Kể lại chuyện Thánh Gióng bằng lời văn của em hay nhất (21 mẫu)

Dàn ý kể lại chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 1

A. Mở bài:

- Cách 1: Giới thiệu nhân vật Thánh Gióng bằng cách hóa thân vào nhân vật để chàng tự giới thiệu về mình và kể chuyện.

- Cách 2: giới thiệu hoàn cảnh nghe câu chuyện như nghe ông bà hoặc mẹ kể chuyện mỗi tối trước khi đi ngủ sau đó dẫn dắt đến truyện “Thánh Gióng”

B. Thân bài:

- Lúc trước khi Thánh Gióng ra trận đánh giặc: Sự ra đời kì lạ và quá trình lớn lên của Gióng:

   + Ba mẹ tôi đã già yếu mà không có con.

   + Một hôm bà mẹ ra đồng và thấy một vết chân to lạ.

   + Bà mẹ ướm thử vào dấu chân và về nhà có thai.

   + 12 tháng sau bà sinh ra một đứa con trai bụ bẫm, kháu khỉnh. Ba mẹ và bà con láng giềng đều vui mừng chào đón cậu bé.

   + Nhưng cậu bé từ khi sinh ra không nói, không cười, không biết đi cứ đặt đâu thì nằm đấy. Cha mẹ buồn rầu, phiền muộn, thở dài…..

- Kể chuyện khi Thánh gióng đi đánh giặc:

   + Giặc Ân sang nước ta xâm lược nước ta, hung hăng, bạo ngược….

   + Vua sai sứ giả thông báo tìm người cứu nước

   + Cậu bé nghe thấy liền bảo mẹ gọi sứ giả vào

   + Sứ giả vào cậu bé nói sẽ giúp vua đánh giặc

   + yêu cầu sứ giả cấp cho roi, áo giáp sắt và ngựa sắt

   + Sứ giả về tâu vua và làm gấp những thứ cậu bé dặn.

   + Bỗng cậu bé lớn như gió thổi

   + Mọi người dân làng góp gạo thổi cơm cho Gióng ăn

   + Sứ giả mang đầy đủ những thứ Gióng yêu cầu, cậu bé vươn vai và trở thành tráng sĩ rồi ra trận đánh tan giặc Ân.

C. Kết bài:

- Đoạn kết của chuyện Thánh Gióng

Ví dụ:

- Cách 1: Thánh Gióng tự kể lại đoạn kết : “Sau khi tôi đánh tan giặc Ân, vua phong cho tôi là Phù Đổng Diên Vương và lập đền thờ tôi. Sau đó các ao làng tại làng là dấu ngựa sắt để lại, những cây tre vàng là do ngựa sắt phun lửa”, và nói lên suy nghĩ,cảm nhận của mình: vui vì đã giúp đất nước qua được cơn nguy biến….

- Cách 2: Người kể nghe xong câu chuyện tự nói lên suy nghĩ, cảm nhận của chính mình: tự hào, biết ơn Thánh Gióng và truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân tộc ta… Cố gắng học tập, phấn đấu rèn luyện cả về sức khỏe và trí tuệ…

Dàn ý kể lại chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 2

1. MỞ BÀI
Giới thiệu hoàn cảnh và các nhân vật

2. THÂN BÀI
- Hai vợ chồng già mãi không có con, một hôm bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về nà liền thụ thai
- Cậu bé lên ba mà vẫn không biết nói, biết cười, nghe giặc n xâm chiếm bờ cõi, liền cất tiếng nói đòi đi đánh giặc
- Cậu vươn vai thành một tráng sĩ, mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra giệt giặc
- Giặc tan, Gióng bay về trời

3. KẾT BÀI
Nhân dân lập đền thờ, hàng năm tổ chức hội để tưởng nhớ công lao của Gióng

Dàn ý kể lại chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 3

I. Mở bài

Thời gian và không gian xảy ra câu chuyện: Đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng.

II. Thân bài

1. Gốc tích lạ lùng của Thánh Gióng

– Hai ông bà đã già, chưa có con.

