lời bàn tán, trong đó cũng có thị tới, thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và “thấy thoáng hiện ra cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại”. Phải chăng vẫn cứ quẩn quanh trong sự tồn tại ấy, nếu chế độ xã hội không thay đổi thì hết Chí Phèo bố sẽ có Chí Phèo con và còn biết bao nhiêu thằng như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức rồi cũng sẽ xuất hiện “tre già măng mọc” thể hiện cho quy luật xã hội “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”.

Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo mà nhà văn khắc họa trong tác phẩm toát lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Một mặt vừa phê phán, lên án tố cáo xã hội phong kiến nửa thuộc địa tàn ác, dã man đã nhẫn tâm đẩy người nông dân vào đường cùng, bị dồn nén xuống tận đáy của xã hội. Một mặt cảm thương, xót xa cho số phận người nông dân nghèo. Đồng thời Nam Cao cũng khẳng định bản chất lương thiện và khao khát hạnh phúc là bản tính tự nhiên tốt đẹp của con người không có thế lực tàn bạo nào có thể hủy diệt nó, ngay cả khi con người ta bị tha hóa, bị đẩy vào con đường lưu manh thì bản tính ấy chỉ tạm thời bị lắng xuống chứ không bị mất đi, nó như ngọn lửa cháy âm ỉ dưới lớp tro tàn nguội lạnh chỉ cần gặp được ngọn gió tình người ấm áp sẽ lại bùng cháy một cách mãnh liệt.

Nam Cao cũng viết về đề tài người nông dân như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan và bao nhà văn hiện thực khác nhưng ông không đi sâu vào nạn sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức… mà chủ yếu đi vào khai thác cuộc sống của người nông dân nghèo bị bạo lực, bị xã hội phi nhân tính tàn phá về tâm hồn và nhân cách. Truyện ngắn “Chí Phèo” là một kiệt tác, tác phẩm có giá trị đóng góp cho bộ mặt của người nông dân vào trong kho tàng văn học dân tộc. Dù trang văn đã khép lại bấy lâu nhưng người đọc vẫn nghe văng vẳng đâu đó tiếng kêu đòi làm người lương thiện của anh Chí và ám ảnh bởi chi tiết hắn giẫy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi, mắt trợn ngược, mồm ngáp ngáp muốn nói nhưng không ra tiếng.

Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam Cao 22

"Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình." (Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện tượng lạ của văn học và đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao mà qua đó, bao lớp hiện thực được lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới.

"Chí Phèo" thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao. Vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh đất về người nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác. Tôi cho rằng "Chí Phèo" là tác phẩm Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông dân bởi tính hiện thực và tư tưởng nhà văn gửi trong đó.

Đi theo cách nhà văn muốn dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời với trạng thái say và chửi - một trạng thái đầy ấn tượng và ám ảnh: "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi." Hắn - cái cách mà Nam Cao gọi Chí Phèo - là một kẻ đang đằm mình trong men rượu và đối thoại với đời bằng tiếng chửi. Tiếng chửi có lớp có lang, có gần có xa, từ chửi trời, hắn chửi đời, rồi chửi sang cả dân làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, và sau cùng là chửi "đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn". Tiếng chửi như đã trở thành quy luật sống của một kẻ say, Nam Cao đã cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được chất lưu manh trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo. Trong tiếng chửi dường như có sự cô độc. Dân làng Vũ Đại không ai ra điều, đáp lại hắn chỉ là tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên ra khỏi xã hội chăng? Vì đâu mà hắn bị cả xã hội ghê sợ và lảng tránh? Những câu hỏi gợi mở Nam Cao đặt ra từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật...

Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí "chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì". Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: "Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng dậy được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.

Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến méo mó dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa "đặc như thằng săng đá", với "cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp lặn trong trạng thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say. Đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình, nó còn đang dần gặm nhấm từ bên trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy là chỉ sau những lời mời dụ ngọt nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. "Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người dân lương thiện". Chí Phèo đã thực hiện đúng mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến: "Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò". Chất Người trong hắn dường như đã cạn kiệt, linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn.

Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy mà ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một xã hội - một xã hội vô nhân với những những con người cạn sạch tính người, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là "chó đểu". Ở đó, có những tên cường hào ác bá như Bá Kiến nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân lương thiện bất cứ lúc nào, có nhà tù thực dân bắt vào một người lương thiện và thả ra một con quỷ dữ, có những người như dân làng Vũ Đại khước từ sự dung nạp và chấp nhận một người như Chí Phèo.

Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi "cố tìm mà hiểu" chất Người trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở - một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm ăn nằm như vợ chồng với thị, Chí tỉnh dậy và bao nhiêu sự hồi sinh đã được đánh thức. Hồi sinh ý thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng nói con người. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí nghe thấy "tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá". Cũng lần đầu, hắn ý thức được về tuổi tác của mình, về hiện tại "đã già mà vẫn còn cô độc", về quá khứ với ước mơ lành thiện khi xưa, về tương lai với "đói rét, ốm đau và cô độc". Con người ấy lần đầu có những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri và lương tâm. Hắn biết lo, biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm, biết ăn năn hối cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ có dòng dõi mả hủi đã cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản chất lương thiện vẫn luôn sẵn có trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả khao khát hoàn lương - trở về với xã hội loài người. Hắn tin rằng "Thị Nở sẽ mở đường cho hắn"; "Thị có thể làm hòa với hắn sao mọi người lại không thể". Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về làm người lương thiện lại mãnh liệt đến thế. Chính đôi mắt tinh tế và tấm lòng cảm thương của Nam Cao đã nhìn thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện, bị xã hội tàn ác vùi dập và đày đọa.

Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam Cao đã không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những định kiến cổ hủ lạc hậu, con người không thể sống yên ổn theo đúng nghĩa. Một lần nữa, Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: "Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ". Cái loa của định kiến làng xã đã đưa bước chân Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa say nửa tỉnh, cố níu mà không thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở thành một kẻ thật sự tội nghiệp và đáng thương. Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về xã hội loài người đóng sầm ngay trước mặt. Chí Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là một kết cục bi thảm đau đớn, nhưng là lẽ tất yếu khi sống trong xã hội đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung nạp vào xã hội chung, Chí Phèo cũng không thể trở lại làm quỷ dữ, bởi lương tri và lương tâm đã trở về. Chí có chết mới là cách giải quyết tốt nhất, dù nó thật đau đớn. Đó là cái chết bảo toàn nhân phẩm, cái chết cảnh tỉnh cho cả một xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi "Ai cho tao lương thiện?" vẫn không ngừng vang vọng và ám ảnh.

Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể không kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật kết cấu linh hoạt theo dòng tâm lý và sử dụng những đoạn độc thại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận trong xã hội, để ngà nay Chí Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao.

Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam Cao 23

Nam Cao là nhà văn tiêu biểu với những sáng tác về người nông dân, tác phẩm Chí phèo được coi là kiệt tác, khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của ông. Nhà văn đã dựng lên bức tranh về cuộc sống của những người nông dân dưới sự áp bức của địa chủ cường hào, đã đẩy họ con đường tha hóa và xuống tận cùng của xã hội.

    Truyện Chí Phèo đã tái hiện lại hình ảnh nông thôn Việt Nam, của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Xã hội này được đặc trưng, một bên bởi những bộ mặt như Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo, Bát Tùng và những bè đảng xung quanh chúng, sống phè phỡn, gian ác, bạo ngược, vừa “du lại với nhau để bóc lột con em, nhưng ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau”; một bên là đông đảo những người dân quê thấp cổ bé miệng, nơm nớp lo sợ, nhẫn nhục, quanh năm đầu tắt mặt tối vẫn không đủ ăn. Tầng lớp những người như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức họp thành một nhóm riêng. Họ là những dân thường, những người lao động nghèo, nhưng đã lưu manh hóa, bị mua chuộc và trở thành tay sai của bọn cường hào, lí dịch và gây nên không biết bao nhiêu tai vạ cho những người lương thiện.

    Dưới ngòi bút của Nam Cao, bức tranh xã hội hiện ra đầy kịch tính, chất chứa những xung đột bùng nổ.
Thông qua nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã trực tiếp nêu lên vấn đề con người bị tha hóa, bị vong thân, mất nhân tính, nhân cách vì bị áp bức bóc lột, vì đói khổ, cùng cực. Tác giả đã mổ xẻ vấn đề cuộc sống và số phận mỗi con người, ý thức về quyền sống, quyền làm người, ý thức về nhân cách, nhân phẩm ngay ở những con người bị cộng đồng khinh bỉ, hắt hủi, gạt ra bên lề xã hội, ngay ở một “thằng cùng hơn cả dân cùng”, tưởng như đã bị hủy hoại hoàn toàn cả nhân hình và nhân tính.

    Bên cạnh đó, truyện Chí Phèo còn giúp người đọc có cơ sở để chia sẻ với những dằn vặt, đau khổ của con người khi không được làm người, chỉ mong ước được sống bình thường, “được làm người lương thiện” như mọi người khác mà không được. Sự kết hợp hai mặt xã hội và nhân bản trong chủ đề mà truyện ngắn Chí Phèo đặt ra càng làm cho tác phẩm này có giá trị văn học sâu hơn, có sức ngân vang lớn hơn.
Các nhân vật trong truyện của Nam cao đều có những nét tính cách đặc sắc, từ Chí Phèo, Thị Nở, cho đến Bá Kiến, Lí Cường, Năm Thọ, Binh Chức, Đội Tảo, Tự Lãng, bà cô Thị Nở v.v… Tất nhiên, trong các nhân vật này, gây ấn tượng mạnh mẽ nhất ở người đọc là Chí Phèo, Bá Kiến, Thị Nở. Mỗi nhân vật đúng là một cá tính, là “con người này”, không lẫn vào đâu được, với ngoại hình và tính cách riêng, lối sống riêng, ngôn ngữ riêng, số phận riêng, đồng thời lại tiêu biểu cho một loại người nào đó về mặt xã hội, sinh hoạt, tâm lí.

    Bá Kiến là điển hình của bọn lí dịch cường hào ở nông thôn. Chúng đều có những nét chung: hống hách, gian ác, dâm ô, đầy thủ đoạn mưu mô để giành giật và củng cố chức quyền cho cá nhân và con cái, đục khoét, ức hiếp dân lành, hãm hại những kẻ không ăn cánh và chống đối. Bá Kiến càng tỏ ra ranh ma quỷ quyệt trong nghề làm tổng lí, đặc biệt khi phải đối phó với những tên vai vế tranh chấp chức quyền với hắn hoặc những kẻ cố cùng liều thân. Tùy người, tùy việc, y biết lúc nào thì quát tháo, dọa nạt, lúc nào thì nhẹ nhàng, dụ dỗ, mua chuộc. Chính nhờ vậy lão mới thực hiện được mọi ý đồ đen tối của mình, khuất phục được bọn đầu bò đầu bướu, hạ được các phe cánh đối nghịch trong làng, quyền thế ngày càng thăng tiến và vững vàng. Con người khôn ngoan lõi đời ấy đã khống chế lừa bịp được Chí Phèo lâu dài, nhưng cuối cùng đã bị Chí Phèo giết chết, vì từ trong thâm tâm, trong tiềm thức, Chí đã nhận ra lão chính là kẻ thù của. mình, kẻ đã tước đoạt quyền làm.người của mình.

    Đối với Bá Kiến thì Chí Phèo cũng chỉ là một trong số những tên dân cùng liều lĩnh như Năm Thọ, Binh Chức, cho nên cách xử sự của lão đối với Chí Phèo nói chung cũng giống “sách lược” đối với hạng đầu bò đầu bướu: dọa nạt, trấn áp công khai hoặc ngấm ngầm; hoặc nếu cần thì vô hiệu hóa, mua chuộc, lợi dụng làm tay chân. Và Chí Phèo cũng như Năm Thọ, Binh Chức đều biết rõ bản chất, chỗ mạnh và chỗ yếu của Bá Kiến và hạng người như lão. Nhưng Chí Phèo phục vụ cho Bá Kiến lâu dài hơn, đắc lực hơn, ngay từ lúc là một anh canh điền chất phác, khỏe mạnh, và cả sau khi đi tù về trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo cũng bị lão hành hạ, đày đọa, làm nhục nhiều hơn. Và do vậy, Chí Phèo hiểu rõ lão hơn, nặng oán thù hơn đối với lão. Lúc tỉnh táo, Chí Phèo đã ý thức rõ về cảnh tủi nhục phải hầu hạ mụ vợ ba của Bá Kiến, về chuyện bị Bá Kiến hãm hại đẩy vào tù. Sau khi ở tù ra, hắn đã biến thành một con người khác. Từ một thanh niên hiền lành, rụt rè, hắn đã biến thành một tên lưu manh, liều lĩnh, hung dữ, rượu chè say khướt, chửi bới suốt ngày. Nhưng lúc tỉnh cũng như lúc say, trong ý thức và trong tiềm thức, hắn vẫn không bao giờ quên Bá Kiên. Bá Kiến đúng là nỗi ám ảnh của hắn.

    Trong suốt thiên truyện, tác giả chỉ miêu tả ba lần Chí Phèo gặp Bá Kiến, sau khi hắn ở tù ra. Lần thứ nhất, sau khi uống rượu say, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục của lão ra mà chửi. Hắn định đến để gây sự. Gây sự, chửi bới, chống đối một người như Bá Kiến vừa đế  thỏa sự căm giận, vừa có dịp để  lên mặt với những người xung quanh, vừa có thể vòi tiền uống rượu. Với một người như Chí Phèo, một người mà sự liều lĩnh hung dữ là một cách để tự giới thiệu mình, để tồn tại và cũng là để che đậy sự sợ hãi cố hữu, thì không có gì có thể nói trước được về dự định và hành động. Tất cả tùy thuộc vào tình huống cụ thể. Gặp Lí Cường, bị Lí Cường quát mắng, tát tai, hắn rạch mặt, la làng, lăn đùng ra ăn vạ. Nhưng khi Bá Kiến “dịu dàng” chào hỏi, mời mọc, tỏ vẻ ân cần săn sóc, cho tiền, thì hắn lại nguôi ngoai, thích chí, hả hê.

    Lần thứ hai, sau khi uống rượu say, hắn lại ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến nói là để đòi nợ. Gặp Bá Kiến, hắn xin đi ở tù, vì “ở tù còn có cơm ăn, còn ở làng ở nước thì không làm gì nên ăn, không mảnh đất cắm dùi”. Và, tất nhiên, kèm theo yêu cầu kì quặc ấy, là những lời dọa dẫm úp mở mà Bá Kiến rất hiểu rõ. Nhưng lần này lão Bá Kiến khôn ranh lại đẩy Chí Phèo đi đòi nợ Đội Tảo cho lão. Lão nghĩ bất kì kết cục nào cũng đều có lợi cho lão. Ngẫu nhiên, Chí Phèo lại đòi được nợ và được Bá Kiến cho mấy sào vườn ở bãi sông cắm thuê của một người làng trước đó. Và cũng từ đó, Chí Phèo bao giờ cũng say, và khi hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm, gây ra bao nỗi khiếp sợ và tai vạ cho dân làng

Lần thứ ba, Chí Phèo gặp Bá Kiến sau khi bị Thị Nở từ chối không nhận làm vợ hắn. Cùng quẫn, phẫn chí, Chí Phèo uống rượu say, cầm dao đi định “đâm chết cả nhà nó”. Nhưng Chí Phèo lại quên rẽ vào nhà Thị Nở mà lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, đòi được làm người lương thiện, và Chí đã đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Kết thúc này bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên, thật ra lại rất tất yếu, bộc lộ rõ tính cách của Chí Phèo, ý đồ tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đây là một kết thúc khiến cho người đọc phải suy nghĩ rất nhiều về thực trạng và mâu thuẫn xã hội, về cuộc sống và bi kịch của đời người.

    Câu chuyện đã tạo nên một ngã rẽ cho cuộc đời Chí từ khi gặp thị nở. Sau những ngày hạnh phúc ngắn ngủi với thị, Chí càng cảm thấy thêm cay đắng, khổ sở vì thân phận và điều này càng đẩy nhanh Chí đến một hành động tuyệt vọng. Chí không chỉ say, hung dữ, liều lĩnh, gây tội ác, mà còn biết sợ, tính toán, nhận diện được kẻ thù. Chí suy nghĩ, đau khổ về kiếp sống không bình thường, không ra người, không lương thiện của mình. Trong những ngày được hạnh phúc với Thị Nở, Chí cũng biết vui, biết mơ ước, biết buồn, biết ăn năn. Bị Thị Nở từ chối, đối với Chí, là một đòn đau không chịu đựng nổi. Từ kinh nghiệm sống, từ tiềm thức vô thức, Chí cảm nhận tình trạng bé tắc vô vọng của mình có nguyên nhân sâu xa hơn tội ác của Bá Kiến. Giết Bá Kiến cũng không có được sự giải thoát. Và hắn đã tự sát.

    Dưới ngòi bút của Nam Cao Chí Phèo không chỉ là hình ảnh những tên cố cùng liều thân hoặc là điển hình, của những người nông dân lưu manh hóa vì sự áp bức bóc lột của bọn thực dân phong kiến, mà còn thể hiện bi kịch của con người bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người, quyền được hưởng hạnh phúc. Cái điều rất nghiêm trang, rất đau lòng, rất tội nghiệp mà Nam Cao đã ghi lại và muốn nhắn gửi cho người đời thông qua một câu chuyện tưởng như chẳng có gì, một số nhân vật dị dạng và một giọng văn pha nhiều tính chất hài hước, nội dung thông điệp đó nhiều thế hệ độc giả đã hiểu và càng đánh giá cao tác giả.



Xây dựng lên những nhân vật tiêu biểu, nhà văn đã dùng những ngôn ngữ của đời sống, ngôn ngữ được quần chúng nhân dân sử dụng hằng ngày, rất phong phú, sinh động, giàu hình ảnh. Có thể nói hơn bất kì một nhà văn nào khác cùng thời, ngôn ngữ Nam Cao cho đến bây giờ vẫn tỏ ra không cũ với thời gian, cả về mặt từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp.

    Phải có sự cảm thông sâu sắc với thân phận những người nông dân Nam Cao mới có mới có một tác phẩm giá trị như vậy. Ông đã khắc họa lên bức tranh xã hội với những bọn địa chủ cường hào gian ác, những con người nông dân tội nghiệp, bị chèn ép, bóc lột, không để cho họ một con đường sống.

Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam Cao 24


Tao muốn làm người lương thiện”
Không được ! Ai cho tao lương thiện ?…”

Mỗi lần nhớ đến nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, tôi lại nghe văng vẳng bên tai mấy câu nói trên đây và hình dung rõ như in một gương mặt đàn ông vừa đáng thương vừa đáng sợ, vằn vện những vết sẹo dữ dằn. Từ đôi mắt nửa tỉnh táo, nửa đờ đẫn của anh ta ánh lên một cái nhìn thật thiết tha, khắc khoải. Cái nhìn pha lẫn cả hăm doạ với cầu khẩn, pha lẫn hận thù, khổ đau, sám hối và khát vọng,… Cái nhìn dường như không phải hướng đến một điểm, một người, mà hướng đến mọi điểm, mọi người.

Những lúc ấy, tôi hiểu rằng, đối với tôi, điều thú vị và tâm đắc mà tác phẩm Chí Phèo mang lại, thật giản dị và cũng thật sâu xa : đó là việc nhà văn đã nói thay cho những người khốn khổ như Chí Phèo một tiếng nói thật cảm động, thấm thía – tiếng nói khát khao được sống như một con người.

 Phải, tiếng nổi khát khao được sống như một con người. Chỉ thế thôi, nhưng với Chí Phèo là cả một kì vọng.

Bởi hai tiếng “Con người” đối với người đàn ông thua thiệt, bất hạnh này là một cái gì thật tốt đẹp, mà cao xa. Đó là một viễn ảnh. Viễn ảnh ấy vừa như là một hồi ức, vừa là niềm ước mong ; vừa như một cái gì hiển nhiên, đã có, sắp có, lại vừa như một cái gì chưa có và còn xa, còn lâu Chí Phèo mới chạm tới được.

Sức sống tươi tắn của hình tượng chí Phèo chính là ở những chỗ như thế này. Sức sống ấy toát ra từ cả hình tượng lẫn ngôn từ, từ cả câu chuyện lẫn cách kết cấu.

Trong tác phẩm, để làm nổi bật tính chất viễn ảnh về con người và khơi sâu niềm khát khao tha thiết ấy ở Chí Phèo, ngoài phần kể tả về những ngày Chí Phèo tỉnh táo tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, thỉnh thoảng Nam Cao lại lồng vào bức tranh hiện tại bi đát của Chí Phèo một vài mẩu hồi ức vui, trong sáng :

– …”Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho ông lí Kiến, bây giờ là cụ bá Kiến ăn tiên chỉ làng…”

– …”Hắn lại nao nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.”

– …”Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh.”

– v.v.

Những hình ảnh bình dị như thế từng là có thật, rất thật trong đời Chí Phèo. Nhưng tất cả đã thuộc về hồi ức, tức là thuộc một thế giới khác, một cõi xa xăm. Rõ ràng là Chí Phèo rất tha thiết sống như một con người, ít nhất là con người đã có “năm hai mươi tuổi…”, hoặc “hồi ấy…”.

Giữa những trang kể về khoảng thời gian năm sáu ngày ngắn ngủi Chí Phèo tỉnh táo tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, và những câu, đoạn gợi lại hồi ức vui, trong sáng hiếm hoi như vậy, Nam Cao đã kể khá dài và khá kĩ về những cơn say, những tiếng chửi, những hành động đập phá đang đẩy Chí Phèo trượt dài xuống hố thẳm tha hoá. Càng lúc Nam Cao càng làm cho người đọc hiểu thấm thía cái giá để được sống như một con người. Gập ghềnh và cheo leo thay là con đường trở về với bản tính lương thiện của Chí Phèo!

Niềm khao khát làm người lương thiện ấy càng cháy bỏng trong đoạn nhà văn kể lại việc Chí Phèo đến nhà bá Kiến và dõng dạc tuyên bố yêu sách tối hậu của mình : Tao muốn làm người lương thiện”. Nhưng : ” – Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không ! Chỉ có một cách… biết không !… Chỉ còn một cách là… cái này ! Biết không !…

Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chi kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đã đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra.”

Đó cũng là trang cuối cùng đẫm lệ và đẫm máu trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo : Mấy mẩu đối khẩu căng thẳng đầy kịch tính vang lên, được điểm nhịp bằng những nhát dao bi phẫn, căm hờn. Và điều phải xảy đến đã xảy đến. Một kết cuộc thảm khốc : hai cái xác cùng đổ gục trên một vũng máu tươi,…

Khi trang cuối cuộc đời Chí Phèo sắp khép lại, người đọc đã hiểu rằng thế là hết, ước muốn “làm người” của anh vẫn chỉ là một ước muốn. Chuyện “làm người” thậm chí đã thành ảo ảnh chứ không còn là viễn ảnh nữa !

Thật đáng thương, Chí Phèo mắt vẫn “trợn ngược”, “mồm ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng”. Cơ duyên tìm cuộc sống lương thiện của anh đã đứt gãy giữa chừng.

Nhưng thế nào mới được xem là người ? Và vì lẽ gì mà một ước muốn làm người thật bình dị, đối với Chí Phèo lại thành ra quá xa vời, thậm chí, thành không tưởng như vậy ?

Thật ra, thế nào là quỷ, thế nào là người ? Thế nào là dữ, là bất lương, thế nào là hiền, là lương thiện,… ? Câu trả lời không dễ. Truyện ngắn của Nam Cao cũng không hề đưa ra một định nghĩa, một lời giải thích trực tiếp về những điều này. Nhưng đọc tác phẩm, mỗi người chúng ta đều có thể tự tìm được câu trả lời tương đối thoả đáng cho mình.

Câu trả lời có thể rút ra từ chính quan niệm và cách miêu tả của Nam Cao trong tác phẩm, nhất là từ các đoạn tả, kể về phần người của Chí Phèo trước khi đi ở tù và sau khi đã tỉnh rượu (trong sự đối chiếu với phần quỷ của Chí Phèo sau khi đi ở tù về và trước khi tỉnh rượu). Câu trả lời phần nào cũng có thể tìm kiếm từ những đoạn văn triết lí trữ tình của Nam Cao về bản tính và giấc mơ lương thiện của Chí Phèo, chẳng hạn :

“Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt” ; “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”.

Theo cách đó, tác phẩm như ngầm đưa ra một lời giải thích quan niệm, một cách định nghĩa về con người và cuộc sống con người. Là người thì phải có khả năng sống bằng bàn tay và sức lao động của mình (như Chí Phèo sống bằng nghề làm canh điền cho lí Kiến). Là người thì phải biết sống tự trọng (như Chí Phèo biết tự trọng trước bà Ba). Là người thì phải có bạn, có người thân, có khả năng và được quyền sống thân thiện với mọi người (như Chí Phèo có thị Nở và sống chan hoà cùng thị Nở),…

Phải rồi, đã là người thì ít ra phải như thế. Khóc, cười, yêu ghét, buồn nhớ, giận hòm, bất bình, căm uất,… cũng phải như một con người.

Nhưng đây mới là điều tối quan trọng : ý thức về quyền sống như một con người, sống cho ra một con người. Là người thì có quyền đòi hỏi cả xã hội phải công nhận mình như một con người.

Hiểu như thế, người ta thấy càng đáng thương cảm cho Chí Phèo. Người đàn ông bị cả làng Vũ Đại xa lánh, từ chối này nào có ước muốn điều gì cao xa ? Chỉ là những gì tối thiểu và chính đáng nhất. Thế mà “không được !”. Lỗi ấy tại ai và do đâu ?

Vì Chí Phèo ? Vì bá Kiến ? Vì định kiến xã hội làng Vũ Đại ?

Nam Cao đã không hề dễ dãi, đơn giản một chiều khi giúp người đọc tìm cách trả lời những câu hỏi nhức nhối này.

Bi kịch bị từ chối quyền làm người của Chí Phèo, tất nhiên suy cho cùng là xuất phát từ hiện thực xã hội đen tối của làng Vũ Đại, từ mưu ma chước quỷ của những kẻ cai trị sâu mọt, gian ngoan, thâm hiểm như lí Kiến. Nhưng cũng vì cả Chí Phèo nữa. Đưa Chí Phèo vào con đường tự huỷ hoại là bá Kiến, nhưng thực hiện các hành động, hành vi tự huý hoại ấy không ai khác, là Chí Phèo. Việc Chí Phèo không được trở lại làm người có thể giải thích bằng nhiều lí do. Có nhiều lí do khách quan lẫn lí do chủ quan. Nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là hai lí do này : Thứ nhất, định kiến xã hội quá nghiệt ngã là thứ rào cản không thể vượt qua ; thứ hai, Chí Phèo đã trượt dốc quá xa, đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn và trong Chí Phèo xuất hiện một thứ rào cản khác : rào cản tâm lí.

Lí do thứ nhất thuộc về phía khách quan xã hội, đã được bà cô thị Nở nói toạc ra : “Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mạt ra ăn vạ.” Ở cái làng Vũ Đại này, từ lâu, Chí Phèo đã thành “con vật lạ”. Từ lâu, Chí Phèo đã sống ngoài rìa xã hội (một mình ở bên kia bờ đê). Chí Phèo chửi, người ta bỏ ngoài tai (thường chỉ có ba con chó dữ đáp lại thằng say rượu). Trong mắt người làng, cũng như bà cô thị Nở, Chí Phèo chỉ có thể sống kiếp thú vật (“chỉ có một nghề rạch mặt ra ăn vạ”), không thể sống chung với người, hoặc sống mà cũng như đã chết. Cái định kiến này sâu sắc, nghiệt ngã đến mức, giả dụ thị Nờ có trái lời bà cô, vẫn cứ chấp nhận chung sống với Chí Phèo, thì xã hội làng Vũ Đại vẫn không thể tha thứ và đón nhận anh ta.

Lí do thứ hai, thuộc về phía chủ quan Chí Phèo, liên quan đến sự tự ý thức của Chí Phèo. Đúng là Chí Phèo đã trượt dốc quá xa. Chí đã phạm quá nhiều tội lỗi (cho dù là phạm trong lúc say). Đến mức hầu như không thể tính sổ được với dân làng rằng anh “đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”. Món nợ ấy biết trả đến bao giờ cho xong để thanh thản trở lại làm người ? Khi Nam Cao lần thứ hai miêu tả ngoại hình Chí Phèo : “Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio ; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo. Vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi ?”, ta không nên hiểu đó là miêu tả chỉ để nhận dạng hay để thấy Chí Phèo đã mất hẳn nhân hình, mà quan trọng hơn, nhà văn như muốn nói với độc giả rằng, đấy, tội lỗi Chí Phèo còn ghi chằng chịt trên gương mặt kia, không bao giờ có thể xoá sạch dược. Nó sẽ trở thành một thứ mặc cảm tội lỗi, ám ảnh không nguôi phần đời tỉnh táo của Chí Phèo. Chính Chí Phèo trong cơn tuyệt vọng đã ý thức rõ hơn ai hết về điều này : “Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không !”. Đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn : có bao nhiêu vết sẹo trên mặt thì cũng có bấy nhiêu vết thương không lành được trong tâm hồn. Bấy giờ ở Chí Phèo đã xuất hiện một thứ rào cản khác lại còn khó vượt qua hơn rào cản định kiến xã hội. Đó là rào cản tâm lí. Đến lúc đó, một cách tỉnh táo nhất, chính Chí Phèo cự tuyệt quyền làm người của mình bằng một án mạng và bằng những nhát dao oan nghiệt. Có lẽ một trong những nguyên do sâu xa nhất khiến Nam Cao dể cho Chí Phèo gặp thị Nở, tỉnh táo ăn cháo hành, đón nhận tình yêu, tình người,… chính là để chuẩn bị cho anh ta ý thức được đầy đủ – thoạt tiên thì chỉ lờ mờ, nhưng càng lúc càng rõ – tình cảnh bi đát, tuyệt vọng của mình.

Phải chăng vì vậy mà nhà văn đã miêu tả nhân vật của mình như một nạn nhân tuyệt vọng vừa đáng thương, vừa đáng trách ? Tuy nhiên, dù đáng thương nhiều hay đáng trách nhiều thì rốt cuộc Chí Phèo không thể tha thứ cho kẻ thù của mình cũng như tội lỗi của mình.

Nam Cao đã rất khách quan. Nhưng ông không vô tình. Trái lại, ông đã nhiêu lần kín đáo biện minh cho Chí Phèo.

Nhà văn quả là rất cận nhân tình khi viết rất nhiều cầu văn tương tự : “Chưa bao giờ hắn tỉnh…”, “Có lẽ hắn cũng không biết rằng…”, “Hắn biết đâu…” “Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả trong lúc say.” Mà “Hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Và, hơn thế, ông còn tìm cách khẳng định thêm rằng : chính lúc Chí Phèo nhận ra là mình đã bị cả xã hội làng Vũ Đại gạt phăng mất cái quyền được làm người, thì niềm khát khao được sống như một con người càng cháy bỏng hơn bao giờ hết ; rằng : về bản chất, chưa bao giờ Chí Phèo là một gã lưu manh hay một tên quỷ dữ ; rằng : con người luôn phải chịu trách nhiệm về chính nó, nhưng con người cũng chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh mà thôi ; v.v.

Khi Chí Phèo ngắc ngoải chết trong vũng máu tươi, sau tiếng kêu tuyệt vọng, và những dòng đời bi thảm cuối cùng của anh ta khép lại, thì người ta không chỉ thấy giận (giận kẻ gieo tai hoạ cho Chí Phèo), thấy thương (thương một kẻ có số phận bi đát), mà còn thấy tiếc. Tiếc thay cho Chí Phèo. “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ” ; “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.”, “Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi”. Những cái “giá…”, cái “sẽ…”, cái “hay là…” như vậy – trong sự ngân vang của ngôn từ trần thuật – rốt cuộc cũng vẫn chỉ là ao ước, là giả thiết, là viễn ảnh, ảo ảnh mà thôi. Nó cũng thoảng qua, cũng mong manh như hương vị cháo hành của thị Nở mang cho Chí Phèo lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng vậy. Cháo hành “rất ngon” ăn hết từ hôm trước mà trớ trêu thay mãi đến hôm sau, khi bị thị Nở phũ phàng dúi ngã “lăn khoèo xuống sân”, chí Phèo vẫn “thoáng một cái, hắn lại như hít thấy hơi cháo hành”.

Cứ như thế, biết bao nhiêu là tiếc nuối cho cái cơ duyên “làm người lương thiện” của Chí Phèo đã được nhà văn thông qua nghệ thuật, gieo vào lòng người đọc, khiến người ta phải cùng ông thao thức mãi không thôi.

“Chí Phèo” là tiếng nói của niềm khao khát. Nhưng đó là tiếng nói bên trong, tiếng nói của một niềm khát khao bình dị được cất lên từ sâu thẳm tâm hồn.

Dựa theo sự miêu tả của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo, người ta hoàn toàn có quyền gọi nhân vật chính của truyện ngắn này – Chí Phèo – là một “thằng đầu bò”, một “con vật lạ”, “gã lưu manh” hay “tên quỷ dữ”,… Cũng như vậy, người ta hoàn toàn có thể hiểu và tin rằng, từ trong bản chất, Chí Phèo là một người lao động lương thiện, một anh canh điền “hiền như đất”. Nhưng dù là nhìn nhân vật từ cả hai phía, hoặc giả, nhìn chủ yếu từ phía này hay phía kia thì cái gã lưu manh hay cái người lương thiện trong Chí Phèo, ám ảnh người đọc không phải bằng hành động bên ngoài mà bằng một thứ hành động bên trong, tiếng nói bên trong : ám ảnh bằng những cơn địa chấn lớn lao của số phận cùng những vang động của nó trong chính tâm hồn anh ta.

Hầu hết những cảnh ngộ, những sự kiện tạo ra những va đập và biến đổi sâu sắc số phận, tính cách, tâm lí Chí Phèo đều được nhìn bằng con mắt bên trong, con mắt của nhân vật Chí Phèo và kể bằng tiếng nói tâm hồn, theo mạch suy tư của tâm hồn. Ai đó đã rất có lí khi gọi cách trần thuật và kết cấu truyện Chí Phèo là trần thuật và kết cấu theo dòng ý thức của nhân vật chính.

Sự lựa chọn này của tác giả là rất hợp lí và có ý nghĩa. Các diễn biến tâm lí và tiếng nói ở đây đều thuộc về một chủ thể : Chí Phèo.

Nương theo dòng ý thức và điểm nhìn của nhân vật, nhà văn, người đọc cùng nhân vật nhìn vào hiện tại, quá khứ, tương lai của anh ta. Từ đó, tác phẩm mở ra một hành trình để nhân vật chính tự nhận thức, tự phát hiện con người bên trong của mình. Hành động tự nhận thức và tự phát hiện này, đặc biệt từ sau khi Chí Phèo tỉnh rượu, được diễn đạt rất ấn tượng và hiệu quả bằng một kiểu lời vân nửa trực tiếp độc đáo và bằng một khung cú pháp đặc thù : Hắn + động từ tâm lí (Hắn thấy…, hắn nghe…, hắn sợ,…). Người đọc, vì thế, cơ hồ không cưỡng lại được, cứ trôi miên man theo dòng chảy cảm xúc, suy tư của Chí Phèo :

“Hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn…”, “Hắn sợ rượu…”. “Hắn lại nao nao buồn…”, “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc.”. “Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt.”. “Hắn húp một húp và nhận ra rằng : những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất ngon”.

Ngược về quá khứ, “nhớ đến bà Ba”, “hắn chỉ thấy nhục, chứ yêu đương gì.”. Nhìn vào hiện tại, hắn “trông thị thế mà có duyên”, hắn thấy “như yêu thị”, và khám phá ra rằng “đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm người say”. Rồi, “hắn thấy lòng thành trẻ con”, “hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ”.

Và điều tự phát hiện này mới cực kì quan trọng : “Hắn có thể tìm bạn được, sao lại gây kẻ thù ?”. Hoặc : “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện.”

Cứ thế, mỗi một lần “Hắn thấy…”, “Hắn .vợ…”, “Hắn nhớ…”, “Hắn muốn…” là mỗi lần cõi thầm kín của Chí Phèo dược tự nhận thức, tự phô diễn, cũng là mỗi lần niềm khao khát từ bên trong vang vọng lên tiếng nói làm tái tê, xao xuyến lòng nsười.

Trọng tâm của tác phẩm Chí Phèo không phải kể về quá trình lưu manh hoá mà vé quá trình thức tỉnh, vỡ lẽ của nhân vật. Những đoạn hay nhất cũng thuộc phần này (những diễn biến tâm lí của Chí Phèo từ sau khi gặp thị Nở đến khi tự kết liễu dời mình).

Ở đây rõ ràng có nỗi đau, tiếng kêu tuyệt vọng, nhưng bao trùm, và sâu thẳm vẫn là tiếng nói khát khao. Khát khao được sống cho ra một con người : biết cười khóc, buồn vui như một con người, được yêu thương, hạnh phúc bình dị như một con người, được đón nhận bằng những vòng tay bè bạn như một con người. (Chí Phèo muốn xoá bỏ thù oán, để được sống trong tình thân hữu, tình yêu — tình yêu được xem như một biểu hiện đặc biệt của tình bạn, tình người).

Hơn bốn mươi năm vật lộn với đời, Chí Phèo chỉ được thực sự sống như con người trong vỏn vẹn năm sáu ngày ngắn ngủi, ấm áp tình người. Việc gặp và chung sống với thị Nở là một sự bù đắp cho Chí Phèo tất cả những loại tình cảm của giống loài mà trước đó anh chưa từng biết đến : Thị Nở đâu chỉ là người tình, thị còn là người yêu, hơn thế, còn như là bạn, là mẹ (không phải ngẫu nhiên mà Chí Phèo đón nhận tình cảm và sự săn sóc của thị Nở, phần nào tựa như đón tình mẹ ; thích được làm nũng như với mẹ, đón nhận bát cháo hành như đón hương vị thơm thảo của tình người).

Tiếc rằng, khi giấc mơ ấy sắp thành hiện thực thì cũng là lúc đổ vỡ tất cả, tiêu tan thành mây khói tất cả. Thế là, Nam Cao miêu tả Chí Phèo vỡ lẽ, tuyệt vọng mà làm cho người đọc choáng váng. Và, nhân vật càng tuyệt vọng, người đọc càng choáng váng thì tiếng nói khát khao được sống như một con người càng khắc khoải thiết tha.

Đọc sáng tác của Nam Cao, nhiều khi ta không khỏi sửng sốt, băn khoăn. Việc Nam Cao thường viết rất hay về những bi kịch, những nỗi niềm của nsười trí thức nghèo như Điền, như Hộ, như Thứ,… thực ra, cũng dễ hiểu.

Là một giáo khổ trường tư, một văn sĩ nghèo, bản thân ông từng nếm đủ buồn vui, đau thương và cơ cực của những cảnh, những người trong truyện, thì viết về người trí thức gần như là viết lại những gì ông đã sống.

Nhưng còn việc ông viết về đời sống của đủ hạng nông dân nghèo thì, hẳn là khó khăn hơn và xem ra không được thuận tay, thuận lí cho lắm. Thế mà ông vẫn viết rất hay, và nhiều tác phẩm ông viết về nông dân nghèo cứ như là chuyên của chính đời ông. Khả năng nhập cuộc, nhập vai của ông thật dáng phục và dáng trọng.

Điều đó càng chứng tỏ rằns Nam Cao có một cái nhìn thật tinh nhạy, mẫn cảm, sâu sắc, và một tấm lòng cảm thương hết sức tha thiết, chân thành đối với những khổ đau, khát vọng của con người.

Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam Cao 25

Văn học hiện thực Việt Nam có rất nhiều cây bút nổi bật xuất sắc có thể kể đến những trang văn hiện thực đánh động vào nhân thức người đọc của Vũ Trọng Phụng, hay những dòng văn trĩu nặng tâm tư của Nguyên Hồng. Trong số những nhà văn hiện thực nổi bật hơn cả là nhà văn Nam Cao với ngòi bút sắc bén, nhanh nhạy của mình trong việc nắm bắt hiện thực của xã hội, của thời đại, Nam Cao đã cho ra  đời những tác phẩm gắn liền với người nông dân và người trí thức tiểu tư sản. Bản thân Nam Cao hiểu rõ tầng lớp trí thức tiểu tư sản bởi đó là tầng lớp giàu ước mơ, giàu khát vọng luôn có mong muốn khát khao vươn lên nhưng lại bị cơm áo gạo tiền ghì sát đất khiến cho những ước mơ của họ ngày càng thu nhỏ dần và tiêu biến. Với đề tài người nông dân, Nam Cao đã có những phát hiện xuất sắc và mới mẻ để lại dấu ấn đậm sâu trong lòng người đọc, vậy nên cho dù là nhà văn đến sau và khai thác đề tài mà rất nhiều những nhà văn trước đó đã thử sức và thành công như Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng… những trang viết của ông có những nét hấp dẫn riêng. Nếu khai thác về đề tài người nông dân những nhà văn khác chủ yếu hướng đến sự cùng khổ của họ trong những ngày thuế thúc trống dồn, thì bản thân Nam Cao lại khai thác ở khía cạnh khác đó là sự bần cùng hóa và tha hóa về nhân tính lẫn nhân hình của người nông dân, tất cả những điều đó được biểu hiện trong tác phẩm nổi bật thể hiện bút lực và tài năng của ông tác phẩm Chí Phèo. Đây là một trong những tác phẩm đã đưa Nam Cao trở thành một trong những nhà văn xuất sắc ở mảng văn học hiện thực.

Hình tượng nhà văn xây dựng là nhân vật Chí Phèo- một người nông dân bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính. Quay ngược dòng thời gian Chí phèo là một người nông dân hiền lành lương thiện với quá khứ khổ đau, Chí được người dân làng Vũ Đại nhặt nuôi ở cái lò gach cũ, hắn lớn lên bởi bàn tay yêu thương chăm sóc của tất cả những người dân trong làng. Năm 20 tuổi Chí Phèo là một người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng sóng gió cuộc đời bắt đầu ập đến khi Chí phèo đến làm công cho nhà Bá Kiến, Chí bị vu oan bị Bá kiến tống vào tù, và kể từ đó cuộc đời của Chí đã thay đổi hẳn khi bước chân vào nhà tù thực dân. Một trong số những bi kịch mà tất cả người dân phổ biến thời bấy giờ. Nhà tù đã nhào nặn Chí thành một con người hoàn toàn khác, hình dạng bên ngoài đến thể chất bên trong của Chí đều bị biến đổi, ngày về làng Vũ Đại Chí Phèo không còn là anh canh điền hiền lành như xưa nữa mà Chí bị người dân gán cho cái mác: con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Mở đầu đoạn trích tác phẩm Nam Cao đã để cho nhân vật của mình vừa đi vừa chửi, tiếng chửi của Chí Phèo sao mà chua chát đắng cay đến thế, đó là tiếng chửi của một con người mất hết tất cả bị tước đoạt quyền làm người, bị bào mòn cả thể xác lẫn tâm hồn. Chí Phèo chửi đời chửi người, chửi cả làng Vũ Đại thậm chí còn chửi cha đứa nào đã đẻ ra hắn tiếng chửi của Chí Phèo có lớp lang có trật tự khiến ai nghe xong cũng phải thở dài ngao ngán, bỏ mặc thậm chí tức giận nhưng không ai đáp lại lời chửi của Chí mà ngược lại chỉ có vài ba con chó sủa đáp Chí. Như thế chúng ta có thể thấy được tiếng chửi đã hạ thấp tầng lớp của Chí Phèo, Chí thậm chí chỉ ngang ngửa một con vật chứ không hơn không kém gì. Chí Phèo càng cố giao tiếp với con người bằng tiếng chửi thì hắn càng tách biệt với xã hội, bản thân càng cô đơn, đau đớn. Tội nghiệp Chí. Ngoại hình của Chí Phèo cũng đã thay đổi trông hắn đặc như thằng săng đá: “Cái đầu tròn trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đên mà rất cơng cơng hai mắt gườm gườm trông gớm chết” rõ ràng nhân vật Chí Phèo đã bị biến đổi cả nhân tính lẫn nhân hình. Vừa ra tù Chí đã đến uống rượu tại một quán trong làng, sau đó đến nhà Bá Kiến chửi bới, đòi tiền uống rượu, Chí Phèo ban đầu rất hùng hổ nhưng sau đó đã bị Bá Kiến khéo léo dẫn dụ trở thành tay sai của Bá Kiến.

Cuộc đời của Chí Phèo từ khi chào đời cho đến lúc lớn lên là một chuỗi những bế tắc, hết bế tắc này đến bế tắc khác xảy đến khiến cho Chí không được sống là người tử tế. Những tưởng rằng số phận của Chí Phèo sẽ chấm dứt tại đây, người ta sẽ thấy Chí như con quỷ dữ của làng Vũ Đại, nhưng không Nam Cao đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn khi để Chí Phèo gặp Thị Nở, định mệnh này đã khiến cho cuộc đời của Chí đổi thay, Chí bắt đầu tỉnh ngộ. Chí Phèo gặp gỡ Thị Nở tại vườn chuối, cuộc gặp gỡ ấy đã tạo nên tình yêu tuyệt đẹp giữa Chí Phèo và Thị Nở. Cả làng Vũ đại tránh xa Chí chỉ riêng Thị Nở tách khỏi đám đông bắc một cây cầu yêu thương để đến với Chí, bát cháo hành- món canh giải rượu thật tầm thường nhưng nó lại chứa đựng rất nhiều yêu thương, sự săn sóc của Thị Nở dành cho Chí Phèo, hơi cháo hành thoang thoảng ấy đã đưa Chí trở về một thuở Chí có nhiều ước mơ hoài bão, đó là khi Chí 20 tuổi, khi Chí còn là một anh canh điền khỏe mạnh, khi Chí được mọi người dân làng Vũ Đại yêu thương bao bọc, Chí có ước mơ sẽ có một căn nhà nho nhỏ chồng cuốc mướn, vợ cày thuê, cố gắng thì hai vợ chồng nuôi thêm những con vật nuôi để trang trải cuộc sống. Giấc mơ từ quá khứ chợt ùa về với Chí Phèo như một lăng kính quay chậm khiến Chí cảm thấy cuộc sống thật đáng giá, khiến những hạt giống yêu thương từ từ nảy mầm trong trái tim bấy lâu nay khô héo, cằn cỗi của Chí, trái tim ấy đã mở rộng đã xúc động trước sự quan tâm săn sóc của Thị Nở, trước tình yêu rất đỗi hồn nhiên ngây thơ của Thị Nở dành cho Chí Phèo. Chí muốn quay trở lại làm người lương thiện, Chí muốn được là Chí như ngày trước, Chí sẽ lại trở thành anh canh điền khỏe mạnh nhiều hoài bão, mơ ước và Chí Phèo hồn nhiên suy nghĩ Thị nở sẽ là người đưa Chí chạm tay vào những ước mơ đó. Nhưng thật không may bởi cuộc đời luôn chứa đựng những nguy cơ tiềm ẩn mà Chí không thể nào lường trước, ước mơ chưa kịp thực hiện thì Chí đã bị Thị nở ruồng bỏ, bởi bà cô Thị Nở không cho phép Thị lấy Chí bà đay nghiến Thị bà phân tích cho thị Nở biết hết người rồi hay sao mà lại lấy cái thằng Chí Phèo- Cái thằng nát rượu, mà cả làng đều tránh xa. Điều đó khiến Chí Phèo đau khổ, Chí chợt nhận ra mọi điều chỉ hi vọng đều là một ảo ảnh, đều là những thứ xa vời. Chí đau khổ Chí tự dằn vặt chính mình, Chí lại uống rượu cơn say đưa Chí đi đến nhà bá Kiến – kẻ đã hại cuộc đời Chí kẻ đã khiến cuộc đời Chí ra nông nổi này, Chí Phèo giết chết Bá Kiến trong cơn say, nhưng đó cũng chính là lúc Chí Phèo tỉnh táo nhất bởi Chí đã biết chính xác kẻ thù lớn nhất cuộc đời mình, không phải là bà cô Thị Nở mà là Bá Kiến, nguyên nhân khiến cuộc đời Chí bế tắc đi vào ngõ cụt Chí phèo giết bá kiến xong cũng là lúc Chí tự kết liễu đời mình kết thúc cuộc đời đầy những đau khổ bế tắc của chính mình. Số phận của Chí Phèo cũng giống như số phận của biết bao người nông dân trong xã hội cũ họ bị bần cùng hóa. Bị tha hóa cả nhân tính lẫn nhân hình, họ phải chịu đựng cuộc sống bị khinh bỉ xem thường, bị vùi dập bị cai trị nhưng cho đến lúc cuối cùng họ đã tỉnh ngộ và được sống là chính mình. Số phận của những con người ấy thật đáng thương. Nam Cao bằng đầu óc quan sát tỉnh táo bằng trái tim của một nhà văn nhân đạo ông đã quan sát, xem xét mổ xẻ những biến đổi tinh vi của tâm lý người nông dân trong xã hội cũ.

Kết thúc câu chuyện Nam Cao để cho nhân vật tự kết liễu đời mình cũng là lúc tự giải thoát chính mình, nhưng Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và thoáng thấy cái lò gạch cũ xuất hiện, hành động ấy là dấu hiện nhà văn muốn gửi đến thông điệp cho người đọc, rất nhiều người nông dân trong xã hội lúc bấy giờ sẽ sống trong cảnh bần cùng, bế tắc không bao giờ thoát khỏi được cái vòng luẩn quẩn của đời mình.Thông qua cuộc đời, số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh tình trạng một bộ phận nông dân bị tha hoá, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ, giữa các thế lực ác bá ở địa phương. Nhà văn bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc trước cảnh người nông dân cố cùng bị lăng nhục, đã phát hiện và miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay khi tưởng như họ bị biến thành thú dữ.

Tác phẩm Chí Phèo đã tố cáo mạnh mẽ xã hội thuộc địa phong kiến tàn bạo đã cướp đi cả nhân hình và nhân tính của người nông dân lương thiện đồng thời nhà văn phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi tưởng như họ đã bị biến thành quỉ dữ. Đồng thời tác phẩm đã thể hiện tài năng nghệ thuật điêu luyện của tác giả đó là: Xây dựng nhân vật điển hình vừa có ý nghĩa tiêu biểu vừa sống động, có cá tính độc đáo và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, logic. Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hoá giàu kịch tính.Ngôn ngữ sống động, vừa điêu luyện lại vừa gần gũi, tự nhiên; giọng điệu đan xen biến hoá, trần thuật linh hoạt. Chí Phèo thực sự là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất viết về người nông dân.

Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam Cao 26


Trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945. Chí Phèo có lẽ là tác phẩm thành công hơn cả trong việc đem lại cho người đọc những ấn tượng mạnh mẽ, không thể quên về bức tranh đen tối ngột ngạt, bế tắc của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời thức tỉnh cái phần lương tri tốt đẹp nhất của con người, khơi dậy lòng căm ghét cái xã hội vạn ác đã chà đạp lên nhân phẩm con người, thương xót, cảm thông với những thân phận cùng đinh bị giày vò, tha hóa trong chế độ cũ.

Căm ghét xã hội thực dân phong kiến thối nát, phê phán mãnh liệt các thế lực thống trị xã hội, trên cơ sở cảm thông, yêu thương trân trọng con người, nhất là những con người bị vùi dập, chà đạp, đó là cảm hứng chung của các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 30-45. Tuy nhiên, trong tác phẩm Chí Phèo,Nam Cao đã khám phá hiện thực ấy bằng một cái nhìn riêng biệt. Nam Cao không trực tiếp miêu tả quá trình bần cùng, đói cơm, rách áo dù đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nhà văn trăn trở, suy ngẫm nhiều hơn đến một hiện thực con người: con người không được là chính mình, thậm chí, không còn được là con người mà trở thành một con “quỉ dữ”, bởi âm mưu thâm độc và sự chà đạp của một guồng máy thống trị tàn bạo. Với một cái nhìn sắc bén, đầy tính nhân văn, bằng khả năng phân tích lý giải hiện thực hết sức tinh tế, bằng vốn sống dồi dào và trái tim nhân ái, nhà văn đã xây dựng nên một tác phẩm với những giá trị hiện thực và nhân đạo đặc sắc không thể tìm thấy ở các nhà văn đương thời.

Thật ra trong bất cứ tác phẩm nghệ thuật chân chính nào, giá trị hiện thực bao giờ cũng đi liền với giá trị nhân đạo. Tác phẩm càng xuất sắc, những giá trị ấy càng thẩm thấu, thống nhất với nhau, khó tách rời. Chí Phèo của Nam Cao cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Bởi vì nội dung phản ánh (và tiếp nhận) - yêu thương, trân trọng hay căm ghét, khinh bỉ? Tách riêng ra hai giá trị là làm phá vỡ sự gắn liền hữu cơ của một chỉnh thể nghệ thuật vốn dĩ thống nhất.

Đọc xong tác phẩm Chí Phèo ta thấy gì? Mở đầu tác phẩm là cảnh Chí Phèo ngật ngưởng trên đường đi vừa chửi, từ trời đến người, tiếng chửi hằn học, cay độc và chua xót. Kết thúc là cảnh Chí Phèo giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi. Bao trùm lên tất cả, tác phẩm ám ảnh ta một không khí ngột ngạt, bế tắc đến khủng khiếp, đầy những mâu thuẫn không thể dung hòa của một làng quê Việt Nam trước Cách mạng, với bao cảnh cướp bóc, dọa nạt, giết chóc, ăn vạ, gây gổ… trong đó Chí Phèo hiện lên như một biếm họa tiêu biểu. Hãy nghe nhà văn miêu tả: “Bây giờ thì hắn trở thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay là ngoài bốn mươi. Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó không còn phải là mặt người: nó là mặt một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi?. Sau khi ở tù về, hắn đã trở thành một con quỉ dữ của làng Vũ Đại mà không tự biết. Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say triền miên. Hắn ăn trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ chưa bao giờ hắn tỉnh để nhớ hắn có ở đời. Có lẽ hắn cũng biết rằng hắn là quỉ dữ của làng Vũ Đại để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đập đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu nước mắt của bao nhiêu người lương thiện… Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua…”

Đoạn văn chất chứa bao nhiêu nỗi thống khổ của một thân phận đã không còn được cuộc sống của một con người. Những năng lực vốn có của một con người - năng lực cảm xúc, nhận thức - hầu như bị phá hủy, chỉ còn lại năng lực đâm chém, phá phách. Chí Phèo bị phá hủy nhân tính lẫn nhân hình như thế bởi đâu? Nhà văn không tập trung miêu tả dông dài quá trình tha hóa ấy. Ông thiên về lí giải phân tích cái cội nguồn sâu xa dẫn đến kết cục bi thảm của nó, chỉ bằng một số phác thảo đơn sơ về Bá Kiến, về nhà tù, về bà cô Thị Nở, về dư luận xã hội nói chung… Trong hàng loạt mối liên kết ấy, người đọc dễ dàng nhận ra: sở dĩ Chí Phèo (và không chỉ Chí Phèo mà cả những Năm Thọ, những Binh Chức - cả một tầng lớp được nhà văn cá thể hóa qua nhân vật Chí Phèo) từ một thanh niên lành như cục đất hoá thành con quỉ dữ là bởi vì Chí, ngay từ thuở lọt lòng đã thiếu hẳn tình ấp ủ yêu thương, và đặc biệt khi lớn lên, chỉ được đối xử bằng rẻ khinh, thô bạo và tàn nhẫn. Thủ phạm trực tiếp là Bá Kiến được nhà văn miêu tả là một con cáo già “khôn róc đời”, “ném đá giấu tay”, “già đời trong nghề đục khoét”, biết thế nào là “mềm nắn rắn buông”, “Hay ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hay đập bàn đập ghế đòi cho được 5 đồng, nhưng được rồi lại vứt trả lại 5 hào vì thương anh túng quá!”. Chính hắn đã lập mưu đẩy Chí Phèo vào chỗ tù tội oan uổng và sau đó sử dụng Chí Phèo như một tay sai đắc lực phục vụ cho lợi ích và mưu đồ đen tối của mình. Không có Bá Kiến thì không có Chí Phèo, nhưng Chí Phèo không chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà thậm chí là phương tiện tối ưu để thống trị: “không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị mấy thằng đầu bò”. Chính Bá Kiến đã rút ra cái kết luận mà theo hắn rất chí lí ấy. Là một tội nhân, nham hiểm, nhẫn tâm, nhưng Bá Kiến lại hiện ra bề ngoài như một kẻ ôn hòa, xởi lởi, biết điều, khiến người đời phải nhìn bằng cặp mắt “kính cẩn”… Vì thế mà hắn đã lường gạt được bao nhiêu dân chất phác lương thiện. Chí Phèo trở thành tay chân đắc lực của hắn; thật sự biến thành công cụ, phương tiện thống trị cho kẻ thù của mình mà không tự biết. Bá Kiến hiện ra trong tác phẩm Chí Phèo như một nhân vật điển hình, sống động và cá biệt, tiêu biểu cho một bộ phận của giai cấp thống trị, được miêu tả, khám phá dưới một ngòi bút bậc thầy. Cùng với hắn là Lý Cường, là chánh Tổng, là đội Tảo… Chính bọn chúng đem lại không khí ngột ngạt khó thở cho nông thôn Việt Nam thành cái thế “Quần ngư tranh thực” (bọn đàn anh chỉ là một đàn cá tranh mồi, chỉ trực rình rập tiêu diệt nhau). Chính chúng là thủ phạm gây ra bi kịch của những Chí Phèo… Số phận của Năm Thọ, Binh Chức, tuy chỉ được nhắc qua tác phẩm, nhưng cũng góp phần chỉ ra tính hệ thống và phổ biến của phương cách tha hóa người dân trong sự thống trị của chúng. Đằng sau những Bá Kiến, Lý Cường, Chánh Tổng… như một sự hỗ trợ gián tiếp nhưng tích cực là hệ thống nhà tù dã man, bẩn thỉu - cả một điều kiện môi trường bất hảo. Quá trình Chí Phèo ở tù không được miêu tả trực tiếp, chỉ biết rằng khi vào tù Chí Phèo là người hiền lành lương thiện. Ra khỏi tù, hắn trở về với cái vẻ hung đồ, cái thói du côn ương ngạnh học được từ đấy. Nhà văn chỉ nói có thế. Nhưng như thế với bạn đọc thông minh cũng đã quá đủ!

Bằng bút pháp độc đáo, tài hoa linh hoạt, giàu biến hóa, Nam Cao khi tả, khi kể theo một kết cấu tâm lý và mạch dẫn dắt của câu chuyện với một cách thức bề ngoài tưởng chừng như khách quan, lạnh lùng và tàn nhẫn, nhưng chất chứa bên trong biết bao nỗi niềm quằn quại, đau đớn trước thân phận đau đớn của kiếp người. Lồng vào bức tranh hiện thực trên kia là thái độ yêu ghét, là cách phân tích và đánh giá những vấn đề về hiện thực mà nhà văn đặt ra. Ngay việc lựa chọn một nhân vật cùng đinh thống khổ nhất của xã hội làm đối tượng miêu tả và gởi gắm biết bao thông cảm, suy tư thương xót… tự nó đã mang nội dung nhân đạo. Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện tập trung nhất ở cách nhìn nhận của nhà văn đối với nhân vật bị tha hóa đến tận cùng. Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn dĩ, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến “ma chê quỉ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hất hủi. Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh ấy bao giờ chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn, trong cái phút tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau. Cũng may Thị Nở mang bát cháo hành tới. Nếu không, hắn đến khóc được mất trong tâm trạng như thế… Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng: Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền! “Hắn thèm lương thiện – Hắn khát khao làm hòa với mọi người”… Từ một con quỉ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!

Bằng chi tiết này, Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ – Nhà văn như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông, chia sẻ những giây phút hạnh phúc thật hiếm hoi của Chí Phèo…

Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Xã hội đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Những vết dọc ngang trên mặt, kết quả của bao nhiêu cơn say, bao nhiêu lần đâm chém, rạch mặt ăn vạ… đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời. Và, như Đỗ Kim Hồi nói, “một khi người được nếm trải chút ít hương vị làm người thì cái xúc cảm người sẽ không thể mất… Đấy là mối bi thảm tột cùng mà cách giải quyết chỉ có thể là cái chết”. (Tạp chí Văn học số 3-1990)

Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!

Đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Sự kết hợp giữa giá trị hiện thực sắc bén và giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại.

Phân tích tác phẩm Chí Phèo 27

Nhắc đến nhà văn Nam Cao không ai không biết đến tác phẩm Chí Phèo của ông, đây là tác phẩm đã nói lên được tình trạng khổ cực của người nông dân trước cách mạng tháng 8. 

Nam Cao là một nhà văn xuất sắc của dân tộc Việt Nam ông là một người lỗi lạc, trước cách mạng tháng 8 ông đã có rất nhiều những tác phẩm hay như trăng sáng hay chí phèo… tất cả đều mang đậm màu sắc phản ánh hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Hiểu được nỗi khổ của người nông dân chính vì vậy ông luôn có những cảm xúc bất mãn trước xã hội cũ, một xã hội tàn ác những tên tham quan ô lại, đẩy nhân dân đến những cực khổ lầm than, những hình ảnh người nông dân cực khổ, bị bần cùng hóa cũng đã phản ánh sâu sắc được tình trạng người nông dân lúc bấy giờ, những hình ảnh mang đậm giá trị của cuộc sống bởi ông là nhà văn của thời đại. Nhà chiến sĩ cách mạng của dân tộc Việt Nam, ông đã phản chiếu thời đại qua việc phản ánh tình trạng xã hội lúc bấy giờ.

Những hình ảnh mang tính chất phê phán đã đậm nét trong tác phẩm của Nam Cao ông luôn cố gắng vươt qua được tất cả mọi điều giới hạn của cuộc sống để viết lên một tác phẩm chân thực, nó chiếu sáng tâm hồn của thời đại, lột tả rất nhiều những cảm xúc trong tâm hồn của mỗi con người, giá trị to lớn của nó đó là biết phê phán những tên quan lại thối nát, luôn luôn dình dập đe dọa sự sống của nhân dân, nổi bật lên trong bài này đó là hình ảnh Chí Phèo, một người nông dân bị bần cùng hóa, luôn luôn phải chịu đựng những nỗi đau đớn mà xã hội để lại, một người lương thiện chất phát nhưng rồi Chí cũng bị xã hội này vùi dập.

Những hình ảnh của nó phản chiếu mạnh mẽ tâm hồn, và nhân cách của những người nông dân, họ bị bần cùng hóa để rồi trở thành những tên ác và đây là sản phẩm mà xã hội đem lại. Chí ban đầu là người hiền lành, một người nông dân chất phác, đi làm thuê cho gia đình nhà bá Kiến nhưng lại bị gia đình nhà địa chủ này biến thành một tên ác và bị xã hội khinh rẻ, nhưng hành động xấu xa của gia đình bá Kiến đã làm cho một người nông dân vốn rất lương thiện này trở nên bị bần cùng hóa, những đau đớn, cực khổ, và cả những hành động mà Chí đang làm cũng bị xã hội khinh mạc.

Chí sống trong cảnh của kiếp trâu ngựa, làm thuê cho gia đình nhà họ, bị áp bức, bóc lột sức lao động, bị biến thành những con quỷ dữ, những năm tháng đau khổ, và nghèo đói đã bom vây đến Chí, giá trị của tác phẩm này để lại cho nhân loại đó là sự phê phán mạnh mẽ gia đình nhà bá Kiến nói chung và cả xã hội lúc bấy giờ nói riêng, tất cả đều cố gắng lột tả bộ mặt của chúng những con người ác độc tàn ác.

Trước 1945 người nông dân Việt Nam đã phải những kiếp trâu ngựa và Chí là một điển hình đó, luôn phải chịu những sự bất công do xã hội này đặt ra, hắn phải chịu những đau đớn cực khổ, và sự bốc lột tàn ác, những hình ảnh thể hiện mạnh mẽ được điều đó, luôn luôn tồn tại và nó phản ánh mạnh mẽ trong mỗi người, giá trị của tác phẩm này để lại cho nhân loại cũng vô cùng to lớn, những hình ảnh về Chí đã mang đậm nét phê phán và tố cáo sự tàn ác của thế lực cầm quyền những tên quan tham đại ác, những hình ảnh của người nông dân hiền lành chất phác của Chí ngày càng bị mất đi do những điều mà những bọn xấu xa gây nên, nó đã làm cho người nông dân này biến thành con quỷ dữ.

Từ một người hiện lành mà nhà bá Kiến kiến Chí phải lâm vào tù tội, hắn bị bóc lột đến tận xương tủy, những hành động của quỷ đội nốt người của bọn thế lực phong kiến làm cho Chí rơi vào tình trạng thảm thương, không chỉ bị áp bức mà còn bị bóc lột đến tận xương tủy, những hình ảnh đó đã mang những ý nghĩa to cáo mạnh mẽ và vô cùng sâu sắc đối với mỗi con người. Hình ảnh trên không chỉ để cho người đọc hiểu được giá trị to lớn mà cuộc sống này gây ra mà phần lớn nó phản ánh được tội ác của kẻ thù. Những tội ác không thể nào có thể tha thứ được, chúng không bằng những loài cầm thú mà hành động mất nhân tính, người nông dân Việt Nam cực khổ, đau thương, Nam Cao đã dùng nhân vật Chí để nói lên số phận của rất nhiều người nông dân khác. Những hình ảnh phản ánh mạnh mẽ được tinh thần và cuộc sống của mỗi chúng ta khi ngắm nhìn và cảm nhận về cuộc sống lúc bấy giờ.

Những giá trị to lớn và mang ý nghĩa sâu sắc luôn để lại cho dân tộc những bài học xương máu và những ý nghĩa to lớn của nhân loại cần phải cảm thông và có thái độ sâu sắc đối với kẻ thù, những tên quan lại thối nát, qua đây nhân dân ta cũng thể hiện một thái độ cảm thông sâu sắc đối với nhân dân Việt Nam, những con người đang phải chịu nhiều cực khổ đau thương.

Hình tượng Chí Phèo đã mang đậm giá trị để tố cáo đối với kẻ thù đó là thế lực phong kiến, chí đã có sự biến đổi sâu sắc từ một người chất phát hiền lành, trở thành một người chuyên rạch mặt ăn vạ làng, đi đâu hắn cũng chửi… tất cả những điều đó là hậu quả của việc thế lực phong kiến gây lên, nó làm cho nhân dân ta bị bần cùng hóa, nhưng rồi Chí Phèo lại nảy sinh trong tình yêu thương với Thị Nở. Cả cuộc đời của chí chưa bao giờ được sự chăm sóc và yêu thương của bất kì người đàn bà chính vì vậy hơi ấm của lòng người cũng làm cho Chí thức tỉnh. Những tình cảm chân thành và mang giá trị to lớn đó đã đủ làm thức tỉnh tâm hồn của Chí từ một người đang được so sánh như con quỷ đội nốt người đó, trở thành những con người lương thiện và có vai trò sức sống đối với chính cuộc đời của hắn.

Những hình ảnh người nông dân Việt Nam đang ngày càng bần cùng hóa làm cho chúng ta có nhiều cảm xúc đau thương và đang xúc động trước những năm tháng đói khổ mà người nông dân của chúng ta phải chịu đựng, những hình ảnh đó đẻ lại nhiều cảm xúc cho người đọc, sự cảm thông sâu sắc đối với người nông dân Việt Nam, những hình ảnh mang tầm giá trị to lớn cũng để ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống và con người của mỗi người. Chí Phèo à một biểu tượng đau thương và chịu nhiều khổ cực của người nông dân Việt Nam. Những hình ảnh Chí đang bị bần cùng hóa đó là từ người nông dân chất phát chăm chỉ làm ăn lại bị những tên quan lại bóc lột và đẩy Chí vào tù, những người lương thịt lại bị đối xử một cách vô đạo đức và vô văn hóa đến như vậy, hình tượng của nó cũng để lại rất nhiều những cảm xúc và đau thương của con người Việt Nam.

Hình ảnh Chí Phèo luôn rạch mặt ăn vạ làng đó là biểu hiện của sự bần cùng hóa, giống như tập A Quy Chính Truyện nhân vật A Quy mắc căn bệnh thắng lợi tinh thần, còn ở đây cả hai người đều có đặc điểm chung đó là đều là người nông dân bị bần cùng hóa, nhưng có lẽ chúng ta thấy hình ảnh Chí Phèo lộ rõ điều đó hơn, những đau thương nhục nhằn hắn đang phải chịu đựng đều do cuộc sống này gây lên, thủ phạm chính là thế lực của bọn phong kiến cầm quyền, những hình ảnh đó đã để lại cho người đọc rất nhiều cảm xúc và hòa vào đó là những nỗi nhớ, sự đau thương của con người.

Phân tích ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao 28

Chí Phèo là truyện ngắn hiện thực đỉnh cao của nền văn học Việt Nam. Qua truyện ngắn này, nhà văn Nam Cao đã vô cùng tinh tế khi khám phá và thể hiện bi kịch tha hóa, bi kịch bị từ chối quyền làm người ở những người dân nghèo trong xã hội phong kiến đương thời. Nhan đề của truyện ngắn được thay đổi nhiều lần, từ “Cái lò gạch cũ”, “Đôi lứa xứng đôi” và cuối cùng Nam Cao lựa chọn nhan đề “Chí Phèo” ngắn gọn, xúc tích nhưng lại có khả năng truyền tải những nội dung chủ đạo của tác phẩm.

Đầu tiên, truyện ngắn Chí Phèo được Nam Cao đặt tên là “Cái lò gạch cũ”. Theo dõi toàn bộ câu chuyện ta có thể thấy cái lò gạch cũ chính là hình ảnh quen thuộc xuất hiện ở phần đầu gắn liền với sự ra đời của Chí Phèo và phần cuối khi Chí Phèo chết. Chứng kiến cảnh Chí Phèo chết, Thị Nở đã nhìn xuống bụng và trong đầu hình ảnh chiếc lò gạch cũ xuất hiện như một giải pháp đầy bi kịch để Thị Nở trốn tránh những định kiến nghiệt ngã nếu như đứa trẻ đã được tượng hình sau những ngày chung sống như vợ chồng với Chí.

Nhà văn Nam Cao đã lựa chọn kết cấu đầu cuối tương ứng để tạo nên cái vòng luẩn quẩn của bi kịch Chí Phèo – bi kịch bị tha hóa của những người nông dân nghèo. Hình ảnh chiếc lò gạch cũ cũng gợi ra sự xót xa tột độ trước thực trạng tha hóa, trước số phận bi thảm của người nông dân trong xã hội đương thời.

Nhan đề Cái lò gạch cũ đã khái quát được hình ảnh đặc sắc trong truyện ngắn Chí Phèo nhưng lại chưa thể hiện được hiện tượng Chí Phèo cũng như nguyên nhân dẫn đến thực trạng ấy. Đến năm 1914, nhà xuất bản đã tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng đôi” nhằm mục đích câu khách khi trên văn đàn những câu chuyện tình yêu xuất hiện nhan nhảm. Nhan  đề “Đôi lứa xứng đôi” thể hiện được một phần nội dung quan trọng của truyện ngắn, đó là mối tình của Chí Phèo – Thị Nở. Tình yêu của những con người dưới đáy xã hội ấy thật cảm động, thật đáng trân trọng nhưng mối tình này lại không phải nội dung quan trọng nhất mà Nam Cao muốn thể hiện trong tác phẩm này.

Nhan đề mới chỉ hướng người đọc đến chuyện tình Chí Phèo – Thị Nở mà không thể hiện được bi kịch tha hóa khủng khiếp của Chí Phèo. Mặt khác, nhan đề “Đôi lứa xứng đôi” còn mang sắc thái trào lộng, chế giễu. Mục đích nghệ thuật của Nam Cao không nhằm bôi nhọ những con người khốn cùng ấy mà việc miêu tả diện mạo xấu xí, thô kệch là nhằm làm bật lên giá trị người, những phẩm chất tốt đẹp bên trong họ.

Đây cũng là lí do vì sao khi xuất bản lại năm 1946, Nam Cao đã đổi lại thành “Chí Phèo” như ngày nay. Chí Phèo là nhan đề ngắn gọn nhưng lại giàu giá trị biểu đạt. Nhan đề không chỉ hướng người đọc đến nhân vật trung tâm của truyện ngắn là Chí Phèo mà còn phần nào hé lộ được hiện tượng Chí Phèo, bi kịch tha hóa cũng như nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đó. Để đến ngày nay, khi nhắc đến Chí Phèo người ta vẫn ấn tượng sâu sắc về một con người cùng khổ với bi kịch tha hóa về nhân hình lẫn nhân tính.

Thành công của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo không chỉ là việc phát hiện ra hiện tượng đặc sắc mang tính nhân sinh mà còn nằm trong bút pháp nghệ thuật miêu tả bậc thầy, qua cách lựa chọn nhan đề cũng đã thể hiện được phần nào tài năng và tâm huyết của người nghệ sĩ ấy.

Phân tích giá trị hiện thực của truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao 29

Trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945, Nam Cao là người đến sau, trước đó đã có những cây bút như Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Nhưng có lẽ với Chí Phèo, Nam Cao đã đem lại cho chúng ta những ấn tượng mạnh mẽ không thể quên về bức tranh đen tối ngột ngạt, bế tắc của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời thức tỉnh phần lương tri tốt đẹp nhất của con người, khơi dậy lòng căm ghét xã hội thực dân phong kiến tàn ác đã chà đạp lên nhân phẩm của con người; thương xót, cảm thông với những thân phận cùng đinh bị giày vò, tha hóa.

Với Chí Phèo, Nam Cao xuất hiện như một tác giả tiêu biểu nhất của dòng văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945, thời kì mới đầy thử thách. Cũng như các cây bút lớp trước, Nam Cao đặc biệt quan tâm thể hiện số phận khốn khổ trăm chiều của những người bị áp bức bóc lột đương thời. Có điều, trong cảm hứng “vạch khổ” chung của mọi nhà văn hiện thực, ngòi bút Nam Cao có những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp, bị tha hóa về nhân hình lẫn nhân tính. Hình tượng nhân vật Chí Phèo – một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam – đã thể hiện đầy đủ cái nhìn mới mẻ, độc đáo, có chiều sâu của Nam Cao trong việc thể hiện nỗi khổ của người bần cố nông.

Ở Việt Nam, những tác phẩm của văn học trung đại như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, thơ Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến… đã phơi bày hiện thực khách quan của cuộc sống. Nhưng phải đến Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn… mới khơi dòng cho khuynh hướng hiện thực rõ nét khi các tác phẩm thể hiện màu sắc phong tục, nếp sống của một số miền đất, một số mảnh đời khốn cùng. Đến khoảng những năm ba mươi của thế kỉ XX cây bút hiện thực phê phán Nguyễn Công Hoan là người bắt đầu đi theo khuynh hướng tả chân, lấy cuộc sống hiện thời, lấy cái đã và đang xảy ra làm nội dung tác phẩm. Và từ những năm 1930 đến trước 1945 khuynh hướng văn học hiện thực phát triển rầm rộ, quy mô, nhiều cây bút tài năng đã xuất hiện như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp… và Nam Cao được đánh giá là người có công đưa văn học hiện thực lên một trình độ mới, trình độ miêu tả tâm lí, khái quát hiện thực.

Căm ghét xã hội thực dân phong kiến thối nát, phê phán mãnh liệt các thế lực thống trị xã hội, trên cơ sở cảm thông, yêu thương con người, nhất là những con người bị vùi dập, chà đạp, đó là cảm hứng chung của các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945. Tuy nhiên, trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã khám phá hiện thực ấy bằng một cái nhìn riêng biệt. Nam Cao không trực tiếp miêu tả quá trình bần cùng, đói cơm, rách áo dù đó là một hiện thực phổ biến lúc bấy giờ. Nhà văn trăn trở, suy ngẫm nhiều hơn đến một hiện thực con người: con người không được là chính mình, thậm chí không còn được là con người mà trở thành con “quỷ dữ”, do những âm mưu thâm độc và sự chà đạp của một thế lực thống trị tàn bạo. Với một cái nhìn sắc bén, đầy tính nhân văn, bằng khả năng phân tích lí giải hiện thực hết sức tinh tế, bằng vốn sống dồi dào và trái tim nhân ái chan chứa yêu thương, nhà văn đã xây dựng nên một tác phẩm với những giá trị hiện thực và nhân đạo đặc sắc không thể tìm thấy ở các nhà văn cùng thời.

Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác phẩm văn học, tùy vào ý đồ sáng tác mà hiện tượng đó có thể đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau.

Cùng viết về đề tài người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến các nhà văn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan hay Nam Cao đều phản ánh sâu sắc và chân thật tình trạng khốn cùng của người nông dân Việt Nam trên con đường bị bần cùng hóa. Chí Phèo nằm trong quy luật ấy. Không có tiếng trống dồn sưu, thúc thuế vang lên dồn dập, không có cảnh tranh ruộng cướp đất đẩy con người vào cơn túng quẫn, cùng đường phải bán vợ đợ con, xã hội của văn Nam Cao trong Chí Phèo là sự thu nhỏ ở làng quê – một không gian tù túng, ngột ngạt mà bọn phong kiến có thể đẩy con người vào cảnh cùng đường tuyệt lộ phải bán nhân phẩm, nhân cách của mình, bán đi nhân hình nhân tính.

Nhưng khác với Ngô Tất Tố hay Nguyễn Công Hoan tập trung vào nỗi khổ tột cùng về vật chất của người nông dân thì với Chí Phèo – người nông dân còn đau đớn hơn với nỗi khổ về tinh thần. Nam Cao đã ném ra giữa cuộc đời một thằng cùng hơn cả dân cùng, là điển hình cho những gì tủi cực nhất của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến, không chỉ vậy còn là điển hình cho những gì tủi cực khổ đau nhất cho một kiếp người trên cõi đời này.

Có thể nói, với Chí Phèo, Nam Cao đã khái quát hóa tìm ra hình tượng mang bản chất xã hội, cá tính hóa nhân vật đến cao độ giúp cho nhà văn có cái nhìn tiêu biểu nhất, quan trọng nhất, toàn diện nhất cho một kiểu người, lớp người trong xã hội, đồng thời tạo nên diện mạo riêng cho Chí Phèo. Chí Phèo là “nhân vật lạ mà quen biết”. Chính điều đó làm nên sức sống lâu bền cho nhân vật điển hình. Chí Phèo như một chiếc chìa khóa để nhà văn khám phá cuộc đời, đề tài xây dựng nên một nhân vật điển hình không chỉ của một xã hội mà đó là điển hình của cả một nhân loại: Người nông dân hiền lành, lương thiện, giàu lòng tự trọng và có ước mơ trong sáng, nhưng sống trong cái xã hội “quần ngư tranh thực” họ đã bị đẩy đến bước đường cùng: Làm quỷ thì sống mà làm người thì tất yếu phải chết (ThS. Nguyễn Thành Huân).

Chí Phèo – điển hình cho nỗi khổ về vật chất của người nông dân

Hành trang bước vào đời của Chí là một số “0” tròn trĩnh: là một đứa con hoang, không cha, không mẹ, không một tấc đất cắm dùi. Đến năm hai mươi tuổi Chí Phèo làm canh điền cho nhà bá Kiến, tiếp tục cuộc sống làm kiếp trâu ngựa của người cố nông lao động nghèo khổ ở nông thôn. Đến lúc có tài sản là một túp lều cuối làng thì Chí cũng đã phải chà đạp lên biết bao số phận khốn khổ khác, được lấy từ nỗi đau của người khác. Nam Cao đã để Chí phát biểu một câu tiêu biểu cho nỗi khổ cùng cực của người nông dân dưới chế độ thực dân phong kiến: Xin cụ cho con đi ở tù. Ở tù mới có cơm mà ăn. Thật đau xót khi có miếng ăn Chí phải giành giật, dọa nạt, đâm thuê chém mướn, xin đi ở tù và cuối cùng phải bán dần, bán lẻ nhân hình, nhân tính của mình. Chị Dậu khốn khổ cùng cực nhưng chị còn được làm người, và Chí muốn sống trong làng “quần ngư tranh thực” ấy thì phải trở thành con quỷ dữ.

Chí Phèo đã trượt dài trên con đường tha hóa. Đọc Tắt đèn ta cảm thông sâu sắc với nỗi khổ đè nặng trên đôi vai gầy yếu, nỗi đau xé lòng của chị Dậu, tưởng như chị đã là nỗi đau tột cùng nhưng khi đến với Chí Phèo qua tiếng chửi tục tĩu, khuôn mặt đầy vết sẹo, bước chân ngật ngưỡng đi trên những trang văn của Nam Cao thì ta mới thấy rằng: đó là kẻ khốn cùng nhất của nông dân Việt Nam ngày trước. Nam Cao đã khái quát được một quy luật mà các tác phẩm hiện thực phê phán khác chưa đề cập được đó là hiện tượng người nông dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh hóa và tha hóa.

Chí Phèo – điển hình cho nỗi đau về tinh thần của người nông dân

Những tưởng đã cùng cực với nỗi đau về vật chất thì Chí Phèo còn là điển hình cho nỗi đau về tinh thần của người nông dân. Chị Dậu trong Tắt đèn phải bán con bán chó để cứu chồng, âu cũng là trắng tay tưởng không còn gì để bòn kiếm hơn nhưng Chí Phèo còn tìm kiếm được cái quý giá nhất của mình đó là nhân tính, linh hồn. Chị Dậu – người nông dân dù nghèo xác xơ nhưng vẫn được mọi người coi là người, còn với Chí khi bán dần đi linh hồn của mình thì đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Con quỷ dữ ấy đã bị xã hội dứt khoát, lạnh lùng cự tuyệt, gạt bỏ ra ngoài đồng loại. Trong con mắt của làng Vũ Đại Chí Phèo là thằng không cha, không mẹ, chỉ có một nghề là nghề rạch mặt ăn vạ. Tất cả dân làng đều sợ hắn đến nỗi không ai coi hắn tồn tại trên đời thành ra mỗi lần Chí chửi bới, la làng, người ta “mặc thây cha nó”, không ai thèm lên tiếng, đáp lại hắn chỉ có mấy con chó xao lên trong xóm. Người ta khinh bỉ Chí đến mức hắn chỉ mong có kẻ chửi nhau với hắn mà không được. Chí chửi cũng là một cách mong người đời giao tiếp với hắn nhưng thật đau xót cuối cùng chỉ có Chí với mấy con chó sủa ầm ĩ cả làng.

Cuộc đời Chí càng chìm sâu xuống vũng bùn tăm tối – một cuộc sống không linh hồn, mất hết ý niệm về thời gian, không biết cuộc đời mình đã dài bao nhiêu năm rồi. Chí cũng không ý thức được hành động tội lỗi của mình: có lẽ hắn không biết rằng hắn là quỷ dữ của làng Vũ Đại, đã tác quái bao nhiêu dân làng… Chí triền miên trong những cơn say, cơn nàychưa qua thì cơn khác lại tràn đến, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu, dọa nạt trong lúc say… Cuộc đời Chí tưởng như cứ chết dần chết mòn trong sự ruồng bỏ của người dân làng Vũ Đại, trong tăm tối và tội lỗi nhưng cuộc gặp gỡ với thị Nở – một người đàn bà xấu đến nỗi “ma chê quỷ hờn” sẽ như chiếc phao nhỏ mong manh cứu vớt cuộc đời Chí, sẽ là cầu nối giữa Chí và loài người. Chí nhớ lại những ước mơ thuở xưa, nhớ lại cuộc đời lương thiện và thèm làm hòa với mọi người biết bao nhưng Chí đã bị rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người khi thị Nở đã trút vào y tất cả những lời thậm tệ của bà cô, đã vùng vằng ra về mặc cho Chí sửng sốt đứng lên gọi lại, rồi đuổi theo nắm lấy tay thị. Tủi nhục ê chề, Chí lại lao vào rượu. Nhưng lạ lùng thay Chí càng uống lại càng tỉnh ra, và cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành – dư vị của tình thương lần đầu Chí được hưởng. Chí ôm mặt khóc rưng rức. Trong cái dáng vẻ ấy chất chứa biết bao nỗi cô đơn, tuyệt vọng. Bi kịch của Chí đã đạt đến mức tột cùng của sự bi thảm. Như vậy theo Nam Cao con người đau khổ nhất không phải là đói cơm rách áo mà là bị đồng loại ruồng bỏ.

Với Chí Phèo, Nam Cao đã khái quát được những vấn đề bức xúc của con người trong thời kì 1930 – 1945. Ngật ngưỡng bước ra từ trang văn của Nam Cao, Chí Phèo là điển hình cho số phận của bao người dân An Nam xưa. Trong làng Vũ Đại không chỉ có một mình Chí Phèo mà còn có những Năm Thọ, Binh Chức… bị xô đẩy vào con đường tội lỗi như là hiện tượng đầy ám ảnh về sự thật tàn nhẫn tre già, măng mọc, bao giờ hết những thằng du côn. Và hình ảnh cái lò gạch cũ xuất hiện đầu cuối tác phẩm góp phần cùng với điển hình Chí Phèo đã khái quát một hiện tượng xã hội trước Cách mạng, hiện tượng có tính quy luật khủng khiếp: chừng nào còn áp bức bóc lột nặng nề chừng ấy những người dân lương thiện sẽ bị đẩy vào con đường lưu manh hóa, tha hóa. Tuy nhiên hình ảnh đó cũng gợi về một cách kết thúc chưa hoàn kết, chưa xong xuôi gợi ra mâu thuẫn, xung đột chưa kết thúc. Nó gợi nhiều suy tư về hiện thực xã hội, về thân phận người nông dân trong thời kì xã hội trước Cách mạng tháng Tám.

Chí Phèo – sự sáng tạo độc đáo của Nam Cao

Nếu như chỉ dừng lại xây dựng Chí Phèo với những điển hình cho nỗi đau khốn cùng của người nông dân đẩy dần họ vào tăm tối, u mê, vào con đường phải thành “đầu trộm đuôi cướp” mới tồn tại được thì chắc rằng tác phẩm ấy, nhân vật ấy sẽ không có sức sống lâu bền như thế. Bản thân Nam Cao luôn trăn trở về nghề viết văn của mình, luôn tâm niệm một điều – tác phẩm có giá trị là khi nhà văn biết biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có (Đời thừa). Ông không chấp nhận cái nhìn giản đơn đối với hiện thực cuộc sống, luôn khai thác thế giới nội tâm sâu kín của nhân vật phát giác sự vật ở những bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa (Chế Lan Viên). Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã làm được điều đó – là sự sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ luôn ấp ủ hoài bão với nghề. Ông đã dùng tình thương để cảm hóa kẻ lầm đường ấy và để thức tỉnh xã hội vô tình. Ông đã tìm thấy và khẳng định bản chất lương thiện đẹp đẽ, bền vững của con người, ngay cả khi họ đã vùi dập tới mức méo mó cả nhân hình lẫn nhân tính.

Nam Cao đã xây dựng nên một Chí Phèo có xuất thân đặc biệt. Đau đớn cho Chí ngay cả những kẻ sinh ra hắn cũng không hề muốn hắn làm người: Một người đi thả ông lươn nhặt được Chí Phèo “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không”, sau đó, chuyền tay cho người làn nuôi… Họ vứt hắn đi như một thứ tội nợ, mặc dù hắn chẳng có tội tình gì. Rồi Chí cứ bị xã hội ấy “quăng quật” đến tàn nhẫn khi bị người đàn bà góa mù “bán” cho một bác phó cối không con… Với những chữ như “nhặt”, “chuyền”, “bán”, “cho” Nam Cao đã miêu tả nhân vật của mình giống như một thứ đồ vật bị người ta chuyển tay. Khi bác phó cối chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Thật khó có thể thấy trên đời này có đứa trẻ nào khốn khổ tủi nhục hơn thế. Mặc dù sinh ra trong một cảnh ngộ cay đắng tủi nhục như vậy, nhưng lại được nuôi dưỡng bởi những con người nghèo khổ, lương thiện những phẩm chất tốt đẹp của Chí cũng được khơi dậy và lớn lên. Nam Cao đã khẳng định chân lí: Tính cách là con đẻ của hoàn cảnh, hoàn cảnh lương thiện sẽ sinh ra những tính cách tốt đẹp.

Chí sẽ vẫn là anh canh điền “hiền lành như đất” nếu như sống trong hoàn cảnh lương thiện nhưng chỉ vì cơn ghen vô cớ, bá Kiến đã kiếm cớ đẩy Chí vào nhà tù. Nhà tù đã “đẻ ra” một anh Chí Phèo khác hẳn. Nam Cao đã dụng công miêu tả Chí trong bộ dạng giống như một quái nhân mà chưa tác phẩm trước đó hay cùng thời có, nếu đọc thoáng qua sẽ có người quy chụp ông bị ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên. Nhưng không, ngoại hình của Chí xấu xa, gớm ghiếc bao nhiêu thì càng khiến tiếng nói tố cáo hiện thực của Nam Cao thêm sâu sắc. Ngoại hình của hắn làm cho người dân làng Vũ Đại phát khiếp: Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy. Chính nhà tù đã biến Chí thành kẻ du côn, lưu manh. Nam Cao đã tô đậm quãng đời làm con quỷ dữ ở làng Vũ Đại của Chí bằng hai chi tiết chân thực nhất đó là “những cơn say” và “tiếng chửi”. Chưa có kẻ lưu manh trong các tác phẩm văn học Việt Nam lại chửi như Chí: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không?… Với bài chửi độc đáo của mình Chí Phèo đã tỏ ra rất tỉnh táo giữa những cơn say. Hắn đã sắp xếp các đối tượng mình chửi theo một trật tự đầy ý nghĩa: từ “trời”, đến “đời”, đến cả “làng Vũ Đại”, đến “đứa nào không chửi nhau với hắn”… Đây là một trật tự từ cao tới thấp, từ xa tới gần, từ trừu tượng vu vơ đến cụ thể trực tiếp. Thật ra, Chí Phèo đang cố gắng đi tìm ai là kẻ đã đẩy đời mình đến nông nỗi này. Hắn muốn có lời giải đáp cho câu hỏi: Đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này?Qua tiếng chửi không có người đáp lại của Chí, ta hình dung ra một số phận khốn khổ. Chí Phèo là một kẻ không cha, không mẹ, lại bị cả làng Vũ Đại ruồng bỏ.

Không ai thèm lên tiếng đáp lại hắn. Chí tự chửi, tự nghe. Điều ấy chứng tỏ hắn là một kẻ lạc loài, là một số phận vô cùng cô đơn trong xã hội làng Vũ Đại. Trong tiếng chửi của Chí Phèo vừa có nỗi uất hận, vừa có một nhu cầu tha thiết. Chí mong có người chửi lại mình cũng có nghĩa là muốn được mọi người đối xử với mình như với một con người. Chí Phèo cứ trượt dài trên con đường tha hóa của mình nếu như không gặp thị Nở. Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao. Thị cũng là một công trình nhỡ tay của tạo hóa. Tuy thuộc về phái đẹp nhưng thị lại có tất cả những gì mà một người phụ nữ không bao giờ muốn có. Mối tình giữa thị và Chí Phèo không phải là mối tình của hai kẻ nửa người nửa ngợm như nhan đề Đôi lứa xứng đôi mà một nhà xuất bản đã đặt tên. Đó là một tình yêu thông thường vì có đầy đủ các cung bậc của tình yêu như: gặp gỡ – tỏ tình – cầu hôn – thất tình. Thậm chí đây còn là tình yêu đẹp vì nó làm cho hai cuộc đời trở nên tốt đẹp hơn. Từ khi gặp thị Nở, Chí Phèo dần dần từ con vật trở lại kiếp con người. Lần đầu tiên hắn thấy “sợ rượu”, cũng là lần đầu tiên hắn tỉnh rượu để nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh quen thuộc, thường nhật ngày nào mà chẳng có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy. Cuộc đời bình dị, thậm chí còn nhiều nhọc nhằn, vất vả nhưng đáng yêu và đáng sống biết bao. Tiếng hai người đàn bà hỏi nhau về giá vải gợi nhắc cho Chí nhớ lại ước mơ thời hắn hai mươi tuổi: Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Cái giấc mơ ấy đơn sơ mà sao mãi đến bây giờ hắn chưa thực hiện nổi. Nghĩ đến đây hắn thấy “buồn”. Nỗi buồn này làm cho tâm hồn Chí trong trẻo hơn. Nhớ về quá khứ hắn thấy “buồn” còn nhìn về tương lai hắn thấy “sợ”: sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và sợ nhất là cô độc. Từ chỗ nghe thấy âm thanh bình dị của cuộc sống, nhớ lại ước mơ thuở hai mươi tuổi đến chỗ biết buồn, biết sợ chính là quá trình nhân tính dần dần trở về trong Chí. Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật tài tình của Nam Cao, tạo ra bước ngoặt lớn trong tâm lí và số phận của Chí Phèo. Khi nhận được bát cháo hành của thị Nở lúc đầu Chí “ngạc nhiên”, sau thấy “mắt hình như ươn ướt”. Bát cháo hành tuy đơn sơ nhưng lại là tình người lần đầu tiên Chí được đón nhận. Với bát cháo hành, Nam Cao đã xúc động khẳng định: Nhân tình của con người rất bền vững, chỉ có thể bị vùi lấp chứ không thể bị hủy diệt. Chỉ cần nhỏ vào tâm hồn u tối một giọt tình thương lập tức tính người sẽ thức dậy.

Chính tình thương của thị đã khơi dậy phần người trong Chí. Từ chỗ “tỉnh rượu” bát cháo hành đã làm Chí “tỉnh ngộ”. Chí khao khát hoàn lương, khao khát mãnh liệt: Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao. Thị sẽ mở đường cho hắn về với loài người. Như người chết đuối vớ được cọc Chí đã nói với thị bằng những lời chân tình tha thiết nhất: Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?… Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.Năm ngày ngắn ngủi ở bên thị, hắn đã sống như một con người: hắn đã cố uống ít rượu và không làm một điều gì có hại cho những người xung quanh. Khát vọng hoàn lương thật cháy bỏng trong Chí. Nhưng định kiến xã hội đã chặn đứng sự trở về với xã hội loài người của Chí. Thị Nở xét đến cùng tuy sống ở rìa làng, tuy bị coi là “một vật rất tởm” nhưng thị vẫn thuộc vào xã hội loài người. Thị như một thứ đồ phế thải của làng Vũ Đại nhưng khi Chí Phèo nhặt lấy, định coi là của riêng mình thì họ lại xông đến cướp lại. Làng Vũ Đại chủ yếu là những người nông dân thất học, đầy những thành kiến, định kiến độc ác mà bà cô thị Nở là người đại diện phát ngôn đã tuyên bố thẳng thừng: Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ… Ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!

Cánh cửa duy nhất để hắn có thể trở về với xã hội loài người đã đóng sầm lại. Chí định trở lại con đường cũ, bản tính lưu manh trỗi dậy nhưng hương vị tình thương của bát cháo hành, nhân tính vừa thức dậy đã ngăn hắn lại. Trong cơn tuyệt vọng, hắn lấy rượu ra uống nhưng lần này lạ thay càng uống lại càng tỉnh ra. Hắn không thấy hơi rượu mà cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hương vị của tình người cứ ám ảnh dày vò Chí. Hắn ôm mặt khóc rưng rức –những giọt nước mắt của Chí lúc này chứng tỏ nhân tính đã trở về trọn vẹn trong hắn.

Chí Phèo đến nhà bá Kiến sau khi uống rất nhiều rượu. Hành động của Chí lúc này đã được Nam Cao khắc họa rõ nét. Lúc đầu Chí định đến nhà thị Nở nhưng không hiểu sao chân hắn lại đưa hắn đến nhà bá Kiến. Có lẽ trong sâu thẳm tiềm thức hắn đã nhận ra kẻ hủy hoại đời mình chính là bá Kiến chứ không phải bà cô thị Nở. Chí đã đi chệch đường nhưng đúng hướng. Bá Kiến có lúc cả giận mất khôn đã cư xử với Chí như một con vật, đã mỉa mai khát vọng lương thiện của Chí. Vừa đau đớn, vừa căm giận, Chí trợn mắt lên, dõng dạc đòi lại cái quý nhất của đời mình đã bị bá Kiến cướp mất: Tao muốn làm người lương thiện. Chí cũng tỉnh táo nhận ra tình thế bế tắc của mình. Hắn chỉ rõ hai nguyên nhân đẩy hắn vào bước đường cùng: Ai cho tao lương thiện? chính là ám chỉ bá Kiến, kẻ đã đẻ ra con của quỷ dữ làng Vũ Đại. Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? chính là ám chỉ những định kiến tàn ác của xã hội làng Vũ Đại đã chặn đứng khát vọng hoàn lương của Chí. Để bảo toàn tính người vừa trở về Chí đã hành động đột ngột nhưng hoàn toàn lôgic: đâm chết bá Kiến và sau đó tự sát. Bá Kiến chết đau đớn đúng với quy luật của kẻ gieo gió ắt gặt bão. Hành động này dự báo mâu thuẫn giữa hai tầng lớp nông dân và địa chủ trong xã hội Việt Nam đã gay gắt tới mức không điều hòa nổi. Người ta thấy Cách mạng tháng Tám có mầm mống từ tia chớp của lưỡi dao Chí Phèo. Còn Chí, nhờ lưỡi dao mà khẳng định rằng: Thà chết là một con người còn hơn sống như một con vật (ThS. Nguyễn Thành Huân). Hành động có giá trị tố cáo sâu sắc. Nam Cao đã xây dựng Chí Phèo với những đặc tính cá biệt, cá biệt từ tính cách đến hành động. Chí Phèo đã được khắc họa cả ngoại hiện bên ngoài lẫn chiều sâu bên trong. Vốn là anh nông dân hiền lành như đất thế nhưng qua bốn bức tường lao lí ra cuộc đời Chí đã trở thành con quỷ dữ. Chí cứ đắm chìm mãi trong những cơn say dài, tiếng chửi của Chí ám ảnh tâm can người đọc và Chí phản kháng bằng con đường lưu manh. Chí vừa là con quỷ dữ, vừa là quân cờ trong bàn tay kẻ thống trị, và cũng là nô lệ thức tỉnh khi đâm chết bá Kiến lấy máu để rửa thù rồi tự sát để bảo toàn nhân phẩm mới trở về.

Bằng một cái nhìn tinh tế, một trí tuệ sâu sắc và tinh thần sáng tạo của người nghệ sĩ, Nam Cao đã khắc họa thành công một thực tế đã trở thành quy luật ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng: một bộ phận nông dân bị lưu manh hóa, tha hóa, tức là bị các thế lực tàn bạo cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Đồng thời, Nam Cao đã phát hiện và khẳng định thiên tính đẹp đẽ, sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của con người ngay cả khi họ bị xã hội phi nhân tính chà đạp, cướp đi hồn người. Nhà văn khẳng định một chân lí: Dù ở trong hoàn cảnh nào thì bản chất lương thiện của con người vẫn tồn tại. Hướng thiện và tìm đến những điều tốt đẹp – đó là bản tính tự nhiên và ước muốn vĩnh hằng của loài người. Tuy nhiên, Nam Cao chưa thể hiện được sự đổi đời của người nông dân mà bi quan về tiền đồ của họ. Đây là hạn chế chung của thời đại và văn học hiện thực trước năm 1945.

Chí Phèo là đại diện cho người nông dân An Nam thời thuộc địa bị bần cùng hóa và lưu manh hóa nhưng cũng là một sáng tạo độc đáo của nhà văn Nam Cao. Ông khẳng định tình thương cứu rỗi con người, khẳng định bản chất lương thiện, bền vững của con người ngay cả khi bị vùi dập đến méo mó cả nhân hình và nhân tính.

Chí Phèo là một trong những tác phẩm như trải qua biết bao thời gian đến nay vẫn là một tác phẩm được người đọc yêu thích. Tác phẩm không phải là những ngôn từ như sáo rỗng mà nó được viết lên từ chất liệu hiện thực của cuộc sống và tính nhân văn cao đẹp của tác giả cũng như chính nhân vật lan tỏa ra trong lòng người đọc.

Giá Trị Hiện Thực Và Nhân Đạo Trong Truyện Ngắn Chí Phèo Của Nam Cao 30

Là nhà văn trung thành với chủ nghĩa hiện thực, cũng như các cây bút tả chân đương thời, Nam Cao quan tâm trước hết tới việc đi sâu thể hiện tình cảnh khốn khổ của người nghèo bị áp bức, trong đó có Chí Phèo. Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về bức tranh đời sống xã hội nông thôn. Đó là hệ thống tôn ti trật tự của làng Vũ Đại; là ấn tượng về tình trạng khép kín của làng xã phong kiến. Đặc biệt nó đã phơi bày các mối quan hệ xã hội phức tạp của hiện thực, đã miêu tả trung thực những quan hệ thực (Ăng-ghen). Đồng thời là tình thương đối với những con người bị xã hội đẩy vào con đường tha hóa, bị hắt hủi... Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của Chí Phèo.

Nam Cao được coi là nhà văn của nông dân trước hết vì ông có Chí Phèo. Chí Phèo có phạm vi hiện thực phản ánh trải ra cả bề rộng không gian và bề dài thời gian. Làng Vũ Đại trong tác phẩm chính là hình ảnh thu nhỏ của xả hội nông dân Việt Nam đương thời.

Ngòi bút Nam Cao tỏ ra sắc sảo khi vạch ra mối quan hệ thực trạng nội bộ bọn cường hào. Chẳng phải vì đất làng Vũ Đại có cái thế quần ngư tranh thực như lời ông thầy địa lí nói nên bọn cường hào chia năm bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà do chúng là một đàn cá tranh mồi, mồi thì ngon đấy, nhưng năm bè bảy mối. Ngoài mặt tử tế với nhau nhưng trong bụng muốn cho nhau lụi bại. Đây là hiện tượng có tính quy luật ở nông thôn, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội - ruồi muỗi phải chết oan uổng khi trâu bò húc nhau.

Dựng nên bức tranh xã hội ở nông thôn, trước hết Nam Cao tập trung làm nổi bật xung đột giai cấp giữa địa chủ cường hào với người nông dân bị áp bức - phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Nó làm nên giá trị nhận thức và sức mạnh phê phán to lớn.

Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình về giai cấp thống trị ở nông thôn: Bá Kiến - lão cường hào cáo già với giọng quái rất sang, cái cười Tào Tháo cho thấy bản chất gian hùng, khôn róc đời. Và tư cách nhem nhuốc của cụ tiên chỉ: thói ghen tuông, Bá Kiến nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra phương châm: mềm nắn, rắn buông, bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân... Với chính sách: lấy thằng đầu bò trị thằng đầu bò, thu dụng những thằng bạt mạng, không sợ chết, không sợ đi tù.

Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế, tô tức, tham nhũng mà ở Chí Phèo Nam Cao đi vào phương diện: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt về nhân tính, bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo không phải ở chỗ cuộc đời Chí Phèo chỉ là số không: không nhà cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không tấc đất cắm dùi... mà chính là ở chỗ Chí Phèo bị xã hội rạch nát bộ mặt, cướp đi linh hồn, bị loại khỏi xã hội loài người, sống kiếp quỷ dữ.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau chân dung gã say rượu có cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Tuy say, nhưng vẫn mơ hồ thấm thìa nỗi khổ của thân phận. Chí Phèo là điển hình cho một bộ phận cố nông bị đẩy vào con đường lưu manh hóa. Chí Phèo trước hết là hiện tượng có tính quy luật của tình trạng áp bức bóc lột tàn bạo ở nông thôn Việt Nam. Lúc bây giờ. Đó là hiện tượng những người nông dân bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Nam Cao khốn khổ giành lấy sự tồn tại bằng việc bán cả nhân phẩm đã trở thành lực lượng mù quáng dễ dàng bị bọn thống trị lợi dụng. Vì thế, Chí Phèo từ chỗ liều chết với bố con lão, chỉ cần lời nói và mấy hào chỉ trở thành tay sai mới của lão. Sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết đã làm nổi bật hiện tượng có quy luật diễn ra ở nông thôn - hiện tượng lưu manh hóa. Song ý nghĩa khái quát của hình tượng Chí Phèo còn ở cấp độ cao hơn: sự hủy diệt, nhân tính trong xã hội độc ác, không cho con người được làm người.

Tác phẩm Chí Phèo không dừng ở đó mà với câu chuyện về mối tình Chí - Thị, bằng giọng văn bông lơn, có lúc như chế giễu chuyện tình của hạng nửa người nửa ngợm thì đây vẫn là chuyện có nội dung nghiêm túc, chứa đựng tư tường nhân đạo mới mẻ.

Giữa lúc cả làng Vũ Đại không chấp nhận giao tiếp, xem Chí như quỷ dữ, thì một người đàn bà thuộc dòng giống ma hủi, xấu đến ma chê quỷ hờn lại có tấm lòng vàng, thấy Chí hiền lành, Thị Nở chính là chiếc cầu nối đưa Chí ở đáy sâu của sự tha hóa thức tỉnh bản chất người lao động. Bằng sự chăm sóc giản dị, tình yêu thương mộc mạc mà chân thành của người đàn bà khốn khổ đã khơi dậy linh hồn Chí Phèo. Chí nghe thấy những âm thanh cuộc sống thường ngày mà bấy lâu nay vùi trong những cơn say nên Chí không biết đến. Nó vang động sâu xa trong lòng Chí, trở thành tiếng gọi cuộc sống khẩn thiết, làm Chí nhớ đến ước mơ nho nhỏ ngày xưa. Có lẽ đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Để rồi nhận ra sự tác oai, tác quái của mình bấy lâu nay. Và mong muốn giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?... Hay mình sang ở với tớ một nhà cho vui? Khi Thị Nở bê bát cháo hành đến hắn ngạc nhiên bởi đây là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Hắn nhận ra hương cháo hành - hương vị tình yêu thương chân thành, hạnh phúc giản dị mà có thật. Hắn thèm lương thiện, làm hòa với mọi người. Tình yêu của Thị Nở cũng sẽ hé mở cho hắn con dường trở lại làm người. Hai con người bị làng Vũ Đại xua đuổi đã đến với nhau, tình yêu chân chính đã nhân đạo hóa con người. Chẳng phải tình yêu có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ dữ đó sao?

Giá trị nhân đạo còn thể hiện ở tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người. Khi hiểu ra xã hội không công nhận mình, bà cô Thị Nở - định kiến xã hội đã không chấp nhận cho cháu bà đến với Chí. Chí vật vã đau đớn. Hắn càng uống càng tỉnh hắn ôm mặt khóc rưng rức. Chí quằn quại, đau đớn vì tuyệt vọng, thấm thía về tội ác kẻ thù. Chí Phèo trợn mắt chỉ tay vào Bá Kiến đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát. Kẻ thù bị đền tội, và sau đó Chí tự sát. Chí phải chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, không chấp nhận kiếp thú vật. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, Chí chết quằn quại trong vũng máu, trong khao khát được làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện là lời nói đanh thép, phẫn nộ, làm người đọc sững sờ và day dứt. Đó vẫn là một câu hỏi lớn không lời đáp.

Chí Phèo của Nam Cao được đánh giá cao chính ở giá trị tố cáo. Thông qua số phận Chí Phèo, Nam Cao phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ và thực trạng người nông dân bị đày đọa, đè nén và âm thầm chịu đựng rồi tuyệt vọng, liều lĩnh phản ứng cực đoan. Nam Cao cũng bày tỏ niềm cảm thông, tình thương yêu đối với người nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh hóa, phát hiện bản chất tốt đẹp vốn có của họ. Song cũng như các nhà văn hiện thực cùng thời, chưa tìm được cho nhân vật của mình lối thoát. Sau này, bằng con đường cách mạng, Tô Hoài, Kim Lân đã tìm cho nhân vật mình một hướng đi riêng.

Giá Trị Hiện Thực Và Nhân Đạo Trong Truyện Ngắn Chí Phèo Của Nam Cao 31

Truyện ngắn Chi Phèo in lần đầu có tên là Cái lò gạch cũ (Nhà xuất bản Đời mới, Hà Nội, 1941). Sau đó đổi thành Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), tác giả đặt lại tên truyện là Chí Phèo. Đây"là thành công tiêu biểu của Nam Cao về đề tài nông dân, được đánh giá là một kiệt tác trong giai đoạn văn học trước cách mạng tháng Tám. Nội dung truyện Chí Phèo phản ánh xã hội nông thôn ở khía cạnh đấu tranh giai cấp.

Qua hình tượng Chí Phèo - một nông dân bị lưu manh hóa - Nam Cao đã miêu tả chân thực và sinh động cuộc sống bị đè nén, bóc lột đến cùng cực của người nông dân và khẳng định nhân phẩm của họ không bạo lực nào tiêu diệt được.

Suy nghĩ về số phận bi thảm của nhân vật Chí Phèo, người ta thường nói đó là tấn bi kịch của một nông dân nghèo bị tha hoá trong xã hội cũ. Cuộc đời Chí Phèo là cuộc đời khốn khổ của kẻ cùng đinh ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Ở phần đầu truyện, tác giả kể về tuổi thơ của Chí. Từ lúc lọt lòng, Chí đã bị mẹ bỏ rơi trong cái lò gạch cũ giữa đồng. Rồi nó lớn lên như cây cỏ, bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Không người thân thích, không một tấc đất cắm dùi, nó không được ai ban cho một chút tình thương.

Nhưng điều bất hạnh lớn nhất của Chí Phèo là không được sống bình thường một đời sống dù nghèo khổ nhưng lương thiện như bao người khác. Chí vốn là chàng trai nông dân khỏe mạnh, hiền lành. Chỉ vì những cơn ghen bóng gió của lí Kiến mà Chí bị đẩy vào tù. Bảy, tám năm đoạ đày trong tù, chung đụng với lớp người dưới đáy xã hội, tâm hồn Chí đã bị nhuộm đen. Từ mặt mũi đến tính cách hắn đều trở nên dị dạng, đáng sợ. Chí Phèo đã bị xã hội đương thời rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, biến thành con quỷ dữ để rồi bị gạt bỏ không thương tiếc ra khỏi cộng đồng làng Vũ Đại.

Chí Phèo là hiện thân của nỗi khổ đau khôn cùng: sinh ra là người mà không được làm người. Để quên đi nỗi bất hạnh ấy, Chí Phèo uống rượu. Hắn say triền miên, bởi thế hầu như hắn bị tê liệt về ý thức, sống mù tối trong kiếp sống thú vật. Nhưng đến khi tỉnh rượu thì hắn lại cảm nhận sâu sắc thân phận bi đát của mình. Dường như trong những cơn say triền miên, Chí Phèo vẫn tỉnh. Chí luôn ở trạng thái say - tỉnh bất phân. Sự độc đáo của hình tượng Chí Phèo chính là ở chỗ đó.

Mở đầu tác phẩm, tác giả không chỉ giới thiệu nét độc đáo, hấp dẫn trong tính cách nhân vật mà còn hé mở cho người đọc thấy tình trạng bất hạnh của một số phận. Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi... Chính lúc điên rồ nhất cũng là lúc Chí Phèo tỉnh nhất. Cách thu hẹp dần đối tượng chửi cho thấy hắn tỉnh chứ không say. Từ đối tượng xa xôi, vu vơ, không đụng chạm đến ai là trời: Bắt đầu hắn chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào ? Đến đối tượng gần hơn là đời: Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức quá, hắn chửi tất cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn và hắn giận dữ điên cuồng khi không ai lên tiếng cả. Trong cơn say, hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thìa nỗi khốn khổ của thân phận mình. Đó là nỗi khổ bị khinh bỉ, né tránh, ghẻ lạnh. Không có người nào chịu chửi nhau với hắn. Không có ai thèm dây vào hắn. Có nghĩa là dân làng Vũ Đại đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại là còn chịu giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng với hi vọng được nghe người nào đó chửi lại, nhưng hắn chi nhận được sự im lặng đáng sợ. Hắn cô độc, chửi rồi lại nghe, chi có ba con chỏ dữ với một thằng say rượu.

Nam Cao đau xót nhận xét: Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi. Nếu hát được thì đau khổ sẽ vơi bớt. Khổ cho hắn và khổ cho mọi người là trời không phú cho hắn giọng hát. Không biết hát thì hắn chửi, vậy những tiếng chửi rủa kia cũng là một bài hát đặc biệt của riêng Chí Phèo chứ sao? Bài hát lộn ngược của một linh hồn méo mó và đau khổ.

Trong cách chửi của Chí Phèo có cái lôgic của một tâm lí tỉnh táo - tỉnh táo trong đau khổ cùng cực. Chí Phèo muốn cạy miệng thiên hạ nhưng không được. Hắn đau khổ vì bị tẩy chay trong khi muốn hòa đồng với mọi người. Cuộc đời Chí Phèo có thể chia làm hai chặng lớn: trước và sau khi gặp Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở, đời Chí cũng diễn ra hai chặng nhỏ mà cái mốc của nó là nhà tù. Nhà tù thực dân đã biến một chàng trai lương thiện thành một tên lưu manh. Sau khi ra tù, Chí về làng thì cả thế lực hắc ám như bá Kiến đã hoàn thành nốt cái công đoạn cuối cùng của quy trình tha hóa là biến một tên lưu manh thành con quỷ dữ.

Nam Cao miêu tả cuộc đời Chí Phèo là một cơn say dài, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở trên đời. Chí Phèo rơi vào một tình huống bi thảm. Lúc bấy giờ, nếu sự tỉnh táo có hiện ra thấp thoáng sau những cơn say thì đấy mới là tỉnh rượu chứ chưa phải tỉnh ngộ. Mà tỉnh rượu thì chưa mấy ý nghĩa. Chỉ sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo mới có sự bừng tỉnh của lương tri. Hắn thực sự đau đớn vì đã ý thức được về nỗi khổ của mình. Ý thức càng sâu sắc thì nỗi khổ càng thấm thía. Thị Nở đóng vai trò là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời mà trước nhất là trong tâm lí của Chí Phèo.

Trong một lần say rượu, vô tình Chí Phèo gặp Thị Nở - một người đàn bà xấu xí đần độn và quá lứa lỡ thì. Chút tình yêu thương mộc mạc của Thị Nở đã khơi lên ngọn lửa lương tri còn leo lét nơi đáy lòng Chí. Đoạn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao là bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật.

Sớm hôm ấy, Chí Phèo bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài, lòng mơ hồ buồn. Bên ngoài là tiếng chim hót ríu rít, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của những người đi chợ... Những tiếng quen thuộc đó hôm nào chẳng có nhưng bấy lâu nay, Chí Phèo đâu có nghe thấy, bởi hắn luôn chìm ngập trong những cơn say. Giờ đây, những âm thanh ấy vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi thiết tha của sự sống, gợi dậy cái ước mơ chính đáng một thời: Hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm... Đó cũng là mong muốn một cuộc sống hạnh phúc giản đơn của bao nông dân nghèo trong xã hội cũ.

Khi thấy Thị Nở bưng nồi cháo hành nóng hổi đến, Chí Phèo ngạc nhiên và xúc động. Ăn bát cháo từ tay Thị Nở, hắn bỗng nhận ra rằng cháo hành rất ngon; bát cháo của Thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chi gây thù? Hương vị cháo hành lúc này chính là hương vị của tình yêu thương chân chất, của hạnh phúc giản dị mà lần đầu tiên trong đời Chí Phèo được hưởng.

Lần đầu tiên, mắt hắn như ươn ướt. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chi Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người? Lúc này, Chí Phèo đã trở tại con người thật của mình, trở lại là anh canh điền chất phác, thật thà năm xưa.

Trái tim tưởng chừng như chai đá của Chí Phèo đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong Chí cũng hồi sinh. Hắn khao khát được trở lại với cuộc đời bình thường: Trời ơi Ị Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao Ị Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, sẽ là cây cầu nối giữa hắn với dân làng Vũ Đại... Chí băn khoăn, háo hức nghỉ tới một tương tai tốt đẹp: mọi người sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện.

Vậy Thị Nở là ai? Đó là hiện thân của tình người. Chỉ có tình người mới cứu được tính người. Tình người là một sức mạnh nhưng tình người cùng thật mong manh. Đối diện với một định kiến hà khắc, tình người rất dễ tiêu tan, Chút tình thương yêu của Thị Nở không đủ khả năng để cứu Chí Phèo. Con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa hé mở đã bị đóng sầm lại. Định kiến ghê gớm của xã hội (thông qua bà cô Thị Nở) không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hi vọng. Chí Phèo một lần nữa lại bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Bị từ chối, bị bỏ rơi, Chí Phèo đau đớn, uất ức cùng cực và lại mang rượu ra uống.

Trạng thái tâm lí phức tạp của Chí Phèo ở đoạn này được Nam Cao miêu tả thật sống động với những diễn biến tinh vi nhất bằng độc thoại bên trong, bằng hành động bên ngoài, bằng lời bình trực tiếp của người kể chuyện... Tuy nhiên, độc đáo nhất vẫn là dùng chi tiết. Đó là chi tiết hơi cháo hành. Hơi cháo hành là dư vị của tình thương ít ỏi mà Chí Phèo đang rất cần, rất khát khao: Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoáng hơi cháo hành...

Lần này khác mọi lần, càng uống vào Chí Phèo lại càng tỉnh ra. Rượu cũng bất lực, không thể làm lương tri đau đớn của Chí Phèo tê liệt được. Hắn cứ ôm mặt khóc rưng rức. Đã bao lâu nay hắn mới có được cử chi và những giọt nước mắt của con người?! Từ hi vọng đến tuyệt vọng, khởi đầu là nước mắt cảm động khi hắn bưng bát cháo hành trên tay và kết thúc lại là nước mắt đau khổ vì bị Thị Nở bỏ rơi. Vào lúc tuyệt vọng nhất, hơi cháo hành cứ thoang thoáng khiến cho hắn chìm sâu hơn vào nỗi tuyệt vọng. Sang bên kia dốc cuộc đời rồi mà lần đầu tiên hắn mới được ăn cháo hành. Muộn màng, nhưng còn là có. Cháo hành tuy được nấu bằng bàn tay Thị Nở... nhưng dẫu sao có còn hơn không. Đã tưởng đời mình từ nay đã có hơi cháo hành của riêng mình rồi, nào ngờ Chí Phèo không có quyền được hưởng. Cuộc đời nhẫn tâm cướp nốt của hắn. Mất Thị Nở, Chí mất luôn hơi cháo hành. Mất hơi cháo hành là mất cái hi vọng cuối cùng của hắn vào cuộc đời này. Nhưng tại sao nó lại thoang thoáng hiện lên vào lúc này? Để trêu ngươi, để chọc tức Chí Phèo chăng?! Nó cứ chờn vờn đâu đó. Hạnh phúc nhỏ bé ấy, hắn ngỡ trong tầm tay nhưng không sao giữ được vì nó quá đỗi mong manh. Nó cứ thoang thoáng hiện lên để làm cho Chí Phèo thêm tủi, thêm đau; để đẩy tấn bi kịch của hắn lên đến tột cùng. Mất hơi cháo hành - tình thương đồng nghĩa với sự bấu víu cuối cùng cũng hết. Chẳng còn gì để hi vọng nữa. Lòng Chí tan hoang!

Không gì bình thường đến vô nghĩa như hơi cháo hành, vậy mà qua cái nhìn và tấm lòng nhân hậu sâu thẳm của Nam Cao, hơi cháo hành thoáng qua ấy đã hằn như một vết cứa rớm máu trong tâm linh con người. Viết được như vậy chỉ có thể là bút lực tài hoa của một thiên tài!

Bản chất lương thiện của Chí Phèo bị vùi lấp bấy lâu nay giờ đã trỗi dậy lương tri con người đã trở về. Nhưng sự trở về của lương tri, trớ trêu thay, lại nhanh chóng đẩy bi kịch tha hóa của Chí Phèo lên đến điểm đỉnh của nó. Từ tận cùng tuyệt vọng, Chí Phèo đã chuyển sang tột cùng căm uất và hắn đã giắt dao đi... Cũng như mọi lần, Chí Phèo vừa đi vừa chửi... Chí Phèo đau đớn vì tuyệt vọng, đồng thời hiểu rõ hơn bao giờ hết tội ác của kẻ đã huỷ hoại đời hắn. Chí Phèo đã đến thẳng nhà bá Kiến, trợn mắt, chi tay vào mặt lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo ở cuối tác phẩm: Tao muốn làm người lương thiện!... Ai cho tao lương thiện ?... Tao không thể là người lương thiện được nữa! Biết không! Chi có một cách... biết không... Lời nói của Chí Phèo đanh thép và phẫn nộ, âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đọc sững sờ và day dứt.

Kẻ thù đã bị đền tội nhưng ngay sau đó, Chí Phèo tự sát. Chí Phèo phải chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí không thể chấp nhận trở lại kiếp sống thú hoang. Chí Phèo đã chết trước ngưỡng cửa trở về cuộc sống bình thường, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn. Trước đây, để được tồn tại, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, phải bán linh hồn cho quỷ dữ. Giờ đây, khi ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về thì Chí Phèo lại phải từ bỏ cuộc sống của mình. Chí Phèo chết quằn quại giữa vũng máu trong niềm đau thương tột độ vì mong ước giản dị, chính đáng và được làm người lương thiện không thể trở thành hiện thực.

Chí Phèo chết nhưng chưa hết chuyện. Khi nghe tin hắn chết, Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không xa nhà cửa và vắng người lại qua... Một "Chí Phèo con" sắp ra đời?! Nam Cao đã gióng một hồi chuông cảnh báo: Còn những "cái lò gạch cũ" trong xã hội ấy thì vẫn còn có những Chí Phèo khác ra đời. Nghĩa là tuy Chí Phèo đã chết nhưng bi kịch Chí Phèo vẫn còn, nếu không xoá bỏ cái xã hội thối nát ấy đi.

Từ hình tượng Chí Phèo, tác phẩm toát lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.

Thứ nhất là giá trị hiện thực. Câu chuyện là bức tranh phản ánh sự tha hoá của người nông dân nghèo khổ dưới ách thống trị của thực dân phong kiến thời Pháp thuộc. Phản ánh nỗi khổ của nông dân, Nam Cao không đi sâu vào nạn sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan lại tham nhũng, thiên tai địch hoạ,..

mà ở truyện ngắn Chí Phèo, tác giả tập trung khai thác trên phương diện người, nông dân nghèo bị bạo lực đen tối tàn phá về tâm hồn, huỷ hoại nhân tính, phu định giá trị và tư cách làm người.

Chí Phèo phản ứng quyết liệt, gay gắt bằng thái độ ngang ngược, liều mạng, gây gổ, chửi bới... Lúc nào hắn cũng say, lúc nào cũng sẵn sàng rạch mặt ăn vạ, kêu làng. Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm. Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả lúc say, hắn say thì hắn làm bất cứ thứ gì người ta sai hắn làm. Dân làng sợ hãi xa lánh và ghê tởm hắn. Từ anh Chí lương thiện, bị hai thế lực cường quyền và định kiến làm cho tha hoá, đã biến thành Chí Phèo, con quỷ làng Vũ Đại. Chí Phèo sống cũng như chết. Sinh ra ở làng Vũ Đại nhưng hắn lại bị chính dân làng Vũ Đại từ chối, ruồng bỏ. Không những Chí Phèo khổ về vật chất mà còn phải sống kiếp sống tối tăm như thú vật. Chí Phèo đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, bị cướp đi linh hồn người để rồi bị loại khỏi cộng đồng xã hội.

Quá trình biến đổi dữ dội trong tính cách của nhân vật Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo sự huỷ hoại ghê gớm của cái xã hội suy đồi đối với phẩm chất, nhân cách của người nông dân cùng khổ.

Tác phẩm Chi Phèo là bức tranh phản ánh chân thực và sâu sắc bộ mặt nông thôn Việt Nam trong xã hội thực dân, phong kiến trên bình diện đấu tranh giai cấp. Hành động Chí Phèo vung dao đâm chết bá Kiến không phải là vô thức, càng không phải là vụ giết người của gã Chí Phèo lưu manh mà cao hơn thế, đó là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân cùng khổ đã thức tỉnh về quyền sống, uất ức vùng lên. Nhà văn Nam Cao đã khẳng định tính chất khốc liệt của mối xung đột giai cấp ở nông thôn là không thể hòa giải được. Xung đột ấy càng nén xuống càng dễ bùng nổ. Mâu thuẫn giai cấp dường như đã lên tới đỉnh điểm, cần phải được giải quyết theo chiều hướng tích cực nhất.

Hình tượng Chí Phèo còn thể hiện giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm. Nhà văn Nam Cao đã phản ánh sự cùng cực không lối thoát của nông dân trong xã hội đương thời bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo và sự thông cảm, thương xót chân thành. Nam Cao đi sâu thể hiện tình cảnh khốn khổ của người nông dân nghèo bị áp bức, mà Chí Phèo là đại diện.

Hổi trẻ, Chí là người thấp cổ bé họng nhất và cũng bị ức hiếp nhiều nhất ở làng Vũ Đại. Càng ở hiền thì càng không gặp lành, Chí bị hắt hủi, bị xúc phạm về nhân phẩm, bị lăng nhục một cách bất công. Chí khốn cùng hơn cả hạng cùng đinh. Vốn hiền như đất, nhưng càng hiền thì hắn lại càng bị đạp sâu xuống bùn đen và cuối cùng thì không còn được coi là con người, phải sống kiếp thú hoang. Tuy nhiên, Chí Phèo vẫn mong muốn được sống một cuộc đời bình thường, được hưởng hạnh phúc đơn sơ như mọi người. Chất nhân văn thấm đẫm trong ngòi bút của nhà văn toát lên từ những chi tiết ấy.

Đoạn viết về sự thức tỉnh của tính người trong lương tri Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ, thể hiện tư tưởng nhân đạo cao cả của ngòi bút Nam Cao: khi cái ác gặp tình thương thì nó sẽ được hoá giải và bản tính lương thiện sẽ trở về.

Tư tưởng nhân đạo còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả điểm đỉnh tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Tuy là con quỷ của làng Vũ Đại nhưng tính thiện trong con người Chí Phèo chưa chết hẳn. Chí Phèo thà chết chứ quyết không chịu quay về kiếp sống thú vật nữa. Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao muốn đặt ra một vấn đề lớn về quyền sống của con người: Làm thế nào để con người được sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo, phi nhân tính đương thời? Đó là câu hỏi mà xã hội khi ấy chưa thể có lời giải đáp.

Nam Cao đã thành công xuất sắc trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ để diễn tả quá trình tâm lí phức tạp và khắc hoạ tính cách nhân vật vừa độc đáo vừa có ý nghĩa điển hình cao độ. Với giá trị nội dung sâu sắc và giá trị nghệ thuật độc đáo, truyện ngắn Chí Phèo được coi là một trong những tác phẩm hay nhất của nền văn xuôi hiện đại và Nam Cao xứng đáng là nhà văn hiện thực nổi tiếng của giai đoạn văn học trước Cách mạng tháng Tám.

Giá Trị Hiện Thực Và Nhân Đạo Trong Truyện Ngắn Chí Phèo Của Nam Cao 32

Truyện ngắn Chí phèo là một trong những tác phẩm nổi bậc nhất viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Tác phẩm có giá trị phản ánh hiện thực và giá trị nhân đạo hết sức to lớn. Một góc nhìn khác biệt về hiện thực cuộc sống giúp Nam Cao phát hiện và kịp thời ời phản ánh chân thực xã hội Việt Nam trong đêm trước Cách mạng.

* Giá trị hiện thực của truyện ngắn Chí Phèo

Tác phẩm phản ánh những mâu thuẫn, xung đột gay gắt ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám trên bình diện rộng lớn và tầm khát quát lớn hơn.

Trước hết là mâu thuẫn giữa nội bộ giai cấp thống trị ở cấp làng xã. Cụ thể là mâu thuẫn sống còn giữa phe cánh Bá Kiến và những kẻ có thế lực khác. Tại làng Vũ Đại - một mảnh đất "quần ngư tranh thực", các phe nhóm tìm cách thanh trừng lẫn nhau. Chúng lún nhau xuống bùn và luôn ra sức tác oai tác oái. Chúng không trừ bất kì thủ đoạn nào để có thể hạ bệ lẫn nhau. Càng xung đột, chúng lại càng mạnh lên vì không ngừng tăng cường lực lượng và sức mạnh của mình để sinh tồn. Điều đáng nói là chính mâu thuẫn gay gắt giữa hai phe là nguyên nhân trực tiếp gây ra tai ương cho những người dân lương thiện.

Tiếp đến là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp nông dân. Đây là mâu thuẫn xã hội quyết liệt nhất.

Tiêu biểu cho giai cấp thống trị là nhân vật Bá Kiến. Bá Kiến hội tụ đủ những điều xấu xa và tàn bạo của một kẻ thống trị điển hình. Lão không những gian manh mà còn xằng bậy hết sức. Lão không những tàn bạo, độc đoán mà còn hết sức khôn ngoan, quỷ quyệt.

Đây là một góc nhìn sâu sắc của nhà văn về giai cấp thống trị trong xã hội. Bá Kiến khác với một số nhân vật khác như Nghị Quế (trong Tắt đền - Ngô Tất Tố) hay Nghị Lại (trong Bước đường cùng - Nguyễn Công Hoan ), dù có tham lam nhưng không xảo trá. Bá Kiến giỏi che đậy. Lão sinh ra trong gia đình sáu đời làm lý trưởng. Lão giỏi trong việc trị dân. Trời phú cho lão cái giọng quát rất sang và nụ cười Tào Tháo.

Trong phép trị người, lão có phương sách thống trị hẳn hoi: mềm nắn rắn buông, túm thằng có tóc chứ không túm thằng trọc đầu, lấy thằng đầu bò trị thằng đầu bò, dùng thằng liều trị thằng liều. Lão lại hết sức khôn ngoan, lọc lõi róc đời. Lão tìm mọi cách đẩy người khác xuống nước rồi giả vờ vớt lên. Hãm hại người ta nhưng cuối cùng lại để người ta mang ơn mà làm việc cho lão. Từ tội nhân mà lão biến thành ân nhân. Còn nạn nhân thì biến thành tội nhân phải ghi ơn cứu vớt của lão. Thật là cách đối nhân xử thế thâm hiểm vô cùng.

Chí Phèo tiêu biểu cho số phận người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện nhưng xui rủi bị đẩy vào con đường tha hóa để rồi bị loại ra khỏi xã hội loài người và khi thức tỉnh lương tâm phải chết một cách thảm khốc.

Cuộc đời Chí Phèo là chuỗi dài của những khổ đau cùng cực. Không chỉ Bá Kiến là kẻ trực tiếp tước đoạt quyền sống, quyền làm người của hắn mà xung quanh Chí còn có biết bao thế lực khác. Không Bá Kiến thì kẻ khác cũng gây ra những bất hạnh đối với cuộc đời hắn thôi. Sự chuyển biến của Chí Phèo cũng là sự chuyển biến của người nông dân trước Cách mạng. Trong bước đường cùng, họ cũng làm liều, họ cũng vùng lên tìm lối thoát. Nhưng càng phản khán, cái dây ràng buộc của giai cấp thống trị như chiếc thòng lọng càng xiết chặt hơn. Cuối cùng cũng đi vào bế tắc, tuyệt vọng.

Nam Cao cũng phát hiện ra mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị thực dân và giai cấp nông dân là mâu thuẫn không thể điều hòa được. Giai cấp thống trị với tham vọng vơ vét thật nhiều tài sản và không ngừng đàn áp nông dân để củng có quyền thống trị của mình. Còn giai cấp nông dân trong cảnh sống bức bối, ngột ngạt không ngừng phản kháng mãnh liệt. Đó là một quy luật tất yếu của xã hôi. Hễ còn xã hội bất công, vô nhân đạo thì vẫn còn hiện tượng Chí Phèo. Hay rộng hơn là hiện tượng người thiện lương bị tha hóa rồi phải chết một cách thê thảm.

* Giá trị nhân đạo của truyện ngắn Chí Phèo

Chí Phèo là một bài ca cảm động về tình yêu thương con người

Qua cuộc đời và số phận đầy bi thảm của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao thể hiện sâu sắc tình yêu thương vô hạn của mình đối với những số phận khổ đau trong cuộc đời. Dù xuyên suốt tác phẩm chỉ là một giọng kể khách quan sắc lạnh. Nhưng ẩn sâu trong đó là một nỗi đau và niềm thương sót đối với bi kịch con người bị tước đoạt cả quyền được sống và quyền được làm người một cách chính đáng. Đó là nỗi đâu về hiện trạng con người bị chà đạp, bị hủy hoại cả nhân hình lẫn nhân tính. Từ tư cách con người phải sống như một con vật vô tri và đơn độc.

Không những ở nhân vật Chí Phèo, cả nhân vật Thị Nở cũng là một thành công của Nam Cao. Bên trong con người đàn bà xấu xí đến "ma chê quỷ hờn" kia lại có một sự cảm thông cao quý mà những người bình thường, đẹp đẽ khác không có được. Trong người đàn bà ngờ nghệch, dở dở ương ương ấy lại có một tình yêu thánh thiện, vô tư đến thế. Có lẽ, chỉ có một tría tim không toan tính như Thị Nở mới thấu hiểu, mới không sợ hãi, thù ghét, mới có thể cảm hóa được con quỷ tàn bạo trong con người Chí Phèo.

Chí Phèo là một bản cáo trạng đanh thép xã hội bất nhân đã chà đạp lên nhân phẩm con người, đẩy người nông dân hiền lành vào bước đường cùng không lối thoát.

Chính cái xã hội vô nhân đạo và giai cấp thống trị bất nhân ấy đẩy những người nông dân lương thiện vào con đường tha hóa, biến dạng đến khủng khiếp. Bá kiến là một đại diện điển hình và hết sức sinh động cho cái xã hội "chó đểu" ấy. Hằng ngày, hắn cưỡng đoạt, cướp bóc, vun vét cho thật đầy túi tham của hắn. Ghét ai thì hắn làm cho điêu đứng. Thâm hiểm nhất là cái mưu trị người của hắn. Hắn âm thầm xô cho người ta ngã rồi đưa tây đỡ họ dậy để họ phải mang ơn. Mấy thằng cứng đầu không trị được thì hắn dùng, lấy "đầu bò trị mấy thằng đầu bò". Quả thực, hắn là tên cáo già thâm hiểm, xảo quyệt và gian manh lừng lẫy.

Xã hội ấy cũng tìm cách tiêu diệt tận cùng quyền sống của con người, hủy hoại cả nhân hình lẫn tính của họ. Bất kì một sự phản kháng, thậm chí là hiền lành nào cũng đều bị tiêu diệt. Cái giai cấp thống trị ấy không muốn để ai được yên. Chí Phèo hiền như cục đất, tưởng chừng như một cuộc đời êm đẹp sẽ đến với Chí để bù đắp cho cái thân phận mồ côi, hèn nhục của hắn. Có ai ngờ, một ngày, người ta bắt giải hắn lên huyện không rõ vì lí do gì. Rồi hắn bặt vô âm tính luôn từ đó.

Bảy, tám năm sau hắn trở về làng, cái anh Chí hiền lành ngày xưa giờ không còn nữa. Hắn trở nên thô lỗ, ngang ngược và thích rạch mặt ăn vạ như bao kẻ côn đồ khác.

Lần thứ nhất, Chí Phèo bị tước đoạt quyền sống và quyền làm người một cách trắng trợn và tàn bạo. Trong lòng Chí Phèo chất chứa hận thù. Nhưng hắn không thể nhận ra ai mới là kẻ thù đích thực của mình. Thế nên hắn mới chửi mọi thứ có liên quan tới hắn và hi vọng trong đó có cả kẻ thù của mình. Đó là một sự phản kháng mù quáng và tuyệt vọng của người nông dân trong bóng tối cuộc đời. Họ quá khổ nhưng không biết vì sao họ khổ, ai làm họ khổ?

Lần thứ hai, khi tình yêu của Thị Nở đánh thức lương tri và khát vọng sống lương thiện của hắn trong chuỗi ngày say sỉn, Chí Phèo lại bị cướp mất đi cơ hội duy nhất. Thị Nở rời đi, cánh cửa bước vào cuộc đời đóng sầm lại trước mắt. Hắn rơi vào tuyệt vọng cùng cực. Trong phẫn uất, Chí nhận ra cái nguyên nhân đích thực gây nên bi kịch cho cuộc đời hắn. Đó chính là Bá Kiến. Và một kết cục bi thảm đã xảy ra như một quy luật tất yếu. Chí Phèo cầm dao đâm chết Bá Kiến rồi tự vẫn sau đó. Hắn chết trước ngưỡng cửa bước vào cuộc đời.

Hình tượng nhân vật Chí Phèo là một minh chứng sinh động cho cái hiện thực tàn khốc của xã hội Việt Nam trước Cách mạng. Muốn tồn tại bằng nhân hình thì nhân tính mất đi, phải bán đi linh hồn của mình để tồn tại. Một khi nhân tính trở về thì nó không thể chấp nhận cái nhân hình ấy. Nó cự tuyệt, nó xua đuổi một cách quyết liệt. Cái chết của Chí Phèo là tất yếu, không thể khác được.

Tác phẩm trân trọng, khẳng định và đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người

Dù sống trong bối cảnh ngột ngạt nhưng bản chất lương thiện vẫn tiềm tàng trong những con người nghèo khổ.

Trước hết là bản chất lương thiện ở những con người xấu xí, kệch cỡm chưa hẳn đã mất đi. Chí Phèo bị chà đạp nhân hình lẫn nhân tính. Bá Kiến nhuộm đen nhân tính Chí Phèo. Trong con người tưởng như cả xác lẫn hồn đều mất đi nhưng vẫn tồn tại bản chất lương thiện.

Xã hội dù khô héo tình người nhưng nhân tính trong Chí vẫn chưa cạn. Chí khóc khi được ăn cháo hành của thị Nở chính là minh chứng sinh động cho bản chất lương thiện trỗi dậy của y. Chí trở lại lương thiện bằng nước mắt. Tình thương của thị giúp bản tính thiện lương của Chí hiện hình. Rồi Chí lại khóc khi không níu kéo được Thị Nở ở lại. Một khi còn biết khóc, còn biết sợ hãi thì cái nhan tính con người hãy còn đó.

Chính Thị Nở là phát hiện lớn nhất về Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Thị dở hơi, đần độn. Người đàn bà ấy là sản phẩm không hoàn thiện của tạo hóa nhưng ở thị có cái mà cả một xã hội lạnh lùng kia không có: ấy chính là tình thương. Tình thương của thị đánh thức lương tâm Chí, cứu vớt số phận Chí. Chính thị đã mang đến cho Chí cuộc sống đúng nghĩa một kiếp người, dù chỉ có năm ngày ngắn ngủi.

Sự thức tỉnh lương tâm của con người lầm lỗi là nguồn cội của sức mạnh phản kháng quyết liệt, dữ dội như vũ bão. Cái chết của Chí chính là sự chiến thắng của lương tâm. Chí Phèo gắng gượng về với xã hội con người. Hắn đã rất cố gắng. Chỉ cần mở được cánh cửa là trở về. Nhưng nó lại đóng sầm lại trước mặt Chí. Nếu Chí không chết, Chí lại sẽ trở về cuộc sống của loài quỹ dữ. Chí chết trên ngưỡng cửa trở về với xã hội loài người.

Sự thức tỉnh khiến y nhận ra được giá trị của sự lương thiện, thà chọn cái chết còn hơn là quay về cuộc sống loài quỹ, loài thú như trước đây.

Tác phẩm Chí Phèo đặt ra một câu hỏi lớn: làm sao để con người được sống trong lương thiện?

Ai cũng muốn sống lương thiện. Đó không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi chính đáng của con người. Nhưng trong xã hội tàn bạo ấy, họ không thể có được một cuộc sống yên ổn như chính bản chất của họ. Bá Kiến và những phe cánh đối địch liên tiếp gây nên những nghịch cảnh đớn đau đối với người nông dân. Không chỉ Chí Phèo bị tha hóa, mà trước đó đã có những Binh Chức, Binh Thọ, Tư Lãng,... Một khi còn có những tên như Bá Kiến thì vẫn xuất hiện những người như Chí Phèo. Bởi thế, tìm kiếm sự lương thiện trong xã hội đen tối ấy quả thực còn khó hơn cả cái chết.

Qua tác phẩm, Nam Cao đã chỉ ra, hãy ngăn chặn xã hội vô nhân đạo làm tha hóa con người là phải thay đổi, cải tạo xã hội để nó nhân đạo hơn. Chỉ khi đó lương thiện mới được xác lập.

Giá Trị Hiện Thực Và Nhân Đạo Trong Truyện Ngắn Chí Phèo Của Nam Cao 33

Chí Phèo là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao. Chính truyện ngắn này đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945. Trước khi Chí Phèo ra đời đã có hàng loạt tác phẩm hiện thực viết về người nông dân bị áp bức, bóc lột đương thời mà tiêu biểu là Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Nhưng khi viết Chí Phèo, quả thật là Nam Cao đã "khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có". Mà một trong những sáng tạo độc đáo của Nam Cao là xây dựng nhân vật hình tượng Chí Phèo.

Chí Phèo sinh ra đã là một đứa trẻ vô thừa nhận. Một buổi sáng, một anh đi thả ống lươn bắt gặp đứa trẻ trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bén cái lò gạch bỏ không. Anh ta đem về cho một người đàn bà góa mù. Người này bán hắn cho một bác phó cối không con. Mặc dù bị mua đi bán lại, nhưng ít ra tuổi thơ của Chí Phèo cũng còn được sông trong bàn tay cưu mang của người lao động. Khi đến tuổi trưởng thành, Chí Phèo đi làm canh điền cho nhà bá Kiến. Có thế nói khởi điểm cuộc đời Chí Phèo là một con người lương thiện. Nhưng vì sao từ một con người hiền lành, nhút nhát và có lòng tự trọng. Chí Phèo lại trở thành một ke đâm thuê chém mướn, "một con quỷ dữ của làng Vũ Đại". Nguyên nhân của sự tha hóa là sự ghen tuông của bá Kiên. Hắn đã bò tù Chí Pheo với một lí do hết sức tầm thường là ghen với anh canh điền hiền lành, khỏe mạnh nhưng lại được lòng bà Ba. Nếu như sự ghen tuông của bá Kiến là sự khởi đầu thì nhà tù thực dân phong kiến là bước tiếp theo nhào nặn Chí Phèo trở thành một con người biên chất, tha hóa. Lúc bước chán vào nhà tù, Chí Phèo chỉ là một anh chàng nông dân hiền lành, ngờ nghệch. Nhưng lúc ra khỏi nhà tù, hắn đã trỞ thành một con người khác hẳn - khác từ cái vỏ bề ngoài cho tới tính cách bên trong. "Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng cá, cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mật thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trong gớm chết. Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trố rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay củng thế! Trông gớm chết". Sự thay đối về ngoại hình này chỉ là bước đầu tiên đổ Nam Cao miêu tả sự biên đổi, tha hóa bên trong Chí Phèo, "hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa dến xế chiều".

Cuộc đời của Chí Phèo cứ say tràn từ cơn này sang cơn khác. Chí gây sự với cha con bá Kiến, đội Tảo, nhưng Chí Phòo cũng dọa đốt quán bà hàng rượu và đem tai họa đến cho nhiều người dân vô tội khác. Lý giải quá trình biến chất này của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã chí ra được nguyên nhân chính: Đó là do những kẻ như bá Kiến, và sâu xa hơn, là xã hội thực dân phong kiến gây nôn. Chí vừa là nạn nhân khốn khô của bọn cường hào, địa chủ vừa là "con quỷ dữ" đối với nhân dân làng Vũ Đại. Chí Phèo sông cô độc giữa làng, trong sự ghê rợn xa lánh của toàn thể loài người, trong những thành kiên nặng nề của xã hội. Chí Phèo tức tối, đau khổ không ai biết, Chí Phèo chửi bới, kêu làng chẳng ai nghe. Chúng ta tưởng rồi Chí Phèo sẽ sông và chết đi trong cái hoang mạc cô đơn của chính mình. Thế nhưng thị Nở đã xuất hiện và mang đến tình vêu. Sự xuất hiện của thị Nở như một tia chớp làm sáng lên cuộc đời tăm tôi dằng dặc của Chí Phèo. Và chính thị Nở đã vựt Chí Phèo đứng dậy từ vực sâu của sự tha hóa. Thật bất hạnh cho một người con gái nêu như sinh ra trong đời đã không là một cô gái đẹp. Và nhân vật thị Nở lại càng bất hạnh hơn khi thị Nở chẳng có gì ngoài ba thư nghèo, xấu, ngán ngơ. Ba điều ấy như ba mặt của một lô cốt hình tam giác mà Nam Cao đã nhốt chặt nhân vật thị Nở vào trong đó. Nhưng bên trong cái xấu xí ấy là cả một tấm lòng biết cảm thông và chia sỏ. Lòng tốt và sự cảm thông của thị Nở tuy rằng không thể làm thay đổi một số phận nhưng cũng đã cứu được tâm hồn một con người.

Và môi tình Chí Phèo - thị Nở là một môi tình rất mực trần trụi nhưng cũng rất thực lãng mạn. Trần trụi bới vì họ là hai con người sống tận đáy xã hội, đều bị xã hội miệt thị và khinh ré như nhau. Ban đầu họ đến với nhau chỉ đơn thuần là do nhu cầu xác thịt, do nhu cầu của bản năng tầm thường và sự gặp gỡ ấy chỉ là sự gặp gỡ giữa hai thế xằc, hai c.on thú. Nhưng nếu như chỉ có hiện thực trần trụi ấy thôi thì Nam Cao đã không còn là Nam Cao và môi tình này cũng không có gì đáng nói. Dưới ngòi bút tưởng chừng như cười cợt, tàn nhẫn của tác giả là cả một tấm lòng nhân đạo. Đó là tình yêu thương chân chính rất được ông cảm thông và bênh vực. Thực ra, trong giai đoạn văn học 1930 - 1945 có nhiều mối tình rất đẹp nhưng nghiêm chỉnh mà nói thì có mối tình Chí Phèo - thị Nở là môi tình đẹp nhất, ở những mối tình khác, trai gái trao cho nhau sự sống tinh thần đã có sẵn. Còn ở môi tình này, họ đã trao cho nhau sự sông được chắt chiu từ cõi chết, từ đám rong rêu gỗ mục của một đời thống khố mênh mông này.

Sau đém gặp gỡ với thị Nở, Chí Phèo cầm thấy bâng khuâng mơ hồ buồn và lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Nếu như lâu nay say vô tận, "có lẽ chưa bao giờ tỉnh táo để nhỞ rằng có hắn ở trên đời" thì sáng nay lần đầu tiên hắn đã tỉnh táo. Và hắn tỉnh táo để nhìn lại cuộc đời mình. Từ những ngày xưa rất đổi xa xôi, đến hiện tại đáng buồn và nhất là tương lai chắc chắn sẽ là "đói rét, ốm đau và cô độc". Lần đầu

tiên Chí Phèo đốì diện với chính mình và nhận ra tình trạng tuyệt vọng của bản thân. Và bát cháo hành bình dị mà thị Nở đem đến đã có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Chí. Nó đã góp phần đánh thức tâm hồn Chí Phèo, giúp Chí Phèo trở lại đúng bản chất của mình, trở lại là một anh canh điền trong sáng, lương thiện năm xưa. "Đó là cái bản tính thường ngày bị lấp đi". Hắn ao ước được làm người, được vào địa hạt những tương giao nhân loại, được trở về với cuộc sống như mọi người.

Nhưng cánh cửa cuộc đời đã đóng chặt, không cho Chí Phèo trở lại làm người. Xã hội - qua thái độ của bà cô thị Nở và của cả thị Nở nữa đã quá phũ phàng cự tuyệt khát vọng làm người của Chí Phèo. Con đường sông lương thiện mà Chí Phèo tưởng như đã trải ra trước mắt mình thực ra không hề có. Nó cũng như cái mặt hồ ảo ảnh trong sa mạc mênh mông một buổi trưa nắng cháy đối với người lữ hành đang khát nước. Và Chí Phèo đã kết thúc bi kịch cuộc đời mình khi vác dao đến đâm chết bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước đây để sông thì Chí phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ dữ. Đến khi ý thức về nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về thì lại phải thủ tiêu cuộc sống của mình. Có thể nó đã chết ngay trên ngưỡng cửa trở về sự sông.

Trong trạng thái chập chờn say tỉnh, chưa nhận thức được ngay kẻ thù của mình. Những người đầu tiên mà Chí nghĩ đến đã là bà cô thị Nở và thị Nở - kẻ trực tiếp gây nên sự đổ vỡ của môi tình. Nhưng trên con đường dẫn đến nhà thị Nở, điều gì đã khiến Chí Phèo rẽ vào nhà bá Kiên? Có người lí giải hành động này chỉ là sự quon chân của Chí Phèo. Nhưng thực ra không hẳn vậy. Trong trạng thái chập chờn say tỉnh đã từng bước lần ra đầu mối của vấn đề. Đối mặt với bá Kiến, Chí dõng dạc: "Tao muôn làm người lương thiện". Hai chữ "lương thiện" thót ra từ cửa miệng của Chí Phèo với biết bao nỗi niềm và tâm trạng đau đớn. Nó vừa là niềm khát khao đòi hỏi, đồng thời cũng là tiếng kêu đầy tuyệt vọng. Và động lực thúc đẩy giết bá Kiến không trực tiếp từ bi kịch tha hóa mà từ bi kịch bị cự tuyệt quyền được làm người lương thiện, từ nỗi đau khổ vì đã biết ý thức về nhân phẩm của mình. Cái chết của Chí Phèo ít nhiều mang một ý nghĩa giai cấp và ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó là bản cáo trạng bọn địa chủ cường hào gian ác và luận tội cả chế độ xà hội tàn bạo đen tối, xã hội thực dân phong kiến.

Tác phẩm Chí Pheo của Nam Cao được dư luận đánh giá cao chính là ở giá tri hiện thực của nó. Thông qua số phận Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một cách sâu sắc hiện thực xà hội Việt Nam những năm 1940 -1945 và thực trạng đời sống người nông dân Ở những năm đen tối, ngột ngạt nhất.

Giá trị nhân đạo của Chí Phèo được nhà văn thê hiện với một bút pháp hết sức độc đáo, khác hẳn với các nhà văn đương thời. Đọc tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố hay Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, người đọc dỗ dàng cảm nhận được những rung cảm, xót thương của nhà văn trước sô phận của các nhân vật. Nhưng với Chí Phèo của Nam Cao thì khác hẳn.

Ngòi bút của Nam Cao ở đây thật sắc sảo, lạnh lùng, đối lúc cười cợt, thậm chí có khi phũ phàng đối với nhân vật của mình. Nhưng thật ra đây chỉ là cảm giác bên ngoài. Đọc kĩ lại tác phẩm, ngẫm nghĩ sâu hơn vào cuộc đời, số phận nhân vật của Nam Cao, chúng ta mới thấu hiểu được tấm lòng nhân đạo rất mực sâu sắc và lớn lao của nhà văn. Nội dung nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo mang tính triết lí cao. Nó đã đật ra một vấn đề xã hội nóng bỏng, bức xúc: đó là tình trạng nhân tính con người đang bị chà đạp, bị biến chất. Số phận đau khổ của Chí Phèo không phải là cá biệt và sự biến chất, tha hóa của Chí Phèo là do xã hội thực dân phong kiến gây ra. Với tác phẩm Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã thỉnh lên một tiếng chuông báo động, lưu ý mọi người về cuộc sống của một tầng lớp người cùng khổ nhất trong xã hội.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng viết: "Sông trên đời này cần có một tấm lòng". Một tấm lòng để gió sẽ cuốn đi, ra sông, ra bể, lên núi, xuống vàng và rồi ở đâu cũng cảm nhận được "Những gì xuất phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim". Thật vậy, Nam Cao đã xây dựng hình tượng nhân vật Chí Phèo với tất cả tấm lòng nhân đạo và niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người cùng khổ. Và người đọc hôm nay đã hiểu thêm về thân phận con người trong xã hội cũ, từ đó càng thêm trân trọng và bảo vệ những gì hạnh phúc của mình đang có được. Chí Phèo mãi mãi là một tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945.

Giá Trị Hiện Thực Và Nhân Đạo Trong Truyện Ngắn Chí Phèo Của Nam Cao 34

Trong nền văn học hiện thực nước ta ngoài những cái tên như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng...thì cái tên Nam Cao được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá rất cao về những tác phẩm tố cáo hiện thực của nhà văn này. Với nhưng quan điểm tích cực về văn chương Nam Cao đã cho ra đời những tác phẩm "khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Hẳn ai cũng biết đến tác phẩm nổi tiếng của ông đó chính là Chí Phèo, vẫn là một đề tài về người nông dân trong xã hội phong kiến thế nhưng Nam Cao không đi khám phá nhân vật về cuộc sống nghèo khooe phải bán chó bán con mà nhà văn nói về những số phận nông dân bị tước đoạt quyền làm người. Đặc biệt qua truyện ngắn này ta thấy được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Trước hết là giá trị hiện thực, vậy giá trị hiện thực là gì?. Có thể tạm định nghĩa là giá trị nói lên những bộ mặt hiện thực của cuộc sống mà từ đó khi nhìn vào đấy người ta biết rằng hiện thực nước ta lúc bấy giờ phải sống như thế nào. Chính vì thế nhà văn hiện thực Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo để từ một con số không tròn trĩnh để từ đó ta thấy được những bi kịch mà xã hội phong kiến thực dân đã gây nên cho một người dân lương thiện hiền lành.

Giá trị hiện thực trong truyện ngắn đó là phản ảnh quy luật ở nước ta thời Pháp thuộc, người dân lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng trở thành lưu manh hóa bần cùng hóa, thành một con quỷ dữ và không thể quay trở lại làm người được nữa. Tất cả những điều nói trên được thể hiện rõ qua cuộc đời đầy những đau thương bi kịch của nhân vật Chí Phèo.