– Bà lão giẫm lên một dấu chân khổng lồ, về nhà thụ thai.

– Mười hai tháng sau bà sinh một đứa con trai.

– Khi ba tuổi chú bé vẫn chưa biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi.

2. Thánh Gióng nói được và lớn nhanh như thổi

– Giặc Ân xâm lược, thế giặc mạnh, vua cho sứ giả đi tìm người tài.

– Chú bé bỗng nhiên nói được, nhờ mẹ mời sứ giả. Nói với sứ giả đúc ngựa sắt, áo giáp sắt, roi sắt.

– Chú bé lớn nhanh như thổi, ăn không đủ no. Dân làng góp thóc gạo nuôi chú.

3. Thánh Gióng đánh giặc và bay về trời

– Giặc đến chân núi Trâu. Sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến.

– Chú bé vươn vai thành tráng sĩ khổng lồ, vỗ vào mông ngựa, ngựa hí vang. Tráng sĩ mặc giáp, cầm roi, cưỡi ngựa ra trận.

– Ngựa xông vào giặc; tráng sĩ cầm roi đánh giặc, ngựa sắt phun lửa thiêu giặc. Giặc chết như rạ.

– Roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ tre đánh giặc.

– Đuổi giặc đến chân núi Sóc, tráng sĩ lên núi, cởi áo để lại cùng ngựa bay lên trời.

– Vua phong tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương, lập đền thờ.

III. Kết bài

Hiện nay ở làng Phù Đổng vẫn còn đền thờ Thánh Gióng, những bụi tre đằng ngà, những hồ ao liên tiếp lưu giữ dấu chân ngựa của Thánh Gióng đi qua.

Dàn ý kể lại chuyện thánh gióng bằng lời văn của em chung nhất 4

A. Mở bài

Giới thiệu truyền thuyết “Thánh Gióng”.

B. Thân bài (Diễn biến sự việc)

- Mở đầu

- Đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng …

- Thắt nút - Giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta.

- Phát triển

- Nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước.

- Đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con người sắt và một tấm áo giáp sắt”.

- Mở nút

- Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng nhiên biến thành tráng sĩ.

- Kết thúc

- Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ.

C. Kết bài

- Ý nghĩa câu chuyện: Tinh thần đoàn kết chống giặc cứu nước.

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 1

Vào thời Hùng Vương có một đôi vợ chồng tuy đã già nhưng mãi chưa có con. Vào một buổi sáng sớm khi lên nương làm rẫy, chợt thấy một dấu chân rất to in trên mặt đất, bà sửng sốt kêu lên:
- Ôi! Dấu chân của ai mà to thế này!

Thấy kì lạ, bà đưa chân mình vào ướm thử, về nhà bà liền có thai. Chẳng giống như bình thường, bà mang thai 12 tháng mới sinh ra một bé trai và đặt tên là Gióng. Gióng lên ba tuổi mà chẳng biết nói biết cười. Hàng xóm láng giềng xung quang bắt đầu dị nghị, lời ra tiếng vào, bàn tán về đứa trẻ kì lạ. Họ cho rằng bà thụ thai kì lạ nên đứa trẻ sinh ra cũng không được bình thường. Vào năm ấy, giặc Ân xâm lược nước ta. Quân giặc rất đông và hung hãn, đi đến đâu, chúng cướp bóc, tàn phá đến đấy. Quân của vua Hùng nhiều lần xuất trận nhưng không thể đánh thắng số lượng áp đảo của quân địch. Trước tình hình ấy, vua Hùng rất lo lắng, cử sứ thần đi khắp các vùng miền tìm người tài. Đến làng Phù Đổng, với lòng căm thù quân giặc sục sôi, ý chí bảo vệ đất nước mãnh liệt, người dân cả làng xin vua cho được đi đánh giặc. Không khí đánh giặc cứu nước lan tỏa khắp nơi nơi, mẹ Gióng vô cùng buồn rầu ao ước rằng giá như Gióng cũng bình thường như những người khác thì đã có thể xung quân đánh giặc. Lời ru của mẹ cất lên đầy tha thiết nhưng cũng đầy giục giã: “Làm trai đứng ở trên đời/ Sao cho xứng đáng giống nòi rồng tiên”. Những đứa trẻ khác thấy Gióng vẫn ngủ thì nói: “Gióng ơi dậy đi thôi! Cả làng Phù Đổng ta xin vua cho đi đánh giặc rồi đấy!”. Những lời nói ấy như có sức mạnh làm thức tỉnh con người ngủ quên trong Gióng, Gióng bỗng cất tiếng gọi mẹ xin cho đi đánh giặc: “ Mẹ ơi! Xin mẹ cho gọi sứ giả vào đây”. Mẹ Gióng vô cùng bất ngờ, chuyện quốc gia đại sự đâu phải trò đùa của trẻ con, nhưng Gióng vẫn cương quyết: “Xin mẹ hãy tin con, con có thể ra trận đánh giặc”. Mẹ Gióng đến gặp trưởng làng và mời sứ thần đến gặp Gióng. Gióng nói với sứ giá bằng giọng rõ ràng, dứt khoát: “Xin hãy nói với nhà vua làm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một cái áo giáp sắt”. Sứ giả ban đầu cũng hoài nghi, dù sao Gióng cũng chỉ là một đứa trẻ. Nhưng lúc ấy, có một con rồng không biết từ đâu bay đến rồi vút cao lên trời xanh, biết là điểm báo của trời, vội vàng về tâu lại với nhà vua. Từ hôm ấy, Gióng bỗng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không đủ, vươn vai trở thành một chàng trai khỏe mạnh, khôi ngô, tuấn tú. Những vật dụng cần thiết được mang đến, Gióng cùng trai tráng làng Phù Đổng ra trận đánh giặc. Đánh đến đâu, quân giặc khiếp sợ bỏ chạy đến đấy. Khí thế đang mạnh mẽ thì ngờ đâu kiếm gãy, Gióng nhanh trí nhổ một bụi tre bên đường, quật vào quân giặc tới tấp. Tướng giặc cùng đường phải giơ tay xin hàng, chiến thắng thuộc về nhân dân của nước Văn Lang. Lúc bấy giờ ngựa Gióng đã tiến đến chân núi Sóc Sơn. Gióng bèn cởi toàn bộ giáp rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời.

Để tưởng nhớ công ơn của Gióng, vua Hùng cho lập đền thờ ở quê nhà và phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương. Hàng năm, nhân dân vẫn tổ chức lễ hội để du khách thập phương tìm về bái lễ.

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 2

Lên lớp 6, em được cô giáo giảng dạy nhiều thể loại truyện khác nhau như: cổ tích, truyền thuyết,…Thể loại truyện nào cũng hay cũng  hấp dẫn và để lại ấn tuợng sâu sắc trong em. Một trong những câu truyện truyền thuyết làm em nhớ mãi đó là truyền thuyết Thánh Gióng.

Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức, nhưng lại không có con. Họ buồn lắm. Một hôm, bà lão ra đồng thấy một vết chân to khác thường. Thấy lạ, bà lão đặt bàn chân mình vào để ước chừng bàn chân mình nhỏ hơn bao nhiêu. Thấm thoát thời gian trôi đi, bà lão có thai, rồi mười hai tháng sau bà sinh được một bé trai khôi ngô tuấn tú. Hai vợ chồng già mừng lắm. Nhưng lạ thay, đứa bé đã lên ba mà không biết nói, không biết cười, không biết đi, đặt đâu thì nằm đấy. Vợ chồng ông lão đâm lo?

Bấy giờ giặc Ân thế mạnh như chẻ tre tràn vào xâm lược nước ta. Nhà vua túng thế, bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng loa của sứ giả, bỗng cựa mình và cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả lấy làm kinh ngạc và cũng tỏ ý vui mừng, vội về tâu với vua. Nhà vua chấp nhận và sai người ngày đêm làm đủ những vật mà chú bé yêu cầu.

Từ hôm gặp sứ giả, chú bé bỗng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn không biết no, áo vừa mới mặc đã chật. Hai vợ chồng làm lụng cực nhọc mà không đủ nuôi con. Bà con xóm làng thấy thế, bèn xúm vào kẻ ít người nhiều nuôi chú bé.