Cách mở đầu câu chuyện của tác giả cũng góp phần thể hiện được hiện thực cuộc sống những năm ấy. Chí Phèo xuất hiện với dáng vẻ của một thằng say rượu vừa đi vừa chửi. Đó là cách mà hắn giao tiếp với mọi người xung quanh. Thế nhưng nào có ai tiếp chuyện Chí, họ không thèm chấp Chí Phèo khi chửi cả làng Vũ Đại.Cứ say là Chí chửi "bắt đầu hắn chửi trời, có hề gì trời có của riêng nhà nào, sau đó hắn chửi đời, đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình lên hắn chửi cả làng Vũ Đại nhưng làng Vũ Đại ai cũng nghĩ chắc nó chừa mình ra". Cứ thế chỉ một thằng say rượu với ba con chó cũng làm inh ỏi cả làng nước lên rồi. Câu văn chua chát ấy giúp cho chúng ta thấy được Chí vốn là một con người nhưng lại được so ví đồng loại với ba con chó. Những điều Chí nói không ai thèm đáp lại. Người ta đâu coi Chí là con người.

Ngay từ nhỏ Chí sinh ra đã mang bi kịch lớn. Là một đứa bé mới đỏ hỏn vậy mà đã bị mẹ bỏ rơi. Chí chỉ được bọc trong một cái khăn, người tím ngắt lại và bỏ ở chỗ lò gạch cũ. Dẫu có may mắn được một anh nông dân cứu về đem lại sự sống cho Chí nhưng cuộc đời Chí lại chẳng một chút nào tươi sáng. Sống ở mảnh đất nghèo khó lại "quần ngư tranh thực" Chí được một người nhận nuôi nhưng vì nghèo mà Chí cũng phải đi ở đợ cho nhà người ta. Chí quả là một con người bất hạnh.

Không những tuổi thơ thiếu tình thương cha mẹ đến khi lớn lên anh cũng vẫn không thoát khỏi bi kịch. Chí lớn lên thành một chàng trai khỏe mạnh hiền lành. Chí ở đợ cho nhà Bá Kiến thế nhưng bà ba nhà Bá Kiến lại cứ thích Chí đấm bóp cho. Khổ một nỗi là Bà cứ bắt bóp lên cao cao mãi. Chí chỉ thấy nhục chú chẳng thấy yêu thương gì. Thế rồi Bá Kiến phát hiện và đã đẩy anh chàng lương thiện vào nhà tù thưc dân. Thế là quãng cuộc đời nghèo khổ nhưng bình yên của Chí cứ thế mà kết thúc một cách nhanh chóng.

Chí đi tù ra cánh cửa của nhà tù thực dân đã nhuộm đen tâm hồn chí. Anh không còn là một chàng thanh niên khỏe mạnh lương thiện nữa mà trở thành một con quỷ dữ. Người dân cứ thấy anh ở đâu là tránh xa. Nam Cao đã thành công khi miêu tả ngoại hình Chí Phèo ở tù ra. Nào là cái răng trắng hếu, cái đầu cạo trọc lóc, cái mặt thì cong cong lên, hai mắt gườm. Trang phục mà Chí mặc trên người là chiếc quần nái đen và cái áo tây vàng.

Không những thế hình ảnh ông tướng cầm chùy còn được xăm ở cánh tay hắn. Vậy là hắn trông chẳng còn vẻ gì là một người lương thiện nữa rồi. Từ đây cuộc đời Chí trải dài trên những cơn say, ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, rạch mặt ăn vạ trong lúc say. Chí trở thành một tay sai đắc lực của Bá Kiến. Và kết cục thì Chí vẫn cứ không được làm người. cho đến khi chết thì cả làng Vũ Đai cũng không ai coi Chí là người cả. Đó phải chăng là bi kịch tinh thần đau đớn nhất mà một con người phải gánh chịu. Sống là kiếp con người mà cũng không được trọn kiếp con người.

Không chỉ nói lên quy luật người nông dân lương thiện bị tước quyền làm người nhà văn còn tố cáo mạnh mẽ chế độ thực dân phong kiến đã cướp đi quyền làm người của những người nông dân lương thiện. Xã hội ấy đã biến Chí thành một con quỷ dữ và tuyệt đối không cho Chí quay lại làm người. Chí chỉ còn có cái chết để kết thúc cuộc sống quỷ dữ ấy chứ không thể nào trở lại làm người được.

Ngoài giá trị hiện thực sâu sắc tác phẩm còn lấp lánh những giá trị nhân đạo cao cả. Giá trị nhân đao chính là cái nhìn hướng thiện của con người, nhìn vào những điểm tốt của con người, yêu thương con người và hướng cho họ đến một tương lai tươi sáng hơn.

Thứ nhất giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua sự đồng cảm của nhà văn dành cho nhân vật của mình. Nhà văn miêu tả Chí Phèo là một con quỷ dữ không một chút thương tiếc, Nam Cao nhìn nhận vấn đề và nói thật vấn đề thế nhưng không phải ông không thương nhân vật của mình. Nhà văn càng nói rõ cái tàn ác của Chí bao nhiêu thì càng thể hiện được tấm lòng thương cảm sâu sắc bấy nhiêu. Bởi vì tô đậm được cái xấu biểu hiện bên ngoài Chí là nhà văn tố cáo được xã hội tàn ác kia. Chính bởi đồng cảm với số phận ấy cho nên nhà văn mới dành nhiều tình cảm cho Chí đến thế. Nam Cao hiểu hết được những suy nghĩ của chí cả lúc say cho đến lúc tỉnh.

Thứ hai giá trị nhân đạo của tác phẩm là sự yêu thương con người. Nhà văn khẳng định chính tình yêu thương con người sẽ sưởi ấm và làm trỗi dậy bản chất tốt đẹp trong Chí. Có thể nói Thị Nở là một món quà mà nhà văn dành cho Chí. Cô ta là một người xấu ma chê quỷ hờn ế chồng, mả hủi thế nhưng lại có công thức tỉnh Chí. Tình yêu dù là bồng bột của Thị đã làm cho Chí kết thúc những tháng ngày say xỉn của mình. Đặc biệt là bát cháo hành của Thị Nở càng làm cho Chí ấm lòng và thấy thị giống như là mẹ mình vậy. Lần đầu tiên Chí khóc sau khi ra tù.

Thứ ba, nhà văn còn giúp chúng ta thấy được bản chất tốt đẹp của người nông dân qua hình tượng Chí Phèo. Đồng thời nhà văn hướng cho nhân vật của mình đến một tương lai tươi sáng hơn. Chí thức tỉnh và nhớ đến ước mơ giản đơn của mình.Đó là vợ chồng có một ngôi nhà để ở hàng ngày chồng cuộc thuê cày mướn vợ ở nhà đan sợi nuôi tằm. ước mơ ấy cho thấy Chí là một người nông dân rất lương thiện. Kể cả khi ra tù thành quỷ dữ, Chí vẫn biết rung động trước một người đàn bà là Thị nở. Điều đó chứng tỏ Chí biết yêu thương. Chí cảm động trước những hành động săn sóc của Thị. Chí khóc và mong muốn Thi sang ở nhà Chí một nhà cho vui. Và cái viễn cảnh sẽ diễn ra giống như ước mơ của Chí. Đó chẳng phải là bản chất tốt đẹp bấy lâu nay của Chí, và anh đang hướng đến một tương lai tươi sáng hay sao?. Chí muốn làm hòa với mọi người và từ đó phần người trong Chí được trỗi dậy. Ngay đến khi cái kết cục thảm khốc kia Chí vẫn cứ khẳng định sự thức tỉnh và đòi quyền làm người của mình. Giá trị nhân đạo là ở đấy.

Chí Phèo trải qua biết bao thời gian đến nay vẫn là một tác phẩm được người đọc yêu thích. Nó không hấp dẫn bởi những lời hoa mĩ sáo rỗng, không cầu kì nhân vật mà chỉ với giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc Chí Phèo đã lôi cuốn biết bao nhiêu thế hệ bạn đọc. Quả thật nhà văn Nam Cao đã có công rất lớn trong việc phản ánh số phận người nông dân trong xã hội cũ.

Giá Trị Hiện Thực Và Nhân Đạo Trong Truyện Ngắn Chí Phèo Của Nam Cao 35

Trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945 Nam Cao là người đến sau, trước đó đã có những cây bút như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan.Nhưng có lẽ với Chí Phèo, Nam Cao đã đem lại cho chúng ta những ấn tượng mạnh mẽ không thể quên về bức tranh đen tối ngột ngạt ,bế tắc của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời thức tỉnh cái phần lương tri tốt đẹp nhất của con người, khơi dậy lòng căm ghét cái xã hội tàn ác đã chà đạp lên nhân phẩm cuả con người, thương xót, cảm thông với những thân phận cùng đinh bị giày vò, tha hóa trong chế độ cũ.

Căm ghét xã hôi thực dân phong kiến thối nát, phê phán mãnh liệt các thế lực thống trị xã hội, trên cơ sở cảm thông,yêu thương con người, nhất là những con người bị vùi dập, chà đạp, đó là cảm hứng chung của các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 30-45. Tuy nhiên,trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã khám phá hiện thực ấy bằng một cái nhìn riêng biệt. Nam Cao không trực tiếp miêu tả quá trình bần cùng, đói cơm, rách áo dù đó là một hiện thực phổ biến lúc bấy giờ. Nhà văn trăn trở, suy ngẫm nhiều hơn đến một hiện thực con người : con người không được là chính mình, thậm chí không cò được là con người mà trở thành con "quỉ dữ" , do những âm mưu thâm độc và sự chà đạp của một thế lực thống trị tàn bạo. Với một cái nhìn sắc bén, đầy tính nhân văn, bằng khả năng phân tích lý giải hiện thực hết sức tinh tế, bằng vốn sống dồi dào và trái tim nhân ái chan chứa yêu thương, nhà văn đã xây dựng nên một tác phẩm với những giá trị hiện thực và nhân đạo đặc sắc không thể tìm thấy ở các nhà văn cùng thời.

Phải nói rằng trong bất cứ tác phẩm nghệ thuật chân chính nào, giá trị hiện thực bao giờ cũng đi liền với giá trị nhân đạo. Tác phẩm càng xuất sắc, những giá trị ấy càng thẫm thấu và thống nhất với nhau khó tách rời. Chí Phèo của Nam Cao cũng không nằn ngoài quy luật ấy .

Đi vào tác phẩm mở đầu là cảnh Chí Phèo ngất ngưỡng trên đường vừa đi vừa chửi, từ trời đến người đã sinh ra hắn, tiếng chửi hằn học, cay độc và chua xót. Kết thúc là cảnh Chí Phèo giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi. Bao trùm lên tất cả, tác phẩm ám ảnh ta một không khí ngột ngạt, bế tắc đến khủng khiếp, đầy những mâu thuẫn không thể dung hòa của một làng quê Việt Nam trước Cách mạng, với bao cảnh cướp bóc, dọa nạt,giết chóc,ăn vạ gây gỗ v.v..trong đó Chí Phèo hiện lên như một hiện tượng điển hình. Ta hãy lắng nghe nhà văn miêu tả: " Bây giờ thì hắn trở thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín ? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi. Cái mặt hắn không trẻ cũng không già ; nó không phải là mặt người : nó là một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi?. Sau khi ở tù về, hắn đã trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại mà không tự biết. Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say triền miên. Hắn ăn trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt, chửi bới , dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nưa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ chưa bao giờ hắn tỉnh để nhớ hắn có ở đời .....Hắn đâu biết hắn đã phá biết bao cơ nghiệp, đập bao cảnh yên vui ,đập đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện ...Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn ..." Đoạn văn chất chứ bao nỗi thống khổ của một thân phận đã không còn có được cuộc sống của một con người . Những năng lực nhận biết vốn có của một con người hầu như bị phá hủy , chỉ còn lại năng lực đâm chém,phá phách. Chí Phèo đã bị phá hủy nhân hình lẫn nhân tính như thế là bởi do đâu? Chúng ta thấy nhà văn không tập trung miêu tả dông dài quá trình tha hóa đó mà dường như ông thiên về lí giải và phân tích đâu là cái cội nguồn sâu xa dẫn đến bi kịch đó, chỉ bằng một số phác thảo đơn sơ về Bá kiến,về nhà tù thực dân, về bà cô Thị nở, về dư luận xã hội ...Tong hàng loạt mối liên kết ấy, chúng ta dễ dàng nhận ra : sở dĩ Chí Phèo từ một thanh niên hiền lành như cục đất hóa thành con quỷ dữ là bởi vì Chí, ngay từ thủa lọt lòng đã thiếu hẳn tình ấp ủ yêu thương ,đặc biệt khi lớn lên chỉ được đối xử bằng rẻ khinh, thô bạo và tàn nhẫn. Thủ phạm trực tiếp là Bá Kiến được nhà văn miêu tả là một con cáo già " khôn rốc đời" , "kẻ ném đá giấu tay", " già đời trong nghề đục khoét" , biết thế nào là " mềm nắn rắn buông" ," Hay ngấm ngầm đẫy người ta xuống sông, nhưng lại dắt nó lên để nó đền ơn . Hay đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng rồi vứt lại trả năm hào vì thương anh túng quá!". Chính hắn đã lập mưu đẫy Chí Phèo vào tù và sau đó sử dụng Chí Phèo như một tay sai đắc lực phục vụ cho lợi ích và mưu đồ đen tối của mình. Không có Bá Kiến thì không có chí Phèo ,Chí Phèo không chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà còn là phương tiện tối ưu để thống trị : " Không có mấy thằng đầu bò thì lấy ai mà trị mấy thằng đầu bò" ,Chính Bá Kiến đã rút ra kết luận mà theo hắn rất chí lí ấy . Là một kẻ nham hiểm ,nhẫn tâm nhưng Bá Kiến lại hiện ra bên ngoài là một kẻ ôn hòa, xởi lởi ,biết điều , khiến người đời phải nhìn hắn bằng cặp mắt " kính cẩn" ... Vì thế mà hắn lường gạt không biết bao nhiêu người dân chất phát lương thiện . Chí Phèo trở thành tay chân đắc lực của hắn ; thật sự bị biến thành công cụ , phương tiện thống trị cho kẻ thù của mình mà không tự biết .Bá Kiến hiện ra trong tác phẩm như một nhân vật điển hình cho một bộ phận của giai cấp thống trị .Cùng với hắn là Lí Cường ,Chánh Tổng, Đội Tảo,Bát Tùng ...chính chúng đem lại không khí ngột ngạt khó thở cho nông thôn Việt Nam . ...như một sự hỗ trợ gián tiếp nhưng tích cực là hệ thống nhà tù dã man, bẩn thỉu .Quá trình Chí Phèo ở tù không được miêu tả trực tiếp, chỉ biết khi vào tù Chí Phèo là người hiền lành lương thiện. Ra khởi tù, hắn trở làng với cái vẻ hung đồ ,ương ngạnh được học từ đó. Với bấy nhiêu thôi cũng đã quá đủ để ta cảm nhận. Bằng bút pháp độc đáo, tài hoa linh hoạt, giàu biến hóa, Nam Cao khi tả, khi kể theo một kết cấu tâm lí và mạch dẫn dắt của câu chuyện với một cách thức bề ngoài tưởng chừng như khách quan, lạnh lùng và tàn nhẫn nhưng chất chứa bên trong biết bai nỗi niềm quằn quại,đau đớn trước thân phận của kiếp người .Lồng vào bức tranh hiện thực đó là thái độ yêu ghét, là cách phân tích và dánh giá những vấn đề về hiện thực mà nhà văn đặt ra . ngay việc lựa chọn một nhân vật cùng đinh thống khổ nhất của xã hội làm đối tượng miêu tả và gửi gắm biết bao thông cảm, suy tư thương xót ... tự nó đã mang nội dung nhân đạo .Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện tập trung nhất ở cách nhìn nhận của nhà văn đối với nhân vật tha hóa đến tận cùng . Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn dĩ ,chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết .Sự xuất hiện của Thị Nở có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến "ma chê quỷ hờn" ,lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tăm tối của tâm hồn Chí Phèo , làm gợi dậy tính người ở nơi Chí Phèo . Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở , Chí Phèo giờ đây đã cảm nhận được ánh sáng, âm thanh của cuộc đời - tiếng chim vui vẻ , tiếng anh thuyền chèo gõ mái gọi cá , tiếng lao xao của của người đi chợ bán vải ... Đó là những âm thanh quen thuộc ngày nào chả có nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy . Chao ôi là buồn , trong cái phút tỉnh táo ấy Chí Phèo như đã trông thấy tuổi già ,đói rét và cô độc - cái này còn sợ hơn cả ốm đau. Cũng may Thị Nở mang bát cháo tới ,nhìn bát cháo hành bốc khói mà lòng Chí xao xuyến bâng khuâng : Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con , hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ ...Ôi sao mà hắn hiền ! " Hắn thèm lương thiện - Hắn khao khát làm hòa với mọi người " ... Từ một con quỷ dữ , nhờ Thị Nở , nói đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở , Chí thực sự trở lại làm người ,với tất cả những năng lực vốn có . Một chút tình thương ,dù là tình thương của một người dở hơi, bệnh hoạn,thô kệch,xấu xí ... cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo . thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào ! Bằng chi tiết này, Nhà văn Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ .

Thế nhưng đau đớn thay, rốt cuộc cái mơ ước nhỏ nhoi được làm người lương thiện đó của Chí không đến được với Chí - Ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí - Chí hiểu mình không còn trở về với cuộc sống của cộng đồng lương thiện được nữa .Xã hội đã cướp đi của Chí quyền làm người vĩnh viễn và không trả lại .Những vết dọc ngang trên mặt, kết quả của bao nhiêu cơn say ,bao nhiêu lần đâm chém ...đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời . Cái chết của Chí là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đao ,và cũng là tiếng kêu cứu về quyền làm người , cũng là tiếng gọi thảm thiết : Hãy yêu thương con người , Hãy cứu lấy con người . Đó là tư tưởng và tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo sâu sắc mà chúng ta cảm nhận từ những trang sách của nhà văn Nam Cao.

Giá Trị Hiện Thực Và Nhân Đạo Trong Truyện Ngắn Chí Phèo Của Nam Cao 36

Nam Cao được biết đến trong lịch sử văn học Việt Nam là một nhà văn hiện thực xuất sắc. Ông để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị trên cả hai đề tài về người trí thức tiểu tư sản và người nông dân nghèo. Nhưng tên tuổi của ông vẫn gắn liền với tác phẩm Chí Phèo - một kiệt tác của Nam Cao, một tác phẩm mang đậm giá trị nhân đạo sâu sắc, đồng thời cũng phê phán cái xã hội thối nát bấy giờ.

   Xây dựng nên hình tượng người nông dân bị tha hóa trong xã hội thực dân trước Cách mạng tháng Tám là một sáng tạo mới trong nền văn xuôi nước nhà nói chung và của Nam Cao nói riêng. Nhà văn đã cảm nhận được cái vẻ đẹp chất phác, bình dị ẩn chứa trong cái vẻ bề ngoài thô ráp, xù xì của họ, mà tiêu biểu là nhân vật Chí Phèo - một điển hình nghệ thuật về người nông dân bị xô đẩy chà đạp đến mức tha hóa. Chí không may mắn khi được sinh ra trong một gia đình không đàng hoàng, không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi. Có một hoàn cảnh sống tội nghiệp, nhưng Chí lớn lên khá khỏe mạnh, hiền lành, lương thiện,… Có một ước mơ giản dị như bao người nông dân khác: một gia đình nhỏ, chồng cày cấy, vợ dệt vải… Vốn từng mang trong mình bản chất của một con người đúng nghĩa, Chí phân biệt được đúng sai, tốt xấu qua hành động bóp chân cho bà Ba- “Hắn cảm thấy nhục hơn là thích”. Sống ở một cái xã hội bình thường, người như Chí hoàn toàn có thể sống một cách lương thiện yên ổn. Nhưng cuộc đời nào có hai chữ

    Bằng ngòi bút lạnh lùng nhưng đa cảm, Nam Cao đã cho thấy tất cả nỗi thống khổ ghê gớm của nhân vật Chí Phèo. Nỗi thống khổ đó không phải là không cha không mẹ, không nhà không cửa, không họ hàng thân thích… mà chính là Chí Phèo bị xã hội vằm nát của cả bộ mặt người, cướp đi lình hồn người phải sống kiếp sống tối tăm của con vật lạ. Đó là nỗi thống khổ của cá thể sinh ra là hình hài của một con người nhưng lại không được làm người và bị xã hội từ chối, xua đuổi. Tình trạng bi thảm này được tác giả mình chứng cho đoạn mở đầu giới thiệu một chân dung, một tính cách “hấp dẫn”, vừa hé cho thấy một số phẩn bi đát. Dù say rượu đến điên khùng, Chí Phèo vẫn như cảm nhận thấm thía” nông nỗi” khốn khổ của thân phận mình. Anh chửi trời, chửi đời rồi chuyển sang chửi tất cả làng Vũ Đại, cuối cùng ảnh chửi cái thằng cha con mẹ nào đẻ ra thằng Chí Phèo. Không ai chửi lại vì rất đơn giản là không ai coi anh như là một con người. Nam Cao có vài cái nhìn đầy chiều sâu nhân đạo khi đi vào nội tâm nhân vật để phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của những con người khốn khổ.

    Chí Phèo đến với Thị Nở trong một đêm say rượu. Như điều kì diệu là Thị Nở không phải chỉ khơi dậy bản năng ở gã đàn ông say, mà lòng yêu thương mộc mạc, chân thành, sự chăm sóc giản dị của người đàn bà xấu xí, vô duyên và ngớ ngẩn ấy đã làm thức tỉnh Chí Phèo. Trong tâm hồn tưởng chừng như đã chai sạn, thậm chí bị hủy hoại của Chí Phèo, phần lương thiện ngày thường bị lấp đi vẫn le lói một ánh sáng lương tri, sẽ bừng sáng lên lúc gặp cơ hội. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, anh bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng đập mái chèo đuổi cá , tiếng cười nói của những người đi chợ, thì niềm ao ước một gia đình nhỏ lại trỗi dậy trong lòng anh sau những tháng ngày dài chìm trong cơn say khướt. Nam Cao đã phát hiện ra ngọn đóm đỏ đang hắt hiu le lói, việc cuối cùng là cho nó chút mồi để nó bùng lên. Nhưng còn đường đời của Chí lại bị chắn đứng lại. Bà cô của Thị Nở – nhân vật đại diện cho suy nghĩ của dân làng Vũ Đại đã nhất quyết không cho cháu mình đi lấy một “thằng chỉ có nghề là rạch mặt ăn vạ”. Cánh cửa quay về lương thiện đã đóng xập trước mặt Chí. Đau khổ Chí Phèo phải cất lên tiếng thét “Tao muốn làm người lương thiện…”, “Ai cho tao lương thiện?..” Chí đã nhận thức được bản chất con người của mình thì không còn nguyên cớ nào lại có thể biến anh sống trở lại kiếp quỷ dữ, không thể tiếp tục rạch mặt ăn vạ, giết người đốt nhà. Chí đã đâm chết Bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình. Đó là một kết cục bi thảm nhất, đồng thời cũng là chiếc chìa khóa giải thoát Chí Phèo khỏi kiếp đời trớ trêu, cái kiếp số muốn sống như một con người nhưng không thể được.


Chính cái xã hội thối nát thời bấy giờ đã tạo ra những sản phẩm như Chí Phèo - hình ảnh tiêu biểu của người lao động lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, tôi lội dần dần bị tha hóa về thể xác lẫn tâm hồn. Mà đại diện cho giai cấp thống trị chính là Bá Kiến - một tên cường hào cáo già trong nghề thống trị dân đen, được khắc họa qua những chi tiết ngoại hình độc đáo, từ “giọng nói rất sang”, lối nói ngọt ngào đến cái cười Tào Tháo…Vì sự hờn ghen vớ vẩn của hắn đã đẩy Chí vào con đường tù tội. Chốn lao ngục ấy của bọn thực dân đã tiếp tay cho lão cường hào thâm độc để giết chết phần người trong Chí Phèo, biến Chí thành Phèo, biến người nông dân lương thiện thành quỷ dữ. Sự tha hóa ấy không chỉ có Bá Kiến, nhà tù thực dân gây ra, mà còn những người dân sống ở làng Vũ Đại mà tiêu biếu nhất là bà cô của Thị Nở - con người đã tạo ra bức tường vô hình ngắn cách Chí đến với cuộc sống đích thực của một người lương thiện. Kết thúc câu truyện là một tình tiết đầy ngụ ý, biết đâu lại chẳng có một “Chí Phèo con” bước ra từ cái lò gạch cũ vào đời để “nối nghiệp bố”. Hiện tượng Chí Phèo chưa thể hết khi xã hội tàn bạo vẫn không cho con người được sống hiền lành, tử tế, vẫn còn những người dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Sức mạnh của tác phẩm là vạch ra được cái quy luật tàn bạo, bi thảm này trong cái xã hội tối tăm của nông thôn nước ta thời đó.

   Tác phẩm Chí Phèo mang đậm giá trị nhân đạo đặc sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương của NC đối với những người khốn khổ. Chí Phèo còn là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh. Hãy bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện.

Giá Trị Hiện Thực Và Nhân Đạo Trong Truyện Ngắn Chí Phèo Của Nam Cao 37


Nam cao được mệnh danh là “Ông hoàng của truyện ngắn” quả không sai chút nào, bởi trong các truyện ngắn hiện thực của ông có thể kể đến là “Chi Phèo” là một mẫu mực về thể loại này. Bên cạnh đó còn chính là nội dung đặc sắc mang lại được cả giá trị nhân văn cũng như giá trị hiện thực thật sâu sắc biết bao.

Nói về giá trị hiện thực, thì giá trị hiện thực được hiểu là giá trị nói lên những bộ mặt hiện thực của cuộc sống mà cũng xuất phát từ đó khi nhìn vào đấy người ta biết rằng hiện thực xã hội nước ta lúc bấy giờ phải sống như thế nào. Và Nam cao thật tinh tế và khôn khéo khi đã xây dựng được một nhân vật Chí Phèo thành một nhân vật điển hình. Và ở nhân vật này mọi thứ như đều bắt đầu từ con số không.

Và có thể nói chính giá trị hiện thực trong truyện ngắn đó chính là một sự phản ảnh quy luật ở nước ta trong thời Pháp thuộc. Có lẽ trong thời này thì dường như người dân lương thiện đã bị xã hội thối nát đó xô đẩy vào con đường cùng trở thành lưu manh hóa bần cùng hóa, và như Chí Phèo thì anh đã trở thành một con quỷ dữ không thể quay lại làm người lương thiện được nữa.

Chính với những cách mở đầu câu chuyện của tác giả dường như cũng đã góp phần thể hiện được những sự hiện thực cuộc sống những năm ấy. Và nhân vật Chí Phèo xuất hiện thật ám ảnh anh xuất hiện chính với dáng vẻ của một thằng say rượu vừa đi vừa chửi. Và dường như chửi là một cách mà hắn giao tiếp với mọi người xung quanh. Nhưng đáng buồn thay chẳng ai trong làng Vũ Đại này chửi với hắn cả, vì họ đều có chung ý nghĩ “chắc nó chừa mình ra”. Vậy đó, Chí Phèo không hề được công nhận là người, cả làng Vũ Đại hay phóng đại hơn là cái xã hội đó đã không hề chấp nhận Chi là người.

Có lẽ rằng là ngay từ nhỏ khi mà sinh ra đã mang bi kịch lớn. Là một đứa trẻ không cha mẹ, lớn lên phải đi ở đợ cho nhà người ta phải chịu cảnh bần cùng. Nhưng chịu cảnh nghèo khó đó nhưng Chí vẫn được coi là con người.

Và chính tên Bá Kiến đã đẩy Chí vào con đường tội lỗi và chịu cảnh tù đày. Chí đi tù và sau mấy năm khi Chí về thì dường như cánh cửa của nhà tù thực dân đã nhuộm đen tâm hồn Chí. Chí đã thay đổi cả nhân hình và cả nhân tính, không ai nhận ra Chí nữa, Chí lại trở thành một con quỷ của Làng Vũ Đại.

Tác giả như không chỉ nói lên quy luật người nông dân lương thiện trong xã hội xưa họ đã bị tước quyền làm người. Có lẽ rằng chính nhà văn còn tố cáo mạnh mẽ chế độ thực dân phong kiến dường như cũng đã cướp đi quyền làm người của những người nông dân lương thiện. Và chính trong xã hội ấy đã biến Chí thành một con quỷ dữ chuyên đi phá hoại những hạnh phúc và tuyệt đối không cho Chí quay lại làm người. Và cũng bởi thế mà ở Chí chỉ còn có cái chết để kết thúc cuộc sống quỷ dữ ấy chứ anh không thể nào trở lại làm người được nữa.

Bên cạnh những giá trị hiện thực sâu sắc tác phẩm như lại còn lấp lánh những giá trị nhân đạo cao cả. Dường như chính giá trị nhân đao chính là cái nhìn hướng thiện của con người, khi chúng ta cứ như lại nhìn vào những điểm tốt của con người, và chính tình yêu thương con người và hướng cho họ đến một tương lai tươi sáng hơn.

Thứ nhất ta có thể thấy được những giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện chính qua sự đồng cảm của nhà văn đã nâng niu và dành cho nhân vật của mình. Nhà văn thật tinh tế khi ông miêu tả Chí Phèo là một con quỷ dữ không một chút thương tiếc. Và Nam Cao nhìn nhận vấn đề và nói thật vào sâu trong vấn đề thế nhưng không phải ông không thương, không xót cho nhân vật của mình. Có thể thấy được nhà văn càng nói rõ ra chính cái tàn ác của Chí dường như đã bao nhiêu thì càng thể hiện được tấm lòng thương cảm sâu sắc bấy nhiêu. Có lẽ chính bởi vì để có thể tô đậm được cái xấu biểu hiện bên ngoài thì dường như với Chí là nhà văn tố cáo được xã hội tàn ác kia được

Và giá trị nhân đạo của tác phẩm là sự yêu thương con người. Nhà văn dường như cũng đã khẳng định chính tình yêu thương con người sẽ sưởi ấm và có sức để làm trỗi dậy bản chất tốt đẹp trong Chí. Có thể nói ở nhân vật Thị Nở chính là một món quà mà nhà văn dành cho Chí. Ở Thị ta được xây dựng lên như là một người xấu ma chê quỷ hờn ế chồng  nhưng hơn ai hết thị lại có công thức tỉnh Chí. Và cũng cình yêu dù là bồng bột của Thị dường như cũng đã làm cho Chí kết thúc những tháng ngày say xỉn của mình. Đặc biệt hơn chính là bát cháo hành của Thị Nở như lại càng làm cho Chí ấm lòng và lúc đó thấy thị giống như là mẹ mình vậy. Có lẽ đó chính là lần đầu tiên Chí khóc sau khi ra tù và được một người đàn bà chăm sóc cho ăn chứ không phải là đi cướp mới có được.

Thứ ba, ta có thể nhận thấy rằng chính nhà văn còn giúp chúng ta thấy được bản chất tốt đẹp của người nông dân qua hình tượng Chí Phèo. Đồng thời, thông qua đó thì dường như nhà văn hướng cho nhân vật của mình đến một tương lai tươi sáng hơn. Chí như cũng đã thức tỉnh và nhớ đến ước mơ giản đơn của mình.Đó là vợ chồng có một ngôi nhà để có thể ở hàng ngày chồng cuộc thuê cày mướn vợ ở nhà đan sợi nuôi tằm. Chính cái ước mơ ấy cho thấy Chí là một người nông dân rất lương thiện. Và khi mà ra tù thành quỷ dữ, Chí dường như cũng vẫn biết rung động trước một người đàn bà là Thị nở. Điều đó như cũng đã chứng tỏ Chí biết yêu thương. Chí như thật biết cảm động trước những hành động săn sóc của Thị. Chí khóc và anh cũng đã có mong muốn Thi sang ở nhà Chí “một nhà cho vui”. Và chính những điều mơ ước bấy lâu nay như lại được trỗi về trong Chí, hắn nhận ra cũng có thời mà hắn thèm được một cuộc sống giản dị như trước đó là chồng cày thuê cuốc mướn như trước. Và đó chẳng phải là tính nhân văn của tác phẩm hay sao?

“Chí Phèo” là một trong những tác phẩm như trải qua biết bao thời gian đến nay vẫn là một tác phẩm được người đọc yêu thích. Tác phẩm không phải là những ngôn từ như sáo rỗng mà nó như được viết lên từ chất liệu hiện thực của cuộc sống và tính nhân văn cao đẹp của tác giả cũng như chính nhân vật lan tỏa ra cho lòng người đọc.

Phân tích giá trị nghệ thuật trong tác phẩm “Chí Phèo” 38

Nam Cao là một nhà văn luôn thành công ở hai phương diện của sáng tác đó là khám phá về nội dung và phát minh sáng tạo về hình thức. Chính điều đó đã nâng tầm vóc nhà văn Nam Cao thành một nhà văn lớn, một tác gia lớn của nền văn xuôi hiện đại. Truyện ngắn Chí Phèo (1941) đã được xếp vào hàng kiệt tác bởi Nam Cao đã “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” cả về nội dung và nghệ thuật. Ở tác phẩm này nhà văn Nam Cao đã thể hiện được một trình độ bậc thầy về nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, khám phá miêu tả sâu sắc tâm lí nhân vật, kết cấu tác phẩm một cách độc đáo và có một vốn ngôn ngữ phong phú sinh động cho mọi loại hinh nhân vật. Theo dõi từng trang truyện ngắn đặc sắc này chúng ta sẽ thấy rât rõ tài nghệ đó của Nam Cao.

Nói đến văn xuôi là nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, mỗi nhà văn có một cách thể hiện khác nhau và thành công ở những mức độ khác nhau. Đối với nhà văn Nam Cao ở tác phẩm này thì ông đã xây dựng được thành công cả tuyến nhân vật chính diện và phản diện và không những thành công mà thành công ở cấp điển hình.

Về các nhân vật phản diện nhà văn tập trung vào ba nhân vật đó là Bá Kiến, Lí Cường và Đội Tảo. Trong đó tác giả tập trung khắc hoạ bản chất của nhân vật Bá Kiến, Bá Kiến thức sự là một con hổ biết cười. Đối với một con mồi như Chí Phèo khi thì Bá Kiến nhỏ nhẹ để làm mềm nhũn Chí Phèo, có khi thì Bá Kiến doạ nạt bằng những lời lẽ có gang có thép. Ngoài cái thủ đoạn đó thì Bá Kiến được tác giả liệt kê ra nhiều thủ đoạn thâm độc xảo quyệt. Với những nét khắc hoạ đó nhà văn đã dựng lên được một Bá Kiến rất sớng động, rất điển hình cho bọn cường hào ác bá ở nông thôn trước cách mạng tháng tám.

Về nhân vật chính diện nhà văn tập trung vào hai nhân vật và mối quan hệ của hai nhân vật đó là Chí Phèo và Thị Nở. Hai nhân vật này có số phận khác nhau nhưng lại làm sáng tỏ cho nhau. Trong đó Thị Nở thực chất là nhân vật để làm nổi bật con người Chí Phèo, bi kịch Chí Phèo. Chí Phèo hiện hình dưới ngòi bút của Nam Cao có số phận rất duyên từ xuát than đến đời sống, nhưng Chí Phèo là nhân vật điển hình vì bên cạnh Chí Phèo còn có Năm Thọ, Binh Chức là những hình đồng dạng với Chí Phèo. Có thể khẳng định thành công nhất về mặt nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo là xây dựng được hai điển hình văn học, trong đó điển hình nổi bật nhất là nhân vật Chí Phèo.

Nói đến văn xuôi là nói đến nhân vật, nói đến nhân vật là nói đến tâm lí tính cách nhân vật, nói đến tác phẩm Chí Phèo là người ta nghĩ ngay đến cái tinh tế của nhà văn trong việc phát hiện ra được những nét tâm lí rất thật rất đúng của những con người tưởng là không có những nét tâm lí đó. Mỗi nhân vật sở dĩ thành công bởi những nét tâm lí tính cách khác nhau. Tâm lí của Bá Kiến là biết tâm lí của người đời, biết mềm nắn rắn buông, tâm lí của vợ Bá Kiến là hiếu kì lẳng lơ, tâm lí của người nông dân là sợ tai hoạ.

Khả năng miêu tả tâm lí sâu sắc nhất của Nam Cao trong tác phẩm này là đã khám phá được diễn tả được tâm lí của nhân vật chính đó là Chí Phèo và Thị Nở. Người đọc rất tâm đắc với nhà văn rất cảm phục nhà văn khi Nam Cao phát hiện được tâm lí của Chí Phèo khi gặp Thị Nở. Khi Chí Phèo nhận được bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo từ ngạc nhiên rồi sau đó là mắt ươn ướt cảm động và tiếp đến là có cái gì đó như là ăn năn muốn làm hoà với mọi người rồi làm nũng với Thị như với mẹ đó là những nét tâm lí rất thật của những con người muốn được tái sinh. Cái sâu sắc của Nam Cao chính là chỗ đó.

Một biểu hiện nghệ thuật độc đáo của tác phẩm đó là cách tổ chức kết cấu tác phẩm. Đó là một cách kết cấu vừa linh hoạt vừa độc đáo vừa đa dạng. Cái độc đáo đầu tiên của kết cấu tác phẩm là tác giả đã đảo ngược thời gian đi từ hiện tại rồi đến quá khứ rồi đến hiện tại. Một biểu hiện của kết cấu không mới nhưng lại rất hợp lí ở tác phẩm này đó là kết cấu theo lối khép kín. Nhà văn mở đầu tác phẩm bằng một lò gạch cũ nơi Chí Phèo ra đời rồi kết thúc tác phẩm cũng mọt lò gạch cũ với một sự liên tưởng một Chí Phèo con sắp ra đời. Cái vòng luẩn quẩn của cuộc đời Chí Phèo vẫn cứ tiếp diễn đó là vòng luân hồi nhưng lại bế tắc. Ýnghĩa của tác phẩm toát ra rất sâu sắc từ kết cấu này.

Ngoài hai kiểu kết cấu trên nhà văn đã tổ chức được một sự đa dạng của hành văn khi thì độc thoại khi thì đối thoại, khi thì kể, khi thì tả, khi thì tường thuật.


Một phương diện nghệ thuật mà nhà văn rất thành công ở truyện ngắn Chí Phèo, đó là cách sử dụng ngôn ngữ rất phù hợp với từng đối tượng nhân vật. Ngôn ngữ của bọn Bá Kiến, Lí Cường là ngôn ngữ của bọn bề trên khi mềm mỏng khi đanh rắn rất biến hoá. Ngôn ngữ của các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở thì rất quê mùa có khi là tục tằng thô lỗ đó là loại ngôn ngữ phù hợp với tính cách nhân vật. Nhìn chung tác phẩm viết về đề tài người nông dân nên ngôn ngữ mà tác giả sử dụng trong tacs phẩm là loại ngôn ngữ bình dân chân quê, rất phù hợp với cảnh và tình của tác phẩm.

Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những truyên ngắn xuất sắc tiêu biểu của văn học hiện thực trước cách mạng tháng tám nói chung của nhà văn Nam Cao nói riêng. Tác phẩm này thành công trên nhiều phương diện cả nội dung và hình thức, nhưng đặc biệt nhất vẫn là nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm. Cùng một vấn đề rất phổ biến của xã hội lúc bấy giờ nhưng với tài nghệ của mình Nam Cao dẫ điển hình hoá được cả hai loại nhân vật chính diện và phản diện. Đọc tác phẩm này chúng ta vừa cảm phục được cái tâm của tác giả lại vừa cảm phục cái tài của tác giả. Cái tâm và cái tài đó là tiền đề để nhà văn thành công ở tác phẩm này.

Phân tích giá trị nghệ thuật trong tác phẩm “Chí Phèo” 39

Thành công của truyện ngắn Chí Phèo không chỉ ở hình tượng nhân vật Chí Phèo mà còn ở bút pháp viết truyện ngắn có một không hai của nhà văn Nam Cao.

1. Bút pháp điển hình hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật.

Nam Cao có biệt tài trong việc miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật. Tác giả có khả năng trong việc miêu tả tâm lý phức tạp của nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên trước mắt người đọc rất sống động, có cá tính độc đáo. Nam cao đã sử dụng nhiều thủ pháp, nhiều phương tiện để miêu tả tâmlý nhân vật, tạo nên một chủ nghĩa tâm lý trong sáng tác của ông. Nam Cao thường sử dụng thiên nhiên làm phương tiện để thể hiện trạng thái tâm lý của nhân vật.

Khung cảnh thiên nhiên được cảm nhận qua đôi mắt của Chí Phèo sau khi thức tỉnh: “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá…” là những âm thanh quen thuộc của cuộc sống mà bấy lâu nay Chí Phèo không nhận thấy, giờ trở thành tiếng gọi tha thiết kéo Chí Phèo trở lại với cuộc sống lương thiện, đánh thức khát khao lương thiện trong tâm hồn Chí

Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình nghệ thuật bất hủ. Họ vừa tiêu biểu cho một loại người có bề dày xã hội, vừa là những con người rất cụ thể, có sức sống nội tại mạnh mẽ.

Khác với những nhân vật của một số nhà văn đương thời có chức năng chủ yếu là khái quát tính cách nhân vật. “Chí Phèo” của Nam Cao đã khái quát một hiện tượng phổ biến đã trở thành quy luật trong xã hội lúc bấy giờ; hiện tượng những người nông dân nghèo lương thiện do bị áp bức bóc lột đè nén nặng nề bị đẩy vào con đường tha hoá lưu manh.

Khi xây dựng nhân vật, Nam Cao tạo ấn tượng bằng hai cách: hoặc là miêu tả chi tiết, đặc tả diện mạo bên ngoài, hoặc là chỉ thoáng qua, không vẽ chi tiết cụ thể về diện mạo của nhân vật. Ở những sáng tác viết về người nông dân Nam Cao thường tạo nên những nhân vật dị dạng và tập trung miêu tả chi tiết hình dáng bên ngoài của những nhân vật này. Đó là bộ mặt “nặng chình chĩnh như người phù, da như da con tằm bủng, lại lấm tấm đầy những tàn nhang. Cái trán ngắn ngủn, ngắn ngủn lại gồ lên. Đôi mắt thì híp lại như mắt lợn sề” của Lang Rận. Đó là bộ mặt “vằn dọc vằn ngang không thứ tự biết bao nhiêu là sẹo” của Chí Phèo hay bộ mặt xấu đến mức ma chê qỷ hờn của Thị Nở.

Đặc tả những bộ mặt dị dạng, ghê tởm của nhân vật là cách thức để Nam Cao làm rõ hơn tính cách bên trong của nhân vật. Ẩn sâu dưới cái vẻ bề ngoài ghê tởm, đáng sợ ấy là những con người hết sức đáng thương. Do hoàn cảnh xô đẩy mà Chí Phèo từ một người nông dân hiền lành, lương thiện bị biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một kẻ đâm thuê chém mướn, gây ra không biết bao nhiêu tội ác, nhưng rồi Nam Cao vẫn phát hiện ra đốm sáng lương tri còn sót lại trong con người bị tước đoạt cả nhân hình và nhân tính ấy. Chí Phèo thức tỉnh và khát khao trở lại làm người lương thiện.

Thị Nở là người đàn bà xấu đến mức ma chê quỷ hờn, nhà lại có dòng giống mả hủi, Thị lại dở hơi nên cả làng Vũ Đại đều xa lánh Thị: “người ta tránh Thị như tránh một con vật nào rất tởm”. Một người phụ nữ như thế mà Chí Phèo muốn chung sống làm lại cuộc đời cũng không được xã hội thừa nhận. Khi miêu tả Thị Nở Nam Cao đã sử dung bút pháp cường điệu để tô đậm cái xấu của Thị Nở, Thị Nở càng xấu thì bi kịch của Chí Phèo càng lớn. Khi xây dựng nhân vật người trí thức Nam Cao ít khi miêu tả ngoại hình. Ông chỉ chú ý đến những nét ngoại hình thể hiện tâm lý, tính cách nhân vật mà ông tập trung đi sâu vào đặc tả diện mạo tinh thần nhân vật qua những giằng xé, những cuộc vật lộn căng thẳng về tinh thần bên trong của nhân vật. Tâm lý nhân vật trở thành đối tượng chính của ngòi bút Nam Cao.

Tài năng miêu tả tâm lý của Nam Cao thể hiện ở chỗ ông có khả năng nắm bắt những biến thái tinh vi, những rung động tinh tế trong tâm hồn con người. Ông là một nhà văn có biệt tài khi miêu tả những trạng thái tâm lý phức tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác, hiền với dữ, giữa con người với con vật. Với tài năng bậc thầy Nam Cao đã diễn tả cụ thể, sâu sắc diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp thị Nở. Thị Nở với bát cháo hành tình nghĩa đã làm sống dậy bản chất lương thiện trong con người Chí. Sau bao nhiêu năm ngập sâu trong vũng bùn tội lỗi, giờ đây Chí Phèo lại khát khao trở về với cuộc sống lương thiện.

Tuy nhiên nhân vật của Nam Cao còn thể hiện như một nhân vật có cá tính hết sức độc đáo, không lặp lại, vừa đa dạng vừa thống nhất. Chí Phèo vừa là kẻ bán rẻ cả nhân tính, nhân hình để tồn tại, vừa là kẻ dám thủ tiêu sự sống của mình khi nhân phẩm đã trở về. Chí Phèo vừa là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một thằng triền miên chìm trong cơn say đến mất cả lý trí, vừa là kẻ khao khát lương thiện, muốn làm hoà với mọi người, vừa là một kẻ nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất, tỉnh táo nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát sâu sắc về quyền được làm người lương thiện đến mức Bá Kiến cũng phải ngạc nhiên. Chí Phèo còn là kẻ cố cùng, vừa là người tự xưng “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”.

Chí phèo, Binh chức, Năm Thọ trong “Chí Phèo” vốn là những con người lương thiện nhưng bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa, mất cả nhân hình và nhân tính. Viết về những người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa Nam Cao đã lên án gay gắt xã hội bất công, ngang trái đã chà đạp lên nhân phẩm con người, đồng thời phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện vẫn luôn tồn tại ở ngay cả những con người bị tha hóa ấy.

2. Nghệ thuật trần thuật kể truyện linh hoạt tự nhiên phóng túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, đảo lộn trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên tưởng tạt ngang, tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự nhiên, hợp lý, hấp dẫn.

Ở truyện “Chí Phèo”, Nam Cao đã để nhân vật xuất hiện bắt đầu bằng tiếng chửi: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời…”. Cách mở truyện như vậy gây ấn tượng và tạo sự cuốn hút với người đọc về cuộc đời, số phận của nhân vật.

Nam Cao cũng hay sử dụng và sử dụng thành công kiểu kết cấu vòng tròn. Đây là kiểu kết cấu mà phần mở đầu và phần kết thúc của tác phẩm có sự tương ứng với nhau; những hình ảnh, những tình tiết xuất hiện ở đầu tác phẩm bằng hình thức này hay hình thức khác, lại được gợi ra một cách đầy ám ảnh ở cuối tác phẩm. Hình thức kết cấu này đòi hỏi một sự sắp xếp hợp lý các sự kiện, các tình tiết tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa chúng.

Đọc “Chí Phèo” ta cứ mãi bị ám ảnh bởi hình ảnh “chiếc lò gạch cũ” xuất hiện ở phần đầu và phần cuối tác phẩm. Hình ảnh ấy vừa có ý nghĩa mở đầu và kết thúc, khép lại cuộc đời của một kẻ khốn khổ tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến, vừa như dự báo về sự xuất hiện của một kiếp người mà số phận chắc sẽ còn thê thảm hơn nhiều. Bằng kiểu kết cấu này Nam Cao muốn nói rằng: chừng nào xã hội còn nhiều bất công, ngang trái thì chừng ấy vẫn còn nhiều cuộc đời, nhiều số phận như Chí Phèo.

Ở truyện “Đời thừa” kết cấu vòng tròn lại tạo ấn tượng sâu đậm về sự luẩn quẩn, bế tắc, không lối thoát của nhân vật Hộ. Là một nhà văn có lý tưởng, có hoài bão nhưng vì lẽ sống tình thương, vì gánh nặng gia đình Hộ buộc phải hi sinh lý tưởng, viết dễ dãi để nuôi sống gia đình, vì vậy mà Hộ luôn day dứt, tự dày vò bản thân, Hộ tìm đến rượu để quên đi những đau đớn về tinh thần. Lúc say Hộ đối xử với vợ con như một kẻ vũ phu, nhưng khi tỉnh lại Hộ lại vô cùng hối hận, tuyên bố sẽ chừa rượu, nhưng rồi Hộ lại uống và lại thô bạo với vợ con …sau đó lại ăn năn, hối hận. Kết cấu vòng tròn của tác phẩm đã góp phần làm nổi bật tấn bi kịch tinh thần luẩn quẩn, không lối thoát của nhân vật Hộ.

3. Ngôn ngữ của Nam Cao cũng đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở đời sống, giọng văn hoá đời sống.

Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc.

Với tất cả những đặc sắc nghệ thuật ấy, “Chí Phèo” đánh dấu một trình độ phát triển mới của văn học và nghệ thuật viết truyện ở nước ta.

Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật 40

Nếu như chỉ dừng lại xây dựng Chí Phèo với những điển hình cho nỗi đau khốn cùng của người nông dân đẩy dần họ vào tăm tối, u mê, vào con đường phải thành “đầu trộm đuôi cướp” mới tồn tại được thì chắc rằng tác phẩm ấy, nhân vật ấy sẽ không có sức sống lâu bền như thế. Bản thân Nam Cao luôn trăn trở về nghề viết văn của mình, luôn tâm niệm một điều tác phẩm có giá trị là khi nhà văn biết “biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có…”. Ông không chấp nhận cái nhìn giản đơn đối với hiện thực cuộc sống, luôn khai thác thế giới nội tâm sâu kín của nhân vật “phát giác sự vật ở những bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa” (Chế Lan Viên).

Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã làm được điều đó – là sự sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ luôn ấp ủ hoài bão với nghề. Ông đã dùng tình thương để cảm hóa kẻ lầm đường ấy và để thức tỉnh xã hội vô tình. Ông đã tìm thấy và khẳng định bản chất lương thiện đẹp đẽ, bền vững của con người, ngay cả khi họ đã vùi dập tới mức méo mó cả nhân hình lẫn nhân tính.

Nam Cao đã xây dựng nên một Chí Phèo có xuất thân đặc biệt. Đau đớn cho Chí ngay cả những kẻ sinh ra hắn cũng không hề muốn hắn làm người. “Một anh đi thả ông lươn, một buổi sáng tinh sương, đã thấy hắn trần truồng và xám ngoắt trong một cái váy đụp để bên một cái lò gạch cũ bỏ không”. Họ vứt hắn đi như một thứ tội nợ, mặc dù hắn chẳng có tội tình gì. Rồi Chí cứ bị xã hội ấy ”quăng quật” đến tàn nhẫn khi bị người đàn bà góa mù ”bán” cho một bác phó cối không con.

Với những chữ như “rước”, “bán”, “cho” Nam Cao đã miêu tả nhân vật của mình giống như một thứ đồ vật bị người ta chuyển tay. Khi bác phó cối chết thì hắn ”bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”. Thật khó có thể thấy trên đời này có đứa trẻ nào khốn khổ tủi nhục hơn thế. Mặc dù sinh ra trong một cảnh ngộ cay đắng tủi nhục như vậy, nhưng được nuôi dưỡng bởi những con người nghèo khổ, lương thiện những phẩm chất tốt đẹp của Chí được khơi dậy và lớn lên. Nam Cao đã khẳng định chân lý: tính cách là con đẻ của hoàn cảnh, hoàn cảnh lương thiện sẽ sinh ra những tính cách tốt đẹp.

Chí sẽ vẫn là anh canh điền “hiền lành như đất” nếu như sống trong hoàn cảnh lương thiện nhưng chỉ vì cơn ghen vô cớ, Bá Kiến đã kiếm cớ đẩy Chí vào nhà tù. Nhà tù đã “đẻ ra” một anh Chí Phèo khác hẳn. Nam Cao đã dụng công miêu tả Chí trong bộ dạng giống như một quái nhân mà chưa tác phẩm trước đó hay cùng thời có, nếu đọc thoáng qua sẽ có người quy chụp ông bị ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên. Nhưng không, ngoại hình của Chí xấu xa, gớm ghiếc bao nhiêu thì càng khiến tiếng nói tố cáo hiện thực của Nam Cao thêm sâu sắc.

Ngoại hình của hắn làm cho người dân làng Vũ Đại phát khiếp “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trong gớm chết. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm trùy”.Chính nhà tù đã biến Chí thành kẻ du côn, lưu manh.

Nam Cao đã tô đậm quãng đời làm con quỷ dữ của làng Vũ Đại của Chí bằng hai chi tiết chân thực nhất đó là những cơn say và tiếng chửi. Chưa có kẻ lưu manh trong các tác phẩm văn học Việt Nam lại chửi như Chí “Hắn vừa đi vùa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không?”

Với bài chửi độc đáo của mình Chí Phèo đã tỏ ra rất tỉnh táo giữa những cơn say. Hắn đã sắp xếp các đối tượng mình chửi theo một trật tự đầy ý nghĩa: “từ trời, đến đời, đến cả làng Vũ Đại, đến đứa nào không chửi nhau với hắn…”Đây là một trật tự từ cao tới thấp, từ xa tới gần, từ trừu tượng vu vơ đến cụ thể trực tiếp. Thật ra, Chí Phèo đang cố gắng đi tìm ai là kẻ đã đẩy đời mình đến nông nỗi này. Hắn muốn có lời giải đáp cho câu hỏi: “đứa chết mẹ nào đẻ ra cái thằng Chí Phèo?”

Qua tiếng chửi không có người đáp lại của Chí, ta hình dung ra một số phận khốn khổ. Chí Phèo là một kẻ không cha, không mẹ, lại bị cả làng Vũ Đại ruồng bỏ. Không ai thèm lên tiếng đáp lại hắn. Chí tự chửi, tự nghe. Điều ấy chứng tỏ hắn là một kẻ lạc loài, là một số phận vô cùng cô đơn trong xã hội làng Vũ Đại. Trong tiếng chửi của Chí Phèo vừa có nỗi uất hận, vừa có một nhu cầu tha thiết. Chí mong có người chửi lại mình cũng có nghĩa là muốn được mọi người đối xử với mình như với một con người.

Chí Phèo cứ trượt dài trên con đường tha hóa của mình nếu như không gặp thị Nở. Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao. Thị cũng là một công trình nhỡ tay của tạo hóa. Tuy thuộc về phái đẹp nhưng thị lại có tất cả những gì mà một người phụ nữ không bao giờ muốn có. Mối tình giữa thị và Chí Phèo không phải là mối tình của hai kẻ nửa người nửa ngợm như nhan đề “đôi lứa xứng đôi” mà một nhà xuất bản đã đặt tên. Đó là một tình yêu thông thường vì có đầy đủ các cung bậc như của tình yêu như gặp gỡ – tỏ tình – cầu hôn – thất tình. Thậm chí đây còn là tình yêu đẹp vì nó làm cho hai cuộc đời trở nên tốt đẹp hơn. Từ khi gặp thị Nở, Chí Phèo dần dần từ con vật trở lại kiếp con người.

Lần đầu tiên hắn thấy “sợ rượu”, cũng là lần đầu tiên hắn tỉnh rượu để nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. “Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Những âm thanh quen thuộc, thường nhật ngày nào mà chẳng có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy. Cuộc đời bình dị, thậm chí còn nhiều nhọc nhằn, vất vả nhưng đáng yêu và đáng sống biết bao. Tiếng hai người đàn bà hỏi nhau về giá vải gợi nhắc cho Chí nhớ lại ước mơ thời hắn hai mươi tuổi: “Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”.

Cái giấc mơ ấy đơn sơ mà sao mãi đến bấy giờ hắn chưa thực hiện nổi. Nghĩ đến đây hắn thấy “buồn”. Nỗi buồn này làm cho tâm hồn Chí trong trẻo hơn. Nhớ về quá khứ hắn thấy “buồn” còn nhìn về tương lai hắn thấy “sợ” : sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và sợ nhất là cô độc. Từ chỗ nghe thấy âm thanh bình dị của cuộc sống, nhớ lại ước mơ thuở 20 tuổi đến chỗ biết buồn, biết sợ chính là quá trình nhân tình dần dần trở về trong Chí.

Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật tài tình của Nam Cao, tạo ra bước ngoặt lớn trong tâm lý và số phận của Chí Phèo. Khi nhận được bát cháo hành lúc đầu Chí “ngạc nhiên”, sau thấy “mắt hình như ươn ướt”. Bát cháo hành tuy đơn sơ nhưng lại là tình người lần đầu tiên Chí được đón nhận. Với bát cháo hành, Nam Cao đã xúc động khẳng định: nhân tình của con người rất bền vững, chỉ có thể bị vùi lấp chứ không thể bị hủy diệt. Chỉ cần nhỏ vào tâm hồn u tối một giọt tình thương lập tức tính người sẽ thức dậy.

Chính tình thương của thị đã khơi dậy phần người trong Chí. Từ chỗ “tỉnh rượu” bát cháo hành đã làm Chí “tỉnh ngộ”. Chí khao khát hoàn lương, khao khát mãnh liệt “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện”. Thị có thể mở đường cho hắn về với loài người. Như người chết đuối vớ được cọc Chí đã nói với thị bằng những lời chân tình tha thiết nhất “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ? Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui?”.Năm ngày ngắn ngủi ở bên thị hắn đã sống như một con người: hắn đã cố uống ít rượu và không làm một điều gì có hại cho những người xung quanh. Khát vọng hoàn lương thật cháy bỏng trong Chí.

Nhưng định kiến xã hội đã chặn đứng sự trở về với xã hội loài người của Chí. Thị Nở xét đến cùng tuy sống ở rìa làng, tuy bị coi là “một vật rất tởm” nhưng thị vẫn thuộc vào xã hội loài người. Thị như một thứ đồ phế thải của làng Vũ Đại nhưng khi Chí Phèo nhặt lấy, định coi là của riêng mình thì họ lại xông đến cướp lại. Làng Vũ Đại chủ yếu là những người nông dân thất học, đầy những thành kiến định kiến độc ác mà bà cô thị Nở là người đại diện phát ngôn đã tuyên bố thẳng thừng “Ai lại đi lấy cái thằng Chí Phèo”.

Cánh cửa duy nhất để hắn có thể trở về với xã hội loài người đã đóng sập. Chí định trở lại con đường cũ, bản tính lưu manh trỗ dậy nhưng hương vị tình thương của bát cháo hành, nhân tính vừa thức dậy đã ngăn hắn lại. Trong cơn tuyệt vọng, hắn lấy rượu ra uống nhưng lần này lạ thay “càng uống càng tỉnh”. Hắn không thấy hơi rượu mà cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hương vị của tình người cứ ám ảnh dày vò Chí. “Hắn ôm mặt khóc rưng rức” những giọt nước mắt của Chí lúc này chứng tỏ nhân tính đã trở về trọn vẹn trong hắn.

Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau khi uống rất nhiều rượu. Hành động của Chí lúc này đã được Nam Cao khắc họa rõ nét. Lúc đầu Chí định đến nhà Thị Nở nhưng không hiểu sao chân hắn lại đưa hắn đến nhà Bá Kiến. Có lẽ trong sâu thảm tiềm thức hắn đã nhận ra kẻ hủy hoại đời mình chính là Bá Kiến chứ không phải bà cô thị Nở. Chí đã đi chệch đường nhưng đúng hướng. Bá Kiến có lúc cả giận mất khôn đã cư xử với Chí như một con vật, đã mỉa mai khát vọng lương thiện của Chí. Vừa đau đớn, vừa căm giận, Chí trợn mắt lên, dõng dạc đòi lại cái quý nhất của đời mình đã bị Bá Kiến cướp mất. “Tao muốn làm người lương thiện”.

Chí cũng tỉnh táo nhận ra tình thế bế tắc của mình. Hắn chỉ rõ hai nguyên nhân đẩy hắn vào bước đường cùng “Ai cho tao lương thiện?” chính là ám chỉ Bá Kiến, kẻ đã đẻ ra con quỷ dữ làng Vũ Đại. “Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?” chính là ám chỉ những định kiến tàn ác của xã hội làng Vũ Đại đã chặn đứng khát vọng hoàn lương của Chí. Để bảo toàn tính người vừa trở về Chí đã hành động đột ngột nhưng hoàn toàn logic: đâm chết Bá Kiến và sau đó tự sát. Bá Kiến chết đau đớn đúng với quy luật kẻ gieo gió gặt bão.

Hành động này dự báo mâu thuẫn giữa hai tầng lớp nông dân và địa chủ trong xã hội Việt Nam đã gay gắt tới mức không điều hòa nổi. Người ta thấy cách mạng tháng 8 có mầm mống từ tia chớp của lưỡi dao Chí Phèo. Còn Chí, nhờ lưỡi dao mà khẳng định rằng: thà chết như một con người còn hơn sống như một con vật. Hành động có giá trị tố cáo sâu sắc.

Nam Cao đã xây dựng Chí Phèo với những đặc tính cá biệt, cá biệt từ tính cách đến hành động. Chí Phèo đã được khắc họa cả ngoại hiện bên ngoài lẫn chiều sâu bên trong. Vốn là anh nông dân hiền lành như đất thế nhưng qua bốn bức tường lao lí ra cuộc đời Chí đã trở thành con quỷ dữ. Chí cứ đắm chìm mãi trong những cơn say dài, tiếng chửi của Chí ám ảnh tâm can người đọc và Chí phản kháng bằng con đường lưu manh. Chí vừa là quỷ dữ, vừa là cục sáp trong bàn tay kẻ thống trị và vừa là nô lệ thức tỉnh khi đâm chết Bá Kiến lấy máu để rửa thù rồi tự sát để bảo toàn nhân phẩm mới trở về.

II. Giá trị nghệ thuật:

Nam Cao rất thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình Chí Phèo. Kết cấu cốt truyện đặc sắc với sự dồn nén của thời gian nghệ thuật tạo nên độ căng của trần thuật, tạo nên kịch tính cho tác phẩm: toàn bộ thời gian nghệ thuật của tác phẩm là 6 ngày cuối cùng của cuộc đời Chí Phèo. Tuy nhiên, trong một khoảng thời gian ấy, toàn bộ cuộc đời Chí Phèo được tái hiện qua những hồi tưởng, rồi tiếp tiến đến khi kết thúc. Các sự kiện được sắp xếp liên tục, chồng xếp, đồng hiện tạo nên nhịp điệu trần thuật nhanh, với hàng loạt biến cố trong cuộc đời của Chí Phèo. Với cách tổ chức cốt truyện và trần thuật như vậy đã gia tăng khả năng phản ánh hiện thực một cách đầy đặn và toàn diện của tác phẩm.

Cốt truyện được tổ chức theo lối đan xen các tuyến, các mảng, các quan hệ theo một trục chính của nhân vật Chí Phèo: Chí Phèo – Bá Kiến, Chí Phèo – Thị Nở, Chí Phèo – người dân làng Vũ Đại; Chí Phèo với những hiện tượng Năm Thọ, Binh Chức… Bên cạnh đó, cốt truyện còn được gia tăng kịch tính với những tình huống mang tính bước ngoặt: ba lần chí Phèo đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo gặp thị Nở, Bà cô thị Nở cấm đoán tình yêu của Chí và thị… Cả những chi tiết miêu tả về ngoại hình, chân dung, tâm lý, lai lịch, bói cảnh, các chi tiết giới thiệu về làng Vũ Đại… Tất cả tạo nên một nhân vật đầy đặn, với số phận, tính cách, những trạng thái tâm lý điển hình. Đặc biệt, cách tổ chức cốt truyện như vậy đem đến cái nhìn hiện thực ở cả chiều rộng và chiều sâu.

Tổ chức điểm nhìn trần thuật hết sức hợp lý và bao quát toàn diện. Tác phẩm trần thuật theo ngôi thứ ba, theo điểm nhìn của người kể. Nhưng điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm có sự di chuyển linh hoạt từ người kể sang nhân vật và ngược lại. Vì vậy, nó tạo nên cấu trúc đa giọng, đa thanh: có giọng khách quan của người trần thuật, giọng nhân vật, giọng nửa nhân vật, nửa người kể chuyện. Như thế, luôn luôn có sự chuyển dịch từ cái nhìn bên ngoài vào cái nhìn bên trong nhân vật. Chính vì vậy, nhân vật được cảm nhận sâu sắc, không chỉ là các yếu tố ngoại hiện mà còn có các yếu tố nội tâm, những ước mơ thầm kín, những góc khuất sâu tẳm của tâm linh. Và do đó, người đọc có cách tiếp cận đa chiều, để có thể lý giải hiện thực và những số phận của người nông dân trong tác phẩm, đồng cảm với tư tưởng nhân đạo của nhà văn.

Nhà văn tỏ ra am hiểu ngôn ngữ của người nông dân. Ngôn ngữ của Nam Cao sống động, khỏe khoắn, tinh tế, uyển chuyển, chỉ có thể là ngôn ngữ của một nhà văn đã gắn bó sâu sắc với cuộc sống lam lũ của người lao động. Như trong tiếng chửi của Chí Phèo – một người nông dân lương thiện bị lưu manh hóa khác với Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng – một kẻ lưu manh hóa theo kiểu thành thị thì ngôn ngữ của Chí mang đậm chất nông dân.

Nhà văn đã dùng rất nhiều khẩu ngữ, thậm chí dùng những từ thô tục, suồng sã như “chửi trời”, “chửi đời”, “chửi cha đứa nào”, “mẹ kiếp”…Khẩu ngữ được đánh giá là “máu của văn xuôi nghệ thuật”, quả là rất đúng với trường hợp Nam Cao. Thứ ngôn ngữ mọc lên từ bùn đất làm cho câu văn của Nam Cao có vẻ “ít đồ trang sức”, nhưng chính nhờ thế mà nó sống động và lột tả được một cách chân thực tính cách nhân vật Chí Phèo.

Sự độc đáo về thời gian và không gian nghệ thuật của Nam Cao 41

Thời gian và không gian trong sáng tác của Nam Cao cũng như mọi hiện tượng của thế giới khách quan, khi đi vào nghệ thuật được soi rọi bằng tư tưởng tình cảm, được nhào nặng và tái tạo trở thành một hiện tượng nghệ thuật độc đáo thấm đẫm cá tính sáng tạo của nhà văn. Cảm quan về thời gian và không gian gắn liền với cảm quan về con người và cuộc đời, gắn bó với mơ ước và lí tưởng của nhà văn.

        Cho tới nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc về Nam cao. Tuy nhiên, phương diện thời gian và không gian nghệ thuật chưa được chú ý và xem xét riêng.

        Những nhân vật của Nam Cao sống, như thường lệ, trong thời gian hiện thực. Một trong những nét đặc sắc của thời gian nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao là đã tạo ra một kiểu thời gian hiện thực hằng ngày, trong đó các nhân vật của ông dường như bị giam hãm, tù túng, luẩn quẩn trong vòng những lo âu thường nhật (nhà cửa, miếng cơm, manh áo, thuốc men…). Các nhân vật đau buồn của Nam Cao bị hành hạ, bị giày vò, bị ám ảnh bởi cái đói, “lúc nào cũng lo chết đói, lúc nào cũng lo làm thế nào cho không chết đói”. Cả thế giới nhân vật “bị áo cơm ghì sát đất” của ông như xuội đi trong cái vòng luẩn quẩn của thời gian hàng ngày mòn mỏi.

        Thời gian, trong nhiều tác phẩm của Nam Cao như là đông đặc lại. Nó tù đọng, đóng kín, xoay theo cái quỹ đạo tưởng chừng như không thay đổi. Thế giới bên ngoài dường như không bị thống trị bởi nó. Có thể nói, cùng với việc phác hoạ những chi tiết chân thực, khắc hoạ những tính cách điển hình, mô tả những quan hệ nhân sinh, Nam Cao đã sáng tạo ra trong những tác phẩm của ông một kiểu thời gian hiện thực hàng ngày luẩn quẩn với những lo âu về sinh kế, mòn mỏi về tinh thần, góp phần tạo nên hình ảnh một cuộc sống mòn bế tắc, ngột ngạt khá điển hình.

        Trong nhiều tác phẩm của mình, Nam Cao đã sử dụng phạm trù hồi tưởng như là một yếu tố của thời gian nghệ thuật. Như mọi người đều biết, hồi tưởng thường xuất hiện trong quá trình sáng tạo tác phẩm theo quy luật tương phản hoặc theo nguyên tắc liên tưởng. Trong thế giới nghệ thuật của Nam Cao, hồi tưởng hiện ra từ từ, không cố ý, ngỡ như vô tình, thậm chí ngay cả khi nhà văn chủ tâm đi vào thế giới hồi tưởng của nhân vật. Nó không tồn tại một cách độc lập mà trong mối liên hệ thường xuyên, chặt chẽ với hệ thống thời gian nghệ thuật. Hồi tưởng không đơn giản đẩy lùi ra những phạm vi thời gian của sự trần thuật, trái lại, nó tạo ra khả năng đối chiếu giữa quá khứ và hiện tại và có thể nhìn thấy những viễn cảnh và những chu tuyến của tương lai.

        Trong sáng tác của Nam Cao, những kỉ niệm cũ hiện lên thông qua sự hồi tưởng của nhân vật có thể trong sáng ấm áp, nhưng bao giờ cũng gợi lên một nỗi buồn. Đó là “một buổi chiều có sương bay” ngày dì Hảo đi lấy chồng (Dì Hảo). Đó là nỗi nhớ bà cô phúc hậu, mù loà, bị lãng quên, bỗng trào lên trong tâm trí đứa cháu giữa một đêm vui – đêm tân hôn - với một niềm day dứt, ân hận (Chuyện buồn giữa đêm vui).

        Điền trong Trăng Sáng, Hộ trong Đời thừa, Thứ trong Sống mòn cũng thường quay về với quá khứ, với những hồi ức của mình. Đối với họ, những cảnh vật ngày hôm nay như khêu gợi những kỉ niệm của ngày qua. Và những kỉ niệm cũ hiện về chỉ làm tăng thêm nỗi buồn chán khổ đau trước mắt. Thời gian như là người bạn đường của sự khổ đau. Có thể nói, trong nhiều sáng tác của Nam Cao, nhân vật vô hình chủ yếu chính là thời gian đã mất. Hầu như trong mỗi tác phẩm của ông đều tồn tại “nhân vật” vô hình này, hoặc là hàm ý sự có mặt của nó. Với tư cách là nhà văn hiện thực, Nam Cao ý thức sâu sắc được tính không đảo ngược của thời gian. Nhiều nhân vật thuộc những tầng lớp xã hội khác nhau của ông đều nhìn thấy thời gian trôi đi một cách tàn nhẫn. Họ suy ngẫm về thời gian với sự xúc động, với niềm nuối tiếc, với tình cảm cay đắng của sự mấtmát không gì bù đắp nổi. Đối với Điền (Trăng Sáng), Hộ (Đời Thừa), Thứ (Sống mòn) thời gian như là chiếc bào bào mòn những mơ ước. Đối với Chí Phèo (Chí Phèo) thời gian không chỉ tàn phá nhân hình mà còn huỷ hoại cả nhân tính, cả tâm hồn con người. “Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi. Ba mưoi tám hay ba mươi chín ? Bốn mươi hay là ngoài bốn mươi ? Cái mặt hắn không trẻ cũng không già ; nó không còn phải là mặt người : nó là mặt một con vật lạ. Nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi ?” Những cơn say vô tận, những việc “ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm là chính cuộc đời hắn ; cuộc đời mà hắn cũng chả biết đã dài bao nhiêu năm rồi.” Hắn đã mất ý thức về thời gian. Nhưng sau lần gặp thị Nở, tình cảm tự nhiên và sự săn sóc tận tình của người đàn bà tội nghiệp này đã góp phần đánh thức ý thức về nhân phẩm và cùng với nó là ý thức về thời gian của Chí Phèo : “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời ! Có lí nào như thế được ? Hắn đã già rồi hay sao ?”

 Trong một vài tác phẩm, Nam Cao đã miêu tả viễn cảnh của tương lai. Hiện tại tối tăm, ảm đạo, còn tương lai cũng nhuốm màu xám xịt. Tương lai của dì Hảo (Dì Hảo) là sự cô đơn nghèo đói và bệnh tật. Tương lai của Chí Phèo còn khủng khiếp hơn hiện tại : “Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Đối với nhân vật người kể chuyện trong Mua nhà, tương lai bị giày vò bởi một nỗi niềm ân hận. Hiện tại đối với Thứ thật là mòn mỏi, nhưng tương lai còn thê thảm hơn nhiều. “Nhưng nay mai mới thật buồn. Y sẽ chẳng có việc gì làm, y sẽ ăn bám vợ! Đời y sẽ mốc lên, sẽ rỉ đi, sẽ mòn, sẽ mục ra, ở một xó nhà quê. Người ta khinh y, vợ y sẽ khinh y, chính y sẽ khinh y. Rồi y sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống.” (Sống mòn)

        Song tương lai trong sáng tác của Nam Cao không hoàn toàn tuyệt vọng. Trong cái thế giới nghệ thuật nhuốm màu ảm đạm của ông đôi khi cũng bất chợt loé lên những tia hi vọng. Kết thúc truyện Điếu văn, Nam Cao viết : “Sự đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi. Một mặt trời mới sẽ mọc lên bên trên nấm mồ anh và bên trên đầu hai đứa con côi anh để lại. Một bàn tay bè bạn sẽ nắm lấy bàn tay chúng và dắt chúng cùng đi tới một cuộc đời đẹp hơn.” Ở đoạn kết của Sống mòn, Thứ cũng hi vọng vào một sự đổi thay : “Lòng Thứ đột nhiên lại hé ra một tia sáng mong manh : Thứ lại thấy hi vọng một cách vu vơ. Sau cuộc chiến này, có lẽ cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, công bằng hơn, đẹp đẽ hơn.” Thời kỳ này, Nam Cao cùng với những nhà văn trong nhóm Văn hoá cứu quốc hay nói tới tương lai với những tâm trạng náo nức và hi vọng, trong khi văn chương lãng mạn lúc bấy giờ thì âm hưởng chủ đạo là bi quan, tuyệt vọng với những “chiều mồ côi”, “chiều tận thế”. Những yếu tố lạc quan chủ nghĩa của dòng văn học hiện thực phê phán như thổi một luồng sinh khí mới vào nền văn học dân tộc. Đó là những yếu tố lạc quan cách mạng, “một đặc điểm có tính lịch sử độc đáo” của xu hướng văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Song những tia sáng lạc quan cách mạng ấy, nhìn chung, còn rất mong manh, chưa có cơ sở chắc chắn trong thế giới quan của nhà văn, thường được “lắp ghép” một cách ngẫu nhiên vào tác phẩm, và vì thế không đủ sức xua tan không khí bi quan, ảm đạm bao trùm toàn bộ tác phẩm.

Cũng như thời gian trong thế giới quan, thời gian nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao là một tập hợp của nhiều thời gian riêng biệt. Bên cạnh dòng thời gian thường nhật, sáng tác của Nam Cao còn có thêm một dòng thời gian tâm trạng. Đối với cô bé Ninh (Từ ngày mẹ chết), thời gian ngót ba năm là quá nặng nề, là dài dằng dặc vì nó mang theo một nỗi mất mát không gì bù đắp nổi : “Bu chết đã ba năm. Thầy bảo thế. Thì ra ba năm cũng dài lắm nhỉ. Ninh cứ tưởng bu chết đã lâu lắm rồi”. Có khi thời gian mang đậm màu sắc ấn tượng : “Người u em đang ngồi vá áo dưới đất, ngay chỗ cửa ra, ngẩng mặt lên một thoáng rồi lại cúi mặt xuống im lặng vá. Thứ có cảm tưởng như thị vá, chỉ vì đêm dài quá, không sao ngủ hết, cũng như bà ngoại y thường bắt rận vào những đêm trời rét, vì không ngủ được !” (Sống mòn). Nói chung, dòng thời gian tâm trạng trong sáng tác Nam Cao thường nặng nề, chậm chạp, gây cảm giác lâu hơn, dài hơn so với thời gian khách quan vì gắn liền với tâm trạng đau buồn và bi kịch của nhân vật.

Các thời gian riêng biệt nói trên liên hệ với nhau, tạo nên nhịp điệu chung của sự vận động trong tác phẩm Nam Cao - một nhịp điệu chậm chạp, nặng nề, nhàm chán, mòn mỏi. Trong cái nhịp điệu chung ấy, đời sống các nhân vật của ông như bị tù đọng, ứ lại. Từ cảnh sống nặng nề, u uất của những Thứ, những Hộ, những Điền, những Hài… đến cảnh sống đoạ đày khốn khổ cùa dì Hảo, lão Hạc… đến cảnh sống đơn điệu, tẻ ngắt, nhàm chán của gia đình ông Học, tất cả hiện lên giống như những đường, những nét tạo thành một bức tranh tổng hợp về một lối sống mòn vừa đáng thương mà lại vừa đáng giận.

Trong hiều tác phẩm của Nam Cao, quá khứ hội tụ trong hiện tại, và hiện tại như gợi lại những hình ảnh của quá khứ. Ở đây, hiện tại và quá khứ soi sáng cho nhau, tạo nên sự cộng hưởng về cảm xúc và ấn tượng cho người đọc. Những tiếng dùi đục kêu chan chát, ghê rợn của bọn thợ dở nhà gợi lại trong tâm trí trẻ thơ của bé Ninh nỗi đau thương cũ : “Ninh đã được nghe những tiếng dùi đục ấy một lần rồi, vào cái ngày mẹ chết. Người ta đóng chiếc săng của mẹ.” (Từ ngày mẹ chết). Sự đối chiếu so sánh những cảm giác của cô gái trong quá khứ và hiện tại làm tăng thêm tính chất bi thảm của sự việc đang diễn ra. Ở đoạn kết của tác phẩm Chí Phèo, khi nghe tin Chí Phèo chết, thị Nở nhìn nhanh xuống bụng, trong óc thị thoáng hiện ra cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại. Ở đây, quá khứ, hiện tại và tương lai như hoà nhập làm một.

Đôi khi Nam Cao dường như kéo căng hoặc rút ngằn thời gian hành động được miêu tả. Bữa cỗ thịt chó của người cha (có khác chi loài cầm thú) trong truyện ngắn Trẻ con không được ăn thịt chó càng dềnh dàng bao nhiêu thì sự chờ đợi, cơn đói cồn cào của lũ trẻ tội nghiệp càng bị kéo căng ra bấy nhiêu. Thời gian ở đây bị kéo dài ra một cách quá quắt, nhấn mạnh thêm cái dư vị đắng cay của tình huống. Thời gian trong Một bữa no như cũng bị chùng xuống, trong tình huống bữa ăn chực của bà lão khiến người đọc thêm thấm thía cái cảnh ngộ trớ trêu và nỗi tủi nhục của bà già khốn khổ.

Quá trình học quét nhà của bé Hồng trong Bài học quét nhà được mô tả tỉ mỉ chậm rãi giống như những thước phim quay chậm, trong đó mỗi thước phim đều in đậm những tình cảm nhân văn.

Nhiều sự kiện trong sáng tác của Nam Cao thường xảy ra trong thời gian ốm đau của trẻ em, trong những buổi chiều mùa đông lạnh lẽo, trong mưa bão hoặc những sự kiện xảy ra lúc ban đêm. Ông thường quay về với quá khứ, lươt qua những năm tháng trong cuộc đời nhân vật của mình và chỉ dừng lại ở những thời điểm, những giai đoạn có ý nghĩa nhất. Nam Cao chú ý đặc biệt tới thời gian hiện tại, một cái thời gin hiện tại không bị chìm đi trong quá khứ, cũng không bị mờ đi vì ảo ảnh của tương lai mà hiện ra rõ ràng hơn, cụ thể hơn, sinh động hơn, sâu sắc hơn, vì mang theo cả cái chiều dài và bề sâu thăm thẳm của quá khứ, hiện tại và tương lai cộng lại. Biết dừng ở thời điểm hiện tại của các sự kiện, khám phá tính chất phong phú, đa dạng của nó, điều đó gắn liền với sở trường của bút pháp Nam Cao – khám phá thế giới bên trong, thế giới tâm hồnnhân vật và lối kể chuyện theo quan điểm của nhân vật.

Nam Cao khai thác không gian nghệ thuật – cái có liên quan tới quan niệm và cảm quan của ông về thời gian, trong quá trình khám phá những tính cách, những tình huống trong đường đời của nhân vật. Trong không gian nào những hằng số thời gian này tồn tại, những lãnh địa nào phù hợp với chúng ? Thiếu câu trả lời về vấn đề này, khó có thể hiểu sâu sắc những đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực và quan niệm về cuộc đời và con người của Nam Cao.

Không gian trong sáng tác của Nam Cao trước hết là vùng nông thôn, những căn nhà nơi thôn dã, những con đường làng… Trong những mối liên hệ của thời gian và không gian, làng quê, ngôi nhà, con đường hoá ra là cơ bản và quan trọng nhất : tất cả những mối liên hệ còn lại hoặc bị chúng cuốn hút, hoặc là trở thành thứ yếu trong thế giới nghệ thuật của nhà văn.

Thành phố không phải một lần được nhắc đến, nhưng nó chỉ thoáng hiện ra như là một cai gì xa lạ, bí ẩn. Người ta hướng tới nó niềm hi vọng tìm thấy một lối thoát cho cuộc sống cùng quẫn, buồn chán và tẻ nhạt ở nhà quê. Trong sáng tác của Nam Cao, Hà Nội, Sài Gòn là nơi mà các nhân vật của ông gửi biết bao hi vọng háo hức, nhưng rồi bị chết dần, chết mòn những mơ ước ở đó, cuối cùng, như một quy luật họ buộc phải quay về quê hương đem theo cả sự nghèo đói, cả suy sụp về tinh thần lẫn thể xác.

Thường xuyên hơn cả, ta bắt gặp trong sáng tác của Nam Cao cái làng Vũ Đại (chính là cái làng Đại Hoàng quê hương ông), ngoại ô làng Thuỵ (Sống mon, nơi có cái trường tư Thứ dạy thuê để kiếm sống cùng với xóm Bài Thơ (Truyện người hàng xóm) với “những mái lá xác xơ trông tiều tuỵ như những cái nón rách trên gáy những người ăn mày ngồi xúm xít với nhau, ngủ gục cho đỡ lạnh” hiện ra như là những bức phối cảnh của làng Vũ Đại.

Khác với cái làng Đông Xá huyên náo, dồn dập tiếng trống thúc sưu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, nông thôn trong tác phẩm của Nam Cao có cái vẻ vắng lặng, hoang vu của một vùng quê xác xơ vì nghèo đói. “Một cái làng quê u tịch đôi khi chết lặng vì cái nắng trưa gay gắt của mùa hè, xao xác vào những ngày cuối chu, tả tơi vào những mùa mưa bão, quạnh vắng vào những đêm trăng.” (1) Không gian ở đây “yên tĩnh quá” đến nỗi người ta có thể nghe thấy “tiếng thở ra u ám” của những “giậu tre rậm như rừng”, thậm chí có thể nghe thấy cả “tiếng kêu rầm rĩ của những thớ gỗ trong cái kèo cái cột, hình như chúng tê mỏi mà vươn mình hay sốt ruột mà rên lên” (Nửa đêm). Cái không gian vắng lặng ấy đôi khi cũng bị khuấy lên bởi những tiếng hờ, tiếng khóc, tiếng chửi trời chửi đất, sau đó, cả làng quê lại như chìm lặng đi trong đói khát, ốm đau và tủi nhục.

Không gian trong sáng tác của Nam Cao ít được sử dụng làm nền cho những xung độ xã hội mà chủ yếu là không gian riêng tư, cá nhân, không gian sinh tồn của một làng quê cổ hủ. Trong cái không gian tù hãm như bị vây bọc bởi những luỹ tre xanh, biết bao nhân vật của Nam Cao bị cầm tù, bị đày ải, nếu không cam phận sống thệit thòi, tủi nhục như một kẻ tôi đòi (Ở hiền) thì cũng sống âm thầm nhẫn nai trong đắng cay, chua xót (dì Hảo), nếu không bị chết vì đói, vì bệnh tật (Ngèo, Điều văn) thì cũng chết khốn khết khổ vì bả chó (Lão Hạc) hay bội thực vì “Một bữa no” quá hiếm hoi (Một bữa no…)

Không gian nhà ở, căn buồng là không gian trugn tâm trong sáng tác của Nam Cao. Không gian nghệ thuật của ông được mở ra trước hết và chủ yếu ở cái không gian đời tư, gia đình này, có thể nói, không gian nhà ở, căn buồng như một áp lực thu hút các nhân vật của ông.

Chính không gian nhà ở, căn buồng (tương ứng với nó là thời gian cá nhân hàng ngày) đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho Nam Cao khai thác triệt để cái hàng ngày của đời sống. Đời sống thật của các nhân vật hiện lên cụ thể, chân thật, sinh động trong cái không gian riêng tư, gia đình của chính mình. Trong rất nhiều tác phẩm của am Cao, những biến cố, sự kiện, những hành động, suy nghĩ v.v… của nhân vật chủ yếu diễn ra trong không gian đó (Trăng sáng, Nghèo, Từ ngày mẹ chết, Bài học quét nhà, Con mèo v.v… )

Trong không gian nhà ở, căn buồng, các nhân vật của Nam Cao đã phải đối diện với các chất văn xuôi tầm thường phàm tục của đời sống. Những tiếng “diếc lác dằn vặt, hắt hủi và khóc lóc” hằng ngày đã làm xói mòn dần những rung động, những mơ ứơc của những Điền, những Hộ, những Hài, những Thứ. Những xích mích vặt vãnh, những ghen tuông giận hờn, đố kị nhỏ nhen của Thứ, San, Đích, Oanh cũng phơi bày bằng hết trong cái không gian chật hẹp ở cái trường tư ngoại ô Hà Nội, trong căn gác xép hoặc trong cái buồng thuê của ông Học. Có thể nói, dựng lên không gian nhà ở, căn buồng, nơi diễn ra những đói khát, ốm đau, bệnh tật cùng với biết bao những cái hàng ngày vặt vãnh, tầm thường, vô vị, Nam Cao đã phản ánh chân thật cuộc sống tù đọng, ngột ngạt đến mức không chịu nổi của xã hội Việt Nam đêm trước Cách mạng Tháng Tám.

Những nhân vật của Nam Cao dường như muốn thoát ra khỏi không gian ngột ngạt, tù túng nhưng đành bất lực. Không gian cư trú như một sợi dây vô hình trói buộc con người. Hộ trong Đời thừa nhiều khi “không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước mắt, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn.” Điền trong Trăng sáng biết bao lần muốn thoát khỏi cảnh sống nheo nhóc nhưng rốt cuộc không tài nào thoát được. Trong Sống mòn, Thứ hiểu khá rõ tình trạng “Sống mòn” của mình, nhưng cam chịu vì sợ hãi trước sự đổi thay. Ngồi trên con tàu từ Hà Nội về quê, Thứ miên man nghĩ : “Trên những bãi sông kia, trong những làng mạc, những khóm xanh xanh kia, có bao nhiêu người sốn gnhư y, nhưng không bao giờ dám cưỡng lại đời mình.” Nam Cao cắt nghĩa chính “thói quen, lòng sợ hãi sự đổi thay, sợ hãi những cái gì chưa tới đã ngăn cản người ta đến một cuộc sống rộng rãi hơn, đẹp đẽ hơn”.

Không gian nhà ở, căn buồng trong sáng tác của Nam Cao cũng chính là không gian suy tưởng. Nhân vật Thứ trong Sống mòn cho rằng : “Sống tức là cảm giác và suy tưởng, sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ, có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động…” Một quan niệm về con người như thế đã chi phối quá trình sáng tạo của Nam Cao. Trong sáng tác của ông, những sự kiện, những cử chỉ hành động của nhân vật bị đẩy xuống hàng thứ yếu, chỉ là cái cớ để nhà văn phân tích diễn biến tâm lí và quá trình tư tưởng của nhân vật (Mua nhà, Trăng sáng, Bài học quét nhà, Sống mòn…)

Không gian cá nhân bị dồn nén tới mức ngột ngạt thường xuất hiện cùng với sự cô đơn của nhân vật đã tạo điều kiện thuận lợi cho nó bộc lộ cái “bản tính cốt yếu nhất” của mình như một con người giàu suy tưởng. Dứơi những mái nhà tranh, nhân vật của Nam Cao thường miên man trong những lo toan, suy nghĩ, độc thoại nội tâm triền miên, âm thầm, chua chát. Nhiều nhân vật cứ nằm ngay trên giường mà suy nghĩ. Bà cái đĩ (Một bữa no) “nằm ẹp thành nước mắt”. Phúc trong Điều văn năm trên giường “như một cái xác trong mả lạnh, chua chát nghĩ rằng : Mình không ăn nhập gì với cảnh đùa vui của người.” Nhân vật Điều trong Nước mắt chỉ khi về tới nhà “quăng mũ, quăng áo, quăng cái thân xác mệt mỏi xuống giường” mới suy nghĩ một cách sâu sắc, thấm thía về cái khổ, nỗi uất ức của mình sau một ngày nhịn đói, về cái lí do làm cho người vợ hay mắng chửi con, hay đay nghiến, gắt gỏng với chồng và làm việc ông kí nhà ga gây sự với y buổi sáng. Ở ngoại ô làng Thuỵ, trong căn buồng thuê của ông Học, Thứ thường nằm dài trên giường suy nghĩ rất lung về cái kiếp sống mòn của mình… Có thể nói, không gian nhà ở, căn buồng là không gian chủ yếu để các nhân vật của Nam Cao suy tưởng qua các hình thức đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm, thậm chí cả dòng ý thức.

V.E.Khalizev cho rằng : “Những khái niệm về không gian trong tác phẩm văn học thường có ý nghĩa khái quát” (2) Trong nhiều tác phẩm của Nam Cao, không gian là hình ảnh của một cuộc sống khốn cùng, quẩn quanh, tù túng, ngột ngạt. Trong tiểu thuyết Sống mòn, không gian là hình ảnh của sự sống mòn. Thứ từ làng quê vào Sài Gòn, mơ ước đi Pari nhưng vì ốm phải về quê, rồi đi Hà Nội dạy học, nằm bẹp ở gác xép của ngôi trường tư, sau đó chuyển sang buồng thuê của ông Học, rốt cuộc lại phải trở về quê cũ, nơi xuất phát, nơi mà y cầm chắc đời y sẽ “mốc lên, sẽ rỉ đi, sẽ mòn, sẽ mục ra”, khép kín cái vòng đời mòn mỏi, luẩn quẩn, bế tắc của mình. Nam Cao như muốn đạt ra câu hỏi day dứt muôn thuở : Liệu con người có khả năng thoát ra khỏi tình trạng sống mòn không ?

Là một nghệ sĩ bậc thầy, Nam Cao đã sử dụng linh hoạt các yếu tổ của thời gian và không gian trong quá trình sáng tạo tác phẩm của mình. Từ không gian trung tâm là nhà ở, căn buồng, không gian nghệ thuật của Nam Cao còn vươn tới cái không gian khác kể cả không gian tâm tưởng. Cùng với việc đổi thay không gian, thời gian nghệ thuật cũng được mở ra nhiều chiều nhờ những hồi tưởng, ước mơ và suy tưởng của nhân vật. Những nhân vật của Nam Cao từ thời hiện đại có thể quay về quá khứ hoặc hướng tới tương lai, thậm chí có khi xáo trộn cả không gian với thời gian. Điều đó làm cho tác phẩm của Nam Cao mới thoạt nhìn bề ngoài tưởng như rất phóng túng, tuỳ tiện, nhưng thực ra lại rất chặt chẽ bởi vì chúng được chỉ đạo nhất quán bởi lối kết cấu lắp ghép (montage) - một thủ pháp kết cấu thường gặp trong sáng tác của Nam cao – và về thực chất là bị chỉ đạo bởi lối kết cấu theo quy luật phát triển tâm lí - một thủ pháp kết cấu cơ bản nhất – chi phối hầu hết và thu hút vào trong nó các kiểu kết cấu khác, kể cả lối kết cấu lắp ghép.

Phân tích giá trị nghệ thuật 42

Chí Phèo” là tác phẩm xuất sắc nhất của Nam Cao góp phần khẳng định tài năng và vai trò của ông trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Tác phẩm được coi là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt đổi mới về nghệ thuật trong nền văn xuôi nước nhà. Kể từ khi truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời cho đến nay đã thu hút rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nó trên nhiều lĩnh vực, từ chuyên ngành văn học hiện đại, văn học dân gian cho đến lí luận văn học. Đây còn là mảnh đất màu mỡ trong các lĩnh vực nghệ thuật khác như điện ảnh, hội họa,...Và, có lẽ nhân vật được bạn đọc biết đến nhiều nhất, ấn tượng nhất, yêu thích trong “Chí Phèo” nói riêng và các tác phẩm của Nam Cao nói riêng chính là Chí Phèo. Thậm chí, Chí Phèo còn vượt tầm thời đại , trở thành nhân vật đi cùng năm tháng trong nền văn học Việt Nam. Để có được sự thành công này không phải tự nhiên mà có. Vậy những yếu tố nào đã khiến cho Chí Phèo có sức hút và sức bền trong lòng độc giả như vậy? Đã có nhiều công trình, nhiều nhà nghiên cứu đã đi tìm hiểu về vấn đề này theo các phương pháp, các hướng tiếp cận khác nhau và việc tiếp cận đối tượng theo quan điểm hệ thống phân tích các biện pháp nghệ thuật thể hiện nhân vật cũng là một hướng đi được vận dụng rộng rãi trong văn chương.

Phương pháp hệ thống là phương pháp có đối tượng nghiên cứu là các hệ thống trong thiên nhiên hoặc xã hội, hoặc là một phương pháo dùng mô hình hệ thống để nghiên cứu các sự vật. Phương pháp sáng tác theo quan điểm hệ thống luôn xem các yếu tố trong quan hệ tương tác qua lại, chi phối lẫn nhau, yếu tố này dựa vào yếu tố kia để tạo nên chỉnh thể hệ thống. Các biện pháp nghệ thuật được Nam Cao sử dụng để thể hiện nhân vật Chí Phèo gồm có các yếu tố: tả , kể, đối thoại, độc thoại, tâm tình…Ta xét đến mối quan hệ tương tác qua lại giữa các yếu tố đó với nhau và rộng hơn với là kết cấu, ngôn từ của tác phẩm. Tất cả chúng cộng gộp, phối hợp một cách nhuần nhuyễn để tạo nên hình ảnh một Chí Phèo vô cùng sinh động.

Chí Phèo là nhân vật điển hình cho người nông dân bị lưu manh hóa , tiêu biểu cho số phận cực khổ của người nông dân bị đè nén bóc lột vừa tiêu biểu cho sự tha hoá phổ biến trong xã hội tàn phá tâm hồn con người – ngòi bút Nam Cao đã đạt tới một sức mạnh phê phán mãnh liệt, sâu sắc, ít có. Vẽ nên hình ảnh người nông dân lưu manh đầy thú tính, “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” hung hãn chuyên gây sự “giở toàn những giọng uống máu người không tanh”, Nam Cao đã miêu tả , ví con so sánh Chí Phèo với loài vật, đồ vật : “Hắn về lần này trông khác hẳn , mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế..”; “Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay là ngoài bốn mươi ? Cái mặt hắn không trẻ cũng không già: nó không còn phải là mặt người: nó là mặt của một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi ? Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là vết sẹo…” Cái hình dạng xấu xí, dị dạng này không phải tự dưng từ lúc đẻ ra mà có, đây là lúc hắn mới đi tù về. Chí Phèo đã bị hoàn cảnh làm méo mó đến mất cả nhân hình. Không chỉ được miêu tả về cái hình dáng, nhà văn Nam Cao còn miêu tả hành động của hắn. Bắt đầu là từ tiếng chửi : “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời. Có hề gì ? Trời có của riêng nhà nào ? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Ðại… Ðã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này ? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo”. Tiếng chửi của một kẻ say rượu mở đầu cho một tác phẩm đã gợi cho người đọc sự tò mò. Tiếng chửi thoạt nghe như vô ý, tiếng chửi càn của kẻ bất mãn, của kẻ say nhưng lại vô cùng logic. Tiếp đó Nam Cao miêu tả một loạt hành động của Chí Phèo: đốt quán, rạch mặt ăn vạ, đòi tiền Binh Chức…Chí Phèo ngày càng trượt dài trên con đường tha hóa, trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến, vô tình phá hoại hạnh phúc bao gia đình mà không hay. Chí Phèo làm mất nhân hình lẫn cả nhân tính. Người đọc dễ dàng nhận ra điều ấy qua sự miêu tả các hành động của hắn. Nhìn Chí Phèo lúc này thì mấy ai nghĩ rằng trước đây hắn từng là một anh nông dân hiền lành, chất phác. Nam Cao lại sử dụng bút pháp miêu tả, chỉ một câu miêu tả trạng thái của Chí khi bóp đùi cho bà ba: “vừa bóp đùi cho bà ba vừa run run” mà cái bản chất hiền lành như đất của anh Chí trước đây hiện lên đầy đủ. Một kẻ suốt ngày chìm trong men say như Chí Phèo lại có lúc sợ rượu: “Hắn thấy nôn nao, chân tay bủn rủn như đến ba ngày nhịn đói. Thế mà bụng lại phinh phính đầy, hình như bụng hơi đau…..Đau thật, đau mỗi lúc một dữ! Nó cứ cuồn cuộn lên. À mà trời lành lạnh. Hễ có gió thì kinh kinh. Mỗi lần gió, hắn thấy rươn rướn người. ….Sao đầu nặng quá mà chân thì lẩy bẩy. Mắt hắn hoa lên. Bụng quặn lại, đau gò người…”; “Hắn đờ hai mắt ra khẽ rên”. Tác giả miêu tả rất kĩ tình trạng , cảm nhận của Chí Phèo khi say rượu. Ông còn tả rất kĩ, rất đẹp cảnh sắc thiên nhiên “trời lành lạnh”, “trăng rắc bụi trên sông và sông gợn biết bao nhiêu vàng”. Đây là lần đầu tiên Chí Phèo được hưởng hạnh phúc, biết đến cuộc sống gia đình là như thế nào. Trước đây hắn chưa khi nào tỉnh, cũng chẳng muốn tỉnh: “Những cơn say cuả hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài mênh mông.. Chưa bao giờ hắn tỉnh.. để nhớ rằng có hắn ở trên đời.. Hắn cũng không biết hắn là con quỷ dữ làng Vũ Đại, tác quái cho bao nhiêu dân làng…”. Tỉnh làm gì rồi để thấy mình cô độc, để thấy mình đã bị cộng đồng đào thải, xa lánh. Có lẽ vì thế Nam Cao đã miêu tả rất chậm cái quãng thời gian ngắn ngủi năm ngày Chí Phèo, Thị Nở bên nhau, dùng những hình ảnh đẹp nhất tạo nên một bức tranh tình yêu và hạnh phúc, ấm áp của gia đình. Năm ngày so với thời gian của một đời người chẳng đáng là bao nhưng lại là quãng thời gian có ý nghĩa nhất với Chí Phèo. Con quỷ gớm ghiếc đó ai mà tin rằng cũng có những lúc lại mềm yếu, có những giây phút suy tư về cuộc đời mình, về những ước mơ một thuở xa xăm. Lần đầu tiên hắn tỉnh rượu kể từ khi ra tù:“hắn bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng hắn đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn!” Hiện tại lay thức lương tâm thành tiếng thở dài não nuột "Chao ôi là buồn!".. Một nỗi buồn đáng quý, bởi nó đã khơi lại những giấc mơ giản dị của một thời lương thiện: "Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm" . Nam Cao lại dùng những dòng miêu tả tâm lí nhân vật để làm nổi bật nên cái bản chất sâu xa từ bên trong của nhân vật, cho bạn đọc thấy được những biến đổi tinh tế trong tâm hồn “con quỷ” ấy.” Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt”. Chí Phèo đã có dấu hiệu của sự khao khát sống, sống như một con người đích thực. Hắn mong được trở về với nhân loại và dồn hết hi vọng nơi Thị Nở. Bát cháo hành giống như một liều thuốc kích thích khiến con quỷ trong hắn biến mất hoàn toàn. Chí Phèo từ ngạc nhiên chuyển sang cảm động. Đây là tâm lí của một người chưa bao giờ được yêu thương và nhất là bàn tay chăm sóc của một người phụ nữ. Rồi hắn thấy say thị, hắn thấy thị vậy mà lại có duyên, hắn thèm lương thiện, hắn cười nghe thật hiền… hắn khóc rồi làm nũng với Thị Nở như một đứa trẻ con… Qua việc miêu tả : miêu tả ngoại hình, hành động, tâm trạng của Chí Phèo, Nam Cao đã dựng lên hình ảnh một Chí Phèo sống động tới mức có thể sờ thấy, cảm thấy.

Những diễn biến tâm lí của Chí Phèo còn được làm sinh động và rõ ràng hơn qua hệ thống độc thoại. Ngay từ lúc đầu vào tác phẩm, tiếng chửi của Chí Phèo cũng có thể coi là một độc thoại, tuy chỉ có nội dung tiếng chửi, không cụ thể thành lời trong ngoặc kép. Tiếng chửi ấy đã cho thấy sự cô đơn, lạc loài của Chí Phèo sau 7, 8 năm ở tù ra. Rồi những suy nghĩ nội tâm khi hắn đến rạch mặt ăn vạ ở nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến dùng lời lẽ dụ hoặc: “hắn lại hơi ngần ngại: biết đâu cái lão cáo già này nó chả lại lừa hắn và nhà rồi lôi thôi ? Ồ mà thật, có thể như thế lắm! Này nó hãy lôi ngay mấy cái mâm cái nồi hay đồ vàng, đồ bạc ra khoác vào cổ hắn, rồi cho vợ ra kêu làng lên rồi cột cổ hắn vào, chần cho một trận om xương, rồi vu cho là ăn cướp thì sao ? Cái thằng bá Kiến này, già đời đục khoét, còn đớp cái nước gì mà phải chịu lép như trấu thế ? Thôi dại gì mà vào miệng cọp, hắn cứ đứng đây này, cứ lăn ra đây này, lại kêu toáng lên xem nào. Nhưng nghĩ ngợi một tí, hắn lại bảo: kêu lên cũng không nước gì! Lão bá vừa nói một tiếng, bao nhiêu người đã ai về nhà nấy, hắn có lăn ra kêu nữa, liệu có còn ai ra ? Vả lại bây giờ rượu nhạt rồi, nếu lại phải rạch mặt thêm mấy nhát thì cũng đau. Thôi cứ vào! Vào thì vào, cần quái gì. Muốn đập đầu thì vào ngay giữa nhà nó mà đập đầu còn hơn ở ngoài. Cùng lắm, nó có giở quẻ, hắn cũng chỉ đến đi ở tù. Ở tù thì hắn coi là thường. Thôi cứ vào”...Đặc biệt, độc thoại tâm tưởng diễn ra khi mà “thị ngoay ngoáy cái mông đít bỏ đi” về với bà cô thị sau năm ngày sống chung với Chí Phèo. Hắn nghĩ sẽ “tự phải đến cái nhà con đĩ Nở kia. Ðến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó. Nếu không đâm được, lúc ấy hãy đập đầu kêu làng” rồi hắn tự nói "Tao phải đâm chết nó!". Ở đây, sự nhập thân của tác giả vào tâm trạng nhân vật bộc lộ những suy nghĩ nội tâm, sự đau khổ nghiệt ngã của một con người bị đẩy vào bước tha hóa, lưu manh hóa nhưng không chịu tha hóa đến cùng, muốn trở lại làm người lương thiện nhưng phải trả bằng cái giá rất đắt: chính là mạng sống của mình. Hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh, hắn nhận ra bi kịch cuộc đời mình rõ hơn bao giờ hết. Tiếng khóc bật ra , hắn ôm mặt khóc rưng rức. Hắn ngửi thấy hơi cháo hành. Chí Phèo đã đặt niềm tin rất lớn vào Thị Nở có thể cứu vớt hắn thoát khỏi kiếp sống như một con quỷ bị mọi người xa lánh. Nhưng Thị Nở đã cự tuyệt hắn, từ chối hắn, niềm tin đổ vỡ, đó là nỗi đau không gì bù đắp nổi trong hắn. Miêu tả tâm lí nhân vật cùng với độc thoại , độc thoại nội tâm được tài hoa của nhà văn Nam Cao kết hợp ăn ý từ đó giúp khắc họa nên bản chất tính cách thực của nhân vật đồng thời giúp thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn.

Nói đến độc thoại thì không thể không nhắc đến đối thoại trong truyện ngắn “Chí Phèo”. Có các đoạn đối thoại giữa Chí Phèo – Bá Kiến, Chí Phèo – người bán rượu, Chí Phèo - Tam Lãng, Chí Phèo – Thị Nở. Và, ngôn ngữ mà Nam Cao sử dụng trong các đoạn đối thoại cũng góp một phần không kém quan trọng làm nên thành công cho tác phẩm. Ngôn ngữ giữa các nhân vật được lựa chọn phù hợp với tính cách từng nhân vật. Ngôn ngữ của bọn Bá Kiến, Lí Cường là ngôn ngữ của bọn bề trên khi mềm mỏng khi đanh rắn rất biến hoá. Ngôn ngữ của các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở thì rất quê mùa có khi là tục tằng thô lỗ. Nhìn chung tác phẩm viết về đề tài người nông dân nên ngôn ngữ mà tác giả sử dụng trong tác phẩm là loại ngôn ngữ bình dân chân quê, rất phù hợp với cảnh và tình của tác phẩm.

Bá Kiến cũng dõng dạc hỏi:
-- Anh Chí đi đâu đấy ?
Hắn chào to:
-- Lạy cụ ạ. Bẩm cụ... Con đến cửa cụ để kêu cụ một việc ạ! Giọng hắn lè nhè và tiếng đã gần như méo mó. Nhưng bộ điệu thì lại như hiền lành; hắn vừa gãi đầu gãi tai, vừa lải nhải:
-- Bẩm cụ từ ngày cụ bắt đi ở tù, con lại sinh ra thích đi ở tù, bẩm có thế, con có nói gian thì trời tru đất diệt, bẩm quả đi ở tù sướng quá! Ði ở tù còn cơm để mà ăn, bây giờ về làng về nước, một thước cắm dùi không có, chả làm gì nên ăn. Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi ở tù...

Những đoạn đối thoại giữa các nhân vật góp phần rất lớn trong việc thể hiện tính cách nhân vật. Bá Kiến hiện rõ là một con cáo già khôn ranh. Chí Phèo thì lộ rõ bản chất của một tên lưu manh chỉ biết rạch mặt ăn vạ. Khi đối thoại với Thị Nở, lúc này tâm lí, tính cách các nhân vật có sự chuyển biến, ngôn ngữ giữa các nhân vật cũng vô cùng thân mật, đáng yêu, rõ giọng điệu quan tâm, làm nũng của những kẻ đang yêu :

- Vừa thổ hả ?
Mắt hắn đảo lên nhìn thị, nhìn một loáng rồi lại đờ ra ngay.
- Ði vào nhà nhé ?
Hắn làm như gật đầu. Nhưng cái đầu không động đậy, chỉ có cái mí mắt là nhích thôi.
- Thì đứng lên.
Chí Phèo cũng có những lúc thật đáng yêu:
Hắn bảo thị:
- Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ ?
Thị không đáp, nhưng cái mũi đỏ của thị như càng bạnh ra. Hắn thấy thế cũng không có gì là xấu. Bằng một cái giọng nói và một vẻ mặt rất phong tình theo ý hắn, hắn bảo thị:
- Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.

Đáng chú ý nhất và kết lại cho toàn bộ tác phẩm khi Chí Phèo nhận ra bi kịch của đời mình, hắn luôn miệng lẩm bẩm sẽ cầm dao đi giết Thị Nở và bà cô Thị nhưng chân hắn lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến :

-- Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế anh cần gì ?
Hắn dõng dạc:
-- Tao muốn làm người lương thiện !
Bá Kiến cười ha hả:
-- Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.
Hắn lắc đầu:
-- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách... biết không ! Chỉ có một cách là... cái này biết không !

Nam Cao đã để cho Chí trong giờ phút ấy cất lên những lời đau đớn : " Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những vết mảnh chai trên mặt này?". Đó là nỗi đau đớn của một người đã bị chặn mất nẻo về với thế giới thân thuộc của Con Người, bởi những định kiến khắt khe của xã hội.

Với một truyện ngắn thì nhắc đến nghệ thuật của nó ta không thể bỏ qua nghệ thuật kể chuyện, xây dựng tình huống truyện. Nam Cao sử dụng kết cấu vòng tròn để kể lại trọn vẹn câu chuyện cuộc đời Chí Phèo. Mở đầu là hình ảnh Chí bị bỏ rơi trong chiếc váy đụp, mặt xám ngắt bên cái lò gạch cũ. Hai mươi tuổi đi làm thuê cho nhà Bá Kiến, hứng chịu cơn ghen tuông của Bá Kiến và nỗi nhục bị bắt bóp chân, bóp lên mãi cho bà ba. Hắn vào tù, khi trở về làng thì hắn biến thành một con quỷ. Chí Phèo gặp Thị Nở và cuộc tình năm ngày chóng vánh đã cho hắn trở lại làm người, trở lại thành anh Chí hiền lành của năm nào. Thế nhưng, Thị Nở đã từ chối hắn, những định kiến đã ngăn không cho hắn trở về thành Con Người. Hắn vác dao đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Và kết thúc lại là hình ảnh cái lò gạch cũ hiện ra một lần nữa. Hình ảnh đấy sức liên tưởng về một thế hệ Chí Phèo con sẽ ra đời, lại cũng sẽ có một Bá Kiến nào khác nếu như xã hội không thay đổi.

Ở khúc ngoặt thứ nhất, nhà văn đã đưa ra hai hình tượng Năm Thọ và Binh Chức - những nhân vật phụ không trực tiếp tham gia vào diễn biến câu chuyện - để làm sáng tỏ nhiều điều. Trong lời kể nhẩn nha, những nhân vật này như tiện thể được nhắc đến, nhưng thực chất, vai trò giải thích, cắt nghĩa của chúng đã được phát huy tối đa. Nếu như nhân vật Năm Thọ ngầm lý giải đầy đủ cho cái nguyên cớ Chí Phèo bị đẩy vào tù (cái nguyên cớ vốn rất mù mờ trong con mắt người dân làng Vũ Đại), thì nhân vật Binh Chức lại rọi sáng cái quá trình biến chất của Chí Phèo. Nhờ sự xuất hiện của những nhân vật ngoài cốt truyện ấy mà tính tất yếu trong mọi biến cố của số phận nhân vật chính được bộc lộ sắc nét, rõ ràng hơn. Từ hai nhân vật bên lề của truyện Chí Phèo, ta càng hiểu rõ hơn điều mà Roland Bathes khẳng định khi nghiên cứu cấu trúc truyện kể: “Chỉ có một con đường duy nhất: hoặc trong văn bản, mọi thứ đều có ý nghĩa hoặc không có ý nghĩa nào hết... Trong tác phẩm nghệ thuật không có yếu tố thừa, cho dù sợi chỉ xâu chuỗi đơn vị cốt truyện với các đơn vị khác có thể rất dài, mong manh hay mảnh mai”.

Ở bước ngoặt thứ hai, tất cả bắt đầu từ tình huống gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở - một tình huống có tính quyết định cho sự đột biến. Tình huống gặp gỡ này thoạt nhìn có vẻ là hoàn toàn ngẫu nhiên, nhưng quan sát kỹ, ta sẽ thấy Nam Cao đã ngầm chuẩn bị khá chu đáo mọi phương diện.

Qua việc tiếp cận đối tượng theo quan điểm hệ thống, đi vào lần lượt các biện pháp nghệ thuật mà nhà văn Nam Cao đã sử dụng để thể hiện nhân vật Chí Phèo, các nét tính cách, sự chuyển biến trong tâm hồn, cuộc đời, số phận nhân vật đã hiện lên một cách rõ ràng và sinh động. Cái chân thật đến ngỗ ngược rồi cả đáng yêu của Chí Phèo được bạn đọc cảm nhận và ghi lại ấn tượng về một nhân vật văn học đặc sắc, một nông dân tha hóa điển hình. Chí Phèo xứng đáng trở thành nhân vật được bạn đọc mọi thời đại yêu thích.

Nỗi đau của Chí Phèo 43

Phải nói rằng, Chí Phèo (trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao) là một cột mốc cuối cùng, là tựu trung của tất cả các nỗi đau về số phận người nông dân. Điều đáng nói, kết cục của những nỗi đau này là bi kịch: Con người bị tước đoạt, bị chối bỏ quyền làm người; bị tha hóa, bị xã hội cướp mất cả nhân hình lẫn nhân tính.

Với văn đàn của chủ nghĩa hiện thực phê phán, Nam Cao đến muộn. Trước ông, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng đã xây dựng trên nền chủ nghĩa hiện thực với những bức chân dung người nông dân nghèo khổ, chất phác, bị chà đạp và cũng giàu tinh thần phản kháng như chị Dậu, anh Pha... Nhưng Nam Cao vẫn là nhà văn lớn, nhà văn hiện thực xuất sắc. Bởi vì ông biết khám phá những điều mới mẻ, biết “khơi những nguồn chưa ai khơi” và “sáng tạo những gì chưa có”. Nam Cao hướng ngòi bút sắc sảo của mình vào một hiện tượng biến chất ở con người. Khai thác những nỗi đau của những loại người bị hoàn cảnh o ép đến dị dạng, bị xã hội làm cho biến chất cả nhân hình lẫn nhân tính, quay trở lại phản ứng bằng con đường lưu manh liều lĩnh. Năm Thọ, một tên đầu bò, đầu bướu bị đẩy vào tù. Vượt ngục, xách dao trở về làng “nhờ ông Lí một cái thẻ mang tên một người lương thiện và một trăm đồng bạc để trốn đi”. Năm Thọ đi biệt thì Binh Chức ở đâu lần về. Trước đây, hắn “hiền như cục đất”. Hiền quá hóa ngu, ai cũng ức hiếp: “Hắn làm cật lực mà quanh năm nghèo rớt mồng tơi; chỉ vì một miếng không giữ được mà ăn; đứa nào nó với được nó cũng xoay, mà đứa nào xoay cũng chịu. Sau cùng bực quá, hắn ra đi lính”. Bỏ đi thì mất vợ. Bọn chức sắc trong làng tha hồ “cấu xé”! Lương gởi về “rút lại chỉ cho chị Binh một tháng một lần hưởng những cuộc vui với ông Lý nhà”, Binh Chức trở về làng, trở thành tên giết người, ngang ngược. Năm Thọ bỏ làng ra đi biền biệt, Binh Chức rồi cũng chết. Như Năm Thọ, Binh Chức, Chí Phèo cũng bị xã hội đẩy vào con đường lưu manh hóa. Nhưng Chí Phèo đi xa hơn trong nỗi thống khổ bi đát này.

Trước kia Chí cũng là một canh điền lực lưỡng, hiền lành, cũng có những mơ ước bình dị như bao nhiêu con người bình thường khác: “Có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải,chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Hắn cũng biết tự trọng, cái tự trọng của tuổi hai mươi. Bị bà Ba (vợ lẻ của Bá Kiến) “cái con quỷ cái hay bắt hắn bóp chân mà lại bóp lên trên, trên nữa! ... Hắn thấy nhục hơn là thích”. Thế là, tai họa phủ chụp xuống cuộc sống hiền lành của Chí. Ghen bóng, ghen gió Bá kiến đẩy hắn đi tù. Xã hội nhà tù (công cụ của thực dân) – cùng với Bá Kiến (thế lực tàn nhẫn của cường hào ác bá địa phương) đã thẳng tay đẩy cuộc đời Chí xuống vực thẳm, xô Chí qua khỏi ranh giới của xã hội con người lương thiện. Biến Chí thành một con người hoàn toàn khác hẳn, “hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chả ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng, một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết”. Những gì về ngoại hình của anh Chí hiền lành trước đây đã mất. Khắc lên cơ thể hắn là những gì dữ tợn và gớm giếc. Phủ ngoài những thứ ấy là “quần nái đen” và “cái áo tây vàng” như là chứng tích, là nguyên nhân tại sao Chí như vậy! Đã thế, mới về hôm trước, hôm sau đã thấy hắn ngồi uống rượu suốt ngày. Từ đó, hắn chỉ biết say, cơn này tràn qua cơn khác. Chỉ biết cướp của, đánh người, giết người, rạch mặt ăn vạ... Hắn trở thành công cụ của bọn cường hào địa phương độc ác. Hắn trở thành tai họa cho bao nhiêu gia đình lương thiện. Thực sự, hắn đã mất hết tính người. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại ! Từ đó, cả ngoại hình lẫn nhân tính của hắn không còn là anh Chí hiền lành như ngày xưa. Tất cả những gì tốt đẹp của Chí đã bị xã hội “tước đoạt”, cả nhân hình lẫn nhân tính! Và cũng từ đó không ai nhận Chí là người. Chí rơi vào bi kịch của con người bị chối bỏ quyền làm người.

Nam Cao trong một hoàn cảnh mới và ở một cấp độ mới đã nhận ra một hiện tượng có tính chất phổ biến: Là sự xuất hiện loại người dị dạng, dị hình ở nông thôn: “Cái dị dạng người trong tính cách của Chí Phèo là khám phá của Nam Cao” (Nguyễn Minh Châu), “Chí Phèo không phải là một tính cách đơn độc mà thực sự là kiểu người và nhân vật mang nặng trên vai những vấn đề của xã hội!” (Hà Minh Đức). “Làng Vũ Đại ngày ấy” ngột ngạt quắt queo, khô cạn sức sống, lại thêm bọn cường hào ác bá và các thế lực vô nhân đạo khác thẳng tay chèn ép cuộc sống con người nhỏ bé, tội nghiệp. Sống trong không khí ấy, làm sao con người hoàn thiện bình thường được. Con người vẫn luôn là sản phẩm của xã hội. Những chân dung méo mó, dị dạng: ngang ngạnh như Trạch Văn Đoành (Đôi móng giò); dở hơi và xấu đến “ma chê, quỷ hờn” như Thị Nở; đờ đẫn, lú lẫn đến mất trí như Đức (Nửa đêm); say, cuồng ngạo đến thành quỷ dữ như Chí Phèo... đều do hoàn cảnh tạo nên. Quá trình biến đổi của Chí Phèo cả nhân hình lẫn nhân tính như đã nói trên là một minh chứng.

Trạch Văn Đoành, Thị Nở, Đức... dừng lại, sống mãi trong trạng thái biến hình để nghênh ngang, để dở hơi; để khùng khùng điên là một nỗi đau! Chí Phèo đi xa hơn, quằn quại nhiều hơn trong nỗi đau. Bởi có lúc Chí tỉnh, Chí ý thức được chính mình. Chí ghê rợn khi biết mình đã thành quỷ. Lúc ấy, Chí cảm nhận sâu sắc thân phận bi đát của mình. Trong một cơn say, Chí gặp Thị Nở... chút thương yêu mộc mạc, giản dị của thị Nở khơi dậy ngọn lửa lương thiện còn leo lét nơi đáy lòng Chí. Đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong bóng tối dày đặc của cuộc đời Chí. Cái phần người trong Chí hồi sinh. Chí khao khát được “làm hòa với mọi người”, được trở về với mặt bằng của cuộc đời lương thiện. Chí bâng khuâng mơ ước một tương lai, le lói một tia hi vọng. Thị Nở sẽ là cây cầu để Chí bám víu mà trở về với cuộc sống bình thường. Đau đớn thay! Tia hi vọng được trở lại làm người của Chí vừa lóe lên đã vụt tắt. Định kiến xã hội (thông qua bà cô thị Nở) không cho Chí đặt chân lên nhịp cầu hi vọng. Một lần nửa, Chí bị ruồng bỏ. Chí bị rơi vào vực thẳm tuyệt vọng. Chí lại say. Say trong nỗi đau khi tự ý thức được cơ cảnh tuyệt vọng của mình. Chí xách dao đi tìm lương thiện. Lương thiện đâu mà tìm ? Chí đi như quán tính của một người say. Nam Cao không nói gì (!) . Nhưng chúng ta biết nơi cướp mất lương thiên lần đầu trong cuộc đời Chí là đâu và ai đã từng bước đẩy cuộc đời Chí vào con đường vô lương. Nhà Bá Kiến... Tại đây, trong tận cùng của nỗi đau, Chí gào lên thống thiết: “Tao muốn làm người lương thiện ! Ai cho tao lương thiện ... tao không thể là người lương thiện được nữa ! Biết không ? Chỉ còn một cách... biết không ?”. Chí giết Bá Kiến, cái “nọc độc” đang từng ngày, từng giờ hủy hoại lương thiện của bao người ! Rồi Chí tự đâm chết mình, vì tự biết mình là sản phẩm mà cũng là công cụ của cái “nọc độc’’ ấy! Chí chết trong nỗi đau: “giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng . Ở cổ hắn thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra”...

Tận cùng của nỗi đau thật là thảm khốc. Lão Hạc cũng chết nhưng dẫu sao, bao nhiêu điều muốn gởi gắm lại với cuộc đời, với con, lão đã trao được hết cho ông giáo. Để ít ra còn một người hiểu lão. Chí Phèo chết đau đớn hơn: “mồm hắn ngáp ngáp muốn nói nhưng không ra tiếng”. Nhưng có ai hiểu và nghe hắn đâu để hắn nói! Bi kịch! Cả đời hắn tự cào cấu, đập, rạch vào chính thân thể mình, gào thét với cuộc đời nhưng vẫn chưa nói hết nỗi đau! Bây giờ hắn chỉ còn cách cuối cùng là thọc sâu lưỡi dao vào chính cổ mình để nỗi đau uất nghẹn trong lòng được chảy ra, “ứ ra” với cuộc đời! Nỗi đau Chí Phèo với khát vọng làm người mà bị khước từ là vậy! Đây cũng là đỉnh điểm, điển hình về nỗi đau người nông dân trong truyện ngắn Nam Cao trước cách mạng tháng Tám năm 1945.

Phân tích ý nghĩa, nhan đề tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao 44

Chí Phèo là kiệt tác của văn chương Nam Cao, cũng là thành tựu đặc biệt xuất sắc của văn chương hiện đại. Các tên mà tác phẩm đã từng đặt là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi, Chí Phèo.
Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao bắt đầu có tên là Cái lò gạch cũ. Trước hết, có thể nói rằng, hình ảnh cái lò gạch cũ chiếm một vị trí đặc biệt trong tác phẩm. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh người ta nhặt được Chí trong cái lò gạch bỏ không và kết thúc tác phẩm khi Chí Phèo vung dao giết Bá Kiến rồi tự sát. Thị Nở trông cảnh đó nhìn xuống bụng và thoáng thấy hiện ra cái lò gạch vắng người qua lại. Như vậy, nhà văn đã tạo ra một kết cấu vòng tròn thể hiện vòng đời luẩn quẩn của những nạn nhân xã hội. Đồng thời cũng thể hiện cái nhìn bi quan, bế tắc trước bi kịch đau đớn tột cùng của người nông dân trước cách mạng tháng Tám.
Năm 1914, nhà xuất bản đã tự đổi ý thành Đôi lứa xứng đôi. Bởi vì, phản ứng thực tế lúc bấy giờ văn chương đã trở thành một thứ hàng hóa để đáp ứng thị hiếu của phần đông độc giả và nhà xuất bản đã đổi tên tạo ra một cái tên giật gân để thu hút độc giả. Nhan đề Đôi lứa xứng đôi đã thể hiện sự lệch lạc trong tiếp nhận văn chương nghệ thuật của Nam Cao ở một số công chúng độc giả đương thời. Dụng ý nghệ thuật của Nam Cao không hề bôi nhọ những con người nghèo khổ khốn cùng. Khi miêu tả họ với vẻ bên ngoài thô kệch, xấu xí, trái lại ngòi bút của Nam Cao đi sâu vào nhân vật để phát triển và khẳng định bản chất lương thiện, đẹp đẽ ngay cả khi họ mất nhân hình nhân tính, đồng thời đề cao tình người ấm áp.
Chính vì vậy đến năm 1946, Nam Cao đã đổi tên tác phẩm thành Chí Phèo với những ý nghĩa sau: một mặt nó hướng người đọc vào nhân vật trung tâm của tác phẩm; mặt khác nó thuộc về phong cách nghệ thuật của Nam Cao: ngòi bút của nhà văn thường tỏ ra lạnh lung, khách quan, nhân vật của ông thường có là thị, hắn, nó, Chí Phèo… nhưng ẩn đằng sau nó là trái tim ấm nóng của nhà văn trước hiện tượng con người nêu ra trong tác phẩm.
Qua nhan đề của tác phẩm, Nam Cao cho thấy Chí Phèo là một hiện tượng điển hình cho mọi bi kịch đau đớn nhất, tủi cực nhất của người nông dân lương thiện trong xã hội cũ sinh ra là người mà không được quyền làm người.

Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Chí Phèo" 45

Giữa những bộn bề phức tạp của buổi chợ phiên văn chương , giữa những náo nhiệt đông đúc của gian hàng hiện thực phê phán, Nam Cao được nhận là một chủ cửa hàng khác đặc biệt với tấm lòng nhân đạo và tình thương dành cho những người nông dân trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Nhà văn đã đưa người đọc đi sâu khám phá cái đẹp ẩn sâu bên trong của những số phận bất hạnh, những con người “cùng hơn cả dân cùng”. Tiêu biểu cho cuộc hành trình gian truân vất vả ấy là truyện ngắn “Chí Phèo” . Đọc tác phẩm ta sẽ thấy rõ được tư tưởng nhân đạo cao cả cùng tình thương và nam cao dành cho nhân vật của mình.

Quả không sai khi nói rằng, mỗi tác phẩm văn học là kết quả được nhào nặn từ đời sống. Nếu tác phẩm văn học chỉ là sản phẩm của hư cấu và tưởng tượng mà không mang hơi thở đời sống thì sẽ không chuyển được cảm hứng đến với bạn đọc, văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật. Nam Cao đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại thông qua các tác phẩm của mình, đồng thời tìm ra cho mình một lối đi riêng khác hẳn với những nhà văn cùng thời đầu. Đọc tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao ta sẽ thấy rõ được điều đó. Đây là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Nam cao được viết năm 1941. Đầu tác phẩm có tên “cái lò gạch cũ”, sau đó Nhà xuất bản tự ý đổi thành “đôi lứa xứng đôi”, đến năm 1946 nhà văn quyết định đặt tên tác phẩm là “Chí Phèo”.

Không giống như “chị Dậu”, trong Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, anh Pha trong “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan phải chịu nỗi đau về mặt vật chất bị cái nghèo đầy đọa, nhưng vẫn giữ được danh dự nhân phẩm, Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao lại phải chịu nỗi đau đớn về mặt tinh thần bị mọi người đẩy ra khỏi xã hội, cự tuyệt quyền cơ bản nhất đó là quyền làm người. Đọc tác phẩm chúng ta sẽ không khỏi xót xa với những nỗi khổ đau Chí Phèo phải chịu đựng, để từ đó chúng ta cảm nhận được tấm lòng nhân đạo, sâu sắc và Nam cao dành cho Chí Phèo từ đó cứu rỗi linh hồn đầy tội lỗi, rồi đây khao khát được làm người nơi Chí Phèo.

Cả cuộc đời Chí Phèo vốn là một con số 0 tròn trĩnh, không cha, không mẹ, không nhà cửa, không tấc đất cắm dùi, ngay từ khi sinh ra chí đã bị cha mẹ ruồng bỏ quân hắn vào cái váy đụp rách bỏ ở cái lò gạch cũ vắng người qua lại, may mắn thay một anh thả ông luôn đi qua nhìn thấy hắn từ đó chị lớn lên trong tình thương và sự cưu mang của cả dân làng Vũ Đại. Năm 18 tuổi Chí làm canh điền cho nhà lý kiến. Khi đó hắn là một anh nông dân hiền lành, chăm chỉ, hắn cũng đã từng mơ về một ngôi nhà ở đó vợ chồng hạnh phúc bên nhau, vợ dệt vải nuôi tằm, chồng cuốc mướn cày thuê, rồi chúng bỏ một con lợn ra nuôi khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Nhưng có ai ngờ thân phận nô lệ đâu để cho hắn yên khi thói dâm dục của bà 3 ý kiến nổi lên cùng thói ghen tuông của lão cũng là lúc Chí Phèo bị đẩy vào tù để rồi 7, 8 năm sau ra tù chí đã trở thành con quỷ dữ của cả làng vũ đại bị mọi người xa lánh, sợ hãi.

Hắn về lớp này trông khác hẳn không ai nhận ra Chí là ai, cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cao trắng hơn, cái mắt đen lại rất cơn cơn trông đặc như thằng răng đá, hắn mặc cái quần đen, cái áo tay vàng, cái ngực phanh để lộ những hình chạm trổ rồng phượng, cái chân hình một ông tướng cầm trùy trông gớm chết. Không chỉ thay đổi về nhân hình, chí còn thay đổi cả về nhân tính, hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy hắn ngồi uống rượu với thịt chó từ trưa đến chiều say là hắn chửi. Hắn chửi trời, chửi đất, chửi cả dân làng Vũ Đại nhưng chẳng ai đáp lại tức mình hắn chỉ đứa chết mẹ nào đẻ ra thằng Chí Phèo. Không phải ngẫu nhiên mà mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã bắt đầu bằng tiếng chửi của chí, tiếng chửi của chí thể hiện sự khát khao muốn được giao hòa, giao cảm với con người với cuộc đời. Nhưng đáp lại tiếng chửi của chí chỉ là tiếng của ba con chó giữ, là con người vậy mà chỉ có 3 con chó dữ đáp lại tiếng hắn. Vậy chẳng khác nào hắn đã bị đánh tụt từ hàng con người xuống hàng con vật, chính trong cơn say ấy ý chí đã bị Bá Kiến lợi dụng biến hắn trở thành tay sai đắc lực của lão từ khi hắn đã trở thành con quỷ dữ của làng vũ đại, phá nát biết bao gia đình.

Đọc tác phẩm ta cứ tưởng rằng cuộc đời của chí sẽ trượt dài trên con đường của sự tha hóa và biến chất, nhưng với tấm lòng nhân đạo cao cả, Nam Cao không hề trách giận Chí Phèo và ngược lại ngòi bút của ông hướng về nhân vật vẫn tràn đầy yêu thương. Ông đã cho Chí Phèo gặp Thị Nở để rồi cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên nhưng định mệnh này đã khơi gợi tính người nơi Chí Phèo, với lại ở Chí Phèo khát khao được làm người, ban đầu chí phèo gặp Thị Nở chỉ bằng bản tính thú vật của một gã say rượu nhưng nào ngờ Thị Nở người đàn bà xấu như ma chê quỷ hờn ấy lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã nhói vào trái tim đã cằn cỗi, u mê của Chí Phèo để đưa Chí Phèo trở về thoát khỏi tội lỗi. Sau đêm ăn nằm với Thị Nở, lần đầu tiên sau những cơn say Chí hoàn toàn tỉnh táo.

Hắn cảm thấy như mặt trời đã lên cao và nắng vàng rực rỡ, người hắn nghe thấy tiếng của những người đi chợ về, tiếng của anh thuyền chài có mái chèo đuổi cá . Những âm thanh này hôm nào mà chẳng có nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy . Những âm thanh quen thuộc bỗng chắp cánh cho ước mơ ngày xưa quay về để Chí Phèo chìm đắm trong hồi tưởng với ước mơ về một căn nhà nhỏ, một gia đình hạnh phúc. Đọc đến đây ta bỗng nhớ đến những tiếng sáo trong ‘Vợ Chồng A Phủ” của Tô Hoài . Chính tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân đã khiến khao khát sống với Mị được trỗi dậy mãnh liệt… Tỉnh bơ trong dòng suy nghĩ Chí như thấy được tuổi già ốm đau bệnh tật nhưng sợ nhất vẫn là sự cô độc. May mà Thị Nở bước vào không thì Thị khóc lên được mất. Thị cắp một cái rổ bên trong có đựng một nồi gì đậy vung, đó chính là nồi cháo hành thơm phức.

Thị Nở múc cháo ra bát cho Chí Phèo cầm lấy bát cháo hành trên tay Chí Phèo húp thật ngon lành, hắn chợt nhận ra cháo hành rất ngon và đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho mà không cần phải cướp giật. Chí Phèo cảm thấy yêu Thị Nở và mong muốn Thị sẽ là cây cầu đưa Chí Phèo trở về làm người. Đã có ý kiến nhận xét Thị Nở chính là vị thiên sứ mà Nam Cao phải đến để thức tỉnh Chí Phèo. Thiên sứ ấy không có đôi cánh của thiên thần nhưng lại có bàn tay ấm áp như ngọn gió, ngọn lửa, ngọn gió thổi bay lớp bụi u mê nơi trái tim còn ngọn lửa thiêu đốt lớp vỏ quỷ dữ cho Chí Phèo trở về làm con người lương thiện. Cùng với đôi bàn tay ấm áp, bát cháo hành cũng là một yếu tố quan trọng lay tỉnh Chí Phèo, nó như một liều thuốc giải độc vượt giữa lớp men rượu đánh thức tâm hồn đầy tội lỗi của Chí Phèo, thế nhưng cuộc đời thật trớ trêu khi mà xã hội còn đầy rẫy những định kiến thì khao khát trở về với cuộc sống của mỗi con người thực sự là rất khó khăn.

Thị Nở cùng tình yêu của thị giống như một cây cầu vồng lung linh bảy sắc, xuất hiện rồi biến mất sau cơn mưa, chí chưa bước chân lên cầu thì cây cầu đã rút ván. Những lời cay độc của bà cô mà Thị Nở trút lên đầu chí phèo đã khiến hắn hiểu ra mọi chuyện. Chỉ trong chốc lát mọi hi vọng mọi ước mơ đều vỡ vụn quá đau khổ Chí Phèo lại tìm đến rượu nhưng rượu đã không còn đủ sức để làm mờ lý trí, rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất , Chí Phèo xách dao đi trả thù miệng thì nói là đến nhà Thị nở để đâm chết con đĩ Nở, con khọm già. Nhưng chân lại đưa hắn đến nhà bá kiến .Có lẽ lúc này hơn ai hết Chí Phèo đã hiểu ai mới là kẻ đã xóa tên mình ra khỏi cuốn sổ của những con người lương thiện trong cuộc đời tăm tối của Chí Phèo.

Giây phút hắn vung dao lên để kết liễu tên cáo già Bá Kiến là những giây phút rực rỡ nhất . Chí cũng đã phải quyên sinh , một cái chết quằn quại đau đớn trên vũng máu tươi trở về làm người. Câu hỏi của Chí “ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất đi những vết mảnh trai trên mặt này” vút lên đầy đau đớn đánh thẳng vào bộ mặt xã hội đầy bất công lúc mấy giờ để lại nhiều trăn trở cho bạn đọc. Có lẽ Nam Cao chưa thực sự tìm ra lối thoát cho nhân vật của mình nhưng cái chết của Chí Phèo đã thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Nhà văn để nhân vật của mình chết đi là mong muốn chí phèo có thể giữ lại chút lương thiện cuối cùng của mình.

Với cách xây dựng nhân vật độc đáo, ngôn ngữ sắc lạnh giàu tính khẩu ngữ, câu văn giàu hình ảnh, giàu tính biểu cảm đã cho ta thấy được cuộc đời đầy đau khổ của những người nông dân trước cách mạng tháng 8 phải chịu và sự đồng cảm yêu thương trân trọng mà tác giả dành cho họ.

Chí Phèo đã chết nhưng vẫn còn đó những câu hỏi đầy ai oán không có lời giải đáp, cùng với chị Dậu, anh Pha, Chí Phèo đã khẳng định phải có một cuộc cách mạng để thay đổi cuộc sống lúc bấy giờ. Đồng thời những nhân vật ấy nhắc nhở chúng ta phải biết trân trọng hơn những hạnh phúc mà mình đang có, đồng thời phải biết cống hiến để xây dựng cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn./.

Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Chí Phèo" 48

Nam Cao được mệnh danh là nhà văn có tấm lòng nhân đạo lớn. Chính ông là người đã mang đến cho văn học Việt Nam một cái nhìn rõ nét hơn về con người. Trong đó có truyện ngắn Chí Phèo, đã làm nổi bật lên một ngòi bút luôn tha thiết tình yêu dành cho con người.

Giá trị nhân đạo được xem là giá trị cơ bản nhất của tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn dành cho người dân và cuộc sống.Luôn biết cách nâng niu, trân trọng những giá trị của họ. Bảo vệ họ bằng lẽ phải và lên án những điều xấu xa. Trong tác phẩm Chí Phèo của mình, Nam Cao đã góp một tiếng nói nhân đạo sâu sắc, tình cảm gắn liền với số phận bi thương của họ, mở ra cho họ một cách suy nghĩ khác và tha thiết trân trọng giá trị bên trong của họ.


Ở Chí Phèo, lúc trước khi trở về thành kẻ lưu manh. Hắn từng là một anh nông dân có trái tim lương thiện và ấm áp. Một người từng chỉ có ước mơ nho nhỏ “chồng cày cuốc mướn” và “vợ dệt vải” Đó là anh nông dân giàu lòng tự trọng, cái gì không thích thì hắn khinh, biết phân biệt giữa tình yêu cao thượng và tình cảm giác nhục dục thấp hèn. Những lần bị bà ba gọi lên bóp chân cho, Chí Phèo chỉ cảm thấy nhục chứ đâu có yêu đương gì hắn đâu..

Nhưng, sau đó, Chí đã biến thành một con người khác, Bá Kiến, một tay sai đắc lực của chế độ thực dân phong kiến đã khiến Chí trở thành một người khác. Một kẻ lưu manh theo đúng nghĩa. Chí không còn là một anh nông dân hiền lành như đất, nơi ấy đã khiến trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” . Qua đó là thái độ lên án phê phán gắt gao của Nam Cao dành cho xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Nhấn mạnh sự khốn cùng của con người..

Sau đó, Chí gặp Thị. Một cơn gió mang lại cho Chí giấc mơ năm xưa, con người năm xưa được thức tỉnh bằng bát cháo hành ấm nóng tình người. Chí lần đầu tiên được một người đàn bà cho cái gì đó. Mọi khi hắn toàn cướp giật, dọa nạt, Hắn thấy sợ, sợ già, sợ bệnh… và nhất là sợ cô đơn. Hắn khát khao trở lại thành người lương thiện, sự thèm khát lương thiện biết bao… “Thị Nở có thể sống yên ổn với hắn thì sao với người khác lại không thể được” Nam Cao đã nâng cao giá trị của một kẻ lưu manh, để hắn nhận ra số phận của mình. Qua đó khẳng định khát khao được sống làm người chính đáng của họ.

Nhưng, Chí Phèo cuối cùng cũng chết, cái chết như một vòng luẩn quẩn không hồi đáp. Và Chí chỉ còn là con người trên ngưỡng cửa của sự lương thiện. Cái chết Chí Phèo là hồi chuông báo động, mang tới sự lên tiếng vì chế độ thực dân đã đàn áp và tha hóa con người. Nam Cao không hề có ý định bôi nhọ người nông dân , trái lại ông đã khẳng định cao giá trị nhân phẩm của họ. Điều đó chứng tỏ một con mắt luôn biết nhìn đời nhìn người rất mực sâu sắc của ông.

Nam Cao thực là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy. Những gì ông viết đều chắt từ bầu huyết quản, trái tim dành cho con người. Chí phèo xứng đáng là một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc, khi thời gian có qua đi, nhìn lại ta vẫn nhìn thấy một chí phèo ngật ngưỡng bước ra. Khẳng định giá trị một tác phẩm chân chính và nhân đạo sâu sắc, độc đáo.

Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Chí Phèo" 49

Tác phẩm Chí Phèo khép lại ở trang cuối cùng với một cảnh tượng đầy hãi hùng hai xác chết của hai con người - sinh vật. Cả hai đều làm người nhưng không phải là người: Bá Kiến và Chí Phèo. Máu me loang lỗ, lênh láng khắp hai cái xác khiến chúng ta giật mình tự hỏi và hỏi Nam Cao: Đâu là hiện thực? Đâu là nhân đạo?

Toàn truyện Chí Phèo là một sức căng. Nam Cao đã đưa người đọc lạc vào cung bậc khác nhau của những sự căng thẳng về thần kinh bởi nhưng câu chửi choang choang của Chí, bởi những cơn nốc rượu như nước, bởi những lần rạch mặt ăn vạ ghê rợn. Tưởng thế đã là đáng nhớ lắm, Nam Cao còn bất ngờ đưa tay, lia ngòi bút một lần cuối để kết thúc bản nhạc của mình, cả trang sách như rung lên khi Chí vung dao chém vào người Bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình.

Khi Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan... ra đời, mấy ai còn có thể tưởng tượng tới một cảnh đời nào bần cùng hơn, bế tắc hơn, tủi cực hơn thế. Tưởng như cuộc sống chị Dậu và anh Pha đã là tột cùng của nỗi khổ đau ở đời. Nhưng cùng hơn cả những con người bần cùng đó, vẫn có Chí Phèo đã bước ra từ trang sách của Nam Cao, là hiện thân đầy đủ của "những gì là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, bị hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. Chị Dậu, anh Pha dù có khổ mấy vẫn được công nhận là người. Còn Chí, con người hiền lành, chất phác qua lần vào tù ra tội đã bán cả nhân tính, nhân hình để trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại.

Thoát được cửa tù con, Chí Phèo lại ra vào cửa tù lớn và lần này thì mãi mãi, Chí bị khóa chặt trong cuộc đời thú vật mà chế độ "ban" cho. Từng ấy bất hạnh đáng được để cho nhân vật nổi loạn lắm, nhưng ngòi bút Nam Cao tỉnh táo và sắc sảo, đủ điều kiện cùng nhân vật đi đến cuối truyện. Mọi cái được nâng lên với mức độ cao hơn khi Chí Phèo với ý định đến nhà thị Nở, quen chân thuận đường lại đến nhà Bá Kiến; vô tình một cách có ý thức, Nam Cao cho nhân vật của mình lại đi lệch đường, nhưng đúng hướng, đúng cái đích mà Nam Cao vạch ra cho nhân vật của mình. Cái chết của Bá Kiến đầy bất ngờ, không ai nghĩ rằng con cáo già như Bá Kiến lại có thể chết nhanh gọn đến thế. Với Chí Phèo thì không có gì là không thể bởi sự liều lĩnh của hắn đã được tôi luyện từ lâu rồi trong xã hội cũ. Nam Cao luôn đi tìm nhân phẩm và tình thương yêu chân thật ở những người lao động cùng khổ, bị giày xéo và khinh bỉ. Đây cũng là vấn đề "đôi mắt" mà Nam Cao luôn hướng tới, là đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện thực và nhân đạo của Nam Cao.

"Trong mảng sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ. Chính vì thế mà một số người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam Cao. Có biết đâu rằng, chính với đám nhân vật "có vấn đề" đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất (Nguyễn Hoành Khung). Nam Cao tỏ ra là một cây bút sắc sảo với cái nhìn tinh tế, nhạy cảm trên bình diện xung đột giai cấp. Với Bá Kiến, Nam Cao chứng tỏ mình hiểu rất sâu xa bản chất của giai cấp phong kiến địa chủ. Với Chí Phèo, Nam Cao cũng chứng tỏ một tâm hồn biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa khơi để tìm ra một điển hình nhất của một hạng người cùng hơn cả dân cùng, chúng ta quen gọi đó là hình tượng nhân vật "lưu manh hóa".

Qua cách xây dựng những xung đột, mâu thuẫn của truyện. Nam Cao đã chứng tỏ một cảnh quan hiện thực hết sức rõ ràng, mãnh liệt. Ông thấy rõ rằng mối xung đột, mân thuẫn giai cấp ở nông dân - địa chủ, nhất là nông dân đã chín muồi đã đến mức sâu sắc và không gì có thể xoa dịu. Nam Cao xây dựng mối quan hệ Bá Kiến - Chí Phèo trở nên hết sức gay gắt, mối tình dang dở với Thị Nở cũng là cách đổ thêm dầu vào lửa, biến cơn say, cơn buồn, cơn thất tình ở Chí Phèo thành lòng căm hận, tức tối, quyết đến nhà Thị Nở để trả thù. Quy luật lại không phải thế, quy luật đã kéo Chí đi nhưng là đến nhà Bá Kiến, chứ không phải ai khác. Kẻ đáng giết Bá Kiến.

Với cái kết thúc bất ngờ dữ dội của thiên truyện ngắn, Nam Cao đã cho chúng ta thấy kết quả tất yếu sẽ xảy ra, điều đó không thể tránh khỏi. Giai cấp thống trị có thể khôn ngoan, giảo quyệt, mánh khóe, có thể đàn áp, làm lu mờ cả ý thức của người dân thì vẫn còn âm ỉ trong người dân ngọn lửa của lòng căm thù, căm ghét những kẻ bóc lột mình, ở Chí, cho dù tâm trí tê liệt, mọi cái bị "xóa sổ" trong trí nhớ của Chí thì tận trong cơn say, hắn vẫn như mơ màng nhận thấy một điều gì. Đoạn Chí quyết đến nhà Thị Nở để trả thù là biểu hiện bề ngoài, trong tiềm thức chỉ có Bá Kiến, sâu xa nhất trong quá khứ là Bá Kiến, Thị Nở chỉ là hiện tại. Mọi bức bối, uất ức dồn đến lâu ngày, càng dồn nén xuống thì ắt sẽ có ngày bùng nổ. Sự chịu đựng quá tải đã làm bừng tỉnh cơn dại trong Chí, anh quyết đi trả thù đời, đi "đòi nợ".

Ngòi bút của Nam Cao phải vững vàng lắm trên lập trường của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo thì mới có những trang viết rành rọt, tỉnh táo đến như vậy. Ông tin rằng trong huyết quản của Chí Phèo vẫn chưa cạn hết dòng máu của người nông dân lao động nên đã cho Chí xách dao đến nhà Bá Kiến, không đòi rượu, đòi tiền mà để đòi lại bộ mặt và tâm hồn mình đã bị phá nát, tước đoạt. Chỉ có lòng nhân đạo cao cả mới có thể nhìn thấy được ở con người quái dị như Chí Phèo một lòng thiết tha ham sống. Chỉ có Nam Cao mới thấu hiểu sự khao khát được trở lại làm người của Chí, đó là khi ông miêu tả "tiếng đời thường" thông qua sự cảm thụ của Chí.

Năm ngày liền Chí hiền khô, thậm chí không uống một ngụm rượu. Đó là nhờ có Thị Nở đà mang tình yêu thương đến với Chí, mặc dù đó là thứ tình cảm dở hơi, không ý thức. Chi tiết bát cháo hành nóng hổi đã sưởi ấm lại con người Chí, kéo hắn về với cuộc đời. Khốn nạn thay, xã hội phong kiến đương thời cũng không để Chí yên thân mà hưởng niềm hạnh phúc nhỏ bé đó, bà cô của Thị Nở cũng chính là một thứ công cụ của xã hội đầy định kiến, ngăn cản Thị Nở trở lại với Chí. Khi bàn tay nhân đạo đã rụt lại, Chí Phèo lại trở về với con người hàng ngày của mình: say rượu, hung dữ. Nhưng chính quãng thời gian ít ỏi được sống bên Thị Nở đã tác động vào suy nghĩ của Chí.

Lúc này, anh có ý thức sống cho chính mình hơn, đòi hỏi cho mình một lẽ sống, một sự công bằng đã bị tước đoạt. Giết chết Bá Kiến mới chỉ đạt được một nửa công việc, Chí Phèo hoàn thành nốt "công việc" còn lại bằng cách tự giết luôn cả mình. Nếu còn sống, Chí Phèo vẫn tiếp tục cuộc đời quỷ dữ của mình, vẫn phải đối chọi với con trai của Bá Kiến. Ta còn nhớ Nam Cao đã cho một nhân vật của mình ăn bả chó tự tử, đó là lão Hạc. Nay ta lại thấy Chí Phèo tự kết liễu mình. Phải chăng, với suy nghĩ riêng của Nam Cao, những con người quá khốn khổ, quá cùng quẫn thì chỉ có cái chết mới giải thoát được tất cả? Chí Phèo phải chết mới chấm dứt cuộc đời nhục nhã của mình để hóa kiếp sang một con người khác tốt đẹp hơn?

Chí Phèo chỉ ao ước trở lại làm một người lao động bình thường với mối tình Thị Nở, nhưng không được. Cách xây dựng nhân vật của Nam Cao thật độc đáo. Chí Phèo vừa là một gã mất trí, công cụ nguy hiểm trong tay bọn thống trị, lại vừa là nô lệ thức tỉnh, trở thành con người có đầu óc sáng suốt nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có ý nghĩa khái quát sâu sắc vượt quá mức thường ngày, vượt quá tầm khôn ngoan lọc lõi của Bá Kiến: "Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?" Nỗi ray rứt rất con người, đầy nhân văn này lại được thốt ra từ miệng một kẻ chuyên uống rượu say mềm. Bá Kiến cũng bất ngờ, mất cảnh giác nên Chí đã dễ dàng sát hại. Diễn biến rất hợp lí, từng chi tiết nhỏ đều rất tôn trọng "chủ nghĩa hiện thực".

Chí Phèo ngay sau đó cũng tự kết liễu đời mình bởi trong giây phút điên cuồng đó, hắn đã tỉnh táo hơn bao giờ hết và ý thức được mọi điều mình làm. Không tự giết, Chí Phèo cũng sẽ phải chết vì con trai Bá Kiên còn đó, vì bao đối tượng khác luôn lăm le muốn xóa sổ hắn. Giết được Bá Kiến, Chí Phèo như lấy lại được thanh danh cho mình, như đã hài lòng về bản thân, cảm thấy không cần phải sống để đòi nợ ai nữa. Hắn không chết cũng sẽ không còn ai cho hắn tiền uống rượu, không còn Bá Kiến cho hắn rạch mặt ăn vạ nên hắn chết. Có những cái chết bế tắc, nhưng cái chết của Chí Phèo lại là bước mở đầu cho sự sống, cho sự tháo cũi xổ lồng, giải thoát cho chính mình.

Viết nên những trang sách ấy, Nam Cao vẫn chưa ý thức đầy đủ về sức mạnh vĩ đại của quần chúng lao động, sức công phá mãnh liệt của những kiếp người nô lệ, nhưng ông đã lờ mờ nhận thấy một sức sống tiềm tàng trong con người lao động bị áp bức. Đằng sau sự dàm chém hài hùng kia có cái gì như là sự vật vã tuyệt vọng đang cố vùng vầy để thoát khỏi nó. Bi kịch của Chí không phải là sự nghèo hèn vật chất, thứ vị xã hội mà ở chỗ là người mà không được xã hội loài người dung nạp. Sống trong sự thờ ơ lẫn sợ hãi, xa lánh của mọi người càng làm cho Chí cùng thêm, liều thêm cho đến khi ý thức được điều đó thì hắn chỉ còn biết tìm đến cái chết.

Thực ra, trong chuỗi ngày dài trong đời hắn, hắn không hề biết mình đang sống, hắn chưa biết đến cái chết nghĩa là hắn chưa sống. Kết thúc truyện hắn đã tìm đến cái chết, cũng là lúc hắn nhận biết được cuộc sống thú vật của hắn. Còn Bá Kiến, sẽ còn Chí Phèo. Hết Bá Kiến, Chí Phèo cũng không tồn tại. Ở đây ta còn thấy một sự thâm thúy sâu xa của Nam Cao khi cho cả hai nhân vật tồn tại song song và có vai trò tác động lẫn nhau. Nếu không phải là Bá Kiến thì anh Chí ngày xưa chưa hẳn đã là Chí Phèo bây giờ. Bởi ở Bá Kiến là cả sự khôn ngoan lọc lừa, một kẻ biết ném đá giấu tay.

Nam Cao có lần đã nói: Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ kiếp lầm than. Đó là lời của Điền (Trăng sáng), nhưng cũng là nỗi băn khoăn trong cuộc đời cầm bút của Nam Cao. Ngòi bút của ông hướng về người dân lao động nghèo khổ nhiều khi là những con người xấu xí như Chí Phèo, Thị Nở... Ông cố tình đưa cái khuôn mặt rách nát của Chí hay khuôn mặt kì dị của Thị vào trang viết bởi chỉ với nhân vật như thế, Nam Cao mới tố cáo hết sự tàn bạo của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ tột cùng của người nô lệ.

Trong Chí Phèo,Nam Cao đã tập trung xoáy sâu và làm nổi bật lên mâu thuẫn xã hội cơ bản ở nông thôn: đó là mâu thuẫn cực độ giữa người dân lao động bị I áp bức và bọn thống trị, địa chủ chuyên bóc lột. Kết cục bi thảm của truyện chính là kết quả tất yếu, không tránh khỏi mâu thuẫn đó. Nam Cao rất tôn trọng bút pháp hiện thực, vì vậy, khi viết ông không ngần ngại đưa vào truyện những chi tiết trần tục như việc tả Chí Phèo và Thị Nở ở đêm trăng. Cả hai con người gàn dở ấy cũng khao khát yêu đương, cũng có những ham muốn rất con người, nếu ngòi bút Nam Cao không chân thực thì chúng ta không thể thấy hết điều đó. Càng hiện thực, càng cho chúng ta thấy một Nam Cao đầy lòng vị tha, nhân ái, một tấm lòng nhân đạo cao cả.