Giặc Ân đã đến chân núi Trâu, tình thế đất nước như ngàn cân treo sợi tóc. Ai nấy đều lo lắng, sợ sệt. Vừa lúc, sứ giả mang đủ các thứ mà chú bé đã dặn. Chú bé vươn vai, trong phút chốc đã trở thành tráng sĩ thật oai phong, thật lẫm liệt. Tráng sĩ vỗ mạnh vào mông ngựa sắt, ngựa hí vang dội cả một vùng. Tráng sĩ mặc áo giáp cầm roi sắt nhảy lên lưng ngựa. Ngựa phi nước đại, phun lữa xông thẳng vào quân giặc hết kớp này đến lớp khác. Bỗng roi sắt bị gãy, tráng sĩ liền nhổ những bụi tre ven đường quất vào quân giặc. Thế giặc hỗn loạn, tan vỡ. Đám tàn quân dẫm đạp lên nhau mà tháo chạy. Tráng sĩ đuổi quân giặc đến chân núi Sóc (Sóc Sơn) thì dừng lại, rồi một mình, một ngựa lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt để lại ngựa sắt và tráng sĩ bay lên trời.

Để tưởng nhớ người tướng sĩ có công đánh tan giặc Ân xâm lược. Nhà vua phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay tại quê nhà.

Hiện nay vẫn còn dấu tích đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Hàng năm, đến tháng tư là làng mở hội tưng bừng để tưởng nhớ người tráng sĩ Thánh Gióng. Và để ngắm nhìn những dấu tích mà tráng sĩ và ngựa sắt đã đánh tan giặc Ân, đó là tre đằng ngà, những ao hồ liên tiếp…

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 3

Dưới thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão hiền lành mà chưa có đứa con nào để nối dõi. Một hôm, bà lão ra đồng ướm thử bàn chân mình lên những vết chân lạ, về nhà mang thai đến mười hai tháng mới sinh hạ một đứa con trai khôi ngô. Nuôi đến ba tuổi, đứa bé vẫn nằm một chỗ, chưa biết đi đứng, cười nói.

Gặp lúc giặc Ân quấy nhiễu, vua sai sứ giả đi rao khắp nơi tìm bậc hiền tài ra đánh giặc cứu dân. Nghe tin, cậu bé làng Gióng bỗng bật lên tiếng nói nhờ mẹ mời sứ giả vào. Cậu yêu cầu sứ giả xin vua đúc cho ngựa sắt, roi sắt áo giáp sắt để mình dẹp tan giặc dữ. Từ đó, cậu lớn nhanh, ăn mạnh đến nỗi dân làng phải rủ nhau góp cơm gạo đến giúp.

Nhận được đủ lễ vua ban, cậu bé vươn vai trở thành một tráng sĩ oai nghi lẫm liệt. Nai nịt xong, chàng lên ngựa, vung roi vun vút. Ngựa phun lửa xong thẳng vào đội hình giặc khiến chúng ngã chết như rạ.

Roi gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre bên đường. Quân giặc thua to, tan vỡ cả, đám sống sót tìm đường lẫn trốn. Tráng sĩ đuổi theo đến chân núi Sóc, cởi áo giáp bỏ lại, cả người lẫn ngựa bay vút lên trời.

Vua Hùng nhớ ơn phong làm Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Từ đó hàng năm vào tháng tư, ở đây hội Gióng được mở ra tưng bừng, nô nức, thu hút người khắp nơi về tham dự.

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 4

Từ thuở còn trong nôi, em đã được bà kể cho nghe nhiều câu chuyện lắm. Nhưng câu chuyện mà em nhớ nhất là truyện Thánh Gióng.