Bi kịch ở cuối truyện là sự bứt phá, tự giải phóng cho nhân vật. Nam Cao lồng cả tình cảm của mình vào để gián tiếp bộc lộ lòng căm thù sâu sắc của mình đối với chế độ và sự yêu thương, trân trọng với giai cấp nông dân. Bá Kiến chết đi là mong muốn của sự kết thúc một chế độ đen tối bất công. Chí Phèo chết đi là cách duy nhất Nam Cao hóa kiếp cho loài người đau khổ, chỉ có cái chết mới giải thoát được cho họ. Cái nhìn của Nam Cao tuy hơi cực đoan, bế tắc song nó hợp với logic của truyện ngắn. Khi cái xấu xa đã ăn sâu vào thành tính cách, phẩm chất của con người thì không còn cách nào thay đổi được, chỉ chết đi mới rủ bỏ được tất cả. Tìm đến cái chết, nghĩa là Chí Phèo đang tìm kiếm sự sống, một cuộc sống thực sự.

Truyện ngắn Chí Phèo đã đánh dấu một sự nghiệp sáng tác lớn của Nam Cao. Ông hiểu rằng phải là hiện thực, văn học mới có ý nghĩa tố cáo sâu sắc chế độ, chỉ có hiện thực mới nhìn thấy hết nỗi đau khổ, dằn vặt trong người dân lao động, và chỉ có hiện thực mới làm nổi bật tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn. Hành động quyết liệt bất ngờ của Chí Phèo trong truyện là một diễn biến hợp lí, thể hiện sự "tháo cũi xổ lồng" của người dân. Tuy nhiên Nam Cao mới chỉ nhìn thấy sự phản kháng ở một con người chứ chưa có ý thức về sức mạnh tiềm tàng trong quần chúng. Nam Cao mới nhìn vào Bá Kiến chứ chưa nhìn vào một hệ thống giai cấp thống trị ở khắp đất nước Việt Nam thuộc địa.

Qua truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã chứng tỏ là một cây viết hiện thực sắc sảo, là "thư kí trung thành của thời đại", một tấm lòng nhân ái, rộng mở bị ám ảnh bởi số phận đau khổ của kiếp người nô lệ. Chính mảnh đất nơi ông sinh ra đã tác động, ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp sáng tác của ông.

Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Chí Phèo" 50

Nhắc đến Nam Cao, người ta nhớ đến một ngòi bút hiện thực phê phán xuất sắc của văn học Việt Nam những năm trước và sau Cách mạng tháng Tám. Đọc văn Nam Cao, đôi lúc người ta không khỏi rùng mình bởi cái sắc lạnh trong ngôn ngữ, trong miêu tả, trong cách nhìn nhận sự việc. Nhưng đằng sau đó lại luôn ẩn chứa một tấm lòng nhân đạo sâu sắc, xót thương con người, xót thương số phận từ đó mơ ước về một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. ông như chiếc phích nước nóng đã được người đời mệnh danh, ngoài lạnh, mà trong thì luôn ấm nóng tình người. Đọc “Chí Phèo”, tác phẩm thực sự đánh dấu sự nghiệp văn học và định hướng sáng tác của nhà văn, dõi theo cuộc đời và số phận của các nhân vật trong chuyện, ta cảm nhận được một cách thật sâu sắc tấm lòng nhân đạo cao cả ấy.

Nhân đạo là đạo đức thể hiện ở sự thương yêu, quí trọng và bảo vệ con người. Giá trị nhân đạo trong một tác phẩm văn học thường thể hiện ở việc tác phẩm ấy quan tấm như thế nào đến vấn đề con người? Nó ngợi ca gì? Phê phán gì? Thể hiện tình cảm thương yêu, quí trọng con người, hướng tới việc phản ánh ước mơ, nguyện vọng của con người ra sao? Nói tóm lại, một tác phẩm nhân đạo là một tác phẩm hướng tới, đề cao, trần trọng, bảo vệ những giá trị thuộc về con người, xây dựng một cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. ớ mỗi thời kì khác nhau, về mặt bản chất, chủ nghĩa nhân đạo không có gì thay đổi nhưng có nhiều những biểu hiện không giống nhau.

Nếu như trong văn học dân gian, nhân đạo là phát hiện ra vẻ đẹp con người, đề cao và ca ngợi người dân lao động cùng những ước mơ, khát vọng của họ thì trong văn học thời chiến, nhân đạo còn thể hiện ở thái độ lến án, tố cáo, chống lại kẻ thù. Thời bình, nhân đạo là quan tâm đến đời sống thường ngày, không xa lạ, hoa mĩ mà gần gũi, chân thực của con người, hiểu và cảm thông cho những bi kịch do thời đại mang lại của họ. Là một tác phẩm ra đời trong thời kì trước Cách mạng tháng Tám, khi dân tộc ta còn đang chìm trong “đêm trường nô lệ”, cuộc sống nhân dân khổ cực, tối tăm, bế tắc, “Chí Phèo” của Nam Cao đã diễn tả sâu sắc bi kịch của người nông dân trên con đường bị bần cùng hoá, bị tha hoá cả về nhân hình và nhân tính từ đó lớn tiếng phê phán và tố cáo xã hội sâu sắc.

Trước hết, tác phẩm dựng lên một bức tranh hiện thực về cuộc đời và số phận nhân vật bất hạnh. Tất cả những người nông dân trong tác phẩm đều là những người bất hạnh. Bà cô Thị Nở khổ vì cảnh “gái già”, không chồng, không con, o ép mình trong những định kiến xã hội. Thị Nở khổ vì có một hình hài không bình thường, thậm chí là dưới mức bình thường, khổ vì là một người đàn bà dở người... Và hơn tất cả, Chí Phèo nổi bật lên là một điển hình cho những nỗi khổ chung của người nông dân trong xã hội ấy. Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sinh ra: Người ta nhặt được hắn trần truồng, tím ngắt trong cái lò gạch bỏ không. Rồi Chí bị chuyền hết từ tay người này sang tay người khác và cuối cùng năm hai mươi tuổi thì trở thành canh điền nhà Bá Kiến.

Ra khỏi cảnh lang thang, Chí lại rơi vào tay một con cáo già nham hiểm. Vì ghen, Bá Kiến đẩy Chí Phèo vào trong nhà tù, bước đầu quá trình lưu manh hoá, biến hình một anh thanh niên trước đó vốn hiền lành như đất thành một con quỹ. Bằng tình thương và lòng nhân đạo sâu sắc của mình, Nam Cao đã phát hiện ra ở nhân vật một thân phận đầy bi kịch. Đầu tiên, đó là bi kịch của một người bị đẩy vào cảnh bần cùng hoá. Chí Phèo cũng từng là một người nông dân có thân phận nghèo hèn như bao người nông dân khác trong làng Vũ Đại. Hắn phải đi ở dợ, đi làm thuê cho nhà giàu để kiếm cớ sinh nhai.

Nhưng nếu như Chị Dậu bị đẩy vào cảnh bị bần cùng hoá đến cảnh phải bán con, bán chó, gia đình không còn gì có thể bán được nhưng vẫn còn có một mái nhà để chui ra chui vào. Anh Pha của Nguyễn Công Hoan bị đẩy từ một người có chút máu mặt trong làng, có ruộng, có vườn trở thành một kẻ vô sản. Bi kịch bần cùng hoá của Chí Phèo còn đau đớn hơn. Chí Phèo bị bần cùng đến mức phải doạ nạt, phải cướp giật, phải đập phá của người ta mới có cái để ăn, mới có nơi để sống. Bi kịch đầu tiên đã đầy đau xót nhưng bi kịch thứ hai còn đau đớn hơn gấp nhiềú lần. Đó là bi kịch của một con người bị tha hoá, biến chất, biến thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại.

Từ một người lương thiện, Chí Phèo bị nhà tù thực dân lưu manh hoá. Rồi Bá Kiến, bằng sự nham hiểm của mình hoàn thiện nốt quá trình tha hoá thằng lưu manh ấy thành con quỉ dữ. Một con người mà bị xã hội của mình gạt ra ngoài lề, một người bị cô độc đến tuyệt đối và cách giao tiếp duy nhất có thể là qua tiếng chửi nhưng đáp lại cũng chỉ là mấy con chó, còn dân làng thì “không ai chịu ra Ịời”; Một kẻ mà người ta tránh như tránh một con vật nào đó rất đáng sợ như Chí cũng thật đáng thương. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Nam Cao còn khiến người ta xót xa hơn cho Chí Phèo bởi hắn làm tất cả những việc đó trong lúc say.

Chí Phèo say tràn từ hết cơn say này sang cơn say khác. Và “hắn say thì hắn làm bất cứ việc gì mà người ta sai hắn làm”, “hắn đã phá đi bao nhiêu cơ nghiệp, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm đổ máu và nước mắt của biết bao người lương thiện”. Hắn trở thành con quỉ dữ trong mắt mọi người. Chí Phèo trở thành nạn nhân của những mưu mô xảo quyệt, thành nạn nhân của chính xã hội ây. Vì hắn say nên hắn gây tội ác. Và cũng chính vì hắn say nên hắn làm tất cả những điều đó một cách vô thức. Hắn trở thành một công cụ trong tay người khác, càng đáng sợ bao nhiêu hắn lại càng đáng thương bấy nhiêu. Ngòi bút của Nam Cao cứ thế, lạnh lùng, miêu tả một cách chân thực mà không bộc lộ một thái độ chủ quan nào nhưng đọc lên người ta vẫn thấy một tâm hồn cũng đang đau đớn, quằn quại trong những bi kịch của chính các nhân vật của mình.

Nhà văn từng quan niệm: “Đôi mắt của người nghệ sĩ hoàn toàn không phải là đôi mắt ráo hoảnh" của phường ích kỉ mà là đôi mắt của tình thương, đôi mắt của lòng nhân đạo”. Và ông đã dùng đôi mắt ấy để phát hiện, cảm thông cho bi kịch của con người. Đằng sau cái thằng Chí Phèo ngật ngưỡng say rượu tưởng chừng chỉ biết rạch mặt ãn vạ, đánh đập, dọa nạt người khác, Nam Cao phát hiện ra vẫn tồn tại tính người, tồn tại cái mà người ta gọi là lương thiện. Phải có một lòng thương yêu và niềm tin sâu sắc vào con người ông mới có thể khám phá ra trong tâm hồn tưởng chừng như đã thành sỏi đá ấy nhịp đập thoi thóp của một trái tim ấm nóng. Thằng Chí Phèo của hiện tại đã từng là một anh Chí nông dân, hiền lành, nhút nhát, bị bà Ba gọi lên bóp chân còn thấy run.

Anh nông dân ấy đã từng sống lương thiện bằng chính sức lao động của mình, cũng đã từng có những ước mơ lương thiện: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải..”.. Không ai có thể tin hay nghĩ rằng cop quỉ dữ ấy có thể một lần lột xác trở lại làm người. Vậy mà Nam Cao lại tin điều đó. ông đã để cho một điều kì diệu xảy ra, dù ngắn ngủi, dù bát thường nhưng là một điều kì diệu vĩ đại, điều kì diệu có hể thay đổi một con người. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở không chỉ đơn giản là một cuộc đụng chạm về xác thịt. Đó chỉ là khởi đầu. Buổi tối bên bờ sống trong cái rười rượi của trăng chỉ làm khơi dậy thứ tình yêu mang tính bản năng con người. Trận ốm lúc nửa đêm mới thực sự bắt đầu cho những dấu hiệu của sự thức tỉnh. Lần đầu tiên, sau bao nhiêu lâu không rõ, Chí Phèo không say. Lần đầu tiên, hắn cảm nhận được những âm thanh của cuộc sống: “Mặt trời đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ.

Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài là đủ biết. (...) Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chẳng có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy..”. Và cũng lần đầu tiên, sau bao ngày chìm trong men say, hắn biết thế nào là buồn. Một người bắt đầu biết suy nghĩ về cuộc sống có nghĩa là cũng đã biết tự chiêm nghiệm về mình. Và hắn đau đớn khi nhận ra rằng: Hắn là một kẻ trắng tay. Đứng ở bên kia dốc cuộc đời, hắn biết mình đã già, “Ngoài bốn mươi tuổi đầu..”.. Dầu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn, rằng những ước mơ lương thiện từng có ở một anh nông dân lương thiện đã không thể nào thực hiện được, dù chỉ là một phần rất nhỏ.

Và rồi, Thị Nở lại sang. Thị sang mang theo cho hắn bát cháo hành, mang cho hắn sự quan tầm chăm sóc chân thành, mang cho hắn tình yêu và từ đó nhen nhóm lại trong hắn giấc mơ được trở lại kiếp người lương thiện. Tình người cùng với hương cháo hành đã dẫn dắt tính người quay lại trong hình hài của một con quỉ dữ, đánh thức khát khao, đánh thức ước mơ, đánh thức niềm mong muôn được trở về với xã hội loài người. Và hắn hi vọng: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muôn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ nhận thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại ai. Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”.

Chí Phèo đâu có hoàn toàn đáng sợ như người ta tưởng. Hắn đáng sự chỉ vì bởi ngườỉ ta đã lợi dụng để biến hắn thành như vậy. Bản tính lương thiện vẫn tồn tại trong con người Chí Phèo và giờ đây, khi được một tình người chân thành cảm hoá, nó được khơi dậy thành một khát khao mãnh liệt. Tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn đã khiến ta thâm thía rằng: “ Chao ôi! Đốì với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tà nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương”. Nhưng khi lương thiện và tính người trở về thì cũng là lúc bi kịch được đẩy lên đến đỉnh điểm chỉ còn cách giải quyết cuối cùng là cái chết.

Đến đây, khi lương thiện và ý thức về cuộc đời đã quay trở lại, Chí không thể tiếp tục cuộc đời của một con quỉ dữ nhưng cũng không thể trồ lại làm người. Và Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Bằng tấm lòng yêu thương cao cả và ngòi bút nghệ thuật đặc sắc của mình, Nam Cao đã diễn tả một cách sâu sắc diễn biến tâm lí của Chí Phèo từ hi vọng, đến thất vọng đau đớn, phẫn uất và cuối cùng là tuyệt vọng. Chí Phèo quằn quại trong vũng máu cũng là quằn quại trong bi kịch của chính mình. Người ta thấy thương xót cho số phận Chí Phèo còn nhiều hơn là ghét, giận.

Yêu thương con người, phát hiện và trân trọng những ước mơ, khát vọng của họ, thể hiện niềm tin vào cái “thiên lương” trong sáng trong tâm hồn con người, Nam Cao cũng lớn tiếng lên án, tố cáo xã hội tàn ác chà đạp lên quyền sống, quyền làm người, quyền hạnh phúc của con người. Lưu manh hoá Chí Phèo là nhà tù thực dân, còn tha hoá và biến hắn thành con quỉ dữ là Bá Kiến. Chế độ thực dân và phong kiến đã cùng nhau thống trị, đẩy người dân vào cảnh “một cổ hai tròng”, không thể nào ngóc đầu lên được. Làng Vũ Đại là mảnh đất “quần ngư tranh thực” mà ở đó người dân chỉ là những miếng mồi béo bở đế bọn cường hào địa chủ tranh giành, cắn xé.

Bá Kiến có hẳn cả một kho kinh nghiệm để thống trị người ta, để biến người ta thành tay sai của mình, để áp bức, bóc lột. Trong khi hắn chiêm nghiêm, tâm đắc với “đường lối” sáng suốt của mình thì biết bao người dân vô tội vẫn tiếp tục bị đẩy vào cảnh bần cùng, tha hoá. Đã có những Binh Chức, Năm Thọ, Chí Phèo, và không biết sẽ còn bao nhiêu những “Chí Phèo con” sẽ ra đời. Cái chết của Chí Phèo và Bá Kiến ở cuối truyện là kết quả tất yếu của những mâu thuẫn đã được đẩy lên đến cao trào. Nó thể hiện lòng nhân đạo rộng lớn của nhà văn. Chí Phèo chết là một sự giải thoát, còn Bá Kiến chết là một sự trừng phạt. Tuy tất cả chỉ mang tính tự phát và tương lai phía trước vẫn còn mờ mịt, nhưng nó đã ẩn chứa trong đó khát khao mãnh liệt của Nam Cao về sự thay đổi xã hội, hướng tới xã hội mới tốt đẹp hơn.

Đọc toàn bộ tác phẩm, không thấy xuất hiện một lời bình luận, nhận xét hay thương cảm về số phận nhân vật và những bi kịch trong xã hội. Nam Cao đã miêu tả tất cả với một thái độ lạnh lùng của một ngòi bút sắc lạnh. Nhưng vượt lên trên tất cả, người ta vẫn cảm nhận được ỗ đó tình thương yêu con người sâu sắc. Tất cả làm nên giá trị nhân đạo của tác phẩm nghệ thuật đích thực: “vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn”, “là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn...”

Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo 51

Tác phẩm Chí Phèo kể về nhân vật Chí Phèo, hắn vốn là một đứa trẻ bị bỏ hoang trong một lò gạch cũ và được nhặt về nuôi. Khi lớn lên Chí Phèo đi ở hết nhà này nhà khác để nuôi thân. Đến năm Phèo 20 tuổi, hắn là canh điền cho nhà Bá Kiến, và tấm bi kịch cuộc đời hắn từ diễn ra từ đây. Vì bị Bá Kiến ghen nên hắn bị giải lên huyện và bị bắt bỏ tù.

Hắn ở tù bày tám năm, sau khi trở về, hắn xuất hiện với bộ dạng khác hẳn ngày xưa, với nhiều hình xăm trên mình. Hắn lúc nào cũng say và cứ say là hắn lại đến nhà Lí Kiến để chửi bới, rạch mặt ăn vạ. Và Bá Kiến đã biến Chí Phèo thành kẻ tay sai chuyên đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến. Trong tình trạng luôn say mèm, ai cho tiền sai gì hắn cũng làm, hắn trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại luôn làm những trò tác quái phá làng, phá xóm, khiến người dân ai ai cũng khiếp sợ.

Cuộc đời hắn không lúc nào tỉnh và một đêm trăng, Phèo say nằm ngủ thì gặp Thị Nở. Đêm đó, họ ăn nằm với nhau. Phèo nửa đêm đau bụng, nôn mửa, sáng hôm sau, Thị cho hắn một bát cháo hành. Cũng từ đó hắn khao khát trở về cuộc sống lương thiện và được sống cùng Thị Nở. Nhưng một lần nữa hắn bị đạp xuống vực vì bà cô của Thị không đồng ý.

Phèo tuyệt vọng, lại uống và lại xách dao ra đi, vừa đi hắn vừa chửi rủa sự đời. Hắn cầm dao đến nhà Bá Kiến đòi trả lương thiện cho hắn. Hắn đâm chết Bá Kiến rồi tự tử. Thị Nở chứng kiến cảnh đó, nhìn xuống bụng và nghĩ đến lò gạch.

Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo 52

Ở làng Vũ Đại. Một sáng tinh sương, anh thả ống lươn nhặt được đứa bé mới đẻ xám ngắt đùm trong cái váy đụp vứt ở lò gạch cũ. Anh ta rước lấy đem về cho người đàn bà góa mù, bà này bán lại cho bác phó cối. Khi bác phó cối chết, hắn bơ vơ, mãi năm 18 tuổi hắn làm canh điền cho Bá Kiến. Vợ ba Bá Kiến bắt Chí xoa bụng đấm lưng gì đó. Bỗng một hôm Chí Phèo bị người ta giải huyện... Đi tù bảy, tám năm sau hắn trở lại làng, mặt mày trông khác hẳn, gớm chết! Về hôm trước thì chiều hôm hắn xách vỏ chai đến thẳng nhà Bá Kiến gây sự. Xô xát với Lý Cường, hắn đập vỏ chai, rạch mặt kêu trời ăn vạ. Sau cái vụ Năm Thọ, Binh Chức, cụ Bá róc đời xử nhũn với Chí Phèo. Cụ mời hắn vào nhà, giết gà đãi rượu, lúc hắn ra về còn đãi một đồng bạc uống thuốc.

Bốn hôm sau, Chí Phèo đốt quán bà bán rượu... Hắn mang theo một con dao nhọn đến xin Cụ Bá đi ở tù. Chỉ một câu nói khích, cụ đã sai được Chí Phèo đến nhà đội Tảo đòi 50 đồng bạc nợ cho cụ. Chẳng phải giao tranh đổ máu, hắn đã đòi được nợ đem về. Cụ bá cho hắn 5 đồng và bán cho hắn 5 sào vườn ngoài bãi sông mới cắm thuế của một người làng. Năm đó Chí 27 hay 28 tuổi, hắn bỗng thành có nhà. Hắn trở thành anh đầy tớ chân tay mới của Bá Kiến, chuyên đâm thuê chém mướn, rạch mặt ăn vạ. Hắn đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say mãi, say vô tận. Hắn chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi con mẹ chết tiệt nào đẻ ra hắn cho hắn khổ. Năm đó hắn ngoài 40, cái mặt như mặt một con vật lạ. Cả làng Vũ Đại đều sợ hắn một khi hắn đi qua trước mặt.

Tình cờ một đêm trăng, Chí Phèo lần vô nhà Tự Lãng, tên hoạn lợn kiêm nghề thầy cúng, hai đứa uống hết cả 3 chai rượu. Ngứa ngáy quá, Chí lảo đảo đi về lều. Hắn gặp Thị Nở đang há hốc mồm ngủ dưới trăng, hắn ôm chầm lấy thị mà làm tình. Gần sáng Chí bị cảm, hắn được thị Nở người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn cho ăn cháo hành. Cũng là lần đầu tiên hắn được ăn cháo hành lại do bàn tay một người đàn bà cho. Hắn bâng khuâng nhớ lại một thời trai trẻ, hắn muốn cùng thị làm thành một cặp rất xứng đôi. Chí Phèo thèm lương thiện. Và hắn say thị lắm. Nhưng đến hôm thứ 6, thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã. Thị Nở bị bà cô xỉa xói vào mặt. Thị ton ton chạy sang lều trút tất cả giận dữ lên mặt nhân ngãi. Chí Phèo ngẩn mặt ra, chạy theo Thị Nở, hắn đã bị nhân tình giúi cho một cái ngã lăn khoèo xuống đất. Hắn toan đập đầu ăn vạ nhưng hắn chưa thật say. Và hắn uống, uống thêm chai nữa, càng uống càng tỉnh. Hắn đi đến nhà Bá Kiến với con dao ở thắt lưng để đòi lương thiện. Chém chết Bá Kiến, hắn đâm cổ tự sát. Cả làng Vũ đại xôn xao kéo đến xem 2 con quỷ giết nhau. Bà cô chì chiết Thị Nở. Thị nhìn nhanh xuống bụng mình, và thoáng chợt thấy một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua...

Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo 53

Chí Phèo vốn là đứa con hoang bị bỏ rơi khi vừa lọt lòng trong một lò gạch cũ bỏ không. Được người ta nhặt về nuôi, lớn lên đi ở hết nhà này sang nhà khác. Năm 20 tuổi, hắn làm canh điền cho nhà Lí Kiến. Lí Kiến ghen với anh canh điền trẻ lại được bà ba kêu bóp chân xoa bụng... gì đấy. Thế là một hôm, hắn bị giải lên huyện và phải đi tù.

Sau bảy tám năm biệt tích, hắn trở về, bộ dạng khác hẳn ngày trước. Vừa về say khướt, cầm vỏ chai đến nhà Bá Kiến - bây giờ Lí Kiến đã là Bá Hộ, Nghị Viên, tiên chỉ làng Vũ Đại - chửi bới, rạch mặt ăn vạ. Lão Bá Kiến khôn róc đời đã xử nhũn với hắn. Với những kẻ cố cùng liều thân "trị không được thì dùng", "dùng thằng đầu bò trị những thằng đầu bò". Thế chỉ là một bữa rượu, một đồng bạc, Chí Phèo hả hê ra về và trở thành "chỗ đày tớ tay chân" của lão để khi cần chỉ cho hắn năm hào uống rượu, là có thể sai nó đến tác hại bất cứ anh nào không nghe mình. Từ đó, Chí Phèo luôn say. "Hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm" và trở thành "con quỹ dữ của làng Vũ Đại để tác oai tác quái cho bao nhiêu dân làng".

Cuộc đời hắn cứ thế trôi đi... Một đêm trăng rười rượi, trong một cơn say, Chí Phèo gặp Thị Nợ, người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn bị mọi người hắt hủi. Họ ân ái với nhau. Nửa đêm Chí Phèo đau bụng và nôn mửa. Sáng hôm sau, tỉnh dậy thì hắn bâng khuâng buồn. Tiếng chim hót, tiếng gõ mái chèo đuổi cá, tiếng nói chuyện của mấy người đi chợ về... làm hắn nhớ lại "có một thời hắn đã ước ao, có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải...". Hắn thấm thía nhận ra tình cảnh trơ trọi khốn khổ của mình. Hắn cảm động vì đây là lần đầu tiên được chăm sóc bởi một tay đàn bà. Nhớ lại khi xưa, những lần cái bà quỷ quái gọi hắn lên bóp chân, "Hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì!". Hắn bỗng thấy "thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn". Nhưng khi Thị Nở về xin ý kiến của bà cô Thị, bà gào lên: "Ai lại đi lấy thằng Chí Phèo", "thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ!". Bị từ chối, Chí Phèo lại uống rượu và ôm mặt khóc rưng rức, rồi như mọi lần, lại xách dao ra đi, vừa đi vừa chửi.

Cuối cùng, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến, chỉ tay vào mặt lão: "Tao muốn làm người lương thiện (...) Ai cho tao lương thiện (...) Tao không thể làm người lương thiện nữa! (...) chỉ còn một cách..." và hắn rút dao đâm chết Bá Kiến, sau đó dùng dao đâm cổ tự sát...

Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo 54

Truyện ngắn Chí Phèo là câu chuyện về nhân vật cùng tên Chí Phèo – một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi trong một cái lò gạch cũ. Hắn được người làng chuyền tay nhau nuôi. Lớn lên, Chí Phèo đi ở hết nhà này tới nhà nọ và làm canh điền cho Lý Kiến. Vì ghen tuông vô lí, Lý Kiến đẩy Chí Phèo vào tù. Bảy năm sau Chí Phèo trở về làng trong một bộ dạng khác hẳn của một tay anh chị. Hắn bị Bá Kiến lợi dụng và biến thành tay sai. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, chuyên rạch mặt ăn vạ và gây tai họa cho người trong làng.

Mối tình với Thị Nở đã làm Chí Phèo hồi sinh, hắn khao khát làm hòa với mọi người và sống lương thiện. Nhưng bà cô Thị Nở và cái xã hội đương thời đã chặn đứng con đường trở về làm người lương thiện của Chí . Tuyệt vọng, hắn tìm giết Bá Kiến và tự sát. Nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn xuống bụng và thầm nghĩ đến một cái lò gạch bỏ không, xa đường cái và vắng người qua lại.

 Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo 55

Truyện xoay cuộc đời của nhân vật chính tên là Chí Phèo. Chí Phèo vốn là một đứa trẻ mồ côi cha mẹ bị bỏ rơi ở một cái lò gạch bỏ không của làng Vũ Đại. Hắn được một người đi thả ống lươn nhặt được mang về đem cho người đàn bà góa mù, bà này bán lại Chí Phèo cho bác phó cối. Khi bác phó cối chết, hắn bơ vơ.

Được dân làng truyền tay nhau nuôi lớn, đến năm hai mươi tuổi Chí trở thành một người nông dân hiền lành, chất phác. Rồi Chí đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Vợ ba Bá Kiến bắt Chí bóp chân khiến Bá Kiến ghen và đẩy anh vào tù.

Bảy, tám năm ở trong tù, Chí Phèo ra tù và trở về làng với bộ dạng lưu manh như “con quỷ dữ”. Hắn trở thành tay sai đi đòi nợ thuê cho Bá Kiến, chuyên đi uống rượu và vạch mặt ăn vạ. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi tất cả làng Vũ Đại và chửi cả ai đã sinh ra hắn. Cả làng đều xa lánh hắn.

Tình cờ vào một đêm trăng tại vườn chuối, Chí Phèo đã gặp Thị Nở - người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn. Hắn ôm chầm lấy Thị Nở và ăn nằm với Thị. Sáng hôm sau, Chí Phèo bị cảm, Thị Nở nấu cho Chí bát cháo hành để giải rượu. Hắn bâng khuâng nhớ lại hồi trai trẻ và nhận ra hương vị cuộc sống. Hắn muốn làm người lương thiện để bắt đầu lại cuộc đời mình. Hắn muốn xây dựng gia đình với Thị Nở thế nhưng bị bà cô Thị ngăn cấm. Chí đau đớn và tuyệt vọng, anh uống rượu và xách dao đến dâm chết Bá Kiến rồi tự sát.

Sau khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn xuống bụng và thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không.

Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo 56

Sinh ra không biết cha mẹ hắn là ai, những người trong làng nuôi Chí Phèo khôn lớn, lần lượt hắn đã ở trong những gia đình khác nhau cho đến khi trạc tuổi 20 hắn làm canh điền của Bá Kiến. Mụ vợ Bá Kiến thích Chí Phèo vì vậy thường xuyên dụ dỗ, thấy vợ đối tốt với Chí Phèo, Bá Kiến ghen tuông và đẩy Chí Phèo vào tù.

Cũng từ đây tính cách, cuộc đời Chí Phèo có nhiều chuyển biến, từ một con người hiền lành, tốt tính hắn trở thành một kẻ thô lỗ,cộc cằn. Ra tù Chí Phèo thành tay sai chuyên đi đòi nợ thuê cho Bá Kiến, cuộc đời của hắn chỉ biết có rượu và những lần chửi bới.

Chí Phèo gặp gỡ Thị Nở người phụ nữ xấu xí, nhưng hắn lại cảm mến khi được Thị Nở chăm sóc khi hắn bị ốm thông qua hình ảnh bát cháo hành hắn cảm mến được hương vị của cuộc sống, phần người trong hắn trỗi dậy, hắn thêm một gia đình và mong muốn trở về với con người lương thiện trước kia nhưng bị Thị Nở từ chối, gạt phăng đi mong muốn quay về con đường lương thiện của hắn. Chí Phèo chìm trong rượu, sẵn hơi men Chí Phèo tìm đến Bá Kiến và giết hắn. Sẵn con dao Chí Phèo tự kết thúc cuộc đời bi kịch.

Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo 57

Chí Phèo là một đứa trẻ bị bỏ hoang trong cái lò gạch cũ, được người dân làng Vũ Đại truyền tay nhau nuôi, từ anh thả ống lươn cho đến bà góa mù và bác phó cối. Đến khi hắn 18 tuổi thì Chí bắt đầu đi làm thuê cho nhà Bá Kiến. Vợ của Bá Kiến bắt Chí Phèo phải đấm lưng, xoa đầu cho bà ta và Chí đã bị Bá Kiến sai bọn tay sai giải ra huyện, rồi Chí bị đi tù bảy, tám năm. Ngay khi được thả ra khỏi tù, Chí đã cầm vỏ chai đến nhà Bá Kiến để vạch mặt và ăn vạ. Nhưng lão Bá rất khôn, hắn cho Chí năm đồng bạc để uống rượu. Chí được xoa dịu bằng năm đồng bạc ấy đã nguôi ngoai, Chí rơi vào hoàn cảnh lúc nào cũng say xỉn, chỉ cần ai cho tiền là có thể làm bất cứ điều gì. Bá Kiến nhờ vậy mà khiến cho Chí trở thành tay sai của hắn ta. Chí Phèo trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo say xỉn, phá làng, phá xóm, đi đâm thuê chém mướn cho nhà Bá Kiến. Cho đến một hôm, cũng trong những cơn say như thường ngày, Chí đi về lều thì thấy Thị Nở đang nằm ngủ há hốc mồm dưới ánh trăng. Thế là Chí ôm chầm lấy Thị Nở và ân ái với nhau. Sáng hôm sau khi Chí tỉnh rượu, Chí được Thị nấu cho một bát cháo hành. Cả cuộc đời Chí chưa từng được ai chăm lo cho như vậy, Chí thấy mình muốn làm người lương thiện. Bát cháo hành của Thị Nở đã làm thức tỉnh lại phần người trong Chí nhưng cánh cửa làm người lương thiện lại đóng sập lại khi Chí Phèo bị bà cô của Thị Nở nhất quyết phản đối. Bà cô nói rằng: "Ai lại đi lấy thằng Chí Phèo", "thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ!" Chí Phèo nghe vậy khóc rưng rức, đành lủi thủi đi về. Cuối cùng, Chí đến nhà Bá Kiến và chỉ vào mặt hắn nói: "Ai cho tao lương thiện? Tao muốn làm người lương thiện." Chí giết chết Bá Kiến rồi tự sát, Thị nở chỉ còn biết nhìn vào bụng và nghĩ về cái lò gạch cũ.

Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo 58

Ở làng Vũ Đại có thằng Chí Phèo nổi tiếng là hay ăn vạ, đi đâm thuê chém mướn cho nhà Bá Kiến, ngày nào cũng chửi làng phá xóm. Chả là trước kia hắn bị mẹ bỏ rơi ở cái lò gạch cũ, được dân làng thay nhau nuôi. Cho đến năm 18 tuổi đi làm thuê cho nhà bá Kiến nhưng vì vợ hắn cứ gọi Chí lên xoa đầu, bóp vai nên Bá Kiến ghen bắt Chí Phèo phải đi tù. Cuộc đời Chí rơi vào đau thương từ đây. Khi Chí trở về, hắn trở thành một con người hoàn toàn khác, cầm dao và vỏ chai đến nhà bá Kiến - kẻ đã tống hắn vào tù - ăn vạ. Ông Bá xoa dịu hắn bằng bữa rượu và mấy đồng bạc, Chí ngoan ngoãn đi về và từ đó trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng Chí vẫn là một con người, khi gặp Thị Nở vào một đêm trăng, hắn và Thị đã âu yếm nhau. Thị cho hắn tình thương khiến hắn muốn trở lại làm người. Nhưng Thị cũng dập tắt mọi hy vọng khi bà cô của Thị một mực không đồng ý cho tình cảm của hai người. Chẳng còn ai trên đời này quan tâm đến mình, yêu thương mình, cuộc đời thì đi vào lầm lỗi, sa ngã nên Chí đã đến nhà Bá Kiến kêu lên: "Ai cho tao lương thiện?" Chí giết chết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình. Thị lúc này chỉ nhìn xuống bụng và nghĩ về cái lò gạch - nơi Chí Phèo được người ta tìm thấy mang về nuôi.

Phân tích tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của “Chí Phèo” 59

Khi Đôi lứa xứng đôi (tức Chí Phèo) xuất hiện trên văn đàn (1941) thì văn học hiện thực phê phán đã qua một thời kỳ phát triển rực rỡ. Là người đến muộn, nhưng Nam Cao đã tự khẳng định mình bằng những khám phá nghệ thuật mới mẻ, đem đến cho văn học đương thời một tiếng nói riêng đặc sắc.

Hơn năm mươi năm đã trôi qua, tác phẩm Chí Phèo ngày thêm được khẳng định, được khám phá từ những góc độ mới mẻ và chắc chắn sẽ tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử văn học Việt Nam như một tác phẩm ưu tú.

Dưới một ngọn bút tài hoa, linh hoạt, giàu biến hoá: khi kể, khi tả, khi sắc lạnh tàn nhẫn, lúc hài hòa bỡn cợt, lúc trữ tình thắm thiết, khi triết lý sắc bén, khi quằn quại đau đớn... cuộc sống cứ hiện lên với biết bao tình huống, bao cảnh ngộ, bao chi tiết sống động. Đôi khi, chỉ một cử chỉ, một lời nói, một phác thảo đơn sơ... mà hiện lên một chân dung, lộ nguyên hình một tính cách... Cứ thế, tác phẩm tạo nên một sức lôi cuốn hấp dẫn từ dòng đầu tiên cho đến dòng kết thúc. Gấp sách lại rồi, ta vẫn bị ám ảnh không thôi bởi tiếng kêu cứu của một con người bị tước mất quyền làm người. Một tiếng nói khát khao muốn trở về lương thiện nhưng bị chặn đứng ở mọi nẻo, và một kết thúc bi thảm đắng cay.

“Bi kịch của một con người bị khước từ quyền làm người” đó là chủ đề xuyên suốt toàn bộ hình tượng của tác phẩm, được nhà văn đặt ra như một tiếng kêu cứu thảm thiết, bức xúc, tạo nên giá trị nhân đạo đặc sắc của tác phẩm Chí Phèo.

Khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ... của người nông dân, mặc dù trong thực tế, đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nam Cao trăn trở, băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc, bức xúc hơn cả đói rét bần cùng, đó là hiện thực về sự tha hóa, một mối đe dọa thảm khốc trong xã hội đương thời; về nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp bởi cả một guồng máy thống trị bạo tàn. Vấn đề nhân phẩm, vấn đề quyền con người được đặt ra, chi phối cảm hứng sáng tạo trong nhiều sáng tạo của Nam Cao, trong đó Chí Phèo là tác phẩm thể hiện trực tiếp, tập trung và mãnh liệt hơn cả.

Mở đầu tác phẩm là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng trên đường say, đập vào ý thức người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Hãy nghe nhà văn miêu tả: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại, ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”.

Đây là tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng nhiều khi trong vô thức, con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi tỉnh.

Phân tích tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của “Chí Phèo” 60

Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn của nền văn học Việt Nam trước Cách mạng. Sau Cách mạng, ông hăng hái tham gia làm báo kháng chiến. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.

Chí Phèo là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam trước Cách mạng. Bằng ngòi bút sắc sảo, nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc, Nam Cao đã làm nổi bậc tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo.

Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã lí giải thành công nguyên nhân vì sao người nông dân hiền lành bị tha hóa từ nhân tính đến nhân hình một cách tàn tệ đến vậy

Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo trải qua hai giai đoạn. Mỗi giai đoạn là một bước chuyển biến mạnh mẽ sức sống trong nhân vật.

Thứ nhất, từ một anh nông dân hiền lành như cục đất Chí Phèo bị đẩy vào tù. Không tội lỗi gì, bất ngờ Chí bị đẩy vào vòng lao lí, bị tước đoạt quyền sống. Bước ra khỏi nhà tù, Chí Phèo trở thành một "con quỷ" gớm ghiếc, côn đồ và tàn bạo.

Thứ hai, khi Thị Nở đánh thức khát vọng sống lương thiện và mong muốn trở lại với mọi người, Chí Phèo lại hiền lành như lúc ban đầu. Cánh cửa bước vào cuộc đời rộng mở trước mắt Chí Phèo. Thế nhưng, trớ trêu thay, chỉ vì sự cản trở của bà cô, Thị Nở đã đoạn tuyệt tình nghĩa với Chí sau năm ngày chung sống hạnh phúc. Chí Phèo hụt hẫng, bất lực và bế tắc. Cánh cửa phục thiện đóng sầm trước mặt hắn, lạnh lùng và tàn nhẫn. Một lần nữa, Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người. Bi kịch cuộc đời Chí Phèo bị đẩy đến mức cùng cực.

Khắc họa tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã tỏ ra rất vững vàng và bản lĩnh. Lần đầu tiên trên trang văn, người ta thấy một kẻ dị dạng nhân hình bước ngật ngưỡng trong cơn say. Lần đầu tiên, người ta thấy một nhân vật bị hủy hoại tàn bạo và khủng khiếp đến như vậy. Nhân vật Chí Phèo đã thực sự mất hết tính người, sống bằng kiếp thú vật, hoàn toàn bản năng. Chí Phèo ngập ngụa trong cơn say triền miên từ ngày này qua ngày khác. Không có sự đê hèn và tàn ác nào mà Chí Phèo không dám làm.

Nam Cao đã dũng cảm ghi nhận hiện thực cuộc sống dù biết rằng dó là một hiện thực tàn nhẫn có thể khiến người ta thấy đau lòng và khiếp sợ. Ông không hề lảng tránh hay tô vẽ nó bằng sắc màu giả tạo của nghệ thuật ngôn từ. Ông muốn mỗi trang văn phải là "cái sự thật ở đời" chân thực và chính xác.

Không để nhân vật rơi vào sự tầm thường, dung tục, Nam Cao đã phát hiện vẻ đẹp ẩn sâu bên trong họ. Bên trong cái điên cuồng của Chí Phèo là khát vọng lương thiện bị đè nén khủng khiếp. Nó thôi thúc con người vươn lên tìm kiếm nguồn sống. Nhưng trước những trở lực quá lớn của xã hội thực dân nửa phong kiến, nó không có cách nào khác là phản kháng một cách tiêu cực. Sự phản kháng tự phát ấy không mang lại kết quả tốt đẹp nào. Cuối cùng, nhân vật thực sự rơi vào tuyệt vọng.

Trước đây, Chí Phèo là một chàng trai nông dân hiền lành, lương thiện và có lòng tự trọng. Chỉ vì cái thói ghen bóng ghen gió của cụ Bá Kiến, Chí Phèo đã bị cụ thẳng tay đẩy vào nhà tù. Trải qua bảy, tám năm bị đầy đọa, chung sống với lớp người dưới đáy xã hội, tâm hồn Chí Phèo đã bị nhuộm đen. Từ một anh Chí Phèo hiền lành, lương thiện, ra tù biến thành Chí Phèo với bộ mặt gớm giếc, linh hồn chất đầy thù hận và tội lỗi. Phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột đi. Từ mặt mũi, nhân cách đều biến tướng thật đáng sợ. Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng cỡn, cái mặt thì đen và rất câng câng, hai mắt gườm gườm gớm giếc.

Trong cái xã hội tàn bạo ấy, càng hiền lành,nhẫn nhục bao nhiêu thì lại càng bị chà đạp bấy nhiêu. Hắn muốn sống thì phải cướp giật, ăn vạ, gây gổ với mọi người. Muốn thế thì phải cao, phải mạnh, phải hung bạo. Thế là Chí Phèo tìm đến rượu như một cứu cánh giúp hắn quên đi cuộc đời. Hắn sống trong những cơn say triền miên và làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Cùng với thời gian, Chí Phèo mất đi khả năng nhận thức. Hắn không còn nhận ra nổi cái bóng của mình, không nhớ nổi mình là ai, bao nhiêu tuổi. Mọi người đều cho Chí Phèo là một con vật chứ không phải là con người nữa.

Những chuỗi ngày say sưa vô tận, những tiếng chửi vô lí,những hành động liều lĩnh hung hãn chính là sự giãy dụa tuyệt vọng của một con người muốn tìm về con đường lương thiện mà không được.

Trước những hành động điên cuồng và hình dáng quái dị của Chí Phèo, ta chỉ thấy đáng thương hơn là đáng giận. Bởi lẽ chính nhà tù thực dân, sự áp bức bốc lột nặng nề của giai cấp thống trị, những định kiến tồi tệ và thái độ hắt hủi nhục mạ của những người xung quanh đã đẩy Chí Phèo đến con đường đó. Đẻ ra anh Chi Phèo hiền lành là một bà mẹ tội nghiệp và khốn nạn đã lén lút vứt con mình ở cái lò gạch cũ. Còn đẻ ra thằng lưu manh Chí Phèo , mất hết tính người là cái xã hội thực dân phong kiến đầy rẫy bất công, vô nhân đạo.

Nếu nhân vật chị Dậu trong tác phẩm "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố đã phải bán con, bán sữa nhưng chị còn được là con người, còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỹ dữ của làng Vũ Đại. Tất cả chỉ để được tồn tại mà thôi.

Nhưng, ở đáy sâu của tâm hồn cằn cõi và lạnh lẽo ấy vẫn còn có những mầm mống tốt đẹp mà hoàn cảnh phủ phàng của xã hội kia chưa đủ sức làm thui chột hết. Nam Cao đã không bỏ rơi nhân vật của mình. Ông dõi theo từng bước chân của Chí Phèo trong đêm tối, trong cơn say, trong giấc ngủ, nhìn ngắm nhân vật bằng tấm lòng đồng cảm sâu sắc. Trong cái thân xác đáng thương ấy, Nam Cao đã phát hiện ra có một mầm lương thiện hãy còn thổn thức. Nó muốn vực dậy, muốn trào ra nhưng không thể tự mình làm được.

Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở sau cuộc rượu say ở nhà Tư Lãng phải chăng là sắp đặt của tạo hóa? Tình cờ mà như là định mệnh đã sẵn bày. Cái tình mềm mại của Thị Nở và bát cháo hành ấm nóng tình người đã đánh thức dậy những tình cảm tốt đẹp, những khát khao ước mơ khi xưa của Chí Phèo về một gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Nó như một thứ phép màu xoa dịu mọi khổ đau, hàn gắn mọi vết thương và làm rung động mọi tế bào của Chí Phèo. Sau cái đêm hạnh phúc, Chí phèo cứ thấy có cái gì đó lâng lâng khắp người khó lí giải.

Thì ra, đó là cảm giác hạnh phúc. Hắn hạnh phúc vì có một người phụ nữ ở bên canh, dịu dàng và yêu thương. hắn hạnh phúc vì lần đầu tiên có một người không sợ hãi, không chạy trốn khỏi hắn. Cũng là lần đầu tiên có một người cho hắn một bữa ăn ngon lành mà trước đây hắn phải rạch mặt ăn vạ hoặc cướp giật mới có được. Những quyền lợi ấy có gì to tát đối với con người đâu? Nhưng chao ôi, đối với Chí Phèo thì đó là cả một ân huệ lớn lao.

Chút tình thương yêu mộc mạc của Thị Nỡ đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn leo lét nơi đáy lòng của Chí Phèo, đánh thức dậy bản chất lương thiện vốn có trong hắn. Con người xấu xí "ma chê quỹ hờn" ấy kì lạ thay lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tăm tối của Chí Phèo. Thức tỉnh, gợi dậy bản tính người ở hắn, thắp sáng một trái tim đã bị ngủ mê qua bao tháng ngày bị dập vùi, hắt hủi.

Một thành công nổi bật của Nam Cao trong tác phẩm "Chí Phèo" là đã phát hiện, miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của Chí ngay khi hắn đã bị biến chất, tha hóa.

Ngay khi Chí Phèo điên cuồng như một con thú, tưởng chừng như lòng thương đã cạn kiệt thì vẫn còn có một người biết thương cảm hắn. Ở cái làng Vũ Đại, Thị Nở là người duy nhất hiểu Chí Phèo, đồng cảm với Chí Phèo. Thị vốn là người xấu xí, đã gánh chịu nhiều điều miệt thị, khinh bỉ của con người nên dễ dàng thấu cảm cho nỗi khổ đau đang cuộn xé trong con người của Chí - một kẻ cô đơn, bị người đời ruồng bỏ.

Bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo xúc động và muốn khóc, giúp Chí Phèo nhận ra: cái đau khổ lớn nhất của con người, không phải là sự đói cơm rách áo, mà sự thiếu thốn tình thương. Bát cháo hành chính là liều thuốc thần làm sống dậy sự rung cảm mà bấy lâu tưởng chừng như đã chất trong tim Chí phèo, đánh thức dậy trong hắn khát vọng sống và sống tốt đẹp.

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã thức tỉnh ở Chí Phèo niềm mơ ước của một thuở xa xưa chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, cố dồn vốn để nuôi thêm con lợn. Chí Phèo mong muốn Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối, đưa Chí Phèo trở về, hòa nhập với cộng đồng xã hội.

Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, tâm trạng Chí Phèo hoàn toàn thay đổi. Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao. Nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng cười nói bàn tán của những người đàn bà đi chợ về... bao nhiêu âm thanh quen thuộc của cuộc sống bấy lâu nay vậy mà giờ đây Chí Phèo mới nghe thấy bởi hắn luôn chìm ngập trong những cơn say.

Hôm nay, những âm thanh ấy, vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi của sức sông và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Trái tim tưởng chừng như trái đá của hắn đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong Chí Phèo cũng hồi sinh "hắn thèm lương thiện, hắn khao khát làm hòa hòa với mọi người". Từ một "con quỷ dữ", nhờ có tình thương yêu của Thị Nở - dù đó là tình thương của một con người xấu xa, thô kệch, dở hơi cũng đủ để làm sống dậy một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết, sức cảm hóa của tình thương kì diệu đến chừng nào.

Nhưng đau đớn thay, chút tình thương của Thị Nở không đủ mạnh để cứu lấy Chí Phèo. Bởi ngoài Thị Nở ra, không hề có lấy một cơ manh nào, chẳng hề có một bàn tay thân thiện nào chìa ra dắt Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện. Con đường trở lại làm người của hắn vừa mới hé mở đã bị đóng sầm lại. Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Khắc nghiệt làm sao khi bản tính người trổi dậy nơi Chí Phèo cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Xã hội đã cướp đi của Chí Phèo quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại.

Những vết dọc ngang trên mặt - kết quả bao cơn say, bao lần đâm thuê chém mướn, rạch mặt ăn vạ,... đã ngăn cản Chí trở về với cuộc đời lương thiện. Những định kiến của xã hội đã không cho phép Chí đặt chân lên nhịp độ hi vọng. Con đường trở về với cuộc sống lương thiện vừa mới kịp lóe lên trong đầu hắn, như một ngọn lửa chỉ kịp le lói đã bị cuộc đời dội gáo nước lạnh làm cho tắt ngầm.

Chí Phèo một lần nữa bị hắt hủi và ruồng bỏ một cách phủ phàng. Chí đã bị chính Thị Nở cự tuyệt, người mà hắn nghĩ sẽ là cây cầu duy nhất đưa hắn về với cuộc sống lương thiện. Thị Nở không phải không yêu hắn, không phải không muốn lấy hắn nhưng vì bà cô và những định kiến xã hội đã níu giữ lấy Thị, không cho Thị được kết duyên với Chí Phèo. Chí Phèo đã cố níu lấy tay Thị Nở lúc Thị vùng vằng ra về nhưng bất lực. Hắn hụt hẫng và rơi vào vực thẳm tuyệt vọng: "ôm mặt khóc rưng rức".

Một lần nữa, Chí Phèo tìm đến rượu. Nhưng lần này Chí Phèo càng uống lại càng tỉnh Càng tỉnh lại càng thấm thía sâu sắc nổi đau bi kịch của mình. Trong cơn đau đớn phẫn uất, Chí Phéo quyết định trả thù. Hắn vác dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện. Đau đớn và thống thiết thay, là tiếng phẫn uất của Chí Phèo: "Ta muốn làm người lương thiện, ai cho ta lương thiện. Làm thế nào cho mất được những vết mảnh trại trên mặt này. Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không, chỉ còn một cách... biết không...". Căm thù cao độ và không còn lối thoát nào khác, Chí Phèo đã giết Bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết bế tắc của số phận.

Qua truyện ngắn Chí Phèo Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.

Chí Phèo chính là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh; là tiếng nói bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện; là mong ước được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ khốn cùng, bế tắc, đầy bi kịch xót xa của lớp người nông dân khốn cùng.

Phân tích tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của “Chí Phèo” 61

Bình luận về nhân vật Chí Phèo một nhà phê bình văn học viết: "Khi chị Dậu, anh Pha xuất hiện trên những trang sách của dòng văn học hiện thực phê phán, người ta cứ nghĩ nỗi khổ của người nông dân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến đến như thế là cùng. Nhưng khi Chí Phèo khật khưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, người ta liền mới nhận ra rằng đây là hiện thân của những gì khốn khổ, tủi nhục nhất". Chị Dậu phải bán chó, bán con, bán cả dòng sữa ngọt ngào của đời mình nhưng dầu sao chị vẫn được gọi là người. Còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Và khi ý thức nhân phẩm được trở về thì lại bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt để phải tìm đến cái chết thảm thương. Tấn bi kịch thê thảm và độc đáo của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên được Nam Cao diễn tả thấm thía và cảm động là ở chỗ đó.

Lai lịch = đoạn đời 1 - xuất thân của Chí Phèo là một người nông dân lương thiện.

Lai lịch của Chí Phèo là một số không tròn trĩnh. Hắn là một thằng không cha, không mẹ, không bà con thân thích, không một tấc đất cắm dùi. Ngay từ khi mới sinh ra, hắn đã bị vứt bên cái lò gạch cũ bỏ không. Hắn được một người thả ống lươn mang về nuôi, sau đó cho người đàn bà goá mù. Và người đàn bà goá mù bán cho bác Phó Cối. Suốt quãng đời niên thiếu, Chí Phèo không có tuổi thơ. Hắn phải sống kiếp bơ vơ đi ở cho hết nhà này sang nhà nọ. Đến tuổi trưởng thành, Chí Phèo làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến, một tên địa chủ kiêm cường hào khét tiếng độc ác, gian hùng. Tuy phải làm thân trâu ngựa, bị áp bức bóc lột thậm tệ nhưng đã có một thời Chí Phèo là người nông dân lương thiện, khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về tâm hồn.

Bi kịch 1 = đoạn đời 2 - Chí Phèo đặt ra vấn đề xã hội: người nông dân bị tha hoá, đầy đoạ, lăng nhục...

Nhưng quãng đời lương thiện của Chí Phèo đã bị chấm dứt nhanh chóng bởi bàn tay độc ác của giai cấp thống trị. Chỉ vì một cớ ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù. Mỉa mai thay, nhà tù, cái công cụ cải tạo con người của chế độ thực dân đã tiếp tay cho bọn cường hào phong kiến để giết chết phần người trong Chí Phèo. Từ làng Vũ Đại vào tù, Chí Phèo là một con người; ở tù ra, về làng Vũ Đại, Chí Phèo là một con quỷ. Sau bảy, tám năm biệt tích trở về, Chí Phèo xuất hiện trước mắt dân làng với một bộ dạng rất kì quái: "cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, hai con mắt gườm gườm trông gớm chết. Nhìn mặt hắn người ta nghĩ là mặt của một con vật lạ".

Nam Cao vốn là một nhà văn chú trọng đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật hơn là chú trọng vẻ bề ngoại, rất ít khi ông tả ngoại hình nhân vật kĩ lưỡng như tả Chí Phèo lúc này. Bởi một khi đã trở thành quỷ dữ, Chí Phèo không thể mang khuôn mặt khoẻ mạnh và lành như đất của anh Chí ngày nào. Quá trình tha hoá, lưu manh hoá của hắn là quá trình diễn ra trên cả hai phương diện: ngoại hình và tính cách, nhân hình và nhân tính. Trên đường đến nhà Bá Kiến, tay cầm cổ chai, Chí Phèo vừa đi vừa chửi bới, nguyền rủa nhưng dường như đằng sau tiếng chửi lảm nhảm của Chí Phèo là ý thức mơ hồ về bi kịch về cuộc đời mình, là nỗi căm phẫn vật vã, tuyệt vọng của một con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại. Mà tội nghiệp thay, khát khao được giao tiếp của Chí đơn giản chỉ là có được một tiếng người chửi lại hắn. Làng Vũ Đại để mặc hắn trong sự im lặng đáng sợ. Trong nỗi cô đơn, đáp lại hắn hoạ may chỉ có mấy con chó. Thành ra Chí Phèo cũng chỉ là một con vật sống giữa sự lạnh nhạt của xã hội loài người.

Giờ đây, để tồn tại với bọn cường hào (ăn thịt người không biết tanh), Chí Phèo không thể hiền lành nhẫn nhục như trước nữa. Bởi càng hiền lành, nhẫn nhục thì càng bị nhấn xuống bùn. Muốn sống phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ, muốn thế phải liều lĩnh, mạnh mẽ, những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Cho nên, cuộc đời Chí Phèo giờ đây được tính bằng những cơn say, những tội ác. Đó là một cuộc đời sống vô thức, một công cụ tội ác trong tay bọn thống trị... "Hắn say thì hắn làm bất cứ việc gì người ta sai hắn làm... Hắn tác oai tác quái cho bao nhiêu dân lành, phá bỏ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người dân lương thiện". Mọi hành động, tội ác của Chí Phèo là sự phản ứng gay gắt, quyết liệt của người nông dân lương thiện bị dồn tới bước đường cùng. Nhưng tính chất tha hoá, lưu manh của Chí Phèo đã làm cho những phản ứng đó trở nên mất phương hướng, tiêu cực, rất nguy hiểm, dễ bị kẻ thù mua chuộc, lợi dụng. Càng ngày, Chí Phèo càng rơi sâu vào vực thẳm của đau thương và tội lỗi, trượt dài trên con đường tha hoá, lưu manh không lối thoát. Hắn lâm vào một tấn bi kịch đầy nghịch lí: vừa là nạn nhân đau thương của giai cấp thống trị, vừa là con quỷ dữ đối với dân làng Vũ Đại. Mọi người đều sợ và tránh mặt Chí Phèo mỗi lần hắn đi qua.

Như vậy, đẻ ra người nông dân lương thiện là một bà mẹ hiền lành, tội nghiệp nào đó lén lút vứt đứa con vào một cái lò gạch bỏ không. Nhưng đẻ ra một thằng Chí Phèo lưu manh, tha hoá bị đầy đoạ, lăng nhục, bị cướp cả nhân tính và nhân hình, bị đối xử như một con vật là toàn bộ xã hội thực dân phong kiến bất công, tàn bạo, vô nhân đạo thời bấy giờ.

Bi kịch 3 = đoạn đời 3: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

Nhưng bi kịch của Chí Phèo không chỉ dừng lại ở đó. Chí Phèo còn lâm vào một tấn bi kịch đau đớn hơn: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Giữa bóng tối mênh mông của cuộc đời, vào một đêm trăng thơ mộng, Chí Phèo được gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn. Được sự săn sóc giản dị bằng tình yêu thương mộc mạc, chân thành không tính toán của người đàn bà khốn khổ là Thị Nở, bản chất người nông dân lao động lương thiện trong Chí Phèo đã thức dậy. Nam Cao đã giành cho Chí Phèo những trang văn xuôi cảm động đầy chất thơ để miêu tả tình yêu và qúa trình thức tỉnh chất người trong hắn. Lần đầu tiên tỉnh dậy sau những cơn say vô tận, Chí Phèo lắng nghe từng âm thanh náo nức của cuộc sống vang động vào tâm hồn mình: những âm thanh quen thuộc như tiếng chim hót, tiếng gõ mái chèo anh thuyền chài đuổi cá trên sông, tiếng chuyện trò của mấy người đàn bà đi chợ về... Đó là âm thanh cuộc sống gia đình hạnh phúc ngày nào cũng diễn ra nhưng chỉ hôm nay Chí Phèo mới nghe thấy. Bởi sau một thời gian dài, Chí Phèo bị xã hội thực dân phong kiến với bọn cường hào độc ác, nhà tù tàn bạo làm cho mù điếc tâm hồn. Giờ đây tâm hồn hắn đã được Thị Nở với bát cháo hành chứa đựng bên trong hương vị của tình yêu chân thành và hạnh phúc giản dị thấm thía làm cho sáng tỏ. Lần đầu tiên hắn biết buồn vì sự cô độc; cũng là lần đầu tiên hắn biết nhớ, biết hồi tưởng về quá khứ với ước mơ một gia đình hạnh phúc, yên vui, bình dị. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở có ý nghĩa như một tia chớp loé lên trong cuộc đời tăm tối triền miên của Chí Phèo. Nó giúp Chí Phèo nhận ra tình trạng bi đát và tuyệt vọng của số phận mình:

"Nhìn phía trước người thân chẳng có

Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người"

Tình yêu thương đã thức tỉnh con người, khơi dậy trong hắn nỗi khát khao lương thiện. Chí Phèo rưng rưng cảm động. Chí Phèo muốn làm hoà với mọi người biết bao, nghĩa là hắn vô cùng tha thiết muốn kết nạp trở lại cái xã hội bằng phẳng của những con người lương thiện. Thị Nở là cái cầu đưa Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện và câu trả lời của Thị Nở quyết định số phận của Chí: được kết nạp trở lại xã hội loài người hay vĩnh viễn bị đầy đoạ trong kiếp sống thù hận. Chí Phèo hồi hộp hi vọng. Nhưng cánh cửa hi vọng vừa hé mở thì lại bị đóng sầm ngay lại vì bà cô của Thị không cho Thị đâm đầu đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Nhưng trách gì bà cô - bà cô là hiện thân của thành kiến, định kiến bất công, vô nhân đạo của làng Vũ Đại, của xã hội cũ. Lâu nay, mọi người trong làng quen coi hắn là quỷ dữ mất rồi! Chí Phèo đã sống những giây phút hạnh phúc nhất của cuộc đời trong tình yêu, lại rơi vào những giây phút đau đớn nhất của tấn bi kịch tinh thần. Rượu không thể làm hắn say... "hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành" - cái hương vị của tình người, tình thương yêu mà Chí không thể quên được dù chỉ nếm trải trong một lần ngắn ngủi; hắn ôm mặt khóc rưng rức. Giọt nước mắt của Chí Phèo là sự thể hiện cao nhất đỉnh điểm của nỗi đau đớn khi nhận ra mình đã bị cự tuyệt quyền làm người.

Chí Phèo lại uống rượu và xách dao ra đi. Nhưng hắn không rẽ vào nhà Thị Nở như dự định ban đầu mà đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong cơn đau khổ và tuyệt vọng, Chí Phèo trở thành người nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất làng Vũ Đại, hắn hiểu ra, thấm thía tội ác của kẻ đã cướp cả hình người và hồn người của mình là Bá Kiến. Chí Phèo lần này quyết đến để trả thù. Đứng trước Bá Kiến, Chí Phèo đã chỉ tay vào mặt lão và dõng dạc đòi quyền làm người, đòi được làm lương thiện. Chí Phèo đã vung dao lên giết chết Bá Kiến. Giết xong Bá Kiến, Chí Phèo quay lại tự giết mình. Chí Phèo chết vì không tìm được lối thoát, vì xã hội không cho hắn sống. Ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng kiếp sống thú vật nữa nên đã tìm đến cái chết. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống và cái chết của Chí cũng là một cái chết thê thảm của một con vật. Nó có ý nghĩa tố cáo xã hội một cách sâu sắc và mãnh liệt.

Trước đây để bám lấy cuộc sống, Chí Phèo đã từ bỏ nhân phẩm. Giờ đây ý thức nhân phẩm đã trở về thì Chí Phèo lại phải thù tiêu cuộc sống của mình. Gấp trang sách lại ta còn nghe văng vẳng đâu đây câu hỏi của Chí Phèo: "Ai cho tao lương thiện?". Đó là một câu hỏi chứa chất phẫn uất đau đớn làm day dứt hàng triệu trái tim người đọc: làm thế nào để cho con người được sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo vùi dập nhân tính ấy? Câu hỏi của Chí Phèo là "Một câu hỏi lớn. Không lời đáp" thật ai oán, tuyệt vọng! Đấy cũng chính là bi kịch lớn nhất ở nhân vật yêu quý này.

Từ số phận nhân vật Chí Phèo, Nam Cao muốn khái quát một hiện tượng phổ biến ở nông thôn nước ta trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá.

Sáng tạo ra nhân vật Chí phèo với gương mặt không tuổi, chằng chịt đầy vết sẹo và với tâm hồn mang nỗi đau quằn quại của một con người bị cự tuyệt quyền làm người,Nam Cao đã mang lại cho người đọc một cái nhìn hoàn toàn mới, ở một góc độ mới về nông dân: cái nhìn vào cõi tinh thần, vào chiều sâu bi kịch. Viết những trang văn đau đớn thấm đẫm nước mắt về bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao đã cắm cho mình một cái mốc vinh quang trên con đường trở thành nhà văn lớn của văn học hiện thực và văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX.

Bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo 62

Nam Cao viết văn từ những năm 30 của thế kỉ XX nhưng đến năm 1941 ông mới khẳng định vị trí của mình trong nền văn học nước nhà bằng truyện ngắn Chí Phèo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Chí Phèolà kiệt tác của Nam Cao, thuộc đề tài người nông dân nghèo. Tác phẩm viết về tấm bi kịch của nhân vật Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo gồm hai bi kịch nối tiếp nhau. Trước hết là bi kịch tha hóa từ một người lương thiện trở thành kẻ bất lương, thậm chí thành quỷ dữ. Tiếp nối là bi kịch bị từ chối làm người lương thiện. Đoạn mô tả từ buổi tối sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời thuộc bi kịch từ chối quyền làm người.

Chí Phèo nguyên là một đứa trẻ khốn khổ, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ bỏ không. Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho nhà lí Kiến. Đây là một canh điền khỏe mạnh, nhưng hiền lành như đất, không những hiền lành anh ta còn nhút nhát, chính Bá Kiến khi đó là lí Kiến đã tận mắt chứng kiến cảnh Chí Phèo vừa bóp đùi cho bà Ba vừa run run. Anh ta cũng có những ước mơ rất giản dị và lương thiện như trăm ngàn người nông dân khác là có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua thì mua dăm ba sào ruộng làm. Ở một xã hội bình thường, những con người như thế hoàn toàn có thể sống một cách lương thiện và yên ổn. Nhưng chỉ vì ghen tuông vu vơ, bá Kiến đã nhẫn tâm đẩy người thanh niên hiền lành, chất phác ấy vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào, sau 7- 8 năm đã biến một nông dân hiền lành, khỏe mạnh, lương thiện và tự trọng thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Từ đây, Chí Phèo bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Chí Phèo đã bị cướp mất hình hài của con người: Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm… Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ… Không những thế tính cách Chí cũng khác hẳn khi xưa. Chí không còn là một anh canh điền ngày xưa mà bây giờ Chí là một thằng liều mạng. Hắn có thể làm tất cả mọi việc như một thằng đầu bò chính cống: kêu làng, rạch mặt ăn vạ, đập phá, đâm chém…

Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Dưới ngòi bút sắc sảo của chủ nghĩa hiện thực, quá trình thức tỉnh lương tâm, nhân tính của một con người bị tha hóa, lầm lạc đã diễn ra không hề đơn giản, một chiều, dễ dãi mà do hoàn cảnh khá đặt biệt. Trong một lần say rượu không bình thường đã vô tình đưa Chí Phèo đến gặp thị Nở – một người đàn bà xấu xí và quá lứa lỡ thì. Lần say rượu đặc biệt ấy cùng với trận ốm thập tử nhất sinh đã khiến Chí Phèo có những biến đổi mạnh mẽ về cả tâm lí lẫn sinh lí. Thêm nữa, chút tình thương yêu mộc mạc, cử chỉ giản dị chân thành của thị Nở đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn sót lại nơi đáy sâu tâm hồn Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có bên trong con người lầm lạc. Lúc đầu, thị chỉ hấp dẫn Chí vì đơn giản thị là đàn bà, còn Chí là thằng đàn ông say rượu. Hai người ân ái với nhau thế rồi nửa đêm Chí Phèo đau bụng nôn mửa. Thị Nở dìu Chí Phèo vào nhà và đi nhặt nhạnh tất cả những manh chiếu rách đắp cho hắn. Sáng hôm sau, Chí Phèo tỉnh dậy khi trời đã sáng từ lâu. Và kể từ khi mãn hạn tù trở về đây là lần đầu tiên con quỷ dữ của làng Vũ Đại hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Chí thấy miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn. Lâu lắm hắn mới cảm nhận cuộc sống đời thường với những cảnh sắc, âm thanh bình dị: tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót...Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy, vì chỉ đến hôm nay hắn mới hoàn toàn tỉnh táo, các giác quan mới hoạt động bình thường. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo... Khi tỉnh táo, Chí Phèo nhìn lại cuộc đời của mình cả trong quá khứ, hiện tại, tương lai. Trước hết, hắn nhớ lại những ngày rất xa xôi hắn mơ ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua năm sào ruộng làm. Mơ ước của Hắn thật nhỏ bé và giản dị nhưng suốt ba năm qua nó vẫn chưa trở thành hiện thực. Thì ra, những ước mơ tốt đẹp của Chí Phèo không hề bị mất đi mà nó chỉ chìm sâu vào một góc tăm tối nào đó của tâm hồn Chí. Hiện tại của hắn thật đáng buồn. Buồn vì Chí Phèo thấy mình đã già đã sang cái dốc bên kia cuộc đời, có thể đã hư hỏng nhiều thế mà hắn vẫn đang cô độc. Tương lai của hắn lại đáng buồn hơn, bởi hắn có quá nhiều sự bất hạnh đói rét ốm đau và cô độc. Đối với Chí, cô độc còn đáng sợ hơn nhiều đói rét và ốm đau. Từ khi đi tù về, Chí bao giờ cũng say, say vô tận. Giờ đây lần đầu tiên hắn tỉnh táo suy nghĩ nhận thấy tình trạng bi đát, tuyệt vọng của cuộc đời mình.

Đúng lúc Chí đang vẩn vơ nghĩ mãi thì Thị Nở mang một nồi cháo hành còn nóng nguyên vào. Việc làm này của Thị Nở đã khiến Chí rất ngạc nhiên và xúc động đến mức trào nước mắt bởi vì đây là lần đầu tên trong đời hắn được một người đàn bà cho. Hắn thấy cháo hành của thị Nở không như bát cháo hành bình thường mà trong đó còn hàm chứa tình yêu thương chân thành của thị dành cho hắn. Và như vậy, cũng có nghĩa hàm chứa cả hạnh phúc lứa đôi mà lần đầu tiên Chí cảm nhận được. Còn đối với Thị Nở, đây là bát cháo hành tình nguyện, bát cháo hành đem cho, đem tặng, bát cháo hành tình yêu, mở đầu cho hạnh phúc gia đình. Một mặt, bát cháo hành thể hiện tình cảm chan chứa nhân đạo của nhà văn. Mặt khác, nó cũng thể hiện tài năng nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao. Nếu như ban đầu, người đàn bà xấu xí, quá lứa lỡ thì, lại dở hơi ấy chỉ khơi lại cái bản năng ở Chí Phèo thì sau đó điều kì diệu đã xảy ra, sự săn sóc đầy ân tình và yêu thương mộc mạc của Thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện tiềm ẩn trong con người Chí Phèo. Bát cháo hành của Thị Nở là món quà quý giá nhất mà lần đầu tiên Chí cảm hận được trong đời mình. Hắn ăn và nhận thấy rằng cháo hành rất ngon. Hương vị cháo hành hay hương vị của tình yêu thương chân thành cảm động, của hạnh phúc giản dị mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo?

Khi ăn bát cháo hành, Chí Phèo trở lại là anh canh điền ngày xưa và thấm thía nỗi đau của con người biết tự trọng khi bị vợ Bá Kiến sai làm những việc nhục nhã. Điều này chứng tỏ một lần nữa Chí Phèo có bản tính tốt lành, nhưng cái bản tính này trước đây bị lấp đi đến nay mới có cơ hội được thể hiện, bởi vì Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện có bản tính tốt đẹp. Mặc dù bị xã hội tàn ác – đại diện là bá Kiến và nhà tù thực dân dẫu có ra sức hủy diệt bản tính ấy nhưng nó vẫn âm thầm sống trong đáy sâu tâm hồn Chí Phèo, ngay cả khi nhân vật này tưởng chừng đã biến thành quỷ dữ. Khi gặp Thị Nở và cảm nhận được tình yêu mộc mạc chân thành của thị trong lúc yếu đuối và cô đơn, lại trong hoàn cảnh vừa qua một trận ốm thì bản chất ấy có cơ hội hồi sinh và nó đã hồi sinh. Từ đây, Chí sống đúng với con người thật của mình: khao khát tình thương và muốn trở thành những người lương thiện.

Con đường trở lại làm người lương thiện vừa mở ra trước mắt Chí Phèo đã bị đóng sầm lại. Sự mong ước được sống hiền lương của Chí Phèo một lần nữa lại không thành sự thật. Thị Nở không thể giúp gì thêm cho hắn, bởi lẽ bà cô thị kiên quyết ngăn cản mối tình này. Bà không thể đồng ý cho cháu bà đâm đầu đi lấy thằng Chí Phèo – con quỷ dữ của làng Vũ Đại, bấy lâu nay chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ, hắn mãi mãi chỉ là con quỷ dữ, không bao giờ có thể làm người. Cách nhìn nhận của bà cô thị cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí. Tất cả quen coi anh là quỷ dữ mất rồi. Nên hôm nay lương tri anh thức tỉnh, linh hồn người của anh đã trở về nhưng nào có ai nhận ra? Cho nên Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần vô cùng đau đớn – bi kịch bị cự tuyệt làm người lương thiện. Các hy vọng được sống với Thị Nở, sâu xa hơn là hy vọng được quay về với cuộc đời lương thiện như một đóm lửa vừa mới được nhóm lên thì đã bị ngay một gáo nước lạnh dội vào cho tắt ngấm. Mặc dù, khi nghe những lời bà cô mắng thì thị Nở thấy lộn rột nhưng cũng phải nghe theo. Và thị đã giận dữ nói lại với Chí Phèo tất cả những lời của bà cô. Điều này khiến Chí ngẩn người vì thất vọng nhưng nhưng này có lẽ hắn chưa tuyệt vọng vì lúc đó hắn lại như hít thấy hơi cháo hành. Chí ngẩn người ra vì cay đắng, chua xót trước một sự thật phũ phàng: mọi người đã cự tuyệt, không chấp nhận, dứt khoát không con hắn là một con người. Mùi cháo hành vẫn thoang thoảng đâu đây khiến hắn lại càng thêm đau xót, thấm thía. Hắn thấy rõ mọi con đường đều đang đóng chặt trước mặt hắn. Khi thị ra về, hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay nhưng thị gạt ra. Điều đó chứng tỏ Chí luôn luôn khao khát tình yêu, thiết tha đến với Thị Nở, đến với cuộc đời lương thiện. Từ đây, Chí đã thấm thía sâu sắc bi kịch của con người sinh ra làm người nhưng không được làm người. Chí vật vả, đau đớn và tuyệt vọng. Thật là lạ khi thấy Chí ôm mặt khóc rưng rức. Những giọt nước mắt đau đớn, hối hận nhưng đã quá muộn màng. Không còn cách nào khác, Chí lại tìm đến rượu. Nhưng vì ý thức đã trở về, lần uống rượu này của Chí khác biết bao nhiêu lần uống rượu trước. Hắn càng uống lại càng tỉnh ra, hắn không ngửi thấy mùi rượu mà chỉ nghe thoang thoảng mùi cháo hành, càng uống càng thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận.

Trong cơn khủng hoảng và bế tắc, Chí Phèo lại càng thấm thía hơn tội ác của kẻ đã cướp đi của mình cả bộ mặt và linh hồn con người. Chí đã xách dao ra đi. Hành động muốn đi trả thù của Chí rất dữ dội, quyết liệt khiến Chí đi đến một hành động đâm chết cả nhà nó. Nhưng nó là ai? Tiềm thức mách bảo Chí đó là Bá Kiến. Trước đó, Chí không định đến nhà bá Kiến mà định đến nhà Thị Nở để đâm chết thị và bà cô thị cho hả giận nhưng cuối cùng Chí lại quên đến nhà Thị Nở mà đến nhà bá Kiến. Khi đến nhà bá kiến, Chí trợn mắt chỉ tay vào mặt lão, đanh thép kết tội tên cáo già này đòi làm người lương thiện, đòi một bộ mặt lành lặn. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? là câu hỏi chất chứa niềm phẫn uất, đau đớn, còn làn day dứt người đọc: làm thế nào để con người sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo, ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Thế rồi, Chí đâm chết kẻ thù. Hành động của Chí đã vượt khỏi suy nghĩ của tên địa chủ nổi tiếng khôn ngoan, gian hùng. Đây là cách hành động của người say không theo dự kiến ban đầu, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, Chí lờ mờ hiểu ra nguyên nhân sâu xa đâu phải vì Thị Nở hay bà cô thị mà cái kẻ làm ra Chí như thế này chính là Bá Kiến. Đến đòi quyền làm người lương thiện là phải đòi nơi lão bá, không đòi được thì phải trả thù. Tuy làm tay sai cho Bá Kiến nhưng ngọn lửa căm hờn vẫn âm ỉ cháy trong con người Chí Phèo. Khi Chí Phèo đã thức tỉnh thì hắn hiểu ra nguồn gốc bi kịch của mình nên ngọn lửa căm hờn càng bùng lên dữ dội. Do vây, Chí Phèo đâm chết bá Kiến không hẳn vì say rượu mà chính vì mối thù đã bừng cháy. Cái chết của Chí chứng tỏ Chí khao khát trở về cuộc sống lương thiện. Vì vậy cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ cái xã hội thực dân nửa phong kiến không những đẩy người dân lương thiện vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy họ vào cái chết.

Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Đồng thời qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã hai lần tố cáo cái xã hội thực dân phong kiến: xã hội đó cướp đi những gì Chí Phèo có và đã cướp những gì Chí Phèo muốn. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Ngoài ra, tác phẩm còn đặt ra một vấn đề nhân sinh mang tính triết lí sâu sắc: làm thế nào để con người sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo phi nhân tính đương thời. Với thành công của truyện ngắn này, Nam Cao đã trở thành cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiên thực 1930 – 1945.

Bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo 63

Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Trong đó nổi bật hơn cả phải nhắc đến tác phẩm "Chí Phèo". Tác phẩm là sự kết tinh của tài năng nghệ thuật, là cái nhìn hiện thực sắc sảo và tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn. Đặc biệt, diễn biến tâm trạng và hành động của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở đến lúc tự tay cầm dao kết liễu đời mình là một thành công lớn trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao. Ngay từ thuở ấu thơ, Chí Phèo đã có hoàn cảnh vô cùng đáng thương. Sinh ra trong một lò gạch, nơi không được coi là ngôi nhà, Chí thậm chí còn không biết cha mẹ mình là ai, chỉ cô độc lớn lên như thế dưới bàn tay chăm sóc mà thiếu tình thương của mọi người trong làng. Tuy vậy, ông trời vẫn cho Chí bản chất lương thiện, giàu lòng tự trọng cùng ước mơ mái ấm gia đình thật bình dị. Nhưng rồi, nhà tù thực dân đã biến một người tốt thành một tên lưu manh, rồi lại bị Bá Kiến, tên địa chủ cường hào già đời đục khoét biến tiếp thành con quỷ dữ. Bị tước mất quyền làm người, đời Chí tàn rồi trượt dài qua những cơn say rượu triền miên. Duy chỉ khi gặp được Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thật sự tỉnh rượu, tỉnh cả tâm tính của một con người với bản chất lương thiện dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Lúc đầu, cuộc gặp gỡ của Chí Phèo với thị Nở chỉ là sự chung chạ do cái bản năng của người đàn ông bị rượu đánh thức. Đến sáng hôm sau, cũng như bao người say tỉnh rượu khác, hắn cảm nhận chính xác được cảm giác miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn. Nhưng với Chí, đây là cảm giác, cảm xúc khi vừa được đánh thức không chỉ mỗi cơn say. Có lẽ lâu lắm rồi hắn mới cảm nhận được cuộc sống đời thường với những cảnh sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót, ánh nắng rọi vào cái lều nát... Tất cả những hình ảnh, âm thanh ấy khi nào mà chả có, nhưng đây là lần đầu tiên Chí có thể cảm nhận được, bởi rước giờ hắn chưa từng hết say. Nhịp sống trở lại đưa Chí Phèo nhớ lại quá khứ xa xôi với những ước mơ bình dị như biết bao người dân quê khác. Chí mơ ước có một gia đình nhỏ, một cuộc sống gia đình hạnh phúc được tạo dựng từ bàn tay lao động cần cù của chính mình. Rồi Chí nghĩ đến hiện tại, nghĩ về tương lai cô độc với tuổi già đau ốm... hắn càng và càng lo hơn, bởi nửa cuộc đời từng trải đủ để hắn hiểu được cô độc còn đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau. Đó lần đầu tiên hắn trở lại làm người, suy nghĩ, lo lắng như một người nông dân nghèo bản chất lương thiện. Một cách tự nhiên, mọi suy nghĩ của Chí Phèo lại hướng về thị Nở, khi Thị bước vào lều với bát cháo hành. Không ngoa khi nói rằng, thị xấu, xấu lắm, thị xấu đến ma chê quỷ hờn. Vậy mà sự chăm sóc của thị dành cho Chí sao mà ân cần, chân thành, mộc mạc đến thế. Ấy nên khi nhận bát cháo hành xoàng xĩnh đó, Chí phèo vừa húp vừa khóc: "thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt". Đúng thế, trong Chí giờ đây tồn tại rất nhiều tâm trạng khác nhau, trước hết là ngạc nhiên, đến vô cùng. Hắn thật không thể nghĩ đến, không thể ngờ. Một người như Chí, nỗi sợ hãi và căm ghét của cả dân làng, là con quỷ làng Vũ Đại trước giờ muốn ăn thì chỉ có giành lấy cướp lấy của người khác. Vậy mà giờ đây, có người đem đến cho hắn, đến gần hắn mà không sợ hãi hay căm ghét và còn mang lại đời sống mới cho hắn. Sau đó, sự cảm động đến mức không thể kìm nén dâng trào: hình như hắn khóc. Đây là lần đầu tiên Chí được người ta chăm sóc, lại bởi bàn tay của một người đàn bà. Có thể sự chăm sóc của Thị là một cử chỉ bình thường của một con người dành cho một con người. Thế nhưng đối với Chí phèo, đây là lòng tốt hiếm hoi, duy nhất mà Chí được hưởng từ ngày về làng. Chí cũng cảm thấy thật bâng khuâng, vừa vui vừa buồn, như là ăn năn, hối hận vì những việc ác mà mình đã làm. Nhưng với hiện tại như bây giờ, Chí tràn ngập niềm vui mới mẻ. Hắn thấy lòng như trẻ con, muốn làm nũng thị như bao đứa trẻ làm nũng mẹ. Rồi như một lẽ tự nhiên bất chợt, Chí thấy "thèm lương thiện, muốn làm hoà với mọi người biết bao! Mong muốn thị Nở sống chung..." Vậy là hương vị bát cháo hành, nụ cười tin cẩn cùng với tình người mộc mạc đơn sơ đã đánh thức bản chất trong trắng, lương thiện của anh canh điền năm xưa. Khi tỉnh rượu cũng chính là lúc Chí Phèo bắt đầu tỉnh ngộ, lại khao khát một gia đình hạnh phúc, một cuộc sống thiện lương sẽ được thực hiện cũng thị Nở. Thì ra, trong bản chất của con quỷ dữ làng Vũ Đại vẫn là một con người rất đáng thương luôn khao khát được làm người lương thiện, chính tình thương giữa người với người đã làm thức tỉnh điều đó. Nhưng niềm vui của Chí Phèo không kéo dài được bao lâu, sự trở về của lương tri lại nhanh chóng đẩy Chí Phèo đến đỉnh điểm của bi kịch. Chí phèo đã bán đi nhân hình lẫn nhân tính, bộ mặt người lẫn linh hồn người để rồi trở thành hiện thân của con quỷ dữ - cực điểm của sự tha hoá. Thủ phạm là Bá Kiến, nhưng tham gia vào đó còn có định kiến của xã hội - lực lượng không kém phần tàn bạo, đẩy Chí đến cùng quẫn, bế tắc. Đại diện cho định kiến xã hội ấy chính là bà cô của Thị Nở. Bà ta đã kiên quyết ngăn cản mối tình này khiến con đường trở lại làm nguời lương thiện của Chí Phèo bị chặn đứng. Đối diện với sự tàn bạo của xã hội, tình người thoáng thật mong manh và dễ bị tiêu tan. Và đúng như vậy, Chí Phèo lại bị cự tuyệt. Hắn bị một người xấu đến tột bậc cự tuyệt, bị chính hy vọng duy nhất, khát khao cháy bỏng còn sót lại cự tuyệt. Chí "ngẩn người", "sửng sốt", "gọi thị lại, nắm lấy tay"nhưng không được. Đau đớn cùng cực, Chí Phèo mang rượu ra uống nhưng "càng uống càng tỉnh ra" và "tỉnh ra, chao ôi, buồn". Rượu không thể làm tê liệt tâm trí của hắn nữa, rượu chỉ càng làm cho hắn thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. Hắn "ôm mặt khóc rưng rức và quyết định trả thù kẻ đã gây cho hắn ra nông nỗi này". Lúc đầu Chí tính giết cả nhà Thị, hay không cũng ăn vạ kêu làng cho bẽ mặt cái con đĩ thị đó. Thế nhưng trong tiềm thức từ cơn say, Chí nhận ra Bá Kiến mới chính là kẻ cướp đi quyền làm người, bộ mặt người và linh hồn của hắn. Đây có thể coi là giây phút tỉnh táo nhất của Chí từ khi ra tù về, tỉnh táo để xác định kẻ thù: "Ai cho tao lương thiện?", tỉnh táo để thể hiện mong muốn cháy bỏng của bản thân: "Tao muốn làm người lương thiện!" và tỉnh táo với sự thật phũ phàng trước mắt: "Tao không thể làm người lương thiện được nữa". Những câu nói ấy như vừa thể hiện quyết tâm trả thù, vừa bộc lộ niềm phẫn uất, bế tắc của Chí Phèo. Chí dõng dạc kết án Bá Kiến, và đâm chết hắn. Nhưng trả thù rồi thì sự thật vẫn không thể thay đổi. Cuối cùng, Chí Phèo chỉ còn con đường duy nhất là cái chết để được giải thoát, để chấm dứt cái bi kịch khốn cùng vì bị cự tuyệt quyền làm người này. Vì thế hắn tự đâm mình, chết mà vẫn uất ức, vẫn muốn nói ra điều gì đó trong khát vọng bao thuở của hắn nhưng không thể phát thành lời. Cái chết bi thảm của Chí Phèo chứng tỏ ý thức nhân phẩm của hắn đã trở về. Nếu trước đây để bám lấy sự sống, Chí phải bán rẻ linh hồn thì hiện tại, để được sống như một con người đúng nghĩa, Chí phải từ bỏ mạng sống của mình. Cái chết của Chí cũng chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc. Nó thể hiện niềm khát khao cháy bỏng được sống lương thiện của Chí Phèo và cũng là lời tố cáo mãnh liệt xã hội thực dân phong kiến không những đẩy người nông dân vào con đường cùng bần hoá, mà còn đẩy họ vào chỗ chết. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện và miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay khi họ đã bị biến thành thú dữ, và trả một cái giá đắt để quay lại làm người. Qua đó, nhà văn gởi gắm lời kêu cứu khẩn thiết: hãy cứu lấy con người, bảo vệ quyền được làm người của mỗi cá nhân trước mọi thế lực xấu xa của cuộc sống. Đây chính là chiều sâu tư tưởng và là giá trị nhân đạo của tác phẩm. Cả đoạn văn không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn cả về nghệ thuật: kết cấu truyện vô cũng chặt chẽ, logic; tình tiết hấp dẫn, biến hoá giàu kịch tính, ngôn ngữ sống động, linh hoạt. Có thể đáng giá, đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau đêm gặp gỡ Thị Nở là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của Nam Cao. Và một câu hỏi lớn được đặt ra: làm thế nào để con người được sống một cuộc sống con người? Điều đó chẳng những Bá Kiến không hiểu nổi mà cả xã hội bấy giờ cũng không thể trả lời được. Sự day dứt, bức thiết của câu hỏi ấy cũng chính là nét đặc sắc nhất đánh dấu "Chí Phèo" trở thành một trong những văn xuôi bậc nhất của văn học hiện đại Việt Nam

Bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo 64

Tình yêu - một chủ đề quen thuộc nhưng không bao giờ cũ trong văn chương. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ lấy tình yêu làm cảm hứng sáng tác cho mình. Họ ca ngợi, họ tôn vinh tình yêu như những thiên thần có cánh. Nhưng Nam Cao lại khác, với tình yêu nghiệt ngã của Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” viết về người nông dân trong xã hội cũ, ông đã cho mọi người chứng kiến một tình yêu hoàn toàn mới. Ở đó hạnh phúc có, khổ đau cũng có. Nhưng trên hết, tình yêu ấy còn là thông điệp sâu sắc mà nhà văn muốn nhắm đến cả một giai cấp, một tầng lớp người trong xã hội. Tình yêu ấy, đẹp thật đẹp mà đau cũng thật đau khiến cho người trong cuộc là Chí Phèo đã vật lộn và cuối cùng đi đến cái chết. Nhưng ít nhất, trước khi chết, Chí Phèo cũng đã kịp hưởng thụ hương vị của tình yêu dù chỉ là trong những ngày ngắn ngủi.

Chí Phèo chỉ là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ được dân làng nuôi nấng. Lớn lên Chí làm người ở cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị bà ba dâm đãng hãm hại khiến Bá Kiến ghen đẩy vào tù. Những năm tháng tù đày cùng với lòng thù hận đã khiến Chí từ một chàng thanh niên hiền lành tốt tính trở thành một con quỹ dữ khi trở về làng. Chí đắm mình trong những cơn say. Cho đến một ngày Chí gặp Thị, tình yêu sét đánh gắn kết hai con người với nhau. Nhưng trong lúc đang lâng đang hạnh phúc thì Thị nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí khiến Chí một lần nữa rơi vào tuyệt vọng. Lòng hận thù trong Chí lại nổi lên và Chí quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình để được làm người lương thiện.

Những diễn biến trong cuộc đời Chí chẳng khác nào tấm bản đồ lúc lên lúc xuống. Và trong đó, những phút giây được ở cạnh Thị Nở chính là đoạn đường đẹp nhất, sáng nhất trong cả tấm bản đồ chằng chịt những nét đứt gãy khúc khuỷu, gập gềnh.

Cuộc gặp gỡ của Chí và Thị chỉ là sự tình cờ giữa hai con người mê muội. Chí lúc tỉnh lúc say, mà hầu như là chẳng tỉnh bao giờ. Còn thị cũng ngù ngờ, dở hơi. Đã thế, nhà văn lại ban cho ả một “nhan sắc” “kinh tởm” mà ông tóm gọn trong mấy từ “xấu ma chê quỷ hờn”. Ấy vậy mà khi gặp nhau, cái xấu ấy lại làm một cho một người đàn ông chết mê chết mệt. Có thể vì bản năng, vì dục vọng thể xác mà họ ngã vào nhau. Nhưng sau khi thỏa mãn, họ lại dành cho nhau những thứ tình cảm thật “lạ lùng”. Lạ đến mức người đàn bà dở hơi ấy đã xác định được đây chính là cuộc sống “vợ chồng”. “Hai từ vợ chồng nghe ngường ngượng nhưng mà thinh thích”. Đây đúng là tâm lý của kẻ mới yêu, đang yêu và đang hạnh phúc.

Còn Chí, sau trận ấy, Chí bị ốm. Một trận ốm nặng mà nếu không có Thị, Chí sẽ chết mất. Thị dù có dở hơi, nhưng tấm lòng vẫn thánh thiện khi dành cho Chí một bát cháo hành với ý nghĩ giúp Chí mau khỏe mạnh. Có lẽ Thị là người cuối cùng còn sót lại trong xã hội này nhìn nhận đến Chí. Hoặc do thị ngù ngờ nên không phân biệt được đâu là người, đâu là quỷ dữ nên mới chấp nhận con người Chí. Nhưng dù gì đi chăng nữa, những ân cần săn sóc của Thị cũng đã mang một làn gió mới đến với cuộc đời Chí. “Bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan hắn lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!”. “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Những dòng suy nghĩ của Chí cho thấy rằng Chí hoàn toàn rất khôn ngoan, rất có ý thức sống. Chỉ là do trước đây vì đắm chìm trong men rượu nhiều quá nên Chí không còn nghĩ ngợi tới nữa. Một con người đã trải qua quá nhiều biến cố trong cuộc đời, dòng suy nghĩ hẳn là chín chắn và thấu đáo hơn rất nhiều. Chí biết tiếc cuộc sống, biết nhận ra cuộc đời mình lúc này đang ở trong tình trạng như thế nào và mình cần phải sống ra sao. Chí buồn vì đã để cuộc đời chìm trong cơn say quá nhiều. Và cũng hận khi đã tự chôn vùi đời mình trong thù hận. Những dòng suy nghĩ ấy làm Chí bừng tỉnh và sống lại ước mơ nhỏ bé nhưng giản đơn và thánh thiện ngày nào của mình. Chí ước có một gia đình nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn. Vợ dệt vải thêu thùa. Cuộc sống ấy tuy nghèo, tuy thiếu thốn nhưng sẽ hạnh phúc biết bao. Và giờ đây Chí muốn tiếp tục thực hiện ước mơ ấy cùng Thị Nở. Chí sẽ làm lại từ đầu, làm hòa với mọi người. Chí đang rất tỉnh. Nếu lúc trước Chí say và ngã vào Thị vì Chí không biết rằng người đàn bà ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hơn. Nhưng lúc này, khi hoàn toàn tỉnh táo, Chí không những chấp nhận thị mà còn yêu thị. Bởi chỉ có tình yêu mới khiến con người ta cảm hóa những cái xấu thành cái đẹp. Chí thấy thị có duyên lắm. Và Chí đang rất vui khi được ở cùng thị. Chí đâu có say. Chính vì Chí tỉnh nên Chí mới cảm nhận được những hương vị của cuộc sống, của tình yêu. Những chi tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nữa của Chí. Đó là lòng nhân hậu lớn lao vô cùng. Bởi trong làng ai cũng nhìn Thị bằng con mắt khinh thường và cho rằng Thị chỉ là một người dở hơi. Mà đúng là thị dở thật. Cũng chính vì dở nên Thị mới để cho Chí ngã vào. Nhưng khi tỉnh táo, tình thế đã đảo ngược lại. Lúc này Chí là người khôn ngoan và hoàn toàn bình thường. Nhưng Chí không hề chê bai thị, cũng chẳng xua bỏ thị. Mà ngược lại, Chí còn muốn gắn bó cả đời với thị, cùng thị xây dựng ước mơ ngày nào còn dang dở của mình....

Nhưng rồi, hạnh phúc ấy chẳng được bao lâu, những dự định của Chí cũng vụt tắt khi Thị trở về nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí. Chí một mình ở lại trong căn lều in dấu bao kỷ niệm về tình yêu của mình. Thất vọng, khổ đau và lòng thù hận lại nổi lên. Nhưng lần này, Chí tỉnh rồi, Chí không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Chí đến thẳng nhà Bá Kiến để đòi lại quyền sống của mình. Sống nhưng lại là chết. Chết để giữ được bản chất lương thiện của bản thân. Chí giết Bá Kiến rồi cũng tự kết liễu cuộc đời mình. Phải đi đến quyết định ấy, hẳn là Chí đau khổ lắm. Nhưng với Chí lúc này, đó là cách duy nhất để không quay lại cuộc sống nghiệt ngã như trước kia nữa.

Như vậy, sau khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí đã liên tiếp xảy ra hai biến cố lớn. Một là tỉnh - tỉnh dậy sau những cơn say dài triền miên. Tỉnh để sống, để yêu và hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy không được bao lâu thì biến cố thứ hai lại xảy đến khi thị trở mặt với Chí, khiến Chí tiếc nuối khôn nguôi. Trong cơn tuyệt vọng Chí giết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình. Không phải vô tình mà Nam Cao lại dàn dựng nên những dòng tâm lý trắc ẩn cho Chí, mà trong đó là những thông điệp sâu xa mà ông muốn gửi gắm đến người đọc.

Thứ nhất là hình ảnh về người nông dân nghèo khổ, bất hạnh bị xã hội đẩy đưa đến bước đường cùng. Đến ngay cả cái hạnh phúc của bản năng con người họ cũng không có được. Cho đến khi có được thì lại nhanh chóng vụt bay cũng chỉ vì định kiến xã hội.

Thứ hai, nhà văn muốn đề cao nhân phẩm, phẩm chất của con người. Chí dù say, nhưng khi tỉnh hắn vẫn luôn mang một tâm hồn trong sáng với tấm lòng nhân hậu tinh khiết. Đặc biệt, là Thị Nở - bên trong người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ấy lại chính là một tâm hồn cao cả. Suýt chút nữa Thị cũng đã bị vùi dập giống như Chí. Hai cong người cùng chung cảnh ngộ ngã vào nhau, cùng làm cho nhau tìm lại chính bản thân mình.

Thứ ba, Nam Cao đã đưa người đọc đến với một tầm cao mới của tình yêu. Đó là tình yêu không chỉ dừng lại ở xác thịt mà ở tình yêu còn là sự đồng điệu của hai tâm hồn. Yêu không vì vẻ bề ngoài, cũng không vì vật chất cao sang. Yêu chỉ vì yêu, vì trái tim. Nhưng dù yêu đến thế nào đi nữa, tình yêu cũng không thể vượt qua giới hạn của thực tế. Ở đây, thực tế của Chí Phèo - Thị Nở chính là những định kiến nghiệt ngã về một tên quỷ dữ đội lốt người mang tên Chí Phèo.

Thứ tư, là sự minh mẫn, sự thức tỉnh trong tình yêu. Tình yêu dù vui buồn hay hạnh phúc, nhưng thứ mà con người ta cần phải giữ vững là tinh thần, là trí óc. Ở đây, sau khi thức tỉnh, Chí vẫn giữ vững tình cảm của mình với thị. Ngay cả sau khi bị thị chối từ, Chí vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Chính vì thế Chí mới đi đến quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.

Như vậy, chỉ bằng một đoạn văn ngắn kể lại diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, nhà văn đã gửi gắm những thông điệp có ý nghĩa sâu xa tới người đọc. Nam Cao không còn, và cuối tác phẩm Chí Phèo cũng chết nhưng những dòng xúc cảm của một con người lần đầu tiên tỉnh rượu đã đánh động tâm hồn mọi người tự ý thức mình, tự nâng niu, trân trọng những gì mình đang có trong cuộc sống cũng như trong tình yêu.

Bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo 65

Nam Cao là một trong những tác giả hiện thực nổi tiếng trong trường phái hiện thực. Ông được mệnh danh là bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật, luôn đi tìm kiếm " con người trong con người". Tác phẩm của ông dù là viết về tri thức hay nông dân đều đi sâu vào bên trong nhân vật. Tác phẩm Chí Phèo là một trong những truyện ngắn nổi tiếng thể hiện tài năng của Nam Cao khi phân tích nhân vật Chí Phèo. Trong đó Nam Cao rất xuất sắc khi khắc họa tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.

Chí Phèo xưa là đứa con hoang, bị bỏ tại cái lò gạch cũ và được người trong làng truyền tay nuôi. Chí hiền lành, làm người ở cho nhà Bá Kiến nhưng sau này, vì bị nghi ngờ dính lứu với bà Ba nên hắn bị Bá Kiến vu oan phải vào tù. Sau khi về, chẳng còn ai nhận ra hắn vì nhân dạng đã biến đổi hoàn toàn. Hắn đinh ninh sẽ trả thù Bá Kiến nhưng rồi lại bị Bá Kiến mua chuộc làm tay đâm thuê chém mướn. Giờ đây hắn tha hóa cả về nhân hình lẫn nhân cách trở thành một con quỷ của làng Vũ Đại. Nhưng rồi, khi Thị Nở xuất hiện, Chí đã thay đổi hoàn toàn bởi lần đầu tiên có người tự nguyện cho hắn thứ gì đó mà hắn không phải xin hay dọa dẫm.

Hắn tỉnh dậy sau cơn say, cảm nhận hết thảy tất cả những gì đang diễn ra trong buổi sớm mà từ trước đến nay hắn không hề hay biết. Để rồi hắn nhớ về quá khứ và ước mơ giản dị mà xa vời. Khi Thị Nở bưng bát cháo hành đến cho hắn, Chí rất ngạc nhiên , xúc động bởi lần đầu tiên hắn được chăm sóc , bởi bát cháo hành tỏa ra hương thơm ngào ngạt. Chắc rằng chỉ có hắn trong thời khắc ấy mới cảm nhận được vị ngon tuyệt vời của bát cháo và vị thơm của "tình người". Trong lòng hắn rung động, bâng khuâng trước Thị, người đàn bà xấu xí, dở hơi và ế chồng và cảm thấy ăn năn với Thị vì những chuyện mình đã làm trong quá khứ, khiến bao gia đình tan vỡ,... Dường như những cảm nhận khi ăn bát cháo hành ấy chính là cầu nối tâm hồn giữa Chí Phèo và Thị Nở. Trong hắn trào lên những cảm xúc khinh miệt khi nghĩ về con người Bà Ba, một con quỷ dữ đội lốt một người đàn bà xinh đẹp. Hắn thấy nhục và thấy khinh mọi hành động mà bà ta đã làm. Nghĩ về Thị Nở dù xấu ma chê quỷ hờn nhưng sẵn một lòng lương thiện, còn bà Ba kẻ ăn trắng mặc trơn lại là mặt người dạ thú. Nam Cao qua những khắc họa tâm trạng của Chí, tạo ra sự tương phản giữa hai người đàn bà đã cho ta một bài học khi nhìn nhận ai đó, nhất định không được " nhìn mặt mà bắt hình dong".

Chí Phèo được Thị Nở chăm sóc, thức tỉnh bởi hương vị của cháo hành, hăn nhận thức được thực tại sau trận ốm này, hắn không còn mạnh như trước và muốn làm hòa với mọi người, hắn tin rằng Thị Nở chính là người mở đường cho hắn, sẽ giúp hắn bắc nhịp cầu đến bến bờ thiên lương. Trong nội tâm hắn bỗng tràn lên những khát khao hoàn lương mãnh liệt, cái mầm nhân tính trong Chí Phèo có thể bị che lấp bởi sự tha hóa nhân phẩm, bởi những con say và những lần rạch mặt đòi nợ thuê nhưng nó không hề bị mất đi. Dường như dưới ngòi bút sắc sảo am tường của Nam Cao, tính cách của Chí Phèo được hiện rõ và ông cũng thể hiện sự đồng cảm, thấu hiểu và luôn đặt niềm tin vào bản chất thiên lương ăn sâu trong tận xương tủy của những người dân lao động dù họ có bầm dập, bị tha hóa đến nhường nào.

Luôn có những khát khao hoàn lương, luôn có một mái ấm như bao người nhưng kết cục chẳng mấy tốt đẹp với Chí Phèo. Bởi hắn bị Thị Nở từ chối sống chung. Điều gì khiến Thị thay đổi đến vậy? Có lẽ không phải do Thị bạc tình, không muốn thành đôi với Chí mà do bà cô của Thị nói những lời độc địa, ngăn cấm Thị. Bà cô như một cái loa phát ngôn cho những thứ hẹp hòi, ích kỉ của người làng Vũ Đại và cả xã hội phong kiến đương thời. Chí Phèo chỉ còn biết ngẩn người trước lời của Thị Nở, trong hắn lại thoang thoảng hương cháo hành, dư vị tình yêu thoáng qua mong manh và yếu ớt. Tình yêu ấy không có sức mạnh để có thể vượt qua nổi thực tại trớ trêu. Dù hắn muốn níu kéo tình yêu nhưng chẳng thể làm được, đổi lại bản tính trong hắn lại trỗi dậy, đập gạch ăn vạ, uống rượu say khướt, hơi rượu không sặc sụa mà chỉ thấy thoang thoảng hương cháo hành. Đó là tình yêu ám ảnh cả tâm hồn lẫn thể xác của Chí. Hắn chỉ biết khóc, ôm mặt khóc như một đứa trẻ, đòi xách dao đi giết Thị Nở , giết bà cô nhưng thực chất hắn đến nhà Bá Kiến. Có thể nói hành động của Chí là sai đường nhưng đúng hướng. Hắn tuyệt vọng vì bị từ chối sống chung, cũng như từ chối làm người lương thiện. Hắn đau đớn biết bao vì lương chi đã tỉnh, ý thức sâu sắc thực tại rằng hắn bị từ chối nguyên nhân sâu sa không phải tại Thị Nở mà tại Bá Kiến, người xua tay đuổi hắn là cả những định kiến của người làng Vũ Đại.

Hắn xách dao đến giết Bá Kiến cũng là lúc hắn tự kết liễu đời mình. Đó là một lựa chọn duy nhất để quay về. Tuy hắn không được sống như một người lương thiện nhưng hắn chết để làm người lương thiện. Quả thật, cái giá của thiên lương là cái giá cắt cổ đối với những kẻ như Chí, có lẽ phải đánh đổi bằng cả mạng sống của mình. Qua cái chết tức tưởi của Chí, Nam Cao lên án xã hội bất lương, tàn bạo và cảm thông với những người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Những người sống no đủ đã khó, sống thiên lương còn khó hơn bội phần

Nam Cao, một nhà tâm lí tài ba với ngòi bút tinh tế, ông đã khắc họa tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở rất xuất sắc. Qua đó giúp độc giả có thêm những bài học nhận thức sâu sắc về con người.

Bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo 66

Tình yêu là là ngọn nguồn của mọi hạnh phúc cũng như khổ đau. Tình yêu còn giúp con người trở nên mạnh mẽ, lạc quan, giúp ta hướng thiện. Truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao tuy chuyện tình yêu giữa Chí Phèo và thị Nở chỉ là một lát cắt nhỏ nhưng lại có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó là một khởi đầu mới cho Chí, đem Chí trở về cuộc sống của một con người lương thiện mà lâu nay Chí đánh mất.

Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi, nghèo khổ và bất hạnh. Từ khi lọt lòng đã bị mẹ bỏ rơi, Chí Phèo lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của người làng Vũ Đại. Lớn lên Chí là một thanh niên khỏe mạnh, làm thuê ở nhà Bá Kiến. Vì bà ba dâm đãng hãm hại, Chí bị Bá Kiến đẩy vào nhà tù thực dân và bị đánh mất nhân hình và nhân tính của mình, ra tù lại trở thành tay sai cho Bá Kiến, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng khi thị Nở xuất hiện, cuộc đời Chí được lật sang một trang mới, đẹp đẽ, hạnh phúc, mà cũng đầy khổ đau, bất hạnh.

Thị Nở sống cùng bà cô. Thị là một người phụ nữ quá lứa, sinh ra trong mả hủi, tính dở hơi. Không chỉ vậy thị xấu ma chê quỷ hờn, nên đã nhiều tuổi mà chẳng có được hạnh phúc cho riêng mình.

Vẫn như mọi lần, Chí uống rượu say, trên đường trở về nhà, Chí thấy trong người khó chịu nên đã ra sông tắm. Còn thị Nở đi gánh nước, mệt nên nằm ngủ ngay cạnh bờ sông. Bởi vậy, đã tạo nên cuộc gặp gỡ tiền định này. Cuộc gặp gỡ đã thay đổi con người, suy nghĩ của Chí Phèo.

Cuộc sống của Chí Phèo đã thực sự thay đổi, sau bao nhiêu ngày chỉ biết đến say sưa, chỉ biết đến rạch mặt ăn vạ thì sau đêm gặp gỡ với Thị Nở đây là lần đầu tiên Chí tỉnh. Lần đầu tiên Chí nhận thức thế giới xung quanh, nhận ra sự tồn tại của mình và tương lai tăm tối của bản thân. Khi Chí Phèo mở mắt ra hì trời đã sáng lâu. Mặt trời chắc đã cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe tiếng chim kêu ríu rít bên ngoài đủ biết. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn chỉ hơi lờ mờ […] chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say. Sự thức tỉnh của Chí Phèo bắt nguồn trước hết phải là từ sự tỉnh rượu, từ tỉnh rượu hắn mới tỉnh ngộ, mới nhận ra nhiều điều. Chí nhận thấy những âm thanh vui vẻ, ríu rít xung quanh mình là tiếng chim, tiếng của những người đi chợ. Âm thanh quen thuộc quá, mà bấy lâu nay trong cơn say triền miên Chí không hề nhận thấy. Hắn nhớ về ngày trước, nhớ về anh nông dân lương thiện, với những mơ ước thật giản dị về một gia đình ấm cúng và cuộc sống lao động cần mẫn. Nhưng chính hắn cũng phải tự giật mình về hoàn cảnh hiện tại của bản thân: Tỉnh dậy, hắn thấy hắn già mà vẫn cô độc. Buồn thay cho đời ! Có lí nào như thế được ? Hắn đã già rồi hay sao […] Chí Phèo hình như đã trông thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này con đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau. Ngòi bút của Nam Cao đã lách sâu vào tâm hồn của Chí để nhận ra những thay đổi dù là nhỏ bé nhất.

Không chỉ vậy, Chí Phèo còn xúc động sâu sắc trước sự quan tâm, chăm sóc của Thị Nở dành cho mình. Thấy bát cháo hành Thị Nở đưa cho mình Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Chí Phèo xúc động đến tột cùng khi nhận được sự quan tâm chăm sóc từ một người khác. Đây cũng là lần đầu tiên ta thấy người vẫn bị coi là con quỷ dữ của làng Vũ Đại khóc. Đó là giọt nước mắt của niềm vui, của hạnh phúc khi được nhận hơi ấm tình người, bởi lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho , những thứ xưa nay hắn có được chỉ là do cướp giật, hắn chưa được ai quan tâm, chăm sóc bao giờ. Chí nhớ về bà ba và nỗi nhục khi phải bóp chân cho bà ba. Chính bởi vậy, bát cháo hành của Thị Nở làm hắn phải bâng khuâng, phải suy nghĩ nhiều. Ta có thể thấy rằng, phần nhân tính bị chìm khuất bao lâu nay của Chí nay đã dần dần xuất hiện trở lại do nhận được tình yêu thương của Thị Nở. Với việc phân tích diễn biến tâm lí hết sức sâu sắc và hợp lí, Nam Cao đã ngầm khẳng định bản chất lương thiện của người nông chỉ bị vùi lấp bởi những độc ác, xấu xa của cuộc sống, nó sẽ ngay lập tức được khơi dậy khi có điều kiện phù hợp.

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở còn khơi dậy niềm hi vọng trong Chí Phèo. Niềm hi vọng được làm người lương thiện : Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được…. . Khát vọng làm người lương thiện của Chí thật chính đáng, hợp lí khi mà nhân tính của Chí đã quay trở lại. Bởi vậy, Chí đã đề nghị với Thị Nở sang đây ở với tớ một nhà cho vui. Năm ngày đó Chí sống trong sung sướng, hạnh phúc, đến ngày thứ sáu Thị Nở về xin phép bà cô và đó cũng là lúc khởi phát bi kịch. Sau những lời bà cô dè bủi và nhất quyết không cho lấy Chí, Thị Nở sang nhà Chí Phèo nói hết những lời bà cô nói và quay về nhà, trước sự tuyệt vọng tột cùng của Chí. Chí Phèo lấy rượu uống, càng uống lại càng tỉnh, càng đau đớn, hắn ôm mặt khóc rưng rức. Đỉnh điểm của sự phẫn uất và tuyệt vọng Chí vác dao với ý định giết cả nhà Thị Nở, nhưng lại quen chân sang nhà Bá Kiến. Chí Phèo giết chết Bá Kiến và tự kết liễu mình. Chí Phèo rơi vào bi kịch đau đớn, muốn làm người lương thiện nhưng bị cự tuyệt. Cái chết của Chí Phèo là lời tố cáo đanh thép với xã hội thực nửa phong kiến đương thời.

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở có ý nghĩa quan trọng với nhân vật Chí Phèo. Về nội dung, Thị Nở xuất hiện góp phần làm nổi bật nhân vật trung tâm và làm nổi bật chủ đề tác phẩm: Thị Nở đã giúp Chí Phèo hồi sinh, qua đó thể hiện giá trị nhân đạo của Nam Cao; nhưng chính Thị cũng đẩy Chí vào bi kịch, qua đó tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến. Về nghệ thuật, Thị Nở giúp thúc đẩy câu chuyện phát triển, đồng thời tình huống gặp gỡ này cũng giúp bộc lộ phẩm chất, tính cách, tâm hồn của nhân vật trung tâm.

Bằng ngòi bút phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, Nam Cao đã cho thấy sự biến đổi trong nhận thức của Chí Phèo, đó là sự phục sinh của nhân tính. Nhưng đồng thời cũng cho thấy bi kịch đau đớn của Chí khi bị cự tuyệt làm người, cự tuyệt về cuộc sống lương thiện.

Bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo 67

Nam Cao sinh năm 1917 mất năm 1951, tên khai sinh là Trần Hữu Tri sinh ra trong một gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân tỉnh Hà Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo sâu sắc, vừa mới mẻ vừa độc đáo. Các sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng sáng ngời. Nổi bật lên là tác phẩm “Chí Phèo”, tác phẩm là sự kết tinh tài năng nghệ thuật, là cái nhìn hiện thực nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Đặc biệt với biệt tài phân tích diễn biến tâm lý nhân vật, Nam Cao đã cho mọi người thấy được diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở cho đến hết tác phẩm.

Ngay từ thuở nhỏ, Chí Phèo đã có hoàn cảnh đáng thương. Vốn là đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa, nhờ chén cơm của người làng Chí lớn lên trở thành anh thanh niên tốt bụng, giàu lòng tự trọng. Năm 20 tuổi, Chí làm canh điền cho Lý Kiến rồi bị Lý Kiến hãm hại đẩy vào tù. Ở tù ra

Chí bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính, từng bước biến thành tay sai cho Bá Kiến, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tưởng rằng Chí Phèo sẽ vẫn tiếp tục với cuộc sống của một con quỷ dữ nhưng không, trong một lần tình cờ gặp Thị Nở, Thị đã đánh thức bản chất lương thiện sâu trong con người Chí.

Trong một lần say, Chí gặp Thị họ đã ăn nằm với nhau rồi cùng say ngủ dưới ánh trăng. Đến nửa đêm Chí đau bụng, Thị dìu hắn vào trong lều đắp chăn cho hắn rồi ra về. Đến sáng hôm sau, cũng như nhiều người say tỉnh dậy, Chí cảm thấy miệng đắng, toàn thân uể oải, chân tay thì bủn rủn. Hay là đói rượu? nhắc đến rượu hắn thấy rùng mình, người nao nao khó chịu “Hắn sợ rượu giống như những người ốm sợ cơm, tiếng chim hót ngoài kia vui tai quá! Tiếng cười nói của người đi chợ… Những tiếng quen thuộc này ngày nào mà chả có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy, chao ôi là buồn!”

Rồi hắn nghe thấy cuộc đối thoại của mấy bà đi chợ, hắn nao nao buồn bởi chúng nhắc cho Chí một cái gì đó xa xôi. Hình như đã có thời hắn ước mơ một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, một cuộc sống hạnh phúc giản dị được xây dựng bằng chính bàn tay lao động của mình. Tỉnh dậy hắn thấy mình già mà vẫn còn cô độc, buồn thay cho đời! Có lẽ nào? Hắn già rồi ư? Hình như Chí Phèo nhìn thấy trước được cuộc sống sau này của mình ốm đau, đói rét, cô độc, cái này còn đáng sợ hơn tuổi già, ốm đau, đói rét.

Một cách tự nhiên mọi suy nghĩ của Chí lại hướng về thị Nở. Khi thị bước vào với bát cháo hành hắn “ngạc nhiên”, “mắt hình như ươn ướt”. Bởi vì, đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho. Ăn bát cháo hành được trao từ bàn tay ấm lòng đầy tình thương của Thị Nở, hắn cảm động và phục sinh linh hồn. Hương vị bát cháo hành hay hương vị của tình thương và cảm động, hạnh phúc giản dị Chí Phèo được hưởng đã đánh thức bản chất lương thiện vùi dập bấy lâu của mình.Trời ơi! Hắn muốn làm người lương thiện, hắn thèm được lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, mọi người sẽ nhận lại hắn vào cuộc sống lương thiện này. Hắn đặt niềm tin hi vọng vào thị Nở.

Nhưng hi vọng vừa mới hé mở đã đóng lại ngay bởi sự trở lại của lương tri đã đẩy Chí đến đỉnh điểm bi kịch. Chí đã tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính, bộ mặt người lẫn linh hồn người để rồi trở thành hiện thân của quỷ dữ. Thủ phạm chính là Bá Kiến, nhưng tham gia còn có định kiến xã hội lực lượng không kém phần tàn nhẫn đẩy Chí đến cùng quẫn bế tắc. Đại diện cho định kiến xã hội ấy là bà cô của thị Nở, bà kiên quyết ngăn cản mối tình này làm cho con đường trở lại làm người lương thiện của Chí bị chặn đứng. Chí bị thị Nở cự tuyệt, bị chính hy vọng duy nhất, khát khao cháy bỏng còn sót lại cự tuyệt. Đau đớn đến tột cùng Chí mang rượu ra uống nhưng “càng uống lại càng tỉnh”, “tỉnh ra chao ôi buồn”. Chí đã cố níu kéo Thị lại nhưng Thị đã đi, đã đi.

Chí ngồi “ôm mặt khóc rưng rức” và rồi hắn quyết định đi trả thù kẻ mà gây cho hắn ra nông nổi này. Ban đầu Chí định đi giết chết cả nhà thị Nở, giết con cọm già đã ngăn cản hắn. Nhưng trong tiềm thức Chí nhận ra rằng kẻ đã cướp đi quyền làm người, bộ mặt lẫn linh hồn mình là Bá Kiến chứ không phải ai khác. Thế rồi trong cơn say Chí xách dao đi tìm Bá Kiến, rồi đâm chết Bá Kiến. Chí hỏi đời “Ai cho tao lương thiện”? Trả thù rồi thì sao, sự thật không thay đổi được nữa rồi Chí tự sát, tuy chết mà vẫn uất ức vẫn muốn nói gì đó mà không thốt thành lời.

Qua cái chết bi kịch của Chí chứng tỏ ý thức, nhân phẩm của Chí đã trở lại. Nó thể hiện sự khát khao được sống lương thiện của Chí Phèo và cũng là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội phong kiến thực dân tàn bạo không những dồn người nông dân vào đường cùng mà còn đẩy họ vào chỗ chết. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện ra và miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay cả khi họ biến thành thú dữ. Đồng thời, tác giả đã đưa ra lời cầu cứu khẩn thiết: hãy bảo vệ con người, bảo vệ quyền lợi của mỗi cá nhân trước những thế lực xấu xa của cuộc sống.

Góp phần tạo nên thành công của tác phẩm, tác giả đã xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Phân tích và miêu tả diễn biến tâm trạng, nội tâm nhân vật tinh tế. Ngôn ngữ tự nhiên, sử dụng khẩu ngữ, giọng điệu đan xen, cách trần thuật linh hoạt. Kết cấu truyện linh hoạt, giàu kịch tính, hấp dẫn

Tác phẩm “Chí Phèo” là kiệt tác văn xuôi Việt Nam hiện đại, nó thể hiện trình độ bậc thầy về truyện ngắn Nam Cao. Qua tâm trạng nhân vật Chí Phèo tác giả cho ta thấy rõ bi kịch: “Sinh ra là người mà không được làm người” đồng thời thể hiện rõ khát khao lương thiện của con người và bế tắc của hiện thực xã hội bấy giờ.

Bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo 68

Số phận khốn khổ của người nông dân là đề tài quen thuộc của văn học hiện thực (1930-1945). Là một cây bút sáng tạo là yêu cầu sống còn của văn chương, Nam Cao có những tìm tòi, đổi mới đáng trân trọng. Không dừng lại ở nỗi khổ sưu cao thuế nặng như các tác phẩm cùng thời “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”, Nam Cao đi sâu vào hiện tượng người nông dân bị tha hóa, bị cự tuyệt quyền làm người. Đồng thời, Nam Cao phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân bị tha hóa. Những sáng tạo của Nam Cao được kết tinh từ nhân vật Chí Phèo. Đặc biệt là trong những trang văn diễn tả tâm trạng Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở.

Có thể nói, dấu mốc quan trọng nhất tạo nên bước ngoặt quyết định trong cuộc đời Chí Phèo đó là cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở, từ cố nông lương thiện, Chí bị đẩy xuống và nhấn chìm trong vũng bùn tha hóa. Sau khi gặp Thị, Chí đã vực dậy rũ bùn tha hóa, thức tỉnh hoàn lươn. Vậy Thị Nở là ai? Là người như thế nào mà lại có tác động lớn lao đến cuộc đời Chí Phèo như vậy? Theo ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở là người xấu ma chê quỷ hờn, ngẩn ngơ như người đần trong truyện cổ tích. Lại sinh ra trong gia đình nghèo truyền kiếp, có mả hủi. thị chẳng khác gì con vật lạ. Nhưng Thị lại là người duy nhất trong làng Vũ Đại vô tình, vô cảm ấy đã tự nguyện kết thân yêu thương Chí chân thành. Dĩ nhiên, không phải ngay từ khi gặp Thị, tâm hồn Chí đã thức tỉnh, cái lốt quỷ dữ được lột bỏ. Là một nhà văn am hiểu sâu sắc tâm lí nhân vật, Nam Cao đã khám phá, miêu tả, phân tích diễn biến nội tâm của Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở một các chân thực, sống động và đầy xúc cảm.

Ban đầu, cuộc chung chạm với Thị Nở chỉ đánh thức bản năng gã đàn ông cho Chí Phèo. Nhưng sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã làm bản chất lương thiện trong con người Chí thức dậy. Tâm hồn Chí Phèo dần thức tỉnh rồi hồi sinh mãnh liệt. Nhưng ngay sau đó, Chí Phèo lại lâm vào bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời mình, là bi kịch từ chối, cự tuyệt quyền làm người. Sau đêm ái ân với Thị Nở, Chí Phèo tỉnh dậy muộn, hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Sau bao nhiêu năm sống trong u mê dằng dặc, lần đầu tiên những cảnh vật, âm thanh của cuộc sống bỗng dội vào tâm hồn Chí tạo nên những vang động sâu xa. Chí thấy nắng rực rỡ, tiếng chim hót vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng anh thuyền chèo đuổi cá. Lòng Chí bâng khuâng, mơ hồ buồn.

Tỉnh rượu rồi Chí tỉnh ngộ, từ chỗ tê liệt ý thức, Chí bỗng ngộ ra bao điều về đời mình. Chí đã có cái nhìn chính xác về cuộc đời dằng dặc của mình từ quá khứ, hiện tại, tương lai. Nghĩ về những ngày xa xôi, Chí nao nao buồn. Hình như có một thời, Chí ao ước có một gia đình nho nhỏ , chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải… Nhưng ước mơ nhỏ bé giản dị ấy đã tuột khỏi tay Chí từ lúc nào, về phương trời xa xăm nào. Ngẫm về hiện tại, Chí thấy buồn thay cho đời. Chí đã già, đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời mà vẫn cô độc, trắng tay. Chí không nhà, không cửa, không vợ, không con. Đời chí đâu chỉ là con số 0 tròn trĩnh mà còn là con số âm khủng khiếp, đời Chí chồng chất biết bao nhiêu là tội ác. Tương lai phía trước còn đáng buồn hơn. Chỉ có tuổi già đói rét, ốm đau và cô độc. Và Chí sợ nhất là sự cô độc, mà sợ cô độc nghĩa là Chí thèm khát tình người. Thèm khát tình người đồng nghĩa với việc là tính người đang trở lại trong Chí.

Có thể nói ‘‘Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí sau đêm gặp gỡ với Thị Nở là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của ngòi bút Nam Cao”. Không chỉ dừng lại ở đó, những diễn biến tâm trạng vô cùng phức tạp tinh vi của Chí Phèo đã được nhà văn diễn tả chân thực, chính xác, tài tình đến cảm động. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm được bộc lộ sâu sắc mới mẻ và lớn lao.

Phân tích ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo 69

Không hiểu sao khi đọc “Chí Phèo” của Nam Cao tôi luôn luôn hình dung ra một con đường in bóng hình những bước chân loạng choạng, ngật ngưỡng đầy phẫn uất của một Chí Phèo say – tỉnh. Và trên con đường – hành trình đời đầy nỗi đau và bi kịch ấy, những giây phút hạnh phúc, những cử chỉ yêu thương mà Chí được hưởng thật hiếm muộn như những giọt nước trên sa mạc mênh mông. Song dù chỉ là một giọt nước giữa sa mạc đời bao la của Chí thì bát cháo hành của thị Nở vẫn làm tròn nhiệm vụ của một nguồn nước mát lành góp phần thức tỉnh, hồi sinh tâm hồn Chí sau bao tháng năm đọa đày trong kiếp sống của con quỷ dữ. Cùng với những ám ảnh về bi kịch nhân sinh của con người, hương cháo hành thoang thoảng trong “Chí Phèo” mãi mãi còn vương vấn trong hồn người đọc như một biểu tượng của tình cảm nhân đạo sâu sắc đậm đà trong siêu phẩm này.

Hình ảnh “bát cháo hành” mà nhân vật thị Nở mang cho Chí Phèo trong truyện gắn liền với mối tình “đôi lứa xứng đôi” Chí Phèo – thị Nở. Trước khi gặp thị, Chí đã từng là một người nông dân lương thiện, hiền lành như cục đất. Con người ấy dù có tuổi thơ bất hạnh, bị chuyên tay như một món hàng nhưng vẫn giữ trọn những vẻ đẹp tâm hồn cao quý, thiêng liêng của một đời lương thiện, biết phải trái, đúng sai, biết tự trọng. Nhưng bàn tay của bọn cường hào phong kiến (mà đại diện là Bá Kiến) và cái nhà tù thực dân không cho con người hiền ấy sống đời lương thiện. Chúng hùa với nhau, tước đi của Chí cả nhân hình, nhân tính của người nông dân lương thiện, để biến anh Chí thành thằng Chí Phèo, biến anh canh điền hiền lành, chăm chỉ thành kẻ lưu manh có mỗi một nghề là rạch mặt ăn vạ. Sau 7, 8 năm đi khỏi làng Vũ Đại, Chí Phèo hồi hương trong tình cảnh vô sản “trần như nhộng”. Sự hiện hữu của Chí Phèo ở làng Vũ Đại là một con số “không” tròn trĩnh, không nhà không cửa, không bạn bè người thân, không một tấc đất cắm dùi, không được thừa nhận là một con người. Đó là cái bi kịch đau đớn của con người cô đơn đi giữa đồng loại. Chí chửi mong nhận được sự hồi đáp – dù là sự hồi đáp thấp hèn nhất nhưng cũng không có. Chẳng ai cho Chí chút quan tâm, không ai coi hắn là người. Hắn chửi vào khoảng không bao la của sự vô tình, lạnh lẽo. Hắn chửi thì tai gần miệng đấy, hắn lại nghe. Chỉ còn một thằng say rượu cùng ba con chó dữ. Còn gì thê thảm hơn thân phận của con người ấy – thân phận của con người – vật.

Cái lần đầu tiên ra tù rồi đến nhà Bá Kiến chửi đổng hình như Chí Phèo đã lờ mờ nhận ra kẻ thù đã dìm mình xuống vũng bùn tha hóa. Nhưng ở cái mảnh đất "quần ngư tranh thực" này, trước một Bá Kiến gian hùng, "khôn róc đời", Chí Phèo thật thảm hại biết bao. Chí không những không trả thù được mà còn trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến – kẻ thù của mình, tiếp nối đời Năm Thọ, Binh Chức. Từ đó Chí Phèo trượt dài trên con dốc tha hóa, xuống đáy vực của nó để thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Người ta tránh hắn, sợ hắn vì hắn làm bao nhiều việc cướp bóc, đốt phá, làm chảy máu và nước mắt của bao người lương thiện. Hắn làm tất cả những việc ấy trong cơn say triền miên, vô tận, đến nỗi chính hắn không biết về chính bản thân mình. Gương mặt quỷ dữ, hành động tác quái theo kiểu quỷ dữ của Chí đã khiến con đường trở về của Chí cụt lối. Cánh cửa của xã hội lương thiện đã đóng sầm trước mặt hắn khi hắn hồi hương thì đến nay nó được chèn cài kỹ lưỡng, im ỉm như một khối băng. Chí hiện diện như một bóng hình hắc ám đi bên lề cuộc sống của làng Vũ Đại.

Thế nhưng, phía cuối đường hầm vẫn còn chút ánh sáng le lói để Chí hy vọng. Trong cái làng Vũ Đại ấy vẫn còn một con người nhìn đến Chí, không sợ Chí Phèo và luôn đi qua vườn nhà Chí để kín nước. Đó là một người đàn bà khốn nạn, khổ đau, chịu nhiều thiệt thòi – thị Nở. Chao ôi! Sao Nam Cao lại dùng những lời văn lạnh lùng đến tàn nhẫn, mỉa mai để tả người đàn bà khốn khổ ấy? Đã mang một dung nhan "xấu ma chê quỷ hờn", Thị lại còn dở hơi "ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích", mà thị lại còn nghèo nếu trái lại thì ít nhất có một người đàn ông khổ sở. Chưa hết, thị Nở còn có dòng giống mả hủi nên người ta vẫn tránh thị như tránh một con vật rất tởm. Ngoài 30 tuổi thị vẫn chưa lấy chồng trong khi ở cái làng Vũ Đại người ta kết bạn từ lúc lên tám, lên chín, có con từ lúc 15, không đợi đến năm hai mươi đẻ đứa con thứ nhất. Trong tình hình đó ta có thể nói quách thị không có chồng.

Ông trời nhiều khi run rủi, thương người nhưng thực sự ở trường hợp Chí Phèo – thị Nở này ta có thể nói ông thương hay ông ác, gây nghịch cảnh trớ trêu? Trách trời chi cho xa, trách nhà văn Nam Cao sao không tác thành cho mối tình "đôi lứa xứng đôi" ấy? Song làm sao mà tác thành được, ai cho phép họ đến với nhau. Cả một xã hội với bao định kiến không cho họ đến với nhau, không cho họ hạnh phúc trọn vẹn. Xét đến cùng ta mới thấy Nam Cao thương người, nếu không có ngòi bút của ông thì những kẻ tha hóa như Chí Phèo, những người đàn bà cùng khốn như Thị Nở chẳng bao giờ được biết đến chút ít hạnh phúc của tình ái. Họ đã gặp nhau trong một đêm gió mát, rười rượi ánh trăng ở vườn chuối cạnh bờ sông mà những tàu chuối bị gió bay lại giẫy lên đành đạch như là hứng tình. Khung cảnh lãng mạn đang tác thành cho họ. Chí Phèo uống rượu ở nhà Tự Lãng đã say từ nửa đường; thị Nở đi kín nước cũng hớ hênh tựa vào gốc chuối ngủ trong cái gió mát như quạt hầu. Hai con người dị dạng, hai số phận trớ trêu đã trải qua một đêm tình lãng mạn đúng kiểu "Chí Phèo – Thị Nở". Nhưng Nam Cao dựng lên mối tình "người – ngợm" này không phải để câu khách rẻ tiền mà làm tỏa sáng tình người, tình yêu thương và sự săn sóc ấm áp của một người đàn bà xấu xí ngoại hình nhưng lại có một tấm lòng vàng.

Đêm tình ấy khiến thị Nở xao xuyến, suy nghĩ nhiều, đặc biệt về Chí Phèo, về trận ốm của Chí. Thị về nhà sau cuộc tình, sau khi dìu Chí vào nhà và trằn trọc không sao ngủ được. Thị nghĩ "thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc nhừ". Và thị thấy phải cho hắn ăn một tí gì mới được, "Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà". Thế là vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo để nấu cháo cho Chí. Hành thì nhà thị may lại còn. Nam Cao đã miêu tả chiều sâu tâm lý nhân vật với những rung cảm, nhưng suy tư tinh tế. Tâm lí của thị Nở vừa rất ngô nghê lại vừa sâu sắc. Đó là rung cảm, những tình cảm tha thiết của một người đàn bà, nhất là một người đàn bà đang yêu và muốn chăm sóc cho người yêu của mình. Thị không dở hơi mà ta thấy thị rất lo cho Chí, lo với tình cảm của nhân tình, nhân ngãi, của người làm ơn và cũng là của người chịu ơn. Thị nghĩ: "mình bỏ hắn lúc này cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau như "vợ chồng". Tiếng "vợ chồng" thấy ngường ngượng mà thinh thích...". Thiên tính nữ, thiên chức của người đàn bà thức dậy trong thị. Thị khao khát hạnh phúc, tình yêu như mọi người, dù chỉ là làm vợ của thằng... Chí Phèo. Cho nên bát cháo hành của thị Nở đem cho Chí không chỉ là trách nhiệm mà còn là cả một tấm lòng. Hơn tất cả những người đẹp đẽ ở làng Vũ Đại, thị có một tấm lòng vàng, tấm lòng chân thành và cao cả. Trong thâm tâm của thị, thị lo cho Chí, một nỗi lo thực sự của những người thân yêu dành cho nhau. Thị còn thấy thương Chí: "cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình". Đồng thời bát cháo ấy còn có lòng yêu, tình yêu: "Thị thấy như yêu hắn: đó là cái lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người chịu ơn".

Cho nên, thị đem cho Chí nồi cháo hành còn nóng nguyên để hắn ăn cho khỏi ốm. Hơn một chi tiết nghệ thuật, bát cháo hành của Thị Nở đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật, một siêu mẫu trong văn học hiện đại Việt Nam. Bát cháo ấy do thị Nở nấu có thể chẳng mấy ngon nhưng quan trọng nó là tình thương, tình yêu, tình người ấm áp. Nó là sự chăm sóc ân cần mang theo những nỗi lo âu thực sự của tấm lòng thị Nở dành cho Chí. Đặt trong quãng đời dài dặc đầy bi kịch của Chí, trong hoàn cảnh dưới đáy hiện tại của Chí, bát cháo ấy là tình người hiếm hoi mà Chí nhận được, là hạnh phúc tình yêu muộn mằn, quý giá vô ngần mà lần đầu tiên trong đời hắn được hưởng. Hương vị cháo hành – hương vị tình yêu tỏa sáng, vượt lên hoàn cảnh, lên trên mọi định kiến của xã hội. Nó mãi mãi còn thoang thoảng, lan tỏa theo suốt cuộc đời của Chí. Một điều độc đáo ở đây là Nam Cao đã miêu tả quá tình diễn biến tâm lý nhân vật Thị Nở rất tinh, rất sâu theo một tiến trình, một quá trình. Cách miêu tả tâm lý ấy cộng hưởng cùng nghệ thuật đối lập (giữa ngoại hình và tâm hồn nhân vật Thị Nở) khiến mỗi người đọc cũng xúc động rưng rưng cùng nhân vật. Hóa ra Nam Cao không thóa mạ, hay hạ thấp con người bằng những nét vẽ ngoại hình trần trụi, mà ngược lại, ông đề cao, tôn vinh con người. Vẻ đẹp cao quý nhất của con người là vẻ đẹp tâm hồn, là tình người, là tấm lòng cao cả. Đó là tiêu chuẩn, là thước đo giá trị người của con người. Nhìn như thế, ta sẽ thấy Thị Nở là người phụ nữ đẹp nhất làng Vũ Đại và đẹp nhất trong văn học Việt Nam.

Nói Thị Nở đẹp không hề quá đáng bởi bát cháo hành kia đâu chỉ là tình thương, tình yêu, là sự chăm sóc ân cần mà nó có tác dụng diệu kỳ – cảm hóa con người, thức tỉnh phần người, phần nhân tính bị vùi lấp bao lâu nay trong Chí Phèo. Nói đúng hơn là Thị Nở đã thức tỉnh Chí, cứu vớt Chí, làm hồi sinh tâm hồn, nhân tính trong Chí. Điều đó không phải ai cũng làm được. Và như thế, ta thấy chi tiết bát cháo hành không thể thiếu trong tác phẩm. Nó thể hiện tình cảm, tư tưởng nhân văn sâu sắc của nàh văn Nam Cao. Ông luôn luôn băn khoăn, trăn trở về vấn đề nhân tính của con người. Ông luôn mang trong mình niềm tin mãnh liệt vào con người, vào phần lương thiện thiêng liêng, quý báu trong mỗi con người. Thiên lương ấy không bao giờ bị mất đi, không một thế lực nào giết được. Nó như một thứ lửa luôn âm ỉ cháy trong trái tim của con người, kể cả những con người ở giữa vũng bùn lầy của sự tha hóa như Chí Phèo – không còn chút nhân hình, nhân tính nào nữa – theo cái nhìn từ bên ngoài, từ người ngoài.

Những dòng Nam Cao miêu tả Chí Phèo ăn cháo hành có thể nói là những dòng văn sâu sắc, xúc động nhất tác phẩm. Nhìn thấy bát cháo hành "Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì...". Chí đi từ ngạc nhiên đến xúc động nghẹn ngào. Đây là lần thứ nhất trong đời hắn khóc sau những năm tháng bị đọa đày và cũng là lần thứ nhất trong đời hắn nhận được một thứ người ta cho, cho vô tư, không tính toán. Hắn không phải dọa nạt hay cướp giật mà vẫn có được. Quan trọng, đây là lần đầu tiên trong đời Chí được một người đàn bà quan tâm, săn sóc, dành tình cảm cho; cũng là lần đầu tiên sau khi ra tù Chí được một con người nhìn nhận mình như một con người, đối xử với mình theo cách con người dành cho nhau. Và hắn thấy thị có duyên bởi trong mắt kẻ si tình người yêu của mình bao giờ chẳng đẹp, chẳng duyên. Để rồi sau đó, Chí Phèo tỉnh, tỉnh để suy tư, chiêm nghiệm. Chí thực sự đã tỉnh rượu, đã tỉnh ngộ và ý thức được về cuộc sống sau những tháng năm say triền miên, vô tận, say để không biết có sự hiện hữu của mình trên cõi đời. "Hắn thấy vừa vui, vừa buồn. Và một cái gì nữa giống như là ăn năn". Chí cảm nhận được tất cả vị thơm ngon của nồi cháo hành: "Trời ơi cháo mới thơm sao! Chỉ khói xông lên mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng: Những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành rất ngon...". Hơi cháo hành, bàn tay chăm sóc và tình cảm của thị Nở đã làm cho Chí tỉnh, tỉnh để mà nhận ra mình, nhận thức về những việc mình đã làm. Hơi cháo làm Chí nhẹ người, chí khỏi ốm để ăn năn, sám hối. Hơn lúc nào, Chí cảm thấu tình cảnh thê thảm, bi đát của mình cho nên hắn vừa vui lại vừa buồn. Vui vì tình yêu, hạnh phúc muộn mằn, dù muộn nhưng đã đến; buồn vì thân phận, vì cuộc sống quá loài vật của bản thân. Cháo hành rất ngon nhưng "tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo?". Hắn hỏi rồi hắn tự trả lời: "có ai nấu cho mà ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay "đàn bà". Thê thảm quá! Bi kịch quá! Xót xa muôn phần! Một chút gì như cay đắng nghẹn lòng nữa! Chí nghĩ đến những tháng ngày nhục nhã bị bà ba nhà Bá Kiến – "con quỷ cái" cứ hay gọi hắn đấm lưng, bóp chân "mà lại cứ bắt bóp lên trên, trên nữa". Hắn thấy nhục chứ sung sướng gì. "Hai mươi tuổi người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. Người ta không thích những cái người ta khinh ...". Rõ ràng đến đây, Chí hiện lên là một chân dung con người đầy đủ, vẹn toàn có cả quá khứ, hiện tại, có những suy nghĩ sâu xa, những tâm trạng phong phú, ý thức đầy đủ về bản thân. Người nông dân lương thiện trong Chí đang trở về sau những năm tháng dài bị đi đày xa tắp. Nhưng có ai nhận thấy đâu, họa chăng chỉ có thị Nở vì thị thấy chí rất hiền, "ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người?"

Nam Cao vốn là một nhà văn có cái nhìn đời thấu suốt, tinh sắc. Ông không dừng lại ở sự thức tỉnh của Chí Phèo nhờ bát cháo hành mà ông còn đưa người đọc đi xa hơn đến chân trời ước mơ, hy vọng của Chí. Với ước mơ quá khứ sống dậy, ước mơ trong hiện tại bùng cháy thiêu đốt tâm can, Chí đã thực sự hồi sinh, là một con người hoàn toàn theo đúng nghĩa của hai chữ CON NGƯỜI viết hoa (chữ của M.Gorki).

Bát cháo húp xong, Thị Nở đỡ lấy bát và múc thêm bát nữa. Hắn thấy đẫm bao nhiêu mồ hôi, những giọt mồ hôi to như giọt nước. Chí biết mình đã đến cái dốc bên kia của cuộc đời và chí thấy "thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn sao người khác không thể... Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Hạnh phúc chớm nở như hoa hàm tiếu và hy vọng được nhen lên rồi bùng cháy mãnh liệt như ngọn lửa được tiếp ôxi. Chí khao khát cuộc đời lương thiện, muốn làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cầu nối, là hy vọng, mở ra cánh cửa của thế giới lương thiện vẫn đóng im ỉm cho Chí. Bát cháo hành của tình yêu, tình người đã làm tươi lại, thanh lọc tâm hồn Chí. Cái ước mơ của Chí rất giản dị mà thiêng liêng, cao cả xiết bao. Nó mang tư tưởng nhân văn sâu sắc, mới mẻ của nhà văn Nam Cao. Bởi đã là con người, dù dị dạng, dù tha hóa nhưng họ vẫn có quyền được sống lương thiện, vẫn không thôi ước mơ, không hết sự khát thèm cuộc đời bình dị trong hạnh phúc và tình yêu.

Song xã hội lương thiện mà Chí Phèo thấy bằng phẳng kia không hề bằng phẳng. Nó còn bao định kiến, bao sự cách ngăn, bao điều nghi kỵ. Tất cả đã không cho Chí một cơ hội nào trở về cuộc đời bình thường như bao người bình thường. Bị thị Nở cự tuyệt, hắn phẫn uất, cùng cực tìm đến rượu. Nhưng hắn "càng uống lại càng tỉnh ra". "Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành". Hơi cháo hành ấy là dư ảnh của bát cháo kia xuất hiện lần cuối để giữ Chí lại bên bờ tỉnh, để hắn tự ngấm, tự thấm bi kịch nhân sinh cuộc đời. Tất cả hy vọng của Chí đã tan biến theo làn khói hành mong manh, hư ảo. Nhưng hắn không thể sống như trước nữa vì hắn đã tỉnh, hắn vẫn không thôi ước mơ. Chí khóc rưng rức trong tuyệt vọng, trong những tỳ vết tâm hồn, những vết cứa, vết xước của tội ác trong tim hắn biểu hiện lên khuôn mặt dị dạng của hắn vĩnh viễn không thể mất đi. Tất cả đưa Chí Phèo đến kết cục bi thảm, cùng cực khiến người đọc bao năm nay vẫn thôi day dứt trong ám ảnh về những câu nói của Chí: "Ai cho tao lương thiện? ... Tao không thể làm người lương thiện nữa..."

Mỗi tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật song chỉnh thể ấy chỉ có được từ sự phối hợp hài hòa các yếu tố nhỏ hơn, thậm chí chỉ là một chi tiết. Một chi tiết nhiều khi mang sức nặng, cất chứa toàn bộ tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm, là chìa khóa thâm nhập vào thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Chi tiết bát cháo hành mà nhân vật Thị Nở mang cho Chí Phèo trong tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao thật ấn tượng, mang nhiều ý nghĩa nghệ thuật sâu sắc. Nó thúc đẩy sự phát triển, tạo bước ngoặt cho cốt truyện. Đồng thời, nó cũng đầy ám gợi để khắc họa sắc nét, tinh tế thế giới tâm hồn, diễn biến tâm trạng phong phú, phức tạp của các nhân vật. Từ đó, chi tiết làm bật nổi tính cách và bi kịch của các nhân vật ấy như những hồi chuông gióng giả, vang vọng đầy ám ảnh về con người. Bát cháo hành của thị Nở có thể không thể toàn vẹn, thơm tho như chính con người nhân vật nhưng nó là bát cháo của tình yêu thương, của tình người ấm áp, của tình cảm nhân đạo sâu sắc và mối quan hoài thường trực mà nhà văn Nam Cao dành cho con người, nhất là con người có số phận bi kịch. Chính cái nhỏ nhoi, bình dị ấy là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên tầm vóc kinh điển cho kiệt tác "Chí Phèo".

phân tích ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo 70

Nam Cao cây bút truyện ngắn hiện thực tiêu biểu của văn học hiện đại Việt Nam 1930-1945. Tên tuổi của ông gắn liền với truyện ngắn “ Chí Phèo”. Một truyện ngắn mang hơi thở của tiểu thuyết về cuộc đời anh chàng Chí Phèo và những nhân vật xung quanh làng Vũ Đại. Để tạo nên thành công cho tác phẩm, không thể không kể đến sự thành công xây dựng chi tiết nghệ thuật độc đáo: bát cháo hành của Thị Nở.

Bát cháo hành xuất hiện gần cuối thiên truyện. Chí Phèo uống rượu say ở nhà Tự Lãng, ăn nằm với Thị Nở - người đàn bà ngớ ngẩn, xấu ma chê quỷ hờn. Sáng, Chí bị cảm, Thị Nở thương tình, đi tìm gạo và nấu cháo hành mang sang cho Chí.

Bát cháo hành là biểu tượng của tình người ấm nóng duy nhất còn sót lại nơi làng Vũ Đại. Có thể bát cháo với mỗi người chỉ là thứ vụn vặt. Cháo ấy có thể không ngon, nhưng chúng ta phải khẳng định bát cháo chan chứa tình người. Một tình người hồn nhiên, vô tư, không vụ lợi mà Thị Nở dành cho Chí.

Bát cháo hành là vị thuốc giải cảm cho Chí. Sau khi bị thổ, lần đầu tiên Chí tình, lần đầu tiên cảm nhận được cuộc sống, nghe thấy những âm thanh xung quanh. Và ước mơ xa xăm năm nào trở lại trong trí não của hắn. Ước mơ về gia đình nho nhỏ, chồng mướn vợ dệt vải.. Trận ốm làm cho hắn thoát khỏi cơn say triền miên mà nhận thức được mình, thấy mình đang ở cái dốc bên kia cuộc đời, biết sợ tuổi già, ốm rét và cô độc. Bát cháo khiến Chí phải ăn năn về những hành động mình đã làm. Bát cháo hành – sự chăm sóc quan tâm vô tư của Thị Nở khiến hắn nhớ tới bà ba Bá Kiến và thấy ghê rợn về một mụ đàn bà mặt hoa dạ quỷ. Bát cháo ấy tưởng vặt vãnh mà trở thành liều thuốc giải cảm hữu hiệu cho Chí.
Bát cháo hành – vị thuốc giải độc cuộc đời Chí. Chính bát cháo đã gợi thức phần lương tri ngủ quên trong lốt “con quỷ dữ làng Vũ Đại”. Từ ăn năn, hối hận, Chí bỗng thấy thèm lương thiện, thèm trở về cuộc sống ngày trước. Bát cháo hành dẫn đường cho hi vọng hoàn lương. Khát khao lương thiện bùng dậy khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở. Bát cháo hành đã hoàn thiện thiên chức gọi chất người, đưa Chí qua cuộc lột xác để trở về với lương thiện.

Nhưng bát cháo hành cũng là chi tiết đẩy bi kịch của Chí lên đến đỉnh điểm. Sau năm ngày ở với Chí, Thị Nở bỗng nhớ ra mình còn bà cô và quyết quay về xin ý kiến. Thị bị bà cô xỉa xói vào mặt và khi quay lại nhà Chí Phèo, thị cũng chửi lại bằng tất cả những lời của bà cô và vùng vằng bỏ về. Chí níu kéo nhưng bị Thị xô đẩy, Chí rơi xuống hố sâu của tuyệt vọng. Thị Nở đã phụ bạc hắn, hắn không còn cơ hội để quay về với cuộc sống lương thiện. Tuyệt vọng hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh và thoang thoảng “hơi cháo hành”. Đó là biến thể của bát cháo hành. Hắn không say, vị ngọt của tình người cứ thoang thoảng để hắn đau khổ “khóc rưng rức”. Cuối cùng hắn lựa chọn cầm dao đến nhà Bá Kiến, đâm Bá Kiến và tự sát. Hơi cháo hành không cho phép hắn trở lại con đường cũ, cuộc sống của con quỷ dữ. Hắn trở về lương thiện chỉ có thể bằng tự sát. Bát cháo hành gọi dậy con người trong Chí để nó thức dậy dù đau khổ, bi kịch. Bát cháo hành chính là cánh cửa đưa nó thoát khỏi kiếp đọa đầy.

Bát cháo hành một chi tiết nghệ thuật của Nam Cao góp phần thể hiện tư tưởng của nhà văn về quan niệm nhân sinh. Lòng tốt đôi khi phải trả một cái giá cắt cổ. Và đó còn là niềm tin của nhà văn về người nông dân dù có bị bầm dập về nhân hình nhưng không bao giờ mất đi nhân cách tốt đẹp.

phân tích ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo 71

Đề tài người nông dân có thể coi là mảnh đất màu mỡ mà các nhà văn hiện thực 1930 -1945 đã gieo hạt nghệ thuật và gặt hái được những mùa bội thu. Nam Cao là người đến sau khi mà mảnh đất ấy đã được khai vỡ, nhưng bằng tất cả tâm huyết, tình cảm của mình đối với những con người nghèo khổ – những kẻ dưới đáy của xã hội, Nam Cao đã tìm được cho mình một chỗ đứng riêng. Tác phẩm Chí Phèo – đứa con sinh sau đẻ muộn nhưng không chịu thua kém “anh chị” mình vươn mình lên hàng kiệt tác – đỉnh cao của văn học 1930 – 1945. Chí Phèo có được vị trí ấy là bởi giá trị tư tưởng mới mẻ, độc đáo, bởi nghệ thuật viết truyện lôi cuốn, hấp dẫn của ngòi bút Nam Cao. Và một điều không thể không kể đến đó là bởi Nam Cao đã xây dựng thành công những chi tiết nghệ thuật độc đáo: bát cháo hành của Thị Nở.

Bát cháo hành xuất hiện ở gần cuối thiên truyện. Chí Phèo sau khi uống rượu nhà Tự Lãng không về túp lều của mình mà ra thẳng bờ sông. Ở đó bắt gặp Thị Nở – người đàn bà ngớ ngẩn, xấu ma chê quỷ hờn, đi kín nước nhưng ngủ quên ở bờ sông. Khung cảnh hữu tình: trăng lấp lánh trên mặt sông, gió thổi mát rượi và những tàu chuối “giãy đành đạch như hứng tình”, cùng với hơi men của rượu đã đưa đến mối tình Chí Phèo – Thị Nở. Sau đêm trăng gió với Thị, Chí bị cảm, Thị Nở thương tình, sau một đêm trằn trọc suy nghĩ, Thị chạy đi tìm gạo và nấu cháo hành mang sang cho Chí.

Bát cháo hành – biểu tượng của tình người ấm nóng duy nhất còn sót lại nơi làng Vũ Đại khô khát yêu thương. Bát cháo hành có lẽ đối với mỗi người nó chỉ là những thứ vặt vãnh, vụn vặt, nhất là khi cháo lại được nấu bởi bàn tay Thị Nở. Cháo ấy có ngon không? Chúng ta không biết, chỉ biết một điều nó chan chứa tình người. Một tình người rất thật, rất hồn nhiên, vô tư, không vụ lợi mà Thị Nở dành cho Chí. Nó chỉ đơn giản là bởi Thị thấy Chí bị “thổ một trận nhọc” mà không có người chăm sóc, bởi Thị nghĩ ốm như thế thì chỉ có ăn cháo hành. Và rất hồn nhiên Thị nấu cháo hành mang sang.

Bát cháo hành – vị thuốc giải cảm cho Chí. Sau khi bị thổ, lần đầu tiên Chí tỉnh, lần đầu tiên cảm nhận được cuộc sống, nghe thấy được những âm thanh xung quanh: “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, “tiếng những người đi chợ trò chuyện… Một ước mơ xa xăm của một thời nào Chí thấy như xa lắm. Hắn đã từng mơ có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ vốn nuôi một con lợn. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Trận ốm đã làm cho hắn thoát khỏi cơn say triền miên mà nhận thức được mình, thấy mình đang ở cái dốc bên kia của cuộc đời, biết sợ tuổi già, ốm rét và cô độc. Trận ốm đã làm cho hắn biết sợ – cái mà có lẽ trước giờ chưa bao giờ hắn nghĩ tới. Thị Nở sang cùng bát cháo hành đưa cho hắn. Nhận bát cháo từ tay Thị mà hắn “ngạc nhiên”. Ngạc nhiên cũng đúng thôi vì “từ trước đến giờ đã ai cho hắn cái gì. Muốn cái gì hắn phải dọa nạt hay cướp giật”. Một cảm xúc khác thay cho cái ngạc nhiên ban đầu “hắn thấy mắt ươn ướt, một chút gì như là ăn năn”. Chí ăn năn về những gì mình đã gây ra, có thể là như lời nhà văn “người ta thường ăn năn về những việc mình làm khi người ta không ác được nữa” nhưng dẫu sao điều ấy là không muộn. Chí ăn cháo hành và thấy “cháo hành ăn rất ngon”. Tình người đầu tiên Chí nhận được sao không ngon cho được. Sự chăm sóc đầy ân tình dẫu chăng còn thô vụng của Thị Nở nhưng vẫn đáng quý biết bao. Còn gì quí giá hơn khi người ta ốm còng queo một mình mà lại được một bàn tay chăm sóc. Chí đã khao khát biết bao một bàn tay chăm sóc như thế. Bát cháo hành – sự chăm sóc, quan tâm vô tư của Thị Nở làm Chí nghĩ tới bà Ba Bá Kiến. Hai người đàn bà quan tâm tới Chí nhưng một người mặt hoa da phấn, áo quần là lượt nhưng tâm địa tà dâm chỉ cốt thỏa mình, còn một người xấu ma chê quỷ hờn nhưng tâm địa tốt, quan tâm Chí thật lòng. Bát cháo hành trên tay hơi nghi ngút làm cho Chí “vã mồ hôi ra như tắm”. Bát cháo tưởng vặt vãnh đã trở thành liều thuốc giải cảm hữu hiệu cho Chí.

Bát cháo hành – vị thuốc giải độc cho cuộc đời Chí. Không chỉ giải cảm, bát cháo hành – tình người duy nhất đã gợi thức phần lương tri ngủ quên trong lốt “con quỷ dữ Chí Phèo”. Từ ăn năn, hối hận, Chí bỗng thấy thèm lương thiện, thèm trở về cuộc sống ngày trước. Bát cháo hành đã dẫn đường cho hi vọng hoàn lương: Thị Nở có thể làm hòa với hắn thì mọi người cũng có thể làm hòa với hắn. Khát khao lương thiện bùng dậy mãnh liệt đã khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở – về cây cầu đưa hắn về với cuộc đời lương thiện. Bát cháo hành đã hoàn thành thiên chức gọi chất người, khơi hòn than đỏ vùi trong lớp tro tàn đang âm ỉ, nó đưa Chí qua một cuộc lột xác để về với sự lương thiện.