Truyện kể rằng: Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một làng kia có hai vợ chồng ông lão, chăm chỉ làm ăn lại có tiếng là phúc đức. Nhưng đến lúc sắp già mà vẫn chứa có nấy một mụn con. Một ngày kia bà vợ ra đồng trông thấy một bước chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà mang thai. Nhưng không ngờ, khác với người thường, đến mười hai tháng sau bà mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô. Cậu bé ra đời là niềm mơ ước cả đời của hai vợ chồng nên ông bà mừng lắm. Nhưng chẳng biết làm sao, dù đã ba tuổi nhưng cậu bé Gióng (tên cậu do ông bà đặt) vẫn chẳng biết nói, biết cười, cứ đặt đâu nằm đó. Ông bà buồn lắm.

Cũng năm ấy, giặc Ân sang xâm lược bờ cõi nước ta. Chúng gây bao nhiêu tội ác khiến dân chúng vô cùng khổ sở. Thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp nước cầu hiền tài. Đi đến đâu sứ giả cũng rao:

– Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước.

Nghe tiếng rao, cậu Gióng đang nằm trên giường bèn cất tiếng:

– Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.

(Ngày xưa khi để cho em nghe đến chỗ này, bao giờ bà cũng thêm vào: Tiếng nói đầu tiên của cậu Gióng là tiếng nói yêu nước đấy. Phải nhớ lấy cháu ạ!)

– Nghe tiếng con, vợ chồng lão nông dân thấy lạ đành mời sứ giả vào nhà. Cậu Gióng liền yêu cầu sứ giả về chuẩn bị ngay: roi sắt, ngựa sắt, áo giáp sắt để cậu đi phá giặc.

Càng lạ hơn, từ lúc cậu Gióng gặp sứ giả, cậu cứ lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cậu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Vợ chồng ông bà nọ đem hết gạo ra nuôi mà không đủ bèn nhờ hàng xóm cùng nuôi cậu Gióng. Trong làng ai cũng mong cậu đi giết giặc cứu nước nên chẳng nề hà gì.

Giặc đã đến sát chân núi Trâu. Người người hoảng sợ. Cũng may đúng lúc đó, sứ giả mang những thứ cậu Gióng đã đề nghị đến nơi. Cậu bèn vươn vai đứng dậy như một tráng sỹ, khoác vào áo giáp, cầm roi rồi nhảy lên ngựa phi thẳng tới trận tiền. Bằng sức mạnh như cả ngàn người cộng lại, chẳng mấy chốc cậu đã khiến lũ giặc kinh hồn bạt vía. Đang đánh nhau ác liệt thì roi sắt gãy, cậu bèn nhổ ngay từng bụi tre ở bên đường quật vào lũ giặc. Quân giặc bỏ chạy toán loạn nhưng rồi cũng bị tiêu diệt không sót một tên.

Dẹp giặc xong, cậu Gióng không quay về kinh để nhận công ban thưởng mà thúc ngựa đến núi Sóc, bỏ lại áo giáp sắt, một người một ngựa bay thẳng về trời. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu trụi một làng nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau.

Câu chuyện về người anh hùng Thánh Gióng đã không chỉ còn là niềm yêu thích của riêng em, mà nó đã là niềm say mê của bao thế hệ học trò.

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 5

 Đó là vào thời Vua Hùng thứ sáu. Đất nước thật thanh bình, mọi người đều hưởng ấm no hạnh phúc. Thế nhưng vợ chồng già chúng tôi chứ cui cút trong gian nhà tranh vắng tiếng trẻ con. Một hôm, tôi đi ra đồng thấy một dấu chân khác lạ. Phần thì tò mò, phần thì vừa thấy thần báo mộng trong đêm, tôi đặt chân ướm thử. Không ngờ về nhà thụ thai.

Chờ hết chín tháng mười ngày vẫn chưa sanh, ông nhà tôi lo quá. Nhưng đến tháng mười hai thì vợ chồng tôi đã có con. Chao ôi, một đứa bé mặt mũi khôi nhô như một tiên đồng. Chúng tôi mừng lắm. Nhưng chăm chút hoài mà thằng bé vẫn cứ như lúc lọt lòng. Đã ba năm tuổi mà nó không biết đi, không biết nói, biết cười.