Nhưng bát cháo hành cũng chính là chi tiết đẩy bi kịch của Chí lên tới đỉnh điểm, dẫn tới một kết thúc thảm thương đầy đau đớn. Sau năm ngày ở với Chí Phèo, Thị Nở “bỗng nhớ ra mình còn một bà cô trên đời” và quyết định “dừng yêu” để xin ý kiến bà cô. Thị bị bà cô xỉa xói vào mặt và khi quay lại nhà Chí Phèo, Thị chửi Chí bằng tất cả những lời của bà cô và vùng vằng quay về. Chí “ngẩn người ra” và chạy vội ra níu tay Thị nhưng bị Thị dúi cho một cái rồi bỏ về. Chí rơi xuống hố sâu của tuyệt vọng. Thị Nở đã phụ bạc hắn, hắn không còn cơ hội để quay về với cuộc sống lương thiện. Tuyệt vọng, hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh và thoang thoảng cứ thấy “hơi cháo hành”. Đó là biến thể của “bát cháo hành”. Hắn không say, vị ngọt tình người cứ thoang thoảng để hắn đau khổ “khóc rưng rức”. Cuối cùng Chí lựa chọn cầm dao đến nhà Bá Kiến, đâm Bá Kiến và tự sát. Hơi cháo hành đã không cho phép hắn trở lại cuộc sống con quỷ một lần nữa. Hắn để trở về lương thiện chỉ còn cách duy nhất là tự sát. Bát cháo hành đã gọi dậy con người trong Chí để nó thức dậy mặc dù chỉ để khổ đau, để phải bi kịch. Nhưng dẫu thế nó cũng không chấp nhận chết đi mãi mãi. Và bát cháo hành chính là cánh cửa đưa nó thoát khỏi kiếp đọa đày.

Bát cháo hành – một chi tiết nghệ thuật mang đầy dụng công của Nam Cao. Nó góp phần thể hiện tư tưởng nghệ thuật của nhà văn: Điều mà chúng ta thiếu đó chính là lòng tốt – một lòng tốt rất bình thường cũng có thể cứu rỗi con người. Và kết cục của Chí Phèo thể hiện một niềm tin của nhà văn: dẫu có bị bầm dập về nhân hình lẫn nhân tính, lương thiện trong con người đặc biệt là những người nông dân cũng không mất đi, nó chỉ cần đợi có cơ hội là sẽ bùng lên mạnh mẽ.

Qua chi tiết nó cũng cho ta thấy một hiện thực mà nhà văn đau đáu: đó là những định kiến làng xã nông thôn đã tước đi quyền được sống của con người… Qua đó nhà văn cũng gióng lên một hồi chuông khẩn thiết đòi thay máu cho xã hội để ít nhất con người được sống lương thiện.
Bát cháo hành – chi tiết đặc sắc đã góp phần làm nên “nhà văn lớn” Nam Cao. Tác phẩm khép lại nhưng dư âm của tình người trong chi tiết nghệ thuật ấy vẫn còn mãi.

phân tích ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo 72

Truyện ngắn "Chí Phèo" là một kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại của nhà văn hiện thực và nhân đạo Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả đã vẽ nên một bức tranh thê thảm, đầy bi thương của những kiếp sống lương thiện nhưng đói nghèo đã bị tha hóa cả về thể xác lẫn linh hồn. Tiêu biểu cho những kiếp người đó chính là nhân vật "Chí Phèo" và những bi kịch mà hắn phải chịu đựng, nếm trải trong chặng đường đời của mình.

Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, người đọc dõi theo từng bước chân của Chí từ một người dân lương thiện bình thường cho đến khi trở thành "con quỷ dữ" của làng Vũ Đại và cuối cùng là cái chết tuy bi thảm nhưng lại là cách giải thoát tốt nhất khỏi những bi kịch mà Chí đang phải chịu đựng. Người đọc không thể quên hình ảnh của Chí lúc mới ở tù ra với "cái đầu trọc lốc, răng cạo trắng hớn, mặt đen lại", "cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm trùy trông gớm chết". Để rồi từ đó, cuộc đời hắn chìm trong men rượu, trong cơn say hắn đã làm biết bao tội ác, hắn phá vỡ hạnh phúc của biết bao nhiêu gia đình, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người lương thiện.

Những tưởng cuộc đời hắn sẽ trượt dài trong tội lỗi nhưng rồi ở phần cuối của tác phẩm, Chí Phèo đã có ý thức vươn lên khao khát được làm người lương thiện, đỉnh điểm của khát khao đó là hành động xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Khi nhận ra một sự thật đau khổ đến mức tuyệt vọng là hắn không thể trở lại làm người lương thiện được nữa thì hắn đã giết Bá Kiến - nguyên nhân chính tạo nên mọi bi kịch của cuộc đời Chí và tự kết liễu đời mình để giải thoát khỏi cuộc sống đau khổ hiện tại. Vậy động lực nào đã thúc đẩy Chí hoàn lương? Đó chính là tình thương của Thị Nở và bát cháo hành của Thị.

Bát cháo hành của Thị Nở tuy giản đơn, mộc mạc chỉ có một chút cháo trắng với hành nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự hồi sinh thức tỉnh của Chí. Bát cháo được nấu lên bằng tình yêu thương chân thành, sự cảm thông, thấu hiểu của Thị Nở dành cho Chí, chính vì vậy mà nó có sức lay động mạnh mẽ bản chất lương thiện vốn đã bị vùi sâu trong tâm hồn Chí. Nếu như trước đây, hắn chỉ biết uống rượu, rạch mặt, ăn vạ, rồi gây nên biết bao nhiêu tội ác thì giờ đây sau khi ăn bát cháo hành của Thị Nở hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với Thị như với mẹ. Chưa bao giờ ta thấy hắn hiền như lúc này...Khi nhận được bát cháo hành từ tay Thị, Chí rất ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt. Vậy là Chí đã khóc, một con người đã lấy đi biết bao nhiêu nước mắt của người khác vậy mà giờ đây chính hắn lại khóc. Hắn đã khóc, khóc vì đây là lần thứ nhất hắn được người ta cho, lại được cho bởi tay một người đàn bà. Trước đây, chỉ toàn là đi cướp giật của người khác, hắn thấy "xưa nay có thấy tự nhiên ai cho ai cái gì". Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng, vừa vui vừa buồn và một cái gì nữa giống như là ăn năn, hối lỗi...Và đây cũng là lần đầu tiên Chí biết đến cái duyên của một người, đó là khi Thị Nở múc cháo "nhìn trộm hắn rồi lại cười toe toét. Trông Thị thế mà có duyên". Nhìn Thị hắn nghĩ lại quá khứ khi mà hắn phải chăm sóc cho bà ba, phải làm những việc xấu xa hắn thấy nhục hơn là thích. Bát cháo hành của Thị Nở có sức mạnh thật kì diệu, nó đã làm cho một người như Chí phải suy nghĩ: "Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây thù?".

Đồng thời, bát cháo ấy đã lấy lại sức khỏe cho hắn bởi vì hắn càng ăn mồ hôi lại càng ra nhiều. Và tất nhiên, điều này rất tốt đối với một người bị cảm gió như hắn. Tuy chỉ là bát cháo hành bình thường thôi nhưng nó đã giúp Chí khỏi bệnh, hắn thấy bát cháo mới thơm ngon làm sao, những người suốt đời không ăn cháo hành sẽ không biết rằng cháo hành ăn rất ngon...nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo, tự hỏi để rồi tự mình trả lời. Đó chính là bởi vì đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi tay một người đàn bà. Sự gặp gỡ với Thị Nở như là một điều kì diệu đối với Chí, hình ảnh của Thị giống như một vị cứu tinh trong cuộc đời u ám, say triền miên với những chuỗi dài bi kịch của Chí Phèo. Điều đặc biệt hơn, đây là tình cảm đáng trân trọng giữa những con người có cảnh ngộ khốn cùng.

Tình yêu thương, sự đồng cảm của Thị Nở cùng bát cháo hành như một liều thuốc đã kéo Chí ra khỏi hàng loạt những bi kịch của cuộc đời, giúp Chí tìm lại được chính bản chất lương thiện của mình vốn từ lâu đã bị vùi lấp trong sâu thẳm tâm hồn Chí, nay bỗng được tái hiện như một tia sáng trong cuộc đời tăm tối của Chí Phèo.

Văn mẫu phân tích ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo 73

Nam cao đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam một tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, đó là tác phẩm Chí Phèo. Các nhân vật trong truyện là những con người hiền lành lương thiện nhưng do xã hội xô đẩy khiến họ thành những con người mất hết lương tri. Hình ảnh bát cháo hành trong truyện chính là phần thưởng quý giá mà tác giả ban tặng cho nhân vật, tạo cơ hội cho nhân vật trở về với cuộc sống đời thường.

Hình ảnh Chí Phèo hiện lên trước mắt người đọc trong những trang đầu của tác phẩm là một người ngang ngược, độc ác, xấu xa. Chí cứ sống trong men say và trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến. Rồi một ngày Chí gặp thị nở, bát cháo hành của thị đã thức tỉnh lương tri đã mất từ lâu của Chí. Nếu như trước đây, Chí chỉ biết uống rượu, chửi bới, dọa nạt, cướp giật, nằm vạ... thì giờ đây khi được ăn bát cháo hành của thị Nở, hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ổi sao mà hắn hiền...? Bát cháo có gì đâu, một chút cháo, vài cọng hành và ba hạt muôi mà hiệu quả thật không ngờ, bát cháo hành quả là liều thuốc giải độc. Nó vừa giúp Chí Phèo thoát ra khỏi cơn Ốm sau khi say rượu vừa khơi dậy bản chất ý thức con người ở Chí. Phải chăng bát cháo hành đơn sơ chân quê đó đã được nấu bằng tất cả tấm lòng yêu thương chân thật của thị Nở? Đúng vậy, "bát cháo hành" tượng hình cho tình cảm của thị Nở với Chí Phèo, một tình cảm dịu dảng, giản dị nhưng đong đầy ân tình, nhân nghĩa... Đó là thứ tình cảm thiêng liêng giữa con người với con người, thứ tình cảm đó có thể cảm hóa được con người, khiến họ từ bỏ những cái xấu xa để sống đúng với bản chất vốn có của một con người.

Từ khi biết làm người đến giờ Chí chưa được ai nấu cho ăn bao giờ, khi nhận được bát cháo của thị Nở, chẳng biết thị nấu ngon dở thế nào nhưng đối với hắn thì đó là bát cháo ngon nhất trong cuộc đời hắn. Chí ăn ngon lành, trong lúc đang húp bát cháo, ta thấy hiện lên trên nét mặt hắn một niềm xúc động, cái thứ từ lâu đã không còn tồn tại trong con người hắn. Đỉnh điểm của sự xúc động ấy đã khiến Chí bật khóc. Hắn đã khóc vì "lần thứ nhật hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay nào hắn có thấy tự nhiên ai cho cái gì... Hắn đã nhìn bát cháo bốc khói mà "bâng khuâng, vừa vui vừa buồn và một cái gì nữa giông như là ăn năn... Tự bao giờ những tình cảm con người đã thức dậy trong tâm can "con vật lạ, con quỷ dữ" của làng Vũ Đại ấy. Bên cạnh Chí, thị Nở múc cháo "nhìn trộm hắn rồi lại cười toe toét. Trông thị thế mà có duyên...". Lần đầu tiên, Chí đã biết đến cái duyên của một con người. Rồi hắn nhớ lại khi xưa, nghĩ về quá khứ của mình khi phải săn sóc cho "bà ba", phải làm những việc xấu xa, hắn đã thấy nhục hơn là thích, rồi hắn thấy sợ. Xưa kia, cũng như bây giờ, hắn thật trong sáng, lương thiện. "Vì vậy bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây thù?" Thật kì diệu, những sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và tình yêu thương mộc mạc chân thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người nông dân lao động trong hắn. Đây là một đoạn văn tuyệt bút, đầy chất thơ.

Đoạn văn tả cảnh ăn cháo của Chí khiến Chí thành con người thật đáng trân trọng. Bao ngày tăm tối của Chí giờ đã qua, Chí được trở thành một con người bình thường, được hưởng những điều kiện tối thiểu của con người. Khi thị Nở bê cháo đến bên hắn, hắn nhận bát cháo và ăn, "hắn càng ăn mồ hôi lại càng nhiều", và tât nhiên với một người cảm gió, mồ hôi ra được nhiều là sẽ khỏi. Hắn cũng thế, đỡ khỏi bệnh. Hắn đã cảm nhận được vị ngon của cháo: "Trời ơi! Cháo mới thơm làm sao... những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo ăn rất ngon... Nhưng tại sao mãi đến bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo". "Hắn tự hỏi rồi lại tự trả lời... Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một tay đàn bà..." Bát cháo hàng đã nói lên tình cảm mà thị dành cho hắn, Một tình cảm ngàn vàng giữa hai con người cùng cảnh ngộ khốn cùng. Phải nói rằng tác giả đã dành rất nhiều tình cảm cho Chí, mới có thể lột tả được nội tâm của Chí chi tiết đến như vậy. Nam Cao đã cho người đọc hình dung được bản chất tốt đẹp, rất đời thường vẫn luôn thường trực trong con người Chí, nó cần có cơ hội mới có thể bộc lộ được.

Văn mẫu phân tích ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo 74

Trong lí luận văn học có nói: "Chi tiết là hạt bụi vàng của tác phẩm" một tác phẩm văn học có giá trị, phải được làm nên từ những chi tiết xuất sắc, có ý nghĩa và ấn tượng trong lòng người đọc. Để nhắc đến điều này, không ai không nghĩ tới Nam Cao, người cả đời luôn trăn trở về vấn đề "sống và viết". Nam Cao có biệt tài viết ra truyện từ những điều nhỏ nhặt, vì vậy mỗi chi tiết trong truyện của Nam Cao đều ấn tượng và mang triết lý cao. Nhắc đến điều đó không thể không nghĩ tới truyện ngắn Chí Phèo, một trong những tác phẩm xuất sắc, để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc và đặc biệt là chi tiết bát cháo hành trong tác phẩm.

Chí Phèo ngày trước là một con người hoàn toàn khác, vốn sinh ra đã không gặp may mắn, mồ côi "một người đi thả ống lươn nhặt được" nhưng Chí Phèo nuôi được dưỡng trong vòng tay của dân làng Vũ Đại, lớn lên bằng tình yêu thương của làng Vũ Đại. Nhưng, số phận đã định đoạt, Chí Phèo từ một anh canh điền hiền như đất, sau khi bị chế độ phong kiến biến đổi, trở thành con người biến chất là một kẻ chuyên đi "rạch mặt ăn vạ" và là con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Lúc Chí trở về, chẳng ai nhận ra nổi hắn là ai. Một gương mặt gớm ghiếc, với những "nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy" và cả hai cánh tay cũng thế. Hắn không chỉ bị biến đổi về thể xác, cả nhân tính cũng bị biến đổi. Ngày Chí trở về đã bị Bá Kiến mua chuộc, trở thành một cánh tay đắc lực, giúp Bá Kiến như hổ mọc thêm cánh, Chí Phèo chính thức là một con quỷ dữ, là ác nhân, khi "càng ngày càng hung hãn, ngang ngược và say triền miên" hắn chuyên cướp đoạt và dọa nạt, và gần như đã bị chiếm mất trái tim và khối óc, hắn hành động trong cơn say và mê muội, chỉ biết đâm chém và dọa nạt người ta. Một Chí Phèo từng hiền như đất, một anh nông dân đến việc bóp chân cho bà ba còn thấy sợ, thì giờ đây đã bị biến đổi hoàn toàn. Một con người khác, trái tim khác, và nhân tính khác, và không ai trong làng Vũ Đại có thể đến gần hắn, và họ luôn xa lánh hắn và sợ hãi gớm ghiếc với bản chất của Chí Phèo. Và tưởng như Nam Cao không còn yêu thương gì với nhân vật mình nữa, thì ngay sau đó, ông đã để nhân vật mình thức tỉnh, với chính ngòi bút của mình.

May mắn đến với Chí, hôm ấy Chí gặp được Thị Nở. Một người đàn bà mà có thể nói "đôi lứa xứng đôi" với Chí Phèo. Thị vốn dĩ là người có dòng dõi ma hủi, không thể tiếp xúc với ai. Lại có đặc điểm "xấu ma chê quỷ hờn" xấu xí, ngẩn ngơ và ế chồng. Lúc Thị ra sông kín nước ngồi nghỉ rồi ngủ quên, thì không may gặp Chí Phèo. "Họ ăn nằm với nhau, rồi cùng ngủ say dưới trăng. Đến nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Thị Nở dìu hắn vào trong lều, đặt lên chõng, đắp chiếu cho hắn rồi ra về.."

Sáng hôm sau, Chí bị ốm nặng, "hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn" "người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc" còn "ruột gan lại nôn nao lên một tí". Trận ốm như một cơn gió ghé ngang cuộc đời Chí, một cuộc dư trấn sẽ để lại cho Chí nhiều suy nghĩ thiết thực hơn. Và Chí cũng tỉnh ngộ ra một chút, lần đầu tiên hắn nhận ra sự xuất hiện của cuộc sống đời thường, nhờ việc bị ốm, hắn mơ màng nhìn lại cuộc đời, nghĩ lại thời trai trẻ, ước mơ của mình, "chồng cuốc mướn, vợ dệt vải". Chí tỉnh dậy, thấy mình đã già nhưng vẫn còn cô độc, hắn biết mình đã bước sang cái dốc bên kia của cuộc đời, hắn không còn thời gian sửa soạn nữa. Nỗi sợ cứ lần lượt ập đến, hắn sợ cô độc biết bao nhiêu. Càng sợ hắn càng mong muốn nhận được một điều gì đó, hắn muốn được sống với con người, hắn sợ, nỗi sợ cứ ngày một lớn dần, chồng chất.

Rồi thị vào, thị mang cho Chí "bát cháo hành" giản dị, mộc mạc mà chân thành. Bát cháo hành là chi tiết đặc biệt, là chất xúc tác khiến tâm hồn Chí bừng tỉnh sau một cơn say rất dài. "Xưa nay nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì" rồi "hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng", hắn nhận ra tình thương Thị dành cho hắn trong bát cháo. Hắn nhận ra hóa ra sau tất cả điều này mới là quan trọng nhất, nỗi sợ cô độc trong lòng hắn như được xoa dịu. "Trời ơi cháo mới thơm làm sao! Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người ta nhẹ nhõm" bát cháo thức tỉnh hắn, bát cháo hành khiến hắn nghĩ tới bà ba "con quỷ cái hay bắt hắn bóp chân mà lại cứ bắt bóp lên trên, trên nữa", người đàn bà đã khiến hay rơi vào hoàn cảnh tai đoạn này. Món quà ý nghĩa thị dành cho Chí, một món quà vô giá là tình thương thật lòng. Chưa bao giờ Chí cần Thị như lúc này, chưa bao giờ Chí thấy "Trông thị thế mà có duyên". Bát cháo khiến hắn "đẫm bao nhiêu mồ hôi", bát cháo khiến hắn trở thành một tình lang thật sự, "hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ" ôi chao! Có bao giờ người ta đáng yêu được như thế, hẳn tâm hồn khô cằn ấy phải sống lại rồi, hẳn trái tim phải biết muốn yêu và được yêu rồi, hẳn phải mệt mỏi lắm rồi hắn mới như vậy. "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện" bát cháo hành giúp hắn nhận ra mình không thể sống mãi trong sự cướp giật, hắn muốn được thành người lương thiện, được sống với mọi người, được yêu thương và chăm sóc cho Thị Nở. Chi tiết bát cháo hành thực là một bước ngoặt quan trọng trong suy nghĩ của Chí, nhờ đó Chí đã thay đổi, đã thức tỉnh và tan biến đi cái chất quỷ dữ trong sự u mê của Chí.

Nhưng đó chưa phải là kết thúc, chi tiết bát cháo hành còn kéo dài đến mãi về sau, và nó sẽ tìm được cho Chí một lối thoát duy nhất trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Thị Nở không thể ở tiếp với Chí, Thị bị con "khọm già" bà cô của mình nhiếc móc, không cho chung sống với Chí. "Thị ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về" thị bỏ chí, bỏ hẳn, thị dứt tình với Chí. Lúc ấy "Hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay" nhưng mau chóng nhận lại sự khước từ của Thị. Chao ôi! Cái lúc ấy, con đường quay trở về lương thiện của Chí như bị lấp hẳn, Chí đau đớn, Chí muốn trả thù nhưng lại chỉ nhận ra "cứ thoang thoảng cái hơi cháo hành", hơi cháo hành giúp hắn nhận ra bản chất thực của cuộc sống, người gieo cho hắn nỗi đau là Bá Kiến chứ không phải Thị, kẻ khiến hắn mất tất cả là Bá Kiến, nhân hình, nhân tính, hắn bán cho Bá Kiến mất rồi, hắn bị hủy hoại rồi, hủy hoại thực sự.

Hơi cháo hành dẫn Chí đến nhà Bá Kiến. Hơi cháo cứ quấn lấy hắn, khiến hắn phải thốt lên "Tao muốn làm người lương thiện" nhưng đã muộn mất rồi, hắn chỉ chẳng còn cách nào khác, "Ai cho tao lương thiện, làm thế nào mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa" Chí chết, hắn chết trên ngưỡng cửa của sự sống và cái chết, giữa cái ác và cái thiện. Và suy cho cùng, chỉ có cái chết mới giải thoát hắn khỏi đau đớn. Và cảm ơn bát cháo hành, đã giúp hắn thức tỉnh, giúp hắn có được một chút yêu thương của kiếp này, và cũng giúp hắn chết, cái chết toàn tâm, toàn ý, chết cùng với Bá Kiến.

Đọc Chí Phèo chắc chắn ta không thể quên chi tiết bát cháo hành, chi tiết rất hay và xuất sắc, bộc lộ được một ngòi bút nhân đạo từ trong cốt tủy của Nam Cao. Người ta vẫn thấy Nam Cao lạnh lùng và tàn nhẫn với nhân vật của mình lắm, nhưng thực ra là không, Nam Cao không yêu nhân vật, không cảm thông cho Chí, sao có thể để Chí thức tỉnh được như vậy. Mỗi chi tiết đắt giá được xem như một chữ trong thơ tứ tuyệt, và chi tiết bát cháo hành xứng đáng với điều đó.

Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo 75

   Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên Chí Phèo của Nam Cao là một đứa con bị bỏ rơi trong một cái lò gạch hoang, được người ta đem về nuôi. Một sáng tinh sương, anh thả ống lươn nhặt được đứa bé mới đẻ xám ngắt đùm trong cái váy đụp vứt ở lò gạch cũ. Anh ta rước lấy đem về cho người đàn bà góa mù, bà này bán lại cho bác phó cối. Khi bác phó cối chết, hắn bơ vơ, mãi năm 18 tuổi hắn làm canh điền cho Bá Kiến.

    Lí Kiến ghen với anh canh điền trẻ lại được bà ba kêu bóp chân xoa bụng... gì đấy. Thế là một hôm, hắn bị giải lên huyện và phải đi tù.

   Sau bảy tám năm biệt tích, hắn trở về, bộ dạng khác hẳn ngày trước. Vừa về say khướt, cầm vỏ chai đến nhà Bá Kiến - bây giờ Lí Kiến đã là Bá Hộ, Nghị Viên, tiên chỉ làng Vũ Đại - chửi bới, rạch mặt ăn vạ. Lão Bá Kiến đã dùng kế "dùng thằng đầu bò trị thằng đầu bò", đưa cho Chí Phèo một đồng bạc và cho hắn một bữa rượu. Một tên khát rượu như Chí đương nhiên sẽ thấy hài lòng, Chí hả hê đi về và từ đó trở thành tay sai cho Bá Kiến. Cả làng Vũ Đại sợ con quỷ dữ là Chí Phèo, hắn chỉ biết uống rượu say mèn, đập phá làng xóm, không để cho ai yên ổn cả. Cuộc đời Chí cứ như vậy mà qua đi...

   Cho đến một đêm, Chí uống rượu say quá, mới lảo đảo đi nghỉ thì thấy Thị Nở đang nằm há miệng ngủ, hắn lao tới âu yếm và làm tình với Thị. Thị là một người con gái xấu ma chê quỷ hờn nhưng cũng có tấm lòng thương người, sáng hôm sau Thị đã nấu cho Chí Phèo bát cháo hành để Chí tỉnh rượu. Lần đầu tiên hắn được ăn cháo hành lại do bàn tay một người đàn bà cho. Hắn bâng khuâng nhớ lại một thời trai trẻ, hắn muốn cùng thị làm thành một cặp rất xứng đôi. Chí Phèo thèm lương thiện.

   Thị nghĩ rằng cần phải hỏi ý kiến bà cô nhưng khi Thị hỏi thị bị bà cô chửi cho vào mặt, bà cô không đồng ý cho Thị và Chí Phèo. Chí Phèo ôm mặt khóc rưng rức, chỉ biết lủi thủi đi về

   Cả làng Vũ Đại này không cho Chí được sửa sai, được thay đổi cuộc đời mà làm người lương thiện. Chí đã tìm đến người khiến cho cuộc đời mình ra nông nỗi này là Bá Kiến. Chí Phèo giết Bá Kiến và cũng tự sát. Kết cục đau thương cho cuộc đời của nhân vật này.

Bài tóm tắt Chí Phèo 76

Chí Phèo vốn là đứa trẻ mồ côi, không cha mẹ bị bỏ rơi trong một cái lò gạch. Cuộc đời hắn được di chuyển từ người này đến người khác từ bà góa mù cho đến bác phó cối. Đến khi bác phó cối mất đi hắn trở thành kẻ không người thân. Không người thân thích, không gia đình hắn đến nhà Bá Kiến làm canh điền.

Chỉ vì một lần hầu hạ vợ của Bá Kiến mà Chí Phèo phải vào tù. Khi ra tù tính tình của hắn của trở nên thay đổi và biến thành con người khác, người Chí Phèo lúc nào cũng say khướt và trở thành một tay dữ tợn lúc nào không hay. Hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến, cuộc đời hắn giờ đây chỉ toàn là những lần đi đòi nợ thuê, tiếng chửi rủa và sự ghê sợ của người dân làng Vũ Đại.

Chí Phèo trong một lần uống rượu say đã gặp Thị Nở – một người phụ nữ xấu “ma chê quỷ hờn”, hai người đã có tình cảm với nhau và Chí Phèo cảm động khi được Thị Nở chăm sóc và đút cho ăn bát cháo hành. Trong thâm tâm Chí Phèo muốn trở về một người lương thiện và sống chung với Thị Nở nhưng thật nghiệt ngã khi bà cô Thị Nở không chấp nhận hắn, Thị Nở và cả xã hội như từ chối hắn trở về với con người lương thiện.

Chí Phèo trở nên thật điên cuồng, hắn uống thật say và càng say hắn nhận ra bi kịch của cuộc đời, hắn tìm đến nhà để giết Bá Kiến, sau đó Chí Phèo tự kết liễu đời mình, một cái chết thật bi thảm và đó là điều đã được dự đoán từ trước.

Bài tóm tắt tác phẩm 77

Chí Phèo xuất thân không cha không mẹ, hắn được một bà góa mù nuôi dưỡng và sau đó đó là bác phó cối. Đến khi bác phó cối chết hắn tứ cố vô thân lang thang khắp nơi. Sau khi ở chỗ nhiều nhà hắn trở thành canh điền cho nhà Bá Kiến, tính cách Chí Phèo lúc này hiền lành, thật thà.

Mụ vợ nhiều lần muốn gần gũi Chí Phèo nên tìm cách tiếp cận, Bá Kiến ghen tuông tìm cách đẩy Chí Phèo vào tù. Sau quãng thời gian ở trong tù, Chí Phèo ra tù và trở về làng với bộ dạng khác không còn tính cách hiền lành như xưa mà hắn đã trở thành một tay anh chị khét tiếng. Hắn làm bạn với rượu và trở thành tên tay sai chuyên đi đòi nợ thuê cho Bá Kiến, cứ như vậy dần dần hắn trở thành nỗi khiếp sợ của người dân làng Vũ Đại.

Tình cờ hắn quen được Thị Nở người phụ nữ xấu xí hắn cảm mến Thị Nở và đã ăn nằm với Thị Nở, gần sáng Chí bị cảm và người đàn bà này đã chăm sóc đút cho hắn thìa cháo hành.  Sự chăm sóc chân thành của Thị Nở đã làm Chí Phèo bừng tỉnh. Hắn muốn được cùng Thị Nở trở thành một cặp, hắn muốn trở lại thành con người lương thiện như trước đây. Nhưng bà cô Thị Nở không chấp nhận một kẻ “đầu đường xó chợ” như hắn và kiên quyết từ chối. Thị Nở cự tuyệt, xã hội ruồng rẫy, hắn lao đầu vào rượu nhưng thật kì lạ càng uống hắn càng tỉnh, càng nhận ra cuộc đời đang là những chuỗi ngày bi kịch. Hắn tìm đến Bá Kiến, nhanh chóng giết hắn và sau đó tử tự để kết thúc cuộc đời.

Tóm tắt tác phẩm78

Chí Phèo không cha, không mẹ, khi mới sinh ra bị bỏ rơi trong một cái lò gạch cũ ngoài đồng. Anh đi thả ống lươn thấy Chí mang về cho bà góa mù nuôi, bà góa mù bán Chí cho bác phó cối không con. Đến tuổi trưởng thành, Chí đi ở cho nhà ông Bá Kiến, ông Bá Kiến có người vợ ba, thường xuyên bắt Chí đến bóp chân, ông Bá ghen tuông nên đẩy Chí đi tù.

Khi ở tù về, Chí thay đổi hoàn toàn về ngoại hình, cái đầu trọc, trên người đầy những vết xăm trổ,  tính cách Chí cũng không hiền lành như xưa nữa mà luôn uống rượu say rồi chửi trời, chửi đất, chửi làng Vũ Đại, chửi người sinh ra hắn… Một hôm, Chí đến nhà cụ Bá Kiến, lên tiếng chửi rủa, bị Lý Cường, con Bá Kiến đánh, Chí rạch mặt ăn vạ. Bá Kiến về, dùng giọng điệu ngọt ngào với Chí rồi thết đãi gà, rượu, đãi Chí thêm vài đồng bạc để mua thuốc khiến hắn hả hê lắm.

Một hôm khác, Chí Phèo lại đến nhà Bá Kiến xin cho đi ở tù nếu không sẽ đâm chết một vài thằng để đi ở tù. Bá Kiến biết trong số những thằng mà Chí muốn đâm có mình nên khôn khéo bảo Chí đến nhà đội Tảo, một người vai vế trong làng, đối chọi với Bá Kiến đòi tiền nếu đòi được sẽ có vườn. Chí Phèo đến nhà đội Tảo, may mắn cho Chí hôm đó đội Tảo bị ốm, bà đội đưa tiền cho hắn trả Bá Kiến vì không muốn Chí đang say rượu sinh sự. Đòi được tiền quá dễ dàng, Chí tự hào “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”, được Bá Kiến cho năm sào vườn,  Chí Phèo vô tình trở thành tay sai cho Bá Kiến.

Hơn mười năm sau đó, là tay sai của Bá Kiến, Chí lúc ức hiếp, lúc phá phách, lúc đâm chém, hắn đã đập nát bao nhiêu cơ nghiệp, đạp đổ bao cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tất cả người dân trong làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua.

Một hôm Chí Phèo uống rượu say, mò về túp lều của hắn ngủ nhìn thấy Thị Nở (một người dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn ở làng Vũ Đại) đi lấy nước nằm ngủ trong vườn chuối. Họ ăn nằm với nhau, nửa đêm Chí bị cảm, Thị Nở dìu Chí về túp lều của hắn. Sáng hôm sau, Thị mang sang cho Chí một bát cháo hành khiến hắn vô cùng cảm động. Chí Phèo tỉnh ra, lương thiện trong hắn cũng trỗi dậy, hắn mơ về một gia đình nhỏ chồng cày cuốc, vợ dệt vải…Nhưng Thị Nở là người dở hơi, ở với Chí đến ngày thứ năm, Thị nhớ ra bà cô đi xa hôm nay sẽ về lên nghĩ dừng yêu để về hỏi bà cô đã.

Khi Thị nói chuyện yêu đương Chí với bà cô, bà cô Thị gạt phắt, mắng Thị lấy ai không lấy lại đi lấy Chí Phèo. Thị Nở tức lắm, chạy sang nhà Chí lúc này đang uống rượu và lầm bầm chửi Thị, Thị càng tức hơn, Chí Phèo ngẩn ra chạy theo Thị nhưng bị Thị dúi thêm cho một cái ngã chỏng quèo.

Đau đớn vì một sự hi vọng hạnh phúc nhen nhúm bỗng nhiên bị dập tắt, Chí Phèo uống say định đến nhà Thị tính sổ. Nhưng bước chân đưa Chí đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Kết thúc truyện, Chí Phèo không đòi được lương thiện, đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình. Thị Nở nghe tin Chí Phèo chết, sờ bụng và nghĩ đến một cái lò gạch bỏ không, xa đường cái và vắng người qua lại.

Cảm nghĩ về cảnh kết thúc truyện Chí Phèo 79

Truyện ngắn Nam Cao trước cách mạng tháng Tám là thế giới của những số phận bi thảm, nhưng bi kịch đầy xót xa của những kiếp dân cày cùng cực trong xã hội thực dân phong kiến. Chính ở đó, tôi đã gặp, đã biết và đã khóc cho số phận con người - Chí Phèo (Truyện “Chí Phèo”) Người ta gọi Chí Phèo là một thằng lưu manh, côn đồ một gã « đầu bò”, một quỷ dữ. Cả cái làng Vũ Đại sợ Hắn, ghê tởm hắn như thể hắn chui từ địa ngục lên chứ không phải ở tù ra. Mà nói cho cùng thì nhà tù thời ấy nào có khác gì địa ngục. Cũng toàn những kẻ “đầu trâu mặt ngựa”, với những thủ đoạn, mưu mô đủ để biến một chàng trai lực điền khỏe mạnh thành kẻ có bộ dạng “trông gớm chết!”: đầu “trọc lốc”, răng “trắng hớn”, cái mặt “cơng cơng” chằng chịt những vết sẹo ngang, sẹo dọc. Bi kịch của Chí Phèo có lẽ bắt đầu từ cái ngày bà ba trẻ đẹp của ông Lý Kiến bắt hắn lên “bóp chân”, “xoa bụng”, “đấm lưng” mà ông Lý lại được cái “khỏe ghen”. Vậy là làng Vũ Đại mất đi một anh canh điền hiền lành rồi thay vào đó là kẻ lưu manh Chí Phèo. Hắn cứ sống vất vưởng, côn đồ, quậy phá, ăn vạ, say sưa như thế cho đến ngày gặp Thị Nở. Cứ tưởng rằng đau khổ của Chí sẽ chấm dứt, cuộc đời đang ở bên kia dốc của Chí sẽ ấm lại với “bát cháo hành bốc khói”, với tình yêu thương quê mùa, chân chất, đơn giản của một người đàn bà cũng không kém phần giản đơn, quê mùa như thế. Nhưng trời ơi, đó lại là khởi đầu của một bi kịch mới - bi kịch lớn nhất, thảm nhất, xót xa nhất trong đời Chí Phèo! Chính cái lúc Chí tỉnh rượu, lúc chí cảm nhận được sống ấy, tình yêu ấy cũng là lúc Chí nhận ra một sự thực đau lòng: cuộc đời không dang tay đón Chí, không chấp nhận cho Chí làm lại “con người lương thiện”, không cho Chí một con đường về... Đau đớn quá! Đoạn kết trong tác phẩm chính là cao trào của bi kịch ấy.

Chí lại uống rượu, nhưng càng uống, càng tỉnh, càng buồn. Cảm giác “buồn” đã có một thời gian trong cuộc đời Chí bị chìm vào quên lãng, nay trở lại trong tâm hồn hắn càng lúc càng thấm sâu để rồi trở thành nỗi đau tê dại, điên cuồng của một con người bị chính xã hội loài người chối bỏ. Nỗi đau ấy quá sức chịu đựng của Chí. Nỗi đau ấy dẫn Chí thẳng đến ngõ nhà Bá Kiến rồi “xông xông đi vào” với con dao ở thắt lưng. Chí làm cụ Bá thấy bực mình. Cụ chỉ muốn tống hắn đi cho chóng nên đã móc sẵn năm hào. Nhưng than ôi, mấy lần năm hào của cụ thì nào có thấm tháp gì so với nỗi đau khổ triền miên mà Chí Phèo đã từng chịu đựng. Chí đến gặp cụ với bộ dạng của một thằng say nhưng với trí óc và tâm hồn của một người tỉnh táo - một con người vừa ý thức được sự “không tồn tại” của mình. Chí dõng dạc nói:

- “Tao không đến đây xin năm hào”.

- “Tao đã bảo tao không đòi tiền”.

- “Tao muốn làm người lương thiện”.

Cả đời, chưa bao giờ Chí Phèo dõng dạc như thế, dứt khoát như thế, kiêu hãnh và đầy tự tin như thế. Phải chăng anh canh điền 20 tuổi khỏe mạnh và đầy lòng tự trọng của ngày trước đã trở về? Trở về để đòi lại thứ quí giá nhất của đời mình. Nhưng muộn rồi, Chí Phèo ơi! Xã hội không cho hắn trở về. In dấu trong suy nghĩ, trong tiềm thức của dân làng Vũ Đại, hắn là một “con quỷ dử”. Và cho dù hắn đã tìm lại được lương thiện của mình người ta cũng vẫn chỉ coi hắn là một thằng bất lương thôi. Người ta không thể nhét vào đầu cái suy nghĩ: “Chí Phèo lại là người lương thiện”. Ngay cả Bá Kiến, đến khi chết dưới lưỡi dao của hắn cũng chẳng thể ngờ được điều đó kia mà. Chính vì thế, hắn không thể sống còn. Thương cho Chí Phèo, đau khổ cả một đời, đến lúc chết cũng không thoát khỏi sự đau khổ ấy. Cái chết của hắn đầy thê thảm, bi đát. Chí Phèo “giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi”, mắt “trợn ngược”, mồm “ngáp ngáp, nhưng không ra tiếng”... Tôi vẫn nghĩ đó là cái chết đầy uất ức. Chí đã được ai trả lời cho câu hỏi lớn của đời mình đâu? “Ai cho tao lương thiện?”. “Ai cho tao lương thiện?”... Câu hỏi ấy ngàn đời còn vang lên. Chí vẫn còn muốn hỏi, muốn nói, muốn kể tội những kẻ đã đầy đọa, đã bóp méo cuộc đời Chí ư? Những Chí Phèo ơi, Bá Kiến và cả làng Vũ Đại làm sao trả lời câu hỏi ấy cho anh đây?


Hình ảnh Chí Phèo quằn quại trong vũng máu mãi mãi là nỗi thương tâm của mọi người.

Cái chết của Chí Phèo cũng là đoạn kết cho tấn bi kịch của những người dân cày cùng cực dưới xã hội “một cổ hai tròng”. Họ không chỉ là những người cùng cực bình thường. Họ còn là những người bị lưu manh hóa, bị tha hóa. Tôi chưa bao giờ muốn gọi Chí Phèo là một thằng lưu manh. Tôi gọi anh là “người - nông - dân - bị - lưu - manh - hóa”. Trở thành lưu manh không phải lỗi của hắn mà là tội của bọn cường hào ác bá đã đẩy con người đến bước đường cùng không lối thoát. Nam Cao hẳn cũng buồn lắm khi không thể mở ra cho nhân vật của mình một con đường, mặc dù ngòi bút của ông khi viết về cuộc đời và cái chết của Chí Phèo có vẻ lạnh lùng, dửng dưng như thể cái chết đó là một điều tất yếu vậy. Cái hay, cái tài của Nam Cao là ở chỗ đã đưa một kẻ đang bị nhận chìm trong vũng bùn của tội lỗi - một con quỷ dữ - vụt đứng dậy trong tư thế của một con người, đầy tình cảm của độc giả từ cao trào của sự ghê tởm, căm ghét, khinh bỉ sang đỉnh điểm của lòng thương cảm, xót xa mà không hề gượng ép chút nào. Sự chuyển đổi cảm xúc ấy diễn ra đầy tự nhiên, không gò bó. Chính nhờ Nam Cao mà Chí Phèo đã có được sức sống mạnh mẽ đến vậy trong lòng độc giả.

Đau lòng và đau đớn lắm dù biết rằng những gì cảm nhận được về cuộc đời cũ vẫn còn ít ỏi lắm, nhỏ bé lắm, hữu hạn lắm!

Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo từ một nông dân hiền lành, chất phác thành con người tha hóa cả tâm hồn lẫn ngoại hình. Tuy vậy Chí Phèo vẫn còn nhân tính. 80

Chí Phèo một trong những đỉnh cao của Nam Cao, cũng như của văn học hiện thực Việt Nam viết về đề tài người nông dân. Nhân vật chính của truyện ngắn là Chí Phèo, từ một người nông dân lương thiện, hiền lành, chất phác, Chí Phèo đã bị tầng lớp thống trị và nhà tù thực dân làm cho tha hóa cả về nhân hình lẫn nhân tính. Nhưng bản chất lương thiện trong chí vẫn luôn tồn tại. Quá trình đó đã được Nam Cao mô tả bằng ngòi bút hết sức tinh tế và tài hoa.

    Chí Phèo sinh ra đã là một đứa trẻ bất hạnh, vừa cất tiếng khóc chào đời đã bị mẹ bỏ rơi ở cái lò gạch cũ, Chí được anh thả ống lươn mang về nuôi, sau đó chuyển qua bà góa mù, rồi bác phó cối. Chí Phèo lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của dân làng. Mặc dù phải sống lang bạt, nhưng Chí Phèo khi lớn lên vẫn là con người hết sức lương thiện. Chí đi làm thuê ở gia đình bá Kiến, và trong cuộc sống thanh bình đó, Chí đã từng mang trong mình mơ ước, có một gia đình nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, nếu có tiền thì mua mảnh đất để làm. Mơ ước thật bình dị, nhỏ bé, đó là mơ ước của bất cứ người nông dân nào. Họ chỉ mong muốn có cuộc sống bình yên, giản dị.

Nhưng cuộc đời đối với Chí lại không bằng phẳng như thế. Làm việc tại nhà bá Kiến, Chí bị bà ba để ý, bắt bóp chân, điều đó làm Bá Kiến vô cùng căm hận, hắn ta từng mong muốn bỏ tù tất cả những thằng trai trẻ ở làng. Và Chí Phèo là một trong những nạn nhân của cơn ghen cuồng mù quáng ấy. Chính bọn cầm quyền và nhà tù thực dân đã nhào nặn, biến hóa một người nông dân chân chất, hiền lành trở thành một kẻ tha hóa cả về nhân hình và nhân tính.

    Sau bảy tám năm đi tù về, Chí Phèo biến đổi hẳn về ngoại hình, trông hắn như thằng săng đá, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt câng câng, người săm trổ đầy hình trông đến gớm. Hình hài hiền lành của Chí đã bị phá hủy. Không chỉ vậy, nhân tính của hắn cũng bị đập nát. Hắn trở về lấy nghề rạch mặt ăn vạ để sống qua ngày. Ngày đầu tiên ra tù, hắn đến ngay nhà bá Kiến để ăn vạ, nhưng nào ngờ lại bị những lời phỉnh nịnh của tên cáo già ru ngủ, Chí Phèo trở thành tay sai của bá Kiến. Chỉ cần có hơi men Chí Phèo có thể làm bất cứ việc gì được sai khiến: đốt nhà, giết người,… Chí Phèo đã phá hủy hạnh phúc biết bao gia đình, hắn ta trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Người ta tránh Chí như tránh hủi, mọi lời hắn chửi người ta luôn tự nhủ thầm hắn chừa mình ra. Tiếng chửi phẫn uất của Chí là một hình thức giao tiếp đặc biệt, một niềm khao khát tột cùng được giao tiếp, được hòa nhập cùng với cuộc sống của con người. Sự tha hóa của Chí Phèo không phải là một điều ngẫu nhiên mà nó là hệ quả tất yếu, là con đẻ của xã hội thực dân phi nhân tính đã hủy hoại không chỉ hình dáng mà còn hủy hoại nhân phẩm của con người.

 Nhưng cuộc đời Chí chưa dừng lại ở đó, gặp Thị Nở như một cột mốc đánh dấu và cho Chí biết rằng bản thân mình vẫn chưa tha hóa đến độ mất đi hoàn toàn nhân tính. Trong một lần say rượu, tình yêu giữa Chí Phèo và thị Nở nảy sinh, Chí Phèo ốm và nhận thức ra rất nhiều điều về cuộc sống về chính bản thân mình. Chí nghe thấy những âm thanh quen thuộc, mà bấy lâu nay trong hơi men hắn không còn nghe thấy nữa, hắn nhớ về mơ ước nhỏ bé giản dị của mình và đau đớn nhận ra mình đã đi sang cái dốc bên kia của cuộc đời mà vẫn cô đơn. Nào chỉ cô đơn không thôi, hắn còn bị cả xã hội gạt ra ngoài lề, coi như một con quỷ chứ không phải là một con người. Lần đầu tiên hắn biết đến vị cháo hành và nhận ra nó ngon đến kì lạ: “những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành rất ngon. Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo hành?”. Hắn nhìn thị Nở bằng đôi mắt thật hiền, đôi mắt hàm ơn và đôi mắt rơm rớm nước. Giọt nước mắt này chính là giọt nước mắt đánh dấu sự trở về của nhân tính trong Chí. Chí không chỉ nhận thức được về bản thân mà còn dấy lên khao khát hạnh phúc, thèm được làm hòa với mọi người: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Và chính Thị Nở sẽ là người mở đường cho hắn được trở về hòa nhập với cộng đồng. Như vậy phần nhân tính trong Chí chưa bao giờ bị mất đi, nó chỉ bị những cái độc ác, xấu xa của xã hội che khuất mất, chỉ cần có tình yêu thương, sự bao dung tất yếu phần người ấy sẽ quay trở về. Khao khát được làm người lương thiện, được hòa nhập với mọi người là khát khao, mong ước chính đáng của Chí Phèo.

  Nhưng cuộc đời thật biết trêu đùa với Chí, ngay khi phần nhân tính trở về thì Chí một lần nữa bị cự tuyệt quyền làm người. Thị Nở nghe lời của bà cô, đã đến nhà Chí mà sỗ sàng nói thẳng vào mặt, nó như một gáo nước lạnh, dội thẳng vào ngọn lửa hi vọng của Chí. Đau đớn, tuyệt vọng Chí xách dao vao mục đích ban đầu đến giết chết cả nhà con Nở, nhưng vì quen chân, vì Chí đã mơ hồ nhận ra kẻ thù của mình, nên Chí Phèo đã đến nhà bá Kiến. Hắn cao giọng đòi lương thiện, nhưng đồng thời Chí cũng nhận thức rõ: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể làm người lương thiện nữa?”. Rồi hắn rút dao giết chết bá Kiến và tự kết liễu chính mình. Cái chết của Chí là biểu hiện cao nhất khi nhân tính không bị mất đi. Nhân tính khi đã quay trở lại không cho phép Chí Phèo tiếp tục làm nghề rạch mặt ăn vạ, không cho phép Chí làm con quỷ dữ của làng Vũ Đại nữa. Nhưng đồng thời Chí cũng không thể quay trở lại với xã hội, vì đã bị mọi người cự tuyệt. Cái chết là lựa chọn duy nhất để bảo tồn chút nhân tính ít ỏi không bị ăn mòn bởi những bất công của cuộc đời. Cái chết của Chí là một đòn mạnh mẽ, lên án, tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời đã đẩy con người vào bước đường cùng.

    Xây dựng quá trình từ lương thiện đến tha hóa đến sự trở về của nhân tính trong nhân vật Chí Phèo cho thấy nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật miêu tả tâm lí bậc thầy trong ngòi bút của Nam Cao. Nghệ thuật trần thuật đảo ngược thời gian gây ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc. Ngôn ngữ giản dị mà hàm súc, sâu sắc.

    Qua quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã bộc lộ niềm cảm thương sâu sắc với số phận của những người nông dân bất hạnh, bị đẩy đến bước đường cùng bị tha hóa. Nhưng đồng thời cũng thể hiện niềm tin tưởng của Nam Cao vào nhân cách, thiện tính trong người nông dân hiền lành, chất phác. Không chỉ vậy, còn là tiếng nói phê phán sâu sắc với chế độ thực dân nửa phong kiến đương thời đã đẩy con người đến bước đường cùng. Tác phẩm để lại giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

Bài văn phân tích nhân vật Chí Phèo 81

Khi nhận định về các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung cho rằng: “Trong mảnh sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ. Chính vì thế mà một số người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam Cao, có biết đâu rằng, chính với đám nhân vật “có vấn để” đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất”.

Và nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là một nhân vật “có vấn đề” như thế, nhưng chính những lời văn mà tác giả viết về nhân vật này và những bi kịch mà y phải chịu đựng đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm mà Nam Cao muốn gửi gắm qua nhân vật này.

Chí Phèo có một tuổi thơ thật bất hạnh: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo đã là một đứa con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha mẹ mình là ai. Chí lớn lên nhờ sự đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi ở hết nhà này đến nhà nọ. Cứ như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân nghèo khổ nhưng hiền lành. Chí cũng có ước mơ riêng của mình, đó là có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”.

Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ ngoại hình mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành. Nhưng rồi Chí đi làm cho nhà Bá Kiến và cũng chỉ vì chuyện ghen tuông vớ vẩn Chí bị đẩy vào tù, sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng giờ đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ ngoại hình cho đến tính cách.

Ngoại hình của Chí thật đáng sợ: cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết. Ngoại hình ấy ẩn chứa một tính cách đã hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như đất” nữa mà giờ đây hắn chuyên đi đập đầu, rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để bầu bạn với mình và rồi trong cơn say hắn đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng kết quả của cả hai lần là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ” bằng rượu, thịt và tiền.

Và rồi từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai là kẻ thù của cuộc đời mình và lại tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sẵn, hắn vào tù vì Bá Kiến và rồi khi ra tù lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho chính kẻ thù của mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.

Cứ thế, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm gì ngoài việc rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Cuộc đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”.

Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Cuộc đời hắn đã xem như là bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản thân hắn cũng quên sự có mặt của hắn ở trên đời.

Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh. Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh sáng của lương tâm, lương thiện chỉ cần có cơ hội thôi là sẽ bừng sáng. Và Nam Cao đã cho Chí một cơ hội để ánh sáng ấy có dịp bừng lên, đó là cho Chí được gặp gỡ với Thị Nở. Chính cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí.

Được Thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay nào hắn có thấy ai tự cho ai cái gì, hắn phải dọa nạt hay cướp giật mới có. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, hắn bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ và cùng với đó là khát vọng được sống một cuộc sống khác, được hòa nhập cùng mọi người, họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hắn tự đặt ra câu hỏi cho mình: hắn có thể làm bạn được sao lại chỉ gây thù? Thị Nở chính là người mà Chí đặt niềm tin vào, Chí tin Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối giúp Chí trở về với cuộc sống đó.

Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được nhen nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của bà cô: “đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn đau xót nhận ra rằng sẽ chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống của những người lương thiện nữa.

Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.

Và cuối cùng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến thành tột đỉnh của sự căm thù, uất hận. Chí thấy kẻ thù trước mắt cướp đi tình yêu của hắn chính là bà cô Thị Nở nhưng trong sâu thẳm tâm hồn có lẽ hắn vẫn ý thức được ai mới chính là kẻ thù gây nên một chuỗi dài bi kịch của cuộc đời mình.

Hắn xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Trong sự bế tắc đến tột cùng, Chí đã tự tìm ra lối thoát cho riêng mình, đó là cái chết, chết để kết thúc tất cả bi kịch của cuộc đời Chí.

Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho số phận của người nông dân trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của mình đối với những người có số phận bất hạnh. Ở sâu thẳm trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu thương và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bài văn phân tích nhân vật Chí Phèo 82

Chí Phèo là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã khắc hoạ bức chân dung của người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát. Kết cục tha hoá lưu manh hoá là tất yếu như một sự giải thoát. Qua nhân vật Chí Phèo nhà văn đã mang đến cho người đọc những giá trị nhân văn sâu sắc mà mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.

Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”. Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chí “chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”.

Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa.

Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực “hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm 20 tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”.

Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng có ước mơ giản dị:”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải.

Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ.

Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế”.

Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những tội ác trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.

Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”.

Hắn làm những việc ấy trong lúc say ” ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”. Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám.

Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo.

Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành cho nhân vật vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc.

Con người xấu đến “ma chê quỉ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí.

Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy.

Chao ôi là buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ:”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.

Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”. Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mà mình đã làm? Chẳng biết có phải hay không mà Chí thấy lòng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất.

Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó.

Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn bà cho. Trước đây chỉ toàn là giật cướp và dọa nạt. Thì nay chính bàn tay ân cần ấy và tình yêu ấy đã làm hắn thay đổi. Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ…

Ôi sao mà hắn hiền!“. Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc sống. Đó là giây phút Chí “thèm lương thiện và khát khao làm hòa với mọi người”. Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở “hay là cậu sang đây ở với tớ một nhà cho nó vui”.

Từ một con quỉ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!

Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo.

Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu trời đêm đen của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một niềm cảm thông cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.

Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe thoang thoảng mùi cháo hành rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến.

Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu trong con người của Chí, anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:

– Tao muốn làm người lương thiện– Ai cho tao lương thiện?

Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ.

Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!

Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Sự kết hợp giữa giá trị hiện thực sắc bén và giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại.

Bài văn phân tích nhân vật Chí Phèo 83

Truyện Chí Phèo ghi nhận thành công xuất sắc nhất của Nam Cao về đề tài người nông dân, cũng là một trong những đỉnh cao nhất của trào lưu hiện thực phê phán. Thành công của hình tượng Chí Phèo chứng tỏ tài năng nghệ thuật độc đáo của Nam Cao, kết tinh giá trị hiện thực lớn lao và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này.

Bối cảnh hiện thực của truyện ngắn Chí Phèo là xã hội nông thôn Việt Nam xác xơ nghèo đói những năm bốn mươi. Trong không khí tối sầm này, không ít người nông dân bị xô đẩy vào con đường bần cùng, lưu manh, không ít người phải điên khùng, liều lĩnh mà tồn tại. Tính cách Chí Phèo mang ý nghĩa điển hình cho lớp người ấy trong thời buổi xã hội ấy.

Bước vào tác phẩm ta bắt gặp ngay Chí Phèo ngất ngưởng vừa đi vừa chửi. “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi…”. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao để Chí Phèo xuất hiện bằng tiếng chửi. Chí Phèo chửi ai? Chí Phèo trời, chửi đời nghĩa là y đối lập với tạo hóa, với xã hội.

Chí Phèo chửi cà làng Vũ Đại nghĩa là y đối lập với quê hương. Chí Phèo chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn nghĩa là y đối lập với tất cả (vì có đứa nào chửi nhau với hắn đâu!). Chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn để hắn phải khổ đến nỗi này nghĩa là Chí Phèo tự đối lập lại nguồn gốc, sự tồn tại của mình. Những mong tìm mối dây liên hệ với xã hội chỉ bằng tiếng chửi mà không thể có. Chí Phèo tồn tại như một con vật. Ấy là một kẻ lưu manh, liều lĩnh trong tình cảnh cô độc tuyệt đối.

Ngay từ khi được sinh ra, Chí Phèo đã bị ném khỏi nhà,cuộc sống, chỉ trông mong vào lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Trong làng Vũ Đại, Chí Phèo là “một thằng cùng hơn cả dân cùng; không cha không mẹ, không thước đất cắm dùi”. Cả đời Chí Phèo “chưa bao giờ được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà”, đến nỗi mơ ước chung sống với một người phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn cũng không đạt được.

Chí Phèo tồn tại trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người. Và Chí Phèo chết đi cũng trong sự cô độc. Không gì độc, tủi nhục hơn khi chết mà không được lấy một giọt nước mắt, chết mà người ta mừng! Mong ước trở lại làm người của Chí Phèo đã bị cự tuyệt, bị xã hội từ chối phũ phàng. Số phận khốn khổ ấy của Chí Phèo tiêu biểu cho số phận của cả một lớp người cố cùng dưới đáy xã hội cũ.

Hiện tượng Chí Phèo vô cùng độc đáo nhưng không phải ngẫu nhiên, cá biệt. Thông qua tính cách điên khùng, số phận bi thảm của Chí Phèo, tác phẩm đã khái quát lên quy luật tha hóa con người nghiệt ngã của xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái gì đã đẩy Chí Phèo vào con đường tội lỗi? Ai đã biến Chí Phèo thành con quỷ dữ làng Vũ Đại?

Cái con quỷ dữ ấy đã từng có một thời gian làm người hiền lành, lương thiện. Từ tuổi thơ “bơ vơ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác” đến tuổi thanh niên “làm canh điền cho ông Lí Kiến” Chí Phèo sống cuộc đời lao động cực khổ của người cố nông ở nông thôn. Anh nông dân hiền lành ấy đã từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc giản dị trong lao động.

Tuy còn trẻ trung, anh cũng phân biệt được tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu xa; bị bà Ba gọi lên bóp chân, anh “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Nhưng bản chất trong trắng, lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo đã bị bọn cường hào và nhà tù thực dân ra sức bóp chết. Chí Phèo vô cớ bị đẩy đi ở tù và bảy, tám năm sau về làng, hắn đã thành người khác hẳn.

Về giữa cái làng Vũ Đại chật chội mà bao thế lực xâu xé nhau, một thước đất cấm dùi không có, Chí Phèo biết làm gì để sống. Không thể hiền lành mà muốn sống – oái oăm thay – phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều lĩnh, phải gan góc. Những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Người ta đây chính là Bá Kiến – kẻ ăn tiên chỉ làng Vũ Đại, kẻ lọc lõi, gian ngoan vô cùng trong nghề bóc lột.

Chúng ta còn nhớ lần thứ nhất Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau hôm đi ở tù về. Dẫu bằng tiếng chửi, bằng vỏ chai rạch mặt ăn vạ, dù sao lần này Chí Phèo còn đến đế trả thù, còn mường tượng ra kẻ thù. Nhưng đến khi từ nhà cụ Bá về với tâm trạng thỏa thuê, với đồng bạc trong tay, đặc biệt từ lần đòi được nợ ở nhà đội Tảo (nhờ sự may mắn tình cờ) thì Chí Phèo đã dần trở thành công cụ mù quáng trong tay Bá Kiến.

Chí Phèo đã bán đi cả nhân phẩm lẫn nhân hình để tồn tại và tồn tại như một con vật. Hiện tượng Chí Phèo tiêu biểu cho sự tha hóa phổ biến trong xã hội tàn phá ghê gớm con người. Khi những người nông dân vốn lương thiện mà dốt nát, tăm tối bị rơi vào tình trạng bần cùng hóa thì dễ uất ức mà trở thành những “kẻ cô’ cùng liều thân”.

Gặp kẻ thống trị xảo quyệt, sự liều thân cô độc này rất dễ bị lợi dụng, mua chuộc để biến thành sự phá hoại mù quáng. Rốt cuộc, họ lại trở thành “đày tớ tay chân” cho kẻ tử thù. Đó là một quy luật đầy mỉa mai, chua xót trong xã hội cũ. Sức mạnh phê phán, ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo chính là ở chỗ đó.

Một hình tượng điển hình đầy sức sống bao giờ cũng là một “con người này” (theo cách nói của Hêghen). Ấy là một cá tính độc đáo, rõ nét, một gương mặt không thể lẫn. Hình tượng Chí Phèo vừa mang tính khái quát cao, tính phổ biến sâu rộng đồng thời mang những nét riêng độc đáo. Mấy ai có “lai lịch” lạ lùng như Chí Phèo.

Mấy ai lớn lên với cảnh ngộ tội nghiệp như con người này. Chí Phèo là một cuộc đời rất riêng ngay từ khi sinh ra, lớn lên cho đến lúc chết đi. Chí Phèo độc đáo từ ngoại hình đến tiếng chửi, đến cách hành động. Một bộ mặt không hẳn ra con người; không hẳn ra con vật, đầy những vằn ngang vạch dọc do những lần đâm chém, cào rạch ăn vạ. Một lối chửi rủa điên khùng, uất ức thật … Chí Phèo.

Cũng thật Chí Phèo từ cách uống rượu đến lối toan đốt quán khi không được uống chịu, thậm chí đến lô’i “ướm lời” với Thị Nở và cách đâm chém kẻ thù rồi tự kết liễu đời mình. Hình tượng Chí Phèo gây ấn tượng thật sâu đậm đối với người đọc. Mặt tiêu biểu, khái quát của số phận Chí Phèo bộc lộ qua những nét cụ thể, độc đáo của y; ngược lại, những nét riêng, độc đáo trong tính cách Chí Phèo phản ánh sinh động cảnh ngộ, số phận của một lớp người.

Nhưng sự kết hợp biện chứng, hài hòa giữa hai mặt tính chung và tính riêng ở hình tượng Chí Phèo không chỉ thể hiện ở trên. Xây dựng hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã phát hiện ra và hết sức trân trọng bản chất lương thiện ở người nông dân nghèo khổ. Phần sau tác phẩm, nhân vật này được thể hiện cho một tính cách người đang hồi sinh. Trên phương diện này, Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm và sự vùng dậy phản kháng quyết liệt, tuyệt vọng nhưng rất đáng quý trọng ờ người lao động bị áp bức.

Năm ngày chung sống với Thị Nở như tia sáng lóe lên trong cuộc đời tối tăm dằng dặc của Chí Phèo để rỗi vụt tắt ngấm đưa anh ta vào cõi chết. Cuộc gặp gỡ tình cờ với Thị Nở (hai duyên số kì lạ dưới bàn tay xếp đặt khéo léo của ông mối Nam Cao) không chỉ khơi dậy bản năng sinh lí của gã đàn ông mà quan trọng hơn, đã đánh thức người cô’ nông lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp trong con quỷ dữ Chí Phèo.

Phần viết về quá trình hồi sinh cảm động của Chí Phèo và bi kịch đau đớn trong cõi tinh thần sau đó ờ anh ta trở thành những trang hay nhất của kiệt tác Chí Phèo. Nó là bài ca về sức mạnh kì diệu của tình người, của tình yêu. Sự chăm sóc ân cần của Thị Nở, bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở thật sự đã mang hương vị ngọt ngào của tình yêu khiến cho Chí Phèo lại biết khóc, biết cười như một con người.

Thị Nở đâu chỉ là tình yêu mà chính là con đường sống, là chiếc cầu dẫn Chí Phèo trở lại cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của loài người. Có hiểu hết niềm vui hồi sinh ờ Chí Phèo, có hiểu hết vai trò quan trọng của Thị Nở như thế ta mới càng thấm thía nỗi đớn đau, tuyệt vọng của Chí Phèo khi chiếc cầu kia đột ngột bị “rút ván”.

Khi bị Thị Nở đột ngột “trở mặt”, Chí Phèo ban đầu chưa thể hiểu bởi anh ta đang “say” với nguyện ước trở lại làm người. Khi chợt hiểu ra, Chí Phèo vơ lấy rượu uống. Nhưng thật lạ, lúc này càng uống lại càng tỉnh, “Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo nành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức …”. Có lẽ, trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo chỉ có một lần khóc như thế!

Người đàn ông khốn khổ đến lúc này mới được hưởng hương vị cháo hành thì chẳng thể nào quên … Không thể quay lại làm quỷ dữ nữa, Chí Phèo đành đi đến cái chết. Nhưng trước khi chết, phải trả thù kẻ thù đích thực của mình! Rốt cuộc, một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say.

Chí Phèo bằng xương bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lòng người đọc là một Chí Phèo đang lớn tiếng đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi quyền lương thiện. Diễn tả quá trình hồi sinh rồi bị cự tuyệt quyền làm người để đi đến hành động trả thù, tự sát quyết liệt ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn nhân đạo sâu sắc về con người.

Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Chí Phèo là một hình tượng vô cùng độc đáo. Cuộc đời đầy đau thương, tủi hận của Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm của tầng lớp nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa không lối thoát trong xã hội cũ, của những người cùng khổ, tăm tối dưới ách áp bức tàn bạo, xảo quyệt của giai cấp thống trị.

Với hình tượng văn học điển hình bất hủ này, Nam Cao đã lớn tiếng vạch trần bản chất tàn bạo của thứ guồng máy xã hội đè nghiến, hủy hoại con người, đồng thời thể hiện một niềm tin sâu sắc vào bản tính tốt đẹp của con người.

Bài văn phân tích nhân vật Chí Phèo 84

Nam Cao một trong những tác giả nổi bật nhất trong thời kì 1945 – 1954. Dưới ngòi bút chân thực của mình, đời sống, thân phận và những nỗi thống khổ của người nông dân được ông lột tả một cách vô cùng chân thực. Điển hình là các tác phẩm Chí Phèo, Lão Hạc, Một bữa no….

Có một điểm chung giữa các tác phẩm của ông là khi trang sách đã khép lại, người đọc vẫn mường tượng ra rõ những đau thương của số phận con người trước cách mạng tháng Tám vẫn còn ẩn khuất đâu đó, và cũng từ đây toát lên được giá trị nhân văn mà tác giả muốn truyền tải qua mỗi tác phẩm.

Chí Phèo là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã rất xuất sắc khi xây dựng lên một hình ảnh người nông bị tha hóa đến mức cùng cực bởi xã hội thực dân nửa phong kiến đầy thối nát, để rồi người nông dân ấy phải tự tìm đến cái chết như lối thoát cuối cùng của cuộc đời mình.

Chí Phèo bước ra từ trang sách không phải với sự xuất hiện bình thường, người ta nhận ra hắn bằng tiếng chửi, “Hắn vừa đi vừa chửi…” Chí “chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”. Tiếng chửi ấy chính là “liều thuốc giảm đau” của Chí giữa cuộc đời đầy nghiệt ngã lúc bấy giờ. Hắn vừa đi vừa chửi.

Chửi tất cả những đớn đau mà lẽ đời bắt hắn phải mang. Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay, nào ai đáp lại lời Chí. Hắn đang độc thoại lòng mình giữa cả xã hội, ai cũng xa lánh hắn, người ta mặc kệ hắn, bỏ mặc hắn như chính cái cách mà hắn bắt đầu cuộc đời mình từ ngày mới lọt lòng.

Nhìn lại cuộc đời của Chí, từ khi mới lọt lòng đã là đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên bằng sự cưu mang của cả làng Vũ Đại, rồi lớn lên làm anh tá điền chân chất với ước mơ bình dị như bao người thì lại bị Bá Kiến đẩy vào tù. Đến khi trở lại làng Vũ Đại, Chí đã không còn là Chí nữa. Chí bị hủy hoại từ con người đến tính cách. Chẳng còn ai nhận ra Chí của ngày xưa hiền lành, chất phác mà giờ chỉ là thằng Chí Phèo, thích gây sự với người thường, rượu tan nát, và suốt ngày chửi bới…

Người ta nhìn thấy bây giờ là gì?Ngoài một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế.

Nhà tù thực dân như cái địa ngục trần gian có thật đẩy một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Mới ngày nào người dân làng Vũ Đại còn cưu mang hắn mà giờ đây ai cũng cảm thấy căm ghét, làng Vũ Đại chẳng còn được yên bình như trước nữa. Hắn hận, hận cái cuộc đời và xã hội, yêu thương bao bọc hắn và rồi cũng đẩy hắn đến đường cùng.

Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say ” ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”.

Nam cao đã rất tài tình khi đưa Chí Phèo trải qua hết nỗi đau thương này tới nỗi đau thương khác, để rồi người đọc như hình dung ra xã hội bấy giờ khắc nghiệt đến mức như thế nào. Có lẽ Chí là một kẻ đáng thương hơn là đáng trách. Đáng nhận được đồng cảm hơn là sự xa lánh

Ngòi bút của Nam Cao vẫn dành cho nhân vật của mình những yêu thương. Ông vẫn để cho Chí Phèo nhìn thấy được yêu thương. Yêu thương cho chính Chí qua những phẫn uất mà xã hội mang đến.

Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc.Con người xấu ma chê quỷ hờn kia chính là niềm tin cho Chí bước đến cánh cửa lương thiện. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải…

Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ :”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”

Bao nhiêu mơ ước thời trai trẻ như ùa về làm thức tỉnh phần “người” trong Chí, hắn nhận ra mình cũng muốn yêu và cần được yêu, cần những điều bình dị như bao con người khác. Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng.

Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn bà cho. Trước đây chỉ toàn là giật cướp và dọa nạt. Còn ngày hôm nay, chính bàn tay ân cần ấy và tình yêu ấy đã làm hắn thay đổi. Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền?.

Vậy đó, tình yêu là phương thuốc duy nhất có thể khiến Chí trở về làm Chí, làm anh tá điền hiền lành năm nào. Và cũng chỉ có bát cháo hành của Thị Nở mới có sức mạnh cảm hóa được hắn. Bao năm qua, chưa bao giờ Chí cảm thấy mình thật sự là mình như lúc ấy. Sức mạnh của sự vị tha, của tình yêu thương con người tưởng là vô hình mà hóa ra lại vô cùng lớn lao

Nhưng rồi hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không mỉm cười với Chí. Thị Nở vừa thắp lên được chút hi vọng thì cũng chính là lúc cơn giông cuộc đời Chí ập đến. Bà cô của Thị Nở, chính là hiện thân đầy đủ của định kiến của xã hội lúc bấy giờ. Bà ta đã đến và cướp nốt đi phần lương thiện còn lại của Chí.

Chao ôi, sao mà hắn đáng thương đến tột cùng!!! Giờ thì rượu ngon hay những lời chửi thề cũng không thể khiến hắn bớt đau.Hắn nhớ, nhớ đến phát điên mùi vị cháo hành của Thị Nở, rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức.Cái xã hội ấy đến phút tận cùng vẫn cướp đi của hắn những niềm hi vọng len lỏi để trở về con đường hoàn lương.

Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong giây phút ấy, Chí nhận ra, kẻ đã lấy đi của mình tất cả chính là Bá Kiến. Hắn cướp đi tuổi trẻ của một anh tá điền chất phác. Cướp đi cuộc đời của Chí, trả lại cho Chí cái thân hình ma dại và nhân cách chẳng còn vẹn nguyên.

– Tao muốn làm người lương thiện

– Ai cho tao lương thiện?

Câu hỏi ấy như xoáy vào tận tâm can người đời. Đến khi gấp trang sách lại, chúng ta vẫn còn như day dứt ở trong lòng. Phận người trong xã hội cũ, sống trong trăm ngàn thứ khắc nghiệt bủa vậy, bị tha hóa, bị chà đạp, bị cướp đi nhân cách và phải tự kết liễu đời mình là lối thoát duy nhất.

Nam Cao đã mang đến một sự kết hợp sâu sắc giữa giá trị hiện thực đầy đau thương và giá trị nhân đạo vô cùng tinh tế. Bằng ngòi bút sắc sảo nhưng vẫn đầy tính nhân văn, tác phẩm Chí Phèo của ông đã như là tấm gương phản chiếu lại những xót xa của một tầng lớp xã hội thời bấy giờ, nhưng chất chứa trong đó vẫn là sự cảm thông đầy sâu sắc.

Có lẽ ít tác phẩm nào trong giai đoạn cùng thời lại gây được tiếng vang đến tận bây giờ như Chí Phèo của Nam Cao. Một con người mà đại điện cho cả trăm số phận khác, dù có đau thương nhưng vẫn xứng đáng được yêu thương.

Bài văn phân tích nhân vật Chí Phèo 85

“Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác trong văn xuôi đương thời, là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao. Ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo-một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam - đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao.

Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề được biết đến một bàn tay chăm sóc của phụ nữ nếu không gặp Thị Nở… Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến.

Người nông dân cùng khổ ấy không được sống ngay cả cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình. Anh đã bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng linh hồn người để trở thành một con thú dữ, và bị loại khỏi xã hội loài người.

Bản chất lương thiện của anh đã bị xã hội ra sức hủy diệt. Lão cường hào Bá Kiến vì ghen tuông đã cho giải Chí Phèo lên huyện rồi sau đó để anh Chí ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện, vô tội để rồi thả ra một Chí Phèo lưu manh, hung ác. Trở về làng, Chí Phèo trở thành một con người khác hẳn-con quỉ dữ của làng Vũ Đại.

Hắn muốn sống thì phải gây gỗ, cướp giật, ăn vạ… Muốn thế hắn phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Thế là Chí Phèo luôn say, và “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chí Phèo thay đổi cả nhân hình và nhân tính: “Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn… hai mắt gườm gườm trông gớm chết”….

Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người và xa lạ với chính anh. Chí Phèo giờ đây đã là con quỉ dữ của làng Vũ Đại “để tác quái cho bao nhiêu dân làng” , “hắn đạp đổ bao nhiêu sự nghiệp làm tan nát biết bao gia đình, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người…” Và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nữa “ai cũng tránh mặt hắn mỗi lúc hắn qua”.

Nhưng điều đặc sắc và đáng quý hơn nữa ở Nam Cao là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến chỗ tận cùng, Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn có, chỉ cần một chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy với bao điều tốt đẹp.

Sự xuất hiện của nhân vật thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma chê quỉ hờn” ấy lại là nguồn ánh sáng đã rọi vào chốn tối tăm của Chí Phèo, thức tỉnh, gọi dậy bản tính người của Chí Phèo, thắp sáng một trái tim qua bao tháng ngày bị hắt hủi.

Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ… Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét , ốm đau và cô độc-cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau… Hắn khát khao làm hòa với mọi người…”

Nhưng bi kịch và đau đớn thay con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa hé mở thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô thị Nở không cho phép cháu gái bà lấy “một thằng không cha chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Hay nói đúng hơn là định kiến xã hội đã không cho phép Chí được làm người. Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn. Hắn lại uống rượu nhưng “ càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình.

Chí Phèo tìm đến nhà Bá Kiến đanh thép kết án lão và giết chết lão, sau đó anh tự sát. Anh không muốn sống nữa vì giờ đây ý thức về nhân phẩm đã trở về. Anh không thể sống kiểu lưu manh, sống như quỉ dữ nữa. Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời. Qua hình tượng Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo của Nam Cao đã đặt ra vấn đề có ý nghĩa xã hội lớn lao.

Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám - Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch của một con người trong thời đại đen tối đã qua. Nhưng chúng ta cũng không được lãng quên mà phải ghi khắc để suy ngẫm về cuộc sống hôm nay. Điều đó nói lên giá trị lâu bền của tác phẩm và tầm vóc lớn lao của Nam Cao.

Bài văn phân tích nhân vật Chí Phèo 86

“Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam.

Bi kịch Chí Phèo là bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, bị cự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người mà không thể được. Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết lí thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay.

Nam Cao không nói về sưu thuế dã man, không nói về tô tức mà ông coi những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp, có một cái nhìn mới mẻ độc đáo, sâu sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức bóc lột tàn tệ trong xã hội thực dân phong kiến.

Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sơ sinh “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Anh thả ống lương “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”, sau đó hắn bị đem bán cho bác phó cối. Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một mái lều che thân, không một tấc đất cắm dùi “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến năm 20 tuổi thì Chí Phèo làm canh điền cho lí Kiến.

Có thể nói cái trang đời thơ ấu và thanh niên của Chí Phèo là 20 năm trời đắng cay không chốn nương thân, Bi kịch của anh canh điền này bắt đầu từ chuyện bà Ba ông lí còn trẻ lắm mà “lại cứ hay ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy”. Chí không phải là gỗ đá, nhưng hắn “thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ”.

Chỉ một chuyện ghen tuông không đâu, Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên bắt Chí giải lên huyện, bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Cái nhà tù thực dân đã biến Chí Phèo từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.

Đi tù “biệt tăm”, bỗng đâu hắn lại “lù lù lần về”. Một Chí Phèo đã hoàn toàn khác hẳn: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo táy vàng, cái ngực và cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy… Đó là hình ảnh Chí Phèo lúc ngồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt.

Hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi “mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ! Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vồ cùng ngang ngược. Tuy nhiên hắn đã nhận diện ra Bá Kiến là kẻ thù của mình. Nhưng chỉ một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho “Chí Phèo vô cùng hả hê”.

Hắn mơ hồ về chuyện hắn “còn có họ” với lí Cường nữa đấy! Mấy hôm sau, Chí lại dở trò lưu manh đốt quán mụ bán rượu, lại vác dao đến nhà cụ Bá xin đi ở tù “bẩm quả đi ở tù sướng quá!”. Chỉ sáu ngày sau khi Chí về lại làng, hắn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai sinh sự: “Cái mặt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật”. Hắn nghiên răng năm dọa: “… con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”.

Cụ Bá cười khanh khách, vỗ vai Chí Phèo một cái, hắn như bị thôi miên, rồi vác dao đến nhà đội Tảo đòi nợ cho cụ Bá. Chẳng xảy ra chuyện đổ máu. Chí Phèo vênh vênh cầm năm chục đồng bạc ra về, tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Từ đó Chí Phèo trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Thế là Chí có nhà, có năm sào vườn ở bãi sông, năm đó hắn hăm bảy, hăm tám tuổi.

Cũng kể từ đấy, Chí mất phương hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến. Hắn đã bán mình cho quỷ dữ, và chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm. Hắn chìm ngập vào vũng bùn tăm tối, tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”.Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?”.

Bộ mặt Chí Phèo giờ đây như “cái mặt của con vật lạ” với màu “vàng vàng mà muốn xạm màu gio” với bao nhiêu là sẹo “vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai ăn vạ kêu làng! Cuộc đời hắn chồng chất tội lỗi “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”. Hắn đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông.

“Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém và cướp giật cần gan và liều mạng, hắn đã tìm đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại : “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiều cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người lương thiện”.

Chí Phèo đã bị cả xã hội ruồng bỏ. Cái thẻ có biên tên tuổi hắn cũng không có; trong sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả dân làng đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Hắn chửi, ai cũng nghĩ “mặc thây cha nó”, ai cũng chẳng thèm nghe, khác nào “những người say rượu hát”. Hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” gây cho người đọc nỗi ám ảnh về bi kịch của một người điên khùng, mất trí đang trải qua nỗi cô đơn tuyệt vọng.

Hắn chửi tuốt, chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn, “tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chỉnh hắn!”. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. Hắn bị bao vây bởi một “sự im lặng đáng sợ”. Năm thì mười họa mới “ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Hắn đã hoàn toàn bị xã hội dứt khoát cự tuyệt không được nhìn nhận là người.

Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến có tính quy luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc: nhiều người lao động lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh, liều mạng để tồn tại. Năm Thọ “đầu bò u bướu” vừa đi mất tăm lại có Binh Chức lần về, Binh Chức chết lại nở ra Chí Phèo. Biết đâu thị Nở lại không để nơi lò gạch cũ một Chí Phèo con trong cái váy đụp nữa?

Bọn hào lí, một mặt bóp nặn dân lành đến tận xương tùy, mặt khác “lại phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn là dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, độc ác, áp bức bóc lột tàn tệ dân lành, thì chừng đó còn người lao động lương thiện bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, phải kiếm ăn bằng đâm thuê chém mướn, bằng cướp giật. Cái xã hội ấy đã cướp đi của họ cả bộ mặt lẫn linh hồn người, hủy diệt nhân tính và đã cự tuyệt quyền làm người của họ. Nhân vật Chí Phèo đã cho thấy cái quy luật tàn bạo ghê sợ đó trong xã hội cũ.

Đoạn văn Nam Cao kể về chuyện Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng là một tình tiết làm rõ thêm bi kịch cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Tự Lãng có “bộ râu lờ phờ”, làm nghề thầy cúng và hoạn lợn. Vợ chết đã bảy, tám năm con gái chửa hoang trốn đi.

Lão cũng cô đơn như Chí Phèo. Như “đôi tri kỉ cuồng” uống rượu dưới trăng. Chúng uống sạch ba chai, “ngả vào nhau mà cười”. Say rượu, lão Tự “bò như cua”. Chí Phèo vật lão ra mà vuốt râu lão. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”.

Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn”. Cuộc làm tình của Chí Phèo lúc đầu chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu với một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích” mà thôi!

Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong kẻ từng rạch mặt ăn vạ và đâm thuê chém mướn này. Chí Phèo bị cảm. Thị Nở đã “quàng tay vào nách hắn” và “hắn đu vào cổ hai người lảo đảo đi về lều”. Bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn.

Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!”. Cũng lần đầu tiên hắn được châm sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí Phèo ăn cháo hành rồi thết lên: “Ôi sao mà hắn hiền…”. Chỉ có thị Nở mới cảm nhận được: “hắn cười nghe thật hiền…” mà thôi!.

Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm “gặp gỡ” thị Nở cho thấy Nam Cao là bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí Phèo được tác giả kể lại thật xúc động, nhiều xót thương. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cá.

Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!”. Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng.

Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và cướp giật. “Nếu không con sức mà cướp giật, dạo nạt nữa thì đã sao?”. Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy!.

Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương thiện “cái bản tính của hắn thường bị lấp đi”. Cùng với “tình yêu” sự săn sóc của thị Nở, “trận ốm thay đổi hẳn về sinh lí, cũng thay đổi về tâm lí nữa” của Chí Phèo. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tấm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn này đối với con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.

Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Đàn bà cũng như thị Nở “không có men như rượu”, nhưng Chí “say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”.

Câu nói ấy là một câu nói “tình từ”, đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!… Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.

Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu, Chí Phèo “bám” được thị Nở cứ tưởng là được cọc, đâu ngờ chỉ là rễ bèo. Chí Phèo “say thị lắm”, nhưng đến hôm thứ sáu thì Thị nghĩ bụng: ” hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Như ta biết, con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến thị Nở, bà thấy cháu bà ” sao mà đĩ thế?”. Bà thấy nhục nhã, bà gào lên “như con ma dại”.

Bà quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Chỉ trừ Bá Kiến và thị Nở ra, chứ còn ai nữa dám đi qua mặt Chí, dám đối diện với Chí! Tất cả quen coi hắn là “quỷ dữ” mất rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về, nhưng không ai nhận ra hắn “muốn làm hòa với mọi người” nhưng ai nhận!

Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn “ngẩn người” khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo “nắm lấy tay” Thị nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”.

Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn vớ một hòn gạch toan đập đầu ăn vạ! Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm giá nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuvệt.

Rồi “hắn ôm mặt rưng rức” cho đến khi đã say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó”. Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá Kiến “không đòi tiền” như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền “làm người lương thiện!”.

Câu nói của Chí Phèo: “… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…” đó là những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh.

Chí không muốn sống nữa, vì giờ đây, thức về nhân phẩm đã trở về. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thì làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh.

Chí Phèo là một hiện tượng lưu manh hóa ở nông thôn mang tính chất điển hình, có ý nghĩa kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đẩy người dân cày nghét vào kiếp sống tối tăm thú vật, cướp đi của họ cả bộ mặt, cả linh hồn người. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện!” là câu hỏi chứa chất phẫn uất, đau đớn, mãi mãi làm day dứt lòng người.

Làm thế nào để con người được sống cuộc sống lương thiện, bình dị trong cái xã hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đà đặt ra câu hỏi lớn ấy. Với cảm quan hiện thực sắc sảo đặc biệt, Nam Cao đã vạch ra mối mâu thuẫn giai cấp gay gắt ở nông thôn và tình trạng tha hóa phổ biến trong cái xã hội vô nhân đạo đó.

Truyện “Chí Phèo” vừa chứa chan tình cảm nhân đạo, vừa mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo, xứng đáng được coi là một kiệt tác.

Bài văn phân tích nhân vật Chí 87

Nhà văn Nam Cao chính là một trong những nhà văn hiện thực tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Ông chuyên viết về đề tài những người trí thức nghèo hoặc những người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa. Tiêu biểu nhất và tác phẩm khẳng định vị trí của ông trong nền văn học nước nhà chính là truyện ngắn Chí Phèo.

Tác phẩm Chí Phèo là tấn bi kịch của người nông dân nghèo trong xã hội thực dân nửa phong kiến trước cách mạng tháng Tám. Nhân vật chính của truyện ngắn chính là Chí Phèo và viết về bi kịch của cuộc đời Chí. Có hai bi kịch nối tiếp nhau trong cuộc đời của Chí đó chính là bi kịch bị tha hóa từ một chàng thanh niên lương thiện trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch thứ hai chính là bi kịch khi bị từ chối làm người lương thiện, từ chối quyền làm người, quyền được hạnh phúc.

Trước tiên ta xét ở bi kịch thứ nhất của Chí Phèo. Ở phần đầu khi Chí Phèo vốn là một đứa trẻ có tuổi thơ khốn khổ, bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ từ thời còn quấn tã. Sau đó qua tay nhiều người nuôi cuối cùng thì hắn bơ vơ một mình. Năm Chí hai mươi tuổi thì đi làm canh điền cho nhà Lí Kiến.

Vốn Chí là một anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành, nhút nhát nhưng chính Lí Kiến đã đẩy hắn vào tù khi tận mắt chứng kiến cảnh Chí bóp đùi cho bà Ba. Trước khi vào tù ta có thể thấy được Chí là người nông dân lương thiện, có ước mơ như bao người khác đó là có một gia đình nhỏ, mình thì cuốc mướn, cày thuê còn vợ dệt vải.

Tuy nhiên chính vì sự sai khiến của bà Ba cùng với cơn ghen của Lí Kiến khiến ước vọng ấy tan biến, đẩy người nông dân hiền lành ấy vào ngục tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào và những năm tháng trong tù đã biến một chàng thanh niên vốn hiền lành, khỏe mạnh trở thành một “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.

Chí từ đây đã bị cướp hết cả nhân hình, nhân tính. Cái vẻ bề ngoài của Chí cũng không giữ được hình hài như xưa mà “cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng, hai mắt gườm gườm…. Cái ngực phanh, đầy nét chạm trổ…”. Không chỉ thay đổi về ngoại hình mà tính cách của Chí cũng khác xưa. Không giữ được sự lương thiện của mình nữa mà thay vào đó là một thằng liều mạng, có thể làm mọi việc như một thằng đầu bò chính cống: rạch mặt ăn vạ, đánh nhau, đâm thuê chém mướn, đập phá…

Khi người đọc tưởng rằng Chí sẽ cứ như vậy mãi và kết liễu cuộc sống trong một lần ẩu đả nào đó hoặc trong một cuộc nhậu. Tuy nhiên bằng trái tim giàu lòng nhân đạo thì Nam Cao đã không làm vậy mà khiến Chí gặp một biến cố trong cuộc đời khiến cho sự lầm đường lạc lối như được thức tỉnh. Đó chính là sự kiện Chí Phèo gặp Thị Nở trong một đêm trăng ở vườn chuối.

Vốn Thị Nở là một người đàn bà quá lứa, lỡ thì và lại còn xấu xí. Thế nhưng khi Chí Phèo ốm một trận thập tử nhất sinh và Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành trên tay khiến cho Chí cảm thấy lương tâm thức tỉnh, có sự biến đổi mạnh mẽ cả về tâm sinh lí. Sự giản dị, chân thành của Thị Nở đã làm sống dậy bản chất lương thiện vốn có của Chí. Trong sáng ấy lần đầu tiên Chí không say từ hôm ra tù, lần đầu hắn thấy mình tỉnh táo và các giác quan hoạt động bình thường như vậy.

Chí lắng nghe được những âm thanh của cuộc sống đời thường mà lâu nay hắn chẳng để ý tới. Đó là tiếng chim hót, tiếng của những người đi chợ, của những người thuyền chài đuổi cá… Tất cả những âm thanh bình dị ấy như tiếng gọi thiết tha của cuộc sống khiến cho Chí có quyết định táo bạo đó chính là muốn trở thành người lương thiện. Bởi Chí khao khát muốn được thực hiện ước mơ trước kia Chí từng mong muốn.

Hiện thực luôn luôn tàn khốc và con đường trở lại làm người lương thiện của Chí Phèo như bị đóng sầm lại trước mắt hắn. Trước tiên là sự phản đối gay gắt của bà cô Thị Nở với hắn. Bà cô giống như định kiến của xã hội bấy giờ, là cách nhìn nhận của cả cái làng Vũ Đại về Chí Phèo và không sao thay đổi được. Chính vì thế anh rơi vào bi kịch thứ hai – Bi kịch bị cự tuyệt làm người lương thiện.

Chí ngẩn người thất vọng rồi sâu sắc nhận ra bi kịch của một con người sinh ra làm người nhưng lại không được làm người. Lúc ấy Chí lại uống rượu, nhưng lần này hắn càng uống, càng tỉnh rồi lại thoang thoảng thấy mùi cháo hành. Chí xách dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện và kết cục là Chí đâm chết Bá Kiến rồi tự tử.

Có thể thấy nhân vật Chí Phèo chính là một nhân vật điển hình về người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trong xã hội thực dân phong kiến. Nhà văn Nam Cao đã lên án gay gắt xã hội tàn bạo, phi nhân tính đương thời và bày tỏ sự đồng cảm, xót thương cho sự bế tắc của con người trong xã hội đó.

Bài văn phân tích nhân vật Chí Phèo 88

Là một nhà văn luôn băn khoăn trăn trở về cách sống và cách viết, Nam Cao đã từng tuyên ngôn “Sống đã rồi hãy viết”. Một nhà văn muốn viết được nhân đạo trước hết phải sống cho nhân đạo bởi cuộc đời quyết định đến văn chương. Nam Cao luôn nhìn đời bằng đôi mắt của tình thương, đôi mắt của lòng nhân ái. Với cách nhìn đời này, Nam Cao bắt đầu cầm bút sáng tác.

Trước Cách Mạng, Nam Cao viết về hai đề tài, đề tài người nông dân và đề tài người trí thức tiểu tư sản. Ở đề tài nông dân hay nhất, tiêu biểu nhất phải kể đến sáng tác đầu tay của Nam Cao, tác phẩm Chí Phèo. Linh hồn của câu chuyện là nhân vật cùng tên được nhà văn miêu tả với một tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người: Sinh ra là người nhưng không được làm người, cả đời khao khát lương thiện, cuối cùng trở thành kẻ bất lương.

Thông qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của hắn nông dân Chí, ngòi bút Nam Cao bộc lộ là một ngòi bút nhân đạo, nhân văn, sâu sắc và cao cả. Người ta thường nói bi kịch là một hoàn cảnh bi thảm, bi thương, bi đát nào đó, điều này không chính xác. Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính, cháy bỏng, mãnh liệt của một con người nhưng không có điều kiện thực hiện trên thực tế, cuối cùng người mang khát vọng bị rơi vào kết cục của một thảm kịch.

Bi kịch là cuộc đấu tranh dai dẳng, không khoan nhượng giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cao thượng và thấp hèn, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Trong cuộc sống thường ngày, thương nhật, bi kịch không diễn ra giữa các lực lượng xã hội đấu tranh với nhau.

Trái lại nó là lực lượng tinh thần trong đời sống tâm hồn của một con người, ví như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, cả đời hắn khao khát lương thiện, cuối cùng trở thành kẻ bất lương, sinh ra là người nhưng không được làm người, để rồi hắn chết trên con đường trở về lương thiện.

Cuộc đời con người là một chuỗi biến động liên hoàn mà chúng ta không thể phân tách hay chia cắt được.Tuy nhiên cuộc đời mỗi con người được hình thành bởi những điều kiện, hoàn cảnh . Ở những điều kiện lớn, hoàn cảnh lớn,bản chất con người mới được bộc lộ bởi nói như H.Balzac: “Bản chất của con người thường bị bánh xe của số phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc lộ.”

Cuộc đời Chí Phèo tù lúc sinh ra đến lúc chết đi được chia làm hai chặng đường: chặng đường đầu tiên từ lúc Chí sinh ra đến năm hai mươi tuổi và sau khi ra tù. Lai lịch Chí Phèo được mở ra trong câu chuyện là một đứa trẻ xám ngắt, được bọc trong một tấm váy đụp bên cạnh lò gạch bỏ hoang, được người thả ống lươn đem về trong một buổi sớm tinh sương. Lớn lên, Chí Phèo được cưu mang bởi những con người nghèo khổ, Chí Phèo đi ở hết nhà này cho đến nhà khác, từ bà goá mù cho đến ông Phó Cối.

Quá khứ ấy không khiến Chí Phèo trở thành một đứa trẻ hư hỏng, trái lại, đến năm hai mươi tuổi, khi đi làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến, Chí Phèo vẫn giữ nguyên bản tính của một người nông dân thuần hậu. Cũng như biết bao người nông dân làng Vũ Đại, Chí Phèo ước mơ có được một cuộc sống bình dị bởi mơ ước của một con người phần nào bộc lộ bản tính của người ấy. Ở đây, Chí Phèo ước mơ có một cuộc sống nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ con lợn để nuôi, khá giả mua năm ba sào ruộng cấy.

Mơ ước ấy chứng tỏ rằng hắn là một người nông dân thuần hậu, thậm chí làng Vũ Đại còn gọi hắn là người “lành như cục đất”. Ta còn thấy Chí phèo là một người trong sáng và trọng danh dự. Làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến, rồi một lần bị bà Ba Kiến gọi lên bóp chân, Chí Phèo chỉ thấy nhục, thấy sợ. Trái tim của Chí Phèo hai mươi tuổi đâu còn là gỗ đá, Chí Phèo đã nhận thức được đâu là tình yêu chân chính, đâu là thói dâm ô.

Bị gọi “đấm bóp cho bà 3 quỷ quái hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Như vậy, rõ ràng, đến đây ta có thể khẳng định hắn là một người nông dân thuần hậu, nhưng xã hội ấy không cho Chí Phèo sống yên ổn. Chí Phèo đang sống trong cái xã hội mà “Kiếp người cơm vãi cơm rơi - Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi.”, trong cái xã hội mà cạm bẫy người giăng giăng như mắc cửi thì những ngời hiền lành như Chí Phèo bao giờ cũng phải chịu thiệt thòi.

Vì một cơn ghen bóng gió, Chí Phèo đã bị Bá Kiến tống vào ngục tù, con người xảo quyệt này sẵn sàng chà đạp lên cuộc đời người khác không thương tiếc, không ghê tay. Bắt đầu từ đây, Chí Phèo chuyển sang một trạng thái khác, một cuộc sống khác. Nhân đây cũng phải nói qua cái nhà tù, đây là nhà tù thực dân, đồng lõa với lão Bá tha hóa Chí Phèo.

Nhà tù này có bản chất xã hội trái hoàn toàn với bản chất xã hội của một nhà tù mà loài người đang mong đợi. Nhà tù này chỉ thu nạp tù nhân khi hắn ta còn lành như cục đất, vào nhào nặn, đào tạo đến khi thành con quỷ dữ thì thả họ ra. Nhà tù này tiếp tay cho lão Bá tha hóa Chí Phèo, nhà tù này đã biến hắn Chí “lành như cục đất” giờ đây ra tù... hãy nghe Nam Cao mô tả diện mạo của Chí Phèo lúc ra tù: ”Cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm, ngực và tay chạm trổ đầy những hình rồng phượng, có cả một ông tướng cầm chuỳ.

Trông Chí Phèo đặc như một tên săng đá”.Hình ảnh này đã làm tái hiện một Chí Phèo khác hoàn toàn, thay thế hắn nông dân thuần hậu ngày xưa giờ đây là một Chí Phèo sinh ra làm người nhưng không được làm người, hiền lành chân chất là thế giờ dây trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Đây là bi kịch đầu tiên của Chí Phèo bởi bi kịch là khát vọng chân chính, mãnh liệt của một con người nhưng không có điều kiện thực hiện trên thực tế, Chí Phèo cả đời khao khát lương thiện nhưng giờ đây thành kẻ bất lương mất rồi, thành con quỷ dũ mất rồi. Hình ảnh của Chí say rượu vừa đi vừa chửi hết sức buồn cười, phải chăng đằng sau sự lảm nhảm của hắn là tiếng kêu gào tuyệt vọng của sự thèm khát được giao tiếp với đồng loại.

Trong cơn say hắn nhận ra được sự cô đơn khủng khiếp của 1 con người bị xh ruồng bỏ. “Hắn thèm được người ta chửi, chửi hắn có nghĩa là còn công nhận hắn là người”. Thế nhưng hắn cứ chửi, xung quanh hắn là sự im lặng đáng sợ, hắn chửi rồi lại nghe: “chỉ có 3 con chó dữ với 1 thằng say rượu”. Hắn đã bị từ chối quyền làm người tuyệt đối. Bản chất của hắn đâu phải là kẻ nát rượu.

Khi còn trẻ hắn đã “ao ước có 1 mái ấm gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn vợ dệt vải nuôi heo”. Mơ ước của hắn thật bình dị bằng sức lao động chân chính, cái hạnh phúc đơn sơ nhưng ấm cúng tình người tưởng chừng ai cũng có được nhưng với Chí lại quá xa vời. Giờ đây, hắn muốn sống trong cái Làng Vũ Đại “đầy bọn ăn thịt người không thắn” thì hắn phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ.

Muốn thế hắn phải có gan, phải mạnh, thế là hắn mượn rượu để say như hủ chìm, như thế hắn sẽ làm “bất cứ điều gì người ta muốn hắn làm”, xã hội đã vằm nát bộ mặt người của hắn để hắn không còn được coi là con người nữa “ai cũng tránh mỗi lần hắn đi qua”. Trong cơn say rượu, Chí đã gặp Thị Nở và họ đã ăn nằm với nhau….

Sau khi tỉnh cơn say, hắn nhận được sự t/yêu c/sóc của TNở làm cho trong sâu xa t/hồn hắn lay động 1 tia chớp lóe sáng trong cuộc đời tối tăm dài dằng dặc của hắn và hắn nhận ra được tình trạng bi thương của số phận mình. “Hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có 1 lúc mà người ta không thể liều lĩnh được nữa, bấy giờ mới nguy”, hắn tủi thân vì hắn nhận ra sự trơ trọi của chính mình.

Đó những ân hận khi Chí Phèo hiểu ra hắn đã làm quá nhiều điều tội lỗi, khốn nổi khi gây ra những điều này Chí triền miên trong những cơn say nên nào biết gì! Tình yêu của Thị Nở làm cho hắn “bỗng thèm lương thiện”, bát cháo hành đã đưa Chí rẽ vào bước ngoặc mới, bát cháo hành là biểu tượng của sự cảm thông yêu thương giữa những người cùng cảnh ngộ, nó mãi mãi đi vào cuộc sống văn chương với tư cách là biểu tượng của chủ nghĩa nhân đạo.

Hắn cảm động quá! cảm động vì lần đầu tiên hắn được ăn 1 thứ ngon như thế. Hơn nữa muốn có cơm ăn, rượu uống chí phải dọa, cướp giật. Lần đầu tiên có người tự nguyện cho hắn ăn, đặc biệt hơn đó lại là đàn bà nên con quỷ dữ đã mềm ra thành từng giọt nước mắt. Cùng với những giọt nước mắt là Chí nghe được tiếng chim hót buổi sáng, tiếng gõ mái chèo của người thuyền chài đuổi cá trên sông, tiếng trò chuyện của những người đi chợ sớm.

Cái đẹp của tự nhiên, cái đẹp của lao động chứa chan tình người, tất cả thật đơn sơ nhưng cũng thật gần gũi thân thiết, những âm thanh này ngày nào cũng có nhưng đây là lần đầu tiên Chí cảm nhận được. Giọt nước mắt của Chí cùng những âm thanh buổi sáng đã làm nên một Chí Phèo khác hẳn, có nghĩa là hắn chắn điền lương thiện năm nào đã sống lại.

Đây là lần đầu tiên Chí tỉnh và lần đầu tiên nhận thức được tội lỗi, sự ân hận muộn màng nhưng dù sao cũng đáng ghi nhận. Đó là biểu hiện của sự làm lành “hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao” Chí muốn được mọi người bỏ qua cho tất cả. Thị Nở sẽ giúp hắn làm loại từ đầu, niềm khát khao mới người làm sao! Tình yêu của Thị Nở làm cho hắn thức tỉnh và mở đường cho hắn trở lại làm người, nhưng thật trớ trêu, bà cô Thị Nở đã đóng sầm cánh cửa lại, bà không cho cháu bà “đi lấy 1 thằng ăn vạ”.

Cách nhìn của bà cũng chính là cách nhìn của Làng Vũ Đại, linh hồn của Chí vừa trở về thì bị cự tuyệt, không ai nhận ra. Khát vọng của Chí đã bị đã bị xã hội từ chối, điều này cũng dễ hiểu vì xã hội quen nhìn Chí trong bộ dạng quỹ dữ, không thể chấp nhận một Chí Phèo hiện lên với tư thế con người. Sự từ chối của xã hội đầy định kiến, xã hội không độ lượng bao dung đón đứa con lạc loài trở về vòng tay cộng đồng.

Hoàn cảnh đặt Chí trước 2 con đường để lựa chọn: “hoặc sống làm quỷ dữ hoặc chết để khẳng định gía trị làm người”. Thực chất Chí chỉ có 1 con đường để đi, khi giá trị làm người thức tỉnh thì chí không thể làm quỹ dữ, đó chính là bi kịch thân phận con người không được quyền làm người.

Sự từ chối của Thị Nở đã đóng sập cánh cửa hoàn lương của Chí. Lúc này hắn đã uống rất nhiều rượu “càng uống càng tỉnh ra” để thấm thía thân phận mình “hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Trong cơn say hắn xách dao ra đi, hắn lảm nhảm đến nhà Thị Nở để đâm chém nhưng bước chân lại tìm đi tìm “kẻ gây ra tình trạng tuyệt vọng cho đời mình”. Thực trạng này đòi hỏi chúng ta phải xác định Chí say hay tỉnh?

Nếu bảo hắn tỉnh thì không thuyết phục vì ý thức của hắn không còn khả năng điều khiển hành vi, bảo hắn say cũng không thỏa đáng vì người say không thể biết đòi lương thiện “tao muốn làm người lương thiện” và biết rất rõ không ai cho hắn lương thiện, nghịch lý này là rượu đã làm cho thế giới tinh thần hắn mụ mị đi, nhưng 1 bộ phận mà rượu không thể làm tê liệt được là ý thức làm người, cho nên hành động đòi lương thiện là vô cùng tỉnh táo.

Vì vậy Chí đã giết Bá Kiến và tự hủy diệt mình. Cái kết thúc thật rùng rợn vì máu chảy nhưng cũng thật nhân bản vì tội ác đã được trừng trị và giá trị làm người được khẳng định. Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say . Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lòng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện.

Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí Phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống . Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống.

Chí Phèo - một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Ở cuối tác phẩm, “đột nhiên thị thoáng thấy hiện ra một cái lò gạc cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người qua lại…”, chi tiết ấy muốn nói với chúng ta rằng, một ngày gần đây thôi, Thị Nở lại bụng mang dạ chửa vượt cạn giữa đồng không mông quạnh, giữa con mắt thờ ơ của người dân làng Vũ Đại, lai một Chí Phèo con xuất hiện.

Điều này chứng tỏ rằng “Chí Phèo” không phải là bi kịch của một con người mà là bi kịch của người nông dân tồn tại trong lòng nông thôn trước Cách mạng tháng Tám. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp phong kiến thống trị tha hoá, những bị kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 89

Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nói lên hình tượng Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.

Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn đế Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hắn anh ta phải có nỗi niềm khổ đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.

Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khổ đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khổ và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thứ cỏ dại trôi dạt hết góc này đến góc nọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hơn phải tha hương cầu thực ở xứ người.

Đen năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đẩy Chí tới gia đình Bá Kiến. Đen cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “qủy cái” của Bá Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thế quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình.

Ớ Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào Bá Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỷ dữ.

Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỷ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, "răng cạo trắng hớn", “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là đế khu biệt hắn với những người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thể ngay trong những hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng. Hắn càng ác và đáng sợ hơn khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thế đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.

Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Nếu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đời sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng. Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với chào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.

Sông, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thế bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chang khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thể khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tự ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lọn”. Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?” Nhũng âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ướt nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mắt và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giới người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn".

Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đời trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thế làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có đế nâng niu và thấy trân trọng nó hon.

Nhưng bi kịch đời Chí chưa dừng lại ở đó, Thị Nở đã từ chối “lời cầu hôn” của hắn bởi bà cô Thị không cho phép cháu bà lấy một thằng “chỉ có độc một cái nghề rạch mặt ăn vạ”. Ta không trách bà cô Thị Nở, đó cũng là cách nhìn của những người trong xã hội đối với Chí Phèo. Tất cả đã coi hắn là con quỷ dữ không ai còn tin hắn, hắn đã bị cả xã hội cự tuyệt. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”. Hắn rơi vào bi kịch tuyệt vọng muốn làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn tìm đến rượu “hắn càng uống càng tỉnh” hắn cứ uống cho đến lúc say mềm lại vác dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời bằng tiếng chửi, còn đời trả lời hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi làng nước. Vậy là đã rõ, đời hắn đã đi vào hồi kết, kiếp hắn cũng chỉ là kiếp chó mà thôi. Mồm thì chửi cô cháu nhà Thị Nở nhưng chân thì đưa hắn đến nhà bá Kiến. Đoạn văn được Nam Cao mô tả vô cùng tinh tế và hợp lý. Lúc này, Chí Phèo vừa tỉnh lại vừa say, say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở, tỉnh đế đến nhà bá Kiến đi theo thói quen của tiềm thức sâu xa như một tất yếu. Đến nhà bá Kiến Chí Phèo không xin tiền mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng, lúc này hắn đã thấm thìa tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Hắn hét lên: “Ai cho tao lương thiện?”. Câu hỏi của Chí Phèo cũng là câu hỏi của thời đại. Chang ai trả lời hắn bởi đó là “Một câu hỏi lớn không lời đáp” đớn đau đến vô cùng. Câu hỏi làm người đọc như lên một niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người bất hạnh không biết đi đâu về đâu trong cái xã hội ngục tù tăm tối ấy. Tuyệt vọng, Chí lao vào đâm chết bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình.

Để Chí Phèo chết Nam Cao đã thể hiện được nhiều ý tưởng sâu xa góp phần tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm. Chí Phèo chết đã trở thành một bản án tố cáo xã hội đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa đã tước bỏ quyền sống quyền làm người của những người dân lương thiện. Chí chết cũng có nghĩa là anh ấy không chịu quay lại con đường lưu manh, không chịu sống kiếp sống con vật chuyên làm kẻ ác. Anh ấy thà chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng hoàn lương. Đó là sự cảm thông và cũng là niềm tin của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp của con người.

Khi miêu tả bi kịch trong số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích những nguyên nhân tạo nên một mạch của bi kịch ấy. Trong đó có nguyên nhân khách quan, xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đấy con người vào vòng sa ngã. Cũng có nguyên nhân chủ quan bởi lẽ bản thân những người nông dân cùng cảnh ngộ lại quay lưng vào nhau, phủ nhận nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà cô Thị Nở. Bị xua đuổi, đè nén, những người như Chí đến lúc này đã quay lại chống trả (dẫu sự chống trả vô cùng tiêu cực, nhưng họ còn biết làm gì hơn?) bằng con đường lưu manh. Hon nữa, Nam Cao còn nhắc đến Năm Thọ, Binh Chức với tư cách là những “vị tiền bối”, họ hàng gần xa với Chí Phèo. Kết thúc tác phẩm, Nam Cao để Thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng và thấp thoáng hình ảnh “cái lò gạch cũ” hiện ra vắng người qua lại. Rất có thể một Chí Phèo con sẽ ra đời để nối nghiệp bố. Hình tượng Chí Phèo được Nam Cao khắc hoạ thành công và khái quát thành quy luật bản chất của xã hội. Vậy muốn chấm dứt bi kịch của Chí Phèo cần phải tiêu diệt xã hội ấy đi. Đây chính là chiều sâu trong ngòi bút Nam Cao trong miêu tả hiện thực xã hội.

Hình tượng nhân vật Chí Phèo đế lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động và lòng cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người tàn tạ trước Cách mạng tháng Tám. Cùng với những chị Dậu, anh Pha, lão Hạc,… hình tượng nhân vật Chí Phèo khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp đế đòi lại quyền sống cho người dân Việt Nam khi đó. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu hơn, trân trọng hơn hạnh phúc mình đang có và ra sức cống hiến xây dựng cuộc đời tươi đẹp này.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 90

Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo – Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc

Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả đã hư cấu, sáng tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh hoàng… Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.

Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nông dân bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong cái xã hội ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm ỉ một sự phản ánh vô cùng mạnh mẽ.

Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh long ghen tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buổi sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.

Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.

– Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.

+ Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.

Trong truyện ngắn Chí Phèo , quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người – những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để được giải thoát, vu vơ, ngẩn ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất .nhưng nó lại không được ai đáp lại cả. Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu. Chí Phèo ngạc nhiên ,xúc động khi Thị Nở bê bát cháo hành sang cho Chí Phèo. Hương vị cháo hạnh là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn. Rồi liên tiếp, Chí Phèo đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi. Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hỏi làm sao để trở lại làm một con người bình thường?! Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và một con quỹ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi đến lúc gặp mặt Bá Kiên, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng trước khi chết của Chí Phèo.

Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết 1 Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí Phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp phong kiến thống trị tha hoá, những bi kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn

Phân tích nhân vật Chí Phèo 91

Giữa những bộn bề phồn tạp của buổi chợ văn chương, giữa những náo nhiệt đông đúc của gian hàng hiện thực, phê phán, Nam Cao được nhận ra là một chủ cửa hàng khá đặc biệt, với tấm lòng nhân đạo sâu sắc về sự quan tâm đặc biệt dành cho những người nông dân nghèo trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã đưa người đọc đi sâu khám phá những đau đớn, khổ cực mà những con người cùng hơn cả dân cùng phải chịu đựng, phát hiện những vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn của họ. Tiêu biểu cho cuộc hành trình đó là tác phẩm Chí Phèo, đặc biệt qua nhân vật Chí Phèo ta sẽ thấy rõ được điều đó.

Quả thật không sai khi nói rằng, sản phẩm văn học chỉ được khai sinh ra khi nó là kết quả kết quả từ đời sống, nếu sáng tác văn học chỉ hoàn toàn là sản phẩm của sự hư cấu và tưởng tượng mà không mang hơi thở đời sống thì sẽ không truyền được cảm xúc đến với bạn đọc. Văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời, mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật. Nam Cao đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo và ông đã khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam hiện tại. Đồng thời tìm cho mình một phong cách hoàn toàn mới mẻ, khác với những nhà văn cùng thời.

Đọc Chí Phèo của Nam Cao ta sẽ thấy rõ được điều đó, tác phẩm được in thành sách lần đầu năm 1941, sau đó được in lại trong tập “Luống cày” năm 1946. Lúc đầu tác phẩm có tên là “Cái lò gạch cũ”, sau đó Nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”, đến năm 1946 Nam Cao đã đổi lại tên thành “Chí Phèo”.

“Chí Phèo” xoay quanh bi kịch của người nông dân trước cách mạng tháng 8, khác với Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan, Nam Cao không đi sâu vào bi kịch về mặt vật chất mà các nhân vật phải chịu đựng, ngược lại nhà văn đi sâu, khai thác bi kịch tinh thần đầy đau đớn của Chí Phèo. Đó là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, sinh ra là một con người nhưng không được mọi người công nhận.

Chí Phèo được xem là nhân vật điển hình trong tác phẩm, người đại diện cho tầng lớp nhân dân bần cùng hóa, lưu manh hóa trước cách mạng tháng Tám.

Cả cuộc đời của Chí Phèo là một con số 0 tròn trĩnh, không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dùi. Ngay từ khi sinh ra, cha mẹ đã không nhìn nhận hắn, cuốn hắn vào chiếc váy đụp rách, bỏ hắn ở cái lò gạch bỏ không, vắng người qua lại, may mắn thay một anh đi thả ống lươn nhìn thấy hắn, từ đó Chí lớn lên nhờ bát cơm của bác Phó cối và sự cưu mang của cả dân làng Vũ Đại. Năm 18 tuổi Chí Phèo làm canh điền cho nhà lý Kiến.

Khi làm canh điền cho nhà lý Kiến, Chí vốn là một anh nông dân hiền lành, chăm chỉ, hắn cũng đã từng mơ về một gia đình nhỏ bé, hạnh phúc, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải nuôi tằm, rồi chúng bỏ một con lợn làm vốn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Cuộc đời vốn không công bằng, thân phận nô lệ đâu để cho Chí Phèo được yên, bởi thói dâm dục của bà ba nhà lý Kiến, cùng tính ghen tuông của ông ta mà Chí Phèo bị đẩy vào tù, để rồi 7, 8 năm sau ra tù Chí Phèo đã thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính.

Trở về làng Vũ Đại sau một thời gian dài không ai nhận ra Chí, cái đầu thì trọc lốc, răng cạo trắng hơn, cái mặt đen, lại rất cơng cơng. Hắn mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, trên người đầy những nét chạm trổ, rồng phượng, lại có cả hình một ông tướng cầm chùy trông rất gớm chết. Không chỉ thay đổi ngoại hình, mà Chí còn thay đổi cả nhân tính. Mới về hôm trước, hôm sau đã thấy hắn ngồi uống rượu với thịt chó từ trưa đến chiều, khi đã say hắn tìm đến nhà Bá Kiến gây sự, rạch mặt ăn vạ. Và cũng chỉ vì cơn say ấy, Chí Phèo đã bị Bá Kiến lợi dụng biến Chí Phèo trở thành tay sai đắc lực của mình.

Không phải ngẫu nhiên mà mở đầu câu chuyện Nam Cao bắt đầu bằng tiếng chửi của Chí Phèo, bao giờ cũng vậy say là hắn chửi. Hắn chửi trời, chửi đất, chửi cả dân làng Vũ Đại nhưng chẳng ai đáp lại tiếng chửi của hắn. Tiếng chửi của Chí Phèo thể hiện sự giao hòa, giao cảm, sự khát khao được sống với mọi người. Nhưng đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là tiếng của ba con cho giữ, điều đó chẳng khác nào Chí Phèo đã bị đánh tụt từ hàng con người xuống hàng con vật.

Đọc tác phẩm ta tưởng rằng cuộc đời của Chí Phèo sẽ trượt dài trên con dốc của sự tha hóa và biến chất, nhưng với tấm lòng nhân đạo của mình Nam Cao không hề hắt hủi nhân vật của mình. Ngược lại ngòi bút của ông dành cho nhân vật nồng nàn yêu thương, ông đã tìm ra lối thoát cho Chí Phèo, khơi gợi khát khao được làm người nơi Chí bằng cách cho Chí gặp Thị Nở. Ban đầu chí đến với Thị chỉ bằng bản tính thú vật của một gã say rượu, nhưng nào ngờ Thị Nở chính là nguồn ánh sáng duy nhất soi sáng cho trái tim của Chí Phèo. Sau đêm ăn nằm với Thị Nở, lần đầu tiên sau những cơn say Chí hoàn toàn tỉnh táo, hắn cảm giác nắng đã lên cao, nghe thấy tiếng chim hót ríu rít, tiếng của những người đi chợ về, những âm thanh này hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy những âm thanh quen thuộc này, đã chắp cánh cho ước mơ về một gia đình nhỏ trước kia của Chí Phèo quay về. Đọc đến đây ta bỗng nhớ đến tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân trong tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ” của Tô Hoài. Chính tiếng sáo ấy đã thôi thúc Mị khao khát sống mãnh liệt, giúp mị quên đi thực tại, đau đớn. Bỗng Chí Phèo như thấy trước tuổi già ốm đau và bệnh tật, rồi Chí Phèo bỗng cảm thấy sợ cô đơn.

May mà Thị Nở bước vào, không Chí Phèo không nên được mất. Thị Nở bước vào trong tay cắp một cái rổ, trong rổ là nồi cháo hành nóng hổi, thị múc ra bát đưa cho Chí Phèo, lúc này Chí Phèo cảm thấy yêu Thị Nở, cầm bát cháo hành trong tay Chí Phèo ăn một cách ngon lành, bởi đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho mà không cần cướp giật. Đã có ý kiến nhận xét rằng, Thị Nở chính là vị thiên sứ mà Nam Cao phái đến bên cạnh Chí Phèo. Thiên sứ ấy không có đôi cánh, nhưng có đôi bàn tay ấm áp như ngọn gió, ngọn lửa, thổi bay lớp tro tàn, thiêu đốt lớp vỏ quỷ dữ bên trong con người Chí Phèo. Bát cháo hành là chi tiết đặc biệt trong tác phẩm, nó như một liều thuốc giải độc, gột rửa lớp men rượu đưa Chí Phèo trở về làm người, với mong muốn trở về làm người lương thiện Chí Phèo tưởng rằng Thị Nở sẽ là cây cầu đưa Chí Phèo đến gần hơn với mọi người. Nhưng Chí Phèo đâu biết rằng Thị Nở và tình yêu của Thị Nở chỉ như cây cầu vồng lung linh bảy sắc, xuất hiện và biến mất sau cơn mưa. Chí Phèo chưa bước chân lên cầu thì cây cầu đã rút ván, bởi xã hội lúc bấy giờ còn quá nhiều định kiến, nên việc Chí Phèo muốn trở về làm người lương thiện còn quá nhiều khó khăn. Những lời Thị Nở trút lên đầu Chí Phèo đã cho thấy định kiến nặng nề như thế nào? Quá đau khổ Chí Phèo lại tìm đến rượu, nhưng lúc này càng uống càng tỉnh, mùi cháo hành thoang thoảng đâu đây. Quá căm phẫn uất, Chí Phèo cầm dao đi trả thù. Miệng thì nói đâm chết con đĩ Nở, con khọm già, nhưng đôi chân lại đưa Chí đến nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí Phèo hiểu rằng Bá Kiến chính là người đã đẩy Chí Phèo đến ngày hôm nay, xóa tên Chí Phèo khỏi cuốn sổ của những con người lương thiện. Có lẽ trong cuộc đời tối tăm của Chí Phèo hành động vung dao kết liễu tên cáo già Bá Kiến là những giây phút rực rỡ nhất. Dù Chí Phèo đã chết nhưng câu hỏi “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất đi những vết mảnh trên khuôn mặt này”, vẫn còn để lại những nhức nhối trong lòng người đọc.

Với cách xây dựng nhân vật điển hình, độc đáo, ngôn ngữ sắc sảo, góc cạnh mang tính khẩu ngữ Nam Cao đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Chí Phèo, với bi kịch tinh thần đầy đau đớn, khắc khoải. Hình tượng nhân vật Chí Phèo đã để lại trong lòng bạn đọc nhiều niềm xúc động và sự cảm thông sâu sắc, đối với một kiếp người cùng hơn cả dân cùng trước cách mạng tháng tám. Cùng với hình tượng chị Dậu, Anh Kha, Lão Hạc, nhân vật Chí Phèo đã khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp để đòi lại quyền sống chính đáng cho con người. Cho đến ngày hôm nay những nhân vật văn học ấy vẫn là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu thương, trân trọng hơn hạnh phúc mình đang có, đồng thời phải biết cống hiến để cuộc sống tốt đẹp hơn lên.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 92

Chí Phèo là một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong dòng văn học hiện thực Việt Nam đầu thế kỉ XX. Qua Chí Phèo, Nam Cao đã dựng lên bức tranh ám ảnh về vùng quê nghèo Việt Nam trước Cách mạng, nơi mà những con người hiền lành bị đẩy lui vào tới bước đường cùng mà tha hóa, trở thành những kẻ lưu manh. Và Chí Phèo được Nam Cao dựng lên là một con người như thế! Hắn trở thành một hình tượng điển hình cho lớp người nông dân nghèo đói bị bức áp vào đường trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng.

Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao, là kiệt tác nói của dòng văn học hiện thực Việt Nam. Nam Cao đã vẽ lên bức tranh làng quê Việt trước Cách mạng tháng Tám, nơi mà nghèo đói và những luật lệ áp chế con người, biến con người trở thành những kẻ khốn nạn, đẩy con người vào cảnh khốn cùng. Chí Phèo được sinh ra và lớn lên giữa một xã hội như thế, một xã hội mà định kiến có thể giết chết một con người và luật lệ thì được dựng lên trong tay những kẻ có quyền. Chí Phèo đã sống và bị những định kiến, luật lệ ấy áp tới đường cùng, trên con đường ấy, hắn đã tha hóa, biến thành một "con quỷ" sống của làng Vũ Đại để rồi đến khi chết, hắn vãn chỉ ở bên ngưỡng cửa được trở thành người lương thiện.

Chắc hẳn không một tác phẩm nào trong nền văn học Việt lại có một cách vào truyện đặc sắc như Chí Phèo của Nam Cao. Mở đầu câu chuyện không phải là những lời hoa mĩ, đẹp đẽ mà lại là tiếng chửi vang vọng qua từng câu trong trang sách. Tiếng chửi ấy mở ra hoàn cảnh xuất hiện của hình tượng Chí Phèo – một con người "từng lương thiện".

Chí Phèo không xuất hiện như Từ Hải rằng "Râu hùm, hàm én, mày ngài", không có một lời miêu tả hình dáng, bởi hắn xuất hiện bằng tiếng chửi trong cơn say "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi". Sự xuất hiện của hắn thật đặc biệt! Chẳng cần một lời miêu tả hình dáng, chúng ta vẫn như thấy hình ảnh của một tên say rượu, lảo đảo cất bước và cất tiếng chửi giữa xóm làng.

Thế nhưng, không như những người say rượu bình thường hay gây sự chửi bới vô cớ khác, Chí Phèo lại chửi theo một cách hợp lý mà hợp lý đến bất thường. Tiếng chửi ấy nghe có vẻ vô lý thế nhưng lại khiến cho người đọc cảm thấy vô cùng logic, vô cùng đúng đắn với một tên say rượu đang ngất ngưởng cãi nhau với đời. Tiếng chửi của Chí bắt đầu từ trời, cái chung nhất của thế gian, nhưng "Trời có của riêng nhà nào?", thế là hắn "chửi đời", nhưng "đời là tất cả nhưng chẳng là ai". Rồi hắn lại chửi cả làng Vũ Đại, rồi chửi đứa không chửi nhau với hắn, chửi đứa đẻ ra hắn. Cái chửi của Chí Phèo cứ liên tiếp thay đổi, tưởng như vô cớ mà ta lại thấy hợp lý vô cùng. Hắn chửi từ cái chung đến cái riêng, từ cái vô cùng đến cái cụ thể. Chửi vậy mới đúng là một tên say rượu đang khật khưỡng bước đi, mong được một lời đáp trả từ xã hội, dù chỉ là một tiếng chửi, vậy mà chẳng ai quan tâm đến "không ai lên tiếng cả", chỉ bởi hắn là một "con quỷ" khiến ai cũng khiếp sợ.

Nam Cao rất thành công khi khắc họa hình ảnh Chí Phèo xuất hiện chỉ bằng một vài tiếng chửi. Nhưng chỉ thông qua đó thôi, chúng ta cũng mường tượng ra một kẻ lưu manh, khố rách áo ôm, không người thân thích, một kẻ luôn triền miên trong những cơn say mà cả xã hội xa lánh trong sợ hãi. Chỉ những kẻ như vậy mới có thể chửi đời, chửi trời, chửi cả làng mà chẳng ai hề để ý để tâm. Nhưng nhìn sâu vào trong ta mới thấy, có lẽ tiếng chửi là phương tiện giao tiếp cuối cùng của Chí với cuộc đời để hắn nhận ra là hắn đang được sống giữa xã hội chứ không phải đơn độc một mình. Thế nhưng, chẳng ai thèm đếm xỉa đến hắn, cô lập hắn vào giữa cái xã hội thu nhỏ, để hắn trở nên lạc lõng, cô đơn.

Chí Phèo đã xuất hiện đặc sắc như thế khiến cho chúng ta tò mò tự hỏi, tại sao Chí lại là người như thế? Phải chăng từ khi sinh ra Chí đã trở thành một kẻ nghiện rượu, một tên lưu manh như thế? Hay còn vì sao, vì lý do gì đã đẩy hắn đến bước đường cùng như thế?

Chí Phèo – hắn đã từng là một con người lương thiện. Có ai từng nghĩ một kẻ như Chí, một kẻ luôn "triền miên say", luôn rạch mặt để ăn vạ, luôn chửi bới xóm làng đã từng là một con người lương thiện hay chưa? Vâng, đúng là thế, đúng là Chí Phèo cũng đã từng là một người nông dân hiền lành, lương thiện như bao người nông dân nghèo ở cái làng Vũ Đại này.

Chí Phèo mồ côi cha mẹ, chẳng ai biết ai đã sinh ra hắn "Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết", bởi hắn được vứt bên một cái lò gạch cũ và được một người đi thả ống lươn nhặt được "trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không". Hắn không cha không mẹ, không nhà cửa đất đai nhưng lại được lớn lên giữa vòng tay yêu thương, sự đùm bọc của xóm làng. Những điều ấy đã hun đúc lên một Chí Phèo cũng lương thiện, hiền lành với bao phẩm chất đạo đức chất phác như những người dân cày khác. Hắn lớn lên, cũng chăm chỉ làm lụng, kiếm sống nuôi thân. Hắn đi làm thuê cho Bá Kiến kiếm những đồng tiền bằng mồ hôi, bằng lao động chân tay, bằng chính sức lực của hắn. Hắn cũng như bao người trai làng hiền lành khác, có những mơ ước thật giản dị, nhỏ nhoi, được nên vợ nên chồng với một người con gái để xây lên "một gia đình nho nhỏ" mà "chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải". Ước mơ ấy đơn giản làm sao, nhỏ bé và chính đáng làm sao. Thế nhưng, những ước mơ cỏn con ấy đã biến thành mây khói khi hắn bị đẩy vào chốn lao tù.

Là một người lương thiện lại chất phác hiền lành, hắn cũng có lòng tự trọng tự tôn như những thằng đàn ông con trai khác. Bởi vậy, lúc bị bà Ba của Bá Kiến gọi tới "bóp chân", hắn đã làm thật miễn cưỡng, "hắn thấy nhục hơn là thích". Hắn có lòng tự trọng, có ý thức về nhân phẩm của chính mình, có lẽ chính vì vậy, khi bị bắt làm cái việc không chính đáng ấy, "hắn vừa làm vừa run".

Phải, Chí Phèo vốn đã từng là một người nông dân lương thiện như bao người nông dân khác trong xã hội đương thời ấy, trong cái làng Vũ Đại ấy. Hắn có ước mơ, có lòng tự trọng, có sự ý thức về nhân phẩm, tự trọng của mình, hắn biết làm việc chăm chỉ làm lụng bằng đôi bàn tay, bằng mồ hôi, sức lao động của mình để nuôi thân và hơn hết hắn có sự lương thiện mà bất cứ con người nào từ khi lọt lòng vẫn luôn có.

Vậy mà, con người ấy đã biến đổi hẳn thành một kẻ khác từ khi phải vào tù. Hắn ra tù và trở thành một "con quỷ" khiến ai cũng phải kinh sợ, phải nín nhịn trước hắn. Ra tù, Chí Phèo thay đổi cả nhân hình, nhân tính. Liệu có ai nghĩ rằng đã từng có một Chí Phèo hiền lành, chân chất ngày xưa không?

Vậy tại sao Chí Phèo lại phải đi tù? Câu trả lời ấy đã được Nam Cao viết rõ trong tác phẩm, Chí Phèo bị Bá Kiến ghen nên đẩy vào tù. Bá Kiến ghen ghét chàng lực điền cao lớn, khỏe mạnh, thế nên đã dựng chuyện mà đẩy hắn vào tù. Và cuộc sống trong chốn nhà tù thực dân đã biến hắn từ một chàng trai chăm chỉ làm lụng, hiền lành thành một kẻ nghiện rượu, một con quỷ khiến ai cũng phải kinh sợ.

Chí Phèo ra tù, chẳng còn như xưa, hắn biến đổi cả nhân hình, nhân tính của con người. Hắn chẳng còn là chàng trai chất phác như xưa nữa mà triệt để thay đổi ngoại hình "Trông đặc như thằng săng đá. Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết". Không chỉ có thế, trang phục của hắn cũng toát lên sự khiếp sợ đối với người đối diện, nào là "quần nái đen với áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!". Chí Phèo đã thực sự biến đổi về ngoại hình rồi, mất đi cái nhân hình trước kia rồi. Một anh canh điền hiền lành, chất phác giờ đây lại trông "đặc như thằng săng đá" khiến cho tất thảy cả cái làng Vũ Đại "mới đầu chẳng biết là ai". Ai gặp hắn cũng dường như phải ngao ngán bởi sự thay đổi đến mức khiến người ta phải khiếp sợ của Chí Phèo.

Thế nhưng, cái nhà tù đương thời ấy không chỉ biến đổi hình dạng của Chí, biến hắn trở nên gớm ghiếc, kinh hoàng trong mắt những người nông dân nghèo mà còn thay đổi hắn triệt để về nhân tính, biến hắn trở thành một "con quỷ" của làng Vũ Đại. Xưa kia, Chí chăm chỉ làm ăn, kiếm sống bằng sức lao động bằng đôi tay của mình thì giờ đây, hắn chỉ chìm đặc trong những cơn say lướt khướt "hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt trưa đến xế chiều. Rồi say khướt …", và mỗi khi say, hắn lại cất tiếng chửi và hành cái nghề "ăn vạ" của mình. Hắn trở thành một tên lưu manh chính hiệu và "sống bằng dọa nạt hay cướp giật", bởi hắn đâu còn mục đích gì để sống hiền lành như xưa, bởi cái nhà tù ấy đã cướp đi hay đã dìm thật sâu vào bùn đen cái bản tính hiền lành ngày nào của hắn mất rồi.

Đến sau này, sau một lần ăn vạ Bá Kiến không thành và được Bá Kiến dỗ ngọt, Chí Phèo còn trở thành tay sai cho cụ Bá. Hắn cướp giật, đốt nhà, phá phách làng xóm, đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến. Và thế là cái thằng Chí Phèo kia lại càng khiến người dân làng Vũ Đại thêm xa lánh hắn. Bởi hắn đâu còn là một con người nữa, hắn đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ mất rồi! Hắn đánh mất cả nhân hình nhân tính của mình mất rồi.

Có thể nói Chí Phèo chính là một nạn nhân trực tiếp của nhà tù thực dân, của xã hội đương thời, của bọn cường hào ác bá. Hắn là điển hình cho hình ảnh một người nông dân chân chất bị dồn ép tới đường cùng mà trở nên xấu xa, mất dần đi cái tình lương thiện bản chất con người mình. Nếu như xã hội không có những định kiến, nếu như xã hội công bằng hơn, đẹp tốt hơn thì hẳn đã chẳng có một Chí Phèo tha hóa đến mức như thế!

Phải nói rằng Nam Cao đã thực sự thành công khi xây dựng lên hình tượng nhân vật điển hình Chí Phèo luôn triền miên say và làm nghề ăn vạ. Để đến tận hôm nay, thế hệ chúng ta vẫn luôn mãi ấn tượng với hình ảnh này, để ai mỗi khi nhắc tới sự ăn vạ, lại nghĩ ngay ra hình ảnh một Chí Phèo chễm chệ với thói ăn vạ của mình.

Những tưởng cuộc đời của Chí đã dừng ở đó, dừng lại ngay khi Chí tha hóa mà trở thành một kẻ chuyên đi cướp giật của xóm làng thì không, Nam Cao đã vô cùng nhân đạo khi cho Chí một tia ánh sáng le lói để Chí có thể làm lại cuộc đời của mình. Ánh sáng đó chính là Thị Nở. Cuộc gặp gỡ định mệnh của Chí Phèo và Thị Nở đã khiến hắn thức tỉnh. Mối tình của hai con người ấy quả là hấp dẫn đặc biệt, bởi "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã", thế nhưng nó lại là một tư tưởng nhân đạo cực kì sâu sắc mà Nam Cao lồng ghép vào tác phẩm để nâng nó lên một tầm vóc mới.

Chí Phèo đến với người tình của mình thật đúng với cái tên của hắn, thật hết sức … Chí Phèo. Bởi Thị Nở vốn là người phụ nữ "xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng", đã ngoài ba mươi tuổi nhưng vì xấu và ngẩn ngơ nên chẳng ai thèm hỏi thị làm vợ. Trong một lần Thị đi kiếm nước ngoài bờ sông rồi ngủ quên, Chí Phèo đã gặp Thị trong lúc uống say trở về nhà và cả hai đã ăn nằm với nhau. Nếu như ban đầu, Thị mới chỉ khơi lên ở Chí cái bản năng đàn ông thì sau, cái sự chăm sóc dịu dàng mà ân tình của người đàn bà ấy đã khơi lên trong Chí cái bản tình lương thiện đã bị vùi sâu dưới tận đáy. Linh hồn Chí như được thức tỉnh, trở lại thành một con người chứ không phải là một con quỷ nữa.

Bởi lần đầu tiên, sáng hôm ấy, Chí tỉnh dậy mà không say. Hắn nhận ra "trời đã sáng từ lâu", nhân ra những thanh âm quen thuộc của cuộc sống thường ngày "tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy ngày nào chả có."Lần đầu tiên sau bao năm ra tù, Chí Phèo mới được nghe thấy những thanh âm quen thuộc ấy, những tiếng cười nói, tiếng gõ mái chèo của cuộc sống lao động xung quanh, hôm nào chả có "nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…". Hắn chợt "bâng khuâng" và thầy "lòng mơ hồ buồn". Cuộc gặp gỡ với Thị Nở như là tia chớp lóe sáng trong cuộc đời tăm tối của Chí, nó đã khơi gợi lên trong lòng Chí bao điều, cho Chí nhìn thấy rõ cuộc đời của mình. Hắn chợt thấy rằng ngày xưa "cái gì rất xa xôi", nhắc cho hắn rằng hắn cũng từng mơ ước về một cuộc sống êm đềm như thế "một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Nhưng cái mơ ước ấy đã xa xôi quá đỗi, giờ đây, hắn nhận ra cái bi kịch của cuộc đời mình, cái thực tại đáng buồn khi "tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc". Và cái tương lai ở phía kia còn đáng buồn hơn "Hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời", vậy mà chẳng có ai bầu bạn, chẳng có gì để nuôi thân, và sớm thôi "hắn đã như trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc". Bao năm nay, Chí chưa từng một ngày tỉnh táo để nhận ra những cái đó, bởi hắn "bao giờ cũng say", thì hôm nay lần đầu tiên trong đời, hắn đủ tỉnh táo mà ý thức được số phận của mình.

Nếu như trước kia, Chí Phèo sống trong vô thức, thì hôm nay, Chí Phèo đã đủ tỉnh táo mà nhận thức được, bởi vậy hắn có những cảm xúc rất đời, rất thường như bao người khác là cái sợ về tuổi già và sự ốm đau, sự cô độc. Ngày trước, hắn là một con quỷ "sống bằng dọa nạt và cướp giật" thì giờ đây trong thâm tâm hắn bừng lên những cảm xúc đời thường, những mơ ước đời thường, phải chăng, sự lương thiện trong hắn đang trở về với hắn?

Và khi thấy Thị Nở bưng bát cháo còn bốc hơi tới trước mặt, hắn "rất ngạc nhiên" và thực sự xúc động "bởi lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho". Hắn nhận bát cháo từ tay Thị nở và bỗng nhận ra rằng "cháo hành ăn rất ngon". Bởi bát cháo ấy không chỉ được nấu bằng gạo bằng hành mà còn được nấu bởi hương vị của tình yêu tình người, của yêu thương chân thực và hạnh phúc giản dị, và tất cả những cái đó lần đầu tiên Chí Phèo được cảm nhận. Bởi vậy mà "hắn thấy mắt hình như ươn ướt", một nỗi xúc động nghẹn ngào. Ai có thể nhận ra đó là cái thằng Chí Phèo vẫn thường rạch mặt ăn vạ, đập đầu giờ đây lại có thể hiền lành đến như thế? Hắn đã thực trở lại là anh canh điền lương thiện ngày nào, anh nông dân với ước mơ giản dị mà khiêm nhường ngày nào. Giọt nước mắt còn thấp thoáng trên mắt Chí có lẽ chính là giọt nước mắt hạnh phúc mà người ta vẫn hay nói. Giọt nước mắt ấy đời thường vô cùng, con người vô cùng.

Như vậy, có thể thấy, chính lòng yêu thương, tình người chân thật đã kéo Chí Phèo trở lại cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động – cái bản chất đã bị vùi lấp tận sâu bởi bọn cường hào và xã hội thực dân. Có thể nói, linh hồn của người nông dân nghèo Chí Phèo đã bị cướp đi bởi bầy lũ cường hào, thực dân trong xã hội, chúng muốn biến hắn trở thành cái công cụ để chúng sai khiến. Thế nhưng, giờ đây, Chí đã thức tỉnh thực sự rồi, cái lương thiện ẩn sâu tận con người hắn đã trở về rồi, và hắn lại khao khát một lần nữa được trở thành một con người như xưa. Tình yêu đã thức tỉnh hắn, "hắn thèm lương thiện", hắn muốn được quay lại hòa nhập với mọi người. Hắn đã mơ tưởng đến cuộc sống mà chính Thị là người sẽ mở đường cho hắn và hắn sẽ được nhận vào "cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Chí Phèo đang mong chờ ngày được trở lại, hồi hộp trong hy vọng được trở lại làm người.

Có lẽ Nam Cao không phải một lần viết về sức mạnh của tình yêu. Tình yêu có thể biến con người ta trở lên tốt đẹp hơn cho dù tình yêu ấy có bị chế giễu, những con người trong tình yêu ấy bị cả xã hội hắt hủi. Chỉ cần họ tìm thấy ở nhau tình cảm chân thành, sự sẻ chia đồng cảm thì chắc chắn, tình yêu chân chính sẽ đưa họ đến với những điều tốt đẹp hơn. Chính như Thị Nở - người đàn bà xấu xí ấy cũng đã khơi gợi lên linh hồn con người từ một con quỷ dữ mang tên Chí Phèo. Đó là một tư tưởng nhân đạo vô cùng sâu sắc mà chỉ có ngòi bút của Nam Cao mới đủ sức truyền tải.

Thế nhưng, Nam Cao cũng dựng lên một câu chuyện về Chí Phèo không chỉ có vậy mà còn có những tình tiết biến hóa thật bất ngờ. Hai lần, người đọc cứ tưởng đã kết thúc câu chuyện về cuộc đời của Chí Phèo thì Nam Cao lại một lần nữa mở ra những tình huống mới.

Có nhiều người cho rằng cuộc đời Chí Phèo là một bi kịch của số phận, của tạo hóa trêu ngươi thì có lẽ vẫn chưa hoàn toàn chính xác. Bởi lẽ, cuộc đời của Chí phải nói là bi kịch thực sự thì phải là khi hắn đã thức tỉnh, mong muốn được làm lại cuộc đời, khao khát một cuộc sống lương thiện thì lại bị cự tuyệt thật lạnh lùng: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.

Sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo đã mở lời với Thị "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui", một lời tỏ tình thật đáng yêu quá đỗi. Bởi Chí tưởng rằng Thị sẽ dẫn Chí vào cuộc sống đời thường, cho Chí một gia đình nho nhỏ như mơ ước của Chí ngày xưa nhưng không. Định kiến của xã hội mà tiêu biểu ở đây là bà cô Thị Nở đã tước đi của hắn cái quyền làm người ấy. Bà cô Thị là một kẻ không chồng, đã ngoài năm mươi tuổi và khi thấy Thị hỏi bà về cái việc ấy, bà đã một mực ngăn cản Thị đến với Chí Phèo "Ngoài ba mươi tuổi… ai lại còn đi lấy chồng", "Đàn ông đã chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ?".

Chính cái định kiến xã hội, định kiến cổ hủ về một người đàn bà đã qua tuổi lấy chồng không được lấy chồng nữa, định kiến về một người không cha mồ côi mẹ, định kiến về một kẻ xấu thì mãi mãi không thể tốt lên được đã cướp đi của Chí tất cả những hy vọng vừa le lói, đẩy hắn vào tận cùng của bi kịch cuộc đời.

Từ khi Thị Nở đến và "trút vào hắn tất cả những lời của bà cô" rồi "ngoay ngoáy cái mông đít đi về" thì hắn mới chợt hiểu ra rằng cái xã hội kia sẽ chẳng bao giờ công nhận mình. Ban đầu, hắn còn "ngạc nhiên", còn bỡ ngỡ không hiểu tại sao Thị lại từ chối hắn sau khi đã ân cần lo lắng, chăm sóc cho hắn đến thế. Thế rồi, "hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu, hắn bỗng nhiên ngẩn người". Từ lúc ấy, hắn gần như tuyệt vọng, bởi hắn đã hi vọng quá rằng hắn sẽ được thu nhận bởi cái xã hội ngoài kia, nhưng không, bị Thị Nở cự tuyệt thì cái xã hội ấy cũng sẽ cự tuyệt hắn như thế mà thôi. Hắn sẽ chẳng còn đường nào mà trở lại nữa!

Trong cơn tuyệt vọng đầy đau khổ, Chí lại tìm đến với rượu, bởi chỉ có rượu mới giúp hắn trở lại là hắn, là một con quỷ, "là một kẻ mạnh". Thế nhưng, càng lạ là hôm nay, hắn "càng uống lại càng tỉnh ra". Có lẽ là hắn say nhưng nếu như mọi lần, hắn quên hắn thảy tất cả mọi thứ xung quanh mình, cũng chẳng ý thức được nỗi đau khôn cùng của mình thì hôm nay, sau khi đã tìm lại được nhân tính con người, hắn mới nhận ra, mới hiểu được cái số phận đắng cay của mình mà thấm thía nó. Những giọt nước mắt của Chí Phèo lại lần nữa xuất hiện "hắn ôm mặt khóc rưng rức", thế nhưng chẳng còn là giọt nước mắt hạnh phúc trong yêu thương mà là giọt nước mắt của tận cùng đau khổ. Hắn khóc cho cuộc đời tăm tối của hắn, hắn vùng vẫy trong đám bùn lầy đen tối, muốn thoát ra, muốn trở lại với một "xã hội công bằng và thân thiện của những con người lương thiện" để được sống, được làm người lương thiện một lần nữa nhưng chẳng ai cho hắn cái quyền ấy, tất cả mọi người. Những định kiến của xã hội đã giết chết đi linh hồn một con người như thế, tước đoạt đi của con người ấy mọi thứ mà hắn có được, vùi hắn xuống tận sâu của bùn đen.

Lần uống rượu này của Chí, hắn lại như mọi lần lảo đảo và xách dao đi, ban đầu hắn lẩm bẩm tự nhủ phải đi "đâm chết cả nhà nó (Thị Nở), đâm chết con khọm già nhà nó". Hắn cứ lảm nhảm, "cứ đi, cứ chửi, cứ dọa giết nó", nhưng "nó" là ai? Lúc này, sau khi tỉnh ra, Chí Phèo mới thấm thía hơn bao giờ hết cái kẻ đã đẩy hắn đến bước đường ngày hôm nay, có lẽ chính thế nên hắn "cứ đi", nhưng chẳng rẽ vào nhà Thị Nở mà lại xông vào nhà cụ Bá. Trước mặt Bá Kiến, Chí Phèo "trợn mắt, chỉ vào mặt" lão mà dõng dạc lên tiếng đòi quyền làm người, quyền lương thiện, đòi lại khuôn mặt đã bị rạch nát của mình.

Những kẻ bị dồn đến đường ác một khi đã thức tỉnh trở về thì chẳng thể ác được nữa, bởi họ đã ý thức được nhân phẩm của mình, họ không thể chấp nhận kiếp sống của thú vật được nữa. Và Chí Phèo cũng vậy. Chí Phèo chết sau khi đâm chết kẻ đã gây ra nỗi đau khổ của cuộc đời mình, hắn chết trước ngưỡng cửa được trở lại cuộc sống, chết trong tâm trạng đầy bi kịch, đầy đau đớn. Nếu như trước đây, để được sống, Chí Phèo phải bán mạng, bán linh hồn cho quỷ dữ thì giờ đây, nhân phẩm trở về, hắn quyết liệt giữ lại linh hồn lương thiện của mình. Có nhiều ý kiến cho rằng Nam Cao đã thật tàn nhẫn khi cho Chí Phèo chết đi, thế nhưng, phải thật hiểu Nam Cao thì mới nhận ra, ông thực ra đã vô cùng nhân đạo khi cho Chí Phèo kết liễu cuộc đời mình như vậy. Bởi nếu hắn còn sống tiếp, thì hắn vĩnh viễn phải chịu kiếp cô độc, phải chịu đựng bi kịch khốn khổ của cuộc đời mình, chết đi, có lẽ hắn sẽ thanh thản,  và có thể sẽ lại được trở về làm một người lương thiện lần nữa.

Chí Phèo chết quằn quại giữa vũng máu, giữa niềm đau khổ vô hạn, và giữa khát khao thống thiết được trở lại làm người không thành. Câu hỏi cuối cùng của hắn với Bá Kiến, vừa đanh thép, vừa bi phẫn xót xa, khiến cho ai nghe xong cũng chẳng khỏi day dứt "Ai cho tao lương thiện?", ai cho hắn được một lần nữa là một con người, được sống một cuộc sống con người?

Cái chết của Chí Phèo và hành động giết chết Bá Kiến không chỉ mang một lớp ý nghĩa. Qua hành động giết chết Bá Kiến, Nam Cao như muốn nói rằng đây là một sự trả thù bằng máu, bởi chính những kẻ cường hào lọc lõi như Bá Kiến là những kẻ đã đẩy những người nông dân vào tăm tối, vào bước đường cùng tuyệt vọng, phải bán linh hồn cho quỷ dữ để được sống. Và một khi người nông dân ấy lấy lại được ý thức về nhân phẩm của mình, về quyền sống của mình thì chính chúng là những kẻ phải nhận lấy sự trả thù, nhận lấy cái chết đầu tiên. Còn cái chết của Chí Phèo, hắn đã chết bên ngưỡng cửa của cuộc sống lương thiện, đó là bi kịch của những người nông dân mong muốn có được một cuộc sống yên ổn, được hòa nhập với xã hội, được yêu thương nhưng lại bị cả xã hội cự tuyệt, đẩy đến đường cùng, đến cái chết.

Nam Cao đã vô cùng thành công khi khắc họa hình ảnh của Chí Phèo từ một người nông dân hiền lành bị tha hóa mà trở thành một con quỷ. Ông cũng thành công khi xây dựng những xung đột mâu thuẫn gay gắt giữa các tầng lớp trong xã hội để đặt nhân vật vào trong đó, vừa làm rõ nội tâm nhân vật vừa đẩy cao cao trào của câu chuyện, vừa làm rõ mâu thuẫn sâu sắc giữa họ. Ông đã dựng lên hình tượng Chí Phèo trở thành điển hình cho người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, vùng vẫy trong bùn lầy tăm tối, bị áp bức tới không còn hình dáng con người.

Ít có nhà văn nào có được cái nhìn đầy tinh tế và sâu sắc như Nam Cao, bởi ông xây dựng lớp nhân vật nào cũng đều thể hiện trong đó tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo này. Ông đã phản ánh được nỗi đau khổ và bi kịch cuộc đời của con người ấy và lý giải nó hết sức cặn kẽ và thấu đáo. Qua bi kịch của người nông dân, ông lên án chế độ phong kiến nửa thực dân với những định kiến hà khắc, với những kẻ cầm quyền ác độc đã khiến cho con người chẳng thể có được hạnh phúc dù là nhỏ nhoi. Ông cũng lên tiếng kêu cứu cho số phận những người dân nghèo, thấp cổ bé họng đầy đau khổ ấy, muốn họ được sống một cuộc sống lương thiện và hạnh phúc.

Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam, đặc biệt là hình tượng nhân vật Chí Phèo – một nhân vật đã trở thành điển hình trong dòng văn học hiện thực. Nam Cao thực đã thành công khi xây dựng tâm lý nhân vật một cách xuất sắc với nghệ thuật cấu tứ câu chuyện rất linh hoạt. Ngòi bút của ông đã điển hình hóa nhân vật Chí Phèo để đến hôm nay nhắc đến Chí Phèo, người ta lại nhớ ngay tới người nông dân nghèo, đau khổ khi bị tha hóa thành những kẻ lưu manh trong xã hội Việt Nam trước khi Cách mạng thành công.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 93

Giai đoạn những năm trước Cách mạng tháng 8 là thời kỳ vô cùng đen tối trong lịch sử dân tộc, trong đó số phận của những người nông dân dưới ách thống trị của thực dân phong kiến đã trở thành đề tài được nhiều nhà văn đương thời chú ý và khai thác tập trung, triệt để. Nổi bật trong số đó, phải kể đến các tác giả như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nguyễn Công Hoan với Tinh thần thể dục 1, 2, hoặc  Kim Lân với Vợ Nhặt,... Nhưng có lẽ chưa bao giờ người ta lại thấy số phận người nông dân đau đớn, tuyệt vọng đến tột cùng như trong các tác phẩm của Nam Cao, một nhà văn có lối viết lạnh lùng, chân thực đến trần trụi của nền văn học hiện thực Việt Nam. Chí Phèo là một nhân vật điển hình và gây ấn tượng mạnh mẽ trong văn đàn với số phận trái ngang và những bi kịch đớn đau tàn phá cả thể xác lẫn tâm hồn, từ chuyện bị lưu manh hóa, cho đến bị tha hóa thành con quỷ dữ, rồi cuối cùng đớn đau nhất là bi kịch bị từ chối quyền làm người.

Bi kịch của Chí Phèo có lẽ đã bắt đầu từ khi hắn mới lọt lòng mẹ, một đứa trẻ đỏ hỏn bị người ta bỏ rơi bên cái lò gạch cũ trên người chỉ quấn độc một cái váy đụp cũ, có biết bao nhiêu đáng thương và xót xa cho một kiếp người mới khởi đầu đã đầy đau thương? Hắn được đặt cho một cái tên dẫu đơn giản nhưng nhiều ý nghĩa, phải tên hắn là Chí, một cái tên hiền lành, đáng yêu biết bao. Đứa trẻ tội nghiệp ấy cũng chẳng có lấy nửa phần may mắn là được một gia đình tử tế nhận nuôi, mà bị truyền tay hết từ người này sang người khác, rồi cuối cùng lớn lên trong cái nôi nghèo khó của làng Vũ Đại. Thế rồi Chí cũng lớn lên yên ổn, trở thành một chàng trai khỏe mạnh, hiền lành, chất phác, tu chí làm ăn, trở thành anh canh điền cho nhà Bá Kiến, kiếm sống bằng chính mồ hôi công sức của bản thân. Không chỉ vậy con người anh còn nổi bật với những ước mơ dẫu giản dị nhưng cao đẹp, Chí ao ước có một mái ấm hạnh phúc, chồng làm ruộng vợ dệt vải, có mảnh vườn xinh, có vài con lợn. Đó không phải là mơ ước gì quá cao xa bồng bột, nhưng có lẽ đối với cuộc đời của chàng trai hơn 20 tuổi đầu này lại là một thứ viển vông, thậm chí còn là căn nguyên dẫn đến những tột cùng bi kịch. Điều ấn tượng thứ hai về con người hiền lành, chất phác này ấy là tấm lòng tự trọng, biết giữ liêm sỉ, trước sự ve vãn mời gọi của bà ba - vợ Bá Kiến, nhưng một chàng trai đang độ tuổi thanh xuân là Chí lại chẳng hề có chút suy chuyển, Chí chỉ thấy nhục nhã. Cái lương tâm con người không cho phép anh làm chuyện bại hoại ấy, dù là về thể xác hay cả về những lợi ích tiền tài khác, trong tâm hồn anh hiện lên một triết lý rất đáng để người ta trân trọng yêu thương rằng “Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. người ta không thích cái gì người ta khinh”. Thế mà, lẽ sống lương thiện, sạch sẽ ấy lại phải chịu cái kiếp vùi dập dưới ách thống trị của chế độ tàn ác, thực dân nửa phong kiến bởi chính cái lòng lương thiện của mình.