Rồi một hôm loa sứ giả truyền tin giặc Ân đã đến xâm phạm bờ cõi, vua Hùng đang kén chọn người tài giỏi ra công giết giặc. Thằng bé nhà tôi bỗng níu tay áo, và nó cất tiếng: "Mẹ ơi, mẹ ra mời sứ giả vô đây cho con". Hai vợ chồng tôi bàng hoàng nhìn nhau, tôi vội chạy ra mời sứ giả vào nhà. Thằng bé mắt long lanh và nói sang sảng như phán truyền: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt, áo giáp sắt, ta sẽ phá tan giặc!". Sứ giả sửng sốt rồi kính cẩn chào chúng tôi ra về. Tôi và chồng tôi chạy lại ôm con mà mừng khôn xiết. Từ đó thằng bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã đứt chỉ. Bà con lối xóm biết chuyện họ rất phấn khởi ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho thằng bé rất chu đáo. Ai cũng hi vọng Gióng sớm ra giết giặc trừ họa cho mọi người.

Giặc đã đến chân núi Châu Sơn. Mọi người hoảng hốt nhìn Gióng như cầu cứu. Cũng may nhà vua đã cho đưa đến con ngựa sắt, áo giáp sắt và roi sắt. Thằng bé bỗng đứng dậy vươn vai một cái, nó to lớn và mạnh mẽ khác thường. Nó mặc giáp sắt, cầm roi sắt và leo lên ngựa sắt. Nó vỗ vào mông ngựa, ngựa hét vang phun một luồng bão lửa về phía trước. Trông thằng Gióng giờ đây oai phong lẫm liệt như tướng nhà Trời. Nó khẽ gật đầu chào mọi người rồi phi như bay ra nơi có giặc.

Nghe mấy người đi theo Gióng, cùng Gióng giết giặc kể lại thì nó đã cầm roi sắt tả xung hữu đột vào giặc chết như rạ. Đang xông xáo như vậy thì roi sắt va vào núi và bị gãy. Gióng nhà tôi mới nhổ bụi tre bên đường quật một đám tan quân còn lại. Nó truy đuổi giặc đến núi Minh Sóc và tại đây có cởi áo giáp sắt để ngay ngắn trên tảng đá rồi cùng ngựa sắt bay về Trời.

Mọi người đã lập đền thơ ngay trong làng. Và vua Hùng cũng phong cho tôi là Phù Đổng Thiên Vương.

Nghe nói ở Gia Bình có những bụi tre đằng ngà màu vàng óng. Chính ngựa Gióng đã phun lửa mà nó cháy sém như vậy đấy.

Và bà con có biết không? Những ao hồ chi chít ở địa phương ta là dấu chân của con ngựa sắt ghê gớm mà Gióng cưỡi đấy. Tôi cũng muốn lưu ý mọi người cái làng Cháy hiện nay sở dĩ có tên gọi như vậy là do ngựa Gióng phun lựa và đốt trụi cả một làng. Cũng may là bà con đã chạy giặc hết rồi không thì thật là thảm họa.

Vợ chồng ta rất tự hào vì đã có một đứa con dũng cảm giết giặc bảo vệ cuộc sống ấm no cho mọi người. Chúng tôi thật tự hào bởi mỗi lúc ra đường mọi người đều kính nể và nói: "Hai người ấy là cha mẹ của Phù Đổng Thiên Vương đó". Đó bà con hãy chờ coi, thằng Gióng nhà tôi trước lúc bay về trời có nhắm rằng khi nào cha mẹ già yếu nó sẽ trở lại chăm sóc chúng tôi. Chúng tôi đang chờ và cái ngày ấy rồi sẽ đến thôi phải không bà con?

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 6

Trong chương trình Văn học lớp 6, em đã được học rất nhiều chuyên cổ. tích và truyền thuyết hay. Nhưng em thích nhất là truyện truyền thuyết Thánh Gióng. Câu chuyện đã kể về một người anh hùng đánh giặc giữ nước.

Đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão nghèo. Họ rất chăm chỉ làm ăn nhưng lại hiếm con. Tuổi đã cao mà vẫn chưa có được một mụn con. Một hôm, bà vợ đi ra đồng, nhìn thấy một vết chân to, bà bèn đặt chân mình vào ướm thử. Nào ngờ, về nhà bà thụ thai. Đến tháng thứ mười hai, bà sinh được một cậu bé mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Hai vợ chồng vui mừng, đặt tên đứa bé là Gióng. Nhưng niềm vui của ông bà trở thành nỗi lo khi thấy Gióng lên ba tuổi mà vẫn chưa biết nói, biết cười, đặt đâu nằm đó.

Bấy giờ có giặc n đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Vua vô cùng lo lắng, cho sứ giả đi khắp nơi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Vừa nghe thấy tiếng sứ giả loa truyền, chú bé Gióng bỗng cất tiếng nói đòi mẹ cho gọi sứ giả vào gặp. Mẹ Gióng thấy con mình cất tiếng nói thì vô cùng mừng rỡ, chạy đi mời sứ giả. Khi gặp sứ giả, Gióng bèn bảo sứ giả về tâu vua, làm cho một áo giáp sắt, một con ngựa sắt và một cái roi sắt. Nhà vua mừng rỡ, truyền cho thợ làm gấp ngày đêm.

Kỳ lạ hơn, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé Gióng lớn nhanh như thổi. Ăn bao nhiêu cũng không thấy no. Cả làng cùng góp gạo nuôi Gióng. Ai cũng mong chú bé lớn nhanh, khỏe mạnh để giúp vua đánh gặp cứu nước. Giặc đã đến chân núi Trâu, thế nước rất nguy, ai cũng hoảng sợ, hoảng hốt. Đúng lúc đó, sứ giả đem những thứ Gióng yêu cầu đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai trở thành tráng sĩ, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội, phun lửa, lao thẳng vào đám giặc. Quân giặc hoảng sợ. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, dẹp tan quân giặc đến đó. Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre làm vũ khí. Lũ giặc giẫm đạp lên nhau mà chạy. Tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc. Đến đây, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp, cả người và ngựa bay về trời.

Vua nhớ công ơn, phong Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.

Câu chuyện Thánh Gióng để lại cho em một ấn tượng sâu sắc. Nó nói lên truyền thống oai hùng đoàn kết chống giặc cứu nước của ông cha ta và thể hiện ước mơ của nhân dân: muốn có đủ sức mạnh vật chất và tinh thần để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 7

Đời vua Hùng Vương thứ Sáu, giặc ngoại xâm ở phía bắc chỉ muốn sang chiếm nước Nam ta. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, tỉnh Bắc Ninh ngày nay, có một người đàn bà đã sáu mươi tuổi. Một hôm bà ra đồng ruộng thấy có một vết chân rất to lớn, bà đặt chân vào thì khi về nhà bà có thai. Bà sinh được một con trai và đặt tên Gióng. Điều kì lạ là không giống như bao đứa trẻ khác “ ba tháng biết nẫy, bảy tháng biết bò”, Gióng nay đã ba tuổi rồi mà không biết nói biết cười, không biết đi, biết nẫy. Rồi bỗng chợt, một ngày nọ ngoài ngõ vang lên tiếng sứ giả rao mõ báo tin nước có ngoại xâm và nhà vua đang cầu hiền tài ra giúp nước. Chợt cậu bé Gióng bật ra tiếng nói, thưa với mẹ :

- Mẹ ơi, con muốn gặp sứ giả.

Qúa đỗi bất ngờ, nhưng thấy con có nói cười gọi mẹ, bà vui lắm vội chạy ra gọi sứ giả tới. Gặp mặt sứ giả, cậu Gióng ngồi dậy truyền bảo: 

Ngươi hãy về tâu với đức vua đúc cho một con ngựa sắt, một cây kiếm sắt, một roi sắt và một chiếc nón sắt để Gióng ta đi dẹp giặc. 

Nhận tin sứ giả tâu lên, vua tức tốc truyền cho làm vật dụng mà Gióng yêu cầu. Rồi sứ giả chuyển đến cho Gióng.