Từ Chí biến thành Chí Phèo, cũng chỉ bởi cái xấu xa đê tiện của lũ người thống trị, một người đàn bà đa dâm, lăng loàn, một người đàn ông sợ vợ, bất lực là Bá Kiến chẳng biết trút cái sự ghen tức, phẫn nộ của mình vào đâu ngoại trừ anh canh điền tội nghiệp. Và thế là Chí nghiễm nhiên được ban cho cái tội ăn cắp, ăn trộm, rồi bị tống thẳng vào tù 7, 8 năm trời, dở sống dở chết với lũ quan sai. Nhưng nó đâu phải là một cái nhà tù bình thường cho người ta cơ hội được sống, được cải tạo, mặc dù Chí cũng chẳng làm gì sai. Mà cái nhà tù ấy đã đày đọa, nhào nặn biến con người ta thành một kẻ ghê gớm, bặm trợn, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người từ biết tự trọng, liên sỉ thành một kẻ lưu manh, suy đồi về đạo đức, cũng chẳng thèm biết đến tự trọng là gì nữa. Còn đâu một chàng trai độ hai mươi tuổi sung sức, trẻ trung mà giờ đây người ta chỉ thấy ái ngại, khiếp sợ trước một con người có dáng vẻ khác thường, khác người “trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. Người ta đã không còn nhận ra anh canh điền hiền lành, chất phác ngày xưa nữa, mà trước mắt chỉ thấy một kẻ trông đặc như lưu manh, và rồi người ta lại càng chắc chắn điều đó hơn khi chứng kiến hắn uống rượu ăn thịt chó ở ngoài chợ suốt từ trưa tới chiều. Đến lúc đã say khướt thì chân nam đá chân chiêu mò đến nhà Bá Kiến vừa đi vừa chửi, không ai dám tiếp hắn hay chửi lại, thành thử ra người ta thấy xuất hiện một hình ảnh bi hài, người chó xướng ca khi “chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Rồi người ta còn bất ngờ hơn khi thấy thằng say rượu ấy sống chết lăn vào đánh nhau với Lý Cường con trai của Bá Kiến, đánh không lại thì nằm lăn ra ăn vạ, và ăn vạ một cách vô cùng cực đoan ghê rợn. Chí Phèo đập nát vỏ chai rồi tự rạch mặt mình, máu me chảy bê bết, sẵn sàng lên giọng thách thức với Bá Kiến “Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đây thôi”. Như thế có thể thấy rõ rằng, Chí Phèo đã hoàn toàn bị tha hóa về nhân cách trở thành một kẻ lưu manh chính hiệu, cực đoan và ghê gớm 

Thế nhưng, những tưởng sự liều mạng và ngoại hình kinh khủng của Chí sẽ khiến Bá Kiến sợ, nhưng trái lại nó lại trở thành món lợi cho kẻ gian xảo lọc lõi như Bá kiến, bởi vốn dĩ ông ta đã quá hiểu và quá quen với những kẻ như Chí Phèo. Sự u mê, ít học của Chí đã khiến hắn trượt dài trên con đường tha hóa nhân cách vào mức đường không thể vãn hồi. Bá kiến chỉ bằng vài lời ngon ngọt, êm tai, thêm vài đồng tiền đã có thể dỗ dành Chí Phèo trở thành tay sai cho mình, thay mình đâm thuê chém mướn, trở thành con qủy dữ của làng Vũ Đại. Còn đắng cay thay Chí  Phèo lại không hề nhận ra mình đang tiếp tay cho kẻ thù, đang tiếp tay cho cái ác, mà vẫn ngày ngày bán lẻ nhân cách để lấy vài đồng bạc uống rượu triền miên hơn chục năm trời. Để rồi trong tầm mắt của làng Vũ Đại, Chí đã trở thành một con gì ấy rất lạ, không phải một con người có nhân tính mà là một gương mặt “vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo”. Đọc mà thấy xót xa cho một kiếp người chẳng được làm người, mà lại được xem như một “con vật lạ”, từ một kẻ vốn chỉ ham rượu chè đến một kẻ triền miên trong những cơn say dài, “cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận” Suốt 15 năm, nhưng đời người có được bao nhiêu cái 15 năm ấy, Chí Phèo đang tự tay chôn vùi cuộc đời mình với sự ủng hộ tuyệt đối của bè lũ thống trị phong kiến tay sai, thật xót xa và đau đớn. Rượu đã dẫn lối cho Chí lao vào những cuộc thanh trừng mà Bá Kiến chỉ đạo, biết “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm!”, rồi riết hắn nghĩ đó chính là cuộc đời mình. Nhưng người ta vẫn có thể nhận ra rằng, Chí Phèo dẫu có tha hóa, lưu manh hóa thì hắn vẫn khao khát được giao tiếp lắm, nhưng cái cách giao tiếp của hắn làm người ta ngày càng sợ và xa lánh. Hắn chửi trời, đất, chửi tất cả và “chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo?”, để khiến hắn đớn đau, lay lắt trên đời hơn 40 năm ròng rã. Cuối cùng thì chẳng ai thèm quan tâm đến cái thằng chuyên chửi ấy, người ta chỉ cốt sao tránh cho thật xa, Chí Phèo phải nhận bi kịch thất bại trong giao tiếp, bị từ chối quyền làm người trong cô độc và tuyệt vọng.

Có lẽ bi kịch của Chí chỉ dừng lại ở đấy thôi, nhưng không cái xã hội thối nát này nó không dồn con người ta vào đường cùng thì có lẽ vẫn không chịu buông tha. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở, chính là bước ngoặt lớn nhất trong đời Chí, kể từ cái ngày hắn bị tống vào tù. Người đàn bà xấu đau xấu đớn ấy, lại đem đến cho Chí những nhận thức sáng sủa về thế giới xung quanh, đó là tiếng chim hót ríu rít, tiếng người nói chuyện cười đùa, và cả thứ ánh sáng mặt trời qua vách nứa mà có lẽ gần 20 năm qua hắn chẳng hề ngó ngàng tới. Sau khi nhận thức được sự sống ngoài kia, hắn mới nhìn lại cái thân thể yếu ớt, rã rời của mình, hắn chợt nhận ra mình đã bước sang hẳn bên kia con dốc của cuộc đời trong vô thức. Rồi Chí Phèo cũng dường như dự đoán được tuổi già ốm yếu, bệnh tật và sự cô độc. Hắn còn sợ cái đói cái rét hơn cả sự cô đơn, bởi vốn dĩ hắn đã cô đơn lắm rồi. Những lời tình tứ, ân cần và bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở đã làm bùng cháy dậy những khao khát hạnh phúc, khao khát được quay về cuộc đời lương thiện, làm sống lại những mơ ước thời trai trẻ “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!(...). Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện…”.. Sau ngần ấy năm bê tha, cuối cùng cái tâm hồn thiện lương, đã quay trở lại với Chí, hắn khóc vì xúc động trước cái tình người của Thị Nở, rồi sau đó là tình yêu với thị, và những mong ước có lẽ sẽ trở thành hiện thực. Và Thị Nở sẽ trở thành cầu nối dẫn hắn về với cuộc sống bình thường, được hưởng hạnh phúc và hắn lại như xưa, sống chan hòa trong vòng tay yêu thương của làng Vũ Đại.

Nhưng trời nào có chiều lòng người, chỉ một câu nói chua ngoa gay gắt của bà cô, người đàn bà ế chỏng trơ, thấy cháu gái có chồng thì liền không cam lòng, và sự dở hơi của Thị Nở đã hoàn toàn chặt đứt mọi hy vọng của Chí, đẩy hắn vào vực sâu không lối thoát. Khiến hắn nhận ra sự thật nghiệt ngã rằng xã hội và những định kiến sẽ chẳng bao giờ cho hắn làm lại từ đầu, không bao giờ. Việc Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát có thể xem là một cái kết hợp lý nhất cho những bi kịch chất chồng của nhân vật. Là minh chứng cho sự quay lại của tính người, bản chất lương thiện bất diệt trong tâm hồn Chí Phèo, đồng thời cũng là nhận thức của Chí về bộ mặt của những kẻ cầm quyền, mà chỉ khi tiêu diệt chúng thì bi kịch mới kết thúc triệt để.

Chí Phèo của Nam Cao là một tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất cho nền văn học hiện thực Việt Nam trước Cách mạng. Phản ánh sâu sắc số phận cùng khổ của người nông dân trong xã hội cũ và sự tàn ác, vô nhân đạo của giai cấp thống trị đã đẩy con người ta vào bước đường tha hóa, bi kịch đến tột cùng. Bên cạnh đó một giá trị không kém phần quan trọng của tác phẩm đó chính là bộc lộ được vẻ đẹp bất diệt của tấm lòng lương thiện, tình người còn ẩn sâu trong tâm hồn nhân vật, dẫu rằng nó có bị giày vò, chà đạp bởi đủ thứ bất công.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 94

Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam hiện đại.  Trong suốt sự nghiệp cầm bút của mình, ông luôn có những trăn trở, nghĩ suy về sống và viết. Mỗi tác phẩm của Nam Cao đều hướng về con người, vì con người, và với ông, đỉnh cao của sự sáng tạo là những cái mới mẻ, ông từng viết: "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có". Có lẽ chính bởi những quan niệm nghệ thuật chân chính ấy mà Nam Cao đã cho ra đời hàng loạt những tiểu thuyết, truyện ngắn thành công, đánh đấu tên tuổi của mình trên văn đàn văn học.

Truyện ngắn "Chí Phèo" là tác phẩm xuất sắc cho thấy được tài năng nghệ thuật trong ngòi bút điêu luyện của nhà văn, đồng thời qua đó phản ánh được số phận con người với tấn bi kịch đau đớn nhất- bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tư tưởng của tác phẩm.

Chí Phèo xuất hiện trong tác phẩm với tiếng chửi đời, chửi người một cách bất cần. Hắn chửi mà chẳng ai màng quan tâm, để ý tới, tiếng chửi chứa đựng cả những sự xót xa, cả đau thương và tủi nhục. Phải chăng Chí cũng đang khát khao có được sự quan tâm, lời hỏi han từ ai đó, nhưng chẳng một ai, chẳng một ai trong cái làng ấy thực lòng để tâm đến Chí. Tiếng chửi chua chát ấy mở đầu cho câu chuyện thương tâm về cuộc đời Chí.

Chí Phèo vốn sinh ra đã bất hạnh, thiếu thốn sự yêu thương, tình thân gia đình. Hắn được một người đi thả ống lươn thấy với bộ dạng trần truồng đặt trong cái váy đúp nơi lò gạch cũ bỏ không nhặt về rồi đem cho một bà goá mù. Trớ trêu thay, mụ lại bị đem bán cho phó côi, một người già mà không có con. Khi bác phó côi chết đi, Chí lại sống một thân một mình, bơ vơ.

Cuộc đời không may mắn ấy lại cứ thế vận vào con người tội nghiệp kia. Chí phải đi ở làm thuê cuốc mướn để có cái ăn nuôi sống bản thân mình, dù vậy, Chí vẫn rất chăm chỉ lại lương thiện và có lòng tự trọng. Cũng như bao người khác, Chí cũng khát khao có được bình yên trong ngôi nhà nhỏ "có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải", vậy đấy, những người nông dân nghèo họ đâu mong giàu sang phú quý chỉ mong được ấm êm, tình cảm yêu thương gắn bó dành cho nhau rồi cùng nhau cố gắng mà làm ăn vậy thôi. Nhưng ngay cả đến cái ước mơ nhỏ nhoi ấy cũng xa vời với Chí, đắng cay hơn, Chí phải trải qua những bi kịch tồi tệ nhất cuộc đời.

Vào làm thuê cho Bá Kiến, vì sự lẳng lơ của bà vợ ba trẻ mà Chí Phèo phải chịu cái ghen oan của Bá Kiến. Bị đẩy vào tù tội ngót 7, 8 năm trời, Chí Phèo trở thành một con người khác, một còn người mất đi cả hình hài vốn có, mất đi cả nhân tính trước đây, giờ đây người ta xem Chí như một con quỷ dữ của làng Vũ Đại..

Chí Phèo trở về với cái ngoại hình ghê sợ: "Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Trong bộ dạng với chiếc quần nái màu đen, cái áo tây vàng, ngực, cánh tay chạm trỗ những rồng phượng, ai nhìn thấy cũng phải thốt lên "trông gớm chết!". Cái nhân dạng xấu xí, tồi tệ đến thế nào mà còn có tính cách hướng thiện thì người đời còn để tâm, nhưng Chí Phèo ra tù tính tình cũng đổi khác, hắn uống rượu say khướt cả ngày từ trưa tới tối, rồi vác thân đến nhà Bá Kiến làm loạn ăn vạ. Tưởng cương quyết vạch tội ác của bầy lũ thất đức kia những chỉ vài câu dỗ ngọt, vài chén rượu thừa, vài đồng bạc thuê, Chí lại xuôi lòng mà làm thuê cho hắn "Chí Phèo chẳng biết họ hàng ra làm sao, nhưng cũng thấy lòng nguôi nguôi....Vậy mà không: cái cụ bá thét ra lửa ấy lại xử nhũn, mời hắn vào nhà xơi nước. Thôi cũng hả, đã xử nhũn thì hắn vào". Tên Bá Kiến độc ác kia lại dàn xếp với ý nghĩ ngông cuồng có tính toán của hắn: " Không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò? " để dùng Chí Phèo như một tên lưu manh, đầu bò. Và Chí đã sập bẫy Bá Kiến, từ đấy hắn làm hại không biết bao nhiêu người, phá phách của cải của bao nhiêu gia đình lương thiện. Hắn châm lửa đốt nhà của mụ hàng rượu, hắn đòi nợ cho Bá Kiến rồi tự huênh hoàng: "anh hùng làng này cóc có thằng nào bằng ta!". Được nhận vài đồng bạc, vài sào ruộng, Chí càng hả hê sung sướng, rồi đâm đầu theo tên Bá Kiên gian hùng, hiểm độc. Theo thời gian, hắn cứ thế như một kẻ vô danh, không tên không tuổi, "Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi? Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó không còn phải là mặt người; nó là mặt của con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi?". Hắn không có cả thẻ biên tuổi, trong làng xem hắn là dân lưu tán, vậy mà tội lỗi của Chí  nếu viết ra sớ cũng dài ngốn giấy "Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm!". Đau đớn thay cái xã hội với những kẻ tàn ác, những kẻ vì lợi ích, mục đích cá nhân mà đẩy con người đến đường cùng của sự tha hoá, dạy con người đi từ tội lỗi này đến tội lỗi khác. Chí trở thành một kẻ gian ác bởi bàn tay kẻ gian ác tạo nên, Chí giờ đây không còn là Chí của năm nào nữa, Chí chẳng hề biết được rằng mình chính bây giờ lại "là con quỷ dữ của làng Vũ Ðại". Người ta xa lánh, sợ hãi hắn như xa lánh một điều gì đó đáng sợ, ghê tởm. 

Những tưởng rồi sẽ chẳng có ai đánh thức được phần người trong kẻ tha hoá kia. Nhưng chính trái tim yêu thương hay lòng thương hại của một cô gái xấu xí lại cho Chí cảm nhận được tình người. Chí gặp Thị Nở nơi vườn chuối khi hắn đang say khướt, sự thú vị mà hắn cảm nhận được từ một người "ma chê quỷ hờn" làm hắn "rộn rạo khắp người". Và sau cái đêm trăng sáng ấy, Chí mở mắt, cảm nhận được hết những điều xung quanh mà bấy lâu hắn không hề biết, không hề quan tâm tới, lòng hắn có chút bâng khuâng, lạ lùng: "Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá", rồi hắn nôn nao nhớ lại những ước mơ bình dị xưa kia của mình. Bát cháo của Thị đã cứu vớt tâm hồn Chí, Chí bắt đầu thấy được thực tại quá nghiệt ngã của mình, nghĩ về một tương lai đầy những nỗi cô độc, đói rét ,ốm đau, hắn bắt đầu thấy sợ hãi, sợ hãi tột cùng. Còn biết sợ là còn có tính người, còn biết sợ mới chính là con người thực trong Chí. Chí bắt đầu hồi sinh chính mình, bắt đầu biết nhận thức về cuộc đời mình một lần nữa. Chí cảm động đến phát khóc khi bưng bát cháo trên tay, bởi từ trước tới nay miếng ăn đều do hắn cướp bóc mà có được, Thị là người đầu tiên cho hắn cháo một cách tự nguyện như thế. Chí thấy ăn năn và hối hận, Chí khát khao, nghĩ suy được làm người lương thiện, được cùng sống vui vẻ với mọi người xung quanh: "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được".

Lấp lánh lương tri trong người Chí lại không thể thắng nổi sự tàn bạo của xã hội lúc bấy giờ. Chí một lần nữa lại rơi vào bi kịch. Hắn muốn được chung sống cùng Thị nhưng Thị lại cự tuyệt hắn, những lời lẽ cay nghiệt, mỉa mai nhưng là sự thực của bà cô khiến hắn càng tức giận, đau đớn. Dù đã cố gắng nhưng mọi sự đều không thể thay đổi bởi cái định kiến, nghĩ suy mà người ta gán vào trong cái nhân hình của Chí, người ta khinh sợ Chí, không chấp nhận một kẻ như Chí làm chồng. Nỗi cay đắng cuộn trào, sự căm thù càng lớn, Chí vác dao hòng giết bà cô nhưng bước chân hướng đến nhà tên Bá Kiến, bởi trong Chí lúc này đã hiểu ra rằng, kẻ đẩy hắn vào đường cùng, vào kết cục tàn nhẫn bị thảm này là tên Bá Kiến hung tàn chứ không là ai khác. Chí đã giết chết Bá Kiến, kết thúc cuộc đời đầy đau khổ, bi đát của chính mình. Một cái chết đáng thương, một cái chết để lại cho lòng người những nghĩ suy , trăn trở, cái chết tố cáo một xã hội thực dân đã đẩy những người khốn khổ vào cái chết bi thương. Đến khi chết, Chí vẫn kêu gào những tiếng xót xa: "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa”. “Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không? Chỉ có một cách... biết không! Chỉ có một cách là... cái này biết không?"

Bằng việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh điển hình, Nam Cao đã khắc hoạ nên nhân vật Chí Phèo hết sức thành công. Qua nhân vật Chí Phèo ta hiểu hơn được những khốn khổ của người nông dân trước cách mạng, thêm căm phẫn một xã hội mà ngay chính cả quyền được sống, được làm người của con người cũng bị tước đoạt.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 95

Cùng viết về đề tài người nông dân nhưng Nam Cao lại đi sâu vào khai thác bi kịch con người bị lưu manh, tha hóa. Tác phẩm tiêu biểu nhất cho mảng đề tài này của ông là truyện ngắn "Chí Phèo". Đây là tác phẩm được đánh giá như một kiệt tác của nền văn học Việt Nam hiện đại với nhân vật điển hình là Chí Phèo.

"Chí Phèo" được sáng tác năm 1941 với nhan đề đầu tiên là "Cài lò gạch cũ". Sau đó, nhà xuất bản Đời mới đã đổi tên thành "Đôi lứa xứng đôi" và khi in lại trong tập "Luống cày" Nam Cao đã đặt lại tên tác phẩm là "Chí Phèo". Truyện ngắn này đã khắc họa số phận của một con người từ anh canh điền hiền lành, lương thiện trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Không ai khác, đó là Chí Phèo.

Chí Phèo là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Chí có hoàn cảnh xuất thân thật đáng thương, tội nghiệp. Hắn bị bỏ rơi bên cái lò gạch cũ ở trạng thái "trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp". Một người đi thả ống lươn nhặt được Chí rồi "đem cho một người đàn bà góa mù". Người đàn bà này "bán hắn cho một bác phó cối không con và khi bác phó cối này chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ". Chí bị chính bố mẹ của mình bỏ rơi và trở thành một món hàng mang ra trao đổi, mua bán. Đến năm hai mươi tuổi, hắn đi ở cho nhà bá Kiến, một người có nguồn gốc gia đình thuộc tầng lớp thống trị. Chí Phèo mang bản chất của con người hiền lành, lương thiện. Thuở bé, Chí được nuôi nấng bởi những người nông dân chất phác. Lớn lên, Chí biết lao động để tự nuôi sống bản thân. Khi bà ba bá Kiến bắt hắn "bóp chân mà lại bóp lên trên nữa" khiến chí "thấy nhục hơn là thấy thích", thấy nhục chứ không thấy yêu đương gì. "Hai mươi tuổi, người ta không hoàn toàn là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt" và "người ta không thích những gì người ta khinh". Trước khi đi ở tù, Chí Phèo là một người lương thiện, có nhân cách và lòng tự trọng.

Vậy mà, sau quãng thời gian ở tù, hắn thành một người khác, một kẻ lưu manh, côn đồ. Cơn ghen vô cớ của bá Kiến là nguyên nhân đẩy Chí vào tù và trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại. Nam Cao đã miêu tả Chí: "Trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét trạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế". Ngoại hình ấy đã khiến mọi người thấy hắn "trông khác hẳn" và "trông gớm chết". Chí không mang bộ mặt của con người mà hắn mang bộ mặt của "một con vật lạ". Không chỉ biến dạng về nhân hình, Chí Phèo còn tha hóa cả về nhân tính. Hắn triền miên trong những cơn say, "cứ rượu xong là hắn chửi". Hắn chửi trời, chửi đời, chửi tất cả làng Vũ Đại, "chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn" và chửi cả "đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nổi này". Hắn cất tiếng chửi vì hắn say rượu, vì hắn cô đơn lạc loài giữa xã hội. Tiếng chửi của Chí tuy vô thức nhưng lại hoàn toàn có ý thức. Hắn chửi vì sự bất lực, bế tắc, chửi vì không ai thèm giao tiếp với hắn. Hắn đã bị tước đoạt quyền làm người khi sự tồn tại của hắn không được ai công nhận. Chí sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ và trở thành tay sai đắc lực cho bá Kiến. Lần thứ nhất Chí đến nhà cụ bá để đòi món nợ máu vì hắn đã xác định được kẻ thù. Hắn hung hăng, gọi cả tên tục nhà bá Kiến ra mà chửi nhưng bằng những lời dụ dỗ ranh mãnh, bá Kiến đã mua chuộc được Chí làm tay sai cho mình. Khi bá Kiến nói Chí Phèo với lí Cường có họ hàng với nhau hắn đã tự đắc, thấy lòng cũng "nguôi nguôi". Hắn đã "phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện". Hắn làm tất cả những việc ấy trong khi say, "hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm".

Tưởng chừng con quỷ dữ ấy đã mất hết đi nhân tính nhưng bản chất lương thiện chỉ bị khuất lấp đi và nó chưa hoàn toàn lụi tắt. Sự xuất hiện của thị Nở trong cuộc đời Chí như làn gió thổi vào đống tro tàn đã tắt từ lâu, thị đã khơi dậy bản chất vốn có của hắn. Cuộc gặp gỡ ấy tuy tình cờ nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Chí Phèo. Đây là cuộc gặp gỡ kì lạ và có lẽ sẽ không xuất hiện lần thứ hai trong văn học hiện đại. Trong một đêm uống rượu say, hắn gặp thị ngủ quên khi ra sông kín nước rồi họ "ăn nằm" với nhau. Năm ngày sống với thị Nở là năm ngày Chí trở về làm một người lương thiện đúng nghĩa.Thị Nở đã làm hồi sinh, thức tỉnh Chí Phèo, tình yêu và sự quan tâm của thị khiến Chí cảm động. Chí Phèo đã thức tỉnh lương tâm, muốn làm hòa với tất cả mọi người và muốn làm một người hiền lành, lương thiện. Bát cháo hành thị Nở nấu cho Chí ăn giải cảm khiến Chí "thấy mắt mình hình như ươn ướt" bởi đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho, là lần đầu tiên hắn "được săn sóc bởi một bàn tay đàn bà". Sau khi gặp thị Nở, Chí Phèo rất tỉnh táo và sợ rượu. Trong trạng thái ấy, Chí nghe thấy những thanh âm của cuộc sống thường ngày như tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ, anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Rồi hắn "nao nao buồn". Hắn nhớ đến ước mơ "có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải", "nuôi một con lợn làm vốn liếng", "khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Chí thấy mình già, cô độc, thấy mình đã sang cái dốc bên kia của cuộc đời. Lần đầu tiên sau bảy, tám năm ở tù về, Chí được sống với cảm giác của con người. Hắn đã ý thức được thực tại của mình: tuổi già, đói rét, ốm đau và hắn sợ sự cô đơn. Trước lòng tốt và tình thương yêu của thị Nở, Chí tỉnh táo để nhận ra thị có duyên và khi yêu thị cũng biết lườm. Lúc tỉnh táo, trông Chí rất hiền, những tính cách của một con vật đã nhường chỗ cho sự lương thiện lên ngôi. Chí khao khát có một mái ấm với thị Nở. Chí đã bộc lộ niềm ước mong ấy qua câu nói: "Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ"? và câu nói được coi như một lời cầu hôn, tỏ tình: "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui". Trong văn chương hiện đại có câu tỏ tình nào chân thật và hay đến thế? Chí Phèo đã thực sự sám hối. Nam Cao đã khơi dậy lòng đồng cảm nơi bạn đọc, nhà văn khiến chúng ta nhận ra một con quỷ dữ như Chí Phèo cũng có ước mơ về hạnh phúc gia đình. Nhưng ước mơ ấy không thể thực hiện bởi định kiến xã hội đã không chấp nhận và ủng hộ đôi lứa xứng đôi này. Lời nói của bà cô thị Nở đã thể hiện rất rõ ràng điều ấy: "Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ". Vì những lẽ trên mà thị Nở cự tuyệt tình yêu của Chí Phèo. Đây cũng là lúc Chí không còn nơi bám víu bởi thị đã từ chối hắn, chiếc phao cứu sinh duy nhất của cuộc đời Chí đã không còn nữa. Chí rơi vào bi kịch bị cự tuyệt tình yêu, cự tuyệt quyền làm người. Còn gì đau đớn hơn khi bị chặn đứng con đường hoàn lương? Định kiến xã hội đã đè bẹp, bóp nát khát vọng chân chính của Chí.

Hắn đến nhà bá Kiến để đòi lương thiện vì hắn biết không ai khác ngoài bá Kiến đã đẩy mình rơi vào bi kịch này. Tiếng nói đòi lương thiện của Chí đã để lại bao day dứt: "Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa". Hắn rút dao, xông vào và giết bá Kiến rồi tự sát. Cái chết của Chí là cái chết đầy tức tưởi: hắn "giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi", mắt trợn ngược, mồm "ngáp ngáp", "ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra", hắn muốn nói nhưng không ra tiếng. Con đường trở về làm người lương thiện phải trả giá bằng cái chết đau đớn. Chí Phèo chết để giải thoát cho sự bế tắc của chính mình, Chí chết để đòi quyền được sống. Cái chết ấy đã lấy đi bao nước mắt, sự xót xa của bạn đọc. Chi tiết kết thúc tác phẩm là chi tiết thị Nở "nhìn nhanh xuống bụng" và "thoáng thấy hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua". Nam Cao thật tài tình khi xây dựng chi tiết này. Phải chăng, ông muốn khái quát rằng nếu xã hội vẫn còn những kẻ thống trị lừa lọc, xảo trá như bá Kiến thì cũng sẽ còn những số phận bi kịch như Chí Phèo. Và biết đâu bên cái lò gạch bỏ hoang ấy lại xuất hiện một Chí Phèo con ra đời. Chí Phèo là nhân vật điển hình cho những người nông dân bị tha hóa, biến dạng cả về nhân hình và nhân tính ở làng quê Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nhà văn đã xây dựng nhân vật Chí Phèo bằng nghệ thuật trần thuật tự nhiên, linh hoạt và hệ thống ngôn từ đặc sắc, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả đã đạt đến đỉnh cao. Giọng điệu Nam Cao lạnh lùng nhưng luôn chan chứa tinh thần nhân đạo.

Chí Phèo là một sáng tạo độc đáo của Nam Cao, được ông xây dựng là nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ngoài ra, thông qua nhân vật này, nhà văn còn lên tiếng tố cáo hiện thực xã hội vô nhân đạo, cướp đi sự lương thiện của con người và chặn hết mọi con đường hoàn lương của họ. Đồng thời, ông cũng thể hiện tiếng nói nhân đạo sâu sắc khi lên tiếng đòi quyền sống, quyền lương thiện cho con người.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 96

     Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.

     Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.

     Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.

     Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.

     Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.



Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.

     Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.

     Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.

     Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.

     Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.



Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.

     Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối củng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay. Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?

     Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.



Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo 97

     Có hạt cát vô tình rơi vào làm xót lòng trai. Tháng năm… năm tháng hạt cát không mang tên, không số phận. Hạt cát lại trở thành hạt ngọc quý giá cho đời. Có những tác phẩm ví như đứa con mang nặng đẻ đau qua chín tháng mười ngày của người mẹ: những nhà văn đầy tâm huyết và trách nhiệm với nghề Nam Cao với thiên chức cao cả đó và thai nghén nên đứa con tinh thần Chí Phèo, bên cạnh những Lão Hạc, Đời thừa, Sống mòn.

     Chí Phèo, tên nhân vật được Nam Cao đặt thành tên tác phẩm (sau hai lần đổi tên), xuất hiện xuyên suốt tác phẩm với một tấn bi kịch “bị cự tuyệt quyền làm người”. Nghĩa là từ lúc chào đời Chí đã mang lấy cái bi kịch tội nghiệp của số phận! Nhưng có lẽ những diễn biến trầm trọng và hành động của Chí từ lúc gặp Thị Nở đến khi tự kết liễu cuộc đời là khúc ca ai oán nhất, có thể gọi là bi kịch nhất trong những thứ gọi là bi kịch của Chí.

     Và Nam Cao, sự hóa thân hài hòa trong cuộc sống của người nông dân nghèo thời kì 1930-1945 với tấm lòng nhân đạo sâu sắc đã tạo nên giá trị của tác phẩm thông qua ngòi bút đầy tài năng của ông.

     “Tài sản” duy nhất của một đứa trẻ bị vứt trong cái lò gạch hoang được người ta cứu vớt trước khi sắp chết chỉ là cái váy đụp “rách như tổ đỉa”. Đó là hình dạng nguyên vẹn của Chí Phèo lúc mới ra đời. Rồi Chí lớn lên, trở thành anh canh điền, sau mấy lần “thay cha đổi mẹ” mà cũng không phải như thế, Chí có được làm con của ai bao giờ đâu? Anh canh điền chân đất, chăm làm lụng ấy vì sự ghen tuông của Bá Kiến đã bị chế độ nhà tù đế quốc “đào tạo” mất đi lương tính sau ngày trở lại quê hương.

     Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ xuống vì hắn. Chính Bá Kiến và uy quyền giai cấp thống trị mà hắn là đại diện cùng sức mạnh của đồng tiền đã tha hóa con người của Chí.



Chí mất hẳn nhân hình và nhân tính, hắn chỉ còn có men rượu làm bạn. Ai cũng trách hắn, hắn là kẻ cô đơn, nhất là chính bản thân hắn trong mê hồn trận của mình, hắn đã không cảm nhận được hay đôi khi cảm nhận nhưng không thể thay đổi được mọi việc mọi diễn biến xung quanh vì lúc nào hắn cũng say, rồi la hét, rạch mặt ăn vạ để đòi nợ cho gia đình tên Bá Kiến.

     Hắn vẫn đương say, vẫn là “con quỷ dữ” cho đến cái đêm trăng ấy bên bờ sông. Hắn bắt gặp Thị Nở. Ả nằm ngủ ngon lành, bộ dạng “hớ hênh” làm thức tỉnh một cái gì đó trong hắn. Đó không phải là tình yêu, mà chỉ là “bản năng” song cũng chẳng phải bản năng của con người bình thường! Rượu điều khiển hắn chứ hắn không tự chủ được bản thân từ khi nhận năm hào của Bá Kiến nữa rồi.

     Sau đêm ấy, hắn bị ốm liệt giường. Mọi sự chắc cũng sẽ diễn ra bình thường, hắn cũng sẽ say, sẽ có một mình trong túp ều ọp ẹp của hắn. Nhưng Thị Nở với một chút tình thương trong tâm hồn người phụ nữ đã đến với hắn. Thị mang cho hắn một bát cháo hành. Ôi lạ thật, Chí đã từ ngạc nhiên rồi đến xúc động nghẹn ngào. Bát cháo là ân huệ từ trước đến nay hắn được nhận từ sự quan tâm, chăm sóc của một con người. Mắt hắn rưng rưng, đây là một sự thay đổi đầu tiên trong hắn, tự bao giờ có thấy hắn khóc bao giờ? “Ai chưa ăn cháo hành không biết là cháo rất ngon”. Phải chăng đời đã dành cho hắn chút ân tình? Và điều gì đã diễn ra ở con người ấy?

     Hắn đã dần bỏ rượu, cứ nghe mùi rượu là hắn ớn, những phút yêu đương với Thị Nở chiếm hết thời gian của hắn. Hắn tưởng Thị Nở đã chấp nhận hắn thì mọi người ắt sẽ chấp nhận được hắn thôi.

     Nhưng cánh cửa Thị Nở mở cho hắn về với cuộc đời vội khép lại. “Con mụ” dở hơi ấy vì “nhận ra mình còn một bà cô” nên đã “dừng yêu” về nhà hỏi cô. Bà cô là đại diện cho những hà khắc, những định kiến của xã hội cùng với tâm tính của một bà già còn “ở vậy” đã ngăn cấm cháu đến với Chí, một thằng suốt đời chỉ biết rạch mặt ăn vạ.

     Chí Phèo nào biết mọi việc diễn ra theo chiều hướng xấu. Buổi sáng chờ Thị Nở đối với hắn thật là dài, và hắn thấy “Chao ôi! Buồn”. Mọi vật mà hằng ngày vì say mèm hắn quên để ý nên thứ gì cũng thấy mới mẻ. Hắn muốn uống rượu nhưng để có thời gian mà yêu, nên thôi. Diễn biến tâm trạng của hắn thật là khó diễn đạt. Có lẽ nào con người của ý chí, của lương tri đã sống lại trong hắn? Sự vật chung quanh bừng sáng, âm thanh mái chèo khuấy nước nghe là lạ. “Chao ôi! Buồn”, có gì đâu mà chẳng buồn đối với hắn. Hắn chợt nhớ… những ước mơ thời tuổi trẻ một mái gia đình nghèo thôi chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, có chút ít vốn thì nuôi mấy con lợn trong nhà. Anh canh điền của tuổi đôi mươi chợt hiện về trong Chí. Chí khao khát được trở lại với cuộc sống, trở lại với cộng đồng và trong ý nghĩ của Chí thì Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối đưa hắn trở về với đồng loại.



Bao dự định tốt đẹp mà hắn với Thị Nở sẽ làm như mạch suy tưởng của anh Chí với khát vọng sống ngày xưa. Chí chờ Thị và thời gian như bỡn cợt hắn. Và rồi Thị đến, Thị đem đến cho hắn, nếu lần trước là bát hành nóng, thì hôm nay là gáo nước lạnh tạt vào mặt. Mọi sự bất ngờ quá. Hắn cứ tưởng Thị đùa nên lấy làm thú vị. Rồi hắn ngạc nhiên! Và hắn hiểu. Hiểu cái xô của Thị. Lần thứ hai Chí khóc. Không thể mô tả bản mặt của Chí lúc này, hắn rất đáng thương. Nam Cao cũng chỉ có thể nhìn nhận đấy là bản mặt của một con vật lạ khác mặt con quỷ trước đó.

     Chí uống mọi lúc để có can đảm làm việc gì đó như đi đòi nợ, rạch mặt ăn vạ, hắn chỉ việc uống cho thật say. Quái, sao càng uống càng tỉnh, “những thằng điên và những thằng say không bao giờ làm những việc mà trước đó hắn định làm”. Chí Phèo định đến nhà để “giết chết con mụ khọm già”. Hắn nghĩ tại bà cô của Thị Nở. Hắn xách dao đi trong trạng thái không say cũng không tỉnh nhưng không phải đến nhà bà cô Thị Nở mà lối ấy đến nhà Bá Kiến.

     Khi không còn gì, dường như lúc ấy người ta lại còn rất nhiều. Chí còn gì đâu, nhân hình đã mất, nhân cách cũng không còn, Thị Nở là điểm tựa là niềm ao ước duy nhất của Chí để đưa Chí trở về với cuộc sống của cộng đồng. Nhưng Thị Nở đã khép mất cánh cửa hi vọng của đời Chí. Chỉ còn mối thù ai đã xô Chí đến con đường này, tiến không được, lùi cũng không xong. Có lẽ mọi sự đã hết nhưng Chí phải làm cho xong một việc. Đòi lương thiện cho mình.

     Lần thứ ba, Chí đến nhà Bá Kiến, kẻ mà ngày mới ra tù về làng Chí định sẽ đến đòi nợ. Lần này Chí không đến lấy mấy hào bố thí, không đòi đi tù mà đòi cái thiêng liêng, cao cả nhất của con người mà chính Bá Kiến đã trực tiếp tước mất của Chí.

     “Tôi đến để đòi lương thiện”. Câu nói xuất phát từ tận đáy lòng con người đang đi đến mức đường cùng của bi kịch. Chí Phèo đã vung dao giết chết Bá Kiến và Chí tự kết liễu đời mình ngay ở ngưỡng cửa trở về. Câu hỏi nhức nhối đến đau thương sau cùng của Chí “Ai cho tao lương thiện” và những lần Chí hét “Thì đây… này” chính là câu trả lời của bản thân Chí.



Bằng cảm nhận, người đọc thấy cái lôgic tất yếu lời nói và hành động của Chí Phèo ở cuối tác phẩm là rất tự nhiên, rất phù hợp. Dĩ nhiên dù có những nghiệt ngã và bất ngờ – cái nghiệt ngã cái tự nhiên, cái lạ như quy luật cuộc sống! Thế nhưng, thử đọc lại và suy ngẫm, ta khó cắt nghĩa được thậm chí ta thấy đối ngược với ý niệm ban đầu: Tại sao Chí Phèo lại có thể nói như một nhà hiền triết? Tại sao con người bản chất nông dân ưa nôm na mách qué và đã có một quá trình bị rượu u mê lại có thể đường hoàng dõng dạc và nói mạch lạc, minh triết đến sâu thẳm cái ước mong vô vọng của mình? Thực ra, cái dõng dạc cái vênh mặt kiêu ngạo, cái lắc đầu khi đứng trước Bá Kiến lần này là “thừa kế” những lần say đến đòi tiền nhà Đội Tảo, những lần chủ động hung hăng đến gây tai họa cho dân Vũ Đại. Nhưng có lẽ cái hành động rất linh hoạt này, Chí đã “học” từ Bá Kiến bởi hàng ngày hắn lá mặt lá trái với con quỷ nham hiểm này. Còn lời nói? Cái từ “lương thiện” chẳng đã vang lên như điệp khúc khi Chí gần Thị Nở? Khi Chí khao khát, hắn thèm lương thiện (…) Họ sẽ nhận ra hắn vào (…) những người lương thiện. Mơ ước đôi lứa với Thị Nở, cái “lương thiện” trở thành một bào thai của hi vọng đang cựa quậy… Nhưng khi đối mặt với Bá Kiến cái tiếng ấy được “Cụ Bá” nhắc lại như nói với thằng say một điều mà hắn phải tỉnh.

      Ô tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ!

     Khát khao cháy bỏng của Chí với cụ Bá lại chỉ là một việc vớ vẩn không đáng lưu tâm "Ồ tưởng gì” cái việc lấy lương thiện cũng dễ như cái việc uống rượu đòi nợ và ăn vạ. Dù hiểu đời đến mức lọc lõi Bá Kiến cũng không thể hiểu ước mơ của Chí nó quan hệ tới sinh tử. Thế giới quỷ có bao giờ hiểu thế giới – dù là đời thường nhất của người? Do đó lời “cụ Bá” muốn “tri kỉ” với thằng quỷ mà mình vắt nặn nên trở thành lời nhạo báng với anh Chí vừa rời lốt quỷ: Chí Phèo nói và day dứt nhiều tới lương thiện có lẽ là vậy.

     Lời nói của Chí Phèo phản ánh một thực tế trần trụi đến thô bỉ: “Định kiến” người đời đã không thể cho Chí qua một cái con sào ngáng đường, mà điều này không khó lắm, bởi chỉ mình Thị Nở, Thị cũng có khả năng mở chốt nâng sào. Chí giận sôi sùng sục trong lời chất vấn mà kết án với Bá Kiến. Thực ra, Chí đang nói những ấm ức mà Thị Nở vừa “Trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô”.

     Vậy là ngôn ngữ, giọng điệu thái độ có lẽ rất lạ của Chí đã có những yếu tố hiện thực tiềm năng trong quá khứ. Nó bất ngờ và vẫn tự nhiên là vì thế. Nhưng có lẽ tài năng của Nam Cao ở đây là ông đã mô tả một cách tuyệt vời những “vùng biên” tâm trạng rất vi tế thậm chí mơ hồ của con người, đâu là lời và hành động của Chí Phèo say? Đâu là anh Chí tỉnh? Thật khó rạch ròi. Cách phân tích là nên đọc lại và thêm một lần nữa khâm phục Nam Cao. Vậy là Chí không còn con đường lựa chọn nào khác, xã hội đã không thừa nhận. Thị Nở cũng đã bỏ hắn, mà trở lại với cuộc sống lưu manh tha hóa, thì Chí không thể nhân tính hắn mất, nhưng phút cuối cùng nó lại trở lại với anh Chí.

     Chí Phèo ngoắc ngoải trên vũng máu, đây là hình ảnh mang sức tố cáo lớn. Nó tố cáo chế độ phong kiến, tố cáo nhà tù thực dân với sự nhơ bẩn của đồng tiền đã xô đẩy, tha hóa một con người. Giá trị nhân đạo của một tác phẩm qua ngòi bút của Nam Cao vừa đau đớn vừa như một nhát dao lạnh ông để lại cho thời đại cùng lên án một chế độ, về một cách cư xử khi nhìn người ta sung sướng thì ghen tuông vùi dập. Đó là hoàn cảnh với bao nhiêu sự cay độc, tàn ác đã chà đạp lên số phận con người. Chí Phèo và tuổi thơ đã là một bi kịch xót xa ngậm ngùi nhưng Chí Phèo với bi kịch dằng xé trong tâm hồn và những hành động đã bị ép vào con đường cùng thì càng khiến người đọc đau ran vùng cay đắng, nhức nhối một niềm thương cảm hơn. Chí chỉ mơ ước một cuộc đời bình dị, một người vợ cũng bình thường trong xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao xây dựng Thị Nở xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn, có lẽ ông đã dụng ý của kì công khắc họa một nhân vật xấu nhất trong văn học Việt Nam xuất phát từ thành tâm đem đến cho Chí một người phụ nữ thích hợp. Khác với mô-típ xây dựng nhân vật của những nhà văn đi trước hoặc cùng thời, nhân vật xấu người đẹp nết hay ngược lại, đó đã là một khía cạnh thể hiện sự nhân đạo của Nam Cao. Ông nhìn nhận sâu sắc bằng cả trái tim và tâm linh của người viết về cái phần hồn của mỗi người “Với con người phần hồn nặng hơn phần xác” (ý Nguyễn Minh Châu) Chí Phèo và Thị Nở, người thì mất cả nhân hình lẫn nhân tính. Người thì xấu xí lại ương dở “vô tư”. Nhưng chính Nam Cao đã phát hiện ra phần hồn được đánh thức của họ, xã hội đẩy đưa trong túm bọc thành kiến đã biến chất con người họ chứ như tự tâm hồn họ vẫn khát khao được sống được yêu như những người bình thường.



Hành động quyết liệt cuối cùng của Chí, tìm đến cái chết, có phải là hạn chế của Nam Cao cũng như nhân vật của chị Dậu của Ngô Tất Tố với cái “tiền đồ tối đen như mực”? Đây là điểm nhân đạo lớn của tác giả. Ông không muốn phải đứng về phía xã hội xưng hô với Chí bằng những tiếng “y” hay “hắn”. Ông không muốn Chí phải trở về với con đường cũ, về với sự cách biệt của xã hội mà muốn con quỷ làng Vũ Đại về với cái anh Chí ngày nào và nếu có chết cũng phải cắt đứt cái đuôi “phèo” rất nặng để thăng hoa thành người. Chí Phèo đã rất tội, ngay từ mở đầu “hắn vừa đi vừa chửi”, đây là sự thèm khát được giao tiếp đến tột độ của nhân vật.

     Tác phẩm đóng lại nhưng thực ra trong suy nghĩ của người đọc thì vẫn còn mở. Chị Dậu của Ngô Tất Tố về đâu với cái tiền đồ tối đen như mực? Còn Chí Phèo, cái chết là gì? Phải chăng đỉnh cao của bản cáo trạng tố cáo chế độ phong kiến thực dân là máu của Chí, là nhân mạng? Cái chết như là biểu dương nhân cách, nhân tính. Nó khuyên dụ và cảnh cáo.

     Nam Cao ơi! Sao rơi chi nhiều nước mắt? Hẳn tác giả đã khóc như bao lần Nguyên Hồng đã òa khóc cho Huệ Chi: “Nó chết rồi”. Cả tác phẩm Chí Phèo vùi trong cơn say, trong những diễn biến tâm trạng khác nhau còn đối với người đọc, lại là những phút giận và những giờ thương.



Không biết trong cái xã hội đen tối cũ, có bao nhiêu người bị đẩy vào bi kịch cả về tâm trạng lẫn hành động như Chí Phèo. Hỏi Nam Cao? Hỏi xã hội tấm lòng thương cảm của mỗi con người?

Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo 98

     Truyện ngắn “Chí Phèo” là một thành công lớn của Nam Cao. Đọc xong tác phẩm dường như hình ảnh Chí Phèo luôn để lại những sự ám ảnh nhất định trong lòng bạn đọc. Tác phẩm nói về cuộc đòi của nhân vật Chí Phèo, và có lẽ quá trình hồi sinh của nhân vật luôn luôn là một điều mà bạn đọc hướng tới.

     Chí Phèo được biết đến là nhân vật từng là một đứa trẻ bị bỏ rơi. Sau đó một anh thả ống lươn một ngày nhặt được hắn “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp bên cái lò gạch bỏ không“. Có thể nói tuổi thơ của hắn qua tay hết người này đến người khác và khi Chí Phèo lớn lên thì làm canh điền cho Lí Kiến. Chí Phèo đã bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù, sau bảy tám năm, nhà tù thực dân dã man kia đã biến anh canh điền chất phác trở thành một thằng lưu manh.

     Khi Chí Phèo ra tù, hắn tìm đến nhà Bá Kiến để trả thù. Dường như bản chất của một thằng lưu manh, biến chất thể hiện trong cách chửi rất “bài bản”, thật là ngoa ngoắt: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời có hề gì trời có của riêng nhà nào…”.

     Từ cái dáng hình nom thật đáng sợ: “trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Người đọc sao có thể quên được các hình ảnh “hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những vét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế, trông gớm chết”… Cho đến cách ăn vạ thật đáng sợ là cách mà hắn lấy mảnh chai vỡ mà cào vào mặt, vừa cào vừa lăn lộn. Từ một thằng đã lưu manh, chế độ phong kiến mà đại diện ở đây chính là Bá Kiến đã hoàn thành nốt quá trình tha hoá để biến Chí thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

     Và cùng với những chuỗi ngày dài chìm trong men say của hơi rượu là những ngày hắn đã phá đi biết bao ngôi nhà hạnh phúc bình dị, làm chảy máu và nước mắt của biết bao người lương thiện. Dường như hắn đã làm tất cả những việc đó trong khi say, hắn cũng không nhận thức được rằng mình đã và đang trượt dài xuống vực thẳm và người ta đang lảng tránh hắn như lảng tránh một con vật đáng sợ nào đó. Có thể nói cuộc đời Chí tưởng cứ thế diễn ra, tối tăm, mù mịt. Không ai có thể tin hay nghĩ rằng có thể một lần nữa con quỷ dữ ấy lột xác trở lại thành con người. Vậy mà dường như điều kì diệu đó đã xảy ra, dù ngắn ngủi, dù bất thường nhưng vẫn là một điều kì diệu vĩ đại, điều kì diệu cũng có thể thay đổi một con người.

     Trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa Chí Phèo và Thị Nở không chỉ đơn giản là một cuộc đụng chạm về xác thịt. Đó đơn giản chỉ là khởi đầu, buổi tối bên bờ sông, dưới ánh trăng sáng kia như chỉ làm khơi dậy thứ tình yêu mang tính bản năng con người. Có thể nói chính sự thức tỉnh của nhân vật thực sự bắt đầu vào những giờ phút sau đó. Và lần đầu tiên, Chí như đã cảm nhận được âm thanh của cuộc sống “Mặt trời đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài đủ biết… Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ”.

     Ta như đều biết rằng những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy...”. Và dường như đây cũng lần đầu tiên, sau những ngày say triền miên kia, hắn biết thế nào là buồn và đó là cái buồn mơ hồ mà lại thật thấm thía. Và ở đây một người bắt đầu biết suy nghĩ về cuộc sống có nghĩa là cũng đã biết tự chiêm nghiệm về chính bản thân mình. Và Chí Phèo dường như thật đau đớn khi nhận ra rằng hắn chính là một kẻ trắng tay không hơn không kém. Khi mà đã đứng ở bên kia dốc cuộc đời, hắn biết mình đã già, “Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn“. Chàng canh điền hiền lành chất phác ngày nào cũng đã từng ước mơ có một gia đình giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, giờ đây nhìn thấy trước số phận mình. Chí Phèo “đói rét, ốm đau và cô độc” và chi tiết này rõ ràng là trong Chí Phèo đã có một sự chuyển biến lớn trong tâm hồn của hắn.

     Có thể nói sự chuyển biến ấy đánh thức bản năng ham sống, muốn sống của hắn nhưng chưa chỉ ra cho hắn biết rằng phải làm thế nào để có thể được sống lại lần nữa đúng với hai từ con người. Và con đường thực sự đã mở ra vào ngày hôm sau khi Thị Nở đã mang sang cho Chí Phèo một bát cháo hành. Một người đàn bà dở người như Thị Nở lại có thể nấu cháo hành ngon đến vậy hay đó là bởi vì Chí lần đầu tiên được người ta cho, và cũng là lần đầu tiên được ăn chào hành nên mới cảm thấy cháo hành ngon mà dường như hương cháo hành cứ ám ảnh Chí mãi không thôi. Có thể khẳng định rằng bát cháo hành là tình cảm chân thành, thứ tình người lương thiện đầu tiên mà hắn được cho, một cách hoàn toàn tự nguyện. Điều ấy dường như đã làm Chí xúc động sâu sắc. Thị Nở cho dù là người có xấu đến ma chê quỷ hờn nhưng ở Thị lại mang một tình người đẹp thánh thiện, thứ tình người trong sáng, một sự chân thành không một chút vụ lợi và tính toán. Có thể thấy được tình người ấy, cùng với hương cháo hành như cũng đã dẫn dắt tính người quay trở lại trong hình hài của một con quỷ dữ, như đã đánh thức ước mơ thời trai trẻ, đánh thức khát khao lương thiện tưởng chừng như đã lụi tắt trong Chí Phèo từ lâu.

     Và quan trọng hơn nữa là nó như đã đánh thức niềm hi vọng ở Chí, khát khao được trở về với cuộc sống của loài người. Khao khát được họ đón nhận. “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị Nở cũng có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Và giờ đây họ sẽ nhận thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận Chí Phèo vào cái xã hội bằng phẳng và rất thân thiện của những người lương thiện kia. Dường như chính tình thương yêu con người chân thành đã có sức mạnh cảm hoá vĩ đại, không chỉ thế, nó như còn mang lại cho con người sự sống và sức sống mới, và ngay khi ở cả những kẻ tưởng chừng là “vô phương cứu chữa” như Chí Phèo. Chí Phèo lúc này đã thức tỉnh thực sự.

     Tuy rằng cho đến cuối cùng, cánh cửa trở về với xã hội loài người đã được mở ra bởi tình thương yêu con người, nhưng đó lại là của một người đàn bà dở người. Và trong một xã hội tăm tối đến ngột ngạt kia đã vội vàng đóng chặt. Và khi nhân tính trở về, Chí lại như không thể tiếp tục cuộc đời của một tên quỷ dữ, nhưng lại cũng không thể trở lại làm người được nữa. Dường như tấn bi kịch đó đã được đẩy lên đỉnh điểm chỉ còn một cách giải quyết cuối cùng là cái chết. Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến và cũng tự kết liễu đời mình. Khi không có tình yêu thương, cuộc sống sẽ chỉ còn là tối tăm và bất hạnh biết bao nhiêu.

     Có thể nói rằng tình thương yêu là hạnh phúc của con người cũng như tâm hồn con người giống như một vườn cây mà ở đó tình yêu thương là những trận mưa tưới mát đã làm cho vườn cây tươi tốt hơn, và như đã vươn dậy đầy sức sống, dù cho trước đó đã có lúc nó lụi tàn, héo úa. Và ta cũng đã thấy có biết bao câu chuyện cảm động về sức mạnh của tình yêu thương… Tình yêu thương giúp con người ta chiến thắng được số phận. Và trong cơn khó khăn như sự thức tỉnh của Chí Phèo. Và chỉ khi có tình yêu thương con người trong sáng không vụ lợi mới luôn toả sáng. Tình yêu thương không chỉ giúp thay đổi quan niệm mà còn có sức cảm hoá ghê gớm, bẻ gãy tất cả những gì là bóng đêm, là trở ngại để con người sống gần với con người hơn.

     Tình yêu thương ở đời cũng cần thiết như ánh sáng, như không khí trên Trái Đất này vậy. Dường như con người không thể sống mà không có tình thương yêu. Ý thức được điều đó thì trong mỗi chúng ta cần bồi dưỡng cho mình một trái tim nhân hậu, bao dung. Và phải bồi dưỡng tình yêu thương dành cho mọi người, để được cho và được nhận. Hãy để tình yêu thương trong sáng và chân thành được bao bọc khắp thế gian và mỗi con người sẽ được sống trong ngập tràn yêu thương.

     Nhân vật Chí Phèo là một trong những nhân vật hiện lên có sức ám ảnh nhất, đặc biệt là quá trình từ một anh nông dân hiền lành cho đến khi bị cực tuyệt quyền làm người sẽ còn lay động, còn để lại cho người đọc biết bao nghĩ suy. Qua đó nói lên khả năng bậc thầy trong việc miêu tả phân tích tâm lý nhân vật của Nam Cao.

Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo 99

     Nguyễn Minh Châu đã có nhận xét về Nam Cao: “Cả đời cầm bút của Nam Cao ông chỉ đau đáu nhìn vào nhân cách của con người”. Điều này thể hiện rõ trong nhiều tác phẩm của Nam Cao. “Chí Phèo” là một ví dụ điển hình. Qua việc miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Chí Phèo từ lúc gặp Thị Nở đến khi kết liễu cuộc đời trong truyện ngắn cùng tên, tác giả đã thể hiện tài năng, bản lĩnh nghệ thuật của mình, đồng thời cũng bộc lộ rõ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của ông.

     Trước khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí Phèo đã trải qua hai chặng đường: làm thuê cuốc mướn và ở tù rồi ra tù. Hắn vác cái mặt “cơng cơng, cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn” về làng, cam lòng làm tay sai cho kẻ thù – Bá Kiến đã gieo rắc tai họa kinh hoàng cho dân làng Vũ Đại. Và rồi vào đêm trăng định mệnh của số phận, hắn đã gặp Thị Nở, mở đầu cho một giai đoạn mới trong cuộc đời Chí. Sau cái đêm ấy thì Chí ngã bệnh. Hắn chưa bệnh bao giờ. Thế mà giờ đây lại yếu đến thế. Buổi sớm mai thức dậy, tâm trạng của Chí được miêu tả thật tài tình qua ngòi bút của Nam Cao. Mở đầu là “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” và rồi “tiếng của anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, rồi những người đàn bà đi chợ Nam Định.

- Vải hôm nay bán mấy?

- Kém ba xu dì ạ.

     Tất cả những cái đó đột nhiên vang vang trong lòng Chí. Tất cả rất quen mà với hắn, chợt trở nên mới, nên lạ. Vì hôm qua, hôm kia, cả bao hôm trước nữa. Chí có nghe những tiếng ấy bao giờ đâu khi đang chìm trong những cơn say bất tận của cuộc đời. Giờ đây, tỉnh lại, tiếng cuộc đời, tiếng con người đang lăn náo nức, cứ dội vang mãi trong lòng Chí. Phải rồi! Tiếng của cuộc đời lương thiện đang vang lên trong anh. Con quỷ dữ sau cơn ốm bệnh dường như đã lấy lại được một phần con người, một phần hiền lành lương thiện của anh Chí hôm nào. Chí lắng nghe tất cả, thế rồi bỗng thấy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”, lát nữa lại buồn: “Buồn thay cho đời”. Một cảm giác lạ đang len lỏi trong lòng Chí Phèo. Tiếp sau nỗi buồn là nỗi lo sợ, sợ đói, rét, cô độc, “Cô độc ư?” Cái này còn đáng sợ hơn cái đói và cái rét. Chí đã dần nhận ra thảm cảnh của đời mình: bơ vơ, lạc lõng không ai thân thích, không ai nương tựa. Trong nỗi sợ ấy, Chí cũng đang hình dung lại hình như ngày xưa hắn cũng có một ước mơ: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, lại có một con lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng”. Một ước mơ nhỏ nhoi thôi tầm thường lắm nhưng rất con người. Trước đây thì còn là một anh Chí “hiền như cục đất”, biết “nhục chớ yêu thương gì” khi bị bà Ba bắt lên bóp chân, ước mơ ấy hiện hữu trong anh. Trải qua những tháng ngày tăm tối, u mê, ước mơ đã tắt lịm hẳn, nhường chỗ cho cái ác, cái thú tính lên cao. Giờ đây, sau cơn say khi một phần “người” đã trỗi dậy, ước mơ ấy đã lại trỗi dậy theo, tha thiết, cồn cào. Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo được Nam Cao khắc họa thật đậm nét. Buồn, lo sợ, ước mơ. Đó là những nét tính cách rất người, đặc biệt là ước mơ rất đời thường ấy. Trong lúc Chí Phèo đang ngổn ngang trong bao tâm sự, nỗi niềm thì chất xúc tác đưa hắn trở lại làm người xuất hiện. Đó là Thị Nở. Thị đến mang cho hắn bát cháo hành giải cảm. Và chính liều thuốc giải độc này góp phần thức tỉnh con người bấy lâu bị chìm lấp trong Chí Phèo.

     Phải nói rằng Nam Cao đã rất dụng công khi miêu tả hành động Chí ăn cháo. Đầu tiên là hắn “ngạc nhiên” vì trước đây hắn chỉ toàn cướp “chứ có xin của ai hay ai cho bao giờ” lần này thì lại được “một người đàn bà cho ngạc nhiên”, rồi cảm động, “hắn thấy mắt mình như ươn ướt”. Và rồi Chí đã đón nhận bát cháo từ tay Thị Nở như một báu vật. Hắn chưa vội vã ăn mà ngửi đã, sau đó mới “húp một húp” – cách thức hành động này của Chí Phèo đâu còn là ăn nữa mà là thưởng thức và tận hưởng, thưởng thức và tận hưởng hương vị của cuộc đời và của tình người. Sau đó, lần đầu tiên ta thấy Chí Phèo triết lí: “Những con người chưa bao giờ ăn cháo hành không biết cháo rất ngon”. Ngon cũng là phải vì Chí có được ăn bao giờ đâu “mà có ai nấu cháo Chí ăn”. Chính vì thế, Chí Phèo đã rất trân trọng vật báu này. Bát cháo hành nồng đượm hương vị tình đời, tình người xuất hiện giữa mênh mông bao nhiêu là rượu trong cuộc đời Chí Phèo. Cũng như Thị Nở vậy, tình yêu giữa Thị xuất hiện như ánh chớp lóe lên giữa cuộc đời dầy đặc những số không to tướng của Chí Phèo; không cha mẹ, không gia đình, không quá khứ, không hiện tại, không tương lai. Nếu như đêm trăng ấy như một ý kiến đã nhận xét, Thị chỉ khơi dậy bản năng sinh vật trong con người Chí thì hôm nay, với bát cháo hành, Thị đã cứu rỗi tâm hồn Chí bằng tình yêu của mình. Ăn xong cháo, Chí thấy “thèm làm hòa với mọi người biết bao”, “thèm làm người lương thiện” biết bao, và Chí nhận ra rằng Thị chính là cái cầu nối nối hắn, giúp hắn quay trở lại với xã hội bằng phẳng của những con người lương thiện. Thị Nở vừa là người tình, lại vừa như người mẹ soi đường cho hắn, vì thế hắn đã muôn “làm nũng với Thị như mẹ” đấy thôi. Và thế là hai con người khốn khổ khốn nạn đã kết hợp lại với nhau trong cái khát vọng hạnh phúc, và muốn làm người lương thiện, bình thường.

     Khác với Tràng trong Vợ Nhặt của Kim Lân, khi có được hạnh phúc, Tràng cảm thấy “nên người” hơn, còn Chí, người ta đã tước đoạt ngay hạnh phúc của anh. Sau những ngày yêu thương hạnh phúc. Nghe lời bà cô. Thị Nở đã bỏ rơi Chí không thương tiếc. Cái ao ước được “yêu khi tỉnh” sau những tháng ngày “ăn trong khi say, ngủ trong khi say” của Chí đã bị định kiến xã hội ngăn cản. Đau đớn thay Chí Phèo, và anh lại tìm về với rượu. Thế nhưng “hơi rượu không sặc sụa mà thoang thoảng thấy hơi cháo hành” anh càng uống lại “càng tỉnh ra”, “tỉnh ra! Chao ôi, buồn” Chí đã nhận ra cái bi kịch cự tuyệt quyền sống quyền làm người của mình. Thế là anh vác dao đến nhà “con đĩ Nở, giết hết nó và cả con khọm già nhà nó” Thế nhưng, lí trí lại dẫn anh sang nhà Bá Kiến. Những câu đối đáp của anh và Bá Kiến xốn xang lòng ta đến lạ: “Tao không có đến đây để xin năm hào. Tao muốn làm người lương thiện!” “Ai cho tao lương thiện”, “tao không làm người lương thiện nữa được rồi!”. Và Chí đã đâm Bá Kiến rồi tự tử. Bá Kiến chết vì đã đoán lầm Chí Phèo, đó không là một tên say nữa mà đó là một con người khát khao quyền sống, khao khát lương thiện. Ai bảo Chí Phèo say khi đến nhà Bá Kiến? Say ấy chỉ say phần “con” để tỉnh thức phần “người”, mà chiến đấu với chính mình giành lương thiện. Chí Phèo gục ngã trước ngưỡng cửa cuộc đời nhưng khát khao sống ấy còn cháy mãi.

     Có nhiều ý kiến nhận xét cách viết của Nam Cao là sắc, lạnh, tỉnh táo và đóng cũi tình cảm. Thế nhưng ta thấy ngòi bút của ông tràn đầy tính nhân đạo, không nhân đạo sao nhà văn lại thấy được những mơ ước, khao khát rất đời thường, lại đắm sâu trong tâm hồn của những con người đã bị tha hóa, biến dạng về cả nhân tính lẫn nhân hình. Những trang văn Nam Cao viết mô tả lúc Chí Phèo vừa tỉnh dậy mới thấm đẫm tấm lòng thương người của ông biết bao! Và cả bát cháo hành mà Nam Cao đã dụng công miêu tả nữa. Nó xuất hiện bất chợt giữa cuộc đời Chí Phèo, mang lại cho anh chút hương vị của lòng người để lắng lại trong anh cái phần “con” độc ác, xấu xa, đồng thời thổi bùng lên ngọn lửa khát khao lương thiện làm người. Trong những con người bị tha hóa đến cùng cực như Chí Phèo. Nam Cao vẫn thấy ở đó một khát khao mãnh liệt. Chính vì vậy ông đã để cho nhân vật của mình “vác dao đi đòi lương thiện”.

     Còn một nét nhân đạo nữa đó là Nam Cao đã để cho nhân vật của mình được chết. Ông biết Chí Phèo sống không thể trở thành anh bộ đội cụ Hồ tự cứu lấy đời mình, cũng không để anh sống tù tội để rồi nhà tù thực dân phong kiến gắn thêm cho anh cặp sừng, cái đuôi, để anh thành con quỷ ác hơn, dữ hơn cái anh đã từng làm ở làng cũ Vũ Đại. Cuộc hôn phôi giữa “con quỷ dữ của làng Vũ Đại – Chí Phèo và một con vật gì rất tởm” – Thị Nở cũng là một cách nhìn hết sức nhân đạo của Nam Cao. Nhân đạo ở chỗ ông đã thấy cái mơ ước, khát khao được hạnh phúc của những con người cùng khổ.

     Chí Phèo sống khổ mà chết vật vã cũng khổ. Qua bi kịch đó nhà văn tố cáo một xã hội đã đày đọa, tha hóa, bần cùng hóa con người, đẩy họ vào chỗ biến dạng cả nhân tình lẫn nhân hình. Nam Cao viết nhiều đến cái “đói” nhưng riết nóng nhất trong văn của ông là cái “đói người” trong sự giành giật của phần “con” và ông lớn tiếng đòi quyền sống cho phần “người” ấy.

     Đọc xong truyện mà câu hỏi “Ai cho tao lương thiện” của Chí Phèo ám ảnh ta mãi. Quả thật với tấm lòng nhân đạo sâu sắc và tài năng của mình. Nam Cao miêu tả những vết thương trong nhân cách con người. Nhưng ông xoáy sâu mà tìm cách chạy chữa cho nó. Với những trang văn và những bi kịch điển hình như Chí Phèo, Nam Cao đã lớn tiếng đòi tự do, hạnh phúc cho con người, cũng như lời gọi: Hãy cứu lấy, bảo vệ cho nhân cách con người! Với đề tài đã khai thác tối đa như đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao với lưỡi xẻng ngôn từ và tài năng của mình, vẫn có thể “tìm tòi”, “khơi được những nguồn chưa ai khơi”, lật lên nhiều mảng khổ đau và mảng đẹp mới, trong tính cách, trong bản chất của người nông dân Việt Nam ở thời điểm đêm trước của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại.

Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo 100

    Sinh thời, khi cầm bút, Nam Cao hằng tâm niệm “Sáng tạo là yêu cầu sống còn của văn chương, nghệ thuật”. Vì thế, hướng ngòi bút đến đề tài quen thuộc đó là cuộc sống khốn khổ của người nông dân trước cách mạng tháng Tám nhưng Nam Cao chọn cho mình một lối đi riêng. Khác với nhân vật trong truyện ngắn của Thạch Lam là được đặt vào trong một khoảnh khắc nhất định, nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao thường là những nhân vật có tính cách điển hình và được đặt trong hoàn cảnh điển hình. Đặc biệt, nhắc đến Nam Cao người ta không thể không nhắc đến Chí Phèo – nhân vật bước vào trang văn, ngật ngưỡng với dáng diệu của một kẻ say. Những diễn biến tâm lí của Chí Phèo khi đón nhận bát cháo hành của Thị Nở đã được Nam Cao diễn tả một cách chân thực, tài tình đến cảm động.

    Chí Phèo đang vẩn vơ nghĩ về đời mình thì thị mang đến một nồi cháo hành. Sự quan tâm mộc mạc, giản dị chân tình ấy đã làm tâm hồn Chí đổi thay đến bất ngờ, mạnh mẽ. Lòng Chí trào dâng bao cảm xúc: bâng khuâng, ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vui mừng, xúc động rồi lại nuối tiếc, buồn tẻ, xót xa, lại có cái gì như là ăn năn hối hận nữa. Chí ngỡ ngàng ngạc nhiên, cảm động đến ứa nước mắt. Vì đây là lần đầu tiên hắn không phải dọa nạt, đâm chém mà vẫn có cái ăn. Lần đầu tiên, hắn được một người đàn bà chăm sóc ân tình. Nhưng Chí không khỏi ngậm ngùi, cay đắng, buồn tủi, xót xa vì mãi đến tận bây giờ hắn mới được nếm mùi cháo. Cái hạnh phúc giản dị, đơn sơ khiến người ta thấy tội nghiệp sao lại đến với Chí muộn màng đến như vậy. Chí còn hối hận, ăn năn. Hành động của Thị Nở đã làm Chí suy nghĩ nhiều và Chí bỗng ngộ ra một điều rằng: Chí có thể làm bạn được sao lại gây kẻ thù. Dù rất hiếm hoi nhưng trên cõi đời vẫn còn có những vòng tay yêu thương, vẫn còn những tấm lòng nhân ái, bao dung. Trong đoạn văn diễn tả sự hồi sinh của Chí Phèo khi đón nhận bát cháo hành của Thị Nở, chi tiết Chí Phèo khóc có lẽ là chi tiết ấn tượng nhất. Có thể nói, Nam Cao luôn tin vào nước mắt của con người bởi một khi họ khóc có nghĩa là trong người họ vẫn cón chút lương thiện, nó chưa bị hủy hoại hoàn toàn mà vẫn sống âm thầm lặng lẽ. Vậy là chính tình người mộc mạc, giản dị của Thị Nở đã làm hồi sinh tình người trong Chí. Cái lốt quỷ dữ được lột bỏ, bản chất lương thiện đã hồi sinh trở lại.

    Khi tính người trở về, lòng Chí nảy sinh tình cảm với Thị Nở. Trong khi ăn cháo, Thị Nở nhìn chộm Chí rồi lại toe toét cười. Trông Thị thế mà có duyên, tình yêu làm cho có duyên. Và chính tình yêu và chỉ có tình yêu mới làm cho cháo hành có hương vị thơm ngon, ngọt ngào chưa từng có. “Hắn húp một húp và nhận ra rằng những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo rất ngon. Cháo được nấu bởi tay của Thị Nở mà vẫn thấy ngon. Chí có tình yêu và chính tình yêu mới làm nên điều đó”. Yêu thương, trân trọng Thị Nở bao nhiêu, Chí càng căm ghét con quỷ cái nhà Bá Kiến bấy nhiêu. Cái con quỷ lẳng lơ, đĩ thõa chỉ lợi dụng Chí chứ chưa bao giờ yêu Chí. Chí cảm thấy nhục chứ không thấy yêu đương gì.

    Hương vị ngọt ngào của bát cháo hành, tình yêu thương ngày càng thấm sâu vào tâm hồn Chí khiến chí như được lột xác, tái sinh. Chí thay đổi hoàn toàn cả về bộ dạng lẫn tâm tính. Nói chính xác hơn là Chí trở lại với diện mạo và tính cách của một người lương thiện. Chí còn muốn trở lại với cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Chí đặt tất cả niềm tin hi vọng vào Thị Nở. Hơn thế nữa, Chí đã có hành động vô cùng táo bạo và lãng mạn: Chí tỏ tình và cầu hôn Thị Nở. Dĩ nhiên cách tỏ tình của Chí Phèo rất mộc mạc và chất phác. Được Thị Nở ưng thuận, Chí vô cùng sung sướng hạnh phúc. Từ đây, Chí sẽ có một tổ ấm gia đình, từ đây, Chí trở lại được làm người lương thiện. Đó là khát khao lớn nhất của Chí.

    Như vậy, không chỉ dừng lại ở việc tả “cái bề ngoài của xã hội”, của cuộc sống con người, Nam Cao đã đi sâu vào nội tâm nhân vật. Với những trang văn sống động mà chân thực, Nam Cao đã đưa chủ nghĩa hiện thực Việt Nam lên đến trình độ mới, hội nhập với quốc tế: từ chủ nghĩa tả chân lên đến chủ nghĩa hiện thực tâm lí. Không chỉ bộc lộ cảm quan hiện thực sâu sắc, đoạn văn còn thấm đượm tình cảm sâu sắc, cao đẹp, tiến bộ của Nam Cao. Có thể nói, đoạn văn diễn tả nội tâm của nhân vật Chí Phèo khi đón nhận bát cháo hành của Thị Nở là đoạn văn hay và để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc nhất. Ở đó, ta có thể thấy rằng dù con người có bị tha hóa và bị đẩy xuống vũng bùn đen đến đâu thì thẳm sâu trong tâm hồn họ, vẫn có một mầm non lương thiện đang sống âm thầm, lặng lẽ. Nuôi dưỡng mầm cây non đó, Nam Cao đã dìu dắt Chí trở về với cõi thiện. Vậy là bằng ngòi bút chứa chan tình yêu thương con người, cũng như Thạch Lam, Nam Cao đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính.

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của 101

    Khi Chí Phèo: "Ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ" (Nguyễn Đăng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể không chú ý đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y. Đó cũng là chủ đề xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo.

     "Bi kịch là tình cảnh éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người phải chịu đựng". Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Nhiều người khẳng định, Chí xuất hiện sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng đầu tiên của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ có một hành động, một cuộc độc thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp nhờ những câu văn ngắn, nhịp văn vấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài), Chí chửi làng "cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người"... Nhưng không ai lên tiếng cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí, giá có một người để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống dù là để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là chửi chính bản thân mình. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật vã, dẫu là vô ý thức, để tìm căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn khổ thay, Chí càng bế tắc.

    Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng cũng như sau đó, thị Nở "Không chỉ biết cho mà còn biết giữ"… giá như… giá như… chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ không có cơ hội xảy ra. Nhưng chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra. Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ để dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.



Chí là "một đứa con hoang", "một anh đi thả ống lươn một buổi sáng đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không; anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà góa bụa". Năm từ "một" tồn tại trong câu văn dài, dường như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ không cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng những người lao động, Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, "biết không thích những cái gì mà người ta khinh". Anh khát khao có "một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải". Nhưng đời đã không dành cho Chí cái mà anh có thể với trong tầm tay.

    Một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong kiến cấu kết với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy - tám năm. Đấy là lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù đã biến Chí thành con người khác. "Hắn về lần này trông khác hẳn". Quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà tù đã cướp đi của y một phần nhân hình. Ở tù ra trông hắn như một thằng "săng đá" (lính tẩy), đầu trọc lốc răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất "cơng cơng" - "câng câng" thì còn ra cái mặt người. "Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ phượng với một ông tướng cầm trùy trông gớm chết". Đó là hình dạng của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau. Chí đã uống rượu say nhè, điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi đổng. Nếu như trả thù là cái quyền thông thường (oán thì trả oán, ân thì trả ân) thì Bá Kiến lại cũng đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả được thù, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ mù quáng của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với chính kẻ thù.

    Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, "Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đạp vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện". Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn, người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn ở trên đời. Có thể nói trước khi gặp thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách vô thức, không tìm thấy lối thoát. Chí đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu, chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê, chém mướn.

    Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có biết cái cách người ta sản sinh ra hắn là tước đoạt dần quyền làm người của hắn. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh nhân vật một đốm lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở thành người lương thiện.



  Vai trò, vị trí của thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người "dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn", lại là nguồn sáng duy nhất ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí. Cơ thể đàn bà của thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của thị đã khơi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với thị Nở. Chí nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót, ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh đó gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn "sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc - cô độc còn sợ hơn đói rét và ốm đau".

    Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự thương yêu - dù là tình yêu của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương thật vô biên. Nam Cao đã thực sự hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người. Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu nối ấy chính là thị Nở. Thị có thể sống chung với hắn thì làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và đau đớn thay cho Chí, Thị Nở không thể gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị, "đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ".

    Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức xã hội tước đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa, Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người nữa. Xã hội với quan niệm tàn nhẫn đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện. Chí không thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình, Chí đau xót cảm thấy: "Không được nữa rồi chỉ còn cách này". Chỉ còn cách chết trong, hơn sống đục. Chí đã nói những câu cuối cùng "đòi lương thiện" với Bá Kiến và cũng là tự nói với bản thân mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc thấy cuối cùng rồi Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền làm con người.



Chí chết, mồm ngáp ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức mở và giá trị điển hình của nhân vật này là vô biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi khổ của người nông dân thời kì nước ta còn sống trong vòng nô lệ. Chí còn đại diện cho cái phần khùng điên khuất tối mà sinh ra trên cõi đời này, ai cũng có thể, nếu không biết tự kiềm chế và nếu bị các thế lực hắc ám "nuôi dưỡng".

    Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. Có căn nguyên từ xã hội cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con người còn bị xúc phạm thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại.


Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo 102

    Soi vào cuộc đời nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao, ta chỉ thấy một bức tranh u tối mà người họa sĩ vẽ ra nó mang tên bi kịch. Có thể nói, con số không đã gói trùm lên lá số tử vi của cuộc đời Chí. Bi kịch về cuộc đời Chí đã xuyên suốt toàn tác phẩm và nếu như phải chọn một nhan đề khác, có lẽ Nam Cao đã đặt tên tác phẩm của mình là “Bi kịch”. Và đỉnh điểm bi kịch mà Chí Phèo phải chịu đựng ấy là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. 

    Trước tiên, ta cần hiểu bi kịch là gì? Bi kịch là mâu thuẫn giữa hiện tại và khát vọng. Hiện tại không có khả năng giúp cá nhân thực hiện khát vọng từ đó đẩy những cá nhân đến hoàn cảnh bi đát. Chí Phèo muốn được trở thành người lương thiện nhưng sau khi ra tù, hắn đã bị gạt phăng ra khỏi cuộc đời bằng phẳng. Đau đớn hơn, cuộc đời ấy có những người đã từng cưu mang Chí. Cái tên “Chí Phèo” chứa đầy sự coi thường, khinh bỉ. Trong con mắt ghê sợ của dân làng Vũ Đại, Chí Phèo quái đản với người, lạc loài với vật, hắn không phải là một con người. Trong tiếng chửi mở đầu tác phẩm, đối tượng tiếng chửi ngày càng thu hẹp dần. Như vậy có thể thấy, con người triền miên say ấy vẫn ý thức rõ về sự đơn độc của mình. Hắn thèm được ai đó chửi vì chửi hắn có nghĩa là vẫn có người còn công nhận hắn là con người. Ta có thể hình dung ra một kẻ cô đơn, một kẻ khốn khổ cứ đi giữa cuộc đời để mà chửi, để mà kêu gào, để mà được công nhận. Nhưng cuộc đời tuyệt nhiên vẫn im lặng với hắn. Sự im lặng ấy thật đáng sợ vì đó là sự im lặng của đoạn tuyệt và ruồng bỏ. Nhưng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người chỉ được đẩy đến đỉnh điểm khi Thị Nở cũng ruồng bỏ Chí.

    Có thể nói, nguyên nhân của sự ruồng bỏ ấy là do bà cô. Nhân vật đại diện cho định kiến. Cuộc đời bằng phẳng mà Chí muốn quay về chứa đựng đầy rẫy những định kiến và chính những định kiến ấy đã chặn đứng con đường về của Chí. Qua những lời chửi mắng Thị Nở, bà cô đã cự tuyệt lại khao khát hoàn lương của Chí Phèo. Như vậy, nếu cái ác đã đẩy Chí Phèo vào con đường lưu manh hóa, thì nay định kiến đã đẩy Chí Phèo vào bi kịch thứ hai của cuộc đời.

    Nếu như muốn tìm hiểu về bi kịch bị cự tuyệt, ta không thể không tìm hiểu về Thị Nở. Thị là một người xấu, nghèo, vô duyên, lại có mả hủi. Nhiều người đã nhận xét rằng Nam Cao đã xây dựng một hàng rào dây thép và rắc vôi xung quanh nhân vật này. Nam Cao gọi Thị Nở là “con vật rất tởm”. Thế nhưng, con vật ấy cũng ruồng bỏ Chí. Đây chính là bi kịch. Nhiều người từng nói Nam Cao đã quá tay trong việc miêu tả Thị Nở xấu như vậy. Nhưng Thị Nở càng xấu, tính bi kịch càng tăng. Vốn dĩ Nam Cao xây dựng nhân vật Thị Nở không phải để cười cợt mà là để cảm thông.

    Khi Chí Phèo hiểu những gì Thị Nở nói với mình, hắn ngây người choáng choáng. Cái cảm giác của một người đang bay bổng trong hạnh phúc tình yêu bỗng bị rơi xuống đáy sâu tuyệt vọng. Điều đó khiến Chí bị tê liệt mọi cảm giác. Qua đây, người đọc cũng phần nào thấy được sự am hiểu của Nam Cao trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Khi Thị Nở bỏ đi, Chí Phèo đuổi theo, gọi lại, thậm chí còn cầm tay Thị Nở. Điều này làm dâng lên trong người đọc nỗi xót xa. Chí Phèo ý thức được mình giống như một người sắp chết đuối trên dòng sông tuyệt vọng. Hắn luôn khao khát được trở về cuộc đời bằng phẳng. Và đối với Chí, Thị Nở đóng vai trò như chiếc phao cứu sinh, như một cây cầu, một cánh cửa để đưa hắn về với cộng đồng - nơi mà hắn đã từng bước chân ra đi. Nhưng phao cứu sinh đã bị cướp mất, cây cầu đã bị rút lại, cánh cửa đã bị đóng sầm trước mặt Chí. Mọi sự như đã được đặt một dấu chấm hết. Chí Phèo uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh, càng uống càng đau và càng uống thì hơi cháo hành càng hiện ra. Hơi cháo hành đại diện cho tình thương, nó cứ hiện lên trong lòng Chí một nỗi day dứt không nguôi. Và như thể có điều gì đau đớn không chịu nổi khi nhà văn miêu tả một người đàn ông mà trước đó được biết đến như một con quỷ nay lại bơ vơ, cô độc trên con sông tuyệt vọng mà ôm lấy mặt mình khóc rưng rức.

    Và từ tuyệt vọng, Chí đã cầm dao giết Bá Kiến bởi hắn biết cả bà cô và Thị Nở đều không có lỗi. Ta vẫn nhớ rằng Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia xuất phát từ cuộc sống lầm than”. Vậy phải chăng “tiếng đau khổ” ấy lại chính là câu hỏi “Ai cho tao lương thiện” của Chí Phèo. Câu hỏi ấy là câu hỏi mang tính thời đại, gieo vào lòng người biết bao xót xa, đau đớn, day dứt và ám ảnh vô cùng. Cái chết của Chí Phèo là cái chết đầy bi thảm. Chí Phèo sinh ra không ai vui vẻ, khi chết đi không ai khóc thương. Đây chính là bi kịch. Và bi kịch lại chồng lên bi kịch khi Chí Phèo phải chết trên ngưỡng cửa trở thành con người lương thiện. Đây là bi kịch lớn nhất trong cuộc đời của Chí. Qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao đã tố cáo xã hội tàn ác bất công khi không chỉ cướp đi những điều Chí Phèo có mà còn cướp đi những gì Chí Phèo muốn. Cùng với đó, ta cũng có thể thấy được khát vọng của tác giả về việc nhân dân có thể vùng dậy đấu tranh và niềm tin vào bản chất lương thiện của con người.

    Với tất cả những điều trên, người đọc dù có gấp lại trang sách thì những xót xa, những day dứt về một con người khốn khổ khi bị cự tuyệt quyền làm người vẫn không thể nguôi ngoai. Bằng tài năng của mình, Nam Cao đã tạo ra một kiệt tác không chỉ trong văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 mà còn là kiệt tác của văn học Việt Nam hiện đại.


Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo 103

    Có ý kiến cho rằng: Nếu không viết “Chí Phèo”, Nam Cao đã để lại cho Văn học Việt Nam một khoảng trống lớn. Chí Phèo là tác phẩm đầu tay của Nam Cao trình làng với bạn đọc, ngay từ khi xuất hiện nó đã trở thành một vấn đề, một kiệt tác của trào lưu văn học hiện thực. Đây là tác phẩm tiêu biểu viết về người nông dân bởi đến đây người đọc mới hiểu thế nào là tận cùng nỗi khổ của người nông dân Việt Nam trong xã hội phong kiến. Nếu như ở những tác phẩm của các nhà văn hiện thực khác: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… hình ảnh người nông dân chỉ hiện lên với những áp bức bất công, bị dồn đến bước đường cùng, nhưng họ vẫn còn giữ được con người mình, nhưng đến với Nam Cao thì đã có những khám phá phát hiện mới mẻ, ông không chỉ phát hiện ra bi kịch bị bần cùng hóa mà còn khám phá phát hiện ra bi kịch bị lưu manh tha hóa bị cự tuyệt quyền làm người của người nông dân.

    Mở đầu trang văn, Nam Cao đã để cho Chí Phèo xuất hiện bằng một hình ảnh hết sức sống động độc đáo: Chí Phèo khập khiễng vừa đi vừa chửi: tiếng chửi của Chí Phèo ngay lập tức cho người đọc hình dung về một sự việc bất bình thường. Vì lẽ gì mà một con người phải cất lên những tiếng chửi như vậy? Tại sao những tiếng chửi đó lại không được đáp trả…? Nhưng chúng ta sẽ thấy tiếng chửi này không phải là bâng quơ, không đơn giản mà nó rất logic, rất có dụng ý. Ban đầu hắn chửi trời đến chửi đời rồi chửi ngay tất cả làng Vũ Đại… nhưng đối tượng của những tiếng chửi này là mơ hồ không xác định đến khi hắn chửi không biết đứa nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ thế này… thì đối tượng đã được xác định. 

    Chí Phèo chửi để nhận thức nguyên nhân dẫn đến bi kịch của bản thân. Nhưng ngay lập tức hắn hiểu rằng tiếng chửi của hắn là vô vọng, hắn thấy thấm thía nỗi khốn khổ của số phận, hắn đã phải cất tiếng chửi để thèm mong có ai đó chửi lại hắn, để hắn có thể được giao tiếp với đời, với người. Vậy mà không người nào chịu chửi lại hắn, có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoái không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, còn bằng lòng giao tiếp đối thoại với hắn. Chí chửi cả làng Vũ Đại với hy vọng sẽ có ai đó chửi lại. Nhưng hắn chỉ nhận lại một sự im lặng đáng sợ, và Chí vẫn còn lại một mình trong sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu.

    Bằng cách mở đầu truyện độc đáo thế này, tác giả không chỉ giới thiệu mà còn bắt đầu hé mở cho người đọc thấy tình trạng bi đát của một số phận, đó là số phận người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo ban đầu tất cả là con số không: không nhà, không cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một tấc đất cắm dùi… Nhưng đó mới chỉ là mở đầu, nỗi khổ đau đớn nhất của Chí Phèo là bị cả xã hội quay lưng lại, bị cướp mất linh hồn người, bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Từ quá khứ đến hiện tại, từ bản chất đến hiện tượng Chí Phèo đã biến đổi. Trong quá khứ Chí Phèo là một con người hiền như cục đất, có bản chất lương thiện, từ khi vào làm canh điền cho nhà Bá Kiến, rồi bị Bá Kiến đẩy vào tù, sau 7 - 8 năm ở tù ra, Chí Phèo đã rơi vào vô thức và bị lưu manh tha hóa, tất cả mọi hành động của Chí Phèo đều phải thông qua rượu, đều diễn ra trong vô thức: đâm thuê, chém mướn, cướp bóc, rạch mặt ăn vạ… Những tội ác của Chí cứ đầy lên trong con mắt người dân làng Vũ Đại.

    Tưởng như số phận cuộc đời của Chí Phèo sẽ mãi mãi trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa và rơi vào vực sâu của kiếp sống tội lỗi; nhưng sự xuất hiện Thị Nở đã đưa Chí Phèo từ vực sâu của kiếp sống lưu manh tha hóa đến bến bờ của cõi đời lương thiện. Đây có thể xem là một sự kiện trọng đại, một biến cố mở ra một bước ngoặt của cuộc đời Chí Phèo, đưa Chí Phèo trở lại với kiếp người. Sự xuất hiện của Thị Nở cùng bát cháo hành đã biểu hiện cho sự đồng cảm và tình người nhân hậu. Người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn kia lại là người duy nhất ở làng Vũ Đại biết được "sao có lúc nó hiền đến thế". Hơi ấm của bát cháo hành chính là hơi ấm của tình người nhân hậu đã làm cho con người lương thiện bấy lâu chìm khuất trong hình ảnh của con quỷ dữ, thằng đầu bò đã phục sinh, giờ đây sức sống tâm hồn đã trỗi dậy trong Chí Phèo.

Sau khi con người lương thiện phục sinh, tính cách tâm hồn con người Chí Phèo đã tỉnh dậy lắng nghe những âm thanh bình dị mộc mạc hàng ngày mà lâu nay Chí quên lãng. Chí bỗng hồi tưởng về những kỉ niệm của thời êm đẹp: Ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm… Đáng lẽ ra hắn cũng sẽ có được một cuộc sống bình thường như bao người khác nhưng giờ đây khi hắn tỉnh dậy hắn mới thấy hắn đã già mà vẫn còn cô độc hắn vẫn đang sống bên lề cuộc đời một cách khốn nạn, hắn cảm thấy buồn, cảm thấy tủi nhục. Hơn lúc nào hết, lúc này hắn mong ước được làm người, được trò truyện…

    Nhưng những giây phút được yêu của cuộc sống lứa đôi Chí Phèo - Thị Nở thật ngắn ngủi, hạnh phúc vừa hé mở đã khép lại. Chí Phèo và Thị Nở đã dắt tay nhau tới ngưỡng cửa cuộc đời nhưng bị từ chối phũ phàng bởi định kiến xã hội mà bà cô Thị Nở là đại diện. Khi tỉnh dậy và đối diện với hiện thực, Chí Phèo mới giật mình và nhận thức một cách sâu sắc hơn, rằng hắn đã bị từ chối khỏi cộng đồng và không thể trở thành người lương thiện trong con mắt mọi người được nữa.

    Khi con người lương thiện trong Chí Phèo đã phục sinh thì hắn lại càng khao khát được làm người hơn bao giờ hết. Nhưng khao khát vẫn chỉ là khao khát, như ánh cầu vồng vụt tắt sau cơn mưa, như ngọn lửa nhỏ bị dập tắt khi mới vừa được nhen nhóm khát vọng làm người của hắn đã bị cự tuyệt hoàn toàn. Chí lại trở về với sự cô độc, và đau đớn, xót xa khi nhận ra mình đã không còn đường về quay trở lại: "Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những hết mảnh chai trên mặt này?". Đây chính là sự tự ý thức cao độ của Chí Phèo về bi kịch của bản thân mình. Hình ảnh những vết mảnh chai trên mặt chính là dấu vết của những năm tháng tội đồ. Hình ảnh này đã hằn sâu trong tâm trí của người dân làng Vũ Đại và trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với họ. Trong con mắt của mọi người, Chí Phèo là con quỷ dữ. Thằng đầu bò và hình ảnh này không thể tẩy xóa đi được nữa. Chính định kiến đã ngăn cản bước chân của Chí Phèo tìm về với cõi đời lương thiện.


Hơn ai hết, Thị Nở là người đem lại cho Chí Phèo sự đồng cảm về tình người nhân hậu, nhưng chính Thị Nở cũng là người đẩy Chí Phèo đến bờ vực của cái chết. Thị vừa là phương tiện, là công cụ lại vừa là nạn nhân của định kiến.

    Đến đây, Chí Phèo rơi vào bi kịch của sự lựa chọn giữa sự sống và nhân cách cái. Cuối cùng, Chí Phèo đã tìm đến cái chết để khẳng định nhân cách của mình. Chí cầm dao đâm chết Bá Kiến - kẻ thù lớn nhất của đời mình rồi tự sát. Chí Phèo đã lựa chọn – một sự lựa chọn nghiệt ngã, nhưng đó là cách duy nhất để con người lương thiện trong Chí được sống, để nhân cách con người của hắn được tồn tại.

    Hành động tự sát của Chí Phèo là cuộc chiến đấu mạnh mẽ nhất, dữ dội nhất và là cuộc chiến đấu cuối cùng giữa con người hiền như cục đất và con quỷ dữ, thằng đầu bò. Trong cuộc quyết đấu này, Chí Phèo đã chết, nhưng nhân cách lương thiện đã trỗi dậy và tỏa sáng, đó cũng chính là chiến thắng tất yếu của cái thiện đối với cái ác, đồng thời cũng là sự thể hiện rõ ràng nhất của tư tưởng nhân đạo và tinh thần nhân văn của ngòi bút Nam Cao.

Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo 104

    Chưa bao giờ trên những trang văn học lại thấm đẫm cái ứa nước mắt của rượu, cái chát chúa của những câu chửi và cả tấn bi kịch cho một kiếp người không ra người, quỷ không ra quỷ như trong “Chí Phèo” của Nam Cao. Bằng biệt tài miêu tả tâm lí, khả năng lách sâu vào những diễn biến trong nội tâm nhân vật, tác giả Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo với quá trình tha hóa từ người nông dân lương thiện thành một tên lưu manh, “con quỷ dữ” đầy ám ảnh và quằn quại trong bi kịch bị từ chối quyền làm người.

    Cũng như bao người nông dân khác, Chí Phèo xuất hiện trong trang văn của Nam Cao với hoàn cảnh xuất thân và lai lịch đáng thương. Chí vốn là một đứa con hoang bị cha mẹ bỏ rơi nơi “cái lò gạch cũ” và được một bác đi thả ống lươn nhặt về. Đến năm hai mươi tuổi, không một tấc đất cắm dùi, hắn phải đi ở để kiếm tiền nuôi thân. Khi vào làm thuê tại nhà Bá Kiến, vì ghen với chàng trai khỏe mạnh, lực lưỡng, lão địa chủ đã rắp tâm đẩy anh canh điền chất phác, lương thiện vào vòng tù tội. Bi kịch tha hóa và bị từ chối quyền làm người đầy đau đớn của Chí Phèo chính thức bắt đầu.

    Qua dòng hồi ức mà Chí Phèo nhớ lại sau khi gặp Thị Nở thì trước lúc vào tù, Chí Phèo giản đơn chỉ là một người nông dân lương thiện, hiền lành, chất phác với ước mơ chân chính “một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng”. Anh canh điền dù nghèo khó nhưng vẫn có ý thức về lòng tự trọng, khi bị bà ba - vợ Bá Kiến gọi lên bóp chân, hắn chỉ thấy nhục nhã.

    Nhưng rồi, khát vọng nhỏ bé, bình dị về một mái ấm gia đình của Chí đã bị tên cường hào Bá Kiến tước đoạt. Nhà tù trở thành cánh cửa khép lại cuộc sống của một con người và đưa Chí gia nhập thế giới của quỷ. Sau khi ra tù, từ anh canh điền lương thiện, Chí hóa thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” với sự tha hóa về cả nhân hình và nhân tính. Về nhân hình, y đã bị tước đoạt hình hài của một con người với “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm…”. Chỉ bằng vài ba nét vẽ, tác giả đã phác họa thành công hình hài của một tên “săng - đá” khiến ai bắt gặp cũng đều sợ hãi và né tránh. Nhưng ám ảnh hơn cả là sự tha hóa về nhân tính: bản chất hiền lành, chất phác bị thay thế bởi sự lưu manh, tàn nhẫn. Chí trở thành một kẻ liều mạng với những công việc như kêu làng, đập phá, đâm chém, rạch mặt ăn vạ,...

    Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã đưa chi tiết tiếng chửi xuất hiện để làm nổi bật rõ nét bi kịch bị loại khỏi xã hội con người của Chí: “Hắn vừa đi vừa chửi…”. Trong cơn say, hắn chửi cả làng Vũ Đại nhưng không một ai lên tiếng, chỉ có tiếng sủa của vài ba con chó dữ đáp trả bởi ai cũng nghĩ “Chắc nó trừ mình ra”. Chí cứ thế trượt dài trên con đường lưu manh hóa, đến lúc gặp Thị Nở, những khát vọng về cuộc sống lương thiện ngày xưa ùa về thì đã quá muộn. Dù muốn trở lại làm người nhưng cánh cửa quay về đã bị khép lại. Cuối cùng, việc Thị Nở rời bỏ y đã khiến y nhận ra rằng: tấm vé quay trở về làm người lương thiện không dành cho hắn. Chí không thể xóa đi những vết sẹo trên mặt, không thể thay đổi những định kiến về “con quỷ dữ” trong anh. Để rồi Chí chát chúa, cay đắng trong bi kịch của con người nhưng bị khai trừ ra khỏi thế giới con người: “Ai cho tao lương thiện”, “Tao không thể làm người lương thiện được nữa rồi”. Và cuối cùng, y chết tức tưởi, đớn đau, vật vã trong hành trình lưu manh hóa.

    Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo đã thể hiện sự thành công của tác giả trong việc xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Bằng quan niệm văn chương tiến bộ, sắc sảo, nhà văn Nam Cao đã nhận ra hành trình bị bần cùng hóa, lưu manh hóa mang tính quy luật của số phận người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Đồng thời, thông qua cuộc đời của Chí, chúng ta còn thấy được giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. Đó là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo, bất nhân đã cướp đi cuộc sống chân chính của con người. Qua đó, chúng ta thấy được sự cảm thông, thương xót của nhà văn Nam Cao đối với người số phận người nông dân trong hành trình bị bần cùng hóa và lưu manh hóa.

    Gấp trang sách lại nhưng ám ảnh về một anh canh điền lương thiện cuối cùng chết đau đớn, bi thảm trong bi kịch bị tước đoạt, bị chối bỏ và bị khai trừ khỏi xã hội loài người vẫn còn đó. Điều này được tạo nên bởi tài năng của nhà văn Nam Cao trong việc xây dựng hình tượng nhân vật cùng biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật sắc nét và tinh tế.


Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo 105

    Trong những năm 40 của thế kỉ, cuộc sống của nhân dân ta rất khó khăn, bị bóc lột khổ cực, hay chính họ là những nô lệ cho tầng lớp quan lại, bí bách không lối thoát. Trước hiện thực ấy, đã có rất nhiều nhà văn đứng lên bênh vực cho lẽ phải, phê phán hiện thực bằng ngòi bút của mình. Trong các tác giả đó, phải kể đến Nam Cao, ông nổi bật với những trang viết khai phá sâu sắc bi kịch của những kiếp người khổ đau trong bóng tối của xã hội. Chí Phèo là một trong những tác phẩm được coi là kiệt tác của ông về tài năng cũng như trong phong cách nghệ thuật.

    Truyện ngắn Chí Phèo đã tái hiện lại hình ảnh nông thôn của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ (trước Cách mạng tháng Tám). Đó là một xã hội được đặc trưng bởi một bên là bộ mặt của Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo… là một đội ngũ cường hào, đại chủ thống trị, bóc lột sức lao động của nhân dân, nhưng cũng chính trong nội bộ này cũng có sự mâu thuẫn. Bọn chúng như một đàn cá tranh mồi. Mồi thì ngon mà bè nào cũng muốn ăn, do đó, chúng luôn rình cơ hội để thống trị lẫn nhau, muốn cho nhau lụi bại để cưỡi đầu cưỡi cổ lên nhau. Mâu thuẫn khá phổ biến, gay gắt, có liên quan đến những số phận Binh Chức, Năm Thọ và đặc biệt là Chí Phèo.

    Tầng lớp thứ hai là những người như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức họ lại hợp thành một nhóm riêng. Họ là những người dân thường, những người lao động nghèo, nhưng đã bị lưu manh hóa, bị mua chuộc và trở thành tay sai cho bọn địa chủ thống trị, những tên cường hào, lí dịch và gây nên không biết bao nhiêu tội vạ cho những người lương thiện. Dưới ngòi bút của Nam Cao, bức tranh xã hội hiện lên đầy kịch tính, chất chứa những xung đột bùng nổ.

    Tác giả đã xây dựng hình tượng Chí Phèo là người điển hình cho những người bị tha hóa. Tha hóa tức là biến đổi thành cái khác. Khi con người bị tha hóa thường xấu xa đi so với bản chất lương thiện của họ. Chí Phèo, bị tha hóa ở hai phương diện. Chí Phèo vốn là một người có bản chất hiền lành, là người nông dân lương thiện mà phải sống như một con quỷ dữ ở làng Vũ Đại. Không chỉ thế, những người dân làng Vũ Đại trở nên xa lánh Chí, không chấp nhận cho Chí quay về làm “người”. Thậm chí mọi người còn sợ hãi, đáng thương hơn là khi Chí chết cả làng không ai thương tiếc mà lại vui mừng. 

    Thông qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã trực tiếp nêu lên vấn đề con người bị tha hóa, bị vong thân, mất nhân tính, nhân cách vì bị áp bức, bóc lột, đói khổ, cùng cực. Tác giả đã mổ xẻ vấn đề trong cuộc sống, ý thức về quyền sống, quyền làm người, ý thức nhân cách, nhân phẩm ngay ở những con người bị cộng đồng khinh bỉ, gạt sang bên lề của xã hội. Nhưng người đọc cũng có thể thấy được, truyện Chí Phèo còn giúp người đọc có cơ sở để chia sẻ những dằn vặt, đau khổ của con người khi không được làm người, chỉ mong ước có được cuộc sống bình thường, tiếng kêu không ai đáp “Ai cho tôi lương thiện” của Chí như thức tỉnh về số phận của mình, nhưng tiếng kêu của anh đã không ai chấp nhận.

    Chính sự ý thức được bản thân mình bị tha hóa, muốn quay về làm người lương thiện nhưng không ai chấp nhận hắn, đã dẫn đến bi kịch tiếp nối trong cuộc đời hắn. Chí Phèo tuy đã bị tha hóa từ lâu, nhưng trước khi gặp Nở, hắn sống triền miên trong men rượu và chưa thấy mình khổ, tức là chưa thực sự có bi kịch nội tâm. Cho đến lúc bị ốm, Chí gặp Nở, một người phụ nữ xấu đến “ma chê quỷ hờn” đã giúp hắn thức tỉnh ra được tình trạng tha hóa của mình và bắt đầu diễn ra trong đời sống nội tâm của Chí.

    Chí Phèo đã ý thức được kẻ gây ra cuộc đời đau khổ, biến hắn thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại chính là Bá Kiến, nhân vật tiêu biểu cho giai cấp thống trị. Bá Kiến đã được Nam Cao vạch trần bộ mặt xấu xa, tàn ác của hắn. Đây là một tên cáo già cường hào trong “nghề” thống trị dân đen. Trông thì có vẻ cao sang, ăn nói hiểu đời, hiểu người, giúp đỡ những người khó khăn trong lúc hoạn nạn. Nhưng chính hắn lại đẩy những người tốt như Chí đến con đường tội ác, bản chất của hắn thật ghê tởm. Vì thế, Chí đã đến để đòi lại công bằng với Bá Kiến trong những cơn say, nhưng lại là lúc tỉnh nhất trong đời của Chí. Nhưng vì quá nhỏ bé trước thế lực thống trị độc ác nên khiến Chí đau khổ lại nối tiếp đau khổ.

    Đau khổ tột cùng hơn khi Chí muốn có một gia đình với Thị Nở. Mấy ngày ở với Thị Nở hắn mới biết đến cái cảm giác ấm áp của gia đình, biết vui, biết buồn, biết mơ ước, biết ăn năn… Như vậy, Chí không phải là người máu lạnh. Nhưng vốn là người “dở hơi” không có lập trường nên Thị Nở cũng đã cự tuyệt Chí. Và con đường cuối cùng của hắn là đến tìm giết Bá Kiến sau đó tự sát. Một cái kết đau thương cho những con người không lối thoát trong cuộc sống.

    Kết thúc câu chuyện, không chỉ dừng ở đấy, tuy Bá Kiến chết nhưng vẫn còn con cái, các thế lực cường hào lại tiếp tục bóc lột dân đen, còn Thị nhìn xuống cái bụng của mình và cái lò gạch bỏ hoang. Người dân hiểu rằng “Tre già măng mọc”. Và như vậy, cái chết của Chí và Bá Kiến tố cáo lên thực cảnh xã hội nhưng chưa giải quyết được thực cảnh ấy.

    Nam Cao là người có sự thông cảm, sẻ chia sâu sắc với nông dân mới hiểu được và khắc họa lên bức tranh xã hội như vậy. Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo không chỉ là người đại diện cho tầng lớp bị tha hóa, mà đó còn là tiếng kêu cứu thiết tha của những con người bất hạnh. Hãy đấu tranh để bảo vệ quyền lợi, quyền sống, quyền làm người của họ. Qua đây, ta có thể thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc được thể hiện trong truyện ngắn Chí Phèo.

Phân tích hình ảnh Bát cháo hành 106

Nếu như nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã đãi người vợ nhặt của mình một chập bốn bát bánh đúc và một bữa ăn thật no nê trước khi "rước nàng về dinh" thì thị Nở của Nam Cao trong Chí Phèo lại đãi Chí một bát cháo hành thơm phức do chính tay mình nấu. Không cầu kỳ hoa mỹ, cũng không cao sang giàu có, bát cháo hành thấm đượm tình người, tình yêu và sự thiện lương trong sáng mà một người đàn bà dở hơi, xấu xí dành cho kẻ tội đồ cùng quẫn đang chìm trong cơn say u mê giữa cuộc đời cô độc.

      Chí cô độc vì Chí không cha không mẹ, không người thân thích. Chí bị nhà Bá Kiến đẩy vào tù trong nỗi oan ức, căm hận. Ra tù, Chí từ một người hiền lành tử tế trở thành một thằng săng đá khiến cả làng Vũ Đại khinh sợ. Chí ngập ngụa trong những cơn say rượu triền miên. Chí rạch mặt ăn vạ, rồi vô tình làm tay sai chuyên đi đòi nợ thuê cho Bá Kiến để có tiền uống rượu. Cũng trong cơn say ấy, Chí đã gặp thị. Hai con người bần cùng nhất của làng Vũ Đại, của xã hội quấn vào nhau. Để rồi, sau trận ấy, Chí lên cơn sốt hừ hừ. Thị thương tình nấu cho "người yêu" bát cháo hành để giải sốt. Đang ốm thế thì chỉ có ăn cháo hành, ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà... Thế là vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu bỏ vào cái rổ, mang ra chi Chí Phèo. Bát cháo ấy làm Chí hết sức ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn vẫn phải dọa nạt hay là giật cướp. Hắn phải làm cho người ta sợ. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng.

      Bát cháo hành đã làm cho Chí tỉnh thức sau cơn say dài triền miên, sau những tháng ngày ngập chìm trong bóng tối. Lúc này, Chí không còn ngật ngưỡng vừa đi vừa chửi với chai rượu ôm trong tay nữa. Tình người đang nhen nhóm trong Chí. Hắn cầm lấy bát cháo đưa lên mồm. Trời ơi cháo mới thơm làm sao ! Chỉ khói xông vào mĩ cũng đủ làm người nhẹ nhóm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng : những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất ngon. Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo ? Có thể lúc này Chí đang rất đói vì đó là biểu hiện thông thường của những kẻ say rượu khi tỉnh. Lúc đói ăn gì cũng thấy ngon. Nhưng với Chí thì khác, Chí không những say rượu mà còn say trong cơn say tội lỗi, tối tăm. Hương cháo hành đã làm Chí tỉnh thức. Và bây giờ Chí đang say thị. Một cơn say thánh thiện, một cơn say tình yêu. Lần đầu tiên Chí được săn sóc bởi một bàn tay "đàn bà". Dẫu thị có là người dở hơi, xấu xí tới mức ma chê quỷ hờn nhưng không ai có thể phủ nhận tấm lòng của thị khi tình nguyện nấu cho Chí một bát cháo hành ngon lành đến thế. Chí bắt đầu cảm nhận được những hương vị của cuộc sống giản đơn xung quanh mình. Tiếng mái chèo gõ cá, tiếng chim hót, tiếng người nói lao xao... Những thứ ấy ngày nào cũng có nhưng bị khỏa lấp trong men rượu nên Chí chẳng thể nào cảm nhận được. Chí nghĩ đến những tháng ngày ở nhà Bá Kiến, bị bà ba sai khiến. Chí hiểu rằng sự ham mê của bà ba không phải là tình yêu mà chỉ là một điều nhục nhã, dơ bẩn. Hắn chưa được một người đàn bà nào yêu cả, vì thế mà bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù ? Dường như phần người trong Chí đang dần tỉnh dậy. Chí nhận ra rằng mình vẫn còn cơ hội làm lại từ đầu, làm hòa với mọi người và chính thị sẽ là cầu nối cho hắn.

      Bát cháo hành tình nghĩa đã làm thay đổi cuộc đời Chí. Lúc này trông Chí rất hiền. Một người đàn bà dở hơi như thị cũng dễ dàng nhận ra điều đó. Dù trên khuôn mặt Chí đã hằn in bao vết sẹo dài sau mỗi lần rạch mặt ăn vạ, nhưng từ trong sâu thẳm đôi mắt ăn năn, Chí đang khát khao được quay trở lại làm người lương thiện. Nếu như bát cháo ấy cũng do Chí giành giật mà có được, hẳn nó sẽ không mang lại nhiều thay đổi cho Chí như vậy. Bởi bát cháo được nấu lên từ tình yêu chân thành, từ tấm lòng lương thiện của thị Nở, từ chính lòng đồng cảm, xót thương của nhà văn Nam Cao. Yêu nhau, người ta chăm sóc cho nhau là chuyện bình thường. Nhưng với Chí, điều ấy đáng quý, đáng trân trọng hơn bao giờ hết. Bởi lúc gặp thị, Chí đang ở tận cùng, tận đáy của nỗi đau, nỗi tuyệt vọng. Không một ai nhìn nhận Chí là một con người nữa. Vậy mà thị không những làm quen với Chí mà còn yêu Chí, thương Chí bằng một tình yêu rất thật, rất tự nhiên. Hoặc cũng có thể tình yêu là mù quáng. Nhưng rõ ràng, bát cháo hành vẫn ẩn chứa tình người thiêng liêng vô cùng. Một người chưa từng được ăn cháo hành sẽ thấy nó rất ngon, nhưng với Chí, nó không những ngon mà còn rất ý nghĩa. Nó làm cho Chí tỉnh. Lúc tỉnh táo, hắn cười nghe thật hiền. Thị Nở lấy làm bằng lòng lắm. Bây giờ thì mấy bát cháo ý chừng đã ngấm. Hắn thấy lòng rất vui.

      Bát cháo ấy còn là hiện thân của lòng đồng cảm và sự xót thương của chính nhà văn dành cho đứa con đẻ Chí Phèo của mình. Đồng thời đó cũng là tình cảm dành cho những người nông dân đang cùng quẫn như Chí, đang sống lay lắt dưới chế độ phong kiến tàn ác, bất nhân. Giữa xã hội ấy, họ phải dành lấy mà ăn, kẻ nào mạnh sẽ sống, kẻ yếu sẽ chết dần chết mòn. Và trong lúc Chí đang dần đi vào cõi chết một cách tội lỗi thì bát cháo hành của thị đã làm Chí bừng tỉnh. Chí quay đầu lại, làm lại từ đầu.

      Mặc dù sau đó, thị đã cự tuyệt tình yêu của Chí, đã bỏ rơi Chí giữa những tuyệt vọng phũ phàng. Dù Chí lại tìm đến rượu nhưng lần này hơi cháo hành đã lấn át men rượu, làm Chí càng uống càng tỉnh. Chí tỉnh nên tất nhiên Chí biết mình phải làm gì. Chí đã đến giết Bá Kiến rồi tự vẫn. Không còn một anh Chí hiền lành hay một con quỷ dữ mang tên Chí Phèo nữa.


Nhưng sau câu chuyện, hình ảnh bát cháo hành vẫn gợi lên cho người đọc bao nghĩ suy. Bát cháo hành là sự nhân đạo, thể hiện tình người cao quý thiêng liêng, làm thay đổi cái nhìn của người khác về một kẻ tội đồ. Ai cũng nhìn Chí bằng con mắt khinh sợ. Nhưng sau khi nhận được ân huệ là một bát cháo của thị Nở, được nấu bằng tình yêu thương thực sự, Chí đã trở lại con người của chính mình. Đó là một ý nghĩa rất nhân văn. Rằng những kẻ tội lỗi rất cần được sự quan tâm của mọi người xung quanh. Đừng hắt hủi họ. Có thể họ đang cảm thấy tự ti, xấu hổ, đang muốn dấn sâu thêm vào tội lỗi, nhưng khi nhận được tình cảm thật sự, tâm hồn họ sẽ được cảm hóa. Trong xã hội ngày nay, có biết bao người đang sống trong lầm lỗi. Đừng chỉ nhìn họ bằng ánh mắt khinh thường, ghét bỏ, bởi phía sau những tội ác họ gây ra, hẳn vẫn còn trắc ẩn chút ít lòng lương thiện. Vậy hãy dùng lòng lương thiện của mình để làm sống lại lòng lương thiện của họ. Thị Nở chỉ là một người đàn bà dở hơi, sở hữu "nhan sắc trời cho" dẫu xấu tới mức ma chê quỷ hờn, thị cũng chẳng giàu có nhưng thị vẫn dành cho Chí một tình yêu thương thánh thiện. Còn chúng ta thì sao ? Hãy nghĩ tới bát cháo hành, nghĩ tới những điều đã thay đổi trong cuộc đời Chí sau khi được tận hưởng bát cháo ấy.

      Nhà văn Nam Cao đã rất khéo léo khi xây dựng nên hình ảnh bát cháo hành để người đọc thấy rằng tình người mới là thứ đáng quý nhất, đáng trân trọng nhất. Và tình người là khi không phân biệt giàu nghèo, sang hèn... người tội lỗi lại càng cần có tình người hơn. Giống như bát cháo hành đã xoa dịu cuộc đời Chí, giúp Chí lấy lại được phần người trong con người của mình. Chỉ tiếc rằng, trong xã hội ấy, Chí vẫn chỉ là một người nông dân mang thân phận thấp hèn, vẫn bị chế độ phong kiến vùi dập, và Chí đã chọn cái chết để hương cháo hành không bị phôi phai bởi hương rượu nữa...


Phân tích Bá Kiến 107

    Trong mỗi truyện ngắn thông thường đều có hai giới tuyến nhân vật rõ ràng. Nếu như Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là nhân vật chính diện tiêu biểu cho những người nông dân nghèo khổ bị áp bức bất công, bị đẩy đến mức đường cùng thì Bá Kiến - nhân vật phản diện đại diện cho bọn địa chủ phong kiến độc ác, tàn bạo và nham hiểm. Nam Cao khắc họa thành công nhân vật Bá Kiến chỉ với vài nét đặc tả đã cho thấy bộ mặt xấu xa của hắn.

    Nếu ai đã từng đọc tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố ắt hẳn không thể quên tên Nghị Quế hách dịch, xảo trá lừa lọc mà nhà văn thể hiện qua chi tiết chị Dậu đem cái Tí và đàn chó bán cho hắn. Khác với Ngô Tất Tố chỉ miêu tả Nghị Quế về dáng điệu, tiếng nói và tài sản thì Nam Cao khắc họa Bá Kiến hiện lên với tư cách là một nhân vật điển hình hoàn chỉnh khi đi sâu vào suy nghĩ, nội tâm của hắn.

    Bá Kiến là một tên cáo già tiêu biểu cho bọn địa chủ cường hào ở làng xã của đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Hắn xuất thân trong một gia đình bốn đời làm lí trưởng nay bản thân hắn là chánh tổng - chức vụ cao nhất của đơn vị hành chính cấp huyện. Nam Cao để cho nhân vật xuất hiện với “tiếng cười giòn giã lắm” - tiếng cười Tào Tháo và tiếng quát “rất sang” cho thấy uy quyền của vị chánh tổng.

    Cụ Bá khét tiếng là một người hách dịch, nham hiểm và độc ác dùng nhiều thủ đoạn để buộc người khác phải cắm đất cắm nhà, xúi giục bọn lưu manh đến ức hiếp dân nghèo. Đáng lẽ thân làm quan phụ mẫu người mang sứ mệnh chăm lo cho đời sống nhân dân thì nay lại vơ vét tiền của, chèn ép dân đen.

    Bá Kiến còn là một người biết xử lí khôn khéo được minh chứng qua cách hắn đối xử với Chí Phèo trong cơn say. Khi mọi người trong nhà ngoài ngõ đang xúm nhau lại để chứng kiến sự việc Chí rạch mặt ăn vạ sau cuộc ẩu đả với lí Cường. Việc làm trước tiên của cụ “tiên chỉ làng Vũ Đại” là quát mấy “bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng” rồi đến bọn người làng ông dịu giọng “Cả các ông các bà nữa về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?” chỉ bằng từng đó lời mà “Không ai nói gì, người ta lảng dần đi”. Những người nông dân hiền lành ấy phần vì nể, vì sợ, vì lo cho sự yên ổn của mình mà không dám lôi thôi, thấy cụ là kính cẩn “lạy cụ”, “bẩm cụ” bấy giờ bốn bà vợ của cụ lớn cũng đã phải vào thì họ cớ sao còn dám ở lại, điều đó cho thấy uy quyền uy thế của Bá Kiến ở làng Vũ Đại. Hắn khéo léo ứng biến khi thấy “Chí Phèo bỗng nằm dài, không nhúc nhích, rên khẽ như gần chết” thì đã hiểu cơ sự bởi kinh nghiệm của bấy nhiêu năm làm quan. Hắn gọi một kẻ lưu manh bằng “anh” với cái giọng nhún nhường và thân mật “Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế?” rồi từ từ đỡ Chí vào nhà dùng lời lẽ đường mật để xoa dịu đi cơn bực tức, để con quỷ dữ được yên phận trong anh. Chí đứng lên để hắn rìu vào nhà hắn biết mình đã thắng. Chẳng biết có họ hàng như thế nào với lí Cường theo như lời hắn nói nhưng cũng làm Chí thấy lòng nguôi nguôi kể từ đó mà bị Bá Kiến mua chuộc.



Một tên quan lại hết sức thâm hiểm biết “mềm nắn rắn buông”, xử nhũn với kẻ thù biến kẻ thù thành tay sai đắc lực để trừ khử đối thủ của mình. Bá Kiến là một kẻ khôn róc ở đời “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân” hắn không dại gì mà đối đầu với kẻ liều lĩnh hành nghề rạch mặt ăn vạ bởi “Trị không lợi thì dùng”, hắn mua chuộc và lợi dụng Chí Phèo để anh ta đi đòi nợ Đội Tảo - một tay vai vế trong làng, kẻ địch đối đầu với hắn. Cụ luôn nghĩ bụng cũng phải có những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò. Tôn chỉ của hắn là “Ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế đòi được năm đồng, nhưng được rồi thì vất trả lại năm hào vì “thương anh túng quá”. Chỉ một vài chi tiết đi sâu vào nội tâm nhân vật Nam Cao đã lột tả được tâm hồn đen tối, đầy thủ đoạn tàn ác, xảo quyệt và thâm độc của hắn.

    Không chỉ vậy trong tác phẩm “Chí Phèo” nhà văn còn bóc trần bộ mặt xấu xa của Bá Kiến qua mối quan hệ đen tối trước đây của hắn với Năm Thọ, Binh Chức. Một kẻ háo sắc, dâm ô có những bốn bà vợ mà còn không buông tha cho người đà bà hai con - vợ anh Chức, không chỉ cướp vợ mà còn cướp luôn cả tiền anh ta đi lính chắt bóp gửi về nuôi vợ con. Một ông chồng hay ghen tuông chính vì ghen với Chí Phèo khi được bà ba hay bắt hắn bóp chân, xoa bụng, đấm lưng mà năm ấy Bá Kiến là kẻ đã đẩy Chí Phèo-một anh canh điền chất phác hiền lành vào ngồi tù để rồi chế độ nhà tù thực dân phong kiến tàn ác đã khiến anh trở thành một kẻ lưu manh, tha hóa mất hết nhân hình lẫn nhân tính với nhân cách méo mó. Con người ấy bị Chí Phèo cầm dao đâm chết là một kết thúc thỏa đáng cho những việc làm độc ác của hắn. Cái chết ấy cảnh báo cho xã hội nếu không thay đổi và tiến bộ thì không biết còn bao nhiêu tên như Năm Thọ, Binh Chức hay Chí Phèo nữa.

    Như vậy nhân vật Bá Kiến mang đầy đủ tội ác xấu xa của bọn địa chủ cường hào dưới chính quyền phong kiến nửa thuộc địa. Nam Cao đã khéo sử dụng một lối văn linh hoạt sinh động, giản dị và trong sáng, gần với khẩu ngữ hàng ngày của quần chúng, đi sâu mà miêu tả nội tâm của nhân vật để cho Bá Kiến hiện lên vừa có nét chung vừa có nét riêng độc đáo không lẫn với tên địa chủ nào.



Phân tích nhân vật Bá Kiến 108

   Bá Kiến là đại diện tiêu biểu cho giai cấp thống trị, trong truyện ngắn Chí Phèo, bằng sự xảo quyệt, tàn bạo, gian hùng mà Bá Kiến đã đẩy bao người vào cảnh tan cửa nát nhà, thậm chí còn khiến cho những người vốn có bản chất lương thiện như Chí Phèo trở nên lưu manh hóa, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

   Truyện ngắn Chí Phèo là bản cáo trạng chân thực nhất về thực trạng đau khổ của người nông dân Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa, mà đại diện cho giai cấp thống trị bạo tàn chà đạp, bóc lột con người chính là Bá Kiến. Bá Kiến là người có địa vị trong làng, với gia thế bốn đời làm tổng lí, bản thân Bá Kiến làm chánh tổng, nghĩa là người đứng đầu của một làng.



Trước hết, nhân vật Bá Kiến được tác giả Nam Cao tập trung bút lực xây dựng với nét gian hùng nham hiểm của lão tổng lí mưu mô. Ta có thể thấy được nét tính cách này của Bá Kiến thông qua thủ đoạn mà hắn dùng người. Trong quan niệm của Bá Kiến, trên đời này chỉ có hai hạng người khiến hắn phải sợ, đó là anh hùng và kẻ cố cùng “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân”. Vì vậy mà Bá Kiến đã sử dụng những người liều lĩnh lại chẳng có gì để mất như Chí Phèo để trừ khử những kẻ đối đầu với phe cánh của mình. Cũng chỉ qua chi tiết dùng người này thôi cũng cho thấy Bá Kiến là kẻ khôn ngoan róc đời.

   Bá Kiến là con người vô cùng xảo quyệt, ném đá giấu tay. Để thực hiện được mục đích của mình hắn ta không ngại sử dụng mọi thủ đoạn, thậm chí là sử dụng những kẻ liều lĩnh như Chí Phèo để thực hiện tội ác cho mình. Hắn ta có thể ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng sẽ không để cho họ chết mà buộc họ phải đền ơn mình. Hắn cũng có thể đập bàn đập ghế để đòi cho được năm đồng nhưng sau khi đòi được hắn lại vứt xuống năm hào vì thương anh túng quá. Bản chất xảo quyệt, róc đời của Bá Kiến đã từng bước củng cố địa vị của hắn trong làng Vũ Đại, người dân trong làng Vũ Đại không ai không căm ghét cha con Bá Kiến nhưng luôn thường trực nỗi lo sợ vô hình trước quyền lực của hắn.

   Bá Kiến là đại diện tiêu biểu nhất của giai cấp thống trị trong xã hội xưa. Bản chất bạo tàn, vô tình của Bá Kiến đã khiến bao người lâm vào cảnh cùng khổ. Hơn nữa, không chỉ gây ra những nỗi khổ về vật chất mà hắn ta còn chà đạp tinh thần, khiến cho những người lương thiện như: Năm Thọ, Binh Chức, Chí Phèo trở nên lưu manh hóa. Chỉ cần thực hiện được mục đích của mình hắn ta cũng không ngại hi sinh những con tốt thế thân như Chí Phèo.

   Chỉ vì ghen tuông vớ vẩn mà hắn ta có thể nhẫn tâm mưu mô đẩy một con người vào con đường tù tội. Chí Phèo cũng là nạn nhân của tính ghen tuông, ích kỉ đấy của hắn. Bá Kiến cũng là con người vô cùng khôn khéo, am hiểu lẽ đời, hiểu tâm lí con người, chính vì vậy mà hắn ta có thể dễ dàng điều khiển người khác.

   Chí Phèo sau khi ra tù đã đến nhà Bá Kiến với mục đích trả thù, nếu như thói ăn vạ, chửi bới của Chí Phèo có thể khiến cho Lí Cường, con trai Bá Kiến tức điên lên và không làm gì được thì cục diện lại thay đổi khi Bá Kiến về nhà. Để trấn áp cơn tức giận của Chí Phèo, Bá Kiến đã nói với giọng thân tình, nhận họ hàng và cho Chí tiền mua rượu. Bằng những mưu mô lọc lừa Bá Kiến đã biến một Chí Phèo hung hăng phải bình tĩnh trở lại, biến ý định trả thù của Chí Phèo thành sự biết ơn của một kẻ không có gì trong tay với người đã giúp đỡ mình.

   Chỉ đến lần cuối cùng khi Chí Phèo đến nhà Bá Kiến để trả thù, vì đang trong cơn ghen tuông, bực tức nên Bá Kiến đã không hề nhận ra sự thay đổi trong con người Chí Phèo. Khi nghe Chí Phèo đòi lương thiện hắn ta lại nghĩ đó chỉ là cách Chí đòi tiền như mọi lần. Lưỡi dao của Chí Phèo vung lên, Bá Kiến đã phải trả giá cho mọi tội ác kinh khủng mà hắn đã tạo ra.


Có thể nói tác giả Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng nhân vật Bá Kiến, đây là con người gian hùng, độc ác khôn lỏi lẽ đời nhưng cũng là người có bản lĩnh ngoan cường. Thông qua nhân vật Bá Kiến, Nam Cao cũng đã tái hiện chân thực chế độ phong kiến thối nát đã chà đạp lên quyền sống lương thiện của con người.


Phân tích nhân vật Bá Kiến 109

   Trong truyện ngắn "Chí Phèo", Nam Cao đã tái hiện lại hình ảnh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trước cách mạng qua bức tranh làng Vũ Đại. Bức tranh hiện thực ấy không chỉ khắc họa người nông dân hiền lành bị lưu manh, tha hóa mà còn nổi bật lên những con người thuộc tầng lớp thống trị tàn ác, tiêu biểu là nhân vật Bá Kiến. Bên cạnh hai nhân vật Chí Phèo và Thị Nở, nhân vật Bá Kiến cũng để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng riêng biệt.

   Tác phẩm "Chí Phèo" được Nam Cao sáng tác năm 1941 với nhan đề là "Cái lò gạch cũ", đến năm 1946, khi in trong tập "Luống cày" tác giả lấy tên nhân vật chính để đặt lại tên cho tác phẩm. "Chí Phèo" là lời tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẩy con người đến bờ vực thẳm, không còn một con đường sống để quay về với bản chất lương thiện. Đồng thời, truyện ngắn này cũng là lời tố cáo sự xảo quyệt, gian manh của tầng lớp thống trị.

   Bá Kiến là nhân vật điển hình cho giai cấp thống trị ở xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng. Cụ bá xuất thân trong một gia đình có truyền thống làm lí trưởng, chánh tổng. Chính cụ cũng làm từ chức lý trưởng, chánh tổng rồi đến chức "bá hộ tiên chỉ làng Vũ Đại, Chánh Hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc kỳ nhân dân đại biểu, khét tiếng đến cả trong hàng huyện". "Thử hỏi đã có mặt nào trong cái làng hơn hai nghìn suất đinh này làm được thế"? Uy quyền của cụ Bá khiến dân lành và bọn lưu manh ai cũng nể sợ. Ngay cả Chí Phèo, khi đến nhà bá Kiến đòi món nợ máu cũng có suy nghĩ "dại gì mà vào miệng cọp".

   Bản chất của con người bá Kiến thể hiện qua các thủ đoạn trị dân. Thứ nhất cụ sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ "cố cùng liều thân". Bá Kiến lấy kẻ đầu bò để trị thằng đầu bò, thực hiện chính sách "trị không được thì cụ dùng", "mềm nắn rắn buông", "nắm thằng có tóc chứ không ai nắm kẻ trọc đầu". "Cụ nghĩ bụng cũng phải có những thằng đầu bò chứ? Không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò"? Những chính sách cai trị ấy đã bộc lộ bá Kiến là một kẻ nham hiểm, gian hùng, thâm độc. Làng Vũ Đại được ví như mảnh đất "quần ngư tranh thực", các phe cánh đối đầu nhau và cụ lấn át được những vây cánh khác bởi cụ biết "thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù" vì chúng là "những thằng được việc".

   Đó còn là một kẻ ném đá giấu tay khi ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông sau đó kéo người ta lên để chờ đợi sự hàm ơn. Cụ "đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì lại vất trả lại năm hào vì thương anh túng quá". Năm Thọ là tên là một thằng đầu bò "kình nhau" với bá Kiến ra mặt nhưng cụ bá chưa có chưa có dịp để trị hắn. Nhân việc hắn can dự vào một vụ cướp bị bắt giam bá Kiến ngấm ngầm vận động cho vào tù. Bá Kiến vui vì đã nhổ được cái đinh trong mắt.

   Bá Kiến tàn ác và đểu cáng làm sao khi đẩy những người nông dân lương thiện vào con đường tội lỗi. Từ một anh canh điền hiền lành, Chí Phèo bị đẩy vào tù do cơn ghen vô cớ của bá Kiến. Sau khi ra tù, hắn trở thành tay sai đắc lực cho cụ và trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại để đến khi muốn quay lại làm người lương thiện chỉ còn cách tự sát.

   Bá Kiến vô cùng ranh mãnh. Cụ bá đã giải quyết mọi chuyện êm đẹp khi Chí Phèo đến nhà đòi món nợ máu. Cụ giải tán dân làng đang xúm lại trước cổng để tìm cách đối phó với tên cố cùng liều thân này. Cụ hỏi thăm Chí "về bao giờ", sao không vào cụ chơi và dỗ dành ngon ngọt rằng Chí và lí Cường có họ với nhau để Chí Phèo "nguôi nguôi" rồi biến hắn trở thành tay sai cho mình. Chỉ với những lời dụ dỗ đó và cho Chí Phèo ít tiền uống rượu mà bá Kiến có một tay sai ngoan ngoãn lại rất được việc. Bá Kiến sai Chí đi đòi tiền đội Tảo vì nếu hắn trị được đội Tảo thì tốt và nếu hắn "bị đội Tảo trị thì cụ cũng chẳng thiệt gì" vì đằng nào thì cụ cũng là người được lợi.

   Không chỉ có vậy, bá Kiến còn là con người dâm ô, đồi bại. Mặc dù có đến bốn người vợ nhưng bá Kiến không thể bỏ lỡ món lợi ở trước mắt. Cụ bá ngồi chung xe và ở lại tỉnh cùng vợ Binh Chức mỗi lần chị Binh "đi lĩnh lương hay lĩnh măng đa của chồng" nhờ cụ đi nhận thực. "Cụ chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ đi ở tù" khi nghĩ về bà tư rồi ghen bóng gió. Bà ta "đĩ lắm", gần 40 tuổi rồi mà trông vẫn còn trẻ và "phây phây", lại đa tình.

   Tiếng cười nhạt nhưng giòn giã của bá Kiến thể hiện một con người đểu cáng và thủ đoạn. "Người ta bảo cụ hơn người cũng bởi cái cười" quả không sai. Đây chính là nét riêng của bá Kiến. Nếu không phải con người thủ đoạn thì cụ bá không có những đòn trị dân thâm hiểm đến vậy. Nếu là một con người chân chính thì bá Kiến đã không có thói dâm ô và đẩy người khác vào con đường tội lỗi.

   Cuối cùng, bá Kiến cũng phải trả giá cho những hành động của mình. Một kẻ "khôn róc đời" như cụ bá lại bị tên tay sai Chí Phèo dùng dao chém túi bụi. Nhưng nhân dân vẫn còn lo sợ vì quy luật "Tre già măng mọc, thằng ấy chết còn thằng khác". Bá Kiến chết đi nhưng vẫn còn những kẻ thống trị khác và cuộc sống của nhân dân vẫn lầm than, khổ cực. Cái chết của bá Kiến cũng không làm cho Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ quay trở về con đường lương thiện.

   Có thể thấy bá Kiến mang tính chất điển hình cho giai cấp thống trị ở làng quê Việt Nam trước cách mạng. Đồng thời, nhân vật cũng có những nét riêng biệt, không giống các cường hào khác. Nhà văn Nam Cao không chú trọng việc miêu tả ngoại hình nhân vật nhưng thông qua những chi tiết, việc làm của bá Kiến ta có thể thấy rõ được tính cách nhân vật. Nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả đã đạt đến đỉnh cao. Vì thế mà nhà văn Lê Đình Kỵ đã đưa ra nhận định: "Trong văn xuôi trước cách mạng, chưa có ai có được ngòi bút sắc sảo, gân guốc soi mói như của Nam Cao".

   Qua nhân vật bá Kiến, Nam Cao đã lên tiếng tố cáo sự tàn bạo, hà khắc của tầng lớp thống trị, bên cạnh đó nhà văn cũng lên tiếng đòi quyền sống, quyền được làm người lương thiện của nhân dân. Những điều đó đã góp phần tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm. Nhắc đến giai cấp thống trị ở làng quê Việt Nam chúng ta không chỉ nhắc đến Nghị Hách, Nghị Quế mà còn nhắc đến bá Kiến - một con người mưu mô, xảo quyệt, nham hiểm, tàn ác và ranh mãnh.



Bài Văn Mẫu Hai Câu Nói Cuối Cùng Của Chí Phèo Đã Bộc Lộ Rõ Chủ Đề Của Tác Phẩm. Hãy Phân Tích Và Chứng Minh 110

Nam Cao - nhà văn hiện thực, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, với tài năng đặc biệt trong việc phân tích và diễn tả tâm lí nhân vật, ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm văn học có giá trị, viết về các đề tài khác nhau, đặc biệt là những tác phẩm viết về người nông dân. Mỗi tác phẩm của ông viết về người nông dân là một thiên trữ tình đầy xót thương đối với những kiếp người lầm than và là bản tố cáo đanh thép cho giai cấp thống trị, truyện ngắn Chí Phèo là một trong số những tác phẩm như thế. Đọc truyện ngắn Chí Phèo và đặc biệt là qua hai câu nói cuối cùng của Chí sẽ giúp chúng ta thấy rõ chủ đề của tác phẩm.

Chắc hẳn, mỗi chúng ta, những ai đã một lần đọc truyện ngắn Chí Phèo sẽ không khỏi thôi ám ảnh, suy nghĩ về hai câu nói cuối cùng của Chí trước khi xa rời cõi đời. Đó là hai câu nói "Tao muốn làm người lương thiện!" và "Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách...biết không!... Chỉ có một cách là ... cái này! Biết không!...". Đó là câu nói cuối cùng trong cuộc đời của Chí Phèo, thoạt nghe, cứ nghĩ đấy là lời đối thoại của Chí đối với Bá Kiến nhưng càng suy nghĩ, ta càng nhận ra, đó là những lời Chí Phèo tự nói với chính mình, là lời ăn năn, lời giãi bày, lời thú tội, là khao khát của Chí. Nhìn lại toàn bộ tác phẩm cũng như toàn bộ cuộc đời của Chí, bạn đọc sẽ nhận ra, lời ăn năn ấy của Chí chính là chủ đề mà tác giả Nam Cao gửi tới bạn đọc: Con người, dù có những lúc họ rơi vào con đường tối tăm, tội lỗi nhưng ẩn sâu trong con người họ vẫn là bản chất tốt đẹp, là khao khát được sống, được làm người lương thiện. Đồng thời, qua đó, tác giả cũng lên tiếng tố cáo đanh thép xã hội và giai cấp thống trị đã đẩy người nông dân vào con đường tha hóa, không thể quay lại.

"Tao muốn làm người lương thiện!". Câu nói ấy của Chí đã thể hiện cái khát khao cháy bỏng vẫn luôn tồn tại trong Chí, chỉ là bấy lâu nay, giữa con đường dài tha hóa, Chí đã quên mất hai chữ "lương thiện", quên mất đi cái khao khát, cái bản chất tốt đẹp trong con người hắn. Để rồi, cái khát khao lương thiện ấy, đánh thức dậy trong hắn bao ước muốn và có lẽ, đây là lần đầu tiên, Chí cất lên hai tiếng "tao muốn" nhưng nó không còn là ước muốn của vật chất, của dăm ba chén rượu, đồng bạc là mà ước muốn lương thiện. Nhưng thật đau xót biết bao, cái giây phút Chí nhận ra cái khao khát ấy của mình, cũng là lúc Chí hiểu rằng, mình đã mãi mãi không thể có được nó - "Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?". Có lẽ, hơn ai hết, Chí hiểu được rằng, chặng đường đã qua, những gì Chí đã làm thì không ai có thể dung nạp một kẻ như Chí làm lại từ đầu.

Nhìn lại cuộc đời của Chí, người đọc sẽ nhận ra, những câu nói của Chí cũng chính là lời tổng kết cho cuộc đời của hắn. Chí sinh ra không cha, không mẹ, được một người đi nhặt ống lươn mang về nuôi, lớn lên Chí cũng là một người nông dân thật thà, chất phác, hiền lành, đi ở cho nhà Bá Kiến. Nhưng rồi, sau khi bị Bá Kiến đẩy đi tù về, dường như nhà tù đã khiến Chí thay đổi tất cả, từ nhân hình đến nhân tính, từ một người nông dân hiền lành, một lực điền, Chí trở thành một kẻ lưu manh, trở thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại". Chí đắm mình trong những cơn say và lần nữa biến mình trở thành tay sai cho cha con nhà Bá Kiến, chỉ với dăm ba đồng bạc lẻ, Chí trở thành kẻ gian xảo, lừa lọc, chuyên rạch mặt ăn vạ. Với những hành động ấy của Chí đủ để lí giải vì sao, xã hội ấy không thể dung nạp lại Chí thêm lần nữa. Nhưng xét đến cùng, Chí tha hóa cũng bởi sự tàn nhẫn, cửa quyền, vô nhân đạo của giai cấp thống trị mà Bá Kiến là nhân vật điển hình. Đồng thời, cũng bởi chính sự vô tâm của những con người trong xã hội. Và tất cả những điều đó càng khiến Chí cảm thấy cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời và chạy xa dần trên con đường tha hóa.

Và rồi, có lẽ, cuộc đời đã cho Chí thêm một lần được trở làm làm người, để hắn thêm khao khát yêu thương khi Thị Nở xuất hiện cùng bát cháo hành và tình yêu của thị. Chính tình yêu thương của Thị đã giúp Chí được trở lại làm người, để Chí có thể cảm nhận được những âm thanh bình dị, quen thuộc, gần gũi trong cuộc sống hằng ngày mà trong những cơn say hắn chưa một lần cảm nhận thấy. Thị đến và mang đến bên cuộc đời Chí bao niềm khao khát, để thêm một lần nữa Chí nhớ lại những ngày tháng tuổi trẻ của mình, với niềm khát khao, bình dị như bao người nông dân khác. Nhưng rồi, đến cuối cùng, cái ước ao "hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui" của Chí, cái khao khát được thị yêu thương chăm sóc của Chí đã không thể trở thành hiện thực. Để Thị Nở xuất hiện, đánh thức phần lương thiện trong Chí và để "chuyện tình" giữa Chí và Thị không thành sự thực phải chăng là cách để nhà văn Nam Cao làm rõ hơn cái bi kịch "không thể làm người lương thiện" nữa của Chí.

Bị Cự Tuyệt Quyền Làm Người - Bi Kịch Lớn Nhất Của Chí Phèo 111

Nam Cao đã từng tuyên ngôn rằng: "Sống đã rồi hãy viết" . Nhà văn này quan niệm "muốn viết những tác phẩm nhân văn nhân đạo, thì trước tiên anh phải sống sao cho nhân văn nhân đạo đã. Vì chính cuộc đời anh sẽ ảnh hưởng đến văn chương". Với quan niệm này của mình, Nam Cao cầm bút sáng tác, những tác phẩm của ông chứa chan tình người của một nhà văn yêu thương con người từ tận trong cốt tủy. Ta biết rằng, đề tài về người nông dân đã được khai thác rất nhiều. Làm sao ta có thể quên được chị Dậu - trong tác phẩm Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố. Bán con, bán chó, bán sữa, suýt bị hiếp và chạy đi trong đêm tối như cái cuộc đời nhá nhem của chị vì cái nạn sưu thuế. Ta tưởng rằng chị Dậu đã là khổ nhất rồi. Không! Chỉ đến khi thằng Chí Phèo nó bước ngất ngưỡng ra từ trong trang văn của Nam Cao. Ta mới biết rằng đây mới chính là người nông dân khổ nhất trong xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Và vẻ đẹp của Chí Phèo còn tồn tại đến ngày hôm nay. Đó chính là tấm bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Từ đó ta thấy, Nam Cao thực sự là một nhà văn nhân văn nhân đạo sâu sắc. Bởi Nam Cao đã từng nói: Chao ơi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than... ". Vậy, bi kịch là gì?

Nhiều người cho rằng bi kịch là một hoàn cảnh thảm thương. Hiểu như vậy là sai. Bi kịch nhiều khi là đấu tranh dai dẳng không khoan nhượng. Ánh sáng và bóng tối, giữa thiện và ác, giữa cao thượng và thấp hèn nó xảy ra ngay trong đời sống tinh thần của con người.Hoặc ta có hiểu rằng , bi kịch là những khát khao, những ước mơ chân chính nhưng không được thực hiện trong hiện tại. Và cuối cùng rơi vào một thảm kịch. Đó chính là bi kịch của cuộc đời con người. Đọc Chí Phèo ta thấy, cả một tấm bi kịch lớn diễn ra với cuộc sống của Chí Phèo. Anh sinh ra là một con người, nhưng cuối cùng anh lại chết trên chặng đường trở về lương thiện. Anh sinh ra là con người nhưng cuối cùng lại trở thành con quỷ của làng Vũ Đại, là một kẻ côn đồ hung ác, là một thằng lưu manh, là một kẻ không một ai muốn dây vào.

Trước tiên, ta tìm hiểu lai lịch của Chí Phèo. Cuộc đời của Chí có thể chia ra làm hai chặng đường. Chặng đường đầu tiên, từ khi sinh cho đến khi 20 tuổi về ở đợ cho nhà Bá Kiến rồi bị tống vào tù. Ở chặng đường thứ hai, Chí ra tù gặp được Thị Nở và cuối cùng là chết trên chặng đường trở về với lương thiện. Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi được bọc trong cái váy đụp và được vứt tại một lò gạch bỏ hoang. Chí Phèo không dừng lại ở một nhân vật trong văn học, mà Chí Phèo thực sự là nhân vật điển hình trong văn chương. Anh là đại diện cho rất nhiều con người bị tha hóa, biến chất. Anh được một người thả ống lươn đem về nuôi, đi ở đợ từ nhà này đến nhà khác, từ ông phó gối cho tới bà góa mù. Chí Phèo mặc dù là một đứa không cha không mẹ, không người thân ruột thịt, không bà con thân thích. Thế nhưng, anh lớn lên không trở thành một đứa trẻ hư hỏng , mà trái lại anh trở thành một người nông dân thuần hậu, chất phát, hiền lành như cục đất. Khi muốn nhìn ra bản chất của một người, ta có thể nhìn vào ước mơ của họ. Ước mơ thì bao giờ cũng nói lên được một phần bản chất của người ấy. Ước mơ của Chí đơn giản chỉ là "có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăn ba sào ruộng làm". Ước mơ chân chính, khát khao cháy bỏng của Chí Phèo, là một người lương thiện, là anh nông dân nghèo, là một người cần cù, hiền lành chất phát. Người ta nhận thấy rặng, Chí Phèo thực sự là một người hiền như cục đất. Nhân vật Bá Kiên không dừng lại là một nhân vật trong văn học mà là nhân vật đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến. Chí Phèo ngoài việc là một nông dân thuần chất phát, anh thường xuyên bị Bà vợ Bá Kiến gọi lên bóp chân, và đòi bóp lên chỗ cao. Chí Phèo - trái tim anh đã 20 tuổi đời, anh biết đâu là tình yêu chân chính và đâu là thói dâm ô của một người đàn bà bất chính. Bị gọi lên để phục dịch cho những cơn thèm khát của người đàn bà này. Chí Phèo không cảm thấy sung sướng, chỉ thấy nhục, thấy sợ. Anh là một người trọng danh dự vì cơn ghen tuông bóng gió mà anh bị Bá Kiến tống vào chốn lao tù. Và kể từ đây là một chặng đường khác của cuộc đời anh. Khi ra tù, anh thay đổi từ nhân hình cho tới nhân tính. Cái chúng ta cần lên án ở đây đó chính là nhà tù thực dân, nhà tù này đi ngược lại mới mong đợi của loài người. Nhà tù trong mong đợi của loài người là khi chúng ta vào chúng ta là kẻ xấu, chúng ta vào tù là để trả giá cho những gì mình đã gây ra, cải tạo tốt để trở lại hòa nhập với cộng đồng. Nhưng đọc tác phẩm ta có thể thấy, nhà tù này là một nhà tù bất công. Khi vào tù Chí là một người nông dân hiền lành, chất phát như cục đất, nhào nặn bảy tám năm tù, giờ đây anh trở thành con quỷ của làng vũ đại. Thay đổi từ nhân hình cho đến nhân tính. Cái đầu cạo trọc lốc, răng cười trắng hớn, mặt thì câng câng, mắt thì gườm gườm, người xăm trổ đầy hình rộng phượng, ngực có một ông tướng cầm trị, sống bằng nghề cạo mặt ăn vạ và trở thành tay sai cho Bá Kiến chuyên trị những thằng đầu bưu đầu bò trong làng. Ta đồng ý rằng, đẻ ra Chí trên cõi đời này là một bà mẹ nông dân nghèo và có phần nhẫn tâm. Thế nhưng, để tạo ra một con quỷ của làng Vũ Đại như thế này thì phải là một nhà tù thực dân cấu kết với lão Bá Kiến để tha hóa con người nông dân. Đây chính là sản phẩm của nhà tù thực dân. Chúng ta có thể nhận thấy, ở đây không chỉ thay đổi về ngoại hình mà còn là tính cách. Chí Phèo sống bằng nghề cạo mặt ăn vạ, luôn chìm đắm trong những cơn say và lúc nào cũng vừa đi vừa chửi. Chửi ai đã đẻ ra nó, chửi cả làng Vũ Đại và cuối cùng không có một ai đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo. Cuối cùng chỉ còn lại một thằng Chí Phèo say rượu và ba con chó dữ.

Ở chặng thứ hai, ra tù gặp được Thị Nở - người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, rất vô duyên. Thế nhưng khi ăn nằm trong buồng chuối với Nở, Chí Phèo đã bị cảm lạnh. Vì thương tình Chí nên Thị nấu cho Chí bát cháo hành. Đọc tác phẩm ta thấy, bát cháo hành chỉ là một chi tiết nghệ thuật, nhưng nó là mui vàng của một tác phẩm văn chương. Nó là một giọt sương có thể mang lại cả một đại dương mệnh mông, là giọt hạnh phúc mà nhà văn gửi gắm cho nhân vật của ông. Thử hỏi, nếu không có bát cháo hành thì bao giờ Chí Phèo mới thức tỉnh? Đến bao giờ Chí Phèo mới tìm ra được kẻ thù đích thực của đời mình? Bao giờ mới trở lại lương thiện? Nó là một liều thuốc giải cảm , một liều thuốc giải độc. Chí Phèo tỉnh rượu sau những cơn say dài triền miên. Nó muốn làm hòa với mọi người biết bao, nó nhận ra tội lỗi, nó càng hối hận. Nó muốn trở lại với lương thiện. Nhưng không được rồi. Bà cô Thị Nở không cho Thị đến với Chí,bởi vậy Chí Phèo lại trở lại với hình ảnh con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tìm tới rượu, xách dao lên, đi tìm Bá Kiến tính sổ. Nhưng cuối cùng Chí lại đâm chết Bá Kiến và chết trên con đường trở về lương thiện. Tại sao lại phải giết Bá Kiến? Bởi Bá Kiến mới là bản chất của vấn đề. Xử lí vấn đề ta không xử lí từ hiện tượng, không xử lí từ bà cô mà phải xử lí từ bản chất của vấn đề. Đó là lí do tại sao Nam Cao để cho Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát trên con đường trở về với lương thiện. Thông qua đó, câu chuyện này không chỉ dừng lại ở nhân vật Chí Phèo - một nhân vật trong văn học mà nó là một hiện tượng có tính chất giai tầng của người nông dân trong xã hội ngày nay trước cách mạng tháng Tám. Đó là lưu manh hóa, bần cùng hóa, tha hóa biến chất người nông dân. Trước Chí Phèo đã từng có Binh Chức, Nam Thọ, sau Chí Phèo lại sẽ có một thằng Chí Phèo con ra đời. Khi mà cuối tác phẩm này, nhà văn đã khép lại tác phẩm theo lối kết thúc mở: "Thị Nở nhìn ngay xuống chiếc váy đụp, và nhìn về lò gạch bỏ hoang", một ngày nào đó nó sẽ vượt ra chốn đồng không mông quạnh là một thằng Chí Phèo con sẽ lại xuất hiên trong quãng đời này.

Nhà văn xót thương cho số phận người nông dân Việt Nam, ông thực sự là một nhà văn có vẻ ngoài lạnh lùng, thờ ơ, nhưng thực chất lại là một nhà văn nhân đạo sâu sắc từ tận trong cốt tủy. Một xã hội mà nhà văn lên án đó là nhà tù thực dân cấu kết với tầng lớp phong kiến để tha hóa biến chất người nông dân, một xã hội quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé, người ăn thịt người, muốn tồn tại được phải trở thành kẻ ác. Nói như Vũ Trọng Phụng: "Một xã hội toàn những con đĩ, đẻ xứng nhà thằng ăn cắp, một xã hội tây tàu nhố nhăng, một xã hội chó đểu..." đó chính là cuộc sống của người nông dân bất hạnh, lam lũ, lầm than trước cách mạng tháng Tám. Đó chính là tấm bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Và từ đó chúng ta có thể thấy, chừng nào vẫn còn những con người có cuộc sống đau khổ muốn được sống cuộc sống tốt hơn thì chừng đó những tác phẩm như Chí Phèo này vẫn giữ nguyên vẹn được giá trị của nó. Lên án tố cáo xã hội áp bức bất công, thương xót cho số phận người nông dân, bởi người nông dân luôn luôn là những con người thấp cổ bé họng nhất trong xã hội. Họ thường xuyên là nạn nhân của hoàn cảnh. Tác phẩm khép lại để lại cho ta nhiều suy ngẫm...

Bị Cự Tuyệt Quyền Làm Người - Bi Kịch Lớn Nhất Của Chí Phèo 112

Trong giai đoạn văn học 1930-1945, chủ yếu các tác giả đều viết về số phận những người nông dân, nhưng mỗi người đều có lối viết, lối khai thác các nhân vật của riêng mình. Còn riêng Nam Cao, ông lại muốn tìm tòi, khai thác về nỗi khổ của những người nông dân lương thiện. Nam Cao sinh ra trong 1 gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, cả cuộc đời ông vất vả lận đận, ông là người giàu tình yêu thương, nặng ân tình đặc biệt là đối với những người nông dân nghèo khổ bị áp bức. Năm 1951, Nam Cao hy sinh, ông xứng đáng là 1 nhà văn- chiến sĩ, có thể coi là ngòi bút đại thụ của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm " Chí Phèo " đã trải qua 3 lần đổi tên, nhan đề đầu tiên là " Cái lò gạch cũ ", sau khi được in thành sách nhà xuất bản đã tự ý đổi tên thành " Đôi lứa xứng đôi ", sau này, Nam Cao mới đổi lại tên thành " Chí Phèo ", tác phẩm được coi là kiệt tác của nhà văn

Để hiểu rõ được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí phèo, người đọc phải hiểu được bi kịch là gì? Bi kịch là nỗi buồn, các nhà văn thường khai thác từ những mẫu thuẫn xung đột gay gắt và thường kết thúc bằng cái chết của nhân vật chính. Trong truyện ngắn " Chí phèo ", tác giả không chỉ đi sâu vào khai thác mẫu thuẫn giai cấp mà còn khai thác cả mâu thuẫn trong chính nhân vật. Chí phèo được sinh ra là con người với đầy đủ các bản chất của 1 người bình thường, có dự đinh, ước mơ, là 1 người nông dân hiền lành lương thiện, biết phân biệt tốt xấu đúng sai. Nhưng rồi sau đó, Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, tha hóa, bị tước đoạt mất nhân tính, bị loại ra khỏi xã hội loài người. Để rồi sau đó, khi hắn muốn quay trở lại làm 1 con người lương thiện thì lại bị từ chối phũ phàng và cuối cùng hắn chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời

Ngay từ khi sinh ra, Chí đã bị bỏ rơi, được 1 anh thả ống lươn nhặt được trong buổi sáng sớm tinh sương ở lò gạch bị bỏ không ngoài đồng vằng. Con người đến với cuộc đời như bị quẳng ra đấy, bơ vơ, trơ trọi. May thay, nhờ sự cưu mang, đùm bọc của người dân làng Vũ Đại mà hắn đã được sống, được trở thành người nông dân hiền lành lương thiện, giàu tự trọng. Nhưng vì ghen tuông vu vơ mà lí Kiến đã đẩy hắn đi tù, nhà tù thực dân đã biến hắn trở thành kẻ " trông đặc như 1 thằng sắng đá " rồi sau đó bá Kiến thực hiện nốt công đoạn cuối cùng là biến Chí trở thành tay sai của mình. Chí Phèo bị lợi dụng, trở thành kẻ chuyên đi đâm thuê chém mướn, mỗi ngày hẳn bán rẻ linh hồn mình cho quỷ bằng vài đồng vài hào để rồi cuối cùng hắn biến mình thành 1 con quỷ thật sự " Nhìn mặt hắn người ta không đoán được là bao nhiêu tuổi, nó vàng vàng mà lại sạm màu gio, nó lằn ngang lằn dọc không biết bao nhiêu là vết sẹo " rồi hắn còn suốt ngày sau rượu " cứ rượu vào là hắn chửi ". Trong tiếng chửi lảm nhảm của Chí còn lã nỗi cô độc, hắn khao khát được giao tiếp với mọi người dù chỉ là tiếng chửi, nhưng chẳng ai đáp lại hẳn, chẳng đi chấp nhận hẳn, bởi vì " hắn đã đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát biết bao cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu con người lương thiện " Nhưng hắn làm nhiều điều ác như vậy bỏi vì hắn lúc nào cũng say. Cũng viết về những người nông dân nhưng Nam Cao không khái thác theo lối mòn cũ là khổ vì sưu cao thuế nặng, khổ vì nghèo đói mà Nam Cao khai thác nỗi đau tinh thần của con người. Bị tàn phá mất nhân hình, bị tước đoạt mất nhân tính, bị loại ra khỏi xã hội loại người.

Và có lẽ, cuộc đời hắn sẽ cứ như vậy nếu như không gặp thị Nở. Thị Nở đã đến với hắn, cho hắn cảm nhận được tình yêu thương, cho hắn biết yêu và được yêu, lần đầu tiên hắn được " 1 người đàn bà cho ". Hắn yêu thị, muốn làm nũng với thị như với mẹ, và lúc này hắn đã hoàn toàn tỉnh táo, phần linh hồn người của hắn đã trở về nhờ có thị Nở. " Chao ôi! Muốn làm hòa với mọi người biết bao " hắn lập luận rất đơn giản là lại chặt chẽ, hắn hi vọng thị sẽ là cầu nối cho hắn trở về với cuộc đời bằng phẳng lương thiện. " Thị Nở có thể sống yên ổn với hẵn thì tại sao mọi người lại không thể, rồi mọi người sẽ thấy hắn chả làm hại ai rồi sẽ từ từ tiếp nhận hắn trở về với cuộc sống bằng phẳng ". Hắn lại hy vọng, lại ước mơ về 1 gia đình hạnh mà có thị Nở. Nhưng hy vọng chẳng kéo dài được lâu, thị chợt nhớ ra ở nhà còn có 1 bà cô và thị muốn quay trở về để hỏi ý kiến bà cô. Nhưng bà cô đã không chấp nhận Chí bởi nghĩ hắn là thằng không cha không mẹ, suốt ngày chỉ đi ăn vạ, đâm thuê chém mướn. Cầu nối đưa hắn đến với cuộc đời đã gãy, cánh của cuộc đời đóng sầm lại ngay trước mặt hắn. Ở đây, Nam Cao đã khéo léo lồng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người vào bị kịch bị cự tuyệt tình yêu. Nếu như lúc trước hắn khổ nhưng ít nhất lúc đó hẳn cũng say, không nhận thức được. Còn bây giờ hắn đã tỉnh, nỗi khổ nhân lên thành niềm thống khổ, chẳng còn 1 ai có thể đón hắn đến với cuộc đời nữa rồi

Tác giả đã sử dụng ngòi bút diễn tả tâm lí nhân vật bậc thầy, tác giả còn đưa cả ngòi bút của mình cho chính nhân vật, để nhân vật có thể tự nói lên được sự đau khổ. Lúc nghe thị trút hết tức giận lên đầu hắn, hẳn từ từ hiểu rồi " ngẩn người " , hắn hụt hẫng bàng hoàng, thoáng thấy 1 hương cháo hành thoảng qua mũi. Rồi khi thị đi, hắn đã nắm tay níu kéo thị, hắn níu kéo sợi dây cuối cùng cứu vớt cuộc đời hắn nhưng thị Nở lại dứt khoát tuyệt tình, hắn rơi vào tình trang tuyệt vọng, hắn đau đớn mà khóc lóc. Rồi hắn lại tìm tới rượu, nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh, hương rượu hòa lẫn mới mùi thơm cháo hành khiến hắn càng đau đớn. Rồi hắn quyết định vác dao ra đi, hăn lảm nhảm là sẽ đi tới nhà thị để giết bà cô nhưng cuối cùng hắn lại đi tới nhà bá Kiến, có lẽ bởi vì hắn ý thức được ai mới là người đẩy hắn tới nước này. Trước mặt tên cáo già bá Kiến, Chí đã nói những lời hoàn toàn tỉnh táo, dõng dạc " Tao muốn làm người lương thiện ", câu nói thể hiện được khát vọng muốn hoàn lương, trở về với xã hội loài người. Tuy nhiên, chính lúc này, Chí đã thấm thía được bi kịch của cuộc đời mình rằng hắn sẽ không bao giờ có thể quay trở về cuộc đời lương thiện được nữa rồi. Ai sẽ cho hắn lương thiện? Ai sẽ giúp hắn làm người lương thiện? Đau đớn căm thù kẻ đã hại mình, Chí rút dao ra, " chém túi bụi vào người bá Kiến " rồi hắn cũng tự tử, Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời

Có thể nói, Nam Cao đã rất thành công trong việc khai thác nỗi khổ về mặt tinh thần, nỗi đau về thể xác của những người nông dân xưa. Kết hợp với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên mà sống động càng làm tôn lên tài năng của Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả muốn gửi gắm lòng đồng cảm sâu sắc với bi kịch của nhân vật, niềm tin về bản chất hiền lành lương thiên của con người sẽ luôn còn đó. Hơn nữa, tác phẩm được viết lên như 1 lời kêu cứu, cứu lấy quyền làm người, cứu lấy quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc lứa đối của con người.

Bài Văn Mẫu Bi Kịch Tha Hóa Của Nhân Vật Chí Phèo 113

Nam Cao - một nhà văn luôn quan tâm tới đời sống tinh thần của con người. Ông sáng tác truyện ngắn "Chí Phèo" vào năm 1940 khi đã có nhiều tác phẩm, nhưng phải đến tác phẩm này, tên tuổi của Nam Cao mới được khẳng định, đây cũng được coi là bước ngoặt trong cuộc đời sáng tác của ông. Với tính hiện thực cao, Nam Cao đã xây dựng nên một nhân vật Chí Phèo với bộ dạng là "con quỷ dữ" nhưng bên trong lại là một con người lương thiện bị tha hóa bởi các yếu tố bên ngoài.

Từ lúc được sinh ra tại cái lò gạch cũ bỏ không, đến năm hai mươi tuổi Chí Phèo hoàn toàn là một người lương thiện, là một thanh niên khỏe mạnh về thể xác và lành mạnh về tâm hồn. Thế nhưng cuộc đời lại đẩy Chí vào bi kịch, chỉ vì Lý Kiến ghen ngầm với "anh canh điền khỏe mạnh" mà đẩy hắn vào tù, hắn gắn cho anh cái tội mà chính anh và mọi người không ai hay biết tại sao. Qua cách miêu tả của nhà văn, có thể thấy từ nhà tù trở về Chí đã trở thành một tên lưu manh từ bộ dạng đến lời nói và hành động. "Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hơn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết !". Hành động bộc lộ rõ bản chất lưu manh liều mạng, hắn uống rượu rồi cầm vỏ chai đến nhà cụ Bá, hắn định liều chết với cha con Bá Kiến đê ăn vạ, khiến chúng không vào tù cũng sạt nghiệp. Chí bây giờ giao tiếp với đời chỉ bằng tiếng chửi, chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, tiếng chửi của hắn là tiếng kêu uất ức của một thân phận cô độc. Khi Chí Phèo rơi vào tay cụ Bá, Bá Kiến đã biến hắn không chỉ là một tên lưu manh mà trở thành một con quỷ dữ. Khuôn mặt hắn giống khuôn mặt của một con vật lạ, nhìn khuôn mặt không còn biết tuổi, thứ tối thiểu nhất để tồn tại như một người dân bình thường là thẻ biên tên tuổi hắn cũng không có, hắn chỉ có tư cách tồn tại là hạng dân lưu tán. Từ đây, cuộc đời Chí là một cơn say dài, hắn không hề ý thức được hành động của mình, thực hiện như bản năng của con vật, con vật ấy chính là quỷ dữ tác oai tác quái cho dân làng.

Mãi đến khi Chí gặp được Thị Nở - một người ngẩn ngơ, xấu ma chê quỷ hờn lại còn dở hơi, nhà nghèo, dòng giống nhà có mả hủi, trong khi người ta tránh thị như tránh một con vật rất ghê gớm thì Chí đến với thị một cách rất Chí Phèo. Sau trận rượu say không biết lối về, Chí bắt đầu có những nhận thức về thế giới xung quanh, hắn nghe thấy tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ... đó là những âm thanh quen thuộc nhưng lại rất lạ đối với Chí bởi đây là lần đầu hắn biết cảm nhận bằng ý thức của một con người, hắn cảm thấy buồn. Rồi Chí có nhận thức về bản thân, nhớ về quãng đời lương thiện với mơ ước một thời, hắn thấy cay đắng vì mơ ước vô cùng bé nhỏ cũng để tuột khỏi tầm tay. Thêm vào đó, Chí nhận thức về tình trạng thê thảm của chính mình, đó là tuổi già, ốm đau và sự cô độc, cơ thể hắn đã già, hư hỏng nhiều và cái dốc bên kia cuộc đời sắp đến nhưng hắn vẫn không nơi nương tựa.

Khi đón bát cháo hành của thị, Chí đã nhận ra sự quý giá của tình người, hắn tự hỏi sao bây giờ hắn mới được sống trong tình người, rồi hắn khao khát được trở về với cuộc đời của người lương thiện. Bên cạnh đó, Chí còn thức dậy khát vọng về tình yêu đôi lứa, hắn thấy sự đáng yêu ở thị Nở, lời nói của hắn với thị tuy thô kệch nhưng lại rất chân thành. Ta cảm nhận được bản chất lương thiện và những khát vọng chính đáng của Chí đang hướng đến một mái ấm hạnh phúc gia đình. Trớ trêu thay, sự phản ứng quyết liệt của bà cô thị Nở như một sự cự tuyệt của cuộc đời đối với Chí. Hắn đã hiểu ra thân phận của mình và thái độ của loài người, hiểu ra vị thế của mình trong cuộc đời để rồi xót xa, đau đớn trong tuyệt vọng, hắn thực sự rơi vào bế tắc, đau khổ tột cùng. Sự bất lực với chính mình đã thúc đẩy hắn đi trả thù, Chí uống rượu say và rồi bước chân thức tỉnh đã đưa Chí đến nhà Bá Kiến, giết Bá Kiến rồi tự sát là cách hắn đòi lại lương thiện của mình.

Qua nhân vật Chí Phèo, ta không chỉ cảm nhận tấm lòng nhân đạo cao cả của Nam Cao mà còn thấy được tài năng của ông trong việc sử dụng nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật. Bên cạnh đó, tác giả còn làm hiện lên hình ảnh nông thôn Bắc Bộ nước ta trước cách mạng tháng Tám với sự bóc lột, đàn áp của bọn cường hào địa chủ đối với những người dân khốn khổ.

Cảm Nhận Về Tình Yêu Trong Tác Phẩm Chí Phèo Của Nam Cao 114

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao xưa và nay vẫn được xem là một truyện ngắn tiêu biểu, xuất sắc của văn học sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Tác phẩm được chú ý khai thác ở các khía cạnh tố cáo xã hội phi nhân tính, sự áp bức của giai cấp thống trị, số phận con người bị tha hoá... nhiều hơn là nhìn từ góc độ tình yêu.

Toàn bộ nội dung, kết cấu tác phẩm gắn liền với cuộc đời của nhân vật chính là Chí Phèo, có một chi tiết đáng lưu ý là: Các biến cố làm nên những đổi thay to lớn, những bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo cũng như trong kết cấu tác phẩm lại đến từ hình bóng những người đàn bà. Tuy nhiên có bóng dáng đẩy Chí Phèo vào chốn tăm tối những cũng có gương mặt tuy xấu xí nhưng lại đưa Chí Phèo ra nơi ánh sáng của cõi minh triết.

Cuộc đời Chí Phèo đột nhiên chuyển hướng do việc tiếp xúc miễn cưỡng với bà Ba Bá Kiến, một người "đàn bà phốp pháp, má hây hây", để từ một anh nông dân hiền lành chất phác trở thành một tên tù, một tên lưu manh mất hết nhân tính, mất luôn cả ý thức về mình lẫn ý thức làm người. Tuy nhiên, lần gặp gỡ với Thị Nở lại mang đến một hệ quả ngược, nó làm đảo lộn tất cả. Chính cuộc gặp gỡ với Thị Nở chứ không phải một biến cố xã hội nào đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời Chí Phèo và quyết định số phận của cả Chí Phèo lẫn Bá Kiến.

Chút tình cảm tưởng chừng rất vu vơ giữa Chí Phèo và Thị Nở ấy đã tác động, chi phối một cách sâu sắc đến quan hệ giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Từ đó có thể thấy không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo bắt đầu từ buổi tối trước khi gặp Thị Nở, cái buổi tối mà hắn "vừa đi vừa chửi", để rồi từ đó mối quan hệ dây mơ rễ má với Bá Kiến, những khúc, đoạn trong cuộc đời Chí Phèo như một cuốn phim quay chậm được tái hiện. Tất cả những chi tiết này có tính chất như một đường truyền, một lời đề dẫn hay như những hoạ tiết có tính chất phông nền để làm nổi bật tác động của tình yêu, tình người đến cuộc đời Chí qua nhân vật Thị Nở.

Một trong những đặc trưng phong cách của Nam Cao là sử dụng những yếu tố trái khoáy, ngược nhau để mô tả hiện thực. Tên của tác phẩm cũng thường hàm chứa một điều trái khoáy như Lang rận, Chí Phèo, Tình già... Bản thân sự tồn tại nhếch nhác của nhân vật Lang rận cùng với vẻ bề ngoài bẩn thỉu là một sự trái ngược, mâu thuẫn với nghề nghiệp, vị thế xã hội mà nhân vật mang vác. Tất cả những đối nghịch đó được thâu tóm trong một cái tên: Lang rận, và được khắc sâu hơn trong sự tương phản giữa vẻ bên ngoài nhếch nhác, thấp kém với đời sống tâm hồn cao đẹp. Hay trong truyện Nửa đêm, người cha có tên là Thiên Lôi nhưng lại đặt tên con là Đức - như hai mặt của một quá trình biện chứng nhân quả...v.v.

Từ những chi tiết đó có thể hiểu tại sao Nam Cao lại lạ hoá câu chuyện tình Chí Phèo - Thị Nở như vậy. Không lãng mạn thơ mộng như các câu chuyện tình của Tự Lực Văn Đoàn, buổi tối gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở bắt đầu bằng hình ảnh Chí Phèo "vừa đi vừa chửi... chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo", cuộc đời hắn chìm trong những cơn say.

Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để "nhớ rằng hắn có ở đời". Tức trong hắn chỉ tồn tại không phải ý thức mà là một khối u u mê mê, tối tăm đặc quánh, vô cảm, vô thức. Ngay cả sự hiện hữu của bản thân, hắn cũng không nhận thức được, hắn chỉ kinh ngạc rồi cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi khi phát hiện ra mình dưới dạng một cái bóng trên đường trăng nhễ nhại, méo mó, xệch xạc. Chính hình ảnh này hướng đến sự ẩn dụ về một dạng tồn tại bất toàn của con người trong xã hội cũ. Con người không được sống thực là chính mình mà chỉ là những cái bóng, nhưng cũng không được là cái bóng của chính mình mà là bóng của giai cấp thống trị nên thành "cái vật xệch xạc, một cái gì đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại". Với cái bóng đó, với ý thức hiện hữu về sự méo mó của chính mình, Chí Phèo đến với Thị Nở. Đó là cuộc gặp gỡ tất yếu là hệ quả từ hai cuộc đời trống rỗng và bất toàn của hai con người.

Thị Nở trước khi gặp Chí Phèo vốn chỉ là một thực thể không có đường nét cá tính gì đặc biệt mà còn khùng khùng dại dại, còn dung nhan là những đường nét tự nhiên, thô mộc đến mức dị hợm: Trên một khuôn mặt ngắn ngủn, có cái mũi "vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành" và một đôi môi "cũng cố to cho không thua cái mũi" hơn nữa, lại dày và có "màu thịt trâu xám ngoách". Toàn bộ "nhan sắc" của Thị Nở được Nam Cao tóm lại trong một nhận xét là "xấu đến ma chê quỷ hờn". Từ hai cuộc đời, hai thân phận khiếm khuyết, hai trí tuệ mông muội tăm tối của Chí Phèo - Thị Nở, Nam Cao đã để cho họ kết hợp lại như một sự liên kết hoàn hảo để tạo ra một con người mới thống nhất trong sự bừng nở trở lại của một trí tuệ minh triết. Đó là Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.

Với Nam Cao, tình yêu không đi liền với sự lý tưởng hoá đối tượng, với sự hâm mộ sùng bái người yêu mà bắt đầu chỉ thuần tuý là bản năng. Ánh trăng trong mắt của Chí Phèo đêm gặp Thị Nở mang đầy màu sắc nhục thể, cứ "xanh rời rợi như là ướt nước". Cây dâu tây gần bờ sông thì "thân mềm oặt", những tàu chuối trong vườn nhà hắn thì "nằm ngửa, ưỡn cong cong lên" thỉnh thoảng lại "giẫy lên đành đạch như là hứng tình". Cái bóng - dấu ấn về sự hiện hữu méo mó của bản thân Chí Phèo cũng được phát hiện trong lúc này. Hành động chiếm đoạt Thị Nở của Chí Phèo lúc đầu chỉ thuần tuý là bản năng nhưng chính trong cõi âm u của bản năng ấy một ánh loé diệu kỳ đã bùng dậy hé mở cho ta nhìn thấy bản thể tốt đẹp của con người.

Nam Cao đã vượt trước những nhà văn của thời đại ông ở chỗ không dừng lại ở những tình yêu lý tưởng thuần tuý tinh thần như của Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt (Khái Hưng), Lan và Ngọc trong Hồn bướm mơ tiên (Khái Hưng), Thanh và Ngọc trong Dòng sông Thanh Thuỷ (Nhất Linh), mà ông đã hợp nhất tình yêu trong sự hoà hợp tinh thần và thể xác. Đó là những chi tiết làm căn cứ để khẳng định đây là tình yêu chứ không thuần tuý là bản năng khi Nam Cao tiếp tục miêu tả thêm lúc Chí Phèo đau bụng và ói mửa, được Thị Nở dìu về lều... Hành động ban đầu là bản năng đã làm sống dậy tình yêu, sống dậy phần nhân tính tưởng không có hay đã chết trong con người của cả Chí Phèo lẫn Thị Nở. Ở đây có sự tái sinh, phục sinh của tinh thần nhờ tình yêu và sự gắn kết hai thân xác. Nó đã cải hóa, tái sinh Chí Phèo, tình yêu cho Chí Phèo và Thị Nở ý thức về chính mình.

Trước đây, họ chỉ là hai khối mông muội, Chí Phèo thì hung bạo và triền miên trong vô thức và những cơn say vô tận: "Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận". Vậy nhưng trong tình cảm với Thị Nở, Chí Phèo đã tìm thấy chính mình, khám phá ra chính mình, hơn thế nữa khám phá ra sự sống. Con người ý thức, con người cảm xúc của Chí Phèo sống dậy. Lần đầu tiên hắn tỉnh hẳn rượu, đó là cái tỉnh của ý thức.

Tại sao Chí Phèo "càng uống lại càng tỉnh ra?". Bởi vì tình yêu của hắn và Thị Nở đã làm thay đổi tâm điểm cuộc sống của hắn. Tâm điểm đó đã trượt từ cõi u minh của vô thức những ngày trước đây về với cõi thực tại, bắt Chí Phèo thừa nhận một thực tại cuộc sống đang tồn tại dù có hay không có hắn. Nó định vị tâm điểm cuộc sống của Chí Phèo từ những cơn say nghiêng ngả vào một cuộc sống bình thường. Chính vì vậy mà hắn tỉnh, hắn đã nhìn thấy chính bản thân mình. Thấy "bâng khuâng" rồi "lòng mơ hồ buồn"rồi "nghĩ vẩn vơ"... Thị Nở cũng thế, lần đầu tiên Thị lắng nghe cảm xúc của tâm hồn mình để "trằn trọc" "nghĩ ngợi" "tưởng tượng bâng quơ" .v.v..

Những giới hạn của cuộc đời Chí Phèo như đã được phá bỏ, nó mở rộng, liên thông với cuộc đời bên ngoài. Chính tình yêu đã mở thông lối về với cuộc đời của Chí Phèo, hắn cảm nhận được cuộc sống xung quanh:"Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn !".

Tình yêu cũng gia tăng thêm kích thước cho cuộc đời hắn. Trước đây Chí Phèo vô cảm, vô tâm, không có ý thức về chính bản thân mình nhưng nay hắn có cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là quá khứ với những kỷ niệm yêu thương đầm ấm, là mùi hương từ bát cháo hành và những săn sóc ân cần của Thị Nở, những kỷ niệm xa xưa cũng hiện về. Hắn từng mơ tới một viễn cảnh bình yên với chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải... hắn còn sợ già, sợ cô độc và muốn làm hòa với mọi người, muốn làm người lương thiện. Sự chuyển vị này là hệ quả tất yếu do tình yêu đem lại, nó khắc họa một cách sâu sắc bản thể bất toàn và cô độc của Chí Phèo lẫn Thị Nở trước khi yêu và được yêu. Chính tình yêu đã bù đắp khiếm khuyết trong tâm hồn, tái sinh một cuộc đời và làm giàu có đời sống nội tâm của nhân vật này rất nhiều.

Chính vì thức tỉnh, vì đã được khai hóa và giàu có nhờ tình yêu nên khi bị Thị Nở từ chối "và ngoay ngoáy cái mông đít ra về", Chí Phèo mới cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ. Sức mạnh của tình yêu đã đưa hai nhân vật này đến một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống, trong khi thực tại lại không như vậy, nó vẫn tồn tại những định kiến xã hội không dễ buông tha cho con người nên thiên đường tình yêu, khát vọng làm người của Chí rơi tõm vào hiện thực trần trụi và vỡ toang, buộc Chí Phèo phải đối diện với hiện thực với nỗi đau khổ, tuyệt vọng để vùng lên cầm dao giết chết Bá Kiến.

Lời chì chiết của bà cô Thị Nở như là một chi tiết "giải thiêng" tình yêu của Chí Phèo. Nó thực tế, trần trụi đến tàn nhẫn. Đó là cái giá mà Chí Phèo và Thị Nở phải trả để đến với nhau, những thành trì xung quanh tình yêu ấy không dễ gì phá nên Chí Phèo tự kết liễu đời mình là một cách chọn lựa thích hợp nhằm chối bỏ sự thỏa hiệp, quay lại cuộc sống trước kia.

Sau những tác phẩm về tình yêu của Tự Lực Văn Đoàn của chủ nghĩa lãng mạn thì Chí Phèo của Nam Cao là một khám phá. Bởi Nam Cao vẫn viết về tình yêu nhưng không phải về bản thân tình yêu Chí Phèo - Thị Nở, mà sâu xa hơn, Nam Cao muốn hướng người đọc đến những vấn đề ngoài tình yêu. Đó là vấn đề về văn hóa, về con người và xã hội, về bản năng và vô thức, những ý niệm về thân phận con người, sự tự do thoát khỏi những buộc ràng của định kiến xã hội, khao khát làm người.

Chính vì vậy tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao không mang dáng dấp của truyện tình theo nghĩa thông thường ta vẫn hiểu, cũng không chuyển tải nội dung tình yêu theo cách thông thường mà theo một cách rất trái khoáy, rất nghịch dị mang dấu ấn riêng của Nam Cao. Nó làm cho hiện thực cuộc sống không còn bị gò ép trong cái khuôn khổ thông thường, quen thuộc trong cái nhìn của mọi người mà hiện ra một cách đột ngột bất ngờ tạo sự ngạc nhiên trong cảm nhận.

Cảm Nhận Về Tình Yêu Trong Tác Phẩm Chí Phèo Của Nam Cao 115

Không son phấn ngọc ngà, cũng chẳng giàu sang. Thậm chí, thị Nở còn có dung mạo khiến người nhìn khiếp sợ. Nam Cao đã dựng lên thị xấu tới mức ma chê quỷ hờn. Còn Chí Phèo cũng chẳng hơn gì khi chỉ là một thằng say rượu, trên mặt chằng chịt những vết rượu dài do rạch mặt ăn vạ. Nhưng tình yêu của hai con người ấy dành cho nhau lại vô cùng đáng quý. Họ đã bước vào trang văn của Nam Cao qua tác phẩm Chí Phèo với một tình yêu bất ngờ, say đắm và lẫn với tình người cao quý, thiêng liêng.

Không ai có thể ngờ được rằng hai con người ấy lại có thể yêu nhau. Chí không cha không mẹ, cuộc đời và xã hội đưa đẩy biến Chí thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại suốt ngày chìm trong cơn say triền miên. Còn thị cũng ở dưới đáy của xã hội, không ai để ý tới vì thị vừa dở hơi lại vừa xấu xí. Ấy vậy mà trong đêm tối, hai con người ấy đã vô tình ngã vào nhau, gắn bó với nhau và rồi mang đến cho nhau những hương vị thực sự của tình yêu. Khi yêu người ta vẫn thường chỉ nhìn thấy những điều tốt đẹp của người yêu. Thị cũng vậy, dẫu trước khi gặp thị, Chí là kẻ côn đồ, là tay sai của Bá Kiến đi đâm thuê chém mướn để đòi nợ. Nhưng trong lúc này, bằng đôi mắt của tình yêu, thị lại thấy Chí rất hiền. Thị còn nấu cho Chí một bát cháo hành đầy tình nghĩa, giúp Chí hạ nhiệt cơn sốt và thoát khỏi vũng bùn lầy tăm tối mà Chí đang vùng vẫy trong đó.

Tình của thị rất trong sáng, vừa có tình vừa có nghĩa. Có thể do thị dở hơi, không nhận thức được nhiều. Nhưng về phía Chí Phèo, rõ ràng Chí hiểu rằng thị chỉ là một người đàn bà dở hơi, xấu xí. Nhưng điều đó có quan trọng không khi trong lúc tuyệt vọng nhất, đau khổ nhất, chính người đàn bà dở hơi ấy đã đem lại ánh sáng cho cuộc đời Chí ? Không những là tình yêu mà còn là tình nghĩa, tình người, khiến Chí bừng tỉnh giữa những cơn say dài tăm tối. Chính tình yêu ấy đã kéo Chí quay trở lại với ước mơ giản dị đến thánh thiện ngày nào : có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải thêu thùa. Cuộc sống thật bình dị nhưng ấm áp và yên vui. Cũng chính tình yêu của thị đã khiến Chí thêm yêu đời, yêu cuộc sống khi Chí cảm nhận được những điều bé nhỏ xung quanh mình : tiếng chim hót líu lo, tiếng mái chèo gõ cá, tiếng người đi chợ nói chuyện lao xao. Những điều ấy ngày nào cũng có nhưng đến giờ Chí mới để ý. Chí không muốn uống rượu nữa. Chí muốn quay đầu lại làm lại từ đầu. Chí cũng hiểu rằng mình có thể làm được điều đó và chính thị sẽ là chiếc cầu nối cho Chí.

Dù ban đầu họ ngã vào nhau vì ham muốn của thể xác. Nhưng sau đó, họ lại bẽn lẽn, thẹn thùng và tình tứ nhìn nhau như đôi trai gái mới hẹn hò. Thị thấy thị như yêu hắn : đó là lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người chịu ơn. Một người như thị Nở càng không quên được. Cho nên thị nghĩ : mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau ! Ăn nằm với nhau như vợ chồng. Tiếng vợ chồng thấy ngường ngượng mà thinh thích. Đó vẫn là điều mong muốn âm thầm của con người khốn nạn ấy chăng ? Hay là sự khoái lạc của xác thịt đã làm nổi dậy những tính tình mà thị chưa bao giờ biết đến ? Đến ngay cả chính tác giả cũng ngờ vực đặt ra câu hỏi đó là ham muốn của thể xác hay của tình yêu đích thực ? Nhưng ngay sau đó, lại diễn ra rất nhiều điều thay đổi trong con người Chí. Đó hoàn toàn không đơn thuần là sự ham muốn xác thịt, mà sâu thẳm là tình người, là tình yêu thực sự. Bởi nếu không yêu, không thương, thị đã bỏ mặc Chí và Chí cũng không nghĩ nhiều về cuộc đời như thế. Chí nghĩ đến tình người nhiều hơn là tình yêu. Chí ăn năn, lòng bâng khuâng và khát khao được trở lại cuộc sống yên bình ngày nào. Rồi Chí nghĩ đến tuổi già cô độc. Sự cô độc còn đáng sợ hơn cả bệnh tật. Không ai bên cạnh, không người sẻ chia... May mắn được gặp thị, thị dẫu dở hơi nhưng thị vẫn là người lương thiện. Thị khác hẳn với những kẻ tỉnh táo, khôn ngoan trong làng. Chỉ có mình thị còn nhìn nhận Chí là người. Hoặc cũng có thể thị dở hơi nên không nhận ra Chí là con quỷ dữ. Nhưng rõ ràng ngay lúc này, trước mặt thị, Chí đâu có dữ dằn gì. Ngược lại, nụ cười của Chí còn làm khuấy động tâm hồn ngờ ngệch của người đàn bà ế chồng này. Người khác thấy thị dở, thị xấu. Nhưng Chí lại thấy thị có duyên và đáng yêu vô cùng. Khi nhìn nhận mọi thứ bằng sự yêu thương chân thành, mọi thứ đều trở nên đáng quý và đáng trân trọng biết bao. Giá như thị đến với Chí sớm hơn, có lẽ Chí đã không lấn quá sâu vào con đường tội lỗi, và có lẽ trên khuôn mặt Chí cũng không có quá nhiều vết sẹo như thế. Nhưng cuộc đời mà, dẫu Nam Cao cũng thương Chí lắm, thương người nông dân lắm, nhưng ông không thể biến hóa sự thật một cách quá mức. Lòng đồng cảm của ông rất lớn lao nhưng ông vẫn phải để nguyên sự thật của xã hội đương thời nghiệt ngã. Ở đó, người nông dân bị kìm kẹp, bị đàn áp, bị bần cùng hóa tới mức đánh mất nhân tính, đánh mất tình yêu và những khát khao lương thiện tốt đẹp.

Chí cũng vậy. Dù tình yêu của thị đã làm Chí đổi thay. Nhưng sự nghiệt ngã của lòng người, của người bà cô ế chồng của thị đã khiến thị quay lại cự tuyệt Chí. Chí lại rơi vào tuyệt vọng, khổ đau. Chí lại uống rượu để quên đi hết mọi chuyện. Nhưng lần này, Chí càng uống càng tỉnh. Và rồi Chí chọn cái chết để kết liễu cuộc đời mình, cũng là kết thúc một cuộc tình bi đát, đau thương. Có người nói, nếu Chí không yêu thị, không gặp thị, có lẽ Chí đã không chết thê thảm như vậy. Nhưng khi nhìn nhận ở góc độ thực tế của lòng nhân đạo, cái chết đối với Chí là điều nên làm. Bởi ta hiểu rằng, trong xã hội tàn ác, bất nhân ấy, nếu Chí còn sống, chắc chắn Chí sẽ lại là tay sai cho Bá Kiến, nối dài thêm cánh tay giết người cho hắn. Chí sẽ là nỗi ám ảnh khiếp sợ của dân làng Vũ Đại. Thà rằng lúc này Chí chết đi để được dừng lại những tội ác đó còn hơn tiếp tục sống trong tội lỗi, trong dày vò.

Dù sao tình yêu của Chí Phèo và thị Nở cũng vẫn là một tình yêu rất đẹp. Tình yêu ấy không những là sự tình cờ, mà còn là tình người thiêng liêng, cao quý. Đến một người dở hơi như thị còn có tình có nghĩa, huống chi những người khác tỉnh táo, khôn ngoan ? Tình yêu trong xã hội hiện nay cũng vậy, ngoài yêu hãy biết thương, biết trân trọng nhau, biết cùng nhau cố gắng hướng đến những điều tốt đẹp. Nhà văn Nam Cao đã dựng lên một cuộc tình thật đẹp, thật ý nghĩa. Có thể người trong cuộc khiến người ta bật cười mỗi khi nhắc tới, nhưng chính tình yêu của họ lại là bài học sâu sắc cho mọi người giữa cuộc đời đầy mưu mô, tính toán. Rằng khi yêu hãy yêu thật lòng, hãy nghĩ đến những điều tốt đẹp, hãy bỏ qua cho nhau, cảm thông chia sẻ lẫn nhau. Như Chí không hề để ý đến tính tình dở hơi và "vẻ đẹp trời cho" của thị, hay chính thị cũng chẳng khinh ghét một người đàn ông không cha không mẹ, lại chuyên rạch mặt ăn vạ... Họ đã bù đắp cho nhau, làm nên một tình yêu thật đáng ngưỡng mộ. Dù sau đó cuộc tình tan vỡ nhưng đó là vì thời thế, vì xã hội. Vì thế, tình yêu ấy vẫn rất đáng trân trọng và ngợi ca.

Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao 115

Trong các tác phẩm của dòng văn học hiện thực Việt Nam, người ta thường nhắc nhiều đến những cái tên như chị Dậu, lão Hạc, … Nhưng có lẽ quen thuộc và nổi tiếng nhất, điển hình nhất là nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao – một người nông dân nghèo bị tha hóa trở thành kẻ lưu manh và chết trong nỗi khát khao được trở lại làm người lương thiện. Trong tác phẩm, người ta không chỉ ấn tượng về hình dáng, về cuộc đời của Chí mà còn thấm thía cái diễn biến tâm trạng vô cùng sâu sắc và đầy đau khổ của một con người khi rơi vào tận cùng của tăm tối của cuộc đời.

Viết Chí Phèo, Nam Cao đã lấy chất liệu từ chính làng quê của mình, từ vùng nông thôn nghèo đói trước Cách mạng tháng Tám với những ám ảnh về sự tăm tối, bức ép, ngột ngạt. Chí Phèo – đại diện cho tất thảy những người nông dân trong xã hội ấy, bị đẩy vào bước đường cùng bi kịch mà tha hóa trở lên lưu manh. Trước đây, hắn cũng đã từng có những ước mơ đời thường về cuộc sống gia đình dù nghèo đói nhưng vẫn bình yên và hạnh phúc, thế nhưng ước mơ ấy chẳng có ngày thành hiện thực vì hắn đã sớm bị xã hội, bị những định kiến, những cường quyền tước đi linh hồn của một con người.

Không như những tác phẩm khác cùng đề tài thường phản ánh về sưu cao, thuế nặng khiến người nông dân lâm vào bước đường cùng như Tắt đèn – Ngô Tất Tố hay lão Hạc, Nam Cao lại chọn một cách khác để thể hiện những nỗi thống thiết trong cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Đây là cách thể hiện vô cùng mới mẻ và thể hiện được cách nhìn đa chiều của Nam Cao với đời sống của người nông dân.

Vậy chúng ta có biết Chí Phèo là người như thế nào? Cuộc sống của hắn ra sao, diễn biến tâm lý của hắn thế nào mà hắn lại trở thành con người điển hình cho lớp người nông dân thời kì này trong văn học Việt Nam?

Nhắc đến Chí Phèo thì người ta nhớ ngay đến từ "ăn vạ" và nhớ ngay ra cái cách mà hắn xuất hiện trong câu chuyện của Nam Cao, cái đặc trưng riêng của Chí, đó là "vừa đi vừa chửi". Chí xuất hiện không hoành tráng, không ba hoa, không có từ ngữ miêu tả dáng hình nhưng lại khiến người ta thật khó lòng không nhớ. Hắn xuất hiện với tiếng chửi, với dáng người xiêu vẹo của một tên nghiện rượu. Cái chửi của hắn chẳng nhắm vào ai mà chỉ bâng quơ giữa đường, nào là "chửi trời", rồi "chửi đời", "chửi cả làng Vũ Đại", "chửi đứa nào không chửi nhau với hắn", và cuối cùng là "chửi đứa nào đã đẻ ra hắn".

Như những người bình thường khác, cha mẹ thân sinh công ơn tựa trời biển, nào ai dám mắng chửi, đem ra nhục mạ thế, nhưng Chí Phèo lại khác. Bởi hắn là một kẻ chẳng cha chẳng mẹ, bị bỏ rơi giữa cái "lò gạch cũ" giữa đói rét, cha mẹ đã vứt bỏ hắn "trần trường và xám ngắt trong một cái váy đụp cũ cạnh lò gạch bỏ hoang" để mặc hắn tự sinh tự diệt. Có thể nói, số phận hắn từ khi lọt lòng đã bi thảm vô cùng và nỗi bi thảm ấy càng tăng gấp bội khi hắn bị đẩy vào tù trong oan ức. Cuộc sống của Chí lênh đênh, tội nghiệp là thế, hắn bơ vơ giữa dòng đời, không một chốn dung thân. Hắn cũng như bao người nông dân khác trong xã hội đương thời ấy, phải sống bơ vơ, lạc lõng như thế giữa cuộc đời, người đi ở đợ, kẻ buôn ngược bán xuôi, người lại tha phương cầu thực chỉ mong giữ lại sinh mệnh của mình giữa cuộc đời.

Có lẽ chính vì thế mà sau khi ra tù, Chí "trông khác hắn", thay đổi hẳn. Nếu ngày xưa, Chí tuy mồ côi nhưng vẫn chăm chỉ làm ăn, kiếm sống bằng làm thuê làm mướn, rồi đi làm canh điền cho nhà Lý Kiến cốt để kiếm cái ăn trong sạch thì giờ đây, hắn chỉ chìm đắm trong những cơn say lướt khướt. Từ Bá Kiến, và tiếp sau là nhà tù thực dân đã tiếp tay biến Chí trở thành một con nghiện rượu, một kẻ lưu manh, tha hóa, đầu đường xó chợ. Chính cái thói dâm dục người đàn bà mang tên bà Ba, cùng cường quyền và thói lọc lõi của cụ Bá đã khiến Chí trở thành một con người "trông gớm chết" như hôm nay. Chí tìm đến rượu và say lướt khướt suốt như thế phải chăng là để quên đi cái phần lương thiện còn sót lại trong người, để trở lên thành "kẻ mạnh", để không ai còn có thể bắt nạt được hắn được nữa?

Sau khi bị dồn vào tù bởi Bá Kiến, rồi ra tù, Chí biến thành một con người khác "trông đặc thằng săng đá. Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết!". Hắn không chỉ mất đi nhân hình mà còn mất luôn cả nhân tính của con người. Bởi trước đây, hắn hiền lành, lương thiện bao nhiêu, tự ý thức được nhân cách của mình, "thấy nhục"trước những lời lẳng lơ của bà Ba bao nhiêu, thì giờ đây, hắn lưu manh, bặm trợn bấy nhiêu. Và cái đặc sắc nhất của Chí là thói ăn vạ đời, ăn vạ người. Bất kì khi nào, hắn cũng có thể lấy mảnh chai cào vào mặt để "ăn vạ" người ta, để cướp giật những thứ hắn cần. Và Chí càng hung hăng, độc ác, lún sâu vào con đường tội lỗi hơn khi hắn trở thành tay sai cho Bá Kiến.

Ở đây, Nam Cao đã tinh tế khi phát hiện ra con đường lưu manh hóa của người nông dân, không còn dừng ở việc phân tích đời sống khốn cùng của những người nông dân nữa. Ông đã đào sâu vào cuộc sống đau khổ của họ và nhận ra rằng đằng sau sự lưu manh hóa, tha hóa của những người nông dân lương thiện, chất phác kia là những con quỷ nắm trong tay cường quyền cùng thủ đoạn độc ác và thói đời lọc lõi của chúng mà điển hình ở đây là Bá Kiến.

Về Chí Phèo, hắn chỉ chợt ý thức được cuộc đời của mình, về số kiếp của mình sau khi hắn bắt gặp Thị Nở, bắt gặp những quan tâm đầu tiên hắn nhận được trong đời. Và từ đó, tâm trạng hắn nảy sinh những diễn biến vô cùng phức tạp mà lại vô cùng thấm thía với chúng ta.

Trước khi gặp Thị, Chí Phèo chỉ là một kẻ nghiện rượu, cô độc, là một kẻ lưu manh, một con quỷ của làng Vũ Đại. Hắn không có suy nghĩ, không có ước mơ, chẳng ý thức được sự sống của mình, hắn cứ vật vờ từ ngày này qua tháng khác. Có chăng điều duy nhất thôi thúc trong tâm thức hắn là được giao tiếp với con người, đó là lý do hắn luôn đi "chửi" thiên hạ, bởi hắn mong mỏi có một con người nào đó cho hắn được một lời nói, dù là lời chửi bới thôi cũng được.

Thế nhưng, sau khi gặp Thị Nở, cuộc đời hắn trở sang một trang mới và Thị Nở chính là ánh sáng soi rọi vào tâm hồn đen tối của Chí và tâm hồn hắn nảy sinh những diễn biến phức tạp, khó hiểu.

Chí Phèo gặp Thị Nở sau khi uống rượu say, còn Thị - một người đàn bà ngẩn ngơ và ế chồng, đi gánh nước và ngủ quên ở cạnh bờ sông, lối về cái lều rách của Chí. Trong cơn say, Chí Phèo đã ăn nằm với Thị và sau đó, Thị đã đưa hắn vào lều, đắp chiếu rồi ra về. Những tưởng câu chuyện chỉ có thế, nhưng không, Nam Cao đã thật nhân đạo khi để hai con người bất hạnh ấy đến với nhau bằng một tình yêu thật nên thơ.

Sau đêm ấy, Chí tỉnh rượu, Chí nhận thấy "trời sáng đã lâu. Mặt trời chắc đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ". Lần đầu tiên, Chí nhận biết được thời gian, nhận thức được thế giới xung quanh mình. Tỉnh dậy, Chí thấy người bâng khuâng, lòng hắn vu vơ những "mơ hồ buồn". Chí tỉnh rượu, và khi tỉnh rượu thì Chí nhận ra được nhiều điều.

Đầu tiên, Chí thấy mình "sợ rượu như những người ốm sợ cơm", rồi hắn thấy những âm thanh rộn rã bên ngoài căn lều của mình. Tiếng chim hót say sưa, tiếng gõ thuyền, tiếng người cười nói khi đi chợ, tất cả những âm thanh nhộn nhịp ấy lần đầu hắn mới được nghe thấy "tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá." Tất cả những âm thanh ấy "quen thuộc ngày nào chả có" nhưng đến hôm nay "hắn mới nghe thấy". Tỉnh rượu, hắn thức tỉnh luôn cả con người, thức tỉnh cả những giác quan mọi khi bị bịt kín. Những âm thanh ấy náo nức, thế nhưng lòng hắn lại buồn "chao ôi là buồn!".

Hắn buồn bởi hắn nhận ra những câu chuyện của những người đàn bà đi chợ kia "nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi". Chạy qua tâm trí hắn là từng dòng kí ức của ngày kia, khi mà hắn vẫn còn là một tên canh điền hiền lành, hắn đã từng có những ước mơ giản dị như những con người bình thường khác, hắn mơ "có một gia đình nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải". Ước mơ ấy tầm thường quá, giản dị quá, vậy mà với hắn là một cái gì đó thật xa xôi. Phải chăng lương tri trong Chí đang thức tỉnh, phải chăng ý thức con người đang dần trở về với hắn để hắn lại có những bồi hồi mơ ước như con người bình thường?

Và có lẽ cái ý thức ấy lại càng sống dậy trong hắn mạnh mẽ hơn khi hắn nhận ra được những nỗi khốn khổ của cuộc đời mình. Trước đây, hắn không có ý thức về thời gian, về tuổi tác thì giờ đây, hắn nhận ra "hắn già mà vẫn còn cô độc". Hắn đã bước chân sang "cái dốc bên kia của cuộc đời" mà vẫn còn một mình. Hắn bắt đầu nghĩ về tương lai "trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc". Nếu trước đây, Chí Phèo chưa từng suy nghĩ về những điều ấy, bởi hắn chẳng bao giờ tỉnh rượu và cũng bởi hắn chưa từng ý thức được cuộc sống của con người, bởi hắn đã sống vật vờ như một con quỷ dữ. Giờ đây, hắn thức tỉnh, hắn nhận ra cuộc đời của mình, và nhận ra những cảm xúc rất đời thường. Hắn có những nỗi sợ vẩn vơ, những nỗi sợ đói rét, cô độc, ốm đau rất thường của con người. Sự thức tỉnh ấy đã làm lương tri trong hắn trở về rồi, sự lương thiện đang trở về với Chí rồi!

Nhận được sự quan tâm của Thị Nở, Chí Phèo lần đầu tiên biết tới yêu thương, biết tới tình yêu của một người đàn bà. Sự chăm sóc của Thị Nở, bát cháo hành với những cái lườm nhưng đầy tình tứ, yêu thương của Thị đã khiến bừng lên trong hắn cái ước mơ được trở lại như xưa, trở lại làm người lương thiện.

Thị Nở đến bên Chí với bát cháo hành còn đang bốc khói khiến Chí ngạc nhiên hết mức "thằng này rất ngạc nhiên". Cũng phải thôi, Chí đã bao giờ được tận hưởng cảm giác yêu thương, tận hưởng sự chăm sóc, hay "được một người đàn bà cho", vậy nên hắn ngạc nhiên lắm và "hắn thấy mắt hình như ướt". Sự xúc động đến từ trái tim đã bật thành giọt nước mắt trên bờ mi, Chí xúc động lắm, rồi Chí thấy Thị thật có duyên, cái duyên không phải đến từ hình dáng mà đến từ tâm hồn tràn đầy yêu thương, nhân từ của Thị. Hắn lần đầu tiên được ăn cháo, lần đầu tiên được cảm nhận yêu thương và lần đầu tiên hắn mong ước được trở lại làm người lương thiện. Bừng lên trong hắn là khát khao được quay lại cuộc sống bình thường như trước. Và hắn đã nghĩ "Thị sẽ là người mở đường cho hắn". Hắn sẽ trở lại với cuộc sống bình thường, với những con người lương thiện, hắn muốn "làm hòa với mọi người", và "họ sẽ thấy hắn cũng có thể không làm hại ai. Họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Thế nên, Chí đã mở lời tỏ tình với Thị Nở bằng một cái giọng "phong tình" rằng "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui".

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở không chỉ giúp Chí thức tỉnh mà còn mang đến cho Chí những cảm xúc đời thường như tình yêu, sự chăm sóc. Và Chí mong ước được yêu thương, được chăm sóc, được trở thành người lương thiện, để được yên ổn làm ăn, được sống với một gia đình nhỏ hạnh phúc.

Tâm trạng của Chí đến đây đã bước sang một trang mới, không còn vô cảm, không còn vô hồn nữa mà tràn đầy yêu thương, khao khát được trở lại làm con người. Chí đã rất vui mừng rằng Thị Nở sẽ mở đường giúp hắn, giúp hắn làm lại cuộc đời.

Thế nhưng, niềm vui đến với Chí chẳng được bao lâu thì sự tuyệt vọng, đau đớn lại dồn tới. Chí đã những tưởng được làm lại từ đầu và Thị Nở sẽ là người mang tới cơ hội đó cho Chí nhưng không, định kiến xã hội đã giết chết cái mơ ước, khát khao ấy của Chí. Bà cô Thị Nở đã chì chiết và đay nghiến Thị khi biết chuyện Thị với Chí Phèo, bà dùng những định kiến của xã hội mà ngăn cấm Thị Nở "Ngoài ba mươi tuổi … ai lại còn đi lấy chồng?", "lấy ai không lấy, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một cái nghề là rạch mặt ăn vạ". Phải, và thế là ái định kiến ấy đã lấy đi của Chí tất cả những gì vừa mới chớm nở hôm qua. Khi Thị Nở tới và "trút vào mặt hắn tất cả những lời của bà cô" thì Chí đã "hình như hiểu".

Ban đầu, Chí có phần "ngạc nhiên" thế rồi hắn "nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu, hắn bỗng nhiên ngẩn người". Hắn đã hiểu rằng hắn bị ngăn cản, bị Thị Nở từ chối, và hắn chẳng thể quay trở lại con đường lương thiện được nữa. Hắn "sửng sốt" và bất lực trước bi kịch của cuộc đời mình. Chạy dọc trong tâm trí hắn là những yêu thương, là sự chăm sóc, là "hơi cháo hành", hắn muốn níu kéo Thị, níu kéo con đường duy nhất và cuối cùng để hắn trở về làm người. Hắn níu lấy tay Thị "hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay", nhưng đáp lại hắn chỉ là cái "gạt tay" của  Thị và thị còn "giúi thêm cho một cái. Hắn lăn khoèo xuống sân". Tất cả những gì hắn mong muốn đều không thể có được nữa, hắn tuyệt vọng vô cùng, tuyệt vọng nên hắn tìm tới rượu. Hắn không muốn tỉnh nữa, hắn muốn trở lại làm "kẻ mạnh" như trước kia. Thế nhưng, lương tri của hắn, ý thức của hắn đã trở về, hắn chẳng còn say được nữa, hắn "càng uống càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn. Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành". Đến đây, không còn chịu đựng được nữa, hắn "ôm mặt khóc rưng rức".

Giọt nước mắt của Chí Phèo không chỉ là giọt nước mắt buồn tủi khi bị Thị Nở từ chối mà còn là giọt nước mắt của đau khổ, tuyệt vọng, của bi kịch cuộc đời khi hắn muốn trở lại làm người thì lại bị đẩy ra khỏi xã hội, và con đường duy nhất lại bị tước đoạt, cắt đứt bởi định kiến. Đau khổ, tuyệt vọng và phẫn uất biết bao!

Trong cơn tuyệt vọng, bi phẫn đến tột cùng, Chí Phèo đã xách dao đi, miệng lảm nhảm "Tao phải đâm chết nó! Tao phải đâm chết nó!". Nó ở đây là ai, ban đầu thì là Thị Nở và bà cô nhưng "hắn lại quên rẽ vào nhà thị Nở". Hắn xách dao "xông xông đi vào" nhà cụ Bá. Tại đây, hắn đã "trợn mắt, chỉ vào cụ" mà đanh thép lên tiếng đòi lại quyền sống cho mình. "Tao muốn làm người lương thiện" – câu nói của Chí như cắt vào lòng người đọc một vết cắt thật sâu, muốn làm người lương thiện mà còn phải đi đòi người khác hay sao?

Thế nhưng, ai đọc được tác phẩm của Nam Cao cũng sẽ hiểu cái điều mà Chí Phèo yêu cầu, mong muốn duy nhất và cuối cùng của hắn trong cuộc đời mình. Bởi lẽ, tỉnh rượu, ngẫm nghĩ, hắn mới hiểu mọi nguồn cơn của hắn đều xuất phát từ Bá Kiến – từ tay kẻ lọc lõi đời, biết cách điều khiến người khác bằng thứ quyền lực trong tay mình. Câu nói cuối cùng của Chí "Ai cho tao lương thiện?" trước khi vung dao đâm chết Bá Kiến có lẽ là câu hỏi ám ảnh nhất trong văn học Việt Nam. Câu hỏi đó được hỏi bằng tất cả sự đau khổ, tuyệt vọng, bi phẫn hoàn toàn của một con người bị tha hóa, lưu manh hóa bởi cái xã hội thực dân phong kiến, bởi những kẻ ác bá cường quyền.

Tóm lại, diễn biến tâm trạng của Chí từ một kẻ không xúc cảm, không suy nghĩ, không có ý thức về cuộc đời, tương lai của mình, đến khi gặp Thị Nở, trở thành một người tỉnh táo với ý thức về số phận của mình, hạnh phúc khi được tận hưởng niềm yêu thương, chăm sóc, tận hưởng tình yêu và khao khát được trở lại làm người lương thiện đến nỗi bi phẫn, đau khổ, tuyệt vọng khi bị từ chối quyền làm người. Diễn biến ấy vừa tràn đầy hạnh phúc lại vừa bi thương, bi kịch vô cùng, tất cả được viết lên dựa trên niềm cảm hứng và lòng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao.

Qua đó, ta thấy được tâm trạng của một người nông dân nghèo bị đẩy tới bước đường cùng, tha hóa, lưu manh hóa, nhưng sâu thẳm trong họ vẫn là khát khao được trở lại làm người, được trở lại và sống giữa một xã hội "bằng phẳng và thân thiện của những người lương thiện".

Nam Cao đã vô cùng tài năng khi dựng lên bức chân dung tâm trạng của Chí Phèo và phát hiện ra những điều mới mẻ trong nhân cách những người nông dân nghèo. Ông không hề khiến họ xấu đi mà ngược lại còn tôn lên nhân phẩm của họ và khẳng định rằng cái nhân phẩm ấy sẽ chẳng bao giờ bị mất đi dù xã hội có chà đạp, vứt họ xuống tận bùn đen tăm tối.

Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo là một trong những diễn biến nội tâm vô cùng phức tạp và sâu sắc. Thế nhưng, Nam Cao với ngòi bút miêu tả nội tâm xuất sắc của mình đã khiến chúng ta phải rung cảm trước chân dung nội tâm của một kẻ bị coi là quỷ dữ, bị cả xã hội xa lánh. Ông đã khiến người đọc phải cảm động mà đồng cảm, thương xót cho số phận của nhân vật của mình. Tài năng của Nam Cao thật khiến cho những thế hệ sau chúng ta phải nể phục và trân trọng.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 117

Giả sử, bạn là một người trong làng Vũ Đại, lớn lên lúc “con quỷ Chí Phèo” về làng, thì lúc đó bạn cảm nhận sao về Chí Phèo? “Một con quỷ khát máu”, chuyên rạch mặt ăn vạ! Vậy mà “con quỷ” ấy lúc trước lại là một người hết sức lương thiện và đến khi sắp chết cũng lại còn muốn trở thành người lương thiện…

   Nhưng cái lương thiện ấy cũng chẳng được xã hội lúc bấy giờ dung túng. Khi Chí Phèo vẫn còn là một thanh niên thì lại bị Lí Kiến ghen tuông mà đẩy cho đi ở tù. Cũng chính bởi vì cái lí lịch “được nhặt” ở lò gạch cũ mà Chí Phèo “chẳng là gì” trong cái xã hội tàn bạo chỉ biết bốc lột, chèn ép những người nông dân bi thảm. Ở đây, Chí Phèo nói riêng, là đại diện cho tầng lớp nhân dân trước cách mạng: hiền lành, chân chất nhưng luôn bị xã hội khinh rẽ. Rồi đến khi Chí Phèo thật sự bị đẩy ra bên lề của xã hội, thậm chí gần như là ra bên ngoài xã hội, thì lúc đó hắn chẳng còn mang hình dáng của con người nữa. Trên mặt hắn đầy những vết vằn ngang vằn dọc do “rạch mặt ăn vạ”, trên cơ thể hắn không biết bao nhiêu là sẹo mà đếm.”Trông gớm chết!”…Nói đi cũng phải nói lại, chẳng khi không mà hắn lại tự biến mình thành con người như thế. Hắn bắt buộc phải làm như thế để có thể tiếp tục tồn tại được trong xã hội. Để có thể tiếp tục uống rượu say khước, chẳng biết ngày tỉnh và để tiếp tục chưởi bới. Mà tiếng chưởi của Chí Phèo cũng hay đấy chứ! Hắn chưởi trời, mà trời thì đâu có thể đáp lại lời hắn, rồi hắn lại chưởi người làng Vũ Đại, nhưng đáng tiếc thay ai cũng nghĩ rằng:”chắc hắn trừ mình ra”. Cuối cùng, hắn lôi “đứa nào đẻ ra hắn” mà chưởi. Không phải hắn chỉ chưởi cho sướng cái mồm mà thôi, mà hắn đang cay đắng nhìn lại đúng cái cuộc đời như trong lời chưởi của hắn. Chí Phèo tự chưởi rồi cũng tự nghe, đáp lại chỉ có những con chó sủa ầm lên mổi khi hắn đi qua.Vậy ra là hắn đang chưởi nhau với chó à! Suy ra cho cùng thì hắn cũng chỉ được xếp ngan hàng với mấy con chó. Xã hội thật sự đào thải hắn, không cho hắn dung thân và cũng không cho hắn có được cái cơ hội nào nữa cả.

Bắt đầu từ đó, hắn tha hóa và dần mất hết tính người. Chỉ biết mỗi chuyện: Uống rượu say, rạch mặt, ăn vạ, dọa nạt, đâm chém, xin tiền… Chính bởi những cái đó càng làm cho hắn cô độc hơn khi cơn say trong hắn cứ triền miên từ ngày nay qua tháng nọ. Trong người hắn chẳng còn máu, mà chỉ có rượu thôi, rượu chảy trong hắn và nuôi sống hắn!

    Thế nhưng, trong cuộc sống vẫn còn có những nốt trầm bỏng khác nhau. Cuộc sống của Chí Phèo có một bước ngoặc lớn khi Thị Nở xuất hiện. Cái hơi hám của tình yêu mang hắn về lại với xã hội loài người. Mang men rượu ra xa Chí Phèo. Và khiến hắn khao khát có được mái ấm gia đình, một cuộc sống bình thường như bao người khác và hơn hết, hắn muốn lại trở thành một con người lương thiện… Vậy mà cái xã hội tàn bạo, không nhân tính ấy đâu có cho hắn được toại nguyện.Chỉ một bát cháo hành của Thị Nở thôi thì đâu có đủ để cả xã hội chấp nhận hắn. Nhưng ít ra, bát cháo hành ấy cũng đã khơi gợi được “nhân tính” trong hắn. Ít ra hắn cũng biết rằng hắn cần phải sống lương thiện. Hắn đã thật sự ngạc nhiên rằng đó mới chính là điều bấy lâu nay hắn khao khát muốn đạt được, đó là khát khao hạnh phúc. Khát khao được sống như một con người bình thường. Khi mà những tiếng chim hót ngoài kia cứ ríu rít vang lên bên tai hắn, tiếng cười nói của những người đi chợ rôm rả bên ngoài túp lều của hắn, và “chao ôi là buồn” …hắn đang cố hình dung về những gì mà hắn đã từng rất mơ ước. Một người vợ dệt vải, một người chồng cày thuê cuốc mướn… Vậy mà, hắn giờ đã già rồi mà vẫn chưa thể nào đạt được những mơ ước nhỏ nhoi ấy. Hắn thấy hắn buồn vô cùng. Kể từ mấy chục năm nay, có bao giờ mà hắn có được những cảm xúc buồn vui thế này đâu! Có bao giờ mà hắn ngồi ngẫm nghĩ về cuộc đời của hắn! Và lần đâu tiên, hắn được một người đàn bà cho, Thị Nở mang bát cháo hành đến cho hắn giống như mang ánh sáng của cuộc đời đến làm xua đi cái đen tối mờ mịt luôn bao vây lấy hắn. Trong lúc ấy, hắn cảm thấy ăn năng và hối hân về những tội ác mà hắn đã gây ra.Bát cháo hành nóng ấy dường như có một uy lực ghê gớm. Nó khiến cho một “con quỷ khát máu” cũng phải thấy được lỗi lầm của mình và cũng gội rửa đi thú tính của hắn. Làm hắn cảm thấy mình có được hơi thở của con người, làm hắn cảm thấy cần một bàn tay của người ta chăm sóc hắn. Là tự nguyện chứ không phải do hắn giành giật mà có được nữa. Bát cháo hành và Thị Nở đã mở đường cho hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Nhưng mà nào có được đâu,ngược lại, xã hội ấy chẳng những đồi bại mà còn đầy những định kiến cho cuộc sống trở thành bi kịch và lâm vào ngõ cụt. Bà cô của Thị Nở đã ngăn cản đứa cháu của mình lấy một thằng “không cha,làm nghề rạch mặt ăn vạ”. Thế là Thị tức điên lên và tìm gặp Chí để xả hết những lời của bà cô vào mặt Chí. Rồi Thị ra về và Thị hoàn toàn không biết rằng những việc mình vừa làm đã tác động đến Chí thế nào. Chí Phèo quyết định “đâm chết” bà cô của Thị Nở, thế nhưng “Tao phải đâm chết nó” của Chí Phèo lại nhầm vào Bá Kiến.Chí Phèo đã chấm dứt tất cả bằng cách giết Bá Kiến và tự sát. Tại vì hắn đã nhận ra cái nguyên nhân sâu xa khiến cho con người hắn trở nên như ngày hôm nay. Hắn đã ý thức được về hình hài cũa mình. Với cái hình hài người chẳng ra người, vật chẳng ra vật thì làm sao hắn có thể trở thành người lương thiện được đây! Hắn lắc đầu: ”Ai cho tao lương thiện…Tao không thể là người lương thiện nữa”.Ngay khi “con quỷ dữ” ấy tàn bạo nhất, lại chính là lúc cái bản chất tốt đẹp của hắn được phơi bày. Hắn đã chẳng còn được cơ hội nào nữa. Chỉ có cái chết mới giúp giải thoát hắn khỏi những bất công tàn ác đó.


Cái chết của Chí Phèo không mang câu chuyện về nơi kết thúc mà ngược lại, dường như nó chỉ mới bắt đầu thôi. Khi Thị Nở bổng dưng nhìn thấy cái lò gạch cũ thì câu chuyện đã lại bắt đầu chuyển sang một giai đoạn mới. Vậy ra, trong cái xã hội thối nát ấy, con người chỉ quanh đi quẩn lại với cái vòng tròn vô định hướng ấy. Chí Phèo này chết rồi thì sẽ lại có một Chí Phèo con xuất hiện. Đến khi nào mới hết những con người khốn khổ bị dồn đến bước đường cùng, không còn một lối thoát nào nữa.

    Nhân vật Chí Phèo, từ một người nông dân hiền lành, rồi trở thành quỷ dữ, rồi lại muốn trở thành người hiền lành. Qua bao nhiêu là sự biến đổi, nhưng cái bản chất gốc gác của hắn thì vẫn tồn tại như chính con người hắn đã hiện hữu.

Bài văn mẫu phân tích nhân vật Chí Phèo 118

“Chí Phèo” được viết vào năm 1941, là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng 8. Đây là một trong những truyện ngắn có thể nói là nổi bật nhất trong các tác phẩm khác ra đời cùng thời và đưa Nam Cao đi lên vị trí hàng đầu trong lớp nhà văn hiện thực, phê phán xã hội vào giai đoạn 1930-1945.Tác giả đã xây dựng thành công , nổi bật hình tượng một nhân vật điển hình đó là nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa rất sâu cay vào loại tiêu biểu của nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ.

Chí Phèo là một kiệt tác của nhà văn Nam Cao dựa trên cơ sở người thật, việc thật ở vùng quê của mình, ông đã hư cấu tạo nên một bức tranh hiện thực về đời sống của những người dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8 với tất cả sự tăm tối, sự ngột ngạt cùng bao nhiêu là đau đớn, kinh hoàng,… Nhân vật Chí Phèo là đại diện cho bị kịch của những người nông dân bị tha hóa nhân cách trong xã hội cũ.  Nhưng tất cả những nỗi khổ cực, bi đát trong cái xã hội đấy không thể làm cho những người người nông dân khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống một cuộc sống thanh bình hạnh phúc bên gia đình, vợ con. Nhưng thực ra ở bên trong con người họ lại luôn có một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.

Nam Cao không đề cập đến các vấn đề về sưu thuế, tô thuế như các tác phẩm cùng thời khác mà ông có những khám phá riêng của mình về số phận của những người dân lao động khốn khổ bị chà đạp. Đó là một cái nhìn vô cùng mới mẻ, độc đáo nhưng vô cùng sâu sắc, thể hiện nỗi đau trăm chiều của những người nông dân nghèo bị áp bức trong xã hội thực dân phong kiến.

Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên là ai mà có ảnh hưởng lớn đến vậy? Mở đầu tác phẩm nhà văn Nam Cao đã giới thiệu nhân vật Chí Phèo của mình một cách rất ấn tượng và lôi cuốn người đọc. Nhà văn đã để hắn ta xuất hiện trong trạng thái say rượu, không có ý thức về mọi thứ “hắn vừa đi vừa chửi”. Điều này rất là lạ bởi thông thường người ta thường chửi có đối tượng cụ thể đằng này hắn chửi tất cả những gì hắn nhìn thấy, hướng tới tất cả cuộc đời trời đất này. Lạ lùng hơn nữa khi đây không phải là lần đầu tiên xảy ra chuyện này mà đã xảy ra rất nhiều lần trước đó, nó được minh chứng qua câu nói “bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vậy tại sao Chí Phèo lại ra nông nỗi như vậy? Nhân vận của Nam cao xuất hiện đã tạo ra một ẩn số khiến người đọc vô cùng tò mò. Có người sẽ dự đoán Chí Phèo chắc phải có nỗi khổ nào trong lòng mới dùng rượu để trút hết những tâm tư, suy nghĩ ra. Và quả thực cuộc đời hắn ta hiện lên trong tác phẩm như một cuốn phim bi thảm.

Chí Phèo vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi một cách rất tàn nhẫn, có thể hiểu đơn giản như mồ côi bố mẹ, sự ra đời của hắn không được bất kỳ ai mong đợi. Hay nói trắng ra là hắn là một đứa con hoang, khi hắn sinh ra cha không thừa nhận, mẹ hắn ra thì  bỏ hắn lại ở cái lò gạch cũ mặc cho sống chết, đói rét, khóc thét. Vậy là chỉ có duy nhất cái lò gạch cũ là chấp nhận sự ra đời của hắn. Khi mà hắn ta trở nên xám ngắt cả thân thể trong chiếc váy đụp mẹ hắn để lại rồi những người nông dân nghèo khổ đã nhìn thấy và nhặt hắn về nuôi. Ban đầu người nuôi hắn ta là một anh đi thả ống lươn, sau đó là một người đàn bà góa phụ rồi đến bác phó cối. Nhưng rồi khi bác phó cối chết đi Chí Phèo lại trở thành đứa bé bơ vơ, không nơi nương tựa. Những khi đói bụng muốn có cái gì đó ăn hắn phải đi hết nhà này đến nhà khác để xin miếng ăn sống qua ngày. Cuộc đời của Chí Phèo rất lênh đênh và tội nghiệp chẳng khác gì một thứ bèo dại trôi dạt từ nơi này sang nơi khác không có chỗ dung thân. Nhưng thực ra đó cũng là tình cảnh chung của những người nông dân trước cách mạng tháng 8, cuộc đời của họ cũng dập dềnh không khác gì Chí Phèo, những người đi ở đợ, nhưng người buôn thúng, bán mẹt nay đây mai đó không chỗ dung thân phải đi tha hương cầu thực ở xứ người.

Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đã đưa đẩy Chí Phèo đến với gia đình nhà Bá Kiến. Những tưởng được bước vào gia đình giàu có là sẽ kiếm được bát cơm manh áo , không phải lo chuyện no đói hằng ngày nữa nào ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi bà vợ của Bá Kiến cứ bắt hắn bóp chân hằng ngày, khêu gợi những chuyện tế nhị, hắn tuy còn trẻ và ít tuổi nhưng bản thân hắn cũng đủ ý thức phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa, bỉ ổi. Những lời dụ dỗ đó không thể làm mất đi bản chất của Chí Phèo. Nhìn chung lúc bấy giờ Chí là một chàng trai lương thiện, tốt bụng và có lòng tự trọng. Đọc đến đây nhiều người sẽ liên tưởng đến nhân vật chị Dậu của Ngô Tât Tố đã càm đống giấy bạc để ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện, xấu xa. Hay gần gũi hơn nữa là nhân vật Lão Hạc của Nam Cao, chính lòng tự trọng rất cao  đã khiến hắn từ chối mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão cũng đã tìm đến con đường chết để giữ lại lòng tự trọng cao quý ở chính con người mình.

Nhưng sống lương thiện trong xã hội này không hê được yêu thương và quý trọng mà thay vào đó là sự lợi dụng. Bản chất lương thiện, tốt bụng của Chí Phèo đã bị chính cái xã hội thối nát lúc bấy giờ ra sức hủy hoại. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho Bá Kiến bắt giam Chí Phèo và biến hắn từ một người lương thiện thành một con quỷ dữ.

Sau bảy, tám năm ngồi tù và trở về làng Vũ Đại, Chí Phèo đã trở thành một con quỷ đội lốt con người “đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “ trông gớm chết” . Trên người hắn xăm kín người với những hình thù quái dị, bản chất thánh thiện của hắn ngày xưa đã không còn. Bây giờ hắn trở thành một con người chỉ biết làm điều ác. Nhà văn đã sử dụng từ ngữ “ghê chết” để bày tỏ sự kinh hãi đối với hắn. Sự lưu manh trong con người hắn ngày càng hiện lên rất rõ qua những hành động hằng ngày. Khi hắn mua rượu để uống không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch vào mặt rồi nằm ăn vạ,…Hắn càng trở nên độc ác hơn bao giờ hết khi rơi vào tay Bá Kiến và trở thành công cụ đắc lực cho ông ta. Chỉ cần Bá Kiến cho hắn vài hào là hắn có thể đâm chém bất kỳ người nào được ông ta yêu cầu. Càng ngày Chí càng lún sâu vào con đường tội lỗi không có lối thoát.

Ở đây với những đặc điểm nổi bật này ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới và đầy tinh tế trong đời sống của người nông dân Việt Nam khổ cực trước cách mạng tháng tám. Nếu như chỉ dừng lại ở việc phân tích đời sống khốn khổ, bần cùng của những người nông dân thì đã co “tắt đèn”, “bước đường cùng”,… Nhưng cái mới của Nam Cao trong tác phẩm này đó là đã chỉ ra con đường lưu manh hóa, tha hóa của những người nông dân về bản chất. Họ vốn là những con người rất thật thà, chất phác, thánh thiện và giàu lòng tự trọng. Những con người cả cuộc sống không bước ra khỏi cổng làng thì làm sao có thể làm hại người khác được. Song nhà văn bằng ngòi bút xuất sắc và sắc sảo của mình đã vạch ra được tội ác của những kẻ đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó chính là thủ đoạn độc ác, để tiện của bọn cường hào giàu có như Bá Kiến kết hợp với sự tàn bạo, hà khắc của chính quyền thực dân lúc bấy giờ. Chính những con người này đã nhào nặn và bôi bẩn lên tâm hồn vốn rất mong manh và lương thiện của những người nông dân.

Cuộc gặp gỡ với nhân vật Thị Nở đã khiến cho cuộc đời của Chí Phèo bước sang một trang mới. Thị Nở không khác gì một ánh trăng dịu êm của đêm ấy, tình thương của Thị Nợ dành cho Chí Phèo không khác gì dòng sông lấp lánh dịu êm dưới ánh trăng chứa chan bao nhiêu tình cảm. Chính những điều đó đã đánh thức bản chất lương thiện trong con người Chí, làm nó sống lại và giúp Chí sống lại kiếp sống của con người. Tình thương quả đúng là thần dược giúp khôi phục các vết thương, chữa lành những tổn thương nặng nhất. Thị Nở đã làm sống lại sự tự ý thức về bản thân trong con người của Chí Phèo. Hắn sống lại với ước muốn giản dị là “một gia đình nhỏ”. Vậy là sau bao nhiêu năm tháng, hôm nay Chí lại nghe thấy tiếng chim hót ở ngoài kia hay tiếng những bà cô đi chợ hỏi nhau “hôm nay vải mấy xu hả mấy dì?” Những âm thanh này thực ra ngày nào chả có nhưng đến tận hôm nay Chí mới để ý và nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha mong về cuộc sống sau này. Bát cháo hành của Thị Nở đem đến cho Chí khiến hắn vô cùng cảm động “mắt ươn ướt”, “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn nghĩ rất nhiều về tương lai, một tương lai bình dị có một gia đình hạnh phúc. Chí đã khóc, chính giọt nước mắt và nụ cười ấy đã khiến Thị Nở thầm nghĩ “có lúc hắn hiền như đất”. Rồi Chí nói với Thị Nở một cách ấm áp và đầy tình mong muốn Thị Nở sang đấy ở hẳn với mình. Ngay lúc này hắn kháo khao muốn được trở về cuộc sống lương thiện như ngày trước không phải bận tâm chuyện gì “trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.

Chính những trang văn ấy đã làm sáng bừng câu chuyện và sáng bừng cả cuộc đời tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, lời nói của hắn lại làm chúng ta cảm động đến vậy. Chúng thể hiện một điều rằng lần đầu tiên trong đời chí đã biết được lí tưởng sống, mục đích sống sau này của cuộc đời mình, nó nằm ở nơi người đàn bà bề ngoài xấu xí bị cả xã hội cười chê, xa lánh. Mong ước giản dị của hắn có thể làm bất kỳ người nào cũng phải giật mình và tự nhìn nhận lại những gì bản thân mình đang có để cảm thấy nâng niu và quý trọng nó hơn.

Tưởng rằng từ nay cuộc đời Chí sẽ bước sang một ngã rẽ khác nhưng bi kịch của Chí chưa dừng lại ở đó. Thị Nở đã từ chối lời đề nghị ở chung của Chí bởi bà cô Thị Nở không cho phép lấy một thằng không biết làm gì ngoài việc rạch mặt làm chồng. Nếu nhìn nhận đúng thì không thể nào trách bà cô của Thị Nở được bơi đó cũng chính là cách nhìn của những người sống trong xã hội lúc bấy giờ đối với Chí Phèo.  Hắn ta khóc rưng rưng và tiếp tục lại rơi vào những ngày tháng bi kịch tuyệt vọng muốn được làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn lại tìm đến những chén rượu, hắn cứ uống cho đến lúc say mềm rồi cầm dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời, với ngườitrong làng bằng những tiếng chửi rủa, còn đời đáp cũng đáp trả lại hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi khắp cả làng Vũ Đại. Vậy là đã rõ, cuộc đời Chí Phèo đã đi vào hồi kết không có lỗi thoát, kiếp hắn giờ cũng được ví như kiếp sống của những con chó mà thôi. Miệng hắn thì không thôi chửi cô cháu Thị Nở nhưng đôi chân lại dẫn hắn đến trước ngôi nhà của Bá Kiến. Đoạn văn này được nhà văn Nam Cao miêu tả vô cùng tinh tế và sắc sảo và đầy tính nhân văn. Lúc này, Chí Phèo đang ở trạng thái nửa tỉnh , nửa say. Say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở còn tỉnh là để đén nhà Bá Kiến đi theo thói quen trong tiềm thức. Đến nhà Bá Kiến hắn không đòi tiền như thường lệ mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng lúc này hắn đã cảm nhận được sự tuyệt vọng trong cuộc đời của mình. Hắn hét lên trong vô vọng “ai cho tôi lương thiện?” Câu hỏi đó của Chí Phèo không một ai trả lời, điều đó đau đớn đến vô cùng. Câu hỏi của hắn làm người đọc cảm thấy cảm thương sâu sắc đối với những phận người bất hạnh không biết đi đâu vào đâu trong cái xã hội thối nát này. Quá tuyệt vọng, Chí đã lao vào đâm chết lão Bá Kiến độc ác và cũng Chí đã tự kết thúc đời khốn khổ của mình .

Kết câu chuyện Nam Cao để Chí Phèo chết điều đó thể hiện được rất nhiều ý tưởng sâu xa, sâu sắc góp phần tạo nên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm vì Chí Phèo chết đã tạo thành một bản án tố cáo xã hội thối nát, áp bức đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa, vô tâm đã sẵn sàng tước bỏ đi quyền sống, quyền làm người của những người dân lương thiện, hiền lành. Chí chọn con đường chết cũng có nghĩa là anh ấy không muốn quay lại con đường lưu manh, không muốn tiếp tục sống một kiếp người làm kẻ độc ác nữa. Anh ấy thà chọn con đường chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng được hoàn lương, quyết tâm không quay lại con đường tội lỗi. Đó chính là sự tin tưởng của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người và Chí Phèo là một điển hình.

Khi miêu tả tấn bi kịch về số phận của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích chi tiết các nguyên nhân sâu xa, cốt lõi tạo nên mạch bi kịch trong cuộc đời bi đát của Chí Phèo. Trong đó nguyên nhân khách quan là xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đẩy con người vào vòng sa ngã không đứng lên được. Còn nguyên nhân chủ quan là bản thân những người nông dân cùng cảnh nghèo khó lại quay lưng lại với nhau, phủ định nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà cô của Thị Nở. Khi bị xua đuổi, đày đọa, áp bức một cách tàn nhẫn thì những người như Chí Phèo chống trả bằng con đường lưu manh. Kết thúc câu chuyện tác giả miêu tả cảnh Thị Nở nhìn xuống cái bụng của mình và thấp thoáng hình ảnh Chí Phèo hiện ra sau đó. Rất có thể một Chí Phèo con lại chào đời và sống tiếp quãng đường giống bố của nó. Hình tượng Chí Phèo được khắc họa rất thành công và khát quát hóa quy luật của xã hội. Vậy muốn kết thúc chuỗi bi kịch khốn khổ của Chí Phèo thì cần phải tiêu diệt cái xã hội ấy đi, đây chính là chiều sâu, là giá trị trong các tác phẩm của Nam Cao về miêu tả hiện thực xã hội.

Hình tượng nhân vật Chí Phèo để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc cũng như lòng thương cảm sâu sắc đối với những kiếp người bị tha hóa trước cách mạng tháng 8. Cùng với Chị Dậu, lão Hạc,…thì hình tượng nhân vật Chí Phèo lại một lần nữa khẳng định cần có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp để đòi lại quyền sống, quyền làm người cho người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là lời nhắc, cảnh tỉnh cho chúng ta biết yêu thương, quý trọng những gì mà mình đang có và ra sức cống hiến để xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

Bài văn mẫu phân tích nhân vật Chí Phèo 119


Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc viết về đề tài người nông dân. Nhân vật của ông chủ yếu là những người nghèo khó, cùng cực, họ bị áp bức bất công, bị chà đạp về cả thể xác và nhân phẩm. Chắc hẳn chúng ta không thể quên Chí Phèo_nhân vật điển hình cho một giai cấp, đại diện cho người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Đây là nhân vật có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc làm nên tên tuổi của tác giả để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

Chí cũng giống như anh cu Lộ trong tác phẩm “Tư cách mõ” hiền lành, chất phác, bản tính vốn lương thiện nhưng bị xã hội, bị giai cấp thống trị chèn ép, đẩy đến mức đường cùng phải bán linh hồn và nhân phẩm cho quỷ dữ. Nhưng sâu thẳm trong tâm hồn con người ấy vẫn có những phút giây khao khát được hoàn lương, được sống đúng nghĩa. Cuộc đời Chí trải qua hai giai đoạn là trước và sau khi gặp thị Nở diễn biến tâm lí, suy nghĩ và hành động của nhân vật được Nam Cao thể hiện xuất sắc dưới ngòi bút hiện thực.

Trước khi gặp thị Nở cuộc đời của hắn vừa bước chân ra khỏi nhà tù thực dân trở về làng là một kẻ lưu manh tha hóa, mất hết nhân hình lẫn nhân tính, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Những tháng ngày ấy Chí bị phần con lất át phần người ngoại hình bên ngoài đúng chất của một thằng đầu bò, du côn, lưu manh với cái đầu trọc lốc, răng cạo trắng hớn, mắt gườm gườm, người thì xăm trổ đầy mình. Hắn khiến cho người ta sợ ngay từ cái nhìn đầu tiên. Chí Phèo được Nam Cao khắc họa vẻ bên ngoài thật ấn tượng, tỉ mỉ từ đầu đến chân để hắn hiện lên thật dị dạng không giống ai. Không chỉ vậy tính cách, nhân phẩm của hắn cũng đã bị bóp méo. Chí trượt dài trên cái dốc tha hóa, kể từ khi về làng lúc nào cũng trong tình trạng say xỉn mà chưa bao giờ tỉnh, bao giờ cũng thế cứ say là hắn chửi và có thể làm bất cứ thứ gì mà người khác sai khiến. “Hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Những việc hắn làm là rạch mặt ăn vạ, cướp của giết người khiến cho “Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi khi hắn qua”. Kể từ đó Chí sống trong cô đơn cô độc giữa dòng đời tấp nập, giữa bao người ngược xuôi nhưng tuyệt nhiên không một ai coi Chí là người.

Tưởng rằng con quỷ dữ cứ sống mãi kiếp thú vật nhưng Nam Cao đã để cho Chí hồi sinh sau khi gặp thị Nở. Đây là đoạn văn nhân đạo nhất trong tác phẩm mà tác giả dành cho nhân vật của mình. Chí đã được thức tỉnh nhờ bát cháo hành và tình cảm chân thành, sự quan tâm săn sóc của thị Nở. Buổi sáng hôm ấy thức dậy Chí có một sự thay đổi rõ rệt trong suy nghĩ, cảm xúc và hành động. Chí Phèo tỉnh dậy sau một cơn say rất dài “hắn thấy miệng đắng, lòng buồn mơ hồ”. Lần đầu tiên kể từ ngày trở về hắn nghĩ đến rượu mới cảm thấy rùng mình “hắn sợ rượu cũng như những người ốm sợ cơm”. Hắn cảm nhận được âm thanh của cuộc sống “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”… Những âm thanh ấy ngày nào cũng có nhưng đây là lần đầu tiên Chí tỉnh để nghe thấy tiếng gọi tha thiết của sự sống.

Chí nhận thức được bản thân mình về quá khứ, hiện tại và tương lai. Tiếng bàn tán của người bán hàng gợi nhớ về quá khứ tươi đẹp của hắn từng ước mơ về một gia đình nho nhỏ “Chồng cuốc mướn, cày thuê vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó là ước mơ, là khao khát của anh canh điền hiền lành chất phác. Nhưng éo le thay điều đó không thành hiện thực để rồi giờ đây trong hiện tại “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của đời”, cơ thể đã hư hỏng ít nhiều. Chí phèo cũng đã nghĩ về tương lai và “trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Sau những ngày sống như vô thức qua một trận ốm Chí đã tỉnh dậy và suy nghĩ về cuộc đời mình. Như vậy với khả năng nhận nhức về ngoại cảnh và nhận thức về chính mình Chí đã tỉnh dậy và hồi sinh trở về với kiếp người. Giờ đây hắn khao khát được làm người lương thiện: “Trời ơi! hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được.” Nhà văn đã cho ta thấy khao khát hoàn lương một cách khẩn thiết và rõ rệt trong con người Chí, hắn đã đặt tất cả hy vọng và niềm tin vào thị Nở. Thị chính là cầu nối để Chí hòa nhập với mọi người và trở về với xã hội của những tấm lòng lương thiện. Chí muốn quay lại làm một người bình thường sống cuộc sống bình dị như trước đây chấm dứt những tháng ngày đen tối và tội lỗi.

Cuộc đời lại không được như mong muốn tưởng rằng đã tìm thấy hơi cháo hành tình yêu của riêng mình nhưng một lần nữa bi kịch lại ập đến, hắn bị thị Nở từ chối, bị cả làng Vũ Đại cự tuyệt quyền làm người. Mặc dù Chí Phèo đã cố gắng hoàn lương, cố gắng để hòa nhập với mọi người nhưng chính định kiến xã hội đại diện là bà cô thị Nở khi nghe thị xin ý kiến về chuyện tình duyên của đôi lứa bà đã dùng tất cả những lời lẽ cay độc để xỉa xói thị, bà thấy nhục cho ông cha nhà bà để rồi thị nghe lời bà cô mà quay lưng lại với Chí. Cánh cửa hoàn lương vừa hé mở đã bị đóng sầm lại không một lần được mở ra nữa bởi duy nhất chỉ có thị quan tâm, cảm thông, chia sẻ với hắn, bao nhiêu hy vọng giờ đây chỉ còn là sự tuyệt vọng. Căm phẫn được đẩy lên đến tột cùng, nhận thức được về cá nhân ngày càng mãnh liệt thôi thúc Chí đi đến nhà Bá Kiến cầm dao đâm chết hắn rồi tự sát. Chí đã nhận thức được kẻ thù thực sự của mình là Bá Kiến. Tiếng đòi làm người lương thiện thống thiết kêu lên trước khi hắn giết cụ Bá còn vang vọng đó đây mỗi khi ta nhắc đến cái tên Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?”. Cái chết là lựa chọn cuối cùng cho sự giải thoát của Chí, đó là cách tốt nhất mà nhà văn dành tấm lòng nhân đạo của mình cho nhân vật. Không chấp nhận được kiếp sống thú vật buộc phải chết để không phạm phải sai lầm, để hy vọng ở một cánh cửa mới Chí có thể sống tốt hơn. Cuộc đời của Chí phản ánh mâu thuẫn giai cấp khốc liệt ở nông thôn Việt Nam không thể giải hòa được, mâu thuẫn ấy càng bị dồn nén xuống tận cùng thì càng dễ bùng nổ và bắt buộc phải được giải quyết theo hướng tích cực nhất.

Như vậy dưới ngòi bút khắc họa nhân vật tài tình của Nam Cao, kết hợp với nghệ thuật trần thuật linh hoạt, sinh động, ngôn ngữ gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân làm cho nhân vật Chí Phèo hiện lên với đầy đủ ngoại hình, tính cách và có diễn biến tâm lí phức tạp. Số phận của Chí Phèo đại diện tiêu biểu cho hoàn cảnh người người nông dân trước cách mạng tháng Tám cũng là cảnh tỉnh cho xã hội phong kiến nửa thuộc địa nếu không thay đổi thì không biết sẽ còn bao nhiêu Chí Phèo con chuẩn bị ra đời. Hình ảnh cái lò gạch cũ và cái nhìn xuống bụng của thị Nở ở cuối chuyện minh chứng cho điều đó. Chí Phèo cùng với tác phẩm cùng tên nhân vật có đóng góp to lớn cho gương mặt và số phận của người nông dân Việt Nam làm nên tên tuổi của Nam Cao.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 120

Có thể nói trong đề tài viết về người nông dân dường như nhà văn Nam Cao là người đến muộn, trước đó đã sừng sững những cái tên nổi trội như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng. Và đây được xem là thử thách ấy được đặt ra khá gay gắt với Nam Cao. Nhưng với một cảm quan hiện thực sắc sảo hiếm người có được, cùng với một tấm lòng nhân đạo cao đẹp và tài năng nghệ thuật độc đáo, Nam Cao cũng như đã vượt qua những thử thách ấy và để lại cho đời những áng văn bất hủ. Ông viết về đề tài nông thôn và người nông dân, ngòi bút Nam Cao đã thực sự đi sâu vào những xác xơ nghèo đói cùng thân phận bi kịch của những con người nghèo khổ dưới đáy xã hội. Và từ những trang viết của Nam Cao, hiện lên là một hình ảnh nông thôn Việt Nam trong những năm cuối cùng của chế độ thuộc địa tiêu điều, heo hút. Và có thể thấy trong xã hội đó giai cấp thống trị tác oai, tác quái và những người nông dân bị đẩy vào ngõ cụt không đường ra. Thông qua truyện ngắn “Chí Phèo” đã tiêu biểu cho các đặc điểm đó trong những sáng tác của nam cao. Nhân vật Chí Phèo cũng như đã trở thành một hình tượng nghệ thuật bất hủ không chỉ trong nền văn học dân tộc mà cao hơn là trong nền văn học nhân loại của thế kỉ XX.

Chí Phèo được xây dựng là một nhân vật sinh ra trong đói nghèo,cô độc, tủi nhục. CHí Phèo chết đi cũng trong tủi nhục,cô độc và đói nghèo. Trong làng Vũ Đại,Chí Phèo đã được coi là một thằng cùng hơn cả dân cùng. Chí không cha, không mẹ, không nhà cửa và cũng không thân thích họ hàng. Có thể thấy cả cuộc đới hắn chưa bao giờ được chăm sóc bởi bàn tay của một người đàn bà. Và người nhặt hắn về là một anh đi thả ống lươn, anh đã nuôi hắn là một bác phó cối không con. Cho đến nỗi ước mong chung sống với một người đàn bà xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn như Thị Nở cũng không được chấp nhận.

Có thể thấy ở đầu tác phẩm, Chí Phèo đã xuất hiện với những tiếng chửi. Chí đã lên tiếng chửi trời tức là đối lập với tạo hóa, Chí chửi đời tức là đối lập với cả xã hội. Nhưng đau đớn hơn nữa, Chí như đã “nghiến răng vào mà chửi cái đứa chết mẹ nào đã đẻ ra Chí Phèo”, và chính điều ấy có nghĩa là Chí như đã đối lập với chính nguồn gốc của mình. Trong tiếng chửi ấy, như đã hiện lên một con người cô độc tuyệt đối. Giữa lúc đó, thì tiếng chó sủa xuất hiện dường như ở Chí chỉ còn mối liên hệ với loài vật mà thôi. Trong cái bầu không khí vắng lặng của làng Vũ Đại, chốc chốc như lại vang lên tiếng chửi của Chí Phèo. Và cả tiếng chó sủa đáp lại và thỉnh thoảng lại ồn lên tiếng gào thét rạch mặt ăn vạ rồi sau đó tất cả lại rơi tõm vào sự im lặng ghê người. Cứ như thế Chí Phèo sinh ra để mà bị người ta khinh rẻ, Chí đã bị quăng khỏi cuộc sống chỉ trông mong vào lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Rồi Chí như chỉ tồn tại cũng trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người. Không có gì đau xót hơn khi Chí Phèo chết mà người ta mừng cả. Quả thật, có thể thấy số phận khốn khổ ấy của Chí Phèo là số phận của lớp người dưới đáy xã hội.

Có thể nói rằng hình tượng Chí Phèo vô cùng độc đáo nhưng không phải là ngẫu nhiên và cá biệt. Và với việc thông qua hình tượng nhân vật này, Nam Cao dường như đã khái quát lên quy luật hủy hoại con người ghê gớm trong xã hội cũ. Con quỷ dữ của làng Vũ Đại này dường như cũng từng có một thời là người hiền lành, lương thiện. Từ tuổi thơ bơ vơ, hết đi ở nhà này lại đến ở cho nhà khác, đến tuổi thanh niên thì Chí Phèo làm canh điền cho Lý Kiến. Và có thể thấy  Chí Phèo sống cuộc sống lao động cực khổ của người cố nông Việt Nam trước Cách mạng. Là một anh nông dân hiền lành ấy đã từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc giản đơn biết bao nhiêu đó là “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải”. Tuy còn trẻ nhưng ở anh cũng như đã phân biệt được tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu xa. Thế nhưng cái bản chất trong sáng, lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo dường như cũng đã bị bọn cường hào và nhà tù thực dân hợp sức bóp chết.

Khi mà trở về làng trần trụi giữa bầy sói, nhân vật Chí Phèo không thể hiền lành mà muốn sống thì phải cướp giật, phải ăn vạ, phải đâm thuê chém mướn. Và muốn được như thế phải liều lĩnh, phải có gan. Những thứ ấy Chí Phèo có được khi đi tìm ở rượu. Rồi Chí luôn say, mà dường như đã say thì hắn làm bất cứ điều gì người ta sai hắn làm. Chí Phèo cũng như đã gây tội ác trong khi say một cách vô ý thức. Linh hồn của Chí Phèo cũng như đã bán cho quỷ dữ mất rồi. Chí Phèo có thể nói là người đau khổ tủi nhục nhất trên đời. Chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố phải dứt ruột để bán con nhưng chị còn có gia đình, và chị vẫn còn có tổ ấm để mà tồn tại. Chí Phèo thì khác, hắn không có gì đành phải bán cái nhân tính của mình để mà sống. Mà Chí đã lại bán rất rẻ mạt. Và mỗi lần chỉ 5 hào bạc để uống rượu mà thôi. Cũng chỉ vì bán nhân phẩm như thế Chí Phèo đã bị tha hóa. Đáng lẽ ra phải đứng về hàng ngũ những người nông dân lương thiện, thì Chí lại trơ thành mối đe dọa của họ. Và dường như đáng lẽ phải đối đầu với Bá Kiến thì Chí lại trở thành chỗ đầy tớ chân tay tin cậy của hắn.

Qua đó nhà văn Nam Cao đã như vạch trần một quy luật đau xót, nghiệt ngã của chế độ cũ: gặp phải kẻ thù xảo quyệt, và nếu như không tỉnh táo thì con người lương thiện bị biến thành đối ngược với đồng loại của mình. Người đọc thật khó có thể quên cái dáng đi ngật ngưỡng, hay cả cái bộ mặt cương cương, vằn ngang, vằn dọc và “đôi mắt gườm gườm trông gớm chết” của Chí Phèo. Dường như cái xã hội tàn nhẫn ấy đã hủy hoại một cách sâu sắc và toàn diện con người chí Phèo.

Và có thể nói chính sự xuất hiện của Thị Nở đã chia đôi cuộc đời Chí Phèo. Nếu như ở chặng đầu Chí bị tha hóa mà không biết. Khi gặp Thị Nở rồi, Chí bắt đầu có ý thức về sự tha hóa và có những nhận thức về việc trượt quá xa loài người của mình. Lúc này, thì dường như bi kịch tinh thần ở Chí mới xuất hiện. Có thể nói cuộc gặp gỡ đã lóe sáng như một tia chớp trong chuỗi ngày tăm tối giằng giặc của Chí Phèo. Thị Nở với một tình yêu thô lỗ nhưng lại rất đỗi chân thành đã gợi lên bản chất con người vốn từ lâu bị vùi lấp trong lòng Chí. Từ đây, mà Chí Phèo dường như mới biết có một người thương mình. Lần đầu tiên trong đời hắn, Chí mới có thể được ăn một bát cháo hành tử tế do người khác đem cho chứ không phải vì đi cướp giật mà có được. Hình ảnh bát cháo hành ấy như mang hương thơm chân thành của tình yêu. Nó như đã gợi lại biết bao ước mơ thầm kín trong Chí Phèo ngày xưa để có một buổi sáng trong đời thật là cảm động. Nhà văn Nam Cao đã phát hiện ở những con người như Chí Phèo một tâm hồn thi sỹ. Có thể nói những âm thanh hết sức bình thường của cuộc đời ngày nào cũng có, thế mà như lần đầu tiên nhân vật Chí mới nghe thấy. Ước mơ trở lại với xã hội loài người của Chí lúc này cũng như trở lên thật mộc mạc và đáng nâng niu. Thị Nở dường như không chỉ là người yêu mà còn là con đường sống của Chí Phèo: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!” Và chính Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị Nở có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được chứ? Và chính họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, lương thiện của những người lương thiện.

Nhưng dường như cái tia chớp lóe lên thật ngắn ngủi và rồi như lại tắt ngấm. Có thể thấy nỗi đau xót ở chí Phèo là ước mơ trở lại làm người không được chấp nhận. Và trong lúc thị Nở trở mặt, ban đầu Chí như không hiểu nổi vì quá tin, vì đang say với tình yêu, say với ước mơ trở lại làm người. Khi hiểu ra rồi, thì Chí Phèo như lại tìm đến rượu, nhưng có thể nói lúc này y càng uống càng tỉnh. Và chính cái phản ứng sinh lí do rượu gây ra không lấn át nổi sự chấn động mạnh mẽ về tâm lí lúc này. Đó không gì khác mà chính là chỗ sâu sắc nhất của ngòi bút Nam Cao khi miêu tả nỗi đau đớn tinh thần ở con người khốn khổ này. Và cái vẻ bề ngoài là thị Nở và bà cô từ chối Chí Phèo nhưng thực chất là Chí Phèo dường như đã bị cả xã hội cự tuyệt. Ai mà tin được Chí Phèo– một con người có cái lí lịch gớm ghiếc đến như vậy, con người chỉ có độc một nghề không hay ho gì là rạch mặt ăn vạ lại có thể thành người lương thiện được. Chính cái xã hội tàn nhẫn ấy đã đẩy Chí Phèo ra ngoài lề cuộc sống, giờ đây lại chặn đứng Chí Phèo lại ngay trên ngưỡng cửa Chí Phèo khi đang trở về làm người lương thiện, ngay khi Chí Phèo đang háo hức gia nhập lại xã hội loài người. Đó chính là một bi kịch lớn, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người – bi kịch xót xa, đau đớn nhất của Chí Phèo.

Kết thúc tác phẩm, Chí Phèo đã như tìm đến tiêu diệt kẻ thù truyền kiếp của mình và tự kết liễu cuộc đời. Có thể nói rằng hành động ấy là tất yếu khi con người đứng trước một tình thế tuyệt vọng. Dường như không muốn tiếp tục làm quỷ dữ cũng không thể làm người lương thiện, Chí Phèo thấy chỉ còn cách tìm đến cái chết. Vì chỉ có cái chết thì mới có thể giải thoát cho Chí Phèo khỏi cái bi kịch đau đớn của đời mình. Cái chết của Chí Phèo chính là lời tố cáo đanh thép nhất đối với xã hội đương thời. Đồng thời khi thể hiện cái chết ấy, Nam Cao cũng bộc lộ phần hạn chế trong tư tưởng của mình. Đó cũng chính là một hạn chế về thế giới quan của nhà văn, điều đó cũng có nghĩa bản thân nhà văn Nam Cao cũng tột cùng bế tắc trong thời kì trước Cách mạng tháng Tám.

Với việc thông qua số phận bi thảm của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao cũng như đã lên tiếng tố cáo mãnh liệt cả guồng máy xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời dường như đã đè nghiến, hủy hoại con người một cách triệt để. Đồng thời qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn dường như cũng bộc lộ một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc khi đồng cảm với bi kịch đau xót ở lớp người như Chí, khi nhìn thấy tia sáng lương thiện hồi sinh ở nhân vật này. “Chí Phèo” thật xứng đáng được xem là hình tượng văn học bất hủ, vô cùng độc đáo và có ý nghĩa khái quát sâu rộng này.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 121

Nam Cao là một nhà văn của hiện thực. Ngòi bút của ông luôn luôn viết để “vạch khổ”, để ca ngợi những con ngưoiừ khổ “cùng đường” nhưng có thiên chất trong sáng. Mặc dù ngòi bút tả thực ấy hoạt động trong thời gian mà người ta cho rằng là “cái mốc” cuối của văn học hiện thực. Chí phèo đã ra đời trong hoàn cảnh ấy. Như một hiện tượng đột xuất khiến ai cũng phải ngỡ ngàng, kinh ngạc. Chí Phèo là một sự bứt phá, đỉnh cao chẳng những với toàn bộ sự nghiệp văn học của Nam Cao mà còn cả đối với nền văn xuôi hiện thực lại một lần nữa chói lòa trên đài văn chương, đánh dấu thời kỳ sinh ra nó trở thành thời kỳ huy hoàng mới, đỉnh cao hơn trước đây. Phải thừa nhận rằng, Nam Cao không thể xuất sắc được thêm nữa mà ông viết, viết để xây dựng nên “Chí Phèo” một chàng trai lương thiện đồng thời cũng là một con quỷ dữ.
Xây dựng nên hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã viết nên một khúc nhạc buồn, một bài ca về một cuộc đời bi kịch cứ nối tiếp bi kịch. Chí và cuộc đời Chí là đại diện của sự khổ đau đến tột cùng.

Sự đau khổ ấy có lẽ đã được báo trước bởi số phận của một đứa trẻ “tứ cố vô thân”. Ngay từ khi sinh ra, Chí đã bị vứt bỏ trong cái lò gạch cũ, “một anh đi thả ống lương gần một cái lò gạch bỏ hoang thấy hắn trần chuồng và xám ngắt trong một cái váy đẹp”. Như vậy cha mẹ hắn đã ngoảnh mặt đi để tuổi thơ của hắn gắn liền với cái danh không cha, không mẹ, một đứa con hoang tội nghiệp. Đó cũng là một nỗi chua xót của đời người khi sống mà không biết tổ tiên, gốc rễ. Một số kiếp bị ghẻ lạnh từ khi mới lọt lòng.

Chí lớn lên trong sự đùm bọc, cưu mang của nhiều người tốt bụng. Anh thả ống lương, bà góa mù, bác phó cối. Có lẽ nhờ sinh trưởng trong môi trường nông dân thuần túy mà Chí được thừa hưởng những phẩm chất tốt đẹp. Nếu biết trước được tương lai, thì có lẽ Chí đã biết rằng hai mươi năm đầu đời là hai mươi năm hạnh phúc.

Hai mươi năm đã là một anh trai hiền lành, chất phát có mơ ước bình dị, giàu lòng tự trọng và vô cùng lương thiện. Cho tới khi chỗ đựa cuối cùng là bác phó cối qua đời. Chí trở thành một kẻ không nơi nương tựa, phải đi bán rẻ sức lao động cho nhà Bá Kiến. Chính trong thời gian ấy, Chí đã bị Bà Ba “để ý”, bắt “bóp chân mà cứ đòi bóp lên trên, lên trên nữa”. Khi phải làm việc sai trái ấy, chí “ vừa làm vừa run”, và anh thấy nhục nhã, ghê tởm hơn là thấy thích. Điều này lại một lần nữa khẳng định tư chất ngay thẳng của Chí.

Không may cho anh, Bá Kiến đã phát hiện ra và nổi cơn ghen, rồi vô cớ đẩy Chí đi tù. Đó là mốc son quan trọng đánh dấu cuộc đời Chí đã sang trang khác. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho bọn thống trị phong kiến để dồn ép những người dân khốn khổ tới “bước đường cùng”. Những hành hạ, đòn roi của nhà tù đã biến một con người lương thiện thành một kẻ lưu manh, côn đồ, và hơn thế là một con quỷ dữ” có hình hài “nửa người, nửa ngợm”.

Bằng ngòi bút sắc sảo, Nam Cao đã vẽ ra cho người đọc thấy chân dung, mới của Anh Chí – Chí Phèo. “Hắn về lớp này trông khác hẳn. Cái đầu trọc lốc, cái răng trắng hớn, cái mặt thì rất cơng cơng… “ Có người cho rằng “mặt mà câng câng” thì còn là mặt người, nhưng “cái mặt mà cơng cơng” thì không rõ đó là bộ mặt của con vật gì. Như vậy , Chí đã mất hẳn “nhân tính”, đâu còn là anh Chí khỏe mạnh, đẹp trai của ngày xưa. Cái mặt ấy đầy rẫy ngang dọc những vết sẹo, dấu tích của những lần ăn vạ, chém giết. Đời hắn là một cơn say dài vô tận, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, chửi nhau, chém giết, cướp bóc cũng trong lúc say. Tới đây, Chí đã thực sự là một kẻ lưu manh, côn đồ, sẵn sàng nhúng tay vào tội ác. Đau xót hơn, nhiều kẻ đã lợi dụng sự u mê của Chí, sai khiến hắn làm những việc sai trái, kể cả giết người. bàn tay hắn đã từng “đập nát bao cảnh yên vui, làm đổ máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.

Chí đã bán linh hồn mình cho quỹ dữ, chỉ để lại cái thân xác khật khưỡng vì say rượu và hung hăng như con thú say máu. Chí mất hết cả nhân tính lẫn nhân tính.

Nhưng Nam Cao chưa dừng ở đó, cái đặc biệt đưa Chí Phèo lên hàng “kiệt tác” là ở đó, Nam Cao đã chú ý đào sâu vào nội tâm của Chí, đào sâu tới chỗ le lói ánh sáng trong sâu thẳm của tăm tối và u mê.

Chí là một con người lương thiện, giá mà con người ấy không bị bỏ rơi, giá mà Chí không bị đẩy đi tù, thì có lẽ, giờ đây Chí đã là một con người khác hoàn toàn. Chai ôi!

Có thể dễ dàng thấy được ấn tượng mạnh mẽ mà người đọc cảm nhận được đó là “tiếng chửi” mở đầu cho thiên truyện. Khó mà nói lên hết sự tài tình của Nam Cao khi cố ý dẫn dắt cho “tiếng chửi” mở đầu cả một tác phẩm lớn như thế. Nhưng đó cùng là một thủ pháp nghệ thuật trong cách nét của Nam Cao. Nhà văn để nhân vật xuất hiện trong tâm trạng điển hình nhất. Vừa gây sự tò mò cho người đọc, vừa làm nổi bật tư tưởng của tác phẩm.

“Chí phèo vừa đi vừa chửi, cứ rượu xong là hắn chửi, bắt đầu hắn chửi trời, có hề gì trời có của riêng nhà nào, rồi hắn chửi đời, đời là tất cả nhưng chẳng là riêng ai, rồi hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại, nhưng mọi người ai cũng như rằng chắc nó trừ mình ra, tức mình hắn chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, nhưng cũng không ai đáp lại, thế có khổ cho hắn không. Cuối cùng hắn chửi đứa chết mẹ nào để ra thân hắn. Phải chăng đó chỉ là những câu chửi bâng quơ. Không, không phải vậy! làm sao những câu chửi bâng quơ lại văn vẻ, thứ tự như thế.

Tiếng chửi chính là phản ứng của y trước cuộc đời, thể hiện tâm trạng đầy bức bối, bi kịch của Chí. Chửi là để giải thoát sự tan nát, đau đớn. Đó là tâm trạng bất mãn cao độ của một con người đã bị làng xóm, xã hội gạt ra khỏi cộng đồng. Trong cơn say, hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thía “nông nổi” khốn khổ của thân phận. Đó là “nông nỗi” không có người nào chịu chửi lại hắn. Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Hoặc cũng có thể là bởi họ không chấp hay không muốn dây với một thằng say rượu, một kẻ lưu mạnh, mọt thằng cốcùng liều thân như Chí. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng là lũ vọng có ai đó chửi lại. Tiếng chửi là khao khát liên tục được phát đi nhưng chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Sự lạnh lùng đến nhẫn tâm của xã hội loài người đã khiến cho tâm hồn hóa đá của Chí Phèo cũng phải bật khóc. Chưa nói đến giao tiếp bình thường, chỉ chửi thôi, cách giao tiếp thô bỉ, hạ đẳng nhất người ta cũng không bằng lòng với chí. Họ đâu còn coi chí là người, trong mắt họ, Chí chỉ là một con vật ghê tởm, đáng sợ, cần phải tránh xa, với họ Chí không xứng đáng được nghe một câu chửi. Chỉ còn lại một mình Chí trong sa mạc cô đơn: “Hắn chửi rồi lại nghe”, “chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu”. Tiếng chửi bộc lộ sự bế tắc, cô đơn tột cùng của chí, đồng thời thể hiện đỉnh cao của tấn bi kịch, bị từ chối quyền làm người của Chí.

“Vạch khổ” cho ngưoiừ nông dân, Nam Cao không chọn những đề tài đã xưa cũ, mà chọn cho mình một con đường riêng, mọt phương diện riêng. Người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải là ở chỗ, tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một con số không tròn trĩnh. Không cha không mẹ, không họ hàng, thân thích, không tấc đất, cắm dùi, cả đời chưa từng được chăm sóc bởi bàn tay người đàn bà… mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rách nát bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội loài người, phỉa sống kiếp sống tối tăm, thú vật. Phát hiện mới mẻ, độc đáo của Nam Cao còn cho chúng ta hiểu rằng: Cướp đi người khác bất cứ thứ gì cũng là tội ác, nhưng cướp đi con người hạnh phúc, ước mơ, bản chất lương thiện là tội ác dã man nhất, dã man hơn cả tội giết người.

Với chí Phèo, Nam Cao thực sự đã vượt trội hơn so với “Đàn anh Tắt Đèn – Ngô Tất Tố; “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan cũng khó mà so bì được với “Chí Phèo”, Bởi chăng, nếu Chị Dậu chỉ mất chó, mất con, thì Chí mất cả nhân hình lẫn nhân tính. Nếu chị Dậu chỉ chật vật, bôn ba vì sưu thuế, thì Chí mất cả quyền làm người. Nếu Chị Dậu tuy khổ cực nhưng vẫn còn được hàm xóm, láng giềng yêu quý, giúp đỡ thì Chí mãi mãi cô đơn vì bị hắt hủi. Chỉ vậy thôi, ta đã thấy “Chí Phèo” quả là “đứa con tinh thần” đắt giá, một hình tượng trên cả ngàn hình tượng. Nam cao là một thiên tài!

Nhân Vật Chí Phèo được ví như một con sông. Khô cạn. Cả cụoc đời con người ấy cũng trống rỗng, khô cạn như con sông ấy. Nhưng Nam Cao đã đem mưa đến, tưới mát cho tâm hồn Chí, dòng sông kia lại tràn đầy và Chí hồi sinh như những hạt giống nảy mầm. Đó là cuộc hội ngộ của Chí Phèo với Thị Nở. Thị Nở là một người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn, mãi đến ba mươi tuổi vẫn ế chồng, tính cách thì dở hơi, lại có dòng dõi ma hủi. Ở người đàn bà này, hội tụ mọi sự bất hạnh của người phụ nữ. Vậy mà khi họ ăn nằm với nhau, mọi sự đã thay đổi. Đây là mốc son thứ hai thay đổi cuộc đời Chí.

Sau cuộc gặp gỡ, Chí Phèo bị ốm rồi được thị Nở chăm sóc. Lần đầu tiên, từ những ngày ở tù về, Chí thấy mình hoàn toàn tỉnh táo và cũng là lần đầu tiên anh nghe và nhận ra những âm thanh quen thuộc của cuộc sống đời thường : “Tiếng anh chài gò thuyền đuổi cá”, “tiếng chim hót trong lành”, “tiếng người nói xôn xao”.. và “lòng hắn mơ hồ buồn”. Chí như vừa mới được sinh ra, tâm hồn Chí còn non nớt như một đứa trẻ, lần đầu biết nghe, lần đầu biết cảm nhận và bộc lộ xúc cảm. Đây là một tâm trạng rất lạ của Chí, đã nhiều năm trôi qua, hắn lần đầu tỉnh táo để nghĩ về cuộc đời mình, rồi chua xót nhận ra, đã có một thời xa xăm; hắn đã từng mơ ước “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, có tiền thì mua con lợn, khá giả thì tậu dăm ba sào ruộng….”. Người ta mơ ước được giàu sang, phú quý, Chí chỉ có một mơ ước thật bình dị, giản đơn là được làm một ngưoiừ lương thiện, có một mái ấm đơn xơ nhưng đó cũng là mơ ước không thển ào trở thành hiện thực. Hắn căm ghét quá khứ, căm ghét vợ chồng Bá Kiến, căm ghét thành kiến xã hội. Chí xót xa vì hối hận cho quãng đường đầy bất hạnh và gây nhiều tội ác của mình.

Từ trong sâu thẳm ý thức, Chí vẫn không ngừng hi vọng. Và sự xuất hiện của Thị Nở như ánh sáng của ngọn đèn, chiếu vào cuộc đời tối tăm, giằng giặc của CHí. Thị như cây cầu nối, như bàn tay đưa ra cứu vớt cuộc đời anh. Thị nở mở dường cho anh men theo bờ vực thẳm dể trở lại làm người. Tiếng gọi của tình yêu cũng là tiếng gọi của đời lương thiện. Chí mong ngóng Thị Nở và khao khát cùng thị xây dựng một gia đình.

Hình ảnh “bát cháo hành” là thuốc giải độc cho cuộc đời Chí, và hiện thân của tình yêu thương, là hương vị của tình yêu, tình người và tình đời. Chí ngạc nhiên, rồi cảm động (thấy mắt hình như ươn ướt), nỗi bâng khuâng vui buồn lẫn lộn, và nhất là anh thấy ăn năn “Bởi đầy là lần đầu tiên trong đời, hắn được người ta cho…”. Hắn cảm nhận được sự quan tâm chăm sóc của Thị Nở, một sự chăm sóc tuy còn vụng về nhưng rất đỗi yêu thương, chân thành. Hương thơm bát cháo hành đã tẩy rửa những ô nhục, đã bóc trần sạch sẽ cái mặt nạ quỷ dữ và đưa Chí trở lại làm người. Bát Cháo hành đã đánh thức phần người tốt đẹp còn sót lại trong Chí và con quỷ dữ đã chấp nhận từ bỏ bóng tối để bước ra và vươn lên trong anh sáng. Chí bỗng khao khát, khao khát mãnh liệt cuộc đời lương thiện. Đó cũng là chi tiết thể hiện tình cảm chứa chan, nhân đạo của nhà văn, đối với nhân vật của mình. Cái biệt tài của Nam Cao là ở chỗ Cách xử lý tình huồng, co dãn dung lượng truyện, để từng câu, từng chữ, không thừa, không thiếu, biến hóa khéo léo, linh hoạt. Đây cũng chính là lời giải thích cho việc ông cân bằng câu văn ra sao. Nam Cao chỉ dành hai mươi năm đầu đời của Chí vẻn vẹn vài ba câu văn ngắn ngủi, trong khi ông dành nửa tác phẩm để viết về năm ngày cuối đời của Chí. Năm ngày hạnh phúc ngắn ngủi và mong manh.

Dù sao thì Chí cũng đã có năm ngày để hạnh phúc, năm ngày để sống thực sự lương thiện. Không say, không chửi, không cần quấy, không cướp bóc, không ăn vạ..

Nhưng chỉ biết làm gì đây trước thành kiến xã hội? Liệu những con người trước đây vốn sợ hắn và xa lánh hắn có chấp nhận hắn trở về?

Tác giả đã chú ý tới nhân vật bà cô Thị Nở, đại diện cho định kiến xã hội tàn ác đã phủ nhận sự tồn tại của Chí và quyết liệt ngăn cản hạnh phúc của cô cháu gái. Điều đó đã khiến Chí suy nghĩ rất nhiều, hiểu ra rất nhiều và cõi lòng anh tan nát. Anh đã cố gắng níu kéo, nhưng tình yêu đã ngoảnh mặt đi, cự tuyệt, từ chối anh. Tất cả đã sụp đổ, Chí Phèo nơi vào tình thế tuyệt vọng, đau đớn, vật vã trong bi kịch tinh thần của một con người sinh ra là người mà không được làm người.

Nhà văn đã miêu tả một lần uống rượu đặc biệt nhất trong cuộc đời Chí. Chí lại lôi rượu ra uống, hắn lại càng thấy tỉnh, hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành”. Đó là hương vị khó phai mờ nhất trong cuộc đời anh. Chính vì thế, nó lại càng gợi nhắc đến nỗi đau bị cự tuyệt những lời lẽ chua chát, cay đắng của Bà cô Thị Nở. Hắn bưng mặt khóc rưng rức, một kẻ sẵn sàng rạch mặt ăn vạ, đâm chém người khác mà lại biết khóc. Có thể nói khi tỉnh rượu Chí Phép đồng thời ngộ ra hai sự thật: Một là anh muốn làm người lương thiện, hai là anh không thể trở thành người lương thiện được nữa, và cách giải quyết cuối cùng chỉ có thể là cái chết. Đúng là một sự thật nghiệt ngã, phũ phàng. Đau xót thay Chí càng muốn vươn lên sống thì cái chết lại càng tới gần.

Chí quyết định xách dao đi trả thủ. Hình tượng của Chí ngày càng trở nên to lớn, to lớn trước hết về khao khát, và to lớn sau cùng là sự quyết liệt trong hành động trả thù Bá Kiến – cụ tiên chi của làng Vũ Đại. Nếu soi sét kỹ tác phẩm, ta sẽ thấy rằng giữa Chí Phèo và Bá Kiến có một sợi dây giằng buộc vô hình. Đâu phải tình cờ mà vừa ra tù hôm trước, hôm sau Chí đã xách vỏ chai “tới nhà Bá Kiến.”, “gọi tận tên tục ra mà chửi” . Cũng đâu phải ngẫu nhiên khi mỗi lần uống say, Chí lại lảm nhảm tới nhà cụ Bá để “đòi nợ”. Càng không phải ngẫu nhiên khi Chí lăm lăm cây dao định tới nhà Thị Nở “để đâm chết nhà nó” thì lại xông vào nhà Bá Kiến. Rõ ràng, khi ở tù về, mặc dù đã biến chất, và hoàn toàn bại liệt về ý thức, trở thành công cụ của bọn cường hào. Nhưng trong đáy khối óc dày đặc u tối ấy, vẫn âm ỉ mối thù giai cấp với kẻ đã cướp đi của hắn quyền làm người và phẩm giá người. Giữa Chí Phèo và Bá Kiến vẫn còn nguyên “món nợ” chưa thanh toán. Vì vậy trong mối quan hệ này vẫn chất chứa những mối nguy hiểm khó lường Chí Phèo đứng trước mặt Bá Kiến nói rõ ràng “Tao không cần tiền!” Tao muốn làm người lương thiện… Ai cho tao lương thiện… Làm sao để mất các dấu sẹo trên mặt này?…”

Những câu hỏi dồn dập, như chất chứa bao cùng quẫn, căm phẫn, tuyệt vọng, bế tắc. Đồng thời thể hiện khát khao cháy bỏng của người dân cùng khốn khổ được sống lương thiện. Bi kịch của người dân cùng khốn khổ được sống lương thiện. Bi kịch của Chí Phèo đã lên đến đỉnh điểm và đòi hỏi phải được giải quyết. Lưỡi dao rung lên sáng loáng là hành động cương quyết lấy máu rửa thù. Lão cáo già lọc lõi Bá Kiến phải chết, để đền tội cho những tội ác dã man mà hắn đã gây ra.

Nhưng ngay sau đó, Chính nhân vật đáng thương của Nam Cao lại tự sát. Để Chí Phèo chết, Nam Cao đã xây dựng nên một tình huống thật hợp lí. Khi mà ý thức nhân phẩm trở lại, Chí đã nhất quyết không bằng lòng tiếp tục sống cuộc sống thú vật. Nên anh đã chọn cách giải quyết là cái chết để bảo toàn phẩm giá và thiên lương. Chí Phèo chết ngay trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời lương thiện. Cái chết của Chí Phèo biểu nhiên không làm xúc động những người dân làng Vũ Đại, nhưng nó lại để lại trong lòng chúng ta, những ai biết yêu thương và trân trọng con ngưoiừ một nỗi buồn thật ghê gớm. Cái chết ấy đã kết thúc một cuộc đời, đặt dấu chấm hết cho một bi kịch số phận và là âm hưởng cứ dư mãi trong lòng bạn đọc.

Thực ra, khi viết về Chí Phèo, Nam Cao còn muốn bao quát hóa hình tượng nhân vật này thành cả một tầng lớp nhân dân lao động bị dồn ép, đè nén bởi các thế lực, thống trị tàn ác. Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu, là hình tượng điển hình cho người nông dân trước cách mạng tháng tám. Những xung độ giai cấp, những mâu thuẫn trong lòng xã hội ở Chí Phèo tuy không sôi sục như ở Tắt Đèn, nhưng đó là bầu không khí u ám có tính tia chớp lóe lên báo hiệu trước cơn bão đang về. Các kết cục của Chí cũng cho thấy khi người nông dân khốn khổ bị đẩy tới chỗ cùng thì có thể trở nên đáng sợ như thế nào. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã cảm thấy tính khốc liệt của mối xung đột giai cấp ở nông thôn, không có gì có thể xoa dịu. Càng nén xuống thì càng dễ bùng nổ, và khi nó nổ bùng thì thật đáng sợ cho bọn thống trị. Tính điển hình của hình tượng nhân vật Chí Phèo còn ở điểm “từ sự bóc lột của Bá Kiến với Chí Phèo mở rộng ra là sự tước đọat, tra tấn của bè lũ thống trị lên những con người thấp cổ, bé họng “kêu trời không thấu, kêu đất không thương”. Nam Cao đã sắp đặt tất cả để một khi một người vùng lên thì tất cả sẽ cùng lên theo đó.

Tác phẩm “Chí Phèo” đã trở thành “đệ nhất kiệt tác”, “bó đuốc” đi đầu của làng văn học hiện thực không chỉ nhờ nội dung, tư tưởng nhân sinh của nó mà còn nhờ các đóng góp của nghệ thuật.

Nam Cao đã thành công về mặt xây dựng nhân vật, đặc biệt là nhân vật mang tính điển hình, sắc nét, vừa có ý nghĩa tiêu biểu vừa có cả tính độc đáo, gây ấn tượng mạnh. Đặc biệt thành công ở nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật. Một phong cách nghệ thuật rất riêng của Nam Cao đó là chủ tâm tự nhưng vẫn rất logic, chặt chẽ. Kết cấu vòng tròn thể hiện tính quy luật về hiện tượng Chí Phèo, khiến ý nghĩa của tác phẩm thêm sâu sắc, hấp dẫn, nhiều tình tiết bất ngờ gay cấn, kịch tính. Ngôn ngữ sống động, gần gũi. Giọng điệu, cách trần thuật biến hóa có sự đan xen lẫn nhau. Cả hai mặt nội dung và nghệ thuật đều rất hoàn hảo, điều này tạo nên một tác phẩm có một không hai trong kho tàng văn học Việt Nam. Nam Cao xứng đáng là một trong năm tác giả đã bước đi trên đài danh vọng được mọi người yêu kính và ghi nhớ.

Cho tới tận bây giờ, câu nói “Ai cho tao lương thiện” vẫn ám ảnh người đọc bởi lẽ thống thiết, bi ai, đầy day dứt và chua xót. Có lẽ nếu ai đã từng đọc “Chí Phèo” vẫn suốt đời sẽ không bao giờ quên một anh Chí Phèo say khướt vừa đi, vừa chửi cũng như sẽ không thể quên một hình tượng nhân vật làm chấn động cả giới văn học một thời.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 122

Con người đến với văn chương từ muôn vạn nẻo đường, trên mọi cung bậc cảm xúc nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người. Một tác phẩm trác việt thực sự chính là viết về con người, làm bất hủ sự sống nhân vật. Tác phẩm “ Chí Phèo” của Nam Cao đã trở thành tác phẩm trác việt khi làm sống mãi trong lòng người đọc hình ảnh nhân vật Chí Phèo là đại diện cho tầng lớp nhân dân trong xã hội Việt Nam những năm trước cách mạng bị chà đạp dẫn đến tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính.

Với Nam Cao, văn học chân chính bao giờ cũng là sự thật ở đời, đòi hỏi người nghệ sĩ dùng thực tài, thực tâm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc để hướng đến con người, vì con người mà lên tiếng. Bởi lẽ, “nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”.

Chính quan niệm sáng tác mới mẻ đã giúp Nam Cao có chân cảm và hướng ngòi bút vào những con người ở tầng lớp dân nghèo. Ông thường viết về những cái xoàng xĩnh, nhỏ nhặt nhưng đằng sau đó là những triết lý nhân sinh sâu sắc. Viết về con người, ông đi sâu vào khám phá thế giới “ con người bên trong con người” theo kết cấu, mạch tự sự đảo lộn không gian, thời gian bằng một giọng văn dửng dưng, lạnh lùng nhưng chân chứa yêu thương, đằm thắm tình cảm. Tác phẩm “ Chí Phèo” chính là tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật này của Nam Cao.

“Chí Phèo” là tác phẩm viết về đề tài người nông dân, một đề tài cũ của dòng văn hiện thực phê phán trước cách mạng. Trước Nam Cao, đã có Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,… là những đại diện tiêu biểu viết về người nông dân là đại diện cho mọi khổ đau của con người, là nạn nhân bất lực của xã hội. Nhưng, Chí Phèo vẫn sống vì nhà văn đã khai thác đến đỉnh cao của nạn nhân: bị tha hóa cả nhân hình và nhân tính. Qua đó, nhà văn sâu cay tố cáo xã hội tàn nhẫn và mong muốn tìm lại giá trị tốt đẹp trong phẩm chất người nông dân.



Ngay từ khi mới sinh ra, “ con số không đã bao trùm lên lá số tử vi của Chí Phèo” ( Nguyễn Đăng Suyền). Hắn sinh ra đã bị bỏ rơi, như một món hàng truyền tay từ kẻ này sang kẻ khác, từ tay anh đi thả ống lươn, bà goá mù, bác phó cối đến tay gia đình Bá Kiến rồi lại vào tù vì cơn ghen vu vơ của cụ Bá. Xã hội bất công đã cướp đi của Chí một người mẹ, một người cha, bỏ hắn lại bên cái lò gạch cũ, mở ra một số phận bi kịch không chỉ bị bóc lột về sức lao động mà còn bị chà đạp về nhân phẩm khi bà Ba gọi lên bóp chân mà cứ bắt bóp lên nữa… Có lẽ vì vậy, nhà văn gợi mở về quá khứ Chí Phèo bằng đầu tiên toàn từ “ một”: “ một anh đi thả ống lươn”, “ một buổi sáng tinh sương”, “ một cái váy đụp”, “ một bà goá mù” như dự báo một cuộc đời đầy cô đơn, bất hạnh.

Bảy, tám năm sau Chí trở về làng ngật ngưỡng bước đi như một tên lưu manh, một tên đầu bò chính cống. Hắn “ đặc như một thằng săng đá”. Cái răng cạo trắng hớn, ngực chạm trổ rồng phượng và một ông tướng cầm chùy, mặt cơng cơng, mắt gườm gườm trông gớm chết.

Mới về hôm trước, hôm sau người ta đã thấy Chí ngồi uống rượu với thịt chó từ trưa đến xế chiều rồi xách chai đến nhà Bá Kiến trả thù. Hắn chửi cả nhà cụ Bá, đánh nhau với Lý Cường rồi bất ngờ đập chai vào cột cổng, rạch mặt, lăn lóc ăn vạ. Nhưng rồi, hắn bị Bá Kiến dụ dỗ và trở thành tay sai đắc lực trong tay cụ Bá. Hắn triền miên trong cơn say, ăn trong lúc say,ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say để rồi say nữa, say vô tận. Hắn làm mọi việc trong lúc say và làm bất cứ thứ gì người ta sai hắn. Hắn ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại những người dân lương thiện, “ hắn phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của biết bao người dân lương thiện”. Cái mặt hắn vàng vàng mà muốn xạm mầu gio, đó không còn là mặt người mà là mặt một con quỉ dữ vằn dọc ngang không biết bao nhiêu là sẹo…

Chí Phèo đã chính thức trở thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại. Hắn không chỉ bán đi bộ mặt mà giờ đây, hắn còn bán cả linh hồn cho quỉ dữ. Hắn bị tất cả mọi người xa lánh, bị cả xã hội cự tuyệt quyền làm người. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại nhưng chẳng ai chửi lại với hắn, đáp lại chỉ là những tiếng chó sủa. Hắn đành chửi đứa nào sinh ra hắn cũng là chửi chính bản thân mình. Nỗi đau thân phận, nỗi cô đơn tột cùng được dồn nén trong tiếng chửi như một nỗi niềm khắc khoải khao khát được giao tiếp. Nhưng cả làng Vũ Đại không ai cho hắn làm người. Hắn bước đi lảo đảo thảm hại dưới trăng – một biểu hiện của sự mất thăng bằng toàn diện và dữ dội. Tâm hồn Chí như cơn lắc đơn trong thời kì dao động mạnh mẽ nhất của tâm, sinh lí trong các thái cực đối nghịch nhau. Sợi dây cuộc đời mỏng manh, hai vực sáng tối nhập nhoè trong cơn say, cái ác như con thú dữ há ngoác miệng sẵn sàng nuốt cả con người Chí.

Bước chân lảo đảo thảm hại dưới trăng đưa Chí đến gặp Thị Nở và mở ra một chương mới cho cuộc đời tăm tối của Chí. Người đàn bà gàn dở ấy đã giúp Chí tỉnh rượu, tỉnh ngộ và khao khát trở về làm người lương thiện. Lần đầu tiên trong cuộc đời, hắn nhận ra cái lều ẩm thấp của mình. Lần đầu tiên hắn cảm nhận được thanh âm của cuộc sống, tiếng chim hót, tiếng người nói, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Lần đầu tiên hắn nhận thức được quá khứ, hiện tại, tương lai của hắn. Quá khứ là mơ ước có một gia đình nhỏ, chồng cuốc mướn, vợ dệt vải. Hiện tại là ốm đau, bệnh tật. Và tương lai là cô độc… Hắn thấy sợ. Hắn mong muốn được trở về làm người lương thiện. Hắn muốn sống trọn vẹn là một con người trong khoảng còn lại của cái dốc bên kia cuộc đời.

Thị Nở vào với một nồi cháo hành còn nóng nguyên khiến Chí ngạc nhiên, xúc động rồi ăn năn mong muốn được lương thiện. Lần đầu tiên hắn được cho mà không phải doạ nạt hay cướp giật, lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi tay một người đàn bà và cũng là lần đầu tiên, hắn được nếm thử cháo hành để nhận ra cháo hành ăn rất ngon. Hắn cảm động, hắn muốn làm hòa với mọi người, hắn thấy lòng mình thành trẻ con và muốn làm nũng với thị như với mẹ. Hắn thấy yêu thị, cảm thấy thị có duyên. Tình yêu của Chí không đơn thuần là tình yêu dành cho một người phụ nữ mà còn là tình đời, tình người. Thị Nở là chiếc cầu nối để Chí trở về với xã hội loài người.



Thị Nở là vị thiên sứ mà Nam Cao đã phái tới để đánh thức cuộc đời Chí Phèo. Thị cùng tình yêu của thị gửi gắm trong bát cháo hành như một liều thuốc kháng sinh mạnh trong một ca phẫu thuật ghê người, như chiếc tháng từ bi cứu vớ cuộc đời Chí khỏi vực thẳm, như một bản lề khẽ xoay ngang mở ra một quyết định mới của cuộc đời tuy cứu được một tâm hồn nhưng không thay đổi được số phận.

Thị Nở vốn dở hơi. Ở với Chí năm hôm đến hôm thứ sáu thị bỗng nhớ rằng mình có một người cô ở đời. Thị nghĩ “ hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Bà cô hoảng hốt. Bà uất ức. Bà chua xót. “ Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ.” “ Ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!”. Thế rồi, Thị Nở đến và mang tất cả lời bà cô chửi vào mặt Chí. Ban đầu, hắn thấy thú vị quá, lắc lư cái đầu cười. Nhưng rồi hiểu ra, hắn ngẩn người, chạy tới níu tay thị nhưng bị gạt ra, Chí đau đớn tìm đến rượu để khoả lấp nỗi buồn. Nhưng càng uống càng tỉnh. Tỉnh, chao ôi buồn. Hắn ôm mặt ngồi khóc rưng rức như một đứa trẻ bị cướp giật là tột cùng của nỗi đau thân phận không thể kìm nén.

Phẫn uất, tuyệt vọng, Chí xách dao đến định đâm chết bà cô Thị Nở nhưng tiềm thức sâu xa nhận ra kẻ gây ra mọi bi kịch là Bá Kiến, Chí đến, đâm chết Bá Kiến rồi tự tử. Chí Phèo, từ một kẻ mất trí, là tay sai đắc lực của bọn thống trị giờ đây trở thành người nô lệ thức tỉnh, là một đầu óc sáng suốt nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát cao vượt ra khỏi sự gian xảo của Bá Kiến: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất hết những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể trở thành người lương thiện nữa…”

Hành động giết Bá Kiến rồi tự sát là một quy luật tất yếu. Đó là tột cùng của nỗi bế tắc, tuyệt vọng, là lối giải thoát duy nhất cho cuộc đời Chí. Ngòi bút tỉnh táo, sắc lạnh của nhà văn đã báo hiệu cho hắn biết kẻ thù bây giờ của hắn là cả một xã hội vô nhân tính và cái chết là sự lựa chọn duy nhất. Qua đó, Nam Cao mạnh mẽ tố cáo chế độ xã hội bất công và thể hiện mối xung đột giai cấp gay gắt của nông thôn Việt Nam trước cách mạng với quy luật tất yếu “ tức nước vỡ bờ”.

Sêđrin từng khẳng định: “ Văn học, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.” Tác phẩm “ Chí Phèo” với hình tượng nhân vật Chí Phèo chính là một biểu hiện của sự bất tử của nền văn học Việt Nam.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 123

Chí Phèo là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nam Cao và của nền văn học hiện thực phê phán. Tác phẩm viết năm 1941, lúc đầu có tên là Cái lò gạch cũ. Nhà xuất bản Đời mới tự đổi tên thành Đôi lứa xứng đôi. Khi in trong tập Luống cày tác giả đổi tên thành Chí Phèo. Nội dung viết về người nông dân nghèo bị xã hội đẩy vào bước đường cùng, bị tước đoạt quyền làm người.

Chí Phèo là đứa trẻ mồ côi lớn lên hiền lành. Anh làm canh điền cho Bá Kiến. Vô cớ, Chí Phèo bị vào tù (nhà tù thực dân). Khi ra tù, Chí Phèo trở thành kẻ lưu manh,  thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Kể từ đó, cuộc sống của Chí Phèo chìm trong bóng tối cho đến khi Chí gặp Thị Nở. Bằng tình yêu thương, Thị Nở đã thức tỉnh lương tâm, thức tỉnh khát vọng sống, thức tỉnh quyền làm người vốn từ lâu đã bị lãng quên ở Chí Phèo. Thế nhưng, Chí Phèo lại bị xã hội từ chối. Quá tuyệt vọng, Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát.

Toàn bộ bức tranh cuộc sống con người ở làng Vũ Đại được Nam Cao miêu tả khá kĩ lưỡng qua truyện ngắn Chí Phèo. Đó là vùng đất “quần ngư tranh thực” theo lời của ông thầy địa lí đã nói. Bọn cường hào thống trị chia phe và tìm cách xâu xé lẫn nhau, dựa vào quyền lực để đè nén, ức hiếp nhân dân. Mâu thuẫn giữa người nông dân và bọn cường hào, địa chủ là mâu thuẫn chính và quyết liệt Làng Vũ Đại chính là hình ảnh thu nhỏ chân thực của nông thôn Việt Nam với nhiều mâu thuẫn thối nát.

Mới sinh ra, Chí Phèo đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ, trong một đêm rét lạnh. Tuổi thơ Chí Phèo không biết cha mẹ mình là ai, phải sống bơ vơ vất vưởng, ở hết nhà này đến nhà khác. Lớn lên, Chí đi ở cho nhà Bá Kiến, không có tài sản gì. Chí Phèo được miêu tả với một số phận bất hạnh, thật đáng thương.

Bản chất vốn có của Chí thật hiền lành như cục đất. Đó cũng là bản tính chân chất của người nông dân Việt Nam xưa nay. Hắn chăm chỉ lao động, tự sống bằng đôi tay cần mẫn của mình. Hắn có mọt tâm hồn tinh khôi, trong sáng như dòng nước mát. Hắn có ý thức sâu sắc về nhân phẩm của mình, giàu lòng tự trọng và cũng nuôi dưỡng một vài mơ ước. Chí Phèo đúng thực là một con người lương thiện. Có thể nói, lương thiện là giá trị cốt lõi mà nhà văn Nam Cao muốn khắc họa ở nhân vật Chí Phèo. Trước khi vào tù và biến đổi khổ liệt, Chí Phèo sống cuộc sống nghèo khó nhưng là cuộc sống của người nông dân chân chính, lương thiện.

Thế nhưng, hiền lành và lương thiện lại trở thành điểm yếu của Chí Phèo trong cái xã hội đày rẫy những kẻ mưu mô, Xảo quyệt và cáo già như Bá Kiến. Chỉ vì nỗi ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù. Chí vào tù mà không biết mình bị tội tình gì. Chỉ biết, một buổi sáng, người ta đến bắt giải hắn lên tỉnh rồi bặt vô âm tính. Khi ra tù, Chí trở thành một con người hoàn toàn khác từ hình dáng cho đến phẩm chất.

Ngoại hình của Chí Phèo biến đổi ghê gớm đến đáng sợ. Từ một anh nông dân hiền lành, giờ “cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn…trông gớm chết”. Chí phèo biến đổi ngoại hình thành quái dị, mang dáng dấp của một kẻ côn đồ và lưu manh. Điều đó tố cáo chế độ nhà tù tàn ác của bọn thực dân đã biến Chí Phèo thành con người mang gương mặt của con vật lạ. Gương mặt của Chí không phải là mặt người mà là gương mặt của con vật lạ, vằn dọc vằn ngang không thứ tự…

Hắn về và gây “ấn tượng” đâu chỉ cái ngoại hình kinh dị ấy mà còn với tiếng chửi điển hình của kẻ “bất cần đời”. Quả thực, tiếng chửi của Chí là một “đặc sản lạ” mà Nam Cao đã tài tình sáng tạo ra. Về hôm trước, hôm sau đã say khướt và cất tiếng chửi, không ai lên tiếng chỉ có tiếng sủa của ba con chó và một thằng say rượu. Hắn khát khao được giao tiếp nhưng không ai đáp lời. Hắn cô đơn, đau đớn khi không được xã hội thừa nhận là một con người. Đến nhà Bá Kiến lần thứ nhất: chửi, rạch mặt ăn vạ, liều chết. Hắn mang tính cách của một tên du côn. Sau khi đến nhà Bá Kiến lần thứ hai để xin đi ở tù Chí trở thành tay sai cho Bá Kiến:

Chí Phèo mất dần ý niệm về thời gian, tuổi tác, triền miên trong những cơn say. Trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại: “Phá tan biết bao cơ nghiệp làm đổ máu và nước mắt của biết bao người dân lương thiện…”.  Chí ngập sâu trong vũng bùn tội lỗi, bị xói mòn về nhân phẩm, trượt dài trên con dốc của sự tha hóa, tha hóa một cách triệt để. Từ một anh canh điền hiền lành, lương thiện, qua bàn tay của bọn cường hào ác bá và nhà tù thực dân đã biến Chí thành kẻ lưu manh, côn đồ, tha hóa.

Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao muốn phản ánh một hiện tượng phổ biến đã trở thành quy luật trong xã hội cũ: chừng nào còn có áp bức, bóc lột thì chừng ấy còn có những người dân lương thiện bị đẩy vào con đường cùng trở thành kẻ lưu manh, tha hóa. Đó là giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm này.

Sau đêm gặp Thị Nở, cảm giác: “miệng đắng nhạt lòng mơ hồ buồn” , chân tay bủn rủn, sợ rượu. Chí đã phục hồi về cảm giác. Tâm trạng bang khuân, nằm một mình trong nhà, lần đầu tiên cảm nhận được nhịp sống đời thường, cảm thấy buồn. Hắn nhớ về quá khứ với ước mơ giản dị, về mái ấm gia đình. Chí nhận thức về tuổi già, ốm yếu và “sợ nhất là sự cô độc” . Chí đã biết suy nghĩ, lo lắng, nhận thức được cuộc sống. Phần người trong Chí dần dần hồi phục. Sự thức tỉnh về tâm hồn

Khi Thị Nở mang cháo hành tới, Chí Phèo cảm nhận được cái dịu dàng của thị Nở. Cháo hành: món ăn bình dị nhưng là phương thuốc nhiệm màu bởi nó chứa chan tình đời, tình người. Lúc đầu, Chí vô cùng ngạc nhiên, xúc động “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt” bởi đây là lần đầu tiên Chí được quan tâm, săn sóc bởi một tình người thực sự. Thị Nở đối với hắn thật thân thiện chứ không phải là sự sợ hãi, kinh tởm hay lảng tránh mà mọi người vẫn dành cho hắn từng ngày.

Bát cháo hành bốc khói gợi nhiều cảm xúc trong Chí. Trong lòng hắn vui, buồn, ăn năn, cứ hỗn độn. Chí nói với Thị Nở những lời chân thành, giản dị, cử chỉ, điệu bộ đáng yêu. Giờ đây, Chí thèm sống cuộc đời lương thiện ghê gớm. Chí đặt tất cả niềm hi vọng và Thị Nở. Thị sẽ là nhịp cầu nối hắn với cuộc sống lương thiện.

Nhờ sự quan tâm của thị Nở và bát cháo hành thần diệu, vừa giải cảm vừa giải độc trong Chí, khiến Chí thực sự thức tỉnh và muốn trở về cuộc đời lương thiện. Bản chất của Chí Phèo chưa hoàn toàn mất đi mà chỉ ngủ quên trong lốt quỷ. Thị Nở như một cơn gió thần thổi vào làm thức tỉnh bản chất lương thiện trong Chí. Tình yêu có sức mạnh cảm hóa con người.

Đoạn văn miêu tả Chí Phèo thức tỉnh là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ và vút lên tư tưởng nhân đạo của tác giả.

Lời của bà cô Thị Nở: ngăn cấm Thị Nở lấy Chí phèo. Định kiến tàn nhẫn của xa hội không chấp nhận cho Chí Phèo hoàn lương và cũng không chấp nhận hắn trở lại làm người lương thiện.

Sự việc ấy khiến Chí Phèo nghĩ ngợi. Hắn chợt hiểu ra nhiều điều rồi hắn ngẩn người, ngẩn mặt nhận ra sự thật phũ phàng: Hắn thấy sắp xa cách thị Nở, xa cách cuộc sống ước mơ. Hắn vội đuổi theo Thị Nở, cố níu kéo nhịp cầu lương thiện. Trong hắn vẫn còn nhiều lắm khát khao cháy bỏng cuộc sống lương thiện và yên bình.

Thế nhưng, những câu nói tỉnh bơ của Thị Nở đã cắt đứt sợ dây ràng buộc mỏng manh giữa hắn và cuộc đời. Đau đớn tột cùng, Chí lại tìm đến với rượu. Hắn đi uống rượu để say, để quên. Nhưng đến khi tỉnh ra, hắn thêm thấm thía nỗi đau của một người bị hắt hủi nên “ôm mặt khóc rưng rức”. Rượu cũng không thể giúp Chí quên đi bản thân mình được. Hắn vẫn sống. Nghĩa là hắn vẫn bị cuộc đời ruồng bỏ. Chí phèo hoàn toàn bế tắc và rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

Quá tuyệt vọng, Chí Phèo quyết trừng phạt kẻ đã dám từ chối hắn, dám làm cho hắn đâu khổ. Không ai khác đó chính là Thị Nở và bà cô của thị. Chí uống rượu rồi vác dao đi. Chí định dạy cho bà cô một bài học như cách Chí đã từng dạy những kẻ chống đối khác.

Run rủi thay, như một thói quen, cũng có thể là Chí đã nhận ra kẻ đã gieo rắc khổ đau lên cuộc đời Chí, bước chân kẻ say đảo hướng đến nhà bá Kiến.

Lần thứ 3, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện: “Tao muốn làm người lương thiện”. Chí nhận ra kẻ thù của mình. Câu nói “Ai cho tao lương thiện” thể hiện sự tuyệt vọng cùng cực, là câu hỏi nhức nhối như lời tố cáo, lên án xã hội phi nhân tính đã quyết đi quyền sống của một con người. Hành động giết Bá Kiến chứng tỏ Chí phèo  đã thực sự nhận ra kẻ thù, mâu thuẫn gay gắt chỉ có thể giải quyết bằng sự sống còn.

Giết xong bá Kiến, Chí Phèo cũng tự kết liễu đời mình. Hắn ý thức được nhân phẩm muốn trở về nhưng không được xã hội chấp nhận. Chí Phèo chết để bảo vệ nhân phẩm. Chết trên đường trở về hoàn lương. Cái chết không lối thoát. Đó cũng là số phận bi thảm của người nông dân trước cách mạng qua đó tác giả muốn lên án, tố cáo xã hội thực dân, phong kiến đương thời.

Nam Cao đã xây dựng thành cong nhân vật điển hình. Bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo bậc thầy. Kết cấu truyện mới mẻ, biến chuyển linh hoạt, bất ngờ. Nghệ thuật kể hấp dẫn, lôi cuốn vừa lạng lùng vừa ấm áp tình người. Giọng điệu linh hoạt, phong phú. Ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa, độc thoại nội tâm kết hợp khéo léo với văn tự sự tạo hiệu quả cho việc đi sâu phân tích tâm lí nhân vật, giàu hình ảnh, gần với lời ăn, tiếng nói hàng ngày.

Truyện ngắn Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ; đồng thời là lời kết tội đanh thép xã hội thực dân – phong kiến đẩy con người vào bi kịch cùng cực, bế tắc, tuyệt vọng. Cái chết của Chí chính là sự chiến thắng của lương tâm. Chí Phèo gắng gượng về với xã hội con người, chỉ cần mở cửa là trở về nhưng nó lại đóng sầm lại trước mặt Chí. Nếu Chí không chết, Chí lại sẽ trở về cuộc sống của loài quỹ dữ. Chí chết trên ngưỡng cửa trở về với xã hội loài người. Sự thức tỉnh khiến y nhận ra được giá trị của sự lương thiện, thà chọn cái chết còn hơn là quay về cuộc sống loài quỹ, loài thú như trước đây. Tuy chỉ sống có 5 ngày ngắn ngủi nhưng Chí Phèo đã sống, và chết, như một con người.

Ý nghĩa chi tiết bát cháo hành của Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo 124

Nam Cao là tác giả của nhiều truyện ngắn hiện thực xuất sắc. Trong số những tác phẩm tiêu biểu của ông, không thể không kể đến truyện ngắn Chí Phèo, một truyện ngắn chứa đựng chiều sâu tư tưởng của nhà văn Nam Cao. Trong mỗi tác phẩm văn học, có những chi tiết nghệ thuật tuy nhỏ nhưng lại mang ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Nếu con chữ của Huấn Cao có thể làm thức tỉnh lương tri của Viên quản ngục thì “bát cháo hành” của Thị Nở cũng đã mang đến cho Chí Phèo một nguồn sống mới. Tuy nguồn sống ấy hết ngắn ngủi nhưng rất cần thiết.

Sự xuất hiện của chi tiết bát cháo hành: Chi tiết xuất hiện trong phần giữa truyện. Sau cuộc gặp gỡ về thể xác giữa Chí Phèo và thị Nở ở vườn chuối, sáng hôm sau, Chí Phèo bị cảm. Chính Thị Nở là người đã chủ động về nhà nấu cháo sang mang sang cho Chí Phèo.

Bát cháo hành trong sự cảm nhận của Chí Phèo: Nồi cháo còn nóng nguyên….vừa sang thị đã đi tìm gạo, hành thì may nhà lại còn. Bát cháo hành khiến Chí Phèo rất “ngạc nhiên” và thấy “mắt như ươn ướt”, bởi vì đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho. Bát cháo hành khiến Chí Phèo “bâng khuâng”. Hắn cảm nhận: “Cháo mới thơm làm sao!”- bát cháo là sự quan tâm của Thị Nở dành cho hắn. Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn cũng nhận ra cháo hành rất ngon.

Bát cháo hành giản dị trong cảm nhận của Chí Phèo là thứ rất ngon, đó là chi tiết khiến hắn lần đầu tiên và cũng là duy nhất cảm thấy được quan tâm, nó đánh thức nhân tính bấy lâu nay bị vùi lấp trong Chí Phèo.

Bát cháo hành thể hiện tình yêu thương chân thành của Thị Nở dành cho Chí phèo. Nó là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện.

Bát hành là một liều thuốc giải cảm và giải độc hữu hiệu cho con người và tâm hồn tăm tối của Chí phèo. Nó không những khiến hắn hết bệnh mà còn có vai trò đánh thức sự lương thiện trong tâm hồn Chí Phèo nói riêng và khẳng định tư tưởng của tác phẩm: dù cuộc sống có tối tăm, cùng cực nhưng vẫn còn đâu đó những tấm lòng chân thiện, biết cảm thông, chia sẻ, yêu thương và nâng đỡ con người. Quả thực, sau khi cảm nhận hương vị của bát cháo hành và ý vị tình yêu từ Thị nở, Chí Phèo hoàn toàn thay đổi. Sự thay đổi mới mẻ và đột ngột khiến cả Chí phèo cũng thấy kinh ngạc.

Xây dựng hình ảnh bát cháo hành, nhà văn muốn khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật Chí Phèo. Đây là chi tiết thúc đẩy cốt truyện phát triển và cũng là chi tiết tác giả gửi gắm niềm tin vào sức mạnh cảm hóa con người bằng tình người

Chi tiết bát cháo hành của Thị Nở mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ. Qua chi tiết bát cháo hành, nhà văn kêu gọi hãy bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện; Họ phải được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ khốn cùng, bế tắc, đầy bi kịch xót xa.

Phân tích chuyển biến tâm trạng của Chí phèo sau đêm ăn nằm với thị Nở 125

Chí Phèo là tác phẩm văn học xuất sắc của nhà văn Nam Cao và của nền văn học hiện thực phê phán thế kỉ 20. Có thể nói truyện ngắn Chí Phèo ra đời thực sự mang đến một “cơn địa chấn” dữ dội trong làng văn học thời bấy giờ. Lần đầu tiên người ta thấy một tên say rượu ngật ngưỡng đi về trong bóng tối. Lần đầu tiên người ta nghe những tiếng gào thét, chửi bới, văng tục dữ dội đến như vậy. Chí Phèo, con quỷ dữ làng Vũ Đại, say chưa từng tỉnh. Nhưng có một lần hắn thực sự thức tỉnh. Đó là sau đêm Chí phèo sau đêm ăn nằm với thị Nở, một người phụ nữ tưng tửng, xấu xí đến ma chê quỷ hờn.

Không những thành công trong xây dựng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao còn rất thành công khi khắc họa nhân vật thị Nở. Xuất hiện khá muộn trong tác phẩm nhưng thị Nở đã tạo ra được những chuyển biến sâu sắc cho câu chuyện. Chính thị Nở đã tạo bước ngoặc làm thay đổi con người Chí Phèo, giúp hắn nhận thức được sự sống ngọt ngào. Nhưng đáng tiếc thay, cũng chính thị Nở lại là người làm sống lại “con thú dữ” trong tâm hồn Chí vốn mới vừa ngủ yên khiến cho hắn sau khi giết chết Bá Kiến cũng tìm đường tận tuyệt, chấm dứt cuộc đời trong phẫn uất tột cùng.

Chí Phèo gặp thị Nở trong một đêm định mệnh. Sau cuộc rượu ngà ngà ở nhà Tư Lãng, Chí Phèo giảo bước ra về. Đêm trăng sáng vằng vặc rọi khắp vườn quê. Tiếng côn trùng rả rích trong lùm cây bụi cỏ. Gió hiu hiu thổi phất phơ tà áo vốn không bao giờ cài cúc của hắn. Đêm hè nóng bức, thị Nở ra nằm gần bụi chuối cho mát mẻ rồi ngủ quên ở đó. Cái dáng nằm hớ hênh, da thịt thập thò trong chiếc áo ngắn khiến đất trời bâng khuân.

Định mệnh đã đặt thị Nở trên lối đi của Chí Phèo. Ánh trăng lấp ló trong tàn lá, đêm vắng lặng như tờ. Chí Phèo dừng lại. Lần đầu tiên trong cơn say hắn dừng lại để ngắm nhìn. Hắn ngắm ngía thị Nở một cách kinh ngạc. Rồi bất ngờ hắn lao vào ôm lấy thị như con mãnh thú vồ lấy con mồi yếu ớt. Thị Nở giật mình la làng. Nhưng hắn la còn to hơn át cả tiếng thị. Dân làng Vũ Đại đâu lạ gì tiếng la thét của kẻ điên cuồng ấy. Không ai quan tâm. Trong đêm khuya khoắt thế này, cứ kệ hắn gào la. Tiếng gào la nhỏ dần rồi tắt lịm trong đêm tối. Không gian lại yên tĩnh như chưa hề có chuyện gì xảy ra.

Đêm ấy họ đã ăn nằm với nhau. Chuyện ăn nằm của người xưa là một chuyện hệ trọng. Nam Cao cũng đã khéo ló xử lí việc này. Tuy là một việc xằng bậy nhưng mang lại kết cục tốt đẹp. Đối với thị Nở, hành động của Chí Phèo khác nào là cưỡng bức thị. Thế mà thị không hề giận. Thị thấy thương thương con người ấy. Lúc đầu kháng cự quyết liệt vì sợ hãi, sau cũng buông xuôi.

Dưới ngòi bút sắc sảo của chủ nghĩa hiện thực, quá trình thức tỉnh lương tâm, nhân tính của một con người bị tha hóa, lầm lạc đã diễn ra không hề đơn giản, một chiều, dễ dãi mà do hoàn cảnh khá đặt biệt. Lúc đầu chỉ là chuyện bản năng của một gã đàn ông say rượu. Nhưng về sau đã  làm sống lại ở Chí Phèo những cảm xúc rất người. Từ đó khơi bùng khao khát hoàn lương. Cứ tưởng Chí sẽ mãi sống kiếp thú vật rồi chết bờ chết bụi ở cái xó nào đấy. Nhưng không, bằng tài năng và con tim của mình, Nam Cao đã để cho Chí trở về với kiếp người một cách tự nhiên. Sau đêm ăn nằm với thị Nở, tâm trạng Chí phèo trở nên hiền lành khác thường.

Sáng hôm sau, Chí Phèo trở dậy khi mặt trời đã lên cao. Chí thấy miệng đắng, chân tay uể oải. Lần đầu tiên, sau bao năm không còn ý thức được bản thân, giờ đây Chí thấy lòng bâng khuâng, mơ hồ buồn đến lạ. Một nỗi buồn vô cớ không biết từ đâu dội về trong lòng vốn đã chai sạn của hắn.

Lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm tháng chìm trong cơn say bất tận, đây là giây phút Chí hoàn toàn tỉnh táo. Hắn nhận ra âm thanh cuộc sống đời thường xung quanh đang vọng về. Tiếng cuộc sống nhịp nhàng như một bản nhạc, tuy đơn điệu nhưng rất dễ chịu. Tiếng chim hót, tiếng anh thuyền chài khua mái chèo đuổi cá, tiếng người nói chuyện rì rầm đâu đó khiến hắn chú ý. Những âm thanh ấy vốn vẫn lặp đi, lặp lại từng ngày nhưng bấy lâu hắn nào nghe thấy.

Bởi bấy lâu nay, hắn chìm ngập trong cơn say của rượu, trong bóng đêm của hận thù, trong u mê tăm tối. Hắn sống mà như đã chết. Hắn hình người nhưng có tâm hồn của quỷ dữ. Hắn điên cuồng trong những cảnh đâm chém dữ dội. Hắn thích nghe tiếng kêu la thảm thiết của nạn nhân chớ nào chú ý đến những âm thanh dịu dàng, êm tai và ngọt ngào ấy.

Cuộc sống bình dị đã làm Chí Phèo cảm thấy nao lòng. Hắn bỗng nhớ lại những tháng ngày rất xa xôi. Những mơ ước năm nào bỗng rạo rực trong lòng hắn. Thật may thay là hắn vẫn còn nhớ. Tâm hồn của hắn chưa hẳn đã chết. Có những mầm sống đang ngủ quên ở đâu đó trong tâm hồn cằn cỗi ấy. Hắn mơ ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng chăm bẫm cuốc mướn cày thuê, vợ ở nhà kéo tơ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khó thì chăn chỉ, chắt chiu từng ngày. Khá giả thì mua năm sào ruộng để dành.

Mơ ước của Hắn thật nhỏ bé và giản dị nhưng suốt bao năm qua nó vẫn chưa trở thành hiện thực. Những ước mơ tốt đẹp của Chí Phèo không hề bị mất đi mà nó chỉ chìm sâu vào một góc tăm tối nào đó của tâm hồn Chí. Hiện tại của hắn thật đáng buồn. Buồn vì Chí Phèo thấy mình đã già đã sang cái dốc bên kia cuộc đời. Có thể đã hư hỏng nhiều thế mà hắn vẫn đang cô độc. Tương lai của hắn lại đáng buồn hơn. Bởi hắn có quá nhiều sự bất hạnh đói rét ốm đau và cô độc. Giờ đây, đối với Chí, cô độc còn đáng sợ hơn nhiều đói rét và ốm đau. Hắn bắt đầu thấy sợ và lo nghĩ đến tương lai.

Lần đầu tiên, kể từ khi ra khỏi nhà tù, hắn biết nghĩ đến tương lai. Một kẻ chỉ biết đến uống rượu và ăn vạ như hắn mà còn nghĩ đến tương lai. Thật đáng cười cho cái suy nghĩ vẩn vơ của hắn lắm. Hắn cũng nghĩ là hắn đang mơ ước vẩn vơ thôi. Lập tức, hắn nghĩ đến cái tình trạng bi đát và khốn cùng của mình. Hắn nhận ra hắn đáng thương và cần có ai đó để thương hắn. hắn thấy giờ đây hắn yếu duối vô cùng và cần có nơi nào đó để nương tựa trong quãng đời còn lại.

Đúng lúc đang suy nghĩ vẩn vơ thì thị Nở bước vào với bát cháo hành nóng hổi trên tay cùng nụ cười đoan đả. Mùi bát cháo hành thơm phưng phức xốc vào mũi hắn cùng người đàn bà ở bên cạnh khiến hắn cảm thấy ấm áp vô cùng. Ngay trong lúc ốm đau và tuyệt vọng mà có ai đó ở bên cạnh quả thực thật vô cùng hạnh phúc. Hắn hết nhìn bát cháo rồi lại nhìn thị Nở. Hắn xúc động đến muốn khóc.

Lần đầu tiên có một người cho hắn một bữa ăn mà trước đây hắn phải giành giật, cướp bóc, ăn vạ mới có được. Hắn lại tiếp tục suy nghĩ. Hắn nghĩ về những ngày tháng cơ nhục và lạnh lẽo. Hắn nghĩ đến những người đã bị hắn trấn áp tàn tệ. Lương tâm hắn bắt đầu cắn rứt và xung đột dữ dội. Tình người hãy còn đây, mà hắn nỡ nào bội bạc, nhẫn tâm đến thế.

Hắn nhận ra trong bát cháo hành của thị nở chan chứa tình yêu thương. Hắn nhìn thấy nụ cười trìu mến, thiết tha trên đôi môi chờ đợi của thị Nở. Thị đến với hắn như ánh sáng của thiên thần, soi rọi vào mọi ngóc ngách trong tâm hồn hắn. Hắn còn không tin đó là sự thật nữa.

Hắn đón nhận bát cháo yêu thương từ tay người đàn bà, ngửi lấy rồi chậm rãi múc từng muỗng. Từng miếng cháo như vị thuốc thần tiên thấm vào thân thể hắn, xóa tan phần tăm tối và làm bừng sáng lương tri.

Bát cháo hành kì diệu của thị Nở khiến Chí Phèo khao khát làm người lương thiện hơn bao giờ hết. Hắn bắt đầu nhận biết được cái thiện và cái ác. Hắn cũng nhận ra cái đúng và cái sai, cái tốt đẹp và cái xấu xa, tàn nhẫn ở đời. hắn thấy mình trong những ngày qua đã sống thật tồi tệ. Hắn hối hận. Nguồn sống trong hắn bắt đầu cuộn mình trỗi dậy. Hắn muốn sống đúng nghĩa một con người. “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao”.

Chí Phèo mong muốn được xã hội “bằng phẳng, thân thiện của những người lưng thiện”, thâu nhận lại hắn. Hắn muốn ở cùng mọi người, muốn được yêu thương chứ không phải sợ hãi và thù ghét. Nhưng có được không với bao nhiêu tai họa mà hắn đã mang đến cho cái làng này? Hắn cũng không biết rõ nữa nhưng hắn đang rất muốn được như thế lắm.

Chí Phèo và thị Nở đã có tất cả năm ngày ăn ở với nhau. Trong năm ngày ngắn ngủi ấy, họ thực sự đã rất hạnh phúc. Năm ngày thần tiên ấy đối với Chí Phèo cứ như một giấc mơ. Hắn vô cùng mãn nguyện và không ngừng mơ ước đến tương lai và tin tưởng rằng một tương lai tốt đẹp sẽ đến.

Thế nhưng, có ngờ đâu, con đường trở lại làm người lương thiện vừa mở ra trước mắt Chí Phèo đã bị đóng sầm lại. Sự mong ước được sống hiền lương của Chí Phèo một lần nữa lại không thành sự thật. Sự thức tỉnh trong lương tri và khát vọng làm lại cuộc đười của chí đã không được nhìn nhận. Cũng không ai muốn nhìn nhận điều đó dù trong năm ngày qua hắn đã không uống rượu, không gào thét, không ăn vạ hay xung đột với ai. Hắn đã thực sự tu tâm dưỡng tính và mong muốn mọi người hiểu điều đó. Nhưng dường như, cả cái làng Vũ Đại không ai còn tin hắn nữa. Cũng có thể họ tin anh muốn lương thiện thật nhưng không thể quên con quỷ luổn ẩn giấu trong anh.

Thị Nở không thể giúp gì thêm cho hắn, bởi lẽ bà cô thị kiên quyết ngăn cản mối tình này. Bà không thể đồng ý cho cháu bà đâm đầu đi lấy thằng Chí Phèo – con quỷ dữ của làng Vũ Đại, bấy lâu nay chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ, hắn mãi mãi chỉ là con quỷ dữ, không bao giờ có thể làm người.

Khi thị ra về, hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay nhưng thị gạt ra. Hắn tha thiết níu kéo nhưng đến cả thị Nở giờ đây cũng bở rơi hắn. Lần thứ hai, Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Lần này khốc liệt hơn lần trước. Chí thấy cuộc đời thật giả tạo, thấy đau đớn và tuyệt vọng vô cùng. Chí đã khóc. Những giọt nước mắt thánh thiện lăn tròn trên má. Những giọt nước mắt hối hận nhưng đã quá muộn màng. Mọi cánh cửa đến với cuộc đời đã đóng sầm trước mặt, đen tối và đáng sợ.

Bằng ngòi bút sắc sảo và nghệ thuật khắc họa tâm lí tinh tế, Nam Cao đã làm hiện rõ những khát khao tốt đẹp của nhân vật Chí Phèo. Sự thức tỉnh của Chí thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy.

Nhìn lại cuộc đời Chí Phèo, có thể nói rằng, Chí Phèo đã sống bằng cuộc đời con người, bản tính con người ý nghĩa nhất chỉ trong vẻn vẹn có năm ngày ở cùng thị Nở. Những chuyển biến trong tâm hồn Chí phèo thực sự như những đóa hoa bừng nở lên trên mảnh đất khô cằn. Nó không ngừng khao khát sự sống dù đó chỉ là một cơ hội hết sức mong manh. Nam Cao thực sự đã tỏ ra là một bậc thầy trong việc khám phá và khai thác những điều ẩn sâu trong con người để viết lên được những trang văn đầy cảm động ấy. Nguyên Hồng cho rằng: “Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ giữa hai con người không bình thường và cô độc nhưng đã làm nên những trang văn rực sáng cảm hứng nhân đạo”.

Phân tích tiếng chửi của Chí Phèo ở đầu truyện ngắn Chí Phèo 126

Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Chí Phèo là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách sáng tác của ông. Nhân vật Chí Phèo gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc không những ở cuộc đời và số phận tàn khốc mà còn ở tiếng chửi, cách chửi rất đặc biệt, có sức ám ảnh.

Tác giả đưa tiếng chửi lên đầu truyện với mục đích để lại sự độc đáo và ấn tượng cho người đọc. Tác giả đã không sử dụng cách kể chuyện theo khuôn khổ truyền thống mà theo kết cấu hồi tưởng, những tình tiết mở đầu cực kỳ bất ngờ và khiến người đọc thực sự lôi cuốn. Nghệ thuật trần thuật đi qua nhiều ngôi khác nhau. Nhà văn kể chuyện theo giọng chửi bực tức của Chí Phèo, theo giọng dân làng thờ ơ, hờ hững và theo giọng trần thuật của tác giả.

Tiếng chửi liên tục được tăng cấp, càng về sau càng gay gắt. Ban đầu là chửi đơn thuần chửi chung như chửi “trời”, “đời”, “tất cả làng Vũ Đại”, “chửi đứa nào không chửi nhau với hắn”, “chửi đứa đẻ ra hắn”. Tiếng chửi được tăng cấp cả về cảm xúc của nhân vật mỗi lúc một tăng dần như: “Tức mình”, “Tức thật!”, “Thế này thì tức thật!”, “Tức chết đi được mất”. Tiếng chửi của Chí Phèo thể hiện cảm xúc của nhân vật mỗi lúc một tăng theo và bi kịch của Chí Phèo ngày càng bi thảm.

Qua tiếng chửi, Nam Cao đặt ra một nghịch lý trước người đọc: Chí Phèo say hay tỉnh? Rõ ràng ông đã khẳng định “cứ rượu say là hắn chửi”. Nhưng nếu đó là tiếng chửi của một người say và mất hết ý thức, tại sao lại lớp lang rành mạch (sự tăng cấp giữa các đối tượng), tại sao vẫn nhận ra “thân hắn khổ đến nông nỗi này”. Say mà tỉnh, tỉnh mà say, đó là trạng thái lưỡng phân của hình tượng Chí Phèo, qua đó Nam Cao hé lộ cho người đọc thấy được ý thức tỉnh táo của Chí Phèo sau cái vô thức của kẻ say, nỗi đau con người sau hình thù quỷ dữ, khát vọng lương thiện sau những hành động, lời nói côn đồ, ác độc.

Ngay ở đoạn văn tiếng chửi mở đầu tác phẩm, tác giả đã trình bày ba bi kịch chính của Chí Phèo, và đó cũng là nền tảng triển khai những bi kịch này xuyên suốt tác phẩm.

Tiếng chửi mở ra trước mắt người đọc bi kịch số phận cuộc đời Chí Phèo. Cả cuộc đời Chí Phèo chỉ là con số không, không cha không mẹ không gia đình, không tài sản của cải. Chí Phèo chửi cha mẹ mình, thực ra chính là chửi chính mình, chửi chính số kiếp đau đớn của mình. “Nhưng biết đứa nào đẻ ra Chí Phèo”, câu hỏi ấy vang lên không lời đáp như chính sự bế tắc, bất lực của Chí, một kẻ bị chối bỏ ngay từ khi mới ra đời và phải sống cả kiếp người-thú đau đớn, chật vật.

Tiếng chửi là bước đường cùng, là đoạn cuối của bi kịch tha hóa của con người Chí Phèo. Cùng với việc đánh mất nhân hình, tiếng chửi và hành động rạch mặt ăn vạ, đập phá, đâm chém chính là những biểu hiện của quá trình “lưu manh hóa”, dần biến Chí Phèo thành “Con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.

Tiếng chửi là tiếng kêu đau đớn của bi kịch bị tước đoạt quyền làm người. Tiếng chửi của Chí Phèo không có một lời đáp. Bởi vì, tất cả dân làng Vũ Đại đều không xem Chí Phèo là con người. Đây là hệ quả tất yếu từ những đau thương mà Chí Phèo gây ra cho họ. Tình cảnh “chỉ ba con chó dữ với một thằng say rượu” cho thấy sự cô đơn tận cùng của Chí Phèo, bị chối bỏ, bị đẩy ra ngoài xã hội người của làng Vũ Đại, bị tước đoạt quyền làm người. Tiếng chửi của Chí Phèo, do vậy, chính là một nỗ lực tuyệt vọng để giao tiếp, chính là tiếng kêu cứu của khao khát lương thiện trong vô thức của Chí Phèo, là “tiếng hát lộn ngược” vô vọng tìm sự sẻ chia, thấu hiểu.

Qua chi tiết tiếng chửi, ta thấy được bút pháp hiện thực của Nam Cao rất nghiêm nhặt. Bằng giọng văn lạnh lùng, sắc lạnh, Nam Cao vừa gợi ra được mối quan hệ giữa Chí Phèo (tính cách điển hình) với làng Vũ Đại (hoàn cảnh điển hình), vừa gợi ra được số phận, bi kịch của nhân vật trung tâm. Mặt khác, ẩn sâu trong giọng điệu tự sự lạnh lùng có phần khinh bạc ấy, là một trái tim yêu thương, thấu hiểu, xót xa thấm thía của một tấm lòng đau người, đau đời tha thiết.

Nam Cao tỏ ra già dặn trong việc sắp xếp kết cấu và miêu tả tiếng chửi và cách chửi của Chí Phèo. Kết cấu đi thẳng vào vấn đề chính. Trong tiếng chửi hội tụ các vấn đề quan trọng mà tác giả muốn triển khai. Cách dẫn dắt cuốn hút, hấp dẫn người đọc. Cách kể chuyện đa chủ thể. Bằng lời nửa trực tiếp, tiếng chửi vừa có điểm nhìn của Nam Cao, vừa có điểm nhìn của Chí Phèo, vừa có điểm nhìn của làng Vũ Đại. Đoạn văn là tổng hòa của các cuộc đối thoại: cuộc đối thoại dân chủ giữa nhà văn và bạn đọc; cuộc đối thoại giữa tác giả và nhân vật; cuộc đối thoại vô vọng giữa Chí Phèo và dân làng Vũ Đại…

Ngôn ngữ dẫn truyện sống động, đa giọng điệu, tạo cảm xúc nhiều tầng bậc, thể hiện tình cảm đáng cay, chua chát của nhà văn trước hiện thực của cuộc đời. Nghệ thuật trần thuật đạt đến trình độ bậc thầy, làm nên sức sống cho tác phẩm.

Chí Phèo là một tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Qua việc miêu tả tiếng chửi của nhân vật Chí phèo, tác phẩm khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 127

Ở phần đầu truyện ngắn Chí Phèo, tác giả kể về nguồn gốc của nhân vật chính. Đó là một đứa bé bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng cạnh chiếc lò gạch bỏ hoang giữa đồng không mông quạnh. Tuổi thơ của nó bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ, không người thân thích, không một tấc đất cắm dùi, không được ai ban cho chút tình thương. Đó là cuộc đời khốn khổ của kẻ cùng hơn cả dân cùng ở nông thôn trước Cách mạng. Chí Phèo phải chịu đựng mọi nỗi bất hạnh như bao nông dân nghèo cực khác, nhưng điều bất hạnh lớn nhất là hắn không được sống bình thường ngay cả trong cuộc đời nghèo khổ lương thiện của mình. Chí Phèo bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng tính người, bị biến thành con quỷ dữ và bị gạt bỏ không thương tiếc ra khỏi cộng đồng làng xã.

Chí vốn là một chàng trai nông dân hiền lành, chất phác. Chỉ vì cơn ghen bóng gió của lí Kiến mà Chí Phèo bị đẩy vào tù. Bảy, tám năm bị đày đọa trong tù, chung đụng với lớp người dưới đáy xã hội, tâm hồn Chí Phèo đã bị nhuộm đen. Từ một anh Chí lương thiện, ra tù hắn trở thành Chí Phèo với bộ mặt gớm ghiếc và tâm hồn tội lỗi. Cái phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột, từ mặt mũi đến nhân cách đều biến tướng thành dị dạng, đáng sợ. Người ta thấy hắn say rượu triền miên và luôn mồm chửi bới tục tằn. Dân làng đều xa lánh, sợ hãi và ghê tởm hắn.

Bọn thống trị trong làng mà tiêu biểu là bá Kiến – kẻ đã biến cuộc đời Chí thành bi kịch – giờ đây lại dùng thủ đoạn nham hiểm và sức mạnh đồng tiền để sai khiến và sử dụng Chí Phèo như con dao trong tay đồ tể, gây họa cho bao người.

Chí Phèo phản ứng gay gắt, quyết liệt với xã hội bằng thái độ ngang ngược, liều mạng, gây gổ, chửi bới… Lúc nào hắn cũng say, lúc nào cũng sẵn sàng rạch mặt ăn vạ, kêu làng. Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại người ta giao cho hắn làm. Hắn biết đâu, vì hắn làm tất cả những việc ấy trong khi say: hắn say thì hắn làm bất cứ thứ gì người ta sai hắn làm. Quá trình biến đổi dữ dội trong tính cách này của nhân vật tố cáo sự hủy hoại ghê gớm đối với phẩm chất, nhân cách của người lao động do xã hội cũ thối nát gây nên.

Chí Phèo là biểu hiện của nỗi đau khổ khôn cùng của con người sinh ra là người mà không được làm người. Để quên đi nỗi bất hạnh ấy, Chí Phèo uống rượu. Say rượu triền miên nên hầu như hắn bị tê liệt về ý thức, sống mù tối trong kiếp sống thú hoang. Nhưng đến lúc tỉnh rượu thì hắn lại cảm nhận sâu sắc thân phận bi đát của mình.

Trong một cơn say bí tỉ, vô tình Chí Phèo gặp Thị Nở, người đàn bà xấu xí, đần độn và quá lứa lỡ thì. Chút tình thương yêu mộc mạc, tự nhiên của Thị Nở đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn leo lét nơi đáy lòng Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người hắn. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật.

Sáng hôm sau, Chí Phèo tỉnh dậy, lòng bâng khuâng mơ hồ buồn. Bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói, bàn tán của những người đàn bà đi chợ về… Bao âm thanh quen thuộc của cuộc sống bấy lâu nay hầu như Chí Phèo không hề nghe thấy, bởi hắn luôn chìm ngập trong những cơn say. Hôm nay, những âm thanh ấy vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi thôi thúc của sự sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo, gợi dậy cái mơ ước chính đáng một thời: hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm… Đó cũng là mong muốn của bao nông dân nghèo trong xã hội cũ.

Trái tim tưởng chừng như chai đá vì thù hận của Chí Phèo đã dần dần sống dậy khiến cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Hắn khao khát được trở lại cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với dân làng Vũ Đại… Chí Phèo bâng khuâng, háo hức nghĩ tới một tương lai tốt đẹp.

Nhưng chút tình thương yêu của Thị Nở không đủ mạnh để cứu Chí Phèo. Con đường trở lại làm người của hắn vừa hé mở đã bị đóng sầm lại. Định kiến xã hội (thông qua bà cô Thị Nở) không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hi vọng. Chí Phèo một lần nữa bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Hụt hẫng và rơi vào vực thẳm tuyệt vọng, hắn ôm mặt khóc rưng rức và lại tìm đến rượu.

Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo cuối tác phẩm: Tao muốn làm người lương thiện!… Ai cho tao lương thiện?… Tao không thể làm người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách… biết không!

Căm thù cao độ và không còn lối thoát, Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Nỗi đau của Chí Phèo là không được làm người, không được nếm trải những vui buồn sướng khổ của đời người.

Chí Phèo chết trong niềm đau thương tột cùng bởi khát khao mãnh liệt được làm người đã bị dập tắt. Câu hỏi cuối cùng trong những phút giây tỉnh táo nhất của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? chứa chất nỗi phẫn uất, đau đớn, làm day dứt lương tâm người đọc cho tới bây giờ.

Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao muốn đặt ra một vấn đề nhân sinh lớn: Làm thế nào để con người được sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo, phi nhân tính đương thời? Tác phẩm mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo đã đưa nhà văn lên vị trí hàng đầu trong nền văn xuôi Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 128

Có thể nói Chí Phèo là một trong những tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ – một đề tài chưa bao giờ cũ trong văn chương hiện thực. Chỉ có cách thể hiện của mỗi nhà văn là khác nhau. Tuy nhiên họ đều hướng tới những giá trị căn bản của một tác phẩm văn học hiện thực: nói lên sự thật về cuộc đời của nhân vật và xã hội, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người, đồng thời xoáy sâu vào lời tố cáo tội ác của những kẻ cầm quyền tàn ác bất nhân. Mà ở đó, Chí Phèo là một trong những nhân vật điển hình cho người nông dân bị áp bức bóc lột tới bước đường cùng, thậm chí bị tước đoạt cả quyền làm người và quyền sống giữa cộng đồng người. Nam Cao đã dành cho Chí những lời văn hết sức chân thật và xúc động.

   Cuộc đời Chí là một chuỗi những cay đắng, bất hạnh nối tiếp nhau. Ngay cả việc Chí có mặt trên cõi đời này đã là một nỗi khổ bất đắc dĩ mà Chí phải gánh chịu. Bởi Chí không cha không mẹ, Chí bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ hoang tàn. Dân làng Vũ Đại nhặt được Chí đem về nuôi. Theo thời gian, Chí lớn lên từng ngày, đi ở hết nhà này đến nhà khác để kiếm miếng cơm manh áo nuôi thân. Nhưng cuộc đời nghèo khó đâu để yên cho Chí sống trong kiếp nô lệ yên bình như thế. Chí lưu lạc tới nhà Bá Kiến. Lúc đó Chí đã là một chàng thanh niên đang tuổi xuân phơi phới. Chí hiền lành, chịu khó. Nhưng lại vướng phải nanh vuốt của bà ba dâm đãng, Ba Kiến ghen tuông, còn bà ba trở mặt lăng loàn, đẩy Chí vào tù. Nỗi hận uất ức cùng những năm tháng tù đày biến Chí trở thành một con người hoàn toàn khác khi trở về làng Vũ Đại. Chí được tự do. Chí không phải ở cho bất cứ nhà nào. Nhưng Chí lại bị chính cái phần con trong con người mình điều khiển. Chàng trai hiền lành chất phác ngày nào nay trở thành con quỷ dữ khiến cả làng Vũ Đại khiếp sợ. Một mặt Chí trở thành tay sai của Bá Kiến, một mặt lại đi kiếm tìm con người lương thiện trước đây của mình. Cho tới khi gặp Thị Nở, bản tính Chí trở về nhưng chỉ trong chốc lát Chí lại bị đẩy xuống vực sâu khi Thị Nở đỏng đảnh chối bỏ tình cảm của Chí. Chí uất ức đi tìm Bá Kiến, giết Bá Kiến rồi tự tử để được làm người lương thiện.

Những chuỗi cay đắng cứ thế nối tiếp trong cuộc đời đằng đẵng của Chí. Toàn bộ tác phẩm như một tấm bản đồ với những đường ngoằn nghèo khúc lên khúc xuống. Ở đó, những thung lũng sâu thẳm, những đường nét đứt quãng rời rạc là con đường dành cho Chí. Ban đầu, Chí cũng đẹp lắm. Đẹp cả ngoại hình lẫn tính cách. Chí không cha không mẹ nhưng điều đó không làm ảnh hưởng tới nhân cách của Chí. Chí vẫn chịu khó làm thuê làm mướn để kiếm cái ăn cái mặc cho mình. Nhưng một bước ngoặt lớn đã xảy ra trong cuộc đời Chí khi Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù.

Từ ngày ra tù, Chí trở thành con quỷ dữ đáng sợ của làng Vũ Đại. Trong những phút giây tĩnh lặng, có khi nào lòng trắc ẩn của Chí thức tỉnh và Chí tự cảm thấy sợ con người hiện tại của chính mình không nhỉ? Phải chăng vì điều đó mà Chí vung tay chửi cả làng Vũ Đại với những lời lẽ chua ngoa nhất, xót xa nhất? Đó là cách duy nhất Chí lựa chọn để giao tiếp với mọi người. Nhưng thật đáng tiếc là cách làm của Chí khiến mọi người càng xa lánh Chí hơn. Với bộ dạng hiện tại và nỗi hận sâu sắc trong lòng, Chí không thể nào phát ra được những lời lẽ tử tế, nhẹ nhàng với mọi người được. Mặt khác, vốn dĩ dân làng cũng đã có định kiến không tốt về những kẻ đi ở tù về. Khoảng cách giữa Chí và xã hội ngày càng lớn. Những tiếng chửi của Chí nghe đầy chua xót và oán than. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ: ”Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Tiếng chửi và cũng là lời khóc than của một kẻ giờ đây không còn được xã hội nhìn nhận. Ngay cả tiếng chửi đầy xúc phạm và ô uế cũng không được bất kỳ một ai để ý. Nếu là người bình thường phát ra những tiếng chửi ấy, thế nào cũng sẽ có cãi nhau to. Nhưng người đó lại là Chí, là kẻ đã chẳng còn là con người, chẳng được ai để ý. Thế nên tiếng chửi dù chua chát đến mấy cũng chỉ như một tiếng động vô nghĩa rót bên ngoài tai mọi người. Cho tới tận cùng, Chí chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo. Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này. Người nghe tưởng như Chí đã hóa điên hóa dại. Nhưng không, Chí vẫn nhận thức được hoàn cảnh của mình, nỗi khổ của mình. Chí oán hận cuộc đời, oán hận cả người đã sinh ra mình rồi bỏ mình trên cõi đời này. Có người nói rằng Chí ra nông nỗi này là do chính bản thân Chí không giữ vững được tâm tính của mình. Chí có thể không cần phải chửi, cũng không cần phải lao đầu vào riệu, thay vào đó là tiếp tục đi làm thuê làm mướn như trước đây để kiếm sống qua ngày. Rồi dần dần người ta sẽ lại nói chuyện với Chí. Nhưng điều đáng buồn là xã hội lúc bấy giờ không chấp nhận một kẻ tù tội như Chí. Hơn nữa, mối hận thù trong Chí quá lớn. Chí bị tù oan. Ai là người bị oan mà không ôm hận? Chí cũng vậy thôi. Trong thâm tâm Chí vẫn muốn được làm hòa với mọi người lắm. Nhưng bộ dạng của Chí lúc này khiến ai cũng khiếp sợ. Nam Cao là người dựng lên Chí còn dành cho Chí một câu rợn người: Trông gớm chết. Cứ thế Chí bước vật vờ qua từng trang văn, qua từng ngõ ngách của làng Vũ Đại với thân hình của một con quỷ dữ: Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Với bộ dạng ấy, Chí rất xứng với “nghề” ăn vạ. Cứ uống rượu say, Chí lại đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ. Dường như mối hận ngày nào làm Chí mất đi cảm giác đau đớn về thể xác. Chí rạch lên mặt những đường nét chằng chịt. Bao nhiêu lần máu chảy, Chí chẳng hề gì. Càng hận, Chí càng uống rượu, đã uống rượu là lại chửi. Hết rượu lại đi ăn vạ. Cứ như thế ngày này qua ngày khác, Chí thực sự trở thành nỗi đáng sợ của làng Vũ Đại. Nhưng lại vô tình trở thành tay sai đắc lực cho nhà Bá Kiến, giúp hắn đi đòi nợ, đi đâm thuê chém mướn. Tiếng tăm của Chí lại càng nổi hơn.

Cho tới một ngày, Chí gặp Thị Nở. Cuộc đời Chí lại một lần nữa bước sang một trang mới. Tuy nhiên trang này sáng sủa hơn, tràn đầy niềm tin và hi vọng. Bởi ở đó có tình yêu. Phải chăng người ta thường nói tình yêu là mù quáng. Và vì mù quáng nên hai con người bần cùng nhất của xã hội đã ngã vào nhau? Chí Phèo, Thị Nở, một kẻ dở hơi, một kẻ đã biến thành quỷ dữ, họ lao vào nhau, rồi tự dưng gắn kết với nhau. Chẳng hiểu tình yêu có sức mạnh ghê gớm như thế nào mà đã làm cho hai con người tưởng chừng như không còn ý thức về thân phận mình nay lại tự chủ mang tình yêu đến cho nhau. Chí gặp Thị trong lúc đang say rượu, còn Thị đang nằm ngủ bên gốc chuối. Có thể trong khoảnh khắc ấy, niềm đam mê thân xác khiến họ ngã vào nhau, nhưng sau đó họ không rời đi, mà lại càng gắn bó với nhau hơn. Lúc này tình yêu đã xuất hiện. Chí ngã vào thị trong cơn say, nhưng lại yêu thị trong lúc đã thức tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một con say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn! Một nỗi buồn tê tái. Lẽ ra có người yêu, Chí phải vui mới đúng. Nhưng chính vì vui mà Chí lại thấy buồn. Buồn vì mình đã bỏ lỡ cuộc sống bao lâu nay. Buồn vì những cơn say triền miên quá dài đã lấy đi của Chí những khoảnh khắc tươi đẹp trong cuộc đời. Buồn vì Chí đã không mạnh mẽ làm chủ được bản thân mình, để cho men rượu điều khiển, lấp chìm trong những u mê. Buồn vì tại sao không được gặp Thị sớm hơn, để thức tỉnh sớm hơn. Chí buồn. Một nỗi buồn của một con người thực sự.

Thì ra, Chí vẫn là một người đầy lòng lương thiện. Chỉ là bao lâu nay lòng lương thiện ấy bị che lấp bởi những hận thù và những cơn say. Giờ đây Chí đang rất tỉnh. Chí nhận thức rõ bản thân mình. Chí nhớ tới ước mơ xa xôi ngày nào. Chí đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vài. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Ước mơ thật giản dị và thanh cao biết bao. Nếu Chí không đi tù, có lẽ giờ này Chí đang thực hiện ước mơ ấy rồi. Nhưng ở đời ai có thể nói trước được điều gì? Sau những biến cố đầy bi thảm, giờ này đây lòng trắc ẩn của Chí đang trỗi dậy. Nam Cao đã viết thế này: Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho cuộc đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau. Lúc này đây hơn bao giờ hết Chí khát khao được làm hòa với mọi người. Và Thị Nở là sợi dây duy nhất kết nối Chí trở lại với xã hội loài người.

Bát cháo hành thị dành cho Chí càng khiến Chí xúc động và suy nghĩ nhiều hơn. Cuộc đời Chí chưa bao giờ được ai cho cái gì, nhất là từ một người đàn bà. Xưa nay Chí vẫn phải giành giật mới có được. Vậy mà nay Chí lại được thị dành cho một bát cháo hành thơm ngon, lại đậm đà hương vị của tình yêu. Chí cảm thấy yêu cuộc đời này hơn. Và Chí cũng tự nhủ sẽ bỏ rượu, sẽ làm lại từ đầu, sẽ xây dựng tiếp ước mơ còn dang dở ngày nào.

Nhưng đáng tiếc, thị lại là một người dở hơi. Đang sống vui vẻ hạnh phúc với Chí, thị nhớ lại mình còn có người ba cô ở đời. Thị phải về hỏi ý kiến bà. Bị bà chửi, thị tức giận quay lại trút hết lên đầu Chí. Chí đang bâng khuâng, đang say trong men say tình ái thì bị thị dội ngay cho một gáo nước lạnh. Chí níu lấy bàn tay thị với chút hi vọng cuối cùng. Nhưng rồi tia hi vọng ấy cũng vụt tắt. Thêm một lần nữa Chí rơi vào bi kịch bị cự tuyệt làm người. Những tưởng thị sẽ cùng Chí sinh con đẻ cái, cùng gây nên một mái âm nho nhỏ. Nhưng mọi thứ đã không mỉm cười với cuộc đời đầy bi đát của Chí. Trong cơn tuyệt vọng, Chí lại lấy rượu ra uống, uống cho quên hết mọi chuyện. Nhưng càng uống lại càng tỉnh. Hơi cháo hành thơm nồng hòa lẫn với men rượu làm Chí càng đớn đau hơn. Chí đã yêu, yêu rất thật lòng. Ai khi yêu mà không buồn khi bị người yêu chối bỏ? Hơn nữa Chí lại là người đang khát khao được yêu, được làm người. Nỗi đau trong Chí càng lớn hơn, khắc khoải hơn. Chí lại như một con quỷ dữ tạm ngủ quên trong tình yêu, nay vùng dậy và nhất định lần nay con quỷ dữ ấy phải giết chết một ai đó mới có thể hả giận.

Chí toan tính đến giết chết hai cô cháu nhà thị Nở vì đã cự tuyệt mình. Nhưng bước chân Chí lại bước đến nhà Bá Kiến. Trong lúc nửa tỉnh nửa say, mối hận thù ngày nào lại trào dâng trong Chí, đưa bước chân Chí tiến thẳng tới kẻ đã hại đời Chí ra nông nỗi này. Lần này Chí không tới để đòi tiền uống rượu nữa mà Chí tới để đòi quyền được làm người lương thiện. Chí đã nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí muốn được làm hòa với mọi người nhưng không được. Từ khi bị vào tù, mọi người đã nhìn nhận Chí là một con người khác. Ra tù trở về làng, ai cũng khinh ghét Chí. Đã thế, cha con Bá Kiến lại lợi dụng Chí, biến Chí thành kẻ đâm thuê chém mướn, cho tới khi không còn ai nhìn nhận Chí nữa thì Thị Nở xuất hiện kéo Chí dậy. Nhưng cho tới cùng, thị cũng lại hắt hủi Chí. Giờ đây Chí không thể nào ngóc dậy được nữa. Chí cảm thấy mình đang sống khổ hơn là chết. Càng sống, Chí lại càng làm nên tội ác, càng khiến mọi người xa lánh và khinh bỉ. Thế nên, Chí xác định con đường cuối cùng của mình chỉ có thể là cái chết. Chí lao tới đâm chết Bá Kiến bằng những nhát dao chí mạng, bao nhiêu uất hận Chí dồn hết vào con dao. Bá Kiến chết, Chí cũng tự tử chết luôn.

Chí chọn cái chết vì Chí biết trước rằng kiểu gì Chí cũng sẽ bị xử chết vì tội giết Bá Kiến. Sống thêm ngày nào chỉ khổ thêm ngày đó. Vì vậy thà Chí tự kết liễu cuộc đời mình còn hơn để rơi vào tay bọn quan liêu đáng ghét kia.

Chí chết, nhưng lại có một Chí Phèo con đang lớn dần lên trong bụng thị Nở. Bá Kiến chết còn có Lý Cường tiếp nối. Cuộc đời người nông dân vẫn còn khổ nhiều. Chí Phèo chỉ là một trong những đại diện tiêu biểu cho lớp người bị bần cùng hóa tới mức đánh mất cả nhân tính, bị tha hóa cả về thể xác lẫn tâm hồn. Đồng thời, qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao cũng thể hiện niềm cảm thương sâu sắc tới những cuộc đời nổi trôi bất hạnh, sống trong chế độ phong kiến tàn ác bất nhân. Ở đó, họ không được làm chủ bản thân mình, luôn bị đe dọa bởi những thế lực cầm quyền gian ác. Ông cũng thầm tố cáo tội ác của giai cấp thống trị đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng, khiến họ sống không bằng chết.

   Tác phẩm khép lại nhưng hình ảnh về một anh Chí hiền lành chất phác cùng với hình ảnh một con quỷ dữ chuyên đi rạch mặt ăn vạ mang tên Chí Phèo vẫn để lại những niềm cảm thương sâu sắc trong lòng người đọc. Không chỉ một Chí Phèo mà còn rất nhiều Chí Phèo đang tồn tại trong xã hội ấy. Bằng lời văn chân thật, giàu cảm xúc, nhà văn Nam Cao đã khắc họa thành công nhân vật điển hình của mình. Từ đó cho người đọc cảm thấu hoàn cảnh bi đát của những người nông dân trong xã hội xưa.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 129

Trong văn học Việt Nam có rất nhiều tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, Nam Cao là một trong số những tác giả tiêu biểu in dấu ấn sâu đậm. Trước cách mạng tháng Tám, Nam Cao chủ yếu viết về số phận bần cùng của những người nông dân trong xã hội cùng với đó là tầng lớp trí thức tiểu tư sản giàu ước mơ, giàu khát vọng nhưng bị cơm áo gạo tiền ghì sát đất. Trong số những tác phẩm để đời của mình, tác phẩm Chí Phèo là một trong những tác phẩm nổi bật nhất, phản ánh chân thực tình cảnh tha hóa, bần cùng hóa của người nông dân trong xã hội cũ. Chí Phèo từ một con người thiện lương trong sáng đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, đó chính là hồi chuông cảnh tỉnh phê phán xã hội tàn ác đã biến đổi con người.

Số phận cay đắng nghiệt ngã đã khiến cho Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, Chí lớn lên bởi bàn tay yêu thương của người dân làng Vũ Đại, năm 20 tuổi Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh làm việc cho nhà Bá Kiến, Chí ôm ấp những giấc mơ những mộng tưởng của mình, nhưng than ôi khi mộng tưởng và giấc mơ chưa thành sự thật, Chí đã bị cuộc đời giáng cho số phận hẩm hiu đau khổ. Chí được bà ba kêu lên bóp chân khi còn làm canh điền cho nhà Bá Kiến, nhưng không ngờ vì cơn tức giận, Bá Kiến đã tống Chí vào tù, ở tù nhiều năm Chí đã thay đổi hình dạng và tính cách không còn là anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành như ngày xưa mà bây giờ đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí trở về với hình hài: “Cái đầu tròn trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, hai mặt gườm gườm trông gớm chết, trông đặc như thằng săng đá”. Hình hài của Chí đã bị hủy hoại bởi nhà tù thực dân, đáng sợ hơn Chí còn bị hủy hoại cả nhân tính. Vừa ra tù, trở về làng Vũ Đại Chí đã ngồi uống rượu, chí uống ssay vừa đi vừa chửi. Tiếng chửi của Chí có lớp lang từ trên xuống dưới, Chí chửi trời, chí chửi đời, chửi cha mẹ đứa nào đã đẻ ra Chí, Chí chửi cả người dân làng Vũ Đại nhưng không có ai đáp lại lời Chí, tiếng chửi của Chí trở nên vô nghĩa, thừa thải, đáp lại là tiếng sửa của mấy con chó trong làng, chỉ với cách miêu tả tiếng chửi Chí Phèo, Nam Cao đã cho thấy đươc sự méo mó về nhân cách của người nông dân trong xã hội cũ khi bị xã hội thực dân phong kiến nhào nặn, bóp méo. Tiếng chửi của Chí bị hạ ngang bậc với những con chó trong làng, Chí Phèo bị mọi người coi khinh xem thường thậm chí người ta gọi chí là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Từ đây chúng ta thấy nhân vật Chí Phèo đang từng bước đi vào con đường tha hóa, bần cùng hóa về nhân cách lẫn hình hài. Cuộc đời của Chí trở nên bi đát ngay từ lúc Chí bị vu oan, bị bỏ tù. Chí Phèo vừa về đến làng Vũ Đại Chí đã đến ngay nhà Bá Kiến để đòi nợ, nhưng Chí Phèo đâu thể hơn được sự lọc lõi rành đời của Bá Kiến, ông Bá thét ra lửa ấy đã biết cách đảo ngược tình thế, tận dụng Chí Phèo, mua chuộc Chí đến nỗi Chí trở thành tay sai của Bá Kiến. Chí Phèo vẫn không ý thức được sự nham hiểm của người đã hại mình. Lần thứ hai Chí đến nhà Bá Kiến, nhưng lại bị Bá Kiến lợi dụng trở thành kẻ đi đòi nợ Đội Tảo. Rõ ràng trong con mắt của Bá Kiến Chí trở thành kẻ tay sai không hơn không kém, Bá Kiến tìm mọi cách lợi dụng Chí để thực hiện mưu đồ của chính mình. Tấn bi kịch ấy sẽ tiếp tục kéo dài không dứt nếu như một ngày nọ, Chí tình cờ gặp Thị Nở.  Tình yêu giữa Chí Phèo và thị đã nảy nở sau lần Chí say khướt, tỉnh dậy Chí được thị Nở cho bát cháo hành, thật kì lạ, bát cháo hành đơn giản ấy đã đánh thức trong Chí sự lương thiện bấy lâu nay bị lãng quên, bị chà đạp thậm chí, bị bán rẻ. Chí từng nhớ lại giấc mơ hồi trẻ của mình Chí mong có một ngôi nhà nhỏ, vợ cày thuê chồng cuốc mướn, khá hơn thì mua trâu để xây dựng gia đình mình, Chí nhớ lại thời trai trẻ rất đỗi huy hoàng của mình. Nhưng than ôi, hiện thực mà Chí phải đối mặt hiện giờ đau khổ quá, bẽ bàng quá, Chí Phèo muốn làm lại cuộc đời, nhưng không biết bắt đầu từ đâu và Thị Nở trở thành tia hy vọng thắp sáng cuộc đời Chí. Ngoài Thị Nở ra trong làng Vũ Đại không có ai giúp đỡ, bênh vực hay lo lắng cho Chí, Thị Nở đã tách ra khỏi đám đông để đến với Chí thức dậy trong Chí con người thiện lương, cao đẹp từ bao giờ, thị là thanh âm thuần khiết nhất, là chiếc cầu nối là tia hi vọng sẽ đưa Chí từ cuộc đời tăm tối trở về với cuộc đời của con người bình thường, trở về với những ước mơ thời trẻ ngày nào của Chí. Nhưng thật không may giấc mơ chỉ là giấc mơ, hiện thực không bao giờ được như mong ngóng của Chí Phèo, Chí muốn sống bình yên, lương thiện, hạnh phúc nhưng điều đó không dễ dàng, bởi cả làng Vũ Đại đã mặc định Chí là con quỷ dữ, là kẻ phá làng phá xóm, là một thằng đi ở tù vể gây hại cho xóm làng. Chí không xứng đáng có được một cuộc sống bình yên, cũng như một gia đình hạnh phúc, Chí phải bị trừng trị, phải chịu cảnh xa lánh, khinh rẻ của mọi người. Có lẽ khi đang mãi mộng mơ một cuộc sống yên bình với Thị Nở Chí Phèo không nghĩ đến điều này. Chí vẫn nghĩ một cách giản đơn nếu bản thân thay đổi thì cuộc đời sẽ trở nên bớt nhọc nhằn hơn với Chí. Sự quan tâm, săn sóc của Thị Nở đã khiến Chí cảm động, đã khiến Chí lại khát khao được sống được hòa nhập. Nhưng Chí đâu có biết rằng, định kiến một khi đã tồn tại sẵn thì rất khó thay đổi. Bà cô Thị Nở – một nhân vật được Nam Cao xây dựng với dụng ý thể hiện rõ quan điểm của người dân làng Vũ Đại đã không chấp nhận Chí Phèo, bà ngăn cản Thị đến với Chí, bà dành những lời mỉa mai cay độc dành cho Chí, bà phá tan hạnh phúc của cháu bà với Chí. Thị nở người phụ nữ xấu ma chê quỷ hờn, nhưng có trái tim lương thiện tin theo lời bà cô của thị, rời bỏ Chí khi thắp sáng lên niềm hi vọng được trở lại làm người cho Chí. Giấc mộng của Chí phèo tan vỡ khi thị nở rời xa Chí, Chí đau khổ, cảm thấy cô đơn, lạc lõng, mất hi vọng vào bản thân. Chí oán thù con người, Chí lại uống rượu những bước chân chếnh choáng dẫn chí đến nhà Thị Nở nhưng lý trí lại mách bảo phải đi về nhà Bá Kiến. Có lẽ trong sự đau khổ đến tận cùng, Chí thức tỉnh, Chí biết kẻ nào đã gây ra cho Chí những cảnh bi đát này, không phải là bà cô Thị nở, không phải là Thị Nở khi rời bỏ Chí mà chính là Bá Kiến, chính hắn đã khiến đời Chí tan nát, vì thế hắn phải trả giá. Chí vác dao đến Nhà Bá Kiến, lần này không phải để đòi tiền uống rượu cũng không phải để trở thành tay sai của Bá Kiến mà Chí đến để đòi nợ, Chí đòi lại những gì đã mất trong suốt những năm tháng sống ở trên đời: Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất hết những vết chai này?  Chí Phèo văng dao tới giết chết Bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình. Cái chết của Chí Phèo không còn vô nghĩa như những tiếng chửi trước đây của Chí, Chí chết để thành người, Chí biết ngọn nguồn của mọi đau khổ và kết thúc nó. Chí đã có tình yêu thật đẹp với Thị Nở, chính thứ tình yêu ấy khiến Chí thêm can đảm kết thúc nguyên nhâm gây ra nỗi đau của Chí. Nếu như ngày trước Chí sống như một con vật chỉ biết đâm thuê chém mướn, phá hoại sự bình yên của dân làng, thì giờ đây Chí đã chết như một con người khi biết nhận thức những sự việc ở xung quanh mình, biết cảm nhận tình yêu, biết nỗi khổ đâu đớn của mình xuất phát từ đâu. Tác giả để cho Chí Phèo tự kết liễu đời mình đã đưa ra những thông điệp đầy ý nghĩa: Đó là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống vùng lên, tuy manh động, tự phát, liều lĩnh, tuyệt vọng nhưng không phải là hành động lưu manh. Cái chết của Chí đáng thương, là lời tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẩy người nông dân vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa, đẩy họ tới cái chết bi thảm. Xã hội ấy không có chỗ cho người lầm lạc trở về cuộc sống lương thiện.Thể hiện quan niệm hiện thực nhạy bén của Nam Cao: tình trạng xung đột giai cấp ở nông thôn Việt Nam hết sức gay gắt, quyết liệt, không thể xoa dịu được, chỉ có thể được giải quyết bằng những biện pháp quyết liệt. Môi trường sống thiếu tình thương của làng Vũ Đại đã đẩy Chí Phèo dấn sâu vào con đường lưu manh hóa. Cánh cửa tình thương duy nhất – thị Nở, vừa hé mở đã đóng sập lại, Chí Phèo bị cự tuyệt hoàn toàn và sự bế tắc đã lên đến đỉnh điểm, dẫn tới sự bừng ngộ ngẫu nhiên mà tất yếu, dẫn tới kết cục bi thảm. Môi trường sống có thể cứu vớt hoặc vùi lấp con người. Chí Phèo không phải là hiện tượng cá biệt mà là hình tượng điển hình có tính phổ biến trong xã hội bấy giờ. Xây dựng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã phản ảnh thực trạng số phận của người nông dân trong xã hội cũ, không chỉ vậy, nhân vật Chí Phèo còn thể hiện sự đau đớn, xót xa, dằn vặt của tác giả khi phải chứng kiến tình trạng bần cùng hóa về nhân hình và nhân tính của người nông dân. Xây dựng nhân vật Thị Nở Nam Cao muốn cho người đọc nhận thấy dù cuộc sống có khó khăn đến cỡ nào thì vẫn có những con người nhân ái giơ tay để che chở, khơi dậy sự lương thiện trong mỗi chúng ta. Tác phẩm Chí Phèo khép lại với rất nhiều suy ngẫm, với nhiều thông điệp bất ngờ mà tác giả truyền tải đến người đọc.



Chí Phèo đã trở thành tác phẩm tố cáo mạnh mẽ xã hội thuộc địa phong kiến tàn bạo đã cướp đi cả nhân hình và nhân tính của người nông dân lương thiện đồng thời nhà văn phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi tưởng như họ đã bị biến thành quỉ dữ. Nam Cao đã rất thành công khi sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật: Xây dựng nhân vật điển hình vừa có ý nghĩa tiêu biểu vừa sống động, có cá tính độc đáo và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, logic. Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hoá giàu kịch tính. Ngôn ngữ sống động, vừa điêu luyện lại vừa gần gũi, tự nhiên; giọng điệu đan xen biến hoá, trần thuật linh hoạt.

Phân tích nhân vật bà cô Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo 130

Chí Phèo là truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao và nhanh chóng trở thành tác phẩm đỉnh cao của văn học hiện thực phê phán. Tác phẩm xoay quanh nhân vật Chí Phèo cùng bi kịch bị tha hóa và bị chối bỏ quyền làm người. Chính xã hội phong kiến đen tối cùng với định kiến nghiệt ngã của xã hội đã đẩy Chí đến con đường cùng không lối thoát. Đại diện cho những định kiến của người dân làng Vũ Đại chính là bà cô Thị Nở, người đã kiên quyết phản đối chuyện tình của Chí Phèo, Thị Nở.

Bà cô Thị Nở không được Nam Cao tập trung miêu tả mà chỉ xuất hiện thoáng qua ở phần cuối của tác phẩm. Tuy không xuất hiện nhiều nhưng bà cô Thị Nở lại đóng vai trò nút thắt, bằng những câu nói vô tình, cay nghiệt, bà cô Thị Nở không chỉ dập tắt ước mơ về hạnh phúc gia đình của đứa cháu ( Thị Nở) mà còn đẩy bi kịch của Chí Phèo lên đến đỉnh điểm và cuối cùng buộc Chí phải lựa chọn cái chết đầy đau đớn.

Bà cô Thị Nở là người đàn bà ế chồng, bà ta cũng là người thân duy nhất của Thị Nở. Tuy mang hoàn cảnh và số phận đáng thương như Thị Nở nhưng bà ta lại không có chút yêu thương, đồng cảm với người cháu mà thường trực suy nghĩ đố kị, ghen ghét. Khi nghe Thị Nở nói về ý định lấy chồng, sự đố kị đã bộc phát thành những lời mắng chửi đầy cay nghiệt. Bà ta không chỉ chửi mắng thậm tệ đứa cháu gái duy nhất của mình mà còn miệt thị gay gắt đối với Chí Phèo.

Thái độ gay gắt của bà cô Thị Nở xuất phát từ sự ích kỉ đến cực đoan trước hạnh phúc Thị  , thứ hạnh phúc mà cả cuộc đời bà ta mãi chẳng thể có được. Có lẽ rằng bà cô ấy mong muốn người cháu phải giống như mình, phải sống đơn độc đến hết cuộc đời. Bên cạnh những suy nghĩ cá nhân ích kỉ, thái độ của bà cô Thị Nở còn là đại diện cho những định kiến của người dân làng Vũ Đại. Bà cô Thị Nở từng ném vào mặt cháu những lời cay nghiệt: “Đàn ông đã chết hết hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”.

Trong mắt bà cô Thị Nở hay chính là cái nhìn định kiến của người dân làng Vũ Đại thì Chí Phèo chỉ là kẻ không cha không mẹ, một con quỷ dữ cần phải loại bỏ khỏi cộng đồng. Không một ai biết được sự thay đổi của Chí Phèo ngoài Thị Nở, dù có nói rằng Chí đã hoàn lương, Chí muốn trở về với cuộc đời lương thiện thì cũng không ai tin. Cái chết của Chí Phèo tuy là cái kết bi kịch nhất, đau thương nhất nhưng cũng lời phê phán sâu sắc nhất với xã hội phong kiến đen tối, nơi mà con người khao khát sống lương thiện cũng là một điều xa xỉ không thể thực hiện.

Bà cô Thị Nở không xấu nhưng bà ta lại là người ích kỉ, lạnh lùng. Cũng giống như bao người dân làng Vũ Đại, bà ta có quyền không công nhận Chí Phèo bởi những tội lỗi mà Chí gây ra không dễ dàng xóa bỏ nhưng bà ta không có quyền chà đạp, dập tắt hi vọng, hạnh phúc của người khác, nhất là khi người đó lại là đứa cháu duy nhất của bà ta. Có lẽ bà cô Thị Nở cũng không thể lường trước được cái chết đầy bi thảm của Chí Phèo nhưng việc phản đối quyết liệt cuộc hôn nhân của Thị Nở cũng đồng nghĩa với việc đẩy đứa cháu vào cuộc sống đau khổ, đơn độc đến hết cuộc đời, bởi ngoài Chí Phèo liệu có người đàn ông nào thật lòng yêu thương, dám yêu thương đối với người đàn bà như Thị.

Bà cô Thị Nở không phải nhân vật chính nhưng sự xuất hiện của bà ta lại mang tính quyết định đến sự phát triển của mạch truyện. Bà cô Thị Nở không chỉ xuất hiện với tư cách là một cá nhân mà còn là đại diện cho định kiến nghiệt ngã của cả một xã hội đen tối.

Phân tích nhân vật Chí Phèo 131

Chí Phèo – một con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một nhân vật điển hình trên những trang văn đầy ai oán, bi thương của nhà văn Nam Cao. Chính tấm lòng lương thiện và sự căm phẫn những kẻ cầm quyền trong xã hội phong kiến cũ tàn ác bất nhân của Nam Cao đã cho ra đời một Chí Phèo dữ tợn và hung hãn trong tác phẩm cùng tên của ông. Đây cũng chính là sản phẩm của những kẻ bất lương trong giai cấp thống trị, là nhân vật mà khi nhìn vào ta sẽ hiểu được thảm cảnh của xã hội cũ tha hóa và biến chất như thế nào.

Như đã nói, Chí Phèo là đứa con tinh thần của Nam Cao. Ông đã nhào nặn nên nhân vật của mình từ lòng xót thương cho số phận cay đắng của những người nông dân lương thiện bị xã hội xô đẩy, chèn ép đến mức mất cả nhân tính. Họ không còn cách nào có thể đứng lên để làm lại cuộc đời. Chí cũng vậy, anh đã trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, và rồi lòng hướng thiện thức tỉnh cũng là khi Chí tự kết liễu cuộc đời mình khi mới ngoài bốn mươi tuổi.

Một cuộc đời hơn bốn mươi năm, không cha không mẹ, không người thân thích. Lúc mới đẻ, Chí bị bỏ rơi ở một cái lò gạch cũ của làng Vũ Đại. Lớn lên, Chí đến ở cho nhà Bá Kiến. Nhưng bà vợ thứ ba lăng loàn của ông đã hại Chí phải vào tù. Cuộc sống tù đày đã làm Chí từ một người lương thiện, hiền lành, tử tế trở thành kẻ hung hãn, dữ tợn. Khi trở về, Chí lại rơi vào tay Bá Kiến, bị hắn nịnh bợ, cho uống rượu nên Chí đương nhiên trở thành tay sai cho hắn, chuyên đi đâm thuê, chém mướn, đòi nợ. Cả làng Vũ Đại không ai còn nhìn nhận Chí nữa. Bị xã hội ruồng rẫy, Chí càng trở nên bê tha và cô độc.

Cả ngày lẫn đêm, không biết Chí tỉnh lúc nào, say lúc nào. Men rượu cứ thế lấp liếm tâm hồn Chí. Những nỗi oan thù hằn sâu trong tâm trí hắn. Vì thế, ngay khi lật giở trang văn đầu tiên của tác phẩm, ta đã thấy ngập tràn những tiếng chửi của Chí. “Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả những chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại”. Nhưng chẳng ai thèm đáp lại lời chửi của hắn. Bởi không một ai nhìn nhận Chí là người nữa. Nên dù Chí có chửi thế nào cũng chẳng có nghĩa lý gì.

Nhìn cảnh tượng này, Chí thật đáng thương làm sao! Tiếng chửi tưởng chừng như vô nghĩa, như nước đổ lá khoai, không một ai đoái hoài. Nhưng Nam Cao cố tình dựng lên cảnh này để thấy rằng con người sống trong xã hội bị đàn áp quá mức ấy đã tha hóa, đã biến chất như thế nào. Tiếng chửi của Chí cũng là tiếng khóc lóc thảm thiết, tiếng gào thét trong tuyệt vọng. Khóc vì giờ đây con người của Chí đã bị biến thành con quỷ dữ. Nhưng làm quỷ dữ cũng không xong, vì chẳng ai sợ Chí cả. Họ chỉ khinh Chí thôi. Cuộc đời Chí là đầy rẫy những nỗi bất hạnh. Ngay từ khi sinh ra đã không có được sự nuôi nấng của cha mẹ, không được một giọt sữa, lớn lên không gia đình, phải đi ở thuê. Mà lại ở ngay trong nhà Bá Kiến – kẻ tàn ác, bất nhân vô cùng. Thế nên cũng quá dễ để hiểu tại sao Chí lại trở thành một kẻ nát rượu như bây giờ.



Chí cứ uống rượu, hết rượu lại đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ để đòi tiền. Chí chẳng còn cảm giác đau đớn là gì nữa. Là do men rượu làm Chí mất cảm giác hay là do lòng Chí đã trai sạn quá nhiều? Chí bị Lý Cường đánh, “tiếng đấm, tiếng đá nhau bình bịch, thôi cứ gọi là tan xương”, nhưng chưa đủ, Chí lại tự mình cầm mảnh chai rạch vào mặt, máu ra loe loét. Thấy Chí vậy, mọi người tuôn đến xem nhưng không một kẻ nào xót thương cho Chí. Họ đến như để xem một trò vui thường tình. Cụ bá trở về, thấy vậy liền nịnh hắn vài câu, Chí nguôi ngoai nghe lời cụ. Trong lòng kẻ đầy nham hiểm kia hẳn có âm mưu nên mới dụ dỗ ngon ngọt Chí. Lão muốn lợi dụng Chí trở thành tay sai cho mình. Vì Chí đã sẵn máu liều, nếu để cho đi đòi nợ thuê hẳn là được việc. Từ đấy, Chí lại càng lún sâu thêm vào vũng bùn đen ngòm do Bá Kiến bày ra.

Mãi cho đến khi gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu xí, xấu đến ma chê quỷ hờn, xấu đến mức Nam Cao đã phải dành hết tất cả những gì xấu nhất dành cho thị. Cái mũi bạnh ra, cái môi như con đỉa xù… Là một người đàn bà, nhưng Nam Cao lại không hề dành cho thị một chút duyên dáng hay nữ tính nào. Đã thế, thị lại còn dở hơi, ngù ngờ. Và tất nhiên, thị ế chồng. Cuộc gặp gỡ đầy ngẫu nhiên của Chí và thị như một vận may cho cả hai người. Bởi Chí lần đầu tiên biết đến một người phụ nữ, còn thị cũng lần đầu tiên được một người đàn ông để ý.

Mà không biết là Chí để ý thị hay là do men rượu còn nồng nàn, mê man nên Chí đã làm liều với thị. Hai người gặp nhau trong một đêm trăng thanh gió mát. Thị ra bờ sông nghỉ rồi ngủ quên, còn Chí trong men rượu ngà ngà đã va vào thị. Hai còn người cùng chung một tầng lớp, một đẳng cấp, một số phận đã lao vào nhau như tiếng sét ái tình.


Sau đêm ấy, một biến cố lớn đã xảy ra làm thay đổi cuộc đời Chí. Chỉ tỉnh rượu. “Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài”. “Lòng mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên, Chí thoát khỏi những cơn say. Lần đầu tiên Chí ý thức về cuộc sống xung quanh, về cuộc đời mình. Những cảnh vật quen thuộc khiến Chí thấy nao lòng, rung động. Tiếng mái chèo gõ cá, tiếng chim hót líu lo, tiếng mọi người đi chợ vải nói chuyện với nhau… Tất cả những thứ ấy hàng ngày vẫn diễn ra mà sao cho đến tận hôm nay Chí mới cảm nhận được. Lúc này, Chí trở nên hiền lành một cách lạ thường.

Mà không, Chí đã từng rất hiền như thế. Chí cũng đã có một ước mơ thật trong sáng, thật đẹp: Có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm… Nhưng ước mơ ấy giờ đâu rồi? Một chàng trai hiền lành, tốt bụng nay đâu? Đây có phải là con người thực sự của Chí không? Những ngày đi ăn vạ, đi cướp giật do đâu mà có? Chí lại nghĩ về tuổi già, nghĩ về sự cô độc. Chí buồn. Chí sợ. Sợ rồi mai này khi không còn sức đi ăn vạ nữa, không thể làm liều được nữa, Chí sẽ sống ra sao? Liệu rằng có ai ở bên cạnh Chí không? Chí không sợ tuổi già, không sợ ốm đau bệnh tật, mà sợ mình sẽ cô đơn không người hỏi han trò chuyện.

Chí tự nhận thấy mình cần phải thay đổi. Hay nói đúng hơn là tìm lại chính mình. Và thị – người phụ nữ xấu nhất làng Vũ Đại ấy là tia hi vọng sáng chói cho cuộc đời Chí lúc này. Chí thèm trở lại làm người lương thiện, làm người mà trước đây Chí đã từng làm. Khi ấy trên mặt Chí còn chưa một có vết sẹo nào hằn in. Mối tình bất chấp với Thị khiến Chí thay đổi chỉ sau một đêm. Đặc biệt là khi được thị “ban” cho bát cháo hành. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí được săn sóc bởi bàn tay một người đàn bà. Xúc động lắm chứ. Mối tình ấy cũng thật đẹp. Hai người xứng đôi vừa lứa, môn đăng hậu đối, đúng là một cặp trời sinh. Chí toan tính rủ thị sang ở cùng một nhà cho vui. Rồi Chí sẽ làm lại từ đầu, sẽ biến ước mơ của mình thành sự thật.

Nhưng mọi chuyện đâu có êm đẹp như Chí nghĩ. Ở với thị được năm ngày năm đêm thì thị lại lên cơn dở hơi. Thị ngừng yêu, khoan để về hỏi ý kiến bà cô đã. Bị bà cô chửi mắng té tát, thị ngoăn ngoắt trút hết giận lên đầu Chí. Trong chốc lát, thị xả vào mặt Chí những lời lẽ chua chát nhất, cay đắng nhất khiến Chí sững sờ. Chí đang tỉnh rượu trong cơn say men tình ái thì lại bị thị dội cho một gáo nước lạnh. Chao ôi là buồn. Lần đầu tiền được yêu và có lẽ cũng là lần duy nhất. Chí thất tình. Một nỗi đau đớn tột cùng của một kẻ yêu thật lòng, yêu chân thành và mãnh liệt. Chí chạy theo thị, nắm lấy tay thị nhưng niềm hi vọng mong manh níu kéo thị đã không thành. Thị gạt phắt tay Chí, còn giúi cho hắn ngã khoèo xuống đất. Cảnh tượng ấy thật đau lòng và đáng thương.



Bị cự tuyệt, Chí khóc rưng rức. Bao nhiêu lần Chí khóc, nhưng lần này là nước mắt của sự tuyệt vọng, của niềm đau. Đến ngay cả người phụ nữ dở hơi, xấu xí cũng không nhìn nhận Chí nữa. Chí biết làm gì nữa đây? Chí muốn làm người lương thiện nhưng thị đã đi rồi. Ai sẽ cùng Chí bước vào tuổi già mà không cô đơn? Ai sẽ là người vợ dệt vải để Chí làm người chồng cày thuê cuốc mướn lo lắng cho vợ con? Chẳng còn ai nữa. Thị quay lưng đi, nghĩa là cả thế giới sụp đổ với Chí. Chí lại chìm vào những cơn say. Nhưng lần này, Chí càng uống càng tỉnh, mùi hơi rượu lẫn với mùi cháo hành khiến Chí tiếc thương, lưu luyến vô cùng.

Chí lại vùng dậy, cầm dao đi với ý định giết chết cả nhà thị, giết chết cái con khọm già đã xúi thị quay lưng với Chí. Nhưng ngòi bút của Nam Cao đã vẽ đường cho Chí đi thẳng một mạch đến nhà Bá Kiến. Lần này, cũng trong cơn say, nhưng Chí không đến để đòi tiền như mọi khi nữa. Chí dõng dạc nói to “Tao đến để đòi lương thiện”. Dường như, Chí đã hiểu ra tất cả mọi chuyện, Chí biết mình đã đến bước đường cùng. Chí không muốn tiếp tục chìm đắm trong những con say dài nữa. Chí muốn được chết, chết cho chính mình, chết một lần duy nhất để được quay trở lại làm người lương thiện. Chí lao con dao tới đâm chết Bá Kiến rồi cũng tự kết liễu cuộc đời mình.

Chí chết. Chí đã tự giết chết một anh Chí say khướt, một kẻ đã tha hóa nhân cách, chuyên đi cướp giật, rạch mặt ăn vạ. Chết để con người ngày xưa hiền lành, tốt tính của Chí được sống lại. Chí chết, Bá Kiến chết nhưng sẽ còn nối tiếp Lý Cường, còn con của Chí có thể đang lớn dần trong bụng thị. Nhưng ít nhất, Nam Cao cũng đã mạnh tay giết chết kẻ đại diện của chế độ cầm quyền gian ác, tàn độc.

Tác giả đã gửi gắm rất nhiều tư tưởng và thông điệp của mình qua hình ảnh của Chí Phèo. Một kẻ tha hóa đạo đức, bị xã hội ruồng rẫy. Nam Cao vừa xót thương vừa oán giận Chí. Nhưng sau cùng, ông cũng vẫn nêu cao bản chất lương thiện của Chí. Chí đã phải đối cả mạng sống của mình để mong tìm lại được chính mình. Chí chính là hiện thân cho những người nghèo khổ của xã hội, cũng là tiếng khóc gào thét của những kẻ đang đứng giữa ranh giới của hai bờ vực thiện – lương. Và Chí cần có nhiều sự thấu hiểu, sự giúp đỡ của xã hội, của nhân loại để được quay trở lại làm người.

Cảm nhận về chi tiết bát cháo hành trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao. 132

Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Nhắc đến Nam Cao là nhắc đến kiệt tác Chí Phèo với sự thành công xuất sắc về mặt nội dung. Nhưng bên cạnh đó, để tạo nên thành công cho tác phẩm, cũng không thể không nhắc đến những đóng góp về phương diện nghệ thuật. Trong đó các chi tiết nghê thuật có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là chi tiết bát cháo hành Thị Nở mang cho Chí Phèo.

    Chí Phèo vốn là một đứa trẻ mồ côi, lớn lên là một anh nông dân lương thiện, có những ước mơ, khát vọng đẹp đẽ. Nhưng vì sự ghen tuông của Bá Kiến khi bắt gặp Chí bóp chân cho bà ba nên Chí đã bị Bá Kiến đẩy vào nhà tù thực dân bảy, tám năm. Nhà tù thực dân đã nhào nặn ra một Chí Phèo với ngoại hình gớm giếc: cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, trên người đầy những hình xăm trổ và lấy nghề rạch mặt ăn vạ để sống. Trên mặt hắn là những vết sẹo dài, lằn sâu không gì có thể xóa bỏ được. Chí đã bị xã hội thực dân nửa phong kiến làm cho tha hóa về nhân hình và nhân tính.

    Trong một lần Chí Phèo đi uống rượu từ nhà Tư Lãng trở về, hắn không về thẳng nhà như mọi lần mà ra bờ sông tắm. Cũng chính lúc ấy, Chí nhìn thấy Thị Nở đang nằm ở gốc chuối. Bất chấp những lời kêu la của Thị Nở, trong khung cảnh của đêm trăng sáng giữa Chí Phèo và Thị Nở đã nảy sinh mối tình đẹp đẽ, nhưng chỉ vẻn vẹn trong năm ngày. Nửa đêm hôm ấy, Chí Phèo bị cảm nặng, Thị Nở dìu Chí vào lều và sáng hôm sau mang cho Chí một bát cháo lớn với ý nghĩ: Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành, ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà … . Trong ý nghĩ ấy không chỉ là trách nhiệm mà còn là tình thương, sự quan tâm, lo lắng rất đỗi chân thành giữa con người với con người. Chi tiết bát cháo hành chứa đựng nhiều ý nghĩa, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả.

Đối với Thị Nở, bát cháo hành thể hiện ý thức trách nhiệm của Thị Nở với Chí Phèo: mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau . Nhưng không chỉ vậy, bát cháo còn là tình yêu thương chân thành, thật lòng của Thị Nở dành cho Chí Phèo: Cái thằng liều lĩnh ấy kể ra cũng đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình. Như vậy vừa xuất phát từ trách nhiệm, nghĩa vụ, vừa xuất phát từ tình yêu thương, Thị Nở đã đem bát cháo đến cho Chí Phèo.

    Đối với Chí Phèo, trước hết nó là bát cháo giúp hắn giải cảm, giúp hắn vượt qua trận ốm. Nhưng nếu bát cháo hành chỉ có ý nghĩa như vậy thôi thì nó đã không xứng danh là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Bát cháo hành đã giúp Chí thức tỉnh, đi từ cõi quên trở về cõi nhớ, giúp Chí giải độc tâm hồn, dần lấy lại phần nhân tính trong mình. Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt, đó là sự xúc động tột cùng của Chí khi lần đầu tiên trong đời nhận được sự quan tâm, săn sóc từ một người khác, mà đây lại là một người đàn bà. Từ trước đến nay hắn chưa bao giờ tự nhiên có cái gì, mọi thứ đều do dọa nạt, cướp giật mà có. Từ đó cũng cho thấy sự thê thảm, bị gạt ra khỏi lề xã hội của Chí trong hoàn cảnh hiện tại. Không chỉ vậy, bát cháo hành còn gợi dậy trong Chí tình yêu, khát khao được làm hòa với mọi người, được trở về làm người lương thiện: Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Như vậy, chỉ với một bát cháo hành nhưng đã góp phần thức tỉnh phần nhân tính bị vùi lấp bấy lâu nay của Chí Phèo. Đồng thời bát cháo hành cũng là hương vị hạnh phúc, tình yêu thương hiếm hoi, muộn màng mà Chí được nhận. Cùng với bát cháo hành, tình yêu thương đã giúp thức tỉnh bản chất lương thiện trong Chí Phèo.

    Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật đặc sắc, góp phần thúc đẩy mạch truyện tiếp tục phát triển. Qua đó còn khắc họa nét tính cách, tâm lí và bi kịch của cuộc đời Chí Phèo. Đồng thời chi tiết này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: ông luôn có niềm tin vào phần con người, phần nhân tính của mỗi con người, chỉ cần trong những điều kiện và hoàn cảnh thích hợp nhất định con người tha hóa cũng sẽ được cảm hóa.

Cảm nhận về chi tiết bát cháo hành trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao. 133

Nam Cao là nhà văn hiện thực tiêu biểu của nền văn học Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945. Ông thành công với tác phẩm “Chí Phèo” tái hiện lại hoàn cảnh của người nông dân trước cách mạng tháng Tám bị chèn ép đến mất hết nhân hình lẫn nhân tính. Tuy nhiên ông cũng là nhà văn giàu lòng nhân đạo đã dành cho nhân vật của mình tình thương con người được thể hiện qua chi tiết bát cháo hành mà thị Nở nấu cho Chí Phèo. Bát cháo ấy là hiện thân của tình người thức tỉnh lương tri Chí, cho hắn niềm tin và hy vọng. Đây là chi tiết nghệ thuật mang giá trị nhân văn nhân đạo sâu sắc, để lại cho độc giả nhiều suy tư, trăn trở.

Mỗi một hình tượng nhân vật, một chi tiết nghệ thuật đều là tâm tư, tình cảm và dụng ý của tác giả gửi gắm. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao để cho thị Nở xuất hiện với bát cháo hành bình dị mà lại có giá trị to lớn về cả nội dung và nghệ thuật đối với tác phẩm làm nên thành công và nét độc đáo riêng của nhà văn.

Sau lần gặp nhau vô tình như duyên trời se đã cho hai tâm hồn đồng điệu tìm về với nhau. Trận nôn mửa và cơn sốt bất thường đêm hôm ấy ập đến với Chí khiến cho thị Nở có lòng thương với hắn. Thị nghĩ “Cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình”, thị không thể quên chuyện đêm qua và cũng không nỡ bỏ hắn bởi: “bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng”. Chính lòng thương và tình cảm chân thành thôi thúc thị nấu nồi cháo hành cho Chí để rồi cho hắn được hồi sinh.

Bát cháo hành của thị Nở dành cho Chí là biểu hiện của tình người. Bấy lâu nay Chí bị mọi người xa lánh, bị coi là con quỷ dữ của làng Vũ Đại nên ai cũng sợ, cũng tránh mặt mỗi khi hắn đi qua, không một ai quan tâm đến sự tồn tại và có mặt của Chí. Chính vì vậy hành động ân cần, chân thành của thị qua bát cháo hành khiến cho hắn ngạc nhiên và cảm động bởi đây là lần đầu tiên hắn được người khác cho, được săn sóc bởi tay một người đàn bà khiến hắn xúc động “mắt hắn hình như ươn ướt”. Giọt nước mắt của phần người trong Chí đã tan chảy, trái tim tưởng chừng như sắt đá đã bắt đầu sống dậy để cảm nhận hương vị cháo hành, hương vị cuộc sống, tình yêu bình dị mà lần đầu tiên hắn được hưởng. Nhờ có bát cháo hành mà thị Nở và Chí Phèo “Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi”, chúng được sống đúng nghĩa làm người, sống đúng bản năng và phẩm chất của mình bấy lâu bị khuất lấp, bị lãng quên nay trỗi dậy mãnh liệt.

Bát cháo hành và tình cảm chân thành của thị cho Chí niềm tin, hy vọng, khao khát muốn trở lại làm người lương thiện và sống một cuộc đời tử tế. “Bát cháo của thị làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây thù?” thị Nở đã mở đường cho hắn để hoàn lương, thị chính là nhịp cầu kết nối hắn với thế giới bên ngoài. Chí đã hồi sinh với khao khát trở lại với cuộc đời bình dị làm một người bình thường như bao người: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao”.

Tuy nhiên bát cháo hành cũng là sự tuyệt vọng của Chí khi hắn bi thị Nở từ chối, bị cự tuyệt quyền làm người. Trong giây phút đau đớn nhất hương cháo hành “thoang thoảng”, thoáng chốc hiện ra khiến cho Chí Phèo chìm sâu hơn vào nỗi tuyệt vọng. Hắn đã ở bên kia cái dốc cuộc đời nhưng đây mới là lần đầu tiên được ăn cháo hành, dù cho là bởi đôi bàn tay của người đàn bà xấu xí ma chê quỷ hờn nhưng dẫu sao vẫn có còn hơn không, dù muộn nhưng vẫn có ý nghĩa đối với cuộc đời hắn. Tưởng rằng được hồi sinh chìm trong hương cháo hành của riêng mình nhưng định kiến xã hội đã tước đoạt đi quyền làm người ấy. Hắn phải gào lên “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?” tiếng kêu ấy thống thiết và đau đớn đến vô cùng không còn cách nào khác để giải thoát ngoài cái chết. Không có gì bình thường, bình dị như hơi cháo hành đến vậy, bát cháo hành qua cái nhìn và tấm lòng nhân đạo của Nam Cao trở thành một nhát dao cứa rớm máu tâm hồn đã bị tổn thương chai sần nơi Chí để giờ đây hắn chìm đắm trong tuyệt vọng và cái chết. Viết được như vậy chỉ có ngòi bút tài hoa của thiên tài mới làm được điều đó.

Qua chi tiết bát cháo hành cho thấy vẻ đẹp nhân cách, vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà dòng giống con nhà mả hủi, xấu ma chê quỷ hờn đã vậy lại còn nghèo và dở hơi. Cái xấu của ngoại hình đã hội tụ hết ở thị Nở. Xấu đau xấu đớn xấu xúc phạm người nhìn bởi “Cái mặt của thị đích thực là một sự mỉa mai của hóa công” ấy vậy mà con người ấy lại có tấm lòng nhân hậu, có lòng bao dung, sự cảm thông chia sẻ đối với Chí. Chính những phẩm chất tiềm ẩn ấy đã đưa Chí ra khỏi những tháng ngày tăm tối của quỷ dữ.

Chi tiết bát cháo hành thể hiện cái nhìn nhân đạo nhân văn của Nam Cao. Ông luôn tin vào sự tốt đẹp trong con người lương thiện và khẳng định chỉ có tình người mới cảm hóa được tội ác. Bản chất lương thiện và khát khao hạnh phúc là bản tính tự nhiên tốt đẹp trong con người không bao giờ bị mất đi dù cho bị quỷ dữ tha mất linh hồn nhưng chỉ cần được thắp sáng bởi ngọn lửa tình người nó lại trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt.

Chi tiết bát cháo hành của thị Nở khiến cho ta liên tưởng nhớ đến bát cháo cám của bà cụ Tứ trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân đó đều là bát cháo bình dị thôn quê, bát cháo của tình người, tình thương ấm áp chỉ có con người mới có được và dành cho nhau. Bát cháo hành tuy chỉ xuất hiện với tư cách là một chi tiết nhỏ thể hiện nội dung tác phẩm nhưng có giá trị lớn, đánh dấu mở đầu cho sự thay đổi tâm lí nhân vật Chí Phèo, là cột mốc bước ngoặt thay đổi cho cuộc đời Chí được sống là chính mình.

Như vậy với tài năng của nhà văn Nam Cao chi tiết bát cháo hành trong tác phẩm “Chí Phèo” có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Một mặt tố cáo xã hội tàn nhẫn đẩy người nông dân đến bước đường cùng, một mặt ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của họ. Gập trang sách lại nhưng hình ảnh bát cháo hành với dư vị tình người để lại ám ảnh suy tư và bài học cho độc giả. Trong cuộc sống hãy biết yêu thương, sẻ chia và đùm bọc lẫn nhau và chỉ có tình thương chân thành mới có sức mạnh cảm hóa.

Bài văn phân tích hình ảnh bát cháo hành 134

Đến với đề tài nông thôn, nông dân, Nam Cao tuy là người đến sau nhưng bằng tất cả tài năng, tâm huyết cũng như sự am hiểu của mình về đời sống người nông dân, nhà văn Nam Cao vẫn khẳng định được chỗ đứng vững chắc của mình trong mảng đề tài dường như đã rất quen thuộc đó. Chí Phèo là tác phẩm hiện thực xuất sắc nói về bi kịch tha hóa của con người. Và chắc khi đọc truyện ngắn này, sẽ có rất nhiều độc giả ấn tượng với hình ảnh bát cháo hành mà Thị Nở dùng để giải cảm cho Chí Phèo.

Chi tiết bát cháo hành không chỉ mang ý nghĩa tả thực, đó là món ăn Thị Nở chuẩn bị cho Chí Phèo nhằm giúp Chí Phèo lấy lại sức lực sau cơn ốm thập tử nhất sinh mà còn mang rất nhiều ý nghĩa nhân sinh sâu sắc đối với cuộc đời của Chí Phèo. Sau khi uống rượu say ở nhà Tự Lãng, Chí Phèo đã đi ra bờ sông, ở đây Chí đã gặp Thị Nở- người đàn bà xấu xí, nhà có mả hủi bị cả làng xa lánh đi lấy nước nhưng ngủ quên bên bờ sông. Trong hơi men, Chí Phèo và Thị Nở đã có một đêm trăng gió. Buổi sáng hôm sau, Chí Phèo bị cảm, Thị Nở vì thương tình chí chỉ có một mình và nếu như Thị cũng bỏ hắn lúc này thì “cũng bạc” nên Thị đẫ về nhà nấu cháo hành và mang sang giúp Chí giải cảm.

Bát cháo hành trước hết mang ý nghĩa của một món ăn có khả năng giải cảm, hơi nóng của bát cháo có thể làm con người ta toát mồ hôi mà giải cảm. Chí Phèo trong cơn ốm bị mất hết sức lực, bát cháo của Thị thời điểm này có thể giúp chí lấy lại sức lực mà trận cảm đã vắt kiệt. Đặc biệt hơn, bát cháo hành của Thị còn mang nhiều ý nghĩa đặc biệt hơn đối với chí. Bát cháo hành còn là biểu tượng của hơi ấm tình người duy nhất còn xót lại ở làng Vũ Đại.

Trong khi tất cả mọi người trong làng Vũ Đại đều khinh ghét, xa lánh, phủ nhận quyền làm người của Chí thì vẫn có người quan tâm đến Chí chân thành như thế. Có thể thấy cháo hành ở đây là món ăn hết sức bình thường mà bất cứ gia đình nào dù nghèo khó nhất cũng có thể chế biến nó. Ta không thể biết món cháo của Thị có ngon không nhưng chắc hẳn nó thấm đượm tình người. Hơi ấm bát cháo cũng như sự ấp áp của tình người nơi THị đã khiến Chí cảm động vì “trước đến giờ đã ai cho hắn cái gì. Muốn cái gì hắn phải dọa nạt hoặc cướp giật”.

Bát cháo hành của Thị Nở còn giúp Chí Phèo thức tỉnh về nhân tính, đánh thức phần lương tri đã ngủ quên bên trong Chí. Chí Phèo bỗng nhận thức được những điều tồi tệ mà mình gây ra cho mọi người, hắn ăn năn, hối hận và khát khao được làm hòa với mọi người, muốn trở về với cuộc sống lương thiện. Bát cháo hành đơn giản như vậy nhưng lại có sức mạnh vô cùng lớn lao, nó đã đưa một con quỷ dữ làm việc xấu không gớm tay trở về với cuộc sống lương thiện.

Tuy nhiên, nếu theo dõi truyện ngắn thì ta cũng có thể thấy chính bát cháo hành đã đẩy cuộc đời Chí đến đỉnh cao của bi kịch, Trên thực tế, bi kịch chỉ xảy ra khi người ta ý thức sâu sắc về cuộc sống đau khổ, đọa đầy của mình, Khi còn là con quỷ dữ Chí Phèo đã không hề ý thức được về việc này mà chỉ làm việc như một tên tay sai đắc lực của Bá Kiến. Khi đã được thức tỉnh về nhân tính, lời mắng chửi mà bà cô Thị Nở được Thị Nở quăng vào mặt Chí như đòn chí mạng đối với những khát khao đang bùng cháy mãnh liệt trong Chí.

Chí bỗng chốc nhận thức được con đường trở về làm người lương thiện đã không thể quay lại, với tất cả tội ác mà Chí đã gây ra thì Chí không thể làm hòa với mọi người, và Thị Nở người mà Chí hi vọng sẽ là cầu nối giúp Chí làm hòa với mọi người cũng không thể chống lại được những định kiến mà người đời dành cho Chí.

Bát cháo hành đã thức tỉnh nhân tính bên trong con quỷ dữ như Chí Phèo nhưng nó cũng đẩy Chí chìm sâu vào bi kịch, tuyệt vọng. Có thể nói bát cháo hành là chi tiết đặc sắc nhất trong truyện ngắn Chí Phèo, qua đó truyền tải được bao thông điệp nhân văn mà nhà văn Nam Cao muốn truyền tải.

Phân tích Tiếng chửi của Chí Phèo 135

Giai đoạn trước cách mạng tháng tám có thể xem là giai đoạn lầm than và nhiều đớn đau nhất trong lịch sử của dân tộc, và cũng chính trong cái thời thế ấy đã xuất hiện nhiều cây bút xuất sắc đưa nền văn học hiện thực của nước nhà bước lên một tầm cao mới với hàng loạt những cái tên nở rộ với các tác phẩm xuất sắc, ví như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nguyễn Công Hoan với Kép Tư Bền, Vũ Trọng Phụng với Kỹ nghệ lấy Tây, Số đỏ và một loạt các tác phẩm trào phúng, phê phán khác về lối sống thượng lưu ở Hà Thành. Trong đó đề tài người nông dân, người trí thức trong xã hội cũ luôn là các đề tài được nhiều tác giả lựa chọn và khai thác nhất, trong đó có nhà văn Nam Cao nổi tiếng với Chí Phèo và Đời thừa. Mà có lẽ có thể gọi Chí Phèo là đỉnh cao của văn học hiện thực trước cách mạng tháng Tám, với những đớn đau bi kịch đến tột cùng của người nông dân trong xã hội cũ. Cả mạch truyện người ta không chỉ ám ảnh xót xa với cuộc đời đầy bất hạnh của Chí Phèo thông qua giọng văn vừa lạnh lùng, vừa đớn đau của Nam Cao mà trong đó người ta còn rất mực ấn tượng với tiếng chửi của nhân vật này. Đó có phải chỉ là tiếng chửi của riêng mình Chí Phèo cho cái cuộc đời lắm đau thương của hắn hay là tiếng chửi của chính tác giả với cái xã hội thối nát, đã tiệt mọi đường sống của người nông dân?

Tiếng chửi của Chí Phèo không xuất hiện ở cuối hay giữa tác phẩm mà được đưa ngay lên đầu, ngay khi người đọc vừa tiến vào tác phẩm đã thấy tiếng chửi của Chí Phèo đang hiện diện. Cách viết đó đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng tác giả về nhân vật Chí Phèo với tiếng chửi đầy bất mãn và đau đớn, rồi từ đó người ta lại mới nảy sinh cái tò mò, tại sao Chí Phèo lại chửi như thế và có thôi thúc đi vào từng trang truyện để thấm thía và suy ngẫm về nhân vật có một không hai này. Việc đi vào tác phẩm theo kết cấu hiện tại - hồi tưởng như thế đã hoàn toàn vượt ra khỏi cách viết truyện truyền thống đem đến cho độc giả những ấn tượng ban đầu độc đáo, cũng  dần thể hiện được tài năng bậc thầy của Nam Cao trong làng viết về đề tài hiện thực trước cách mạng. 

Lại nói về tiếng chửi của Chí Phèo, nó không chỉ là một vài câu chửi thông thường, bực dọc, mà ở đây thông qua lời văn của Nam Cao tiếng chửi ấy đã kéo dài cả một đoạn văn thông qua nhiều hình thái diễn đạt khác nhau. Người ta thấy Chí Phèo chửi thông qua lời dẫn truyện lạnh lùng, xót xa của tác giả, cũng thấy Chí chửi thông qua lời thuật lại đầy ngán ngẩm, thờ ơ, hờ hững của dân làng Vũ Đại, và thấy cả tiếng chửi thông qua cái giọng bực tức, chất vấn, đớn đau, quằn quại khi vật lộn với bi kịch của chính bản thân Chí Phèo. Tiếng chửi ấy không chỉ giữ nguyên một trạng thái mà nó có sự tăng tiến về mặt cấp độ, Chí Phèo chửi tất cả những thứ mà hắn cho là đã làm cho cuộc đời hắn khổ sở, từ xa về gần, hắn chửi trời, chửi đời, rồi phát hiện những thứ ấy chẳng là ai và cũng chẳng của ai cả, hắn lại tiếp tục thu gọn tiếng chửi của mình khi chửi cả làng Vũ Đại, nhưng khốn nỗi cái làng ấy vốn thờ ơ, lãnh cảm với tiếng chửi của hắn mất rồi, ai cũng nghĩ hắn chừa mình ra, thành thử chẳng ai đáp lại Chí Phèo. Và Chí biết điều đó, hắn lại tiếp tục thu hẹp phạm vi khi chửi cái đứa nào không ra chửi nhau với hắn, rồi cuối cùng nhóm lại thành chửi cái đứa nào đẻ ra thân hắn rồi để hắn khổ sở như ngày hôm nay. Và cứ thế là Chí Phèo chửi trong đau đớn, tuyệt vọng, nhưng cũng chẳng ai biết đó là ai, khiến người ta không khỏi xót xa đau đớn cho một kẻ mồ côi tha hóa, bê bết. Tiểu kết lại, ta có thể nhận ra rằng mặc dù đối tượng chửi được Chí Phèo thu ngày càng gọn lại, thế nhưng thực tế cấp độ của tiếng chửi lại tăng dần đều, càng về sau tiếng chửi của hắn càng trở nên gay gắt, cay cú và phẫn nộ, đau đớn đến cực điểm khiến người đọc có ấn tượng về nghệ thuật tăng tiến ẩn này của Nam Cao. Rồi có đôi độc giả thắc mắc rằng rốt cuộc khi phát ra những tiếng chửi bất mãn, đau đớn ấy thì Chí Phèo tỉnh hay say khi mà Nam Cao đã viết rằng “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Thì phần phân tích trên chính là câu trả lời tốt nhất, tôi tin rằng Chí Phèo lúc ấy tỉnh, và rượu vào là để tiếp thêm cho hắn cái sức lực đẩy tiếng chửi đến tận cùng đau đớn và uất hận cho cái kiếp mà hắn đã tự oán trong những lời chửi rằng “Không biết cái đứa chết mẹ nào đã đẻ ra cái thân hắn để hắn khổ đến nông nỗi này?”. Rõ ràng người say thì sẽ quên hết mọi chuyện, nhưng Chí Phèo thì không, hắn nhớ hết hắn nhớ tường tận cuộc đời mình từ lúc lọt lòng mồ côi đến năm 20 tuổi đầy ước mơ hoài bão, rồi đến những năm lao tù, tha hóa, và cuối cùng phải hứng chịu những bi kịch ghê gớm như hiện giờ. Có như thế người ta mới lại càng thấm thía hơn cái nỗi đau, cái bất hạnh tột cùng của Chí Phèo và Nam Cao lần nữa lại thành công trong việc khắc họa nhân vật Chí Phèo cùng tiếng chửi.

Và bây giờ là lúc tìm hiểu tại sao Nam Cao lại để cho nhân vật của mình có những tiếng chửi đớn đau và uất hận đến thế. Điều đó đã được hé lộ một phần trong chính những tiếng chửi của Chí Phèo ở phần đầu của tác phẩm. Cuộc đời của hắn đã khởi đầu với một con số không tròn trĩnh, không cha không mẹ, không nhà cửa, không lai lịch, gốc gác. Khi vừa mới lọt lòng đã bị bỏ rơi, rồi bị truyền tay hết người này sang người khác, cuối cùng lớn lên trong cái nôi đùm bọc của làng Vũ Đại. Thế nhưng thật may sao, vốn có một xuất thân bất hạnh, thiếu thốn như thế nhưng Chí Phèo lại có thể trở thành một chàng trai 20 tuổi lương thiện, thật thà, hứng chí làm ăn, với ước mơ giản dị, vợ dệt vải, chồng cày cấy, dăm ba sào ruộng, nuôi lợn,... Thế nhưng đớn đau thay sự lương thiện tốt đẹp ấy của Chí đã bị chà đạp, tàn phá bởi sự lẳng lơ đĩ thõa của một người đàn bà, và lòng ghen tuông mù quáng của tên chồng bất lực, sợ vợ là Bá Kiến. Chí Phèo bị đổ oan, vào tù độ 7, 8 năm, cái nhà tù thực dân ấy nó không khiến con người ta tốt lên mà trái lại nó biến một người lương thiện, thành một tên bặm trợn, nghiện rượu, thích ăn thịt chó. Từ đó Chí Phèo bị trượt dài trên con đường tội lỗi, tha hóa nhân hình, nhân phẩm, hắn đến trước cửa nhà của kẻ đã tống hắn vào tù rồi liều mạng rạch mặt ăn vạ, tiếng chửi của hắn không ai đáp lại mà chỉ có “một thằng say rượu với ba con chó dữ”. Lời thuật lại ấy của Nam Cao đã báo hiệu quãng đời tha hóa thành quỷ dữ của Chí Phèo. Từ đó trở đi, Chí Phèo sống một cuộc đời bê tha, đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến, bán rẻ nhân cách để kiếm những đồng bạc lẻ phục vụ cho những cuốc rượu say sưa hết ngày này qua tháng nọ. Nếu như bi kịch của Chí Phèo chỉ dừng lại ở việc mồ côi, vào tù rồi tha hóa nhân cách thì có lẽ truyện của Nam Cao đã chẳng trở thành kiệt tác của nền văn học hiện thực lúc bấy giờ, và tiếng chửi của Chí Phèo cũng chẳng day dứt và ám ảnh mãi trong tâm trí độc giả cho đến tận ngày hôm nay. Gía trị của tác phẩm thực sự được đánh dấu và đẩy lên cao ở việc Nam Cao thể hiện bi kịch bị từ chối quyền làm người của Chí Phèo, một kẻ gặp được tình yêu của cuộc đời. Thị Nở đã làm sống lại trong hắn những ước mơ tuổi hai mươi, và hắn đã trông mong Thị mang hắn trở về với thế giới loài người, thoát khỏi cái kiếp làm con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Thế nhưng tất cả đã bị dập tắt bởi lời nói cay nghiệt của bà cô Thị Nở, và cả cái tức giận dở hơi của thị, tất cả đã thức tỉnh Chí Phèo về thân phận, bi kịch đớn đau của mình, cuối cùng hắn chọn cách kết thúc cuộc đời trong đau đớn. Như vậy từ tất cả các bi kịch của Chí Phèo, đặc biệt là ở bi kịch bị từ chối quyền làm người ta mới vỡ lẽ ra rằng Chí Phèo khao khát được hòa nhập vào thế giới loài người, khao khát được giao tiếp, thế nhưng không ai nói chuyện với hắn, hắn đành chửi, chửi để mong người ta chửi lại cũng được, để chứng minh ít ra hắn vẫn là con người và người ta vẫn còn muốn đáp lại hắn. Và đến tột cùng của sự đớn đau, khi đã không còn ai chửi nhau với hắn, Chí Phèo mới thốt lên trong đau đớn rằng ai đã sinh ra cái thân hắn để hắn khổ đến thế này. 

Như vậy thông qua tiếng chửi của Chí Phèo ta có một nhận định rằng giọng văn của Nam Cao là một giọng văn lạnh lùng, nhưng chất chứa đầy những đớn đau, phản ánh một hiện thực bế tắc của người nông dân trước cách mạng tháng tám, khi họ chưa thể tìm ra cho mình một lối thoát, và ngay cả chính bản thân tác giả cũng chưa thể tìm ra lối thoát cho nhân vật của mình. Tiếng chửi ấy chất chứa tất cả những đớn đau trong suốt cuộc đời đầy bi kịch của Chí Phèo, đồng thời gợi mở ra chủ đề của tác phẩm, bên trong cái chất văn lạnh lẽo, hiện thực gay gắt là những nỗi xót xa, cay đắng thương cảm cho nhân vật chính cũng như cho chính những người nông dân ở xã hội cũ.

Phân tích Tiếng chửi của Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo 136

Nam Cao là một trong số những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại với những sáng tác xuất sắc về đề tài người trí thức và người nông dân nghèo. Trong những sáng tác của mình, Nam Cao luôn sáng tạo ra nhiều chi tiết độc đáo và chi tiết tiếng chửi của Chí Phèo trong đoạn mở đầu của truyện ngắn cùng tên là một trong số những chi tiết nghệ thuật như thế.

Tiếng chửi của Chí Phèo xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về hình ảnh một kẻ say rượu, đang “vừa đi vừa chửi”. Lẽ thường chúng ta vẫn thường thấy, người ta vẫn thường chửi khi có ai đó làm mình tức giận, thế nhưng ở đây thì lại hoàn toàn khác, cả làng Vũ Đại có ai làm gì Chí đâu mà hắn giận, hắn bực mình rồi chửi. Đó là tiếng chửi của một kẻ đang say, không còn tỉnh táo nhưng nếu nghe tiếng chửi ấy của Chí Phèo người đọc sẽ thấy nó chẳng “say” chút nào mà ngược lại còn đầy tỉnh táo. Tiếng chửi ấy có sự tăng cấp dần về đối tượng của tiếng chửi, Chí Phèo đã chửi tất cả mọi thứ, từ cái lớn, cái chung, cái không đích danh đến cái cụ thể, cái đích danh. 

Thoạt đầu, Chí cất tiếng chửi trời thế nhưng “trời có của riêng nhà nào”. Đối tượng đầu tiên Chí Phèo chửi chính là “trời’. Bầu trời kia những tưởng là vô tội nhưng nào đâu phải thế, bởi lẽ bầu trời rộng lớn ấy đã chứa, đã ôm ấp trong mình cả những người lương thiện lẫn những người tàn ác, đã ôm ấp Chí - một người nông dân hiền lành và lương thiện lại còn chứa cả Bá Kiến - một người gian xảo và độc ác. Có lẽ, cũng chính vì thế mà cuộc đời của Chí ngày càng trở nên tối tăm, Chí mắc hết sai lầm này đến sai lầm khác và đến cuối cùng hắn trở thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại. “Trời” dường như đã trở thành một câu cửa miệng, để con người mỗi khi bất lực, có bi kịch hay gặp phải bất cứ vấn đề gì đều cất tiếng kêu ca.

Sau “trời”, Chí cất tiếng chửi “đời” nhưng khổ nỗi “đời là tất cả nhưng có của riêng ai”. Mỗi con người ai cũng có cuộc đời, có số phận của chính mình. Chí chửi “đời’ của người khác hay hắn đang chửi chính “đời” của mình - một cuộc đời với bao khổ đau, bao cám dỗ và bao sai lầm. 

Rồi hắn chửi “cả làng Vũ Đại” nhưng “cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: Chắc nó trừ mình ra”. Làng Vũ Đại chính là nơi mà những người dân đã “chuyền tay” nhau nuôi Chí, cho hắn từng bữa cơm, cho hắn hình hài của một con người. Thế nhưng, làng Vũ Đại lại quên mất không dạy hắn cách làm người một cách đúng nghĩa, để rồi hắn cứ chạy dài trên con đường với đầy rẫy những sai lầm và cũng chính những con người nơi đây đã cướp đi quyền làm người của Chí, họ xem Chí là “con quỷ dữ” mà ai cũng phải khiếp sợ, phải tránh xa, phải cự tuyệt, để rồi, khi Chí chửi hết thảy cả làng Vũ Đại ai cũng bỏ ngoài tai, xem như không liên quan đến mình.

Và rồi, Chí lại cất tiếng chửi, “chửi đứa chết mịa nào không chửi nhau với hắn”. Nhưng một lần nữa, thứ Chí nhận lại được chỉ là sự im lặng, sự thờ ơ đến rợn người. Chí chửi người có lẽ chỉ là cách để hắn thu hút sự chú ý, để được “làm hòa”, được giao tiếp, trò chuyện cùng mọi người.

Đối tượng cuối cùng trong tiếng chửi của Chí chính là “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”. Có lẽ nếu có cha, có mẹ, nếu không bị bỏ rơi nơi cái lò gạch cũ thì Chí đã là một con người khác, không phải là một Chí Phèo khiến người ta khiếp sợ như hiện tại. Tiếng chửi ấy của Chí không phải là tiếng chửi của một người con bất hiếu mà nó là lời của một con người với số phận bất hạnh, ngay từ lúc sinh ra đã không nhận được tình yêu thương, sự quan tâm, che chở của gia đình. Và có lẽ, nó đáng thương nhiều hơn là đáng trách.

Như vậy, có thể thấy, mỗi đối tượng xuất hiện trong tiếng chửi của Chí Phèo đều có những lí do riêng. Điều đáng chú ý chính là ở chỗ, dẫu Chí chửi rất nhiều, nhưng đáp lại chính là sự im lặng, “không ai ra điều”, không ai đáp lại. Tiếng chửi ấy của Chí Phèo xét đến cùng không phải là sự mắng nhiếc hay tức giận của Chí mà chính là phương tiện để Chí giao tiếp với mọi người, Chí muốn người khác chửi lại mình có nghĩa là Chí muốn được người khác lắng nghe, được người khác trò chuyện cùng.

Đồng thời, tiếng chửi còn là sự thể hiện nỗi đau đớn, dằn vặt của Chí Phèo. Nỗi đau đớn ấy của Chí được thể hiện rõ nét qua việc trong tiếng chửi của Chí sử dụng hàng loạt các từ ngữ thể hiện cảm xúc như “Tức mình”, “Tức thật”, “Tức chết đi được mất”. Nam Cao đã sử dụng những từ ngữ gần gũi, bình dị, mang tính khẩu ngữ để thể hiện rõ nét, chân thực cảm xúc của Chí Phèo.

Đặc biệt, tiếng chửi của Chí Phèo còn cho người đọc thấy được bi kịch mà Chí Phèo đang phải gánh chịu. Chí Phèo đang phải sống trong sự cô đơn, cô độc, bị cả xã hội gạt ra khỏi thế giới của loài người. Chí đang phải chịu đựng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi lẽ dẫu Chí có chửi thật nhiều, chửi bao nhiêu thứ, bao nhiêu người đi chăng nữa thì cũng không một ai lên tiếng, không một ai nói lại với Chí. Điều đó cho thấy Chí Phèo không được mọi người trong xã hội xem là con người, để có thể lắng nghe, có thể giao tiếp cùng nhau. Dường như tất cả mọi thứ, từ trời, đời, đến người dân làng Vũ Đại đang đứng về một phía còn riêng Chí đang đứng về một phía bên lề của xã hội loài người mà cất lên tiếng chửi. Đó có lẽ là nỗi đau, là thất bại lớn nhất của Chí Phèo.

Tóm lại, với ngôn ngữ trần thuật nửa gián tiếp và sự đa giọng điệu, tiếng chửi trong đoạn mở đầu của truyện ngắn “Chí Phèo” không những làm cho tác phẩm thêm phần thú vị, hấp dẫn mà hơn hết, nó gợi lên trong lòng người đọc nhiều suy ngẫm về số phận, cuộc đời của nhân vật Chí Phèo. Đồng thời, qua đó cũng cho chúng ta thấy được bút pháp hiện thực lạnh lùng, sắc sảo của nhà văn Nam Cao.

Bài văn mẫu phân tích tiếng chửi của Chí Phèo ở đầu truyện 137

"Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ "chắc nó trừ mình ra!". Không ai lên tiếng cả…"

Hình ảnh ban đầu của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên đã được Nam Cao phác hoạ như vậy đó – toàn chửi là chửi, và trong suốt cả truyện, Chí Phèo cũng bị Nam Cao bắt phải chửi đi chửi lại rất nhiều lần, chửi luôn mồm không ngừng nghỉ:

"Hắn chửi trời và đời. Hắn chửi cả làng Vũ Đại. Hắn chửi tất cả những đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng mặc, ai mà hoài hơi, tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn, lại càng không ai cần! Và hắn lấy thế làm ức lắm; bởi vì người ta không thể chửi nhau một mình; chửi nhau một mình thì còn văn vẻ gì!"…

Tuy nhiên, từ đầu đến cuối truyện ngắn "Chí Phèo", ngoại trừ cái câu "Mẹ kiếp!" được đôi lần nhắc đến khi Chí Phèo chửi đổng (chửi chả nhằm vào ai cả một cách có chủ đích), Nam Cao toàn dùng câu gián tiếp (indirect speech) mỗi khi nói về cái sự chửi của Chí, thành ra người đọc chỉ biết là Chí đã chửi, chửi rất nhiều, nhưng cụ thể hắn chửi như thế nào thì chẳng ai biết cả.

Nếu ai đó đã từng xem phim "Làng Vũ Đại ngày ấy" thì còn có dịp nghe Chí Phèo chửi: Mẹ cha con đĩ dại! Mẹ cha thằng dê già! Cha mấy đời con đĩ Nở… vân vân và vân vân. Nhưng "Làng Vũ Đại ngày ấy" không phải là "Chí Phèo", và người viết kịch bản cho "Làng Vũ Đại ngày ấy" cũng không phải là Nam Cao, vì vậy những câu chửi đấy không đủ độ tin cậy (và cũng không xác đáng) để được bàn luận ở đây bởi trong bài viết này, chúng ta chỉ xem xét nguyên bản của nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao mà thôi; vả lại, những câu chửi của Chí Phèo trong "Làng Vũ Đại ngày ấy" cũng rất vô lý và vô lối, do đó chúng không thể là lời giải cho bài toán được đặt ra ở tiêu đề bài viết.



Nhưng thôi, cái chuyện đó để lát nữa bàn sau, việc trước mắt là phải tìm cho ra xem Chí Phèo đã chửi như thế nào. Lấy tỉ dụ việc Chí Phèo chửi làng Vũ Đại nhé, mọi người bảo Chí Phèo sẽ chửi làng Vũ Đại ra làm sao? "Mẹ cha làng Vũ Đại", "Tiên sư làng Vũ Đại" (hoặc đại loại như thế) chăng? Điều đó là không thể nào, bởi lẽ:

Thứ nhất, chửi như vậy là chửi những cái kẻ đẻ ra làng Vũ Đại (mẹ, cha, tiên sư, tam tứ đại…) chứ có phải chửi làng Vũ Đại đâu! Và cái việc Chí chửi không nhằm vào làng Vũ Đại tất yếu sẽ đưa Chí đến chỗ bế tắc mà chúng ta đều biết: cả làng Vũ Đại không ai lên tiếng cả.

Thứ hai, một người học rộng hiểu nhiều như Nam Cao không thể không biết cái đạo lý ở đời rằng người ta chửi nhau là phải chửi… nhau, không được chửi nhằm vào người khác. Đến những kẻ hạ đẳng như Ba Giai và cô bán vải ở chợ Đồng Xuân khi mở hội thi chửi còn quy ước với nhau như thế, lẽ nào Nam Cao lại không biết? Mà đã biết thì ông ta không thể để cho nhân vật của mình chửi một cách vô lý và vô lối như đã nói ở phần trên được.

Vậy thì, Chí Phèo chửi làng Vũ Đại như thế nào? "Đồ tồi", "Đồ khốn", "Đồ mất dậy"… chăng? Mấy câu này nghe có vẻ hợp lý hơn vì chúng nhằm trực tiếp vào đối tượng được ăn chửi (với điều kiện người chửi và người được chửi phải đối mặt với nhau – nói khác là chõ mõm vào nhau), nhưng thói đời nếu rủa ai đó là đồ tồi, đồ khốn, đồ mất dạy… thì cũng chẳng khác gì kiến đốt gỗ bởi chửi như vậy thì chẳng bõ bèn gì; hơn nữa nếu Chí Phèo cứ đi lang thang ngoài đường và luôn mồm lảm nhảm "đồ tồi!", "đồ khốn!"… thì ai mà biết được là Chí đang chửi ai. Và điều đó tất yếu lại dẫn đến hệ luỵ là người bị chửi (cũng như tất cả những người khác) sẽ coi như "nó chừa mình ra". Mà thực ra những câu chửi kiểu này cũng chỉ mới xuất hiện và được sử dụng phổ biến trong một vài năm trở lại đây (có lẽ là từ sau năm 1986); chưa chắc là ngày đó (tức là giai đoạn 1930-1945) Chí Phèo đã biết dùng đến những ngôn từ "lịch sự" như vậy để chửi (!?)

Bài văn mẫu phân tích tiếng chửi của Chí Phèo ở đầu truyện 138


Trong nền văn học viết Việt Nam, có những tác giả đã khẳng định vị trí của mình bằng sáng tác đồ sộ mang giá trị nhân văn lớn như đại thi hào Nguyễn Du với "Truyện Kiều" hoặc bằng cách phản ánh những sự kiện trong đại của đất nước như tác gia Tố Hữu, Nguyễn Tuân. Số khác thì đánh dấu bằng tuyên ngôn nghệ thuật như Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam... Nhưng cũng có các tác giả đã để lại ấn tượng muôn đời trong lòng người đọc chỉ bằng một một chi tiết nhỏ trong toàn bộ tác phẩm... trong đó có Nam Cao. Và như Macxim Gorki đã khẳng định :"Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn" là vậy.

Người ta cứ nghĩ để viết nên một tác phẩm vĩ đại thì phải đi tìm những thứ to tát từ nơi xa xôi, phải thoát ly hiện thực đau khổ để tìm đến điều mơ tưởng. Không phải vậy, nhà văn - người sáng tạo ra cái đẹp - có thể chỉ tìm được nghệ thuật cao quý từ những điều bình thường nhất, nhỏ bé nhất mà lại nói lên được điều vĩ đại. "Chi tiết nhỏ" là những sự việc, sự kiện bình thường trong một tác phẩm, dường như ban đầu đọc qua ta chỉ nghĩ nó có tác dụng phản ánh hiện thực khách quan mà khi đọc kĩ càng, ta lại phát hiện trong đó một giá trị tư tưởng lớn có ý nghĩa giáo dục và thẫm mĩ cao. "Chi tiết nhỏ" nhưng mang giá trị nghệ thuật đặc sắc góp phần khẳng định lập trường và tài năng của "nhà văn lớn".

Chí Phèo là một điển hình nghệ thuật về người nông dân từ lương thiện rơi vào tha hóa trở thành quỷ dữ rồi bị gạt ra khỏi xã hội loài người, cuối cùng quay quắt trở về với bi kịch của khát vọng "làm người lương thiện". Bi kịch bị ruồng bỏ, cô đơn trước đồng loại của Chí Phèo được Nam Cao thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ, rất bình thường và tự nhiên ngay đoạn mở đầu nhưng càng đọc, càng suy ngẫm ta lại càng thấy từng tầng nghĩa sâu sắc cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật của tác phẩm. Đó chính là tiếng chửi của Chí Phèo.

Trong cơn say, hắn ngật ngưỡng bước đi và hắn chửi. Ban đầu hắn chửi trời vì trời sinh ra hắn một con người không hoàn thiện. Rồi hắn "chửi đời" vì đời bạc bẽo đã cưu mang hắn rồi lại vứt bỏ hắn. Tức quá, hắn "chửi cả làng Vũ Đại" đã đẩy hắn vào bi kịch tha hóa thê thảm. Nỗi cô độc đã lên đến tột độ, hắn"chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn"! Đau đớn nhất, Chí Phèo chửi "đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn" làm hắn mang những bi kịch lớn của cuộc đời. Chí Phèo chửi nhưng lời của hắn lại rơi vào trong im lặng đáng sợ. Không một ai đáp lại lời của hắn. Hắn chửi nhưng chất chứa bên trong là niềm khao khát được giao tiếp, được đồng vọng dù chỉ được đáp lại bằng một tiếng chửi. Nhưng đau xót thay, cả làng Vũ Đại quay lưng với hắn để cuối cùng hắn chửi nhau với ba con chó dữ: "Một thằng say và ba con chó dữ mà làm ầm ĩ cả làng". Chí Phèo thật sự đã bị gạt bỏ khỏi xã hội loài người.

Tài hoa nghệ thuật Nam Cao được bộc lộ ngay trong đoạn mở đầu truyện ngắn. Nhà văn đã sử dụng rất thành công hình thái ngôn ngữ nửa trực tiếp để tạo nên hiện tượng đa thanh cho giọng điệu kể chuyện. Đoạn văn có lời kể khách quan xen lẫn lời nhận xét của tác giả, có cả lời nhủ thầm của dân làng: "Chắc nó trừ mình ra". Như vậy, tuy dân làng Vũ Đại không xuất hiện nhưng ta vẫn thấy hình ảnh đám đông và thái độ của họ trước lời chửi Chí Phèo. Nổi bật lên tất cả là giọng Chí Phèo vừa có phần phẫn uất lại vừa cô đơn trước đồng loại: "Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! ... Mẹ kiếp! Thế có phí rượi không?" Đó là lời kể của tác giả hay chính suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật đang cất lên tiếng nói.

Nhờ tính chất đa thanh của giọng điệu kể chuyện đã dẫn đến một tính chất đặc sắc khác cho đoạn văn: tính đa nghĩa. Tiếng chửi không chỉ là khao khát được giao tiếp mà còn là sản phẩm của một con người bị rơi vào bi kịch bị tha hóa, không được sống đúng bản chất của một con người. Bên ngoài là tiếng chửi của một kẻ say nhưng bên trong thì hắn rất tỉnh. Lời chửi rất mơ hồ, không động chạm ai, quả là một kẻ say bình thường đang chửi. Nhưng hắn rất tỉnh, rất sáng suốt, không gian trong tiếng chửi thu dẹp dần từ cao đến thấp, từ rộng đến hẹp, từ vô địa chỉ đến có địa chỉ. Từ số đông, hắn chửi một người: "hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo". Đẻ ra Chí Phèo "cả làng Vũ Đại cũng không ai biết" nhưng chúng ta, người đọc thì biết: Chính xã hội vô nhân đạo đã đẻ ra Chí Phèo - con quỷ dữ của làng Vũ Đại, đã sinh ra hiện tượng "Chí Phèo".

Như vậy, hắn mượn rượu để chửi, để phản ứng với toàn bộ xã hội vô nhân đạo. Từng lời cay độc ấy thoát ra nghĩa là lòng hắn đang gào thét cuồng điên, hắn chửi để thỏa mãn lòng rực lửa đốt khi mà cả làng Vũ Đại không ai lắng nghe hắn. Họ thành kiến với hắn. Tiếng chửi của Chí Phèo vừa mang tâm trạng bất mãn vừa là lời tố cáo sâu sắc xã hội vô nhân đạo với những nếp nghĩ lạc hậu đã cướp đi quyền làm người và ruồng bỏ hắn. Tiếng chửi thật chất là một tiếng kêu cứu thảm thiết của con người đáng thương bị què quạt cả về thể xác lẫn tinh thần cố níu chiếc phao đời để mà tồn tại. Ta đã từng đau xót cho số phận nghèo khổ, tăm tối của chị Dậu, chị Dậu nghèo tới mức phải bán con, bán chó, bán sữa nhưng Ngô Tất Tố không để chị bán nhân phẩm của mình. Còn Chí Phèo, hắn đã bán cả linh hồn cho quỷ dữ với cái giá rẻ bèo và cuối cùng bị ghẻ lạnh, cô đơn trong chính xã hội loài người.

Trong đoạn văn, cứ sau một lời kể khách quan mang tính chất thông báo là một lời nhận xét của tác giả. Như vậy, bằng hiện tượng đa nghĩa của giọng điệu, ta không chỉ thấy thái độ, tình cảm của nhân vật mà còn cảm nhận được trái tim nhà văn đang lên tiếng. Đằng sau lời văn lạnh lùng gần như sắc lạnh ấy lại là một tấm lòng xót thương sâu sắc cho nhân vật và cả sự căm phẫn xã hội vô nhân đạo đã đẻ ra hiện tượng Chí Phèo.

Tóm lại, đoạn văn được mở đầu bằng lời chửi của Chí Phèo không chỉ mang nét nghệ thuật dễ nhận thấy, nghệ thuật kết cấu, mà còn mang giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của ngòi bút thấm đẫm tinh thần Nam Cao. Càng đào sâu, càng nghiền ngẫm, người đọc sẽ tìm cho mình những suy nghĩ sâu sắc hơn về kiệt tác "Chí Phèo".

"Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn". Chi tiết "tiếng chửi" của Chí Phèo đã góp phần làm nên thành công của nhà văn lớn Nam Cao. Nó đã khái quát lên một chân lý nghệ thuật: nghệ thuật chân chính không những tìm thấy cái bình thường trong sự phi thường mà còn phát hiện cái phi thường trong sự bình thường, thậm chí tầm thường. Chỉ có nhà văn lớn có khối óc và trái tim lớn mới làm được điều đó.

Bài văn phân tích ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo 139

Nam Cao được đánh giá cao với tư cách là một nhà văn hiện thực. Cùng với những tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, các tác phẩm của Nam Cao đã góp phần quan trọng làm nên khuynh hướng văn học hiện thực phê phán (1930-1945).

Chửi là một trong những hành vi nói năng của con người. Con người có rất nhiều hành vi. Nói năng là một trong những hành vi đó. Trong hành vi nói năng, lại có nhiều hành vi như: hành vi chửi, hành vi chào, hành vi khuyên, hành vi xin lỗi, hành vi yêu cầu, hay ra lệnh... Bài viết xin được lý giải thêm về hành vi ngôn ngữ Chửi của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao, ngõ hầu mang đến những kiến giải có cơ sở hơn từ góc nhìn dụng học, mà cụ thể hơn là lý thuyết hành vi (hành vi ngôn ngữ).

Theo từ điển Tiếng Việt, chửi là thốt ra những lời xúc phạm cay độc để làm nhục. Phạm Văn Tình thì cho rằng: "Khi đạt đến đỉnh điểm của sự tức tối, người ta thường thốt ra một lời rủa, lời chửi (mà đi kèm với nó là những từ thô tục)". Một ý kiến khác của Nguyễn Thị Tuyết Ngân: "Chửi là một hiện tượng ngôn từ văn hóa phản chuẩn bày tỏ một cách chủ động phản ứng bất bình nhằm làm giảm căng thẳng tinh thần của người chửi và hạ uy tín của người bị chửi". Thực tế, chửi có phải chỉ để trút bỏ bực tức hay không? Đặt hành vi ngôn ngữ chửi của Chí Phèo trong tác phẩm, chúng tôi cho rằng nó còn có thể có nhiều ý nghĩa hơn thế.

Khảo sát toàn bộ tác phẩm "Chí Phèo", chúng tôi thấy không hề có một cuộc "chửi" hoặc "chửi nhau" trực tiếp nào. Tức là không có việc SP1 (nói) chửi SP2 (nghe). Đa phần chúng ta biết Chí Phèo chửi qua lời kể, lời dẫn truyện của tác giả. Lúc dọa nạt mụ hàng rượu, Chí cũng chỉ "quát lên" (Ít vốn thì tối nay ông trả. Nhà mày đã chết ngay bây giờ hay sao?). Khi đến nhà Bá Kiến để gây sự, Chí vẫn rất "nhẹ nhàng" (Vâng, bẩm cụ không được thì con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ bắt con giải huyện). Ngay cả lúc đến nhà Đội Tảo đòi nợ thay cho Bá Kiến, chúng ta cũng chỉ biết Chí "cất tiếng chửi ngay từ đầu ngõ". Không biết cụ thể Chí chửi thế nào với một kẻ không nợ nần và cũng không thù oán gì với Chí!

Hành vi ngôn ngữ luôn gắn với người nói và người nghe. Người nói và người nghe luân phiên thay đổi vai nói và vai nghe. Ngay cả ở hành vi chửi cũng vậy. Chính Chí Phèo đã nói: "chửi nhau một mình thì còn văn vẻ gì! ". Có luân phiên thay đổi vai, thì việc "chửi" có lẽ mới "hấp dẫn". Trong truyện ngắn Chí Phèo, rất ít khi hành vi chửi của Chí được Nam Cao dẫn trực tiếp. Chửi mà không trực tiếp thì quả là giảm đi rất đáng kể tính gay gắt và sự xúc phạm thể diện đối với người bị chửi. Trong khi ở các tác phẩm khác, Nam Cao dẫn trực tiếp hành vi này rất nhiều và không phải là không "ghê gớm". Ví dụ:

- Đồ phản trắc! Đồ bất lương! Đồ giết chồng! (Nửa đêm; trang 449) Hoặc: - Bẩm bà, bu con đi vắng! - Đi vắng! Đi vắng mãi! Mày về bảo con mẹ mày nội ngày mai không trả tiền tao thì tao đào mả lên đấy. Cái giống chỉ biết ăn không! (Nghèo; trang 10) Vì vậy, chúng tôi cho rằng trong hành vi chửi của Chí còn chất chứa nhiều nỗi niềm hơn thế.

Thực ra, cho đến thời điểm ấy của cuộc đời với bao lần bầm dập cả về tâm hồn và thể xác, đến mức phải "đi ở tù", đến mức cái mặt "nó không còn là mặt người" nữa. Và để sinh tồn thì chỉ còn mỗi một nghề là "rạch mặt ăn vạ". Để có thể rạch mặt ăn vạ, "chửi bới", "dọa nạt" thì phải có rượu, phải say! Hơn nữa, "chưa bao giờ hắn tỉnh...", thì hành vi chửi bới kia có phải chỉ là phản ứng "khi đạt đến đỉnh điểm của sự tức tối" hay không? Thứ nhất, chửi quả đúng là để "bày tỏ một cách chủ động phản ứng bất bình". Trong toàn bộ truyện ngắn Nam Cao, hành vi ngôn ngữ chửi mắng được dẫn với một tỉ lệ tương đối cao (91 lần). Và cũng rất nhiều lần Nam Cao để các nhân vật của mình "thốt ra lời rủa, lời chửi" và "đi kèm với nó là những từ thô tục". Ví dụ: - Quân ăn cướp! Quân giết người! Mày muốn rũ tù thì trêu vào bà! (Nửa đêm; trang 449) Hoặc:- Nói chó nó cũng không ngửi được!... (Làm tổ; trang 326)

Nhưng với Chí Phèo, đỉnh điểm của bực tức mà chửi có lẽ chỉ diễn ra một vài lần, sau khi Chí "đi ở tù về"... Nam Cao đã viết: "năm hai mươi tuổi hắn đến ở cho nhà Lí Kiến...". Rồi được một thời gian "Chí bị người ta cho đi ở tù"; "hắn đi biền biệt đến bảy tám năm sau mới về"; "về hôm trước hôm sau đã ngồi uống rượu thịt chó say khướt" rồi "xách vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục ra mà chửi". Đó là lần đầu tiên Chí Phèo chửi. "Thật là ầm ĩ!". Chí Phèo đã chửi ra trò. Và chắc là phải kèm theo "cả những lời thô tục". Vì Nam Cao đã viết rất rõ: "Mà chửi mới sướng miệng làm sao! Mới ngoa ngoắt làm sao!". Chửi đến mức mà dân làng "Họ bảo nhau: Phen này cha con thằng Bá Kiến còn dám vác mặt đi đâu nữa! Mả tổ mả tiên lộn lên hết mất rồi!", thì chắc hẳn phải là "những lời xúc phạm cay độc" lắm!

Một hành vi ngôn ngữ không chỉ gắn với người nói, người nghe, mà còn gắn chặt chẽ với ngữ cảnh. Trong ngữ cảnh rộng lớn của xã hội Việt Nam những năm dài trước Cách mạng, thì phản ứng để trút bỏ bực tức của con người trước những áp bức bất công là một điều không tránh khỏi. Đi sâu vào ngữ cảnh của tác phẩm Chí Phèo thì rõ ràng là không thể im lặng, mà phải phản kháng, phản kháng mãnh liệt trước sự bất công, vô lý đến tàn nhẫn khi Chí Phèo bị đẩy vào đường cùng và chỉ còn mỗi một cách rạch mặt ăn vạ, đâm chém để tồn tại. Cho nên, chửi có lẽ là một phản ứng tất yếu. Vì thế, khi Chí Phèo chửi, thì cả làng Vũ Đại - họ mới "hả" vô cùng... Rõ ràng hành vi chửi đã góp phần không nhỏ vào việc tạo dựng chân dung nhân vật cũng như sự chuyển tải trong chiều sâu tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả!

Thứ hai, chửi còn là cách để Chí chứng tỏ sự tồn tại của mình, sự hiện diện của mình trong cộng đồng cư dân làng Vũ Đại. Sau lần chửi "thật là ầm ĩ" và "ồn ào như chợ" ấy, Chí Phèo đã trở thành "tay chân" của Bá Kiến. "Hồi ấy mới đâu hắn mới hai bảy hai tám tuổi"... "Bây giờ hắn đã thành người không tuổi rồi...". "Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại người ta giao cho hắn làm". "Hắn nhớ mang máng rằng có lần hắn hai mươi tuổi, rồi hắn đi ở tù, rồi hình như hắn hai nhăm không biết có đúng không?". "Bởi vì từ đấy bao giờ hắn cũng say". "Hắn không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại". "Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua...". "Vì thế cho nên hắn chửi hay là chẳng vì cái gì hắn cũng chửi". Có lẽ Chí Phèo đã quá cô đơn trong sự quẫy đạp của chính mình để tồn tại. Chí uống rượu đấy, đập phá đấy và chửi bới đấy, nhưng dường như Chí đang đơn độc một mình. Và chỉ có thể chửi, bởi vì Chí không biết hát ("giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi"). Hát hay chửi đối với Chí thì cũng đều vậy thôi - đều là tiếng kêu đau đớn của sự đơn độc! Do vậy, ở đây chửi không phải là sự tức tối - chửi để chứng tỏ sự tồn tại, sự hiện diện của Chí trong cuộc đời này, với làng Vũ Đại đã sinh ra Chí!

Thứ ba, Chí Phèo chửi không chỉ để khẳng định sự tồn tại, mà còn để khẳng định vị thế xã hội của hắn. Trong văn hóa của người Việt, thì chỉ những người ở vị thế xã hội cao (chức vụ cao, tuổi tác cao, ông bà, bố mẹ...) mới có "quyền" chửi. Và những người bị chửi thường là những người có vị thế xã hội thấp (nhân viên, con cháu...). Chửi là một cách để thể hiện mình, khẳng định mình. Ông cha ta có câu "Muốn nói không làm chồng mà nói, muốn nói ngoa làm cha mà nói". Theo cách hiểu của người Việt, thì "nói không" và "nói ngoa" cho ai đó cũng là cách hạ thấp uy tín, danh dự của họ (tức là chửi họ). Và thậm chí không đáng để chửi, thì những người có quyền hơn vẫn có thể chửi. Cho nên, việc chửi của Chí Phèo ("hắn thấy hắn cũng oai, táo bạo vì dám gây sự với cha con nhà Bá Kiến bốn đời làm tổng lí..."; và vì hắn "đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc...", đến nỗi "tất cả dân làng đều sợ hắn...") phải chăng là một cách để xác lập vị thế "hơn người" của hắn?

Cuối cùng, trong văn hóa ứng xử của người Việt thì kị nhất là chửi và bị chửi. Bởi vì, "một điều nhịn, chín điều lành", "nhịn mày tốt tao". Cho nên, chửi nhất là bị chửi là một sự xúc phạm ghê gớm. Do đó, chửi và chửi nhau là một điều mà người Việt tối kị. Chửi mà không có người ra lời hồi đáp thì sẽ không thành chửi nhau. "Bởi người ta không thể chửi nhau một mình"! Trong tác phẩm Chí Phèo, sự hiện diện của Chí luôn gắn với hành vi chửi, nhưng rõ ràng Chí chưa chửi nhau "trực tiếp" bao giờ - tức không hề có chửi nhau. Có nghĩa là không hề có hành vi được xem là mất danh dự này. Do đó, khái niệm chửi mà lâu nay chúng ta vẫn thường quan niệm, cũng như quan niệm về Chí Phèo với hành vi chửi của Chí một cách thông thường có lẽ nên xem lại.

Như vậy, hành vi chửi của Chí Phèo không chỉ là sự trút bỏ bực tức với những lời cay độc, không chỉ là phản ứng không chuẩn văn hóa, mà chửi còn là để khẳng định sự tồn tại, sự hiện diện và vị thế của mình. Đó có lẽ cũng là cách mà Chí Phèo muốn "làm hòa với mọi người". Và trong suốt tác phẩm (mặc dù vậy), Chí cũng chưa từng chửi nhau. Nhìn sâu vào tác phẩm và tâm hồn của Chí, rõ ràng đây không phải là tiếng chửi, mà là tiếng lòng thống thiết từ trái tim bị chà đạp đến tận cùng và nó bật lên thành tiếng kêu thương đau đớn với hình thức biểu đạt một cách xót xa (mà chỉ có Nam Cao mới làm được) đó là tiếng chửi. Vì vậy, mặc dù chửi, chúng ta vẫn thấy thương, vẫn thấy đau đáu, vẫn thấy day dứt trăn trở khôn nguôi... dù những trang viết của Nam Cao đã cách xa chúng ta gần thế kỉ.

Cảm nhận chi tiết bát cháo hành 140

Đề tài người nông dân có thể coi là mảnh đất màu mỡ mà các nhà văn hiện thực 1930 – 1945 đã gieo hạt nghệ thuật và gặt hái được những mùa bội thu. Nam Cao là người đến sau khi mà mảnh đất ấy đã được khai vỡ, nhưng bằng tất cả tâm huyết, tình cảm của mình đối với những con người nghèo khổ – những kẻ dưới đáy của xã hội, Nam Cao đã tìm được cho mình một chỗ đứng riêng.

Tác phẩm Chí Phèo – đứa con sinh sau đẻ muộn nhưng không chịu thua kém “anh chị” mình vươn mình lên hàng kiệt tác – đỉnh cao của văn học 1930 – 1945. Chí Phèo có được vị trí ấy là bởi giá trị tư tưởng mới mẻ, độc đáo, bởi nghệ thuật viết truyện lôi cuốn, hấp dẫn của ngòi bút Nam Cao. Và một điều không thể không kể đến đó là bởi Nam Cao đã xây dựng thành công những chi tiết nghệ thuật độc đáo: bát cháo hành của Thị Nở.

Bát cháo hành xuất hiện ở gần cuối thiên truyện mang một ý nghĩa đặc biệt. Chí Phèo sau khi uống rượu nhà Tự Lãng không về túp lều của mình mà ra thẳng bờ sông. Ở đó bắt gặp Thị Nở – người đàn bà ngớ ngẩn, xấu ma chê quỷ hờn, đi kín nước nhưng ngủ quên ở bờ sông. Khung cảnh hữu tình: trăng lấp lánh trên mặt sông, gió thổi mát rượi và những tàu chuối “giãy đành đạch như hứng tình”, cùng với hơi men của rượu đã đưa đến mối tình Chí Phèo – Thị Nở. Sau đêm trăng gió với Thị, Chí bị cảm, Thị Nở thương tình, sau một đêm trằn trọc suy nghĩ, Thị chạy đi tìm gạo và nấu cháo hành mang sang cho Chí.

Bát cháo hành – biểu tượng của tình người ấm nóng duy nhất còn sót lại nơi làng Vũ Đại khô khát yêu thương.

Bát cháo hành có lẽ đối với mỗi người nó chỉ là những thứ vặt vãnh, vụn vặt, nhất là khi cháo lại được nấu bởi bàn tay Thị Nở. Cháo ấy có ngon không? Chúng ta không biết, chỉ biết một điều nó chan chứa tình người. Một tình người rất thật, rất hồn nhiên, vô tư, không vụ lợi mà Thị Nở dành cho Chí. Nó chỉ đơn giản là bởi Thị thấy Chí bị “thổ một trận nhọc” mà không có người chăm sóc, bởi Thị nghĩ ốm như thế thì chỉ có ăn cháo hành. Và rất hồn nhiên Thị nấu cháo hành mang sang.

B1át cháo hành – vị thuốc giải cảm cho Chí.

Saukhi bị thổ, lần đầu tiên Chí tỉnh, lần đầu tiên cảm nhận được cuộc sống, nghe thấy được những âm thanh xung quanh: “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, “tiếng những người đi chợ trò chuyện… Một ước mơ xa xăm của một thời nào Chí thấy như xa lắm. Hắn đã từng mơ có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ vốn nuôi một con lợn. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Trận ốm đã làm cho hắn thoát khỏi cơn say triền miên mà nhận thức được mình, thấy mình đang ở cái dốc bên kia của cuộc đời, biết sợ tuổi già, ốm rét và cô độc.

Trận ốm đã làm cho hắn biết sợ – cái mà có lẽ trước giờ chưa bao giờ hắn nghĩ tới. Thị Nở sang cùng bát cháo hành đưa cho hắn. Nhận bát cháo từ tay Thị mà hắn “ngạc nhiên”. Ngạc nhiên cũng đúng thôi vì “từ trước đến giờ đã ai cho hắn cái gì. Muốn cái gì hắn phải dọa nạt hay cướp giật”. Một cảm xúc khác thay cho cái ngạc nhiên ban đầu “hắn thấy mắt ươn ướt, một chút gì như là ăn năn”. Chí ăn năn về những gì mình đã gây ra, có thể là như lời nhà văn “người ta thường ăn năn về những việc mình làm khi người ta không ác được nữa” nhưng dẫu sao điều ấy là không muộn. Chí ăn cháo hành và thấy “cháo hành ăn rất ngon”. Tình người đầu tiên Chí nhận được sao không ngon cho được.

Sự chăm sóc đầy ân tình dẫu chăng còn thô vụng của Thị Nở nhưng vẫn đáng quý biết bao. Còn gì quí giá hơn khi người ta ốm còng queo một mình mà lại được một bàn tay chăm sóc. Chí đã khao khát biết bao một bàn tay chăm sóc như thế. Bát cháo hành – sự chăm sóc, quan tâm vô tư của Thị Nở làm Chí nghĩ tới bà Ba Bá Kiến. Hai người đàn bà quan tâm tới Chí nhưng một người mặt hoa da phấn, áo quần là lượt nhưng tâm địa tà dâm chỉ cốt thỏa mình, còn một người xấu ma chê quỷ hờn nhưng tâm địa tốt, quan tâm Chí thật lòng. Bát cháo hành trên tay hơi nghi ngút làm cho Chí “vã mồ hôi ra như tắm”. Bát cháo tưởng vặt vãnh đã trở thành liều thuốc giải cảm hữu hiệu cho Chí.

Bát cháo hành – vị thuốc giải cảm, giải độc cho cuộc đời Chí.

Không chỉ giải cảm, bát cháo hành – tình người duy nhất đã gợi thức phần lương tri ngủ quên trong lốt “con quỷ dữ Chí Phèo”. Từ ăn năn, hối hận, Chí bỗng thấy thèm lương thiện, thèm trở về cuộc sống ngày trước. Bát cháo hành đã dẫn đường cho hi vọng hoàn lương: Thị Nở có thể làm hòa với hắn thì mọi người cũng có thể làm hòa với hắn. Khát khao lương thiện bùng dậy mãnh liệt đã khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở – về cây cầu đưa hắn về với cuộc đời lương thiện.

Bát cháo hành đã hoàn thành thiên chức gọi chất người, khơi hòn than đỏ vùi trong lớp tro tàn đang âm ỉ, nó đưa Chí qua một cuộc lột xác để về với sự lương thiện.

Nhưng bát cháo hành cũng chính là chi tiết đẩy bi kịch của Chí lên tới đỉnh điểm, dẫn tới một kết thúc thảm thương đầy đau đớn. Sau năm ngày ở với Chí Phèo, Thị Nở “bỗng nhớ ra mình còn một bà cô trên đời” và quyết định “dừng yêu” để xin ý kiến bà cô. Thị bị bà cô xỉa xói vào mặt và khi quay lại nhà Chí Phèo, Thị chửi Chí bằng tất cả những lời của bà cô và vùng vằng quay về. Chí “ngẩn người ra” và chạy vội ra níu tay Thị nhưng bị Thị dúi cho một cái rồi bỏ về. Chí rơi xuống hố sâu của tuyệt vọng. Thị Nở đã phụ bạc hắn, hắn không còn cơ hội để quay về với cuộc sống lương thiện. Tuyệt vọng, hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh và thoang thoảng cứ thấy “hơi cháo hành”.

Đó là biến thể của “bát cháo hành”. Hắn không say, vị ngọt tình người cứ thoang thoảng để hắn đau khổ “khóc rưng rức”. Cuối cùng Chí lựa chọn cầm dao đến nhà Bá Kiến, đâm Bá Kiến và tự sát. Hơi cháo hành đã không cho phép hắn trở lại cuộc sống con quỷ một lần nữa. Hắn để trở về lương thiện chỉ còn cách duy nhất là tự sát.

Bát cháo hành đã gọi dậy con người trong Chí để nó thức dậy mặc dù chỉ để khổ đau, để phải bi kịch. Nhưng dẫu thế nó cũng không chấp nhận chết đi mãi mãi. Và bát cháo hành chính là cánh cửa đưa nó thoát khỏi kiếp đọa đày. Bát cháo hành – một chi tiết nghệ thuật mang đầy dụng công của Nam Cao. Nó góp phần thể hiện tư tưởng nghệ thuật của nhà văn: Điều mà chúng ta thiếu đó chính là lòng tốt – một lòng tốt rất bình thường cũng có thể cứu rỗi con người. Và kết cục của Chí Phèo thể hiện một niềm tin của nhà văn: dẫu có bị bầm dập về nhân hình lẫn nhân tính, lương thiện trong con người đặc biệt là những người nông dân cũng không mất đi, nó chỉ cần đợi có cơ hội là sẽ bùng lên mạnh mẽ.

Qua chi tiết nó cũng cho ta thấy một hiện thực mà nhà văn đau đáu: đó là những định kiến làng xã nông thôn đã tước đi quyền được sống của con người… Qua đó nhà văn cũng gióng lên một hồi chuông khẩn thiết đòi thay máu cho xã hội để ít nhất con người được sống lương thiện.

Bát cháo hành – chi tiết đặc sắc đã góp phần làm nên “nhà văn lớn” Nam Cao. Tác phẩm khép lại nhưng dư âm của tình người trong chi tiết nghệ thuật ấy vẫn còn mãi.

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao 141

Đọc Chí Phèo, nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét: “Khi Chí Phèo ngột ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị đày đọa, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình”. Có thể nói bi kịch cuộc đời, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo là một trong những trang viết khố liệt và đau đớn nhất của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX.

Thật vậy, trong tuyệt tác “Chí Phèo”, Nam Cao đã khắc hoạ rõ nét một nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình: nhân vật Chí Phèo từ một chàng trai trẻ lương thiện, bị xã hội thực dân phong kiến đày đọa đến biến dạng cả tính cách lẫn ngoại hình. “Chí Phèo” như một bản án cáo trạng đanh thép tố cáo xã hội phong kiến đầy bất công đã đấy người nông dân vào con đường bần cùng hoá. Nối bật là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo, hắn muốn hoàn lương nhưng không một ai chấp nhân. Chính những đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, Chí Phèo trở thành thiên truyện có một không hai của văn học Việt Nam.

Qua bi kịch của nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã lí giải thành công quá trình bị tha hoá của người nông dân hiền lành, lương thiện, chịu khó làm ăn. Thế nhưng, Chí bất ngờ bị đẩy vào tù vì cái tính ghen hiểm ác của cụ bá Kiến oai trấn làng Vũ Đại. Bước ra khỏi nhà tù, Chí thay đổi đến đáng sợ trở thành một “con quý dữ” gớm ghiếc, côn đồ và tàn bạo. Dáng chú ý hơn, Chí lại trở thành tay sai cho bá Kiến, hằng ngày ăn cơm của kẻ đã đưa hắn vào tù. Công việc của Chí là đời nợ và rạch mặt ăn vạ. Rồi trong một cơn say, hắn gặp Thị Nở – một người phụ nữ dở hơi, ế chồng, xấu đến “ma chê quỷ hờn”. Bằng sự quan tâm, chăm sóc và hương vị thơm nồng của bát cháo hành, Thị đã đánh thức phần người bị chôn vùi bấy lâu nay của Chí. Trong tình yêu thương của Thị Nở, hắn ao ước về một gia đình nhỏ với Thị và khao khát trở về làm người lương thiện.

Thế nhưng bi kịch lại đến với Chí một lần nữa: bà cô của Thị Nở ngăn cấm cuộc tình duyên, cánh cửa trở về với cuộc đời đóng sập trước mặt, đưa Chí trở lại vị trí của kẻ lưu manh bị xã hội ruồng bỏ. Chí nhận ra bi kịch của đời mình, tìm đến với rượu rồi trong cơn say khướt, Chí xách dao đến nhà bá Kiến để đòi nợ.

Càng đọc “Chí Phèo”, ta càng đồng cảm với nỗi đau khốn cùng của nhân vật. Chí Phèo sinh ra là một con người tuy không hạnh phúc hoàn toàn nhưng là một con người tốt đẹp. Thế mà, cuộc dời nghiệt ngã đã đảy Chí vào con đường lưu manh hóa rồi chết trên con đường trở về với nhân tính. Suốt quãng thời gian dài phải sống là thân phận một “con quỷ dữ”, một thằng lưu manh không ai muốn dây vào, Chí hoàn toàn mát hết lí trí, mất hết lương tri, lương năng, làm biết bao việc tàn ác, những việc vốn không bao giờ xảy ra với một chàng nông dân hiền lành như cục đất. Chí nhận ra sai lầm nhưng không có cơ hội để sửa sai, bị cả xã hội ruồng bỏ đến cùng cực.

Bi kịch đau đớn của Chí có lẽ bắt đầu từ cơ duyên gặp gỡ và yêu Thị Nở. Sau đêm ăn nằm cùng nhau dưới bụi chuối, bản năng sống của Chí đã trở về. Hắn không còn u mê như một con thú. Rồi chính tình yêu thương mộc mạc, sự chăm sóc chân thành của Thị, bát cháo hành thơm nức tình người đánh bay hơi rượu, giải cảm trên thân thể, giải độc trong tâm hồn và khơi dậy khát vọng sống của Chí. Hắn muốn trở lại làm người. và hơn thế, là một con người lương thiện, hòa nhã, thân thiện với mọi người. Đó là một khát vọng chính đáng, thật đáng trân trọng.

Chí tỉnh dậy sau cơn say và cảm thấy lòng “bâng khuân mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên sau nhiều năm, Chí mới nghe thấy âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuối cá. Những âm thanh bình dị của cuộc sống ngày nào chả có nhưng hôm nay bỗng vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo và trở thành tiếng gọi của sự sống, của cuộc đời vẳng đến đôi tai lần đầu tiên biết nghe của hắn.

Bấy lâu nay, dường như Chí chưa bao giờ tỉnh táo để nhận thấy sự tồn tại của bản thân hắn trong cuộc đời này. Nhờ tiếng gọi của trái tim, hắn nhìn lại cuộc đời, nhớ tới ngày xa xưa: “một cái gì đó rất xa xôi”, rồi nghĩ đến hiện tại đáng buồn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời và nhận ra sự cô độc còn đáng sợ hơn cả đói rét và ốm đau. Nghĩa là hắn sợ cái chết, nỗi sợ hãi cố hữu trong con người. Hắn không muốn chết như một con vật cô độc mà muốn chết như một con người, có người thân bên cạnh.

Nam Cao đã lột tả độc đáo từng phút giây bừng thức của nhân vật. Cả quá khứ, hiện tại và tương lai của Chí mở mịt như một ngày mưa, như bóng tối của vũ trụ. Hắn bâng khuâng về thực tại, về cuộc đời mình, lần dầu tiên linh hồn ấy trở về, biết nghĩ suy và đối mặt với chính mình, nhận ra sự tuyệt vọng cua bản thân.

Có thể nói, con đường từ trái tim đến trái tim thực sự cảm hoá được một con người, một con quỷ dữ mất hết nhân tính. Bát cháo hành giản dị, đơn sơ và chân thành của Thị Nở nhiệm màu như dòng nước cam lồ của Quan Âm đem đến cho trái tim Chí Phèo nguồn sống mạnh mẽ,  làm hồi sinh những rung động đầu tiên, le lói ngọn lửa của tình yêu chân thành với Thị. Hương vị của bát cháo hành không chỉ là tình thương, sự đồng cảm của nhân loại mà còn là tình cảm, là hạnh phúc lứa đôi, có sức mạnh xoá tan vùng kí ức đen tối, làm sáng lên niềm tin ở ngày mai. Ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao hết sức tinh tế và nhạy cảm khi mô tả quá trình hoàn lương của Chí.

Cảm động quá, Chí như muốn khốc. Đó như tiếng khóc hạnh phúc bắt đầu lại cuộc đòi mới: “Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao”, hắn còn mong được nhận vào cái xã hội bằng phẳng, lương thiện của những người lương thiện. Chí đã trở lại là anh canh điền hiền lành của năm xưa. Ấy là bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi, chôn vùi trong tận thẳm sâu tiềm thức. Như bao người, hắn từng có ước mơ về một gia đình nhỏ: chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải.

Tưởng chừng Thị Nở sẽ cùng Chí Phèo thực hiện những ước nguyện giản dị, vẽ lại cuộc đời mới để được sống hạnh phúc, sống là chính mình. Nhưng không, cánh cửa trở lại làm người lương thiện vừa được hé mở đã bị đóng sập lại ngay trước mặt hắn. Bà cô Thị Nở dứt khoát không cho cháu bà “lấy ai không lấy, ai đời đi lấy thằng Chí Phèo”- một kẻ chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Bị Thị Nở dứt tình, Chí đau đớn tận cùng. Giá mà Thị Nở không đến với hắn, cứ để hắn say như lúc trước thì có lẽ hắn sẽ bớt khổ hơn lúc này.

Chí tìm đến với rượu như một thói quen. Chí hi vọng rượu có thể khiến hắn say rồi quên đi tất cả mọi chuyện. Hay đơn giản là dũng cảm bước qua lằn ranh lương thiện trở về với cái ác mà hắn vừa vạch ra. Thế nhưng, càng uống hắn càng tĩnh, càng cảm nhận nỗi đau, thấm thìa về cuộc đời mình. “Hắn ôm mặt khóc rung rúc. Rồi lại nôn”. Trong con quằn quại, đau khổ và tuyệt vọng, Chí quyết định trả thù, cũng là mọt thói quen, một việc quen thuộc mà hắn thường làm trước đây. Hắn định đến nhà bà cô Thị Nở trả cho bà món hận trong lòng.

Bước chân định mệnh đã đưa Chí đến nhá Bá Kiến. Trong cơn say, Chí mơ hồ nhận ra kẻ thù đích thực, kẻ đã gây ra cho cuộc đời hắn, nỗi đau của hắn là Bá Kiến chứ không phải Thị hay bà cô. Chi tiết hắn đứng chửi cùng với tiếng chó inh ỏi thật đắc địa. Tiếng Chí chửi nhà Bá Kiến, chửi cuộc đời, trong tiếng bầy chó sủa chan chát. Không ai muốn nghe, không ai dám đứng gần để nghe. Lúc này, là Chí hay là chó không ai còn phân biệt được nữa. Và cũng không cần phân biệt bởi đối với người làng Vũ Đại tiếng chửi của Chí Phèo hay tiếng chó sửa của nhà Bá Kiến đều đáng sợ.

Bá Kiến trở về, với bản lĩnh của con cáo già sừng sỏ, hắn tỏ ra bình tĩnh lắm. Thế nhưng, lúc này, mọi lời giáo huấn hay tranh luận với Chí đều trở nên vô nghĩa. Lưỡi dao công lí trong tay Chí Phèo đã kết thúc cuộc đời của Bá Kiến và cả cuộc đời Chí.

Cái chết bi thảm của Chí Phèo cho thấy khát khao cháy bỏng được sống lương thiện của người nông dân. Đây là bi kịch tất yếu của một con người sinh ra là người nhưng lại bị xã hội từ chối, xua đuổi. Từ đó, nhà văn tố cáo xã hội phong kiến nửa thực dân đã đẩy người nông dân lương thiện, hiền lành vào con đường tha hóa, bần cùng hoá và lưu manh hoá. Bằng bút pháp xây dựng nhân vật sống động, có cá tính độc đáo, lối kể chuyện mới mẻ, Nam Cao đã chạm khắc rõ cái bản chất “chó đểu” và tàn bạo của xã hội và khẳng định tâm hồn cao dẹp của người nông dân ngay khi họ đã biến thành “con quỷ dữ”.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo, Nam Cao lên án sâu sắc xã hội tàn bạo chà đạp nhân phẩm con người của Chí Phèo phản ánh hiện thực mang tính quy luật: còn xã hội vô nhân đạo thì vẫn còn hiện tượng Chí Phèo hay rộng hơn là hiện tượng người thiện lương bị tha hóa rồi phải chết một cách thê thảm. Từ đó, ta nhận ra phải ngăn chặn xã hội vô nhân đạo làm tha hóa con người, phải thay đổi, cải tạo xã hội để nó nhân đạo hơn. Chỉ khi đó lương thiện mới được xác lập, con người mói được nhìn nhận.

Qua số phận bi thảm và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo, Nam Cao lên án sâu sắc xã hội tàn bạo chà đạp nhân phẩm con người, vạch ra mối mâu thuẫn gay gắt không thể điều hòa ở nông thôn Việt Nam đương thời và tình trạng tha hóa phổ biến trong xã hội. Đồng thời Nam Cao thể hiện tư tưởng nhân đạo tốt đẹp, niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. Bi kịch của Chí Phèo chính là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh, là tiếng nói đấu tranh, đòi quyền được sống và được làm người lương thiện.

Tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở 142

Chí phèo là nhân vật điển hình cho lớp nông dân Việt Nam trước cách mạng, bị bần cùng hóa và rơi vào tình trạng tha hóa khủng khiếp. Dưới ngòi bút của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo hiện lên đa diện, phức tạp, vận động tâm lí theo một chu trình khép kín nhung cũng hết sức bất ngờ. Đặc sắc nhất là diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.

Trước khi vào tù, Chí Phèo từng là anh nông dân hiền lành lương thiện. Vì cơn ghen vu vơ của Bá Kiến, Chí bị đẩy vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho Bá Kiến biến Chí thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Đúng lúc hắn đang rơi vào hố sâu của tội ác và tuyệt vọng thì Nam Cao đã đưa “thiên sứ” thị Nở đến trong cuộc đời của Chí.

Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say dài. Hắn nhận ra cảm giác “miệng đắng” và “lòng mơ hồ buồn”. Cảm thấy “sợ rượu như người ốm thường sợ cơm”. Chí nhận ra và cảm nhận được những thanh âm của cuộc sống: “tiếng chim hót, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng mấy bà đi chợ bán vải về”. Đó là âm thanh vang vọng của cuộc sống thường nhật. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Âm thanh ấy như cơn mưa rào mùa hạ, như dòng suối ngọt ngào đổ vào tâm hồn quỷ dữ và thức dậy cả một trời ký ức tươi đẹp. Âm thanh ấy nhắc cho hắn nhớ đến một tuổi trẻ từng mơ ước “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ ở nhà dệt vải…”.

Âm thanh ấy cũng đánh thức hiện tại đầy cay đắng. Hắn không nhớ mình năm nay bao nhiêu tuổi; chỉ biết đã qua bên kia con dốc của cuộc đời. Hắn nhận ra hiện tại đã già mà vẫn còn cô độc. Nghĩ đến tương lai, hắn chạnh lòng vì phải đối mặt với một “đói rét, ốm đau và cô độc, cô độc, còn sợ hơn cả đói rét và ốm đau”. Khi ý thức được hiện tại, đoán biết được tương lai, Chí không còn là quỷ dữ nữa mà đã trở lại năng lực làm người.

Khi thấy bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo ngạc nhiên và thấy “mắt mình như ươn ướt”. Hắn xúc động vì lần đầu tiên được chăm sóc, lại là sự chăm sóc của một người đàn bà. Và cũng bởi vì đây là lần đầu Chí được bàn tay của một người đàn bà cho. Hắn nhận ra bát cháo hành mà hắn đón lấy là “cái cho” đầu tiên của cuộc đời, vì xưa nay muốn có cái ăn, hắn phải rạch mặt ăn vạ. Điều ấy khiến Chí chạnh lòng nhận ra bi kịch của đời mình.

Chí cảm nhận về cháo hành như cảm nhận về tình người, tình yêu thương mà bây giờ hắn mới nhận ra. Hắn nhận ra “cháo hành ăn rất ngon” nhưng cũng tự hỏi “sao đến bây giờ mới được ăn”; rồi lại tự trả lời “có ai nấu cho mà ăn đâu”. Phút giây ấy, người đọc có thể hình dung ra tình cảnh thê thảm của Chí: không người thân, không kẻ thương, Chí cô độc đến tuyệt đối giữa làng Vũ Đại.

Như vậy, bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc, là bát cháo của tình yêu thương, của tình người. Hương vị cháo hành còn là hương vị của tình yêu mà lần đầu Chí cảm nhận được. Nếu như ban đầu, người đàn bà xấu xí, quá lứa lỡ thì, lại dở hơi ấy chỉ khơi lại cái bản năng ở Chí Phèo thì sau đó điều kì diệu đã xảy ra, sự săn sóc đầy ân tình và yêu thương mộc mạc của thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện tiềm ẩn trong con người Chí Phèo.

Không phải là nước cháo, không phải là lá hành, chính bàn tay chăm sóc ân cần của thị Nở và hương vị của cháo hành đã xoa dịu trái tim con quỷ dữ và thức dậy bản tính người, thức dậy thiên lương trong sâu thẳm con người của Chí. Sức mạnh của tình yêu thương đã lan tỏa từ bát cháo hành, xông đến tận cùng thớ não và tim gan của Chí, đưa hắn ra khỏi vùng tối của cuộc đời, mang hắn đến bến bờ thiên lương. Trái tim đầy tổn thương của hắn phải chăng đã được vá lại từ tình yêu thương của thị Nở.

Nếu lúc trước Chí say và ngã vào Thị vì Chí không biết rằng người đàn bà ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hờn. Nhưng lúc này, khi hoàn toàn tỉnh táo, Chí không những chấp nhận thị mà còn yêu thị. Bởi chỉ có tình yêu mới khiến con người ta thấy xấu cũng thành đẹp. Và Chí say thị thật. Đàn bà không có men như rượu nhưng cũng có thể làm người ta say. Chí thấy thị có duyên lắm. Vậy là Chí tỉnh, hắn đâu có say. Chính vì Chí tỉnh nên hắn mới cảm nhận được những hương vị của cuộc sống, của tình yêu. Những chi tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nữa của Chí. Đó là tính thiện – Nam Cao tin rằng: lương thiện là thứ không bao giờ mất đi ở người nông dân. Đó là tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn dành cho nhân vật.

Đã có lúc, Chí hồn nhiên, hắn thấy lòng thành trẻ con, muốn làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ. Ý nghĩ hồn nhiên ấy khiến Chí như trẻ lại. Còn người đọc nhận ra một điều chua chát: Chí không có mẹ, hắn chưa bao giờ được nhận sự yêu thương từ mẹ. Bởi thế thị đối với hắn như người ban ơn vậy. Rồi hắn khao khát hạnh phúc. Tình yêu với Thị Nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình: “Giá cứ như thế này mãi thì thích nhỉ”; “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”.

Rồi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người. Chí không còn là kẻ rạch mặt ăn vạ nữa, không còn là con quỷ dữ nữa. Hắn thực sự đã trở lại làm người với hai chữ “con người” đúng nghĩa. Như vậy, thị Nở chính là “thiên thần” của Chí. Thị không có đôi cánh tình yêu như trong thần thoại nhưng lại ấm nóng như lửa và mạnh mẽ như gió. Nếu là gió, thị sẽ thổi tung đám tàn tro nguội lạnh vây quanh cuộc đời của Chí. Nếu là lửa, lửa sẽ đốt bỏ lớp vỏ quỷ dữ để trả lại cho anh hình hài của một con người.

Gặp thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến niềm vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy. Chí khát khao trở lại tháng ngày tươi đẹp. Và thị Nở sẽ là chiếc cầu nối đưa hắn trở về xã hội loài người nhưng niềm mong mỏi ấy đã bị chặn đứng bởi định kiến của bà cô, mà cũng là của xã hội ấy.

Chí thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần vô cùng đau đớn – bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện. Thị Nở không thể làm chiếc cầu nối đưa hắn trở lại. Hi vọng được sống với thị Nở, sâu xa hơn là hi vọng được quay về với cuộc đời lương thiện như một đóm lửa vừa mới được nhóm lên thì đã bị dập tắt. Chí “ngẩn người” vì thất vọng rồi hắn thấy  “thoang thoảng hơi cháo hành”.

Hương vị tình yêu vẫn còn, nhưng chỉ là tô đậm thêm bi kịch tình yêu của hắn. Chí ngẩn người ra vì cay đắng, chua xót trước một sự thật phũ phàng: xã hội làng Vũ Đại, ngay cả một con đàn bà xấu xí cũng đã cự tuyệt, không chấp nhận, dứt khoát không coi hắn là một con người. Hắn thấy rõ mọi con đường đều đang đóng chặt trước mặt hắn. Chí vật vã, đau đớn và tuyệt vọng. Chí ôm mặt khóc rưng rức. Những giọt nước mắt đau đớn, tủi nhục của kiếp người. Chí lại tìm đến rượu. Nhưng vì ý thức đã trở về, lần uống rượu này của Chí khác biết bao nhiêu lần uống rượu trước. Rượu một khi không đủ sức làm lu mờ lý trí của con người thì sẽ quay ngược trở lại thức tỉnh lý trí của con người. Hắn càng uống lại càng tỉnh ra, hắn không ngửi thấy mùi rượu mà chỉ nghe thoang thoảng mùi cháo hành, càng uống càng thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận.

Hắn quyết định đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Nhưng hắn không rẽ vào nhà thị Nở mà thẳng đường đến nhà Bá Kiến. Khi đến nhà bá kiến, Chí trợn mắt chỉ tay vào mặt Bá Kiến, đanh thép kết tội. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? là câu hỏi chất chứa niềm phẫn uất, đau đớn, làm day dứt tâm can người đọc: làm thế nào để con người sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo, ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Câu hỏi ấy cũng là lời kêu cứu của Nam cao: hãy yêu thương con người. Hãy cứu lấy con người.

Hành động giết Bá Kiến và tự sát thể hiện sự phẫn uất và tuyệt vọng đến tột cùng của người nông dân Chí Phèo. Đó là lúc nhân phẩm trở về, Chí Phèo hiểu ra nguồn gốc bi kịch của mình nên ngọn lửa căm hờn càng bùng lên dữ dội. Cái chết của Chí chứng tỏ Chí khao khát trở về cuộc sống lương thiện. Vì vậy cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ cái xã hội thực dân nửa phong kiến không những đẩy người dân lương thiện vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy họ vào cái chết. Chừng nào còn xã hội người ăn thịt người ấy thì sẽ còn những bi kịch như Chí.

Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đôi chỗ miêu tả lạnh lùng. Trần thuật hấp dẫn. Tình huống truyện độc đáo. Kết cấu vòng tròn khép kín. Mở đầu Chí Phèo cha ra đời nơi chiếc lò gạch cũ, kết thúc tác phẩm, lại một Chí Phèo con ra đời cũng bên cạnh lò gạch cũ. Đó là kết thúc vòng tròn khép kín, không lối thoát.

Diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở là một phát hiện mới của Nam Cao trong đời sống tinh thần của người nông dân. Bi kịch bi cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của Nam Cao với nỗi đau khổ tột cùng của người nông dân. Tiếng nói tố cáo xã hội bất nhân, tàn ác đã đẩy con người vào bi kịch. Nhà văn lên tiếng cảm thông, bênh vực và phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn sâu thẳm của người nông dân; trước sau bản tính lương thiện tốt đẹp vẫn là thứ không bao giờ mất đi ở họ. Nam Cao có biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật hết sức sắc sảo. Đặc biệt là tài nghệ miêu tả những diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị nở.

Ý nghĩa cái chết của Chí Phèo và Bá Kiến 143

Chí Phèo là nhân vật điển hình xuất hiện sắc của nhà văn Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo ra đời năm 1941. Đây là một người nông dân cùng quẫn vốn lương thiện, hiền lành, tự trọng nhưng đã bị Bá Kiến cho đi tù oan, bị lưu manh hóa, côn đồ hóa. Sau khi gặp Thị Nở, được hưởng tình cảm yêu thương. Chí muốn trở lại lương thiện. Tuyệt vọng vì không thể hoàn lương. Chí cầm dao đến nhà kẻ thù, sau khi đã nốc rất nhiều rượu. Vậy Chí Phèo giết Bá Kiến trong trạng thái say hay tỉnh?

Theo tác giả miêu tả thì Chí đã uống đến hai chai rượu. Cũng theo truyện thì Chí rắp tâm đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó. Chí có ý định đó vì Thị Nở nghe lời bà cô của thị, đã cự tuyệt quan hệ với Chí Phèo. Nhưng rồi Chí không đến nhà người tình bội bạc mà lại đến thẳng nhà Bá Kiến. Nhà văn đưa ra lời bình: “Những thằng điên và những thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm”. Căn cứ vào những chi tiết đó, ta có thể kết luận Chí Phèo xông đến và đâm chết Bá Kiến trong trạng thái say.

Nhưng phân tích và kết luận như thế chưa đủ. Trước khi hạ thủ kẻ thù, Chí đã nói những lời rất tỉnh táo. Chí nói ba câu rất gọn và rõ. Một câu khắng định quyết liệt: “Tao muốn làm người lương thiện!”. Một câu hỏi uất ức: “Ai cho tao lương thiện?”. Rồi một câu phủ định đau xót: “Tao không thể là người lương thiện nữa”. Chí Phèo muốn. Chí Phèo hỏi và Chí Phèo hiểu mình không thể trở thành người lương thiện được nữa với những vết mảnh chai trên mặt, dấu vết của tội lỗi, của bao lần rạch mặt, ăn vạ, ức hiếp, gây rối. Như vậy là Chí rất tỉnh. Vả lại lời văn của Nam Cao cho chúng ta thấy rõ khi Chí Phèo uống thêm chai rượu nữa nhưng “càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra, Chí buồn, khóc rưng rức rồi ra đi với con dao ở thắt lưng. Phải nói, theo cách dẫn truyện Nam Cao, Chí Phèo đang tỉnh.

Do đó, người đọc hiểu Chí Phèo đã giết Bá Kiến trong trạng thái vừa tỉnh vừa say, nhưng có lẽ phần tỉnh nhiều hơn.

Cái chết của hai nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến có nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, nó tố cáo xã hội thực dân – phong kiến đã tàn nhẫn đẩy người cố nông như Chí Phèo vào bế tắc, cùng đường không lối thoát. Chí Phèo vốn lương thiện, có nhân cách. Chỉ vì sự ghen hão của tên bá hộ cáo già, anh trai làng vô tội đó đã phải vào tù đến bảy, tám năm. Nhà tù của thực dân đã lưu manh hóa con người lương thiện ấy. Rồi Bá Kiến tiếp tục đẩy sâu Chí Phèo vào vũng bùn tội lỗi, biến anh thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Kết cục là Chí Phèo tự sát sau khi đã đâm chết tên thủ phạm Bá Kiến. Anh chưa tìm được lối thoát, một mặt không thể sống hung hãn, ngập trong rượu và máu như trước được nữa, mặt khác cũng không thể trở lại con đường sống lương thiện. Ý nghĩa khách quan của cái chết Chí Phèo là khi chưa được ánh sáng cách mạng soi rọi thì cuộc đời người nông dân nghèo hèn trong xã hội cũ rất dễ rơi và kết thúc bi thảm.

Cái chết của Bá Kiến và Chí Phèo còn nói lên sự phản kháng của con người dưới đáy xã hội. Dù sự phản kháng này là manh động, liều lĩnh, đơn độc nhưng cũng giáng một đòn chí tử, đích đáng vào kẻ có tội ác, đầu mối của những bi kịch trong cái làng Vũ Đại khốn khổ. Kẻ gieo gió đã phải gặt bão. Bá Kiến đã bị trừng phạt bởi chính người mà hắn đã đào luyện thành tên tay chân đắc lực. Bá Kiến chết cùng với tội lỗi của hắn. Chí Phèo chết trong người cố nông đáng thương, đáng giận ấy gục xuống trên vũng máu, chưa phải là hết chuyện. Sẽ có thể có Chí Phèo con ra đời nếu xã hội bất công, xấu xa ấy chưa thay đổi.

Cảm Nhận Về Tình Yêu Trong Tác Phẩm Chí Phèo Của Nam Cao 144

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao xưa và nay vẫn được xem là một truyện ngắn tiêu biểu, xuất sắc của văn học sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Tác phẩm được chú ý khai thác ở các khía cạnh tố cáo xã hội phi nhân tính, sự áp bức của giai cấp thống trị, số phận con người bị tha hoá... nhiều hơn là nhìn từ góc độ tình yêu.

Toàn bộ nội dung, kết cấu tác phẩm gắn liền với cuộc đời của nhân vật chính là Chí Phèo, có một chi tiết đáng lưu ý là: Các biến cố làm nên những đổi thay to lớn, những bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo cũng như trong kết cấu tác phẩm lại đến từ hình bóng những người đàn bà. Tuy nhiên có bóng dáng đẩy Chí Phèo vào chốn tăm tối nhưng cũng có gương mặt tuy xấu xí nhưng lại đưa Chí Phèo ra nơi ánh sáng của cõi minh triết.

    Cuộc đời Chí Phèo đột nhiên chuyển hướng do việc tiếp xúc miễn cưỡng với bà Ba Bá Kiến, một người "đàn bà phốp pháp, má hây hây", để từ một anh nông dân hiền lành chất phác trở thành một tên tù, một tên lưu manh mất hết nhân tính, mất luôn cả ý thức về mình lẫn ý thức làm người. Tuy nhiên, lần gặp gỡ với Thị Nở lại mang đến một hệ quả ngược, nó làm đảo lộn tất cả. Chính cuộc gặp gỡ với Thị Nở chứ không phải một biến cố xã hội nào đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời Chí Phèo và quyết định số phận của cả Chí Phèo lẫn Bá Kiến.

    Chút tình cảm tưởng chừng rất vu vơ giữa Chí Phèo và Thị Nở ấy đã tác động, chi phối một cách sâu sắc đến quan hệ giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Từ đó có thể thấy không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo bắt đầu từ buổi tối trước khi gặp Thị Nở, cái buổi tối mà hắn "vừa đi vừa chửi", để rồi từ đó mối quan hệ dây mơ rễ má với Bá Kiến, những khúc, đoạn trong cuộc đời Chí Phèo như một cuốn phim quay chậm được tái hiện. Tất cả những chi tiết này có tính chất như một đường truyền, một lời đề dẫn hay như những hoạ tiết có tính chất phông nền để làm nổi bật tác động của tình yêu, tình người đến cuộc đời Chí qua nhân vật Thị Nở.

    Một trong những đặc trưng phong cách của Nam Cao là sử dụng những yếu tố trái khoáy, ngược nhau để mô tả hiện thực. Tên của tác phẩm cũng thường hàm chứa một điều trái khoáy như Lang rận, Chí Phèo, Tình già... Bản thân sự tồn tại nhếch nhác của nhân vật Lang rận cùng với vẻ bề ngoài bẩn thỉu là một sự trái ngược, mâu thuẫn với nghề nghiệp, vị thế xã hội mà nhân vật mang vác. Tất cả những đối nghịch đó được thâu tóm trong một cái tên: Lang rận, và được khắc sâu hơn trong sự tương phản giữa vẻ bên ngoài nhếch nhác, thấp kém với đời sống tâm hồn cao đẹp. Hay trong truyện Nửa đêm, người cha có tên là Thiên Lôi nhưng lại đặt tên con là Đức - như hai mặt của một quá trình biện chứng nhân quả...v.v.

    Từ những chi tiết đó có thể hiểu tại sao Nam Cao lại lạ hoá câu chuyện tình Chí Phèo - Thị Nở như vậy. Không lãng mạn thơ mộng như các câu chuyện tình của Tự Lực Văn Đoàn, buổi tối gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở bắt đầu bằng hình ảnh Chí Phèo "vừa đi vừa chửi... chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo", cuộc đời hắn chìm trong những cơn say.
Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để "nhớ rằng hắn có ở đời". Tức trong hắn chỉ tồn tại không phải ý thức mà là một khối u u mê mê, tối tăm đặc quánh, vô cảm, vô thức. Ngay cả sự hiện hữu của bản thân, hắn cũng không nhận thức được, hắn chỉ kinh ngạc rồi cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi khi phát hiện ra mình dưới dạng một cái bóng trên đường trăng nhễ nhại, méo mó, xệch xạc. Chính hình ảnh này hướng đến sự ẩn dụ về một dạng tồn tại bất toàn của con người trong xã hội cũ. Con người không được sống thực là chính mình mà chỉ là những cái bóng, nhưng cũng không được là cái bóng của chính mình mà là bóng của giai cấp thống trị nên thành "cái vật xệch xạc, một cái gì đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại". Với cái bóng đó, với ý thức hiện hữu về sự méo mó của chính mình, Chí Phèo đến với Thị Nở. Đó là cuộc gặp gỡ tất yếu là hệ quả từ hai cuộc đời trống rỗng và bất toàn của hai con người.

    Thị Nở trước khi gặp Chí Phèo vốn chỉ là một thực thể không có đường nét cá tính gì đặc biệt mà còn khùng khùng dại dại, còn dung nhan là những đường nét tự nhiên, thô mộc đến mức dị hợm: Trên một khuôn mặt ngắn ngủn, có cái mũi "vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành" và một đôi môi "cũng cố to cho không thua cái mũi" hơn nữa, lại dày và có "màu thịt trâu xám ngoách". Toàn bộ "nhan sắc" của Thị Nở được Nam Cao tóm lại trong một nhận xét là "xấu đến ma chê quỷ hờn". Từ hai cuộc đời, hai thân phận khiếm khuyết, hai trí tuệ mông muội tăm tối của Chí Phèo - Thị Nở, Nam Cao đã để cho họ kết hợp lại như một sự liên kết hoàn hảo để tạo ra một con người mới thống nhất trong sự bừng nở trở lại của một trí tuệ minh triết. Đó là Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.

    Với Nam Cao, tình yêu không đi liền với sự lý tưởng hoá đối tượng, với sự hâm mộ sùng bái người yêu mà bắt đầu chỉ thuần tuý là bản năng. Ánh trăng trong mắt của Chí Phèo đêm gặp Thị Nở mang đầy màu sắc nhục thể, cứ "xanh rời rợi như là ướt nước". Cây dâu tây gần bờ sông thì "thân mềm oặt", những tàu chuối trong vườn nhà hắn thì "nằm ngửa, ưỡn cong cong lên" thỉnh thoảng lại "giẫy lên đành đạch như là hứng tình". Cái bóng - dấu ấn về sự hiện hữu méo mó của bản thân Chí Phèo cũng được phát hiện trong lúc này. Hành động chiếm đoạt Thị Nở của Chí Phèo lúc đầu chỉ thuần tuý là bản năng nhưng chính trong cõi âm u của bản năng ấy một ánh loé diệu kỳ đã bùng dậy hé mở cho ta nhìn thấy bản thể tốt đẹp của con người.

    Nam Cao đã vượt trước những nhà văn của thời đại ông ở chỗ không dừng lại ở những tình yêu lý tưởng thuần tuý tinh thần như của Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt (Khái Hưng), Lan và Ngọc trong Hồn bướm mơ tiên (Khái Hưng), Thanh và Ngọc trong Dòng sông Thanh Thuỷ (Nhất Linh), mà ông đã hợp nhất tình yêu trong sự hoà hợp tinh thần và thể xác. Đó là những chi tiết làm căn cứ để khẳng định đây là tình yêu chứ không thuần tuý là bản năng khi Nam Cao tiếp tục miêu tả thêm lúc Chí Phèo đau bụng và ói mửa, được Thị Nở dìu về lều... Hành động ban đầu là bản năng đã làm sống dậy tình yêu, sống dậy phần nhân tính tưởng không có hay đã chết trong con người của cả Chí Phèo lẫn Thị Nở. Ở đây có sự tái sinh, phục sinh của tinh thần nhờ tình yêu và sự gắn kết hai thân xác. Nó đã cải hóa, tái sinh Chí Phèo, tình yêu cho Chí Phèo và Thị Nở ý thức về chính mình.

    Trước đây, họ chỉ là hai khối mông muội, Chí Phèo thì hung bạo và triền miên trong vô thức và những cơn say vô tận: "Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận". Vậy nhưng trong tình cảm với Thị Nở, Chí Phèo đã tìm thấy chính mình, khám phá ra chính mình, hơn thế nữa khám phá ra sự sống. Con người ý thức, con người cảm xúc của Chí Phèo sống dậy. Lần đầu tiên hắn tỉnh hẳn rượu, đó là cái tỉnh của ý thức.

    Tại sao Chí Phèo "càng uống lại càng tỉnh ra?". Bởi vì tình yêu của hắn và Thị Nở đã làm thay đổi tâm điểm cuộc sống của hắn. Tâm điểm đó đã trượt từ cõi u minh của vô thức những ngày trước đây về với cõi thực tại, bắt Chí Phèo thừa nhận một thực tại cuộc sống đang tồn tại dù có hay không có hắn. Nó định vị tâm điểm cuộc sống của Chí Phèo từ những cơn say nghiêng ngả vào một cuộc sống bình thường. Chính vì vậy mà hắn tỉnh, hắn đã nhìn thấy chính bản thân mình. Thấy "bâng khuâng" rồi "lòng mơ hồ buồn"rồi "nghĩ vẩn vơ"... Thị Nở cũng thế, lần đầu tiên Thị lắng nghe cảm xúc của tâm hồn mình để "trằn trọc" "nghĩ ngợi" "tưởng tượng bâng quơ" .v.v..

    Những giới hạn của cuộc đời Chí Phèo như đã được phá bỏ, nó mở rộng, liên thông với cuộc đời bên ngoài. Chính tình yêu đã mở thông lối về với cuộc đời của Chí Phèo, hắn cảm nhận được cuộc sống xung quanh:"Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn !".

    Tình yêu cũng gia tăng thêm kích thước cho cuộc đời hắn. Trước đây Chí Phèo vô cảm, vô tâm, không có ý thức về chính bản thân mình nhưng nay hắn có cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là quá khứ với những kỷ niệm yêu thương đầm ấm, là mùi hương từ bát cháo hành và những săn sóc ân cần của Thị Nở, những kỷ niệm xa xưa cũng hiện về. Hắn từng mơ tới một viễn cảnh bình yên với chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải... hắn còn sợ già, sợ cô độc và muốn làm hòa với mọi người, muốn làm người lương thiện. Sự chuyển vị này là hệ quả tất yếu do tình yêu đem lại, nó khắc họa một cách sâu sắc bản thể bất toàn và cô độc của Chí Phèo lẫn Thị Nở trước khi yêu và được yêu. Chính tình yêu đã bù đắp khiếm khuyết trong tâm hồn, tái sinh một cuộc đời và làm giàu có đời sống nội tâm của nhân vật này rất nhiều.

    Chính vì thức tỉnh, vì đã được khai hóa và giàu có nhờ tình yêu nên khi bị Thị Nở từ chối "và ngoay ngoáy cái mông đít ra về", Chí Phèo mới cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ. Sức mạnh của tình yêu đã đưa hai nhân vật này đến một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống, trong khi thực tại lại không như vậy, nó vẫn tồn tại những định kiến xã hội không dễ buông tha cho con người nên thiên đường tình yêu, khát vọng làm người của Chí rơi tõm vào hiện thực trần trụi và vỡ toang, buộc Chí Phèo phải đối diện với hiện thực với nỗi đau khổ, tuyệt vọng để vùng lên cầm dao giết chết Bá Kiến.
Lời chì chiết của bà cô Thị Nở như là một chi tiết "giải thiêng" tình yêu của Chí Phèo. Nó thực tế, trần trụi đến tàn nhẫn. Đó là cái giá mà Chí Phèo và Thị Nở phải trả để đến với nhau, những thành trì xung quanh tình yêu ấy không dễ gì phá nên Chí Phèo tự kết liễu đời mình là một cách chọn lựa thích hợp nhằm chối bỏ sự thỏa hiệp, quay lại cuộc sống trước kia.

    Sau những tác phẩm về tình yêu của Tự Lực Văn Đoàn của chủ nghĩa lãng mạn thì Chí Phèo của Nam Cao là một khám phá. Bởi Nam Cao vẫn viết về tình yêu nhưng không phải về bản thân tình yêu Chí Phèo - Thị Nở, mà sâu xa hơn, Nam Cao muốn hướng người đọc đến những vấn đề ngoài tình yêu. Đó là vấn đề về văn hóa, về con người và xã hội, về bản năng và vô thức, những ý niệm về thân phận con người, sự tự do thoát khỏi những buộc ràng của định kiến xã hội, khao khát làm người.

    Chính vì vậy tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao không mang dáng dấp của truyện tình theo nghĩa thông thường ta vẫn hiểu, cũng không chuyển tải nội dung tình yêu theo cách thông thường mà theo một cách rất trái khoáy, rất nghịch dị mang dấu ấn riêng của Nam Cao. Nó làm cho hiện thực cuộc sống không còn bị gò ép trong cái khuôn khổ thông thường, quen thuộc trong cái nhìn của mọi người mà hiện ra một cách đột ngột bất ngờ tạo sự ngạc nhiên trong cảm nhận.

Cảm Nhận Về Tình Yêu Trong Tác Phẩm Chí Phèo Của Nam Cao 145

Chí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học hiện thực Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Thông qua tác phẩm, nhà văn Nam Cao không chỉ lên án xã hội phong kiến đen tối, vô nhân tính, bênh vực cho cùng nỗi thống khổ đến cùng cực của người nông dân nghèo mà ngòi bút nhân đạo của nhà văn Nam Cao còn thể hiện thái độ đồng cảm, trân trọng tình yêu giữa những con người khốn khổ dưới đáy xã hội là Chí Phèo và Thị Nở.

    Chí Phèo và Thị Nở đều là những con người khốn khổ dưới đáy xã hội, họ là nạn nhân đáng thương của xã hội phong kiến thối nát, phải chịu những định kiến khắc nghiệt. Từ khi chấp nhận làm tay sai cho Bá Kiến, Chí Phèo từ một anh canh điền hiền lành, lương thiện đã trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại, mọi người đều khinh ghét, sợ hãi, thậm chí chối bỏ quyền làm người của Chí Phèo. Khi Chí Phèo cất tiếng chửi, không ai trong làng Vũ Đại đáp lại hắn một phần vì sợ phiền phức, mặt khác thể hiện thái độ bài xích, phủ nhận sự tồn tại của Chí Phèo. Ngay cả khi Chí Phèo chết đi người dân làng Vũ Đại cũng không có một chút đồng cảm bởi “ai chứ thằng Chí Phèo chết” thì vẫn không có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ

    Thị Nở là người đàn bà xấu xí, nhà lại có mả hủi nên bị mọi người trong làng xa lánh, sợ hãi, họ nhìn Thị Nở như một cái gì đó rất tởm. Hai con người khốn khổ bị cả xã hội chối bỏ ấy tuy mang những khiếm khuyết lớn về mặt ngoại hình, nhân tính nhưng lại là mảnh ghép hoàn hảo cho nhau.

    Chí Phèo vốn không phải nhan đề đầu tiên được đặt, khi được xuất bản, truyện ngắn này của Nam Cao được đặt với nhan đề “Đôi lứa xứng đôi”. Nhan đề này đã thể hiện được một phần nội dung đặc sắc của tác phẩm, đó là tình của Chí Phèo và Thị Nở. Tuy nhiên, khi xuất bản lại Nam Cao đã lựa chọn nhan đề Chí Phèo để thể hiện rõ hơn tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

    Trong một lần uống rượu say, gặp Thị Nở ngủ quên tại vườn chuối, Chí Phèo và Thị Nở đã có một đêm sống như vợ chồng, đây cũng là lần gặp gỡ đầu tiên, tiền đề cho mối tình Chí Phèo, Thị Nở chớm nở. Buổi sáng hôm sau, khi tỉnh cơn rượu, Chí Phèo đã bị cảm, vì thương Chí có một mình, Thị Nở đã nấu cháo hành mang sang cho Chí giải rượu. Hành động ngỡ như hết sức bình thường này lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

    Bát cháo hành không chỉ thể hiện tình thương của Thị Nở với Chí Phèo – con quỷ dữ bị cả làng xa lánh mà hơi ấm của bát cháo còn có sức mạnh đánh thức con người lương thiện bên trong Chí. Tình yêu của Thị Nở và Chí Phèo diễn ra thật tự nhiên, họ nhìn thấy ở nhau những giá trị tốt đẹp mà định kiến của người dân làng Vũ Đại không thể trông thấy. Chí thấy ở Thị Nở – người đàn bà xấu xí bị cả làng xa lánh vẻ đáng yêu rất duyên, Thị Nở lại thấy ở Chí vẻ hiền lành ngỡ như không bao giờ có trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại ấy.

    Chí Phèo và Thị Nở đến với nhau một cách tự nhiên, chân thành như thế, họ tuy không hoàn hảo nhưng lại là một nửa hoàn hảo dành cho nhau. Nếu nói Thị Nở là người đã đánh thức phần nhân tính của Chí Phèo, mang đến những khát khao hạnh phúc, khát khao sống lương thiện của một thời trai trẻ thì Chí Phèo cũng chính là người thật lòng yêu thương, trân trọng Thị như một người đàn bà bình thường, thứ mà ngỡ như rất xa xỉ với Thị.

    Chí Phèo và Thị Nở đã có một khoảng thời gian ngắn chung sống hạnh phúc với nhau. Có thể thấy cả Chí và Thị đều trân trọng đối với mối tình này, từ khi quen Thị, Chí uống ít rượu hẳn, Thị hay cười hơn mà theo như đánh giá của Chí, nụ cười đó rất duyên. Thị  Nở đã mang chuyện của mình và Chí hỏi bà cô nhưng bị phản đối. Vốn tính dở hơi, lại uất ức vì những lời mắng mỏ thậm tệ của bà cô, Thị Nở đã mang toàn bộ những lời mắng chửi đấy để “ném” vào mặt Chí. Thái độ của bà cô Thị Nở cũng chính là những định kiến ngặt nghèo của xã hội, Chí đã nhận ra rằng mình không thể quay trở về với con đường lương thiện được nữa. Chí Phèo đã quyết định giết chết Bá Kiến, dùng dao tự tử để chấm dứt bi kịch không lối thoát của cuộc đời mình.

    Hình ảnh Thị Nở đặt tay vào bụng khi nhìn thấy Chí Phèo chết cho người đọc một liên tưởng, phải chăng sau những ngày sống cùng Chí, một đứa trẻ đáng thương cũng đã định hình trong bụng của Thị. Đứa trẻ đó là kết tinh tình yêu của Chí – Thị nhưng cũng chính là dấu hiệu của sự lặp lại bi kịch ở Chí Phèo con.

    Nhìn vào mối tình của Thị Nở, Chí Phèo người đọc cảm thấy được cái gì đó rất đáng yêu nhưng cũng không kém phần cảm động. Hai người họ bị cả xã hội quay lưng nhưng cũng chính họ lại là những con người lương thiện, khát khao yêu thương nhất.

Cảm Nhận Về Tình Yêu Trong Tác Phẩm Chí Phèo Của Nam Cao 146

Có lẽ mọi người thường nhắc đến tình yêu với những viễn cảnh lãng mạn, đẹp đẽ và tình tứ. Trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao cũng xuất hiện một mối tình khiến không ít người để tâm. Đó là mối tình của Chí Phèo và Thị Nở. Nhưng tình yêu này không hẳn là thứ tình yêu mà mọi người vẫn thường hay nghĩ, mà sâu xa hơn tình yêu ấy còn là lòng thương cảm, là một sự kiện lớn trong nền văn học hiện thực của Việt Nam. Ở đó, Nam Cao đã dùng tình yêu để trao cho nhân vật của mình một cơ hội được làm lại cuộc đời. Nhưng tình yêu dù lớn thế nào cũng vẫn nằm trong khuôn khổ của thực tại. Nhưng điểm khác biệt ở đây là tình yêu ấy được nhà văn thể hiện qua lăng kính của văn học hiện thực nhân đạo, của giai cấp, của xã hội.

Tác phẩm xoay quanh những biến cố trong cuộc đời Chí. Nếu lấy tình yêu làm điểm mốc, ta có thể chia cuộc đời Chí thành hai giai đoạn lớn là trước và sau khi gặp Thị Nở. Trước khi gặp Thị, Chí là một tên lưu manh được Nam Cao miêu tả tóm gọn bằng hai từ “ghê tởm”. Hệ quả ấy là do những tháng ngày trong tù đã nhào nặn Chí từ một người nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một con quỷ dữ khiến cả làng vũ đại vừa ghét vừa sợ. Sau khi gặp Thị Nở, cùng với tình yêu chớp nhoáng từ người đàn bà dở hơi ấy, đời Chí đã bước sang một trang mới tươi sáng hơn, tràn đầy niềm tin và hi vọng. Nhưng hạnh phúc chẳng được bao lâu lại vụt tắt khi Thị nghe theo lời bà cô từ chối tình yêu của Chí. Lại một lần nữa Chí rơi vào tuyệt vọng. Nhưng lần này khác với những lần trước, bởi Chí đã ý thức được cuộc đời mình, Chí quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn để giữ bản thân mình nguyên vẹn không bị quay trở lại con đường làm quỷ dữ như trước kia nữa

Điều đáng nói ở đây là tình yêu của Chí và Thị tuy chỉ là một mối tình chóng vánh, hay còn gọi là tình yêu sét đánh như mọi người vẫn thường hay nói. Nhưng tình yêu này không chỉ đơn thuần dừng lại ở những cảm tính thông thường, ở xác thịt của hai con người nam và nữ, mà hơn hết nó làm thức tỉnh ý thức làm người của một con người đã chìm đắm trong mê muội, trong men say suốt bấy lâu nay. Nhất là khi Chí không còn ý thức về sự tồn tại của mình, còn Thị cũng chỉ là một người đàn bà dở hơi, xấu xí nhưng tình yêu đã làm thay đổi con người của cả hai. Từ một kẻ say xỉn, chuyên rạch mặt ăn vạ sau đêm tình bên bụi chuối đã trở thành một con người hiền lành, giàu tình yêu thương và lòng trắc ẩn.”Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dây, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn.” Lần đầu tiên Chí nhận ra “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!”. Tình yêu làm cho Chí buồn. Nhưng cái buồn ấy là dấu hiệu của hạnh phúc. Bởi biết buồn nghĩa là Chí đã quay trở lại làm một con người bình thường. Không như trước đây, Chí chỉ biết có rượu chứ có biết đâu là buồn hay vui. Rượu và những tiếng chửi chua chát, nghiệt ngã. Giờ đây Chí buồn vì tại sao mình không được yêu sớm hơn, tại sao mình không nhận ra những hương vị thường ngày của cuộc sống, rất đơn giản thôi nhưng đầy thi vị. Khác hẳn với men rượu, với những cơn say. Còn về thị, một người đàn bà tuy dở hơi, xấu xí nhưng không hiểu tình yêu có phép lạ gì mà thị vẫn ý thức được mình phải làm gì khi “người yêu” bị ốm. Thị kéo Chí về lều, nấu cho hắn một bát cháo hành. Là thị, hay là tình yêu của thị đã biến đổi cuộc đời Chí? Thêm vào đó là bát chó hành đầy tình nghĩa, đầy yêu thương càng làm cho Chí xúc động và khát khao được hòa với mọi người, được sống một cuộc sống ấm êm như trước đây Chí từng ước mơ. Chí ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải chăm non con cái, nhà cửa. Có lẽ ước mơ ấy không chỉ của riêng chí mà là của tất cả mọi người nông dân cùng thời lúc bấy giờ.

Như vậy, chính tình yêu đã cảm hóa nhân cách của hai con người. Một kẻ say triền miên với lòng thù hận, còn một kẻ dở hơi với “nhan sắc” được nhà văn tóm gọn trong mấy từ “xấu ma chê quỷ hờn”. Nhưng khi được nhìn và cảm nhận qua tình yêu, thị lại có duyên một cách lạ lùng. Chi tiết ấy khá khôi hài nhưng không kém phần sâu sắc. Bởi chỉ có tình yêu mới làm con người ta có cái nhìn tích cực đến vậy. Mặt khác, trong hoàn cảnh này, tình yêu còn cứu sống cả một con người tưởng chừng như đang rơi vào vực thẳm của tuyệt vọng, của khổ đau và tội lỗi nhưng lại được tình yêu nâng lên đến bến bờ của hạnh phúc, của hi vọng. Chí buồn nhưng người đọc lại mừng. Mừng vì Chí đã đổi thay. Đã có ý thức về bản thân mình. Còn thị tuy dở hơi những cũng nghĩ được đến hai chữ “vợ chồng”. “Tiếng vợ chồng thấy ngường ngượng mà thinh thích”.

Câu chuyện tình Chí Phèo – Thị Nở không lãng mạn thơ mộng như các câu chuyện tình của khác nhưng lại là điểm dấu ấn quan trọng cho cuộc đời Chí, cho những biến cố tiếp theo mà Nam Cao đã khéo léo gài dựng. Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để “nhớ rằng hắn có ở đời”. Tức trong hắn chỉ tồn tại không phải ý thức mà là một khối u u mê mê, tối tăm đặc quánh, vô cảm, vô thức. Ngay cả sự hiện hữu của bản thân, hắn cũng không nhận thức được, hắn chỉ kinh ngạc rồi cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi khi phát hiện ra mình dưới dạng một cái bóng trên đường trăng nhễ nhại, méo mó, xệch xạc. Chính hình ảnh này hướng đến sự ẩn dụ về một dạng tồn tại bất toàn của con người trong xã hội cũ. Con người không được sống thực là chính mình mà chỉ là những cái bóng, nhưng cũng không được là cái bóng của chính mình mà là bóng của giai cấp thống trị nên thành “cái vật xệch xạc, một cái gì đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại”. Với cái bóng đó, với ý thức hiện hữu về sự méo mó của chính mình, Chí Phèo đến với Thị Nở. Đó là cuộc gặp gỡ tất yếu là hệ quả từ hai cuộc đời trống rỗng và bất toàn của hai con người.

Thị Nở trước khi gặp Chí Phèo vốn chỉ là một thực thể không có đường nét cá tính gì đặc biệt mà còn khùng khùng dại dại, còn dung nhan là những đường nét tự nhiên, thô mộc đến mức dị hợm: trên một khuôn mặt ngắn ngủn, có cái mũi “vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành” và một đôi môi “cũng cố to cho không thua cái mũi” hơn nữa, lại dày và có “màu thịt trâu xám ngoách”. Toàn bộ “nhan sắc” của Thị Nở được Nam Cao tóm lại trong một nhận xét là “xấu đến ma chê quỷ hờn”. Từ hai cuộc đời, hai thân phận khiếm khuyết, hai trí tuệ mông muội tăm tối của Chí Phèo – Thị Nở, Nam Cao đã để cho họ kết hợp lại như một sự liên kết hoàn hảo để tạo ra một con người mới thống nhất trong sự bừng nở trở lại của một trí tuệ minh triết. Đó là Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.

Với Nam Cao, tình yêu không đi liền với sự lý tưởng hoá đối tượng, với sự hâm mộ sùng bái người yêu mà bắt đầu chỉ thuần tuý là bản năng. Ánh trăng trong mắt của Chí Phèo đêm gặp Thị Nở mang đầy màu sắc nhục thể, cứ “xanh rời rợi như là ướt nước”. Cây dâu tây gần bờ sông thì “thân mềm oặt”, những tàu chuối trong vườn nhà hắn thì “nằm ngửa, ưỡn cong cong lên” thỉnh thoảng lại “giẫy lên đành đạch như là hứng tình”. Cái bóng – dấu ấn về sự hiện hữu méo mó của bản thân Chí Phèo cũng được phát hiện trong lúc này. Hành động chiếm đoạt Thị Nở của Chí Phèo lúc đầu chỉ thuần tuý là bản năng nhưng chính trong cõi âm u của bản năng ấy một ánh loé diệu kỳ đã bùng dậy hé mở cho ta nhìn thấy bản thể tốt đẹp của con người.

Nhưng sau tất cả, dù thế nào đi nữa, tình yêu vẫn phải gắn liền với thực tế. Mà thực tế lại quá bất hạnh cho cuộc đời Chí khi Chí vốn chỉ là một thằng chuyên đi rạch mặt ăn vạ. Thị dở hơi nhưng người bà cô của thị đâu có dở để cho cháu mình đi lấy một thằng không những không cha không mẹ mà còn lưu manh, dữ tợn. Dù thị có xấu xí đến mức ma chê quỷ hờn thì ngoài kia cũng vẫn còn nhiều thằng đàn ông xứng đáng với thị hơn Chí. Lại thêm một lần nữa, Chí bị đẩy xuống bước đường cùng, xuống tận đáy của xã hội. Nhưng tình yêu đã làm cho Chí thay đổi. Dù Chí vẫn tìm đến rượu và lại say. Nhưng cơn say lần này khác với những cơn say trước kia. Lại thêm hương cháo hành phảng phất lẫn với men rượu càng cho Chí như trở nên điên cuồng với tình yêu vừa bị rũ bỏ. Chí nhắm đích đến cuối cùng của mình chính là Bá Kiến. Chính hắn là kẻ đã khiến Chí trở thành con người tàn tạ như bây giờ. Cũng chính vì thế Chí mới bị thị Nở cự tuyệt. Đúng. Đúng vậy. Chí nhắm đúng lắm. Là Bá Kiến chứ không phải bất kỳ một ai khác đã đẩy Chí từ hết bi kịch này đến bi kịch khác. Lòng thù hận của Chí lại sôi sục nổi dậy. Có lẽ nỗi đau bị cha mẹ bỏ rơi từ khi mới lọt lòng còn không đau bằng nỗi đau bị người mình yêu từ chối. Bởi tình yêu ấy hơn hết tất cả tình yêu khác. Tình yêu ấy đã vực dậy Chí từ những cơn say triền miên, đã đưa Chí đi từ vũng bùn lầy lội của tội lỗi đến với những niềm mơ ước giản đơn mà thánh thiện. Sức mạnh của tình yêu đã đưa hai nhân vật này đến một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống, trong khi thực tại lại không như vậy, nó vẫn tồn tại những định kiến xã hội không dễ buông tha cho con người nên thiên đường tình yêu, khát vọng làm người của Chí rơi tõm vào hiện thực trần trụi và vỡ toang, buộc Chí Phèo phải đối diện với hiện thực với nỗi đau khổ, tuyệt vọng để vùng lên cầm dao giết chết Bá Kiến.

Giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Đây là cách mà Chí Phèo lựa chọn để ngăn không cho bản thân mình quay trở lại làm một con quỷ dữ như trước đây nữa. Chí thà chết đi còn hơn sống lay lắt, sống nhục nhã, sống mà như không sống, sống mà không được nhìn nhận làm người.

Như vậy, chính tình yêu đã làm thay đổi tất cả. Nhà văn đã rất thành công khi đưa tình yêu lên một bậc cao mới ý nghĩa hơn, cao thượng hơn và có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ hơn rất nhiều những tình yêu đôi lứa thông thường khác. Tình yêu ấy không những làm cho Chí Phí – Thị Nở bừng tỉnh giữa cuộc đời đầy mê muội mà còn làm cho người đọc có cái nhìn mới tình yêu. Rằng tình yêu rất cao đẹp nhưng luôn đi liền với thực tế hiện tại. Tình yêu và cuộc sống phải hài hòa với nhau mới có thể tạo thành một tình yêu viên mãn và trọn vẹn.

Phân tích hình ảnh bát cháo hành 147

Hẳn ai cũng biết bát cháo hành huyền thoại trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao. Một bát cháo nghĩa tình, hay cũng có thể gọi là món quà của tình yêu giữa Chí Phèo và Thị Nở. Một bát cháo rất giản đơn nhưng chất chứa bao ý nghĩa sâu sắc mà nhà văn Nam Cao đã gửi gắm vào. Ông đã dựng nên một thước phim quay chậm về thảm cảnh bi thương của xã hội phong kiến thời bấy giờ.

Ở đó, có Chí Phèo là đại diện cho những người nông dân nghèo khó bị xã hội ruồng rẫy đến mức tha hóa nhân cách, còn Bá Kiến đại diện cho thế lực cầm quyền tác ác bất nhân đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng. Khiến họ không còn là chính mình nữa. Nhưng trong nỗi đau bao giờ cũng ánh lên những nỗi niềm khát khao cháy bỏng, chi tiết bát cháo hành của Thị Nở chính là tia hi vọng sáng ngời cho cuộc đời đầy tăm tối của Chí, là cứu cánh cho những bước chân Chí đang lầy lội giữa vũng bùn hôi tanh của xã hội phong kiến.

Có thể nói, bát cháo hành ấy giống như một liều thuốc thần kỳ giải rượu cho Chí sau một cơn say dài dằng dặc. Cả một cuộc đời hơn bồn mươi năm, lần đầu tiên Chí được ăn cháo hành, lần đầu tiên được người khác cho một thứ. Bởi từ trước tới giờ Chí toàn phải cướp giật, dọa nạt mới có được những thứ mình muốn chứ chẳng bao giờ Chí được ai cho cái gì. Chí bị xã hội ruồng rẫy, bị tước đoạt quyền làm người, những tiếng chửi của Chí chẳng ai thèm để ý.

Nhưng tiếng chửi ấy lại khiến người đọc chạnh lòng và rơm rớm nước mắt khi Chí chửi mẹ cha đứa nào đẻ ra hắn để hắn phải sống một cuộc đời như thế này. Được sinh ra làm người là một diễm phúc lớn lao. Chí cũng vậy, nhưng tại sao Chí lại không được sống kiếp của một con người? Chí trở thành một con quỷ, nhưng là một con quỷ đáng khinh chứ không đáng sợ. Điều gì đã khiến Chí trở nên như vậy?

Giữa những lầy lội, những bê bối đang ngập tràn cuộc đời, Chí lại gặp Thị Nở. Chính lúc rơi vào hố sâu của lầm lỗi, của bi thương, thị lại ban cho Chí một ân huệ vô cùng lớn lao. Một bát cháo hành tuy nhỏ bé nhưng chân chất nghĩa tình. Một cháo hành rất bình thường như bao bát cháo khác, cũng chỉ có gạo và hành, nhưng nó đặc biệt vì được nấu lên từ tình thương chân thân của một người đàn bà dở hơi, xấu xí, xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn. Và cũng giống như Chí, cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm để ý đến thị.

Nhưng thị may mắn hơn là vẫn được mọi người nhìn nhận là một con người. Thị và Chí gặp nhau trong một đêm trăng sáng, khi Chí đang ngà ngà say. Họ lao vào nhau như một tiếng sét ái tình, như một lẽ thường tình tự nhiên. Sau đêm ấy, thị trở nên thương hắn, yêu hắn. Và hắn cũng thế. Thị chăm sóc Chí như một người vơ thực sự săn sóc cho chồng lúc ốm đau. Bát cháo của thị khiến lòng Chí rung động. Hương vị ngon lành của cháo hành đã vực dậy Chí sau những cơn say dài triền miên, đã kéo Chí từ cái đáy của vực thẳm trở về bên bến bờ đầy hi vọng. Thị chính là cánh cửa để Chí quay trở về làm người lương thiện. Cháo hành thơm và nóng khiến Chí thức tỉnh và sống lại với ước mơ của mình.

Ước mơ thật đơn sơ. Chí ước có được một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn. Vợ dệt vải. Khá giả mua thêm mấy sào ruộng làm ăn. Đây cũng là niềm mơ ước lớn lao của biết bao nhiêu người khác cùng thời với Chí. Nhưng xã hội nhiều bon chen quá, Chí chưa kịp thực hiện được hoài bão của mình thì đã bị nhấn chìm trong khổ đau, trong lầm lỗi. Giờ đây, bàn tay thị sẽ kéo Chí trở về, sẽ dìu Chí dậy. Những hương vị của cuộc sống theo mùi thơm của cháo hành quay trở về bên Chí. Chí cảm nhận được tiếng chim hót líu lo, tiếng mái chèo gõ cá, tiếng người đi chợ vải nói chuyện với nhau… Những thứ rất quen thuộc ngày nào cũng có nhưng vì say nên Chí không nhận ra.

Nay được thị mở lòng đón nhận, Chí quyết tâm trở lại làm người. Chí thèm được ăn những bát hành thêm nữa, thèm được làm người lương thiện. Nhìn Chí ngồi ăn cháo hành, không ai bảo hắn là kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ, chuyên đâm thuê chém mướn. Đây mới chính là con người thực sự của Chí. Hiền lành, tốt tính. Chỉ tiếc rằng, thị không đủ tỉnh táo để nấu cho Chí những bát cháo hành tiếp theo. Và Chí cũng không đủ mạnh để đứng lên làm lại từ đầu mặc dù lòng Chí đang khát khao lắm. Chí còn rủ thị sang ở cùng cho vui, cho kết thúc những ngày tháng say sưa triền miên, cho những vết sẹo trên mặt Chí mờ dần, mờ dần. Nhưng bi kịch lại một lần nữa đến với Chí. Hơi cháo hành còn chưa dứt thì thị đã quay lưng lại với Chí.

Trong cơn tuyệt vọng, men rượu lẫn mùi cháo thoang thoảng hòa quyện vào nhau. Đúng tâm trạng của một kẻ thất tình. Thị kéo Chí dậy nhưng chính thị cũng lại đẩy ngã Chí. Nhưng lần này, Chí không lún sâu vào vũng bùn ô uế như trước nữa. Chí đi thẳng tới nhà Bá Kiến để giết chết hắn, rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Chí nhận ra rằng chỉ có chết mới có thể giúp mình trở lại làm người lương thiện.

Như vậy, bát cháo hành của thị đã cứu Chí  khỏi những ngày tháng tối tăm. Chí chết nhưng chết để được sống. Chết để không còn bị dân làng coi khinh nữa. Bát cháo ấy cũng chính là lời ca ngợi, là niềm hi vọng mà Nam Cao đã gửi gắm vào. Ca ngợi tấm lòng lương thiện của một người đàn bà xấu xí, dở hơi. Thị càng xấu thì tâm hồn thị càng sáng. Hơn nữa, Nam Cao cố tình dành cho Thị những chi tiết xấu nhất là để làm đòn bẩy cho tình thương nơi thị được tỏa sáng.

Và hình ảnh bát cháo hành chính là hiện vật cụ thể của tình thương ấy. Cả làng Vũ Đại, chỉ có duy nhất một mình thị nhìn nhận Chí. Nhưng bi kịch vẫn chưa buông tha cho Chí. Và Chí đã tự kết thúc bi kịch cho đời mình bằng cái chết. Chết cho những lỗi lầm, chết cho những ước mơ không bao giờ còn thực hiện được nữa. Và chết vì dẫu sao, cả đời Chí cũng đã được thưởng thức một bát cháo hành, được săn sóc tận tình từ bàn tay của một người đàn bà với tấm lòng chân thật và trong sáng.

Phân tích tiếng chửi của Chí Phèo ở đầu truyện ngắn Chí Phèo 148

Viết về xã hội cũ, Nam Cao đã không ít lần mượn hoàn cảnh của nhân vật để phản ánh hoàn cảnh thật của nhân dân, của những tàn dư trong chế độ phong kiến lạc hậu, lỗi thời. Càng xót thương số phận của những người cùng khổ bao nhiêu, ông lại càng căm phẫn, oán giận những kẻ cầm quyền tàn ác bất nhân bấy nhiêu. Đỉnh điểm, ông đã đẩy Chí Phèo lên trang đầu của truyện ngắn cùng tên với những tiếng chửi rủa xót xa, chua chát. Dù cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm để ý đến tiếng chửi của Chí, nhưng ẩn chứa bên trong những tiếng chửi não nề tưởng chừng như vô nghĩa ấy chính là những thông điệp mang ý nghĩa sâu sắc mà Nam Cao đã gửi gắm vào.

Chí vốn hiền lành, chất phác, nhưng sau khi trải qua kiếp sống tù đày, Chí trở về với nỗi uất hận trong lòng. Hận vì bị nhà Bá Kiến đẩy vào tù mà không làm sao chống cự lại được. Một người nông dân hèn mọn, một kiếp người cỏ rác như Chí trong xã hội ấy làm gì có tiếng nói và bản lĩnh để chống lại được cả một thế lực cường hào ác độc. “Hắn vừa đi vừa chửi, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả lãng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết…”. Tiếng chửi của Chí có lẽ đã trở nên quen thuộc với dân làng Vũ Đại, nên chẳng ai thèm để ý tới hắn.

Tiếng chửi thật chua chát và xót xa làm sao. Nhưng ngay cả khi chửi, Chí cũng không được một người nào đáp lại. Bởi chẳng còn ai coi Chí là người nữa. Thế nên, người ta làm ngơ, người ta bâng quơ và bỏ ngoài tai những lời Chí chửi. Trong lời chửi ấy, Chí hận tất cả, hận vu vơ, hận vô cớ, hận bất cứ cái gì mà Chí còn nhận thức được. Ngay cả trời cả đất Chí cũng chửi. Rồi Chí chửi cả làng Vũ Đại, chửi để mong có ai đó đáp lại tiếng chửi của mình, để Chí biết rằng, Chí vẫn còn được nhìn nhận là một con người. Nhưng thật đáng thương, chỉ có lũ chó chạy theo Chí sủa ầm ĩ. Tiếng chửi nhưng cũng là tiếng kêu gào thảm thiết thê lương của một con người đã bị cự tuyệt quyền làm người. Vậy tại sao Chí không làm hòa với mọi người? Tại sao thay vì chửi, Chí không ăn nói tử tế đàng hoàng để xem có ai đáp lại lời Chí không? Nhưng Chí đã không làm vậy. Thời gian gần chục năm sống trong kiếp tù đày, con người Chí đã bị tha hóa, bị mất nhân tính. Đồng thời, trong Chí lúc này cũng chỉ toàn là sự uất hận với niềm đau khổ. Với tâm trạng rối bời như vậy, làm sao Chí có thể ăn nói nhẹ nhàng, hòa thuận với ai được?

Bởi thế, trong tiếng chửi của Chí dồn nén biết bao nhiêu cảm xúc. Xót thương có, tủi hờn có, hận thù cũng có. Nhưng xót xa hơn cả là khi Chí chửi không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này. Tiếng cười “A ha” như một sự bữ bàng đến tột độ. Được sinh ra làm người, nhưng lại không được ai công nhận là người. Cuộc đời này còn có ý nghĩa gì với Chí nữa? Chí không khóc, nhưng tiếng chửi còn mặn chát hơn cả nước mắt. Chí thật bất hạnh. Đã mồ côi cha mẹ, không được một lần bú mớm, cũng không một lần biết mùi hơi mẹ là gì. Chí lớn lên nhờ dân làng truyền tay nhau nuôi nấng. Cuộc sống lẽ ra rất yên ổn với Chí. Nhưng Chí đã không thoát khỏi nanh vuốt của bọn cường hào thống trị gian ác. Chí cũng không thể đủ sức lực để chống lại bọn chúng. Giờ đây, Chí đã bị đẩy vào bước đường cùng, đến ngay cả bản thân Chí cũng muốn chối bỏ cuộc sống này. Bởi sống mà không được sống, là người mà không được làm người thì còn nỗi đau nào hơn? Ai có thể trả lời cho Chí biết Chí phải sống như thế nào trong những chuỗi ngày dài cay đắng trước mắt không? Chí không biết, và cũng không một ai biết. Chí chỉ biết chìm vào trong cơn say, say rồi lại chửi. Chửi triền miền, chửi hết tất cả những gì Chí nghĩ đến.

Người ra thường nói, lúc say là lúc sống thật lòng nhất. Trường hợp của Chí cũng không ngoại lệ. Dân làng Vũ Đại không ai thèm chấp hắn nữa. Nhưng lòng người đọc không khỏi xót thương khi hình dung ra cảnh một con người lếch thếch lang thang trong cơn say dài với những tiếng chửi não nề, thê lương. Không biết, bên ngoài làng Vũ Đại, trong cái xã hội ấy còn biết bao nhiêu anh Chí nữa?

Trong những tiếng chửi chua chát nồng nặc mùi rượu ấy còn có cả tiếng lòng của Nam Cao. Ông xót thương cho Chí, nhưng chính bản thân ông cũng không thể làm gì giúp Chí được. Ông chỉ là một thầy giáo nghèo trong cái xã hội tồi tàn, thối nát. Bản thân ông cũng chưa thể lo nổi, làm sao có thể gánh vác được thêm ai? Bởi thế, tiếng chửi của Chí cũng chính là tiếng chửi của ông. Ông chửi bọn làm quan bất nhân bất nghĩa, bọn địa chủ giàu có tham lam bạc tình. Điều độc đáo ở đây là ông lồng tiếng chửi vào một nhân vật đã bị tha hóa cả đạo đức và nhân cách, hắn chính là sản phẩm của sự tàn bạo. Thế nên, tiếng chửi ấy rất xứng đáng, rất hợp lý.

Giá như, ai đó có một chút đồng cảm, một chút đồng tình, một chút cảm xúc với tiếng chửi của Chí, có lẽ sự xót xa và tủi hổ sẽ được giảm bớt phần nào. Chí say nhưng tiếng chửi ấy hoàn toàn nằm trong tiềm thức tỉnh táo của một kẻ bị đàn áp quá nhiều. Chí ý thức rất rõ về thân phận của mình khi chửi mẹ cha đứa nào đẻ ra mình. Cuộc sống này không phải là phép màu, cũng phải là món quà vô giá mà “đứa chết mẹ” kia đã ban cho hắn. Mà ngược lại, sự có mặt của hắn trên cuộc đời này là một nỗi tủi hờn cùng cực, một sự sỉ nhục và đớn đau vô cùng.

Tiếng chửi thảm thiết của Chí được Nam Cao đặt ngay trong phần đầu câu truyện, để mở ra đằng sau đó là cả một chuỗi những sự kiện đầy bê bối của Chí, của những người đã làm Chí trở thành con ác quỷ như bây giờ. Ngập chìm trong tiếng chửi ấy, còn có bao nhiêu cuộc đời khác bên ngoài làng Vũ Đại cũng đang cùng chung số phận giống Chí. Không biết, có ai chửi đời, chửi trời như Chí không nhưng dẫu sao đó cũng là tiếng gào thét khẩn cầu cho niềm khát khao được quay trở lại làm người, làm một con người đích thực, một con người lương thiện và bình thường.

Phân tích nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn "Chí Phèo" 149

Là một nhà văn trung thành của chủ nghĩa hiện thực, Nam Cao không chỉ cho thấy số phận khốn khổ, bất hạnh của người nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiến mà con vạch trần bộ mặt của giai cấp thống trị. Bá Kiến chính là nhân vật điển hình cho sự độc ác, tàn bạo của bọn thống trị đương thời.

Nhà Bá Kiến vốn bốn đời làm tổng lí. Hắn leo lên đỉnh cao của danh vọng, giữ những chức vụ quan trọng : Tiên chỉ làng Vũ Đại, chánh hội đồng kì hào, Bắc Kì nhân dân đại biểu. Phe cánh của hắn luôn dày đặc. Hắn là kẻ đối nghịch với quần chúng nhân dân, người dân vừa sợ uy quyền của hắn nhưng đồng thời cũng vừa căm ghét sự độc ác bất nhân của Bá Kiến.

Trước hết, là một con quỷ dâm ô, hắn ta đã có bốn bà vợ nhưng vẫn sẵn sàng đi cướp vợ của người khác. Khi hắn còn đang đương chức lí trưởng hắn không bỏ qua cơ hội ve vãn vợ Binh Chức. Những người trai trẻ luôn làm lão điên lên, vì bản thân đã già quá, mà các bà vợ thì vẫn cứ trẻ phây phây. Chính điều đó, đã khiến lão đẩy nhiều người lương thiện vào cảnh tha hóa.

Bá Kiến còn là kẻ độc ác, bất nhân. Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện, làm thuê cho gia đình Bá Kiến. Là một người nông dân khỏe mạnh, chăm làm nhưng khi làm việc ở nhà Bá Kiến, Chí Phèo bị bà ba dụ dỗ và khiến Bá Kiến nổi giận.

Ông ta nổi giận vì Chí dám vụng trộm với bà bà, nhưng ông ta còn giận dữ hơn khi cảm thấy mình kém cỏi, già nua hơn so với Chí, Chính điều ấy đã khiến lão ta đưa đến một quyết định vô cùng khủng khiếp: chỉ muốn tất cả những thằng trai trẻ đều đi ở tù ».

Hắn đã hủy hoại cuộc đời cả một con người: Tống Chí Phèo vào nhà tù thực dân. Sau bảy tám năm đi ở tù về, Chí Phèo đã thực sự bị tha hóa cả về nhân hình và nhân tính đúng như ý muốn của Bá Kiến.

Không chỉ vậy hắn còn là kẻ hết sức khôn khéo, nham hiểm. Chí Phèo đi tù trở về thường xuyên đến nhà Bá Kiến ăn vạ. Là là kẻ lọc lõi, nhìn thấy cảnh huyên náo, Chí Phèo nằm dài, không nhúc nhích hắn ta đã hiểu ra ngay cơ sự. Bằng sự giảo hoạt, hắn ta nhanh chóng tìm được cách ứng phó với Chí Phèo và đám đông xung quanh.

Trước hết, dùng giọng nạt nộ để bắt các bà vợ vào nhà, sau đó, lão ta giải tán đám đông bằng một giọng dịu dàng, vừa cương quyết: Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ ! Có gì mà xúm lại như thế này. Dù người dân vẫn hết sức hào hứng, muốn chứng kiến việc Bá Kiến giải quyết tên Chí Phèo cũng không thể nán lại lâu hơn được nữa khi cụ Bá thét ra lửa đã đuổi khéo, không ai nói gì, người ta lảng dần đi.

Như vậy, Bá Kiến đã giải quyết được hai vấn đề, lão thừa hiểu Chí Phèo lợi dụng đám đông để làm toáng lên, khi mọi người đã giải tán hết, hắn không còn ai để hung hăng, để dựa dẫm nữa lão mới quay sang tên Chí Phèo đang nằm dưới đất. Hơn nữa, lão ta cũng biết với một kẻ đầu bò như Chí Phèo nếu làm căng lên sẽ hỏng hết việc, bởi vậy phải sử dụng giọng điệu tha thiết, mềm mỏng với hắn, nếu làm như vậy trước mặt dân làng sẽ mất hết cái uy của ông. Bá Kiến quả là một kẻ khôn ngoan, xảo quyệt lão làng.

Quay lại với Chí Phèo, hắn dở giọng đường mật, nhẹ nhàng: anh Chí ơi ! Sao anh lại làm ra thế ?. Rồi niềm nở mời Chí Phèo vào nhà uống nước, hỏi han thân mật như Chí là bạn của hắn : Về bao giờ thế ? Sao không vào tôi chơi. Không dừng lại ở đó, để làm cho Chí hoàn toàn bị lừa phỉnh, quên đi mục đích ban đầu hắn ta còn nhận họ hàng với Chí ai chứ anh với nó còn có họ kia đấy, người ngoài biết.

Hai tiếng người ngoài, có họ chắc đã khiến Chí Phèo sung sướng, bởi bỗng nhiên lại được trở nên cao quý khi có họ hàng với người làm quan to. Như vậy, từng bước một Bá Kiến đã lừa được Chí Phèo vào bẫy của mình, và cuối cùng hắn ta đã thắng.

Sự độc ác, nham hiểm của Bá Kiến còn đẩy lên một mức cao hơn với thủ đoạn dùng người hết sức độc ác: trị không lợi thì cụ dùng, lão dùng những người nông dân bị bần cùng hóa thành những công cụ, tay sai đắc lực cho hắn. Sau khi làm nguôi ngoai nỗi căm giận trong lòng Chí bằng những lời lẽ giảo hoạt, Bá Kiến đã biến Chí Phèo thành tay sai đắc dụng của mình.

Hắn sử dụng thằng đầu bò là Chí để trị những thằng đầu bò. Với cách dùng người mềm nắn rắn buông, dùng những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò, Bá Kiến đã đẩy biết bao người nông dân lương thiện vào cảnh tù đày, tha hóa. Kết thúc tác phẩm, Bá Kiến bị Chí Phèo đâm chết. Nó là kết cục xứng đáng cho những tội danh, cho sự bất nhân mà hắn đã gây ra với biết bao nhiêu người.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình cho bọn cường hào ác bác giam hiểm, độc ác, lão không từ bất kì thủ đoạn nào để bóc lột người dân, hắn còn mang trong mình nét riêng không hòa lẫn với những kẻ khác đó là sự gian hùng, nham hiểm, thủ đoạn. Ngôn ngữ nhân vật biến đổi linh hoạt, giúp bộc lộ tính cách nhân vật.

Khi miêu tả Bá Kiến, Nam Cao không chỉ đơn thuần miêu tả ngoại hình mà còn khắc họa tâm địa nham hiểm của hắn: cụ cười nhạt nhưng giòn giã lắm, cụ hay quát để thử dây thần kinh người khác,… Qua đó Nam Cao vừa giúp cho người đọc có cái nhìn rõ nét, sắc sảo về nhân vật, vừa cho thấy tài năng miêu tả nhân vật bậc thầy của ông.

Bằng bút pháp xây dựng nhân vật xuất sắc, Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật Bá Kiến – kẻ đại diện cho giai cấp thống trị đương thời. Hắn ta là kẻ gian ngoan, xảo quyệt, với những thủ đoạn bóc lột vô cùng thâm độc. Khắc họa nhân vật Bá Kiến, Nam Cao cho thấy quá trình đấu tranh không khoan nhượng giữa nông dân và bọn cường hào, ác bá. Đồng thời cũng là lời phê phán, tố cáo đanh thép xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời của Nam Cao.

Phân tích nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao 150

Tác giả Nam Cáo là một nhà văn nổi tiếng của nền văn học hiện thực phê phán ở nước ta. Mỗi tác phẩm của ông đều gửi gắm tới những thông điệp sâu sắc về số phận của một con người nào đó. Từ nông dân cho tới tri thức nghèo khổ.

Truyện ngắn Chí Phèo là một câu chuyện xoay quanh một người nông dân khốn khổ, bị bần cùng hóa tới mức mất nhân phẩm lương tri của một con người. Nhưng kết thúc anh ta vẫn tìm lại được bản tính làm người của mình dù có thể là muộn màng.

Trong truyện ngắn Chí Phèo người đã đẩy nhân vật Chí Phèo tới bước đường cùng, tới cảnh tù tội mất hết lương tri không ai khác đó chính là Bá Kiến. Bá Kiến là nhân vật đại diện cho tầng lớp bóc lột của xã hội phong kiến. Qua nhân vật Bá Kiến này bộ mặt tàn bạo, độc quyền xấu xa của bọn địa chủ cường hào ác bá hoàn toàn bị phơi bày. Trong tác phẩm Chí Phèo, nhân vật Bá Kiến là một nhân vật hoàn chỉnh, điển hình cho giai cấp bóc lột.

Trước đây trong một số tác phẩm về người nông dân như Tắt đèn của Ngô Tất Tố có nhân vật Nghị Quế người đã mua bé Tí con gái của chị Dậu. Khi trả tiền mua con gái chị Dậu bà ta đã "cò kè bớt một thêm hai" và còn đếm thiếu tiền cho chị Dậu. Nhưng nhân vật Nghị Quế chỉ toát lên vẻ keo kiệt, tham lam mà thôi.

Còn nhân vật Bá Kiến của Nam Cao thì không chỉ keo kiệt, tham lam, mà còn âm mưu thâm độc, nham hiểm, quyết bắt người nông dân phải chịu khổ tới cùng. Hắn mà đã muốn gì thì sẽ ủ mưu để làm cho bằng đường. Hắn sẵn sàng hãm hại người lương thiện, cho Chí Phèo vào tù vì lòng ghen của mình.

Tác giả Nam Cao đã miêu tả chỉ một vài nét đơn sơ nhưng thể hiện một nhân vật Bá Kiến vô cùng độc đáo, khiến cho người đọc khó có thể quên được. Tuy nhiên, nhân vật trở nên sống động, diễn tả nội tâm vô cùng sâu sắc của tác giả.

Nhà văn Nam Cao để cho Bá Kiến xuất hiện lần đầu tiên trước khi Chí Phèo say rượu và tìm tới nhà Bá Kiến chửi đổng tìm cách rạch mặt ăn vạ để kiếm thêm tiền uống rượu.

Một viễn cảnh vô cùng đông đúc hỗn loạn, vô cùng huyên náo, khi mọi Bá Kiến vừa nhìn thấy Chí Phèo nằm giữa đám đông rên lên khe khẽ, không nhúc nhích, bên cạnh là mảnh sành của chai rượu vỡ, khuôn mặt loang loáng những giọt máu đỏ. Thì hắn đã nhanh trí hiểu ngày câu chuyện.

Với cái đầu đa mưu túc kế của mình Bá Kiến đã nhanh trí giải quyết sự việc chỉ trong nháy mắt. Với tuổi đời và sự từng trải trong đời của mình Bá Kiến hiểu rằng không nên gây sự với Chí Phèo vào lúc này khi có nhiều người dân làng đang đứng xem, bởi hội chứng đám đông là vô cùng nguy hiểm.

Hắn không chẳng muốn gây chuyện với Chí Phèo bởi hắn biết "thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân". Chí Phèo thì không phải anh hùng, nhưng hắn là kẻ cố cùng liều thân, đến cái mạng của mình Chí Phèo còn chả cần thì hắn tiếc gì đời này nữa. Nếu manh động hắn cũng sẵn sàng lao vào đâm thuê chém mướn giết người không ghê tay.

Lại thêm đám đông người dân đang đứng xung quanh có thể kích thích cho Chí Phèo trở nên hung hãn hơn. Chính vì vậy, Bá Kiến đã nhẹ nhàng tới gần Chí Phèo đỡ Chí Phèo dậy rồi giải tán đám đông, mời Chí Phèo vào nhà nói chuyện. Bá Kiến đã thành công khi diễn màn mua chuộc của mình, chỉ vài lời phỉnh nịnh đầu môi, Bá Kiến đã khiến cho Chí Phèo ngoan ngoãn nghe theo lời mình, đám đông nhanh chóng giải tán. Rồi hắn dúi cho Chí Phèo vài đồng bạc lẻ để uống rượu, thế là Chí Phèo tưởng mình thắng lợi lớn lắm, Chí Phèo quên luôn món nợ 7-8 năm ở tù oan của mình.

Rồi tiếp theo Bá Kiến đã âm mưu biến kể cố cùng liều thân là Chí Phèo trở thành tay sai cho mình, biến kẻ thù trở thành nô lệ của mình một lần nữa. Hắn thường xuyên thuê Chí Phèo đi đòi nợ cho mình, bởi hắn biết Chí Phèo đáo để lại chẳng có gì để mất, chỉ cần Chí Phèo làm tay sai cho hắn thì khối kẻ sợ. Còn chẳng may trong cuộc đâm chém, đòi nợ thuê đó Chí Phèo chết thì hắn cũng chả mất mát gì, chẳng qua làm sạch xã hội mà thôi, hạng người như Chí Phèo có sống cũng chỉ thêm chật đất.

Âm mưu như vậy nên Bán Kiến đã lợi dụng Chí Phèo hết lần này tới lần khác, sự xảo quyệt của lão già cường hào này thể hiện qua cái đầu nham hiểm, suy nghĩ có trước có sau tính toán cặn kẽ của hắn. Hắn là người vô cùng thông minh biết "mềm nắn rắn buông" vô cùng đúng lúc. Bá Kiến thường ngấm ngầm tìm cách đẩy người ta ngã xuống hố nhưng rồi vào lúc người đó đang ngấp ngoải sắp chết hắn liền chìa bàn tay mình ra để cứu giúp, để người kia tưởng hắn tốt mà tuân lệnh phục tùng vô điều kiện, phải đền ơn hắn.

Hắn là người có đập bàn đập ghế quyết đòi bằng được năm đồng nhưng đến khi được rồi thì lại vứt trả lại năm hào giả vờ thương anh túng quá. Nhân vật Bá Kiến là người vô cùng nham hiểm với những kẻ trị không được thì cụ sẽ dùng nó làm tay sai. Cụ dùng những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò.

Cái nham hiểm ghê người của nhân vật này chính là tìm cách cho tay sai, lũ đàn em ủa minh hoặc người trong làng đánh lẫn nhau, chém giết lẫn nhau thì hắn mới có dịp làm ăn kiếm chác, chứ bình yên quá thì ai cần đến hắn. Bi kịch cuộc đời Chí Phèo chính là màn kịch do Bá Kiến tạo thành, chính hắn đã xô đẩy Chí Phèo tới con đường bất lương, bất nhân, mất hết tính người.

Bá Kiến là nhân vật mang những nét bản chất chung của toàn bộ giai cấp địa chủ cường hào ác bá, nhưng hắn có nhiều nét riêng của mình. Hắn nham hiểm và thâm độc hơn rất nhiều. Chính vì vậy, dù bao nhiêu năm trôi qua thì nhân vật Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao vẫn sống mãi trong lòng người đọc về một chế độ phong kiến tàn ác, lộng quyền bóc lột người nông dân tới xương tủy.

Bài văn phân tích nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao 151

Nếu như trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố thể hiện chân dung vợ chồng Nghị Quế – bọn nhà giàu tham lam độc ác, là tay sai đắc lực cho bọn thực dân Pháp thì nhân vật Bá Kiến trong “Chí Phèo” của Nam Cao hiện lên với chân dung bản chất mang tầm khái quát và điển hình cao hơn. Nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn “Chí Phèo” điển hình cho giai cấp thống trị phong kiến dâm ô, đê tiện, gian tham, lọc lõi, ác độc.

Nam Cao là nhà văn đi theo chủ nghĩa hiện thực, dẫn đầu trong thể tài bi kịch tinh thần của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao giá trị tố cáo của tác phẩm không chỉ thể hiện ở trong hiện thực của những người nông dân bị tha hóa mà còn phản ánh qua chân dung của những thế lực bạo tàn đẩy người nông dân vào bi kịch. Nhà văn đã dựng lên chân dung nhân vật Bá Kiến – nhân vật phản diện điển hình cho hàng ngũ thống trị.

Bá Kiến là một con cáo già dâm ô, đê tiện, độc đoán. Vì thói ghen tuông vớ vẩn xuất phát từ sự dâm ô trụy lạc của hắn đã đẩy anh canh điền vô tội vào con đường tội lỗi, cướp đi quyền làm người tối thiểu của Chí Phèo. Sự bắt bớ vu vơ của hắn lại liên quan đến tính mạng của cả một đời người, một kiếp người như Chí Phèo và rồi còn biết bao người khác như Binh Chức…

Bá Kiến là kẻ độc ác, gian tham, luôn có đủ mọi thủ đoạn lọc lõi. Hắn bắt người đi tù khi người ta lương thiện và thả khi người ta thành lưu manh. Điều này được chứng minh khi Chí Phèo ra tù. Vừa ra tù, Chí Phèo đến ngay nhà Bá Kiến để đòi lại “món nợ máu”. Thế nhưng, Bá Kiến đã khôn khéo mua chuộc ngược lại Chí Phèo. Hắn coi mình như Tào Tháo mà còn lọc lõi, nham hiểm hơn cả Tào Tháo.

Với lợi ích cá nhân, hắn “vừa đấm vừa xoa” biến Chí Phèo thành tay sai đắc lực cho hắn. Bá Kiến cho Chí Phèo tiền để mua “thuốc”, cấp cho hắn 5 sào vườn vừa cướp được với túp lều rách. Hắn chẳng nhân đạo gì. Hắn chỉ đang mưu mô “bỏ con cá nhỏ để bắt con cá to”. Hắn sẽ có lợi cả đôi bên: dùng Chí Phèo để đòi nợ Đội Tảo, nếu đòi được nợ thì hắn cũng có lợi, nếu không Đội Tảo sẽ “trị” Chí Phèo.

Bá Kiến là một con quỷ mất hết tính người. Hắn đẩy Chí Phèo đến bước đường cùng thành kẻ lưu manh gớm ghiếc, rồi chính Bá Kiến là kẻ đã cướp đi quyền trở lại làm người của Chí. Chí Phèo xách dao tới nhà Bá Kiến đòi “làm người lương thiện” nhưng đồng thời Chí cũng nhận ra “không thể làm người lương thiện được nữa”, Chí tin chắc chắn rằng kẻ như Bá Kiến sẽ không bao giờ hiểu được khát vọng của Chí.

Chính vì thế Chí giết Bá Kiến. Bá Kiến chết đi như hệ quả tất yếu của quy luật “tức nước vỡ bờ”. Với nhân vật này, Nam Cao đã miêu tả một cách toàn diện xã hội Việt Nam lúc mấy giờ. Trong đó, tác giả lên án đanh thép xã hội “ăn thịt người” mà những con sâu con mọt như Bá Kiến đang ngày đêm đục khoét.

Tóm lại, với hình tượng nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn “Chí Phèo”, Nam Cao đã xây dựng chân dung điển hình cho tầng lớp thống trị đẩy người nông dân đến bước đường cùng. Với việc xây dựng nhân vật điển hình này, Nam Cao đã khắc họa được mâu thuẫn cơ bản của xã hội nông thôn Việt Nam, từ đó lên tiếng tố cáo xã hội, bênh vực và đòi quyền sống cho những người nông dân.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao. 152

Một tác phẩm tự sự thành công cần có sự góp mặt của rất nhiều yếu tố như cốt truyện, tình huống, sự kiện, chi tiết, ... và một yếu tố không thể thiếu đó chính là nhân vật. Trong truyện ngắn "Chí Phèo", Nam Cao đã khắc họa nên nhân vật thị Nở, một nhân vật xuất hiện bên cạnh Chí để đánh thức lương tâm, nhân tính của con qủy dữ. Đây cũng là nhân vật gây được nhiều xúc cảm trong lòng bạn đọc.

Bằng bút pháp tả thực, nhà văn Nam Cao đã miêu tả thị là một người phụ nữ xấu ma chê quỷ hờn với cái mặt "ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn". Cái mũi thị "vừa to, vừa ngắn, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra". Thị lại "ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách". "Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu". Đó quả là "một sự mỉa mai của hóa công". Nam Cao không dùng biện pháp nói giảm, nói tránh mà ông luôn miêu tả đối tượng với cái nhìn hiện thực, chân thật nhất.

Không chỉ xấu xí về ngoại hình, thị Nở còn là một người đà bà ngẩn ngơ, ế chồng, gia đình có nguồn gốc mả hủi. Thị sống cùng với bà cô cũng ế chồng bởi "con người ấy năm mươi tuổi rồi, năm mươi tuổi còn ai lấy chồng". Vì tính hay quên mà thị Nở đã ngủ quên trong tư thế hai tay trần buông xuôi, cái mồm "há hốc lên trăng mà ngủ", "đôi chân thì duỗi thẳng ra trước mặt, cái váy đen xộc xệch" khi đi ra sông kín nước. Đêm ấy, thị và Chí Phèo "ăn nằm với nhau rồi cùng ngủ say dưới trăng". Thiên nhiên thơ mộng đã chắp cánh cho một mối tình đôi lứa xứng đôi, có một không hai trong lịch sử văn học.

Ngỡ tưởng, thị đã xấu xí về ngoại hình, tâm hồn bị bóp méo nhưng ở con người ấy vẫn ngời sáng một tình thương dành cho Chí Phèo. Điều ấy được thể hiện qua chi tiết: "Đến nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Thị Nở dìu hắn vào trong lều, đặt lên chõng, đắp chiếu cho hắn rồi ra về". Sau đó, thị nấu cho Chí bát cháo hành để giải cảm. Thị thấy Chí đáng thương, "còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình". Thị đã nghĩ rằng: "Mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc" vì hai người đã ăn nằm với nhau.

Thị Nở nhận thấy dường như mình yêu Chí Phèo, "đó là cái lòng yêu của một người làm ơn". Người đàn bà dở hơi đó lại biết yêu, yêu một cách đúng nghĩa. Thị đến với Chí Phèo mà không bận tâm chuyện hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, hắn đã rạch mặt mà đâm chém biết bao nhiêu người. Thị thấy hắn hiền, khác hẳn với những hung dữ thường ngày. Dường như trong xã hội ấy chỉ có thị Nở công nhận Chí Phèo là con người. Thị hết lòng chăm sóc khi hắn ốm và ở nhà hắn năm ngày chẵn. Chí Phèo và thị Nở sẽ là một cặp rất xứng đôi.

Nhờ bát cháo hành của thị mà Chí có khao khát trở về làm người lương thiện. Thị là cái phao cứu sinh cho cuộc đời Chí khi hắn đang ngấp ngoải, vùng vẫy giữa dòng xoáy nước. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn làm hòa với tất cả mọi người. Tình thương, tình yêu và tình người của thị Nở khiến Chí Phèo cảm động, "mắt ươn ướt" bởi chưa bao giờ "hắn được một người đàn bà cho" và "muốn làm nũng với thị như với mẹ". Hai người sẽ lấy nhau để Chí có thể thực hiện ước mơ nho nhỏ với cuộc sống chồng cày thuê, cuốc mướn, vợ dệt vải của mình.

Nhưng vì định kiến xã hội, thị Nở không thể lấy Chí Phèo. Lời nói của bà cô đã khiến thị từ chối và cự tuyệt tình yêu của Chí một cách thẳng thừng: "Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ". Vì những lí do đó mà thị "dớn cái môi vĩ đại lên", trút vào mặt Chí Phèo lời của bà cô rồi "ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về". Thị thương Chí Phèo là thật, thị yêu Chí và muốn về chung một nhà với Chí để gọi tiếng "vợ chồng" cũng là thật. Con người ngớ ngẩn ấy cũng có khát khao hạnh phúc như bao người bình thường khác. Thị biết quan tâm Chí, biết dùng tình thương để cảm hóa con quỷ dữ thức tỉnh. Đây là điều mà bao người dân Làng Vũ Đại không ai làm được. Họ chỉ thấy Chí lưu manh, tha hóa, mất hết nhân hình và nhân tính. Thị Nở như một luồng gió mới thổi sự sống vào cuộc đời Chí, vào tâm hồn của con người tưởng như đã chai sạn đi vì những lần rạch mặt ăn vạ, làm tay sai cho bá Kiến. Khi ở bên cạnh thị Nở, Chí Phèo là một người lương thiện.

Ngòi bút hiện thực sắc sảo của Nam Cao đã khắc họa nhân vật thị Nở với ngoại hình và những nét tính cách chân thật nhất. Con người bị người ta tránh như tránh "một con vật rất tởm" ấy lại có tình người, tình yêu với Chí Phèo. Giọng điệu của nhà văn Nam Cao hết sức lạnh lùng nhưng ẩn sâu trong đó là những trang văn thấm nhuần tư tưởng nhân đạo.

Thị Nở là nhân vật góp phần làm ngời sáng tư tưởng nhân đạo của nhà văn hiện thực chủ nghĩa, gây được ấn tượng khó phai mờ trong lòng độc giả. Ngoại hình dù có xấu xí, thô kệch nhưng hình ảnh của thị đã in dấu trong chúng ta bởi vẻ đẹp của lòng thương, vẻ đẹp của tình người. Phải chăng xây dựng nhân vật thị Nở là dụng ý của nhà văn trong việc khắc họa bi kịch bị lưu manh, tha hóa của anh canh điền lương thiện?

Phân Tích Nhân Vật Thị Nở Trong Tác Phẩm Chí Phèo 153

Là một nhà văn hiện thực cho nên Nam Cao không hề tô vẽ những cuộc đời, những số phận của người nông dân. Những nhân vật của ông luôn là những con người bình dị, chân quê và có phần xấu xí. Trong đó có thể kể đến Thị Nở trong truyện ngắn "Chí Phèo" là một người đàn bà xấu xí và dở hơi có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Vậy mà người đàn bà ấy lại có khả năng đánh thức con người lương thiện trong hình hài quỷ dữ Chí Phèo. Có lẽ, điều kì diệu ấy chắc chỉ có Thị Nở mới làm được và chắc cũng chỉ có Nam Cao mới có thể biến hóa được.

Xây dựng nhân vật Thị Nở xấu xí không phải nhà văn muốn bôi bác người phụ nữ Việt Nam, mà ngược lại, tác giả chính là muốn nói đến vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn của họ, mặc dù hình hài của họ có phần xấu xí. Mà Thị Nở thì xấu thật "cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: Nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn...Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành..." Với những dòng miêu tả đầy chân thực như thế này, người đọc có cảm tưởng cả trong văn học lẫn ngoài đời thực thì không có ai có thể xấu hơn Thị Nở được nữa. "Đã thế thị lại dở hơi...Và thị lại nghèo...Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi...". Thế nên, Thị Nở không có chồng và "người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm".

Vậy mà Thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo - con quỷ của làng Vũ Đại mà ai ai cũng xa lánh. Có lẽ đây cũng là một dụng ý của nhà văn Nam Cao khi để cho một kẻ dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đến với nhau và yêu nhau. Chính tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người.

Thị từ một người đàn bà xấu xí dở hơi đã trở thành một người phụ nữ biết quan tâm và lo lắng cho người khác: "Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng...Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà...". Không những thế, khi Thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo, Thị đã coi đó là người đàn ông của đời mình cho nên hết sức lo lắng và thương yêu. Ánh mắt và nụ cười toe toét của Thị tưởng chừng như rất vô duyên nhưng kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy Thị thật có duyên.

Bát cháo hành mà Thị nở mang sang cùng những quan tâm mà Thị dành cho Chí đã khiến cho hắn thực sự xúc động. Hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì thế hắn muốn được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời bình dị mà hạnh phúc với Thị Nở. Có thể nói tình yêu của người đàn bà dù xấu xí nhưng vẫn có thể khiến cho con người ta rung động. Không những thế, có lẽ, cả làng Vũ Đại không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo, vậy mà chỉ một người phụ nữ xấu xí, dở hơi bằng tình yêu chân thành của mình lại có thể làm được.

Quả thật Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh con quỷ dũ làng Vũ Đại và còn thành công hơn nữa khi xây dựng nhân vật Thị Nở - người phụ nữ đầy tình thương yêu và bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện trong Chí Phèo. Tình yêu của người đàn bà xấu xí là tình yêu chân thành, xuất phát tự trái tim, từ lòng cảm thông sâu sắc, không vụ lợi cho nên nó là một tình yêu đẹp và rất đáng trân trọng. Thị chính là tia sáng, là niềm hy vọng, là cầu nối để Chí Phèo trở về làm người, sống với cộng đồng. Mặc dù sau này Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành vẫn có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, một số phận. Để cho ngay cả những kẻ cùng đường, lạc lối vẫn biết hy vọng về tương lai tốt đẹp, vẫn khao khát được sống và được yêu.

Với tác phẩm "Chí Phèo", người đọc có thể thấy rằng, không phải chỉ những người phụ nữ xinh đẹp mới có thể để lại những ấn tượng tốt đẹp. Những người phụ nữ có hình hài xấu xí nhưng có tấm lòng yêu thương, nhân hậu như Thị Nở cũng khiến cho người đọc nhớ mãi. Tuy rằng xấu xí nhưng chính cái nét duyên thầm của người phụ nữ đã làm cảm hóa được một "con quỷ dữ", thổi bùng lên ngọn lửa thương yêu giữa những con người với nhau. Đó chính là giá trị nhân văn, nhân đạo mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm.

Phân Tích Nhân Vật Thị Nở Trong Tác Phẩm Chí Phèo 154

Cùng với Lão Hạc, truyện ngắn Chí Phèo là một trong những kiệt tác của Nam Cao viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cả hai truyện ngắn xuất sắc này đều được chọn đưa vào chương trình phổ thông (Ngữ văn 8 và Ngữ văn 11, tập 1) cùng với nhiều truyện ngắn khác, từng đem đến cho Nam Cao vinh dự là tác gia có số lượng truyện ngắn trong nhà trường phổ thông nhiều nhất.

Lâu nay, nhắc đến hình tượng nhân vật điển hình của truyện ngắn Chí Phèo, người ta nghĩ ngay đến nhân vật chính mà tác giả lấy làm nhan đề tác phẩm mình lúc đầu được Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch cũ. Khi in thành sách lần đầu (1941), Nhà xuất bản Đời mới đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo (Ngữ văn 11 Nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, H., 2007, tr. 178). Đã có không ít những công trình, bài viết về nhân vật độc đáo, có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam này. Đây là điều tất yếu. Bởi toàn bộ ý nghĩa của nội dung truyện ngắn hầu như toát ra từ hình tượng nhân vật Chí Phèo (Trần Tuấn Lộ trong bài viết Qua truyện ngắn "Chí Phèo" bàn thêm về cái nhìn hiện thực của Nam Cao, T/c Văn học, số 4/1964) và Chí Phèo là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân.

Bên cạnh Chí Phèo, theo chúng tôi, còn có một hình tượng nhân vật điển hình nữa mà ta vẫn ít nhắc tới. Nhân vật này xuất hiện không nhiều, chỉ có mặt ở gần cuối truyện, là một nhân vật phụ nhưng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển mạch truyện. Sự xuất hiện của nhân vật này là một bước ngoặt đối với sự chuyển biến của câu chuyện cũng như đối với cuộc đời, số phận của nhân vật trung tâm. Hơn nữa, nhân vật này còn mang tính điển hình rất rõ nét. Đó là nhân vật bà cô Thị Nở.

Quả thật, nhân vật bà cô Thị Nở chỉ là một nhân vật phụ. Trong truyện, Nam Cao miêu tả nhân vật bà cô ấy không nhiều, chỉ phát thảo sơ lược vài nét. Về lai lịch, tác giả chỉ kể ngắn gọn: "trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị...Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gia, Cẩm Phả". Ngay cả cái tên nhân vật này cũng không có, chỉ được gọi theo quan hệ họ hàng với nhân vật chính. Ở gần cuối truyện, khi Thị Nở sau năm ngày ăn ở với Chí, đến ngày thứ sáu, sực nhớ mình còn người cô và "nghĩ bụng: Hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã" thì nhân vật bà cô này mới hiện lên qua một ít suy nghĩ và hai lời thoại. Tất cả chỉ có vậy. Cho nên rất khó để dựng chân dung nhân vật này.

Tuy chỉ là nhân vật rất phụ nhưng có thể nói, nhân vật bà cô này lại là một tình tiết bất ngờ, vô cùng quan trọng làm xoay chuyển toàn bộ câu chuyện cũng như cuộc đời nhân vật Chí Phèo. Chỉ một câu nói tàn nhẫn "Đã nhịn được đến bằng tuổi này thì nhịn hẳn, ai lại đi lấy thằng Chí Phèo" đã đụng chạm đến tận cùng đến lòng tự ái của một người đàn bà đã quá ba mươi, "ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn" và dở hơi, ế chồng. Chính câu nói cay độc vô ấy đã đoạn tuyệt một cách đau đớn một tình yêu vừa mới chớm, đã lạnh lùng cắt đứt sợi dây liên lạc cuối cùng giữa Chí với loài người. Bát cháo hành "mới thơm làm sao" chưa kịp đưa Chí từ thế giới loài quỷ quay về xã hội con người thì một câu nói cay nghiệt ấy coi như là dấu chấm hết cho mọi quá trình tái sinh trong Chí, đẩy Chí xuống tận cùng vực thẳm khổ đau và cái chết dữ dội. Có người bảo phải chi Nam Cao đừng xây dựng nhân vật này, hay ít nhất đừng để bà cô Thị Nở không xuất hiện ở cuối truyện thì câu chuyện sẽ kết thúc có hậu hơn biết mấy. Có thể là như vậy. Nhưng theo chúng tôi, nếu cắt đi chi tiết này thì Nam Cao không còn là chính ông nữa. Giá trị của Chí Phèo cũng vì thế giảm sút rất nhiều. Bởi cái chết của Chí với nhiều nguyên nhân, trong đó trực tiếp nhất là sự khước từ một cách thô bạo của bà cô Thị Nở, mang nhiều ý nghĩa. Riêng ở nhân vật người cô này cũng mang nhiều giá trị điển hình.

Trước hết nhân vật này rất tiêu biểu cho câu thành ngữ của dân gian "giặc bên ngô không bằng bà cô không chồng" (Còn có dị bản "giặc bên ngô không bằng bà cô bên chồng"). Bà cô Thị Nở đã ngoài năm mươi, hơn nửa cuộc đời mà vẫn không tìm được một tấm chồng. Trong mắt của người đàn bà khốn khổ ấy, chuyện chồng con của "con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời" "sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt...Nhục nhã ơi là nhục nhã". Thái độ giãy nảy lên, những lời cay độc, "xỉa xói vào mặt con cháu gái" đã có hiệu quả ngay lập tức. Bởi bà cô này tự ái, uất ức bao nhiêu thì cháu bà càng tự ái, uất ức bấy nhiêu. Thậm chí cả khi Chí chết đi rồi, bà vẫn không tha cho cháu mình mà còn "chỉ vào mặt cháu mà đay nghiến". Rõ ràng, thái độ, lời nói của nhân vật rất tiêu biểu cho những nét tính cách của những người phụ nữ lớn tuổi lận đận trong chuyện tình duyên. Xét cho cùng, nó mang nỗi ẩn ức tính nữ cả về tâm lí lẫn sinh lí mà biểu hiện rõ nhất là thái độ "không ăn được thì đạp đổ", "trâu buộc ghét trâu ăn". Bà cô không chồng trong truyện, xét ở phương diện nào đó, có thể xem là một điển hình. Tuy vậy, ở nhân vật này cũng có những điểm làm cho người đọc xót xa, tội nghiệp, thấy đáng thương hơn là đáng ghét. Ngòi bút nhân đạo Nam Cao không dừng lại ở lời nói, hành động nhân vật mà còn đi sâu mổ xẻ tâm trạng khi nhân vật rơi vào hoàn cảnh trớ trêu trên. Nhà văn viết : "Cũng có lẽ tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm..." Chỉ từng ấy thôi, ta cũng hiểu hết được nỗi đau thân phận phụ nữ không chồng trong xã hội cũ - xã hội thực dân nửa phong kiến cũng bất công, ngang trái không thua gì xã hội trước đó.

Đặc biệt, nhân vật bà cô Thị Nở rất điển hình cho người nông dân ở làng Vũ Đại ngày ấy nói riêng và làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng 1945 nói chung. Đó là một xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại) (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992). Nghiêm trọng nhất, đó là xã hội sống trong những định kiến nghiệt ngã. Trong cái làng đóng kín vùng đồng bằng Bắc Bộ (Đức Mậu, tài liệu đã dẫn) ấy, người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh. Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một con quỷ dữ chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, mặc thây cha nó, coi như Chí không hề tồn tại trong cộng đồng "người" ấy. Cái định kiến hẹp hòi về nguồn gốc, gia cảnh, về những quãng đời u ám của Chí này có một sức mạnh ghê gớm, như bức tường vô hình cao ngất mà Chí khi được tình yêu Thị Nở tái sinh trở nên "thèm lương thiện", "muốn làm hòa với mọi người biết bao", tìm mọi cách vượt qua nhưng mãi không phá bỏ được. Ngay cả khi Chí chết đi một cách thảm khốc, người làng chẳng một ai tỏ ra xót xa cho Chí, dẫu một giọt nước mắt thương hại. Làng Vũ Đại là một điển hình cho làng quê nông thôn miền Bắc trước 1945. Trong cái làng quê nghèo nàn, tù túng và đầy những định kiến hẹp hòi, lạc hậu ấy, nhân vật bà cô Thị Nở được Nam Cao xây dựng thành công mang giá trị điển hình rõ nét. Những suy nghĩ của bà cô khi đứa cháu thưa chuyện "vợ chồng" với Chí (Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ) cũng như câu nói đay nghiến của bà cuối truyện với Thị Nở trước cái chết không ai ngờ được của Chí "Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo" đã nói lên tất cả. Bà cô không được mô tả nhiều nhưng qua những suy nghĩ, thái độ, ngôn ngữ của nhân vật này, hiện thực làng quê nông thôn Bắc Bộ trước 1945 còn mang nhiều định kiến nặng nề, lạc hậu đã được phản ánh, khái quát rất thành công.

Tóm lại, không được miêu tả cụ thể, đầy đủ nhưng nhân vật bà cô Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nam Cao. Bên cạnh Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, nhân vật này cũng mang trong mình nhiều ý nghĩa điển hình như trên đã phân tích, do đó mang nhiều giá trị nội dung của tác phẩm. Xây dựng nhân vật này, Nam Cao đã sử dụng một ngòi bút sắc sảo, không tả nhiều nhưng giàu sức ám ảnh. Nhiều người thường nghĩ về nhân vật này với cái nhìn ác cảm, ghét bỏ. Tuy nhiên, theo chúng tôi, suy cho cùng nhân vật bà cô Thị Nở cũng chỉ là nạn nhân của số phận, của chế độ xã hội cũ đen tối mà thôi. Nhân vật náy đáng thương hơn là đáng ghét. Đây cũng là một biểu hiện của ngòi bút lấp lánh tình người, sáng ngời giá trị nhân văn của Nam Cao.

Phân Tích Nhân Vật Thị Nở Trong Tác Phẩm Chí Phèo 155

Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như bộ mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thị chỉ có ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai "dự án thiết kế ban đầu" này?

Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi... lúc nào cũng cứ "vô tâm" như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đang nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng).

Thì đây, sau lần "ăn nằm" với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thấy mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình thị đến với Chí một cách hồn nhiên hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn vô tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất, triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: Vừa dâng hiến vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi "ngoay ngoáy cái mông đít" ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở - Chí Phèo đến đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo - tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy "thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao". Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo - chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước những bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi... Thế là cả một công trình do thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!

Xét toàn bộ tâm trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một - đi ở tù, lần hai - tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn lắm.

Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm chất "nhân chi sơ, tính bản thiện" của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng - lớp bản chất nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng.

Phân Tích Nhân Vật Thị Nở Trong Tác Phẩm Chí Phèo 156

Chí Phèo là truyện ngắn nổi tiếng trước cách mạng tháng tám, nó được sáng tác để phản ánh giá trị hiện thực sâu sắc của xã hội lúc bấy giờ, trong câu chuyện mỗi nhân vật đều được tác giả miêu tả tinh tế, phản ánh sâu sắc được hiện thực cuộc sống. Nhân vật nổi bật truyền tải giá trị nhân vật trong tác phẩm đó là nhân vật Thị Nở.

Thi Nở là nhân vật phụ, tuy nhiên nhân vật này được tác giả Nam Cao đặt cho trọng trách khá lớn trong tác phẩm, một nhân vật truyền tải giá trị yêu thương trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện sâu sắc, mang đậm giá trị nhân văn, nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm đó.

Thị Nở được tác giả miêu tả là một người có có bề ngoài xấu xí, ngôn ngữ mà Nam Cao thể hiện trong tác phẩm đó là "xấu ma chê quỷ hờn". Với diện mạo được tác giả miêu tả "Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu". Chính ngay trong chi tiết này tác giả đã thể hiện được ngoại hình của Thị Nở với những nét bề ngoài cực xấu xí.

Người đọc thường lấy Thị Nở ra để ví " xấu như Thị Nở", chính với diện mạo đó không ai có thể mơ mộng được với bề ngoại, với ngoại hình của Thị Nở. Tuy nhiên với việc xây dựng cho nhân vật một nhiệm vụ đặc biệt, sâu sắc, hình ảnh đó đã thể hiện được sâu sắc qua những chi tiết hiện thực, hấp dẫn, mang đến cho người đọc những tiếng cười sảng khoái.

Thị Nở ngay trong hoàn cảnh xã hội đen tối này cũng là nạn nhân của sự áp bức, của sự nghèo khổ, ngay trong chính chi tiết gặp Chí Phèo, Thị Nở dường như trở thành nhân vật truyền tải giá trị nhân đạo trong tác phẩm. Sự gặp gỡ của Chí Phèo phải chăng đây chính là sự sắp xếp của tác giả để nói lên hoàn cảnh của hai người, một kẻ có diện mạo bề ngoài xấu xí, một kẻ thì bị xã hội lưu manh, tha hóa.

Ngay trong đem trăng gió mát đây là thời điểm mà Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau, chính tình yêu thương làm cho hai người đến với nhau, và chi tiết bát cháo hành của Chí Phèo là chi tiết thể hiện rõ tình yêu thương, giá trị nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm. Hơn nữa chính tình yêu thương cũng giúp Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau, nó giúp cảm hóa tâm hồn của hai nhân vật trong tác phẩm.

Tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc của Thị khiến Chí mong muốn có một gia đình, bởi Chí được sinh ra ở lò gạch hoang, cũng không có gia đình, người thân, chính vì thế sự quan tâm của Thị Nở dường như làm cho Chí thức tỉnh, Chí hiểu được sự quan tâm, yêu thương của Thị Nở dành cho mình. Mỗi chi tiết miêu tả đều được Nam Cao chau chuốt để thể hiện những cảm xúc riêng, sâu sắc, mang đến cho người đọc những cảm xúc đặc biệt tinh tế, bởi những ngôn ngữ trong sáng, mang đậm giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo xuất hiện trong tác phẩm.

Nam Cao với tài năng phản ánh giá trị hiện thực tinh tế, ông đã xâu dựng lên cho mình những nhân vật mang nhiều cảm xúc, tinh tế, truyền tải được sâu sắc giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện những nét riêng, mang những cảm xúc tinh tế, đậm giá trị nội dung, phản ánh sâu sắc được ý nghĩa trong cuộc sống của mỗi nhân vật xuất hiện trong tác phẩm. Thị Nở là nhân vật đã được tác giả truyền tải những tình yêu thương sâu sắc trong câu chuyện.

Cảm nghĩ về cảnh kết thúc truyện Chí Phèo 157

Nam Cao nổi lên là một nhà văn lớn, ông được coi là tác gia văn học xuất sắc và không thể thiếu của sự phát triển của nền văn học Việt Nam. Những tác phẩm của Nam Cao không chỉ hay, mà còn giàu ý nghĩa hiện thực, nhân đạo, nên thường để lại cho người đọc nhiều ám ảnh, day dứt. Đặc biệt phải kể đến Chí Phèo với kết thúc truyện “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua…”

   Nam Cao, hơn ai hết, người đã thổi hồn vào tác phẩm, để mỗi khi đọc lại Chí Phèo, ta dường như lại nhìn thấy một anh chàng chứ không phải một kẻ lưu manh, ngật ngưỡng bước ra từ trang sách. Một mảnh đời khốn cùng, đáng thương hơn là đáng trách, đã để lại những dư ba không thể xóa nhòa trong lòng bạn đọc. Chính vì vậy với đoạn kết thúc truyện gợi mở, Nam Cao đã một lần nữa lặp lại, nhằm nhấn mạnh tới hình ảnh “cái lò gạch bỏ không” là một nỗi ám ảnh về nhân sinh của Nam Cao.

Mở đầu câu truyện, ta đã được nghe Nam Cao kể về Chí Phèo, với câu truyện đầy đau thương và bất hạnh của Chí. Thì ra, Chí là một đứa trẻ mồ côi, được anh thả ống lươn nhặt được “trần truồng và xám gắt trong một váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không”. Chi tiết cái lò gạch đã xuất phát điểm từ đây, cuộc đời Chí không biết bố mẹ là ai? Sinh ra từ đâu? Quê hương gốc là nơi nào? Nhưng Chí lại bị bỏ lại nơi cái lò gạch cũ bỏ hoang và tăm tối này. Cuộc đời Chí rồi cũng chính là như vậy, biết đến ở nơi tối tăm hoang vắng, cuộc đời và số phận cũng tương tự như vậy, tưởng như là định mệnh.

Chí từ việc là một kẻ lưu manh, chuyên đi cướp bóc, dọa nạt và đánh đập người dân, thì đến khi Chí gặp Thị,  và được Thị chăm sóc sau trận ốm, Chí muốn trở thành người lương thiện, Chí thèm lương thiện biết bao. Lúc này Chí mới nhận ra tội lỗi mình đã gây ra cho người dân làng Vũ Đại. Tại sao Chí lại không sống hòa hợp với người ta cơ chứ? Nhưng, số phận vốn đã bất hạnh lại đẩy Chí vào ngõ cụt. Khi Thị Nở đành lòng rũ bỏ tình nghĩa với Chí, Chí đầy căm thù và oán giận, hơi cháo hành, tình thương của Thị cứ quấn quýt lấy Chí, giúp Chí nhận ra kẻ đã là chủ mưu gây ra những bi kịch và làm hắn tha hóa. Chí đâm bá kiến và chết trên bờ vực của sự lương thiện, không ai cho Chí lương thiện, “Tao muốn làm người lương thiện” “Ai cho tao lương thiện, làm sao để cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?” Vậy là Chí chết, cuộc đời đầy sa đọa và tăm tối đã kết thúc bằng chính nhát dao của mình. Chí chết, không ai hiểu vì sao, kể cả Thị, cũng không hiểu vì sao lại như vậy. Nhưng đúng lúc ấy, Thị lại nhìn xuống bụng, đứa con của Chí, đứa con của Thị đang lớn lên từng ngày rồi. Và rồi thị nhận ra “đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua…”

Vậy đấy, cuộc đời tối đen của Chí là như vậy. Đứa con của Chí cũng chính là biểu hiện của một sự quẩn quanh, tù túng và tăm tối, không lối thoát cho những lần sau, sau nữa. Chí chết, nhưng không phải không thể có một Chí “con” ra đời. Và Thị nở sẽ lặp lại bi kịch chửa hoang. Đó cũng là một trong những ý nghĩa sâu sắc, mang tính chất dự báo số phận, những cảnh “quần ngư tranh thực” tình trạng tha hóa, lưu manh hóa sẽ còn diễn ra tiếp diễn. Cũng là một hồi chuông gióng lên sự cảnh tỉnh, sự đáng thương cho bi kịch người nông dân bị đày đến ngõ cụt. Phải lựa chọn giữa sự sống lương thiện và cái chết. Như cái chết của Chí Phèo, của những kiếp người trong xã hội cũ…

Kết thúc truyện đã làm nổi bật tư tưởng nhân đạo của toàn bộ tác phẩm. Nam Cao thực là một nhà văn tài năng, ông không hề né tránh hiện thực tàn khốc, mà luôn đề cao hiện thực, luôn muốn “khơi những nguồn chưa ai khơi” và làm cuộc sống tốt đẹp hơn. Qua đó là con mắt đầy lo lắng về sự tha hóa của con người, luôn cố tìm ra nét đẹp bên trong con người để ca ngợi, cảm thông với họ.

Tuy nhiên kết thúc truyện cũng còn những mặt hạn chết, khác với Kim Lân đã tìm ra con đường giải thoát sự khốn khổ. Nam Cao sống trong thời kì phong kiến nên chỉ có thể nhìn ra được sự bế tắc, cùng cực, và chưa tìm ra lối thoát cho người nông dân.

Chi tiết kết thúc truyện thật sự vô cùng ý nghĩa, đã làm tăng thêm giá trị nhân đạo của tác phẩm, cách dùng từ ngữ, diễn tả rất tự nhiên và chặt chẽ, và cảm ơn Nam Cao đã cho ta thấy cái nhìn cuộc sống chân thực và sâu sắc lúc bấy giờ.

Nhận Xét Về Bi Kịch Cái Chết Của Chí Phèo 158

Bắt đầu từ một buổi sáng. Đấy là buổi sáng mà hắn đã nghe được những âm thanh bình thường của cuộc đời: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng người thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của những người đi chợ. Những tiếng ấy hôm nào chả có nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy vì hôm nay hắn mới tỉnh rượu. Những âm thanh ấy là thức dậy ước mơ xa xôi của một thời: một mái nhà tranh, một gia đình nho nhỏ... Hắn chợt nhận ra hắn đã già rồi mà vẫn còn đơn độc. Chí Phèo thèm khát được sống cuộc đời lương thiện như mọi người.

Khó mà quên được hình ảnh Chí Phèo mắt "ươn ướt" khi bưng bát cháo hành của Thị Nở mà lòng cứ bâng khuâng. Hắn nhận ra một chân lí sơ đẳng của con người sống giữa mọi người và bỗng nhiên bừng ngộ ra một. điều: những người không ăn cháo hành không biết cháo hành ngon. Bởi, có một cái gì đó sâu xa hơn hương vị cháo hành kia. Nhưng tại sao đến tận bày giờ hắn mới được nếm mùi vị cháo? Hắn thèm một cuộc sống lương thiện, thèm cái tình nhân ái của con người. Hắn khát khao được chung sống hạnh phúc với Thị Nở, sống thân thiện với mọi người. Và hắn thốt lên với người mình yêu: "Giá như thế này mãi thì thích nhỉ", sung sướng nhận được sự đồng tình của thị ("Thị không đáp nhưng cái mũi đỏ của thị như càng bạnh ra"). Nam Cao vui vẻ dự báo: "Chúng sẽ làm thành một cặp xứng đôi".

Thế mà Chí Phèo đã bị từ chối. Bà cô Thị Nở không cho hắn lấy thị vì cho rằng lấy ai chứ lại lấy Chí Phèo, một kẻ chỉ có một nghề duy nhất là rạch mặt ăn vạ, là một điều quá nhục nhã. Dưới mắt bà cô Thị Nở, dưới những cái nhìn đầy định kiến của xã hội, Chí Phèo chỉ có thể là con quỷ chứ không thể là con người. Định kiến ấy hằn sâu, khắc vào những vết mảnh chai rạch lên gương mặt Chí Phèo không thể xóa được. Chí Phèo tuyệt vọng cùng cực. Hắn nhận ra rằng, hắn không thể trở lại làm người lương thiện được nữa rồi. Đó là bi kịch đau đớn nhất, cay đắng nhất đối với hắn. Chí Phèo đã ý thức được rất rõ về nỗi đau này. Hắn "ôm mặt khóc rưng rức, khóc vì tuyệt vọng".

Nỗi đau ấy khiến Chí Phèo uống rượu. Và trong cơn say cơn tỉnh, hắn muốn đi trả thù. Ban đầu hắn lẩm bẩm "phải đến cái nhà con đĩ Nở kia, đến để đâm chết cả nhà nó, đâm chét cái con khọm già nhà nó". Nhưng trong tiềm thức hắn nhận ra kẻ gây ra nông nổi này chính là Bá Kiến. Đây mới là kẻ đã vạch lên gương mặt lương thiện của hắn những vết sẹo tội ác, đẩy hắn đến chỗ tuyệt vọng. Cho nên dù say rượu mà bước chân Chí Phèo vẫn đủ tỉnh táo. Và như một tất yếu, hắn đã vung dao đâm chết Bá Kiến - nguyên nhân gây nên bi kịch của đời mình. Rồi cũng bằng con dao vấy máu đó, hắn đã tự vẫn, kết thúc một cuộc đời bi kịch.

Cái chết cua Chí Phèo là tiếng chuông cảnh tỉnh cả một xã hội đầy rẫy định kiến, thiếu tình nhân hậu, bao dung, vừa đẩy người ta đến chỗ tột cùng không lối thoát vừa không cho người ta cái cơ hội trở lại làm người. Đó là bi kịch về quyền được sống lương thiện, bi kịch về lòng nhân ái...

Nhận Xét Về Bi Kịch Cái Chết Của Chí Phèo 159

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Sáng tác của ông chủ yếu tập trung vào hai đề tài chính: Người trí thức bế tắc và người nông dân nghèo khổ. Trong đó nổi bật lên là chủ đề người nông dân nghèo.Về đề tài này, ông đã phản ánh trân thật cuộc sống tăm tối, cực nhục, bế tắc của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Điều đó đã thể hiện sâu sắc qua tác phẩm nổi tiếng "Chí Phèo" của ông. Tác phẩm khái quát một hiện tượng ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa để rồi bế tắc không lối thoát qua cái chết của Chí Phèo.

Chí Phèo là một đứa con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ. Được dân làng Vũ Đại nhận nuôi, Chí lớn lên như cây cỏ, tuổi thơ đi hết ở nhà này lại đi ở nhà nọ, tuổi thanh niên ra sức làm thân trâu ngựa cho nhà Lí Kiến. Bấy giờ, Chí được xem là một người hiền lành, lương thiện, có ý thức về nhân phẩm, tự trọng. Nhưng chỉ vì chuyện ngờ ghen vớ vẩn, Lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù. Sau bẩy, tám năm biệt tích trở về làng, anh đã hoàn toàn biến đổi. Ngoại hình thật kinh tởm,cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết!

Đang trượt dài trên con đường của sự tha hóa, tình cờ trong một lần say Chí Phèo đã gặp Thị Nở. Được Thị Nở yêu thương, chăm sóc, quan tâm, phần người trong Chí đã hồi sinh. Chí khát khao được trở lại làm người lương thiện, được xây dựng mái ấm với Thị Nở. Nhưng bà cô Thị Nở kiên quyết ngăn cản mối tình này nên Thị Nở đã cự tuyệt Chí Phèo. Bị Thị Nở cự tuyệt Chí rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn, anh xách dao đến nhà Bá Kiến để đòi lại quyền sống làm một người lương thiện. Nhưng anh lại ý thức được một điều " anh không thể làm người lương thiện nữa". Vì thế Chí đã xông vào đâm chết Bá Kiến - kẻ thù đã cướp đoạt cuộc đời lương thiện của anh. Sau đó Chí tự sát vì không thể tiếp tục sống cuộc sống thú vật nữa. Chí đã chết trong tâm trạng bi kịch, đau đớn, phẫn uất, chết trong tiếng thét đòi quyền sống là một người lương thiện, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống.

Cái chết của Chí là một cái chết thảm khốc: Khi dân làng Vũ Đại kéo đến thì đã thấy Chí Phèo đang "giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi". Chí phèo trong nỗi uất ức nghẹn ngào đau đớn: "Mắt hắn trợn ngược, mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói không ra tiếng ở cổ hắn thỉnh thoảng máu vẫn còn ứa ra".

Cái chết của Chí thể hiện sự bế tắc cùng đường của kiếp người bị tha hóa biến chất sau khi đã thức tỉnh quyền làm người nhưng không tìm được con đường sống. Sự bế tắc cùng đường của Chí Phèo cũng là sự bế tắc của những người nông dân Việt Nam trước 1945. Cái chết của Chí cũng là biểu hiện cho sự bế tắc nói chung của văn học hiện thực phê phán trước 1945. Trước đây trong truyện ngắn "Lão Hạc" Nam Cao đã để cho người cha già ấy ăn bả chó để tự vẫn và thoát khỏi sự bế tắc, tuyệt vọng thì giờ đay Nam Cao cũng để Chí Phèo tự tìm đến cái chết để chấm dứt cuộc sống thú vị. Cái chết của Chí còn là sự tất yếu bởi lúc này thiên lương, nhân tính của Chí đã trở về, anh không thể tiếp tục tồn tại trong hình hài của con quỷ dữ. Hơn nữa nếu còn sống Chí Phèo sẽ phải tiếp tục đối mặt với Lí Cường - con trai Bá Kiến. Nếu Chí Phèo không tự kết liễu đời mình thì Lí Cường cũng không tha cho hắn. Chí thà tự tìm đến cái chết để bao vệ thiên lương, nhân tính còn hơn là phải chết trong tay bọn thống trị.

Để Chí Phèo chết là một dụng ý nghệ thuật của Nam Cao để từ đó để làm sâu sắc hơn giá trị hiện thực của tác phẩm. Phải để Chí Phèo chết thì ý nghĩa tố cáo, lên án xã hội của tác phẩm mới mạnh mẽ gay gắt (xã hội ấy không chỉ đẩy người nông dân lương thiện vào con đường lưu manh tha hóa mà còn dồn họ đến mức đừng cùng khiên họ phải tự hủy diệt sự sống của mình). Để Chí Phèo chết cũng là một cách Nam Cao thể hiện chiều sâu trong tư tưởng nhân đạo của mình. Nam Cao không nhẫn tâm nhìn Chí tiếp tục trượt dài trên con đường của sự tha hóa, chìm đắm trong kiếp sống của loài quỷ dữ. Vì thế cần phải tìm một cách để giải thoát cho Chí và để cho anh tự sát là cách duy nhất để giải thoát Chí khỏi kiếp sống tăm tối này. Một cuộc sống không ra sống thì chết chính là một sự giải thoát. Trong cuộc sống có những cái chết biểu hiện cho sự hèn nhát, bế tắc, yếu đuối. Nhưng cũng có cái chết lại là bước mở đầu cho sự sống mới, cho sự tháo cũi xổ lồng để giải thoát chính bản thân. Cái chết ấy còn là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với xã hội đầy bất công, định kiến thiếu tình người.

Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện ở tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao với những người khốn khó. Tác giả phát hiện những phần sâu kín nhất trong tâm hồn của họ, những gì còn lại của tình người, sự khát khao hạnh phúc, ước muốn yêu thương, nhất là quyền được làm người lương thiện. Qua cái chết của Chí, Nam Cao muốn khẳng định một điều: Con người có khả năng chống trả sự tha hóa và chiến thắng sự tha hóa.

Nhận Xét Về Bi Kịch Cái Chết Của Chí Phèo 160

Tác phẩm Chí Phèo khép lại ở trang cuối cùng với một cảnh tượng hãi hùng, hai xác chết của hai con người - hai sinh vật. Cả hai đều làm người nhưng lại không là người, đó là Bá Kiến và Chí Phèo. Máu me loang lổ, lênh láng khắp hai xác không khỏi khiến người đọc rung mình. Xung quanh hai cái chết này, có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có kẻ mừng ra mặt, đi đâu cũng nói toang toác: " Ai chứ hai thằng ấy chết thiên hạ được nhờ". Người kín đáo hơn thỉ tự nhủ" Thói đời tre già măng mọc. Hết thằng ấy lại có thằng khác..."Nhưng suy cho cùng thì cái chết của Chí Phèo và Bá Kiến là tất yếu, không thể tránh khỏi.

Toàn truyện Chí Phèo là một sức căng: Nam Cao đã đưa người đọc lạc vào một cung bậc khác của những sự căng thẳng về tinh thần bởi những câu choang choang của Chí, bởi những cơn nốc rượu như nước, bởi những lần rạch mặt ăn vạ ghê rợn. Tưởng thế đã là đáng nhớ lắm. Nam Cao còn bất ngờ đưa tay,lia ngòi bút một lần cuối để kết thúc tác phẩm của mình, cả trang sách như rung lên chi Chí vung dao chém vào người bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình.

Khi tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan...ra đời, mấy ai còn có thể tượng tượng tới một mảnh đời nào bần cùng hơn, bế tắc hơn, tủi cực hơn thế. Tưởng như chị Dậu và anh Pha đã là tột cùng của đau khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa, bị giày đạp, bị cào xé, bị hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. Chị Dậu, anh Pha dù có khổ mấy, vẫn được công nhận là người. Còn Chí, con người hiền lành, chất phác , qua lần vào tù ra tội đã bán cả nhân tính, nhân hình để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Thoát được cửa tù con, Chí Phèo lại ra vào cửa tù lớn và lần này thì mãi mãi. Chí bị khóa chặt trong cuộc đời thú vật mà chế độ thực dân phong kiến " ban cho". Từng ấy bất hạnh đáng để cho nhân vật nổi loạn tử thương rồi, nhưng ngòi bút của Nam Cao tỉnh táo và sắc sảo để cùng nhân vật đi đến cuối truyện. Mọi cái được nâng lên với mức độ cao hơn khi Chí Phèo định đến nhà thị Nởm, nhưng quen chân thuận đường lại đến nhà bá Kiến. Vô tình một cách có ý thức, Nam Cao cho nhân vật của mình đi chệch đường mà đúng hướng, đúng cái đích mà Nam Cao vạch ra cho nhân vật của mình. Cái chết của bá Kiến đầy bất ngờ, không ai nghĩ rằng con cáo già như bá Kiến lại có thể chết nhanh gọn đến thế. Với Chí Phèo thì không có gì là không thể bởi sự liều lĩnh của hắn đã được tôi luyện từ lâu rồi trong xã hội cũ.

Khi bị thị Nở từ chối không chấp nhận sống chung với mình, tuyệt vọng, Chí đã uống rượu nhưng càng uống thì lại càng buồn. Lần uống rượu này khác với bao lần trước đó. Nếu trước đó, rượu khơi gợi cái bản năng để dẫn đến những hành động đập phá thì lần này rượu lại khơi gợi cả một thế giới của tình người, của tình thương cứ bốc lên" hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức. Chí Phèo khóc bởi vì hắn hạnh phúc với thời gian ít ỏi nhưng ngọt ngào ở bên cạnh thị Nở, đồng thời hắn khóc vì bát cháo hành chỉ còn lại thoang thoảng. Một thế giới tình yêu vô cùng đẹp đẽ thật sự đã sụp đổ. Có thể nói mất tình yêu với thị Nở, Chí như một người đi trong bong tối vừa nhìn thấy chút ánh sáng cho cuộc đời thì ánh sáng đó lại vụt tắt. Tuy vậy, cái tia chớp lóe lên đó dù không đủ sức soi sáng toàn bộ cuộc đời u tối của Chí thì ít nhiều cũng giúp Chí nhận thấy tình cảnh tuyệt vọng của mình và bộ mặt của kẻ thù. Do đó khi say Chí đã vác dao đi với ý định đâm chết bà cô thị Nở nhưng cái vô thức đã đưa Chí đến nhà bá Kiến " Tao muốn làm người lương thiện". Cả đời, chưa bao giờ Chí lại dõng dạc như thế, dứt khoát như thế, kiêu hãnh và đầy tự tin như thế. Phải chăng anh canh điền hai mươi tuổi khỏe mạnh và lòng đầy tự trọng của ngày trước đã trở về? Trở về để đòi lại thứ quý giá nhất của cuộc đời mình.

Qua cách xây dựng những xung đột, mâu thuẫn của truyện, Nam Cao đã chứng tỏ cho chúng ta thấy một cảnh quan hiện thực hết sức rõ rang, mãnh liệt, ông thấy rõ mối xung đột giai cấp ở nông dân, địa chủ đã lên mức sâu sắc và không có gì để xoa dịu. Nam Cao xây dựng cho mối quan hệ bá Kiến - Chí Phèo trở nên hết sức gay gắt, mối tình dang dở với thị Nở cũng là cách đổ thêm dầu vào lửa, biến cơn say, cơn buồn, cơn thất tình ở Chí Phèo thành lòng căm hận, tức tối, quyết đến nhà thị Nở để trả thù. Nhưng quy luật không phải như thế, quy luật đã kéo Chí đi nhưng là đến nhà bá Kiến chứ không phải ai khác. Kẻ đáng giết là bá Kiến, mọi xấu xa bắt đầu từ bá Kiến thi cũng sẽ kết thúc từ bá Kiến. Với cái kết thúc bất ngờ dữ dội của thiên truyện ngắn. Nam Cao đã cho chúng ta thấy kết quả tất yếu sẽ xảy ra, điều đó là không thể tránh khỏi. Giai cấp thống trị có thể khôn ngoan, xảo quyệt, mánh khóe, có thể đàn áp làm lu mờ cả ý thức của người dân thì trong họ ngọn lửa lòng căm ghét những kẻ bóc lột vẫn âm ỉ cháy. Ở Chí, cho dù tâm trí tê liệt, mọi cái bị xóa sổ trong trí nhớ của hắn thì tận trong cơn say, hắn vẫn như mơ màng nhận thấy điều gì. Chí quyết tâm đến nhà thị Nở để trả thù là biểu hiện bên ngoài, trong tiềm thức Chí chỉ có bá Kiến, không đòi rượu, không đòi tiền mà đòi lại bộ mặt và tâm hồn - những thứ bị tướt đoạt. Qua cái chết của bá Kiến, chúng ta đã nhận ra quy luật của cuộc đời: những kẻ vấy máu người phải đền tội theo luật nhân quả đã đành, nhưng những kẻ ném đá dấu tay như bá Kiến cũng không tránh khỏi quy luật " ác giả ác báo". Càng mưu mô nham hiểm thì càng nhận được cái kết cục bi đát và bất ngờ. Trong bài toán của mình, bá Kiến đã rất khôn ngoan, cứ tưởng rằng Chí Phèo sẽ là Binh Chức, Năm Thọ nhưng hắn đâu lường được tình yêu của thị Nởđã trở thành một thứ thần dược rũ lốt quỷ để Chí thành người...và cuộc báo thù đã xảy ra.

Nhưng cái chết của bá Kiến mới chỉ được một nửa công việc, Chí Phèo làm nốt phần việc còn lại bắng cách giết luôn cả mình. Nếu còn sống, Chí Phèo vẫn phải tiếp tục cuộc đời quỷ dữ của mình vẫn phải đối chọi với con trai của bá Kiến. Ta còn nhớ Nam Cao đã cho một nhân vật của mình ăn bả chó tự tử, đó là lão Hạc. Nay ta lại thấy Chí Phèo tự kết liễu đời mình. Phải chăng, với suy nghĩ riêng của Nam Cao, những con người quá khốn khó, quá cùng quẫn thì chỉ có cái chết mới giải thoát được tất cả? Chí Phèo phải chết mới chấm dứt cuộc đời nhục nhã của mình để hóa kiếp sang một con người khác tốt đẹp hơn?.

Chí Phèo chỉ ao ước trở lại làm một người lao động bình thường được sống cùng thị Nở nhưng không được. Cách xây dựng nhân vật của Nam Cao thật độc đáo: Chí Phèo vừa là một gã mất trí, là công cụ nguy hiểm trong tay bọn thống trị, lại vừa là nô lệ thức tỉnh, trở thành con người có đầu óc sáng sủa nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có ý nghĩa khái quát sâu sắc vượt quá mức thường ngày, vượt qua tầm khôn ngoan của bá Kiến. " Ai cho tao lương thiện?" Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?. Nỗi day dứt rất con người, đầy nhân văn này lại được thốt ra từ miệng một kẻ chuyên uống rượu say mềm. Bá Kiến cũng bất ngờ, mất cảnh giác nên Chí đã dễ dàng rat ay sát hại. Chí Phèo ngay sau đó cũng tự kết liễu đời mình bởi mọi điều mình làm. Không tự giết, Chí Phèo cũng sẽ phải chết vì lí Cường còn đó, vì bao đối tượng muốn xóa sổ hắn. Giết được bá Kiến, Chí Phèo như lấy lại được danh dự cho mình, như đã hài lòng về bản thân cảm thấy không còn phải sống để đòi nợ ai nữa. Hắn không chết cũng sẽ không còn ai cho hắn tiền uống rượu, không còn bá Kiến cho hắn rạch mặt ăn vạ nên hắn chết. Có những cái chết bế tắc, nhưng cái chết của Chí Phèo lại là bước mở đầu cho sự sống, giải thoát cho chính mình. Bình thường ở ngoài đời những kẻ như Chí Phèo sẽ chết một cách vô nghĩa lý. Nếu Nam Cao kết thúc tác phẩm của mình cũng như thế thì truyện của ông cũng đã có giá trị nhân đạo sâu sắc nhưng là một nhà văn có tài và có bản lĩnh, Nam Cao lại để cho Chí thức tỉnh, ánh sáng của cuộc đời lương thiện đã le lói ở phía trước, sau đó hắn mới phải chết. Một cái chết như thế sẽ đau đớn hơn gấp nhiều lần so với cái chết vô nghĩa lý và lẽ dĩ nhiên, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm đã tăng lên rất nhiều. Bên cạnh đó, Nam Cao đã lờ mờ nhận thấy một sức sống tiềm tang trong con người lao động bị áp bức. Đắng sau đâm chém hãi hùng kia có cái gì như là sự vật vã tuyệt vọng đang cố vùng vẫy để thoát khỏi nó. Bi kịch của Chí không phải là sự bần cùng, nghèo hèn vật chất và địa vị xã hội mà ở chỗ là người mà không được loài người dung nạp. Sống trong sự ghẻ lạnh, thờ ơ của mọi người càng làm cho Chí cùn thêm, liều thêm cho đến khi ý thức được điều đó thì hắn chỉ còn biết tìm đến cái chết. Thật ra chuỗi ngày dài trong đời hắn, hắn không hề biết mình dang sống, sự tha hóa tột cùng làm hắn không còn ý niệm về sự tồn tại của mình. Kết thúc truyện ngắn hắn đã tìm đến cái chết, cũng là lúc hắn nhận biết được cuộc sống thú vật của hắn. Còn bá Kiến, sẽ còn Chí Phèo. Hết bá Kiến, Chí Phèo cũng không tồn tại. Ở đây, ta còn thấy sự thâm thúy sâu xa của Nam Cao khi cho cả hai nhân vật tồn tại song song và có vai trò tác động lẫn nhau. Nếu không phải là bá Kiến thì anh Chí ngày xưa chưa hẳn đã là Chí Phèo bây giờ. Vì bá Kiến kết tinh đầy đủ của sự ranh ma lừa lọc, một kẻ ném đá giấu tay rất cáo già.

Hành động giết bá Kiến và sự tự sát của Chí thì lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con người. Bá Kiến chết đi là mong muốn sự kết thúc một chế độ đen tối bất công. Chí Phèo chết đó là cách duy nhất Nam Cao ở thời điểm năm 1941 ấy hóa kiếp cho thứ người đau khổ, cái chết giải thoát cho họ. Cái nhìn của Nam Cao tuy hơi cực đoan,bế tắc song nó hợp với logic của truyện và nhận thức của nhà văn. Khi cái xấu xa đã ăn sâu vào thành tính cách phẩm chất của nhân vật mà tác giả chưa biết cách nào thay đổi, chỉ chết đi mới rũ bỏ được tất cả. Tìm đến cái chết, nghĩa là Chí Phèo đang tìm kiếm sự sống, một cuộc sống thật sự. Chí chết, mồm ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống mở và giá trị điển hình của nhân vật này là vô biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi khổ của của người nông dân thời kỳ nước ta còn sống trong vòng nô lệ mà còn đại diện cho cái phần khùng điên khuất tối mà sinh ra trên cõi đời này, ai cũng có thể có, nếu không biết tự kìm chế và nếu bị các thế lực hắc ám xô đẩy và nuôi dưỡng. Chính Nam Cao cũng dự báo điều này khi ông để cho thị Nở liếc nhanh xuống bụng và trong óc thị thoáng hiện ra cái lò gạch hoang đầu làng, vắng chỗ người qua lại. Sẽ có một Chí Phèo con ra đời để rồi lặp lại cuộc đời của bố hắn, cũng như bố hắn đã lặp lại cuộc đời của Năm Thọ, Binh Chức. Cái vòng luẩn quẩn ấy sẽ chẳng bao giờ đồi thay nếu như chưa có một ngọn gió mới, một con đường mới, một không khí mới.

Nếu như khi viết truyện Chí Phèo, bỗng nhiên Nam Cao lại để cho Chí giết bá Kiến rồi trốn lên chiến khu theo Việt Minh. Ít lâu sau, hắn về giải phóng quê hương và biết đâu đấy hắn có thể làm Chủ tịch xã nữa...Nếu như thế chắc chắn là Nam Cao đã làm hỏng thiên truyện xuất sắc của ông. Sở dĩ chúng ta nói như thế bởi vì cái chết của Chí Phèo với tác phẩm này là một tất yếu, không thể khác được. Bởi vì khi ấy quay về kiếp sống cũ thì Chí Phèo không thể, sau mấy ngày thức tỉnh hắn đã hiểu cuộc đời đã qua của hắn không thể lặp lại, còn tiến lên để hòa nhập với xã hội bằng phẳng thân thiện thì người ta không chấp nhận. Hắn làm gì còn chỗ đứng trên cuộc đời này nữa nên hắn phải chết. Chí Phèo chẳng thể trốn chạy.

Ý Nghĩa Cái Chết Của Chí Phèo Và Bá Kiến Trong Truyện Chí Phèo 161

Nam Cao được coi là một trong những nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại, với giọng văn tỉnh táo, phác lặng, thấm đẫm những suy tư, triết lý nhưng đằng sau giọng văn ấy là một tâm hồn đằm thắm yêu thương trĩu nặng những nỗi xót xa về số kiếp của những con người cùng khổ dưới đáy xã hội lúc bấy giờ. Nam Cao viết Lão Hạc, viết Đời thừa, rồi viết Chí Phèo, và thực sự mỗi tác phẩm đều là một tấn bi kịch, là bức tranh hiện thực đầy đau xót của xã hội Việt Nam trước cách mạng. Và trong Chí Phèo người ta lại càng thêm bàng hoàng, thêm đau xót về cái bi kịch không lối thoát, đó là bi kịch bị tha hóa, bị từ chối quyền làm người, quyền được sống hạnh phúc của nhân vật Chí Phèo. Sự bức ép của xã hội, sự tuyệt vọng đến cùng cực đã đẩy Chí Phèo đến con đường tự sát và giết luôn cả kẻ thù của mình là Bá Kiến, đây là một cái kết không có hậu nhưng lại là cái kết hợp lý để giải quyết tất cả các nút thắt và bi kịch trong cuộc đời bất hạnh của Chí.

Cái chết của Chí Phèo và Bá Kiến chính là kết quả của cái tấn bi kịch cùng đường tuyệt lộ, mà không còn cách tháo gỡ nào khác ngoài cái chết để giải thoát. Cuộc đời Chí Phèo lần lượt bước qua những bi kịch đau đớn, đầu tiên là bi kịch bị cha mẹ ruột bỏ rơi, phải sống cuộc đời thiếu tình thương yêu, sau khi lớn lên cứ ngỡ yên ổn làm một anh canh điền thật thà chất phác thì lại vướng nỗi oan khuất phải ngồi tù vì sự ghen tuông của Bá Kiến. Chính cuộc sống không bằng chết ở trong tù đã khiến Chí Phèo dần lưu manh hóa, bị tha hóa trong nhân cách. Trả thù đời, trả thù Bá Kiến, hắn tiếp tục trượt dài trên con đường tha hóa ấy, không thể hòa nhập với cuộc sống, bị cái định kiến đầy ác nghiệt của xã hội chối bỏ quyền được làm người. Thế nhưng dẫu cuộc sống có nhiều đớn đau, dù hắn có bị lưu manh hóa, có rạch mặt ăn vạ thì sâu thẳm trong tâm hồn Chí Phèo vẫn còn một chút tỉnh táo len lỏi trong những cơn say dài. Bản chất hắn vẫn là một anh canh điền lương thiện, hắn sẵn sàng ra tay rạch mặt mình, nhưng không hề làm tổn thương đến kẻ thù, kẻ vốn đẩy hắn đến những bi kịch mãi về sau này.

Thế nhưng cuộc gặp gỡ nhân văn với Thị Nở lại cũng chính là cái bi kịch to lớn nhất, và cũng là bi kịch cuối cùng trong cuộc đời mà Chí Phèo phải gánh chịu. Gặp thị, Chí Phèo thấy mình như sống lại, tình yêu ấy đã đánh thức cái tâm hồn ham sống, ham hạnh phúc, mong ước về một mái ấm gia đình trong Chí, dù hắn đã bước sang đến dốc bên kia của cuộc đời. Thế nhưng cái xã hội vốn bất công, vốn cay nghiệt với hắn chỉ cho hắn được đê mê, được hạnh phúc có năm ngày chẵn rồi người ta lại dội cho hắn một gáo nước lạnh, dìm hắn vào vực sâu của tuyệt vọng. Những lời không thể cay nghiệt hơn của bà cô, chính là thông điệp của cả cái làng Vũ Đại, của cả cái xã hội này dành cho hắn "Đàn ông đã chết hết hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ". Con người ta nhẫn tâm xoáy sâu vào cái bi kịch vào cái nỗi đau vốn gần liền vảy của hắn, hơn thế nữa những lời ấy giá như là lời của một người nào khác chứ chẳng phải Thị Nở truyền cho hắn nghe trong tức tối thì có lẽ Chí đã chẳng đau đớn và tuyệt vọng đến như thế.

Tình yêu của hắn đã bị cả cái xã hội này bóp chết, cả cái xã hội này, thậm chí đến cả Thị Nở cũng chối từ hắn thì sống liệu có còn ý nghĩa? Tuy nhiên giữa những người trong cuộc thì chẳng ai có thể nhận ra rằng, thị chẳng hề tức Chí mà thực chất rằng, thị đang tức thay cho Chí, thị tức cho cái phần người vừa mới quay lại không bao lâu của Chí bị những lời lẽ đay nghiến vùi dập, thị tức lắm. Bi kịch của Chí Phèo ở chỗ ấy, họ không hiểu nhau nên thành ra cái tức tối của người đàn bà dở hơi lại chính là cú giáng cuối cùng vào tâm hồn tàn tạ, tuyệt vọng của Chí, dồn Chí Phèo đến cái cách giải quyết tiêu cực nhất là chết! Bởi Chí đã ý thức được cái thân phận lạc loài không cha không mẹ, Chí bàng hoàng tuyệt vọng đuổi theo nắm lấy tay thị như người chết đuối nắm lấy cọng rơm cứu mạng cuối cùng, thế nhưng cọng rơm ấy cũng tuột khỏi tay Chí, Chí chết thật rồi chết từ trong tâm hồn cô độc, lạc lõng.

Hắn lại say, hắn định giết thị, giết cả bà cô để trả thù nhưng Chí Phèo lại không bước vào nhà Thị Nở, mà theo như Nam Cao nói thì "Những thằng điên và thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm". Nhưng có phải như vậy không, xét kỹ người ta mới thấy rằng có lẽ trong tiềm thức của một thằng say rượu như Chí đã dần tỉnh táo, hắn chợt nhận ra Thị Nở chẳng có lỗi, tình yêu thương của thị thức tỉnh tính người của hắn, bà cô của thị cũng không có lỗi, những lời cay nghiệt của bà ta thức tỉnh Chí bằng định kiến của một dân làng tỉnh táo, để Chí Phèo ý thức về bi kịch của bản thân. Chí nhận ra rằng kẻ thù lớn nhất, độc ác nhất trong cuộc đời Chí luôn luôn chỉ có một mà thôi đó chính là tên Bá Kiến, tiềm thức đã ngủ yên biết bao năm nay của hắn bỗng được thức tỉnh, cùng dậy hét lên trong tuyệt vọng đau đớn "Ai cho tao lương thiện?...Tao không thể làm người lương thiện nữa. Biết không...Chỉ còn một cách...Biết không...". Chí Phèo giết Bá Kiến để trả thù, để xả hết bao nỗi khốn nhục uất ức mà hắn phải chịu bấy lâu nay, để trả thù cho cái lương thiện mà tên Bá Kiến đã cướp mất của hắn. Nhìn sâu hơn người ta thấy Chí Phèo chính là đại diện cho tầng lớp nông dân cùng khổ trước cách mạng tháng tám vùng dậy đấu tranh, chống lại cái cường hào áp bức của tầng lớp thống trị lúc bấy giờ. Dẫu đó là cách thức liều lĩnh, đơn độc nhưng không còn cách nào khác, chỉ còn con đường bạo lực, chỉ có bạo lực mới có thể giải quyết được tất cả những vấn đề bất công, tàn ác mà bè lũ tay sai phong kiến đã gây ra cho nhân dân ta lúc bấy giờ. Mặt khác cái chết của Bá Kiến và Chí Phèo còn tố cáo mạnh mẽ bộ mặt độc ác và tàn nhẫn của xã hội cũ đã đẩy người nông dân lương thiện đến chốn cùng đường tuyệt lộ, khiến họ không còn lối thoát buộc phải giải quyết bằng những cách thức có vẻ tàn ác, suy cho cùng đó là cái giá mà một kẻ độc ác như Bá Kiến phải nhận. Chí Phèo giết được Bá Kiến rồi, sau đó hắn tự sát, tại sao hắn lại tự sát? Kẻ thù duy nhất của hắn đã chết đáng lý ra hắn có thể tiếp tục bước tiếp cuộc đời quỷ dữ của mình như bao nhiêu lâu nay hắn đã từng, nhưng Chí lại chọn cho mình cái chết. Có thể nói rằng, chi tiết tự sát của Chí Phèo chính là chi tiết đánh dấu mạnh mẽ sự trở lại của tính người trong cái tâm hồn vốn tàn tạ của hắn, Chí không thể tiếp tục làm quỷ dữ được nữa, hắn có khao khát được làm người lương thiện, thế nhưng cuộc đời này không cho hắn được cái quyền ấy, thì chi bằng hắn chết đi kết thúc hơn 40 năm cuộc đời mòn mỏi, đầy bi kịch của mình. Chí Phèo chọn cho mình cái chết có thể nói là một phương cách quyết liệt và tiêu cực để giữ lại cái phần người vừa được thức tỉnh của hắn, để chống lại cái sự tha hóa đã ăn mòn gần hết nhân cách của hắn. Cái chết của Chí Phèo chính là cái chết để chứng minh cho khao khát được trở về cuộc đời lương thiện, của một con người vừa phát hiện ra cái lương thiện quay về ngự trị trong tâm hồn của hắn, dẫu rằng ngoài hắn và Thị Nở thì chẳng ai hay biết điều ấy.

Với truyện ngắn Chí Phèo bức tranh xã hội hiện thực Việt Nam tàn ác đã được Nam Cao lột tả một cách sinh động và chân thực nhất, theo đó những giá trị nhân văn, nhân đạo đã được bộc lộ một cách sâu sắc. Đó là sự xót thương, thông cảm cho những thân phận con người ở dưới đáy xã hội, bị chèn ép, chà đạp, bị tước quyền được sống lương thiện. Đồng thời tố cáo bộ mặt tàn ác, vô nhân tính của chính quyền thực dân nửa phong kiến đã dồn ép con người đến đường cùng, buộc họ phải lựa chọn cách giải thoát cuối cùng là cái chết để được quay về với tấm lòng lương thiện thuở ban đầu, để bảo vệ cái nhân cách của mình khỏi sự tha hóa tồi tệ.

Nỗi đau của Chí Phèo 162

Với hình tượng Chí Phèo đã đưa giá trị của tác phẩm cùng tên trở thành một kiệt tác trong nền văn xuôi đương thời. Tác phẩm “Chí Phèo” là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn lớn Nam Cao. Chí Phèo không phải là một hiện tượng đơn độc cá biệt mà mang ý nghĩa tiêu biểu cho một lớp người, một tình trạng xã hội. Trên dốc trượt của cuộc đời xuống đáy xã hội và bị rơi vào vũng bùn tội lỗi mà Chí Phèo là người trôi xa nhất. Nỗi khổ của Chí Phèo đau nhất là nỗi khỗ bị tước quyền làm người. 

Chí Phèo sinh ra không cha, không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà cửa, không tấc đất cắm dùi. Cả đời Chí không hề biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở. Thị ra đời trong một cái “lò gạch cũ” bỏ hoang. Trong chiếc váy đụp. Tuổi thơ của Thị “bơ vơ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ” đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà giàu… Đó là cuộc đời khốn khổ của một kẻ “cùng hơn cả dân cùng” ở nông thôn thời bấy giờ. Nhưng nỗi khổ ghê gớm của Chí Phèo được ngòi bút của Nam Cao tập trung thể hiện không phải ở những vấn đề đó mà là vấn đề bị cự tuyệt quyền làm người. Người nông dân “cùng hơn cả dân cùng ấy không được sống ngay cả cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình mà anh đã bị xã hội cướp đi bộ mặt cùng linh hồn để trở thành một con thú dữ và bị xã hội loài người chối bỏ.

Là con người lẽ ra được lao động, được mơ ước, được quyền yêu thương, được sống giữa cộng đồng của anh trong làng Vũ Đại. Nỗi đau này mang tính điển hình, tính phổ biến. Rền vang tiếng nức nở của con người không được quyền làm người. Nam Cao đã thể hiện nỗi đau đó bằng nghệ thuật. Mở đầu tác phẩm là miêu tả tiếng chửi của Chí Phèo: “Hắn vừa đi vừa chửi… bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”, ”hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi có trường độ và cường độ, tiếng chửi rất triệt để, ngoa ngoắt và độc địa làm sao! Từ tiếng chửi ta bắt gặp nỗi căm uất, sự vật vã tuyệt vọng của một con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại mà không thể được.

Chí Phèo thật cô đơn. Nỗi cô đơn này càng triệt để bao nhiêu, càng đau bấy nhiêu. Trong cơn say đến mất cả lý trí, con người khốn khổ ấy vẫn cảm nhận được “nông nỗi” của thân phận mình. Đó là nỗi cô đơn khủng khiếp của một con người bị xã hội dứt khoát cự tuyệt, không được coi là người. Hắn thèm được người ta chửi. Vì chửi dù sao cũng là một hình thức giao tiếp đối thoại. Chửi lại hắn tức là còn thừa nhận hắn là người. Nhưng hắn cứ chửi, xung quanh vẫn cứ “im lặng đáng sợ”. Và Chí Phèo vẫn chỉ có một mình trong sa mạc cô đơn. Dẫu rằng anh đang đứng ở trên đời, giữa làng Vũ Đại. Nam Cao thật tuyệt vời khái quát tâm trạng cô đơn tột đỉnh của Chí Phèo qua tiếng chửi. Tất cả đã trở nên thù hằn, đối nghịch với Chí Phèo.

Thực ra đâu phải Chí Phèo vốn là kẻ lưu manh nát rượu. Khi còn trai trẻ anh canh điền nhà Bá Kiến ấy đã “ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Tức là mơ ước cuộc sống hạnh phúc bình dị bằng lao động. Khi ấy tuy còn rất trẻ nhưng anh vẫn phân biệt được tình yêu chân chính và thói dâm dục xấu xa.

Bị gọi lên bóp chân cho cái bà ba “quỷ quái”, anh chỉ “thấy nhục chứ yêu đương gì”. Nhưng bản chất lương thiện, trong trắng ấy của anh đã bị xã hội ra sức hủy diệt. Lão cường hào cáo già vì ghen tuông vu vơ đã cho giải Chí lên huyện rồi sau đó phải ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay cho lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện vô tội để sau đó thả ra một Chí Phèo hung ác lưu manh. Tức là đã biến một người lao động lương thiện thành một con thú dữ.

Trở về làng Vũ Đại có bọn cường hào độc ác ăn thịt người không tanh đó, Chí Phèo không thể hiền lành nhẫn nhục như trước nữa. Trong cái xã hội tàn bạo ấy càng hiền lành, nhịn nhục thì càng bị đạp dúi xuống không ngóc đầu lên được. Hắn muốn sống thì phải gây gỗ, cướp giật, ăn vạ. Muốn thế phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Thế là Chí Phèo luôn luôn say. Và “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chính xã hội ấy đã vằm nát bộ mặt người, cướp đi linh hồn người của anh. Trở về làng lần này, Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người, là “con quỷ của làng Vũ Đại”. Và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nữa. Ai cũng tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua.

Chí Phèo tiêu biểu cho tầng lớp nông dân bị tha hóa về mặt nhân cách. Nhưng sự tha hóa đó không phải là bẩm sinh mà là nó được phát sinh trong quá trình vận động và phát triển của nhân vật giữa xã hội thối nát, vô nhân đạo. Từ một người hiền lành chất phác trở thành một kẻ liều lĩnh và ôm ấp trong lòng một mối hận thù không gì xóa được. Nếu lấy thời điểm Chí ra tù làm mốc thì có thể nói. Chí đã ba lần đi gặp kẻ thù- Bá Kiến:

Lần thứ nhất là lúc Chí vừa ở tù về. “Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu và trong cơn say khướt, đã xách vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục ra mà chửi. Đó là lối hành động của một tên lưu manh. Nhưng hoàn toàn không ngẩu nhiên vô thức của một kẻ say rượu, mà đã có trong tiềm thức của Chí Phèo. Cộng thêm những năm tháng tù đày. Mối thù ấy càng được hun đúc nuôi dưỡng sâu sắc và cô đậm hơn. Bao năm ngồi tù Chí đã có dịp nghiền ngẫm cân nhắc trước khi đi đến hành động đúng đắn. Cho nên hơn bao giờ hết, vừa rời khỏi nhà tù là Chí đã sôi sục một ý thức trả thù. Sự căm thù kẻ đã gây ra tội lỗi và đẩy mình vào con đường đau khổ đã dẫn đường Chí đến nhà cụ Bá dù là đang trong cơn say khướt.

Hành vi của Chí hoàn toàn liều lĩnh và mang tính bột phát. Hơn nữa dù gì trong sâu xa bản chất của Chí cũng chỉ là một nông dân thật thà đến mức gần như ngây thơ cho nên sự thất bại của Chí trong lần đối đầu đầu tiên là một chuyện rất hiển nhiên. Làm sao qua được kẻ khôn róc đời như Bá Kiến. Bá Kiến là kẻ tinh ma xảo quyệt, lắm mưu nhiều kế nên đối phó với Chí chẳng lấy gì là khó khăn. Chỉ thoáng nhìn qua là Bá Kiến đã hiểu được ý đồ của đối phương. Nên Chí mới thất bại ê chề, cay đắng trước những lời vuốt ve ngon ngọt, cộng thêm vài đồng bạc đã làm lóa mắt Chí. Từ một vị trí là người đi hỏi tội kẻ thù, chỉ thoắt cái, ván cờ đã lật ngược: kẻ có tội lại ung dung như một kẻ ra ơn còn người hỏi tội lại thành tay sai phục dịch cho kẻ thù mà không hay biết.

Lần thứ hai: cũng trong cái dáng điệu say mềm Chí ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến gặp hắn để xin được đi ở tù. Thật là một chuyện ngược đời. Thuở nay chưa thấy ai làm một chuyện phi lý đến mức như vậy, chắc chỉ có Chí Phèo… Tuy là nghịch lý đấy nhưng lại phản ánh đúng thực tại của Chí. Không có cơm ăn, áo mặc, một mảnh đất căm dùi cũng không. Cảnh ngộ bi đát của Chí cũng phần nào phản ánh đúng hiện trạng xã hội lúc bấy giờ. Đó là những người lầm đường lạc lối trót sa chân vào vũng bùn của tội lỗi thì không sao rút chân ra được. Chí bị tù đến khi được trả về cuộc sống đời thường thì lại không tìm được kế sinh nhai. Hay nói đúng hơn là không được tiếp nhận và vì thế là tiếp tục bị đẩy vào bước đường cùng. Hãy lắng nghe Chí nói với Bá Kiến: “bẩm quả đi ở tù sướng quá đi! Ở tù còn có cơm ăn, bây giờ về làng, về nước một thước đất cắm dùi không có…”

Sự thật như thế ư? Nhà tù là chốn dung thân ư? Trên câu chữ thì ta không thể nghĩ khác được. Nhưng nếu nghĩ sâu xa một chút, ta mới thấy ngỡ ngàng và đau xót. Nhà tù nuôi con người ư? Không, bảo nó nuôi dưỡng những con người bị tha hóa, những con quỹ như Chí Phèo thì đúng hơn. Nếu như ý nghĩa của nhà tù là để cảnh tỉnh, cải tạo con người, trả con người về với cuộc sống hoàn lương thì nhà tù ở đây lại thực hiện ngược lại. Nó biến những con người lương thiện trở thành loại người lưu manh, khốn nạn. Cũng như lần trước Chí lại thất bại trước cái khôn róc đời của cụ Bá. Chí bị gạt mà không hề nhận ra.

Âm mưu của Bá Kiến mới thâm độc làm sao. “dùng độc trị độc”, dùng Chí Phèo để trị đội Tảo. Cả Chí và đội Tảo đều là kẻ thù của hắn, nên vả chăng có xảy ra xô xát, ai được ai mất cụ Bá nhà ta đều có lợi, vừa thỏa mãn được ý định trả thù, vừa không phải mang tiếng là kẻ thù nhỏ nhen đê tiện.

Lần thứ ba: cũng là lần chót Chí đến gặp Bá Kiến. Cũng với dáng dấp của một thằng say rượu nhưng lần này Chí mang trong mình một tâm trạng, một ý định khác hẳn với những lần trước. Bởi vì Chí Phèo sau khi bị Thị Nở cự tuyệt tình cảm của mình, Chí hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng. Chí chỉ ước ao trở lại làm anh dân cày bình thường với mối tình Thị Nở – Một người đàn bà không thể có người khác xấu hơn. Vậy mà không được. Cuộc đời hoàn lương của Chí bị xã hội quay lưng. Cánh cổng cuộc đời khép lại trước mặt Chí, đã chặn đứng đường trở về của Chí, đã cự tuyệt quyền làm người của một con người. Cuộc đời tàn nhẫn chối bỏ Chí. Vĩnh viễn Chí không tìm thấy hạnh phúc ở cuộc đời này. Bản chất người vừa phục thiện trỗi dậy lại bị đè bẹp không thương tiếc. Có thể nói đây là những giờ phút tỉnh táo nhất trong quảng đời say khướt của Chí. Những phút mà ý thức phản kháng trỗi dậy. Đi gần hết cuộc đời, cho đến lúc này Chí mới phát hiện, mới nhận ra chân lý cuộc sống. Dù là muộn màng nhưng với Chí sự khám phá ấy quý giá biết bao. Và Chí quyết giữ chặt lấy nó không để nó tuột khỏi tầm tay dù là phải trả một giá rất đắt.

Chí như vừa thức dậy sau một giấc ngủ dài. Một sự chuyển biến rất lớn đang diễn ra trong tâm hồn của Chí. Ấy là sự trỗi dậy của tính người, tính lương thiện. Chí đã nhận ra chân tướng kẻ thù. Kẻ ấy là Bá Kiến chứ không ai khác, cho nên lẽ ra phải đến nhà Thị Nở thì tiềm thức sâu xa đã dẫn Chí đến nhà Bá Kiến “ Một tính cách thật độc đáo, vừa là một gã mất trí, một công cụ trong tay bọn thống trị, vừa là người nô lệ thức tỉnh.Một đầu óc sáng suốt nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có ý nghĩa khát quát sâu sắc, vượt ra ngoài tầm khôn ngoan lọc lỏi của Bá Kiến: “ Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?”. “Một nhân vật như thế chỉ có thể là của Nam Cao”( Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh-Chân dung văn học).

Trong lần đối đầu sau cuối này, Chí hoàn toàn lột xác. Sự thay đổi đột ngột và nhanh chóng đến mức Bá Kiến không ngờ được. Chính vì không nắm bắt được đối phương, lại “chủ quan khinh địch” nên Bá Kiến đã thất bại thảm hại. Hắn đã phải trả một giá rất đắt cho hành vi tội lỗi của chính hắn. Với dáng dấp hiên ngang ngạo nghễ, Chí chỉ tay vào mặt Bá Kiến mà ra lời dõng dạc: “Tao muốn làm người lượng thiện”. Tư thế ấy ta chưa từng bắt gặp ở Chí. Trước đây hắn chỉ biết cúi đầu lế phép “một điều bẩm cụ, hai điều lạy cụ”. Đó là sự chuyển biến và sự khẳng định mình của Chí.

Ngôn ngữ của Chí càng lúc càng đậm màu sắc triết lý: “Ai cho tao lương thiện? Tao không thể là người lương thiện”. Lời cuối cùng được thốt lên với tất cả niềm cay đắng xót xa. Chí đã bị đẩy đến bước đường cùng. Cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở cho Chí thì đã bị đóng sầm lại. Chí đau đớn tuyệt vọng. Không còn lối thoát, không còn cách nào khác là kết án kẻ thù, giết chết Bá Kiến, sau đó anh tự sát.

Anh không muốn sống nữa, vì giờ đây ý thức về nhân phẩm đã trở về, anh không thể sống kiểu lưu manh, không thể sống như thú vật nữa. Bởi vì lòng thương người của Thị Nở, chỉ một chút thôi đã đủ kéo Chí trở về cuộc sống làm người. “Anh đã bâng khuâng mơ hồ buồn”. Anh đã nghe được âm thanh của cuộc đời: bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của những người đàn bà đi chợ về… Những âm thanh bình thường quen thuộc ấy bỗng trở thành tiếng gọi của sự sống đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Cuộc gặp gỡ Thị Nở lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tối tăm mịt mù của anh. Anh bỗng nhận ra tất cả tình trạng bi đát của số phận mình. Anh bỗng thấy “Thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Tức là anh vô cùng khao khát được mọi người nhận anh trở lại “vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Tình yêu của Thị Nở mở đường trở lại làm người. Nhưng con đường đó vừa được hé mở thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô của Thị Nở không cho phép cháu bà” đi lấy một thằng (…) chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ” . Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Tất cả quen coi anh là “quỹ dữ”mất rồi. Hôm nay linh hồn anh trở về nhưng không ai nhận ra. Thế là Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch đau đớn khi hiểu ra rằng xã hội đã cự tuyệt mình. Vậy thì anh phải chết! Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa đời phũ phàng đóng chặt trước mặt anh. Chí Phèo chết quằn quại trên vũng máu tươi của mình, chết trong niềm uất hận và đau thương lớn lao. Vì niềm khao khát mãnh liệt, thiêng liêng của anh là được sống làm người không thực hiện được. Chí Phèo khổ quá, cô đơn quá! Khi chết mọi người chỉ đứng nhìn, kể cả người vợ đã từng chung sống năm ngày cùng chỉ đứng nhìn mà thôi. Tình người đâu? Làm thế nào để con người sống được cuộc sống con người, trong cái xã hội ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy. Qua hình tượng Chí Phèo ngòi bút nhân đạo Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Đó là một vấn đề có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa triết học có tầm vóc lớn lao được đặt ra bằng một tài năng xuất sắc bậc thầy khiến cho “Chí Phèo” thuộc vào một trong những tác phẩm hay nhất, có giá trị nhất của văn học thế kỷ này.

Tác phẩm “Chí Phèo” đã để lại trong lòng người bao trăn trở, bao suy tư ray rứt. Truyện đã phác họa thành công bức tranh về đời sống ở nông thôn Việt Nam thời kỳ 1930-1945. Nó đã trình bày sự mâu thuẫn và xung đột gay gắt giữa bọn cường hào ác bá và những người nông dân nghèo hèn rách rưới bị đẩy vào con đường tội lỗi mà tiêu biểu là NỖI ĐAU CỦA CHÍ PHÈO. Những mâu thuẫn nội tại ấy đã cho thấy sự xấu xa thối nát của xã hội đương thời. Hơn bao giờ hết, bức tranh nông thôn Việt Nam hiện ra mới xơ xác tiêu điều làm sao! Nó đầy rẫy những bọn người hèn hạ đốn mạt ( Bá Kiến, Bà Ba, đội Tảo…) cũng như những tệ nạn xã hội: rượu chè, cờ bạc , trộm cướp…có thời cơ phát triển. Một xã hội không chỉ có sự bần cùng hóa mà còn có cả sự lưu manh hóa. Về điểm này tác giả xây dựng rất thành công chân dung của một người nông dân mới: Chí Phèo.

Hình ảnh Chí trở thành một điển hình văn học. Một kiểu mẫu của loại người bị tha hóa về mặt nhân cách, vừa sống động vừa độc đáo mới mẻ. Cũng qua đó bật lên tiếng lòng nhân đạo cao cả. Một sự cảm thông, một thái độ trân trọng sâu sắc đối với số phận của người nông dân cùng bị xã hội chà đạp, ruồng rẫy, chối bỏ thậm chí tước bỏ cả quyền làm người. Những kẻ mà xã hội cho là cực kỳ xấu xa ấy, dưới con mắt yêu thương của tác giả vẫn còn một chút gì là tình người. Tình người và sự phản kháng muốn chống lại xã hội, muốn bứt ra khỏi cái xã hội vô nhân đạo, không có một chút tình người. Toát lên từ tác phẩm là niềm khát khao hạnh phúc, khát khao quyền làm người. Đặc biệt là tiếng kêu trước lúc giãy chết của Chí Phèo. Đó là tiếng kêu cứu của một con người. Một số phận bị vùi dập “Ai cho tao lương thiện? Tao muốn làm người lương thiện”. Tiếng kêu mới đau đớn và tha thiết làm sao! Nó cứ xoáy vào lòng người. Nó làm ta băn khoăn, ray rứt không nguôi. Nó kêu gọi hay nói đúng hơn là nó đặt ra một vấn đề cấp thiết. Một vấn đề chung không của riêng ai: ấy là “ số phận con người”. Nó kêu gọi tình người, kêu gọi sự quan tâm đến những kẻ bất hạnh. Kêu cứu vấn đề nhân phẩm con người đang trên đường bị hủy hoại. Nó đặt ra nhiệm vụ nóng bỏng của thời đại là hãy cứu lấy nhân phẩm, hãy bảo vệ quyền làm người của một con người.

Tác phẩm có giá trị tố cáo xã hôi vô nhân đạo. Con người không thể nào sống nổi với nó. Cùng quẫn, bế tắc cảnh ao tù nước đọng. Chí Phèo này chết đi, có Chí Phèo con ra đời thay thế. Chi tiết cuối cùng của tác phẩm miêu tả Thị Nở “ Thị thoáng thấy hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, vắng người qua lại”. Phải chăng tác giả kín đáo báo hiệu một Chí Phèo con sắp sửa ra đời. Có người cho rằng đó là kết thúc bi quan. Tại sao không nghĩ rằng, Nam Cao đang kêu gọi chúng ta hãy cứu lấy những đứa con của Chí Phèo. Hãy đập nát lò gạch cũ để con người sống với nhau trong sáng hơn, cao đẹp hơn!

Viết về nỗi đau đó thật vô cùng ý nghĩa cho cả hôm qua, hôm nay và mai sau, tùy cấp độ khác nhau nhưng nỗi đau vẫn còn. Tác phẩm của Nam cao vì thế vẫn còn rất mới và mãi mãi trường tồn với thời gian.