Lại nói chuyện cậu bé Gióng. Từ sau ngày gặp sứ giả, Gióng bảo mẹ và dân làng cứ lo cơm, cà cho Gióng ăn no sẽ lớn lên và đánh được giặc. Bà mẹ cùng dân làng cuống cuồng chạy ngược xuôi lo cơm cà phục vụ cậu Gióng. Khi ăn đến mười nong cơm, ba nong cà, mỗi lần ăn xong một nong lại vươn vai và vụt lớn lên như thổi. Vải vóc do dân làng mang đến rất nhiều để may quần áo mà vẫn không đủ. Dân làng đành phải lấy hoa lau buộc thêm vào để che kín thân. Sau một bữa ăn, Gióng vươn vai đứng dậy, thân cao mười thước, hắt hơi mười tiếng rồi nhảy lên ngựa sắt. Ngựa bị bẹp rúm. Sứ giả sợ hãi cho về đúc lại thành ngựa mới, có đủ nội tạng như ngựa thật, chịu được sức nặng của Gióng. Khi mang ngựa sắt đến nơi cũng là lúc có tin cấp báo giặc Ân đang hoành hành cướp bóc ở Trâu Sơn (!). Thánh Gióng liền đội nón sắt, cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa và thét lớn: Ta là Thiên Tướng đây! Rồi giật cương, ngựa chồm lên, hí dài một tiếng và phi như gió, miệng phun lửa bừng bừng, làm cháy xém cây cối, nhà cửa mấy làng bên (tức các làng Phù Chấn, Phù Lưu và Phù Tảo được mang tên là làng Cháy hiện nay).

Gióng phi ngựa đến chỗ vua đang đóng quân nhận lệnh rồi hướng phía giặc Ân làm tướng tiên phong, quân sĩ ào ào theo sau. Thấy vậy, dân làng trên đường đội quân Gióng đi qua cũng chạy theo, từ trẻ chăn trâu, người đánh cá đến người đập đất, người chài lưới ven sông,… Hai tướng Dực và Minh của đất Hà Lỗ cũng đưa quân theo Gióng. Xung giữa trận tiền, giặc Ân bị đánh tơi bời, đứa thì bị giết, đứa sụp lạy quy hàng. Đang hăng chiến đấu, roi sắt của Gióng bị gãy, chàng liền quờ tay nhổ những khóm tre làng đầy gai mọc gần đấy quật vào quân giặc. Giặc chết như ngả rạ. Hàng loạt dãy tre làng được Gióng dùng vào đánh giặc. Chỗ rặng tre bị nhổ gần núi Trâu Sơn sau biến thành một dải đầm lớn gọi là đầm Thất Gian. Và những mảnh tre bị gãy ném rải rác khắp chiến trường, từ vùng Quế Dương cho đến Đông Ngàn sau này mọc thành loại tre đặc biệt có màu vàng óng ánh nên gọi là tre đằng ngà.

Đánh xong trận ở Trâu Sơn và Hà Lỗ, Gióng cho ngựa phi đến bến Bồ Đề và dừng lại uống nước sông Hồng. Vết chân của ngựa còn để lại hình lồi lõm ở một phiến đá lớn tại làng Phú Viên. Tiếp đó, Gióng lại phi ngựa vượt sông, đi ngược lên hồ Tây, rồi buộc ngựa vào gốc đa bên bờ, nhảy xuống hồ tắm. Nơi này về sau được dân làng Xuân Tảo lập đền thờ cúng. Ăn cơm nắm xong, ngựa đưa Gióng dạo khắp vùng Đông Anh, Kim Anh, Hiệp Hòa. Mỗi nơi ngựa Gióng đi qua đã để lại những cụm ao chuôm mang hình vết chân ngựa. Khi qua Phù Lỗ, đến chân núi Phù Mã, Thánh Gióng bèn cởi áo giáp sắt mắc vào cành đa, thúc ngựa lên đỉnh núi Sóc, để lại nón sắt, roi sắt, nhìn non sông đồng ruộng quanh vùng và hướng về Kẻ Đổng lần cuối, rồi một mình một ngựa bay thẳng lên trời. Hôm đó là ngày mồng chín tháng tư lịch trăng.

Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Ðổng, tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là Làng Cháy.

Sau khi thắng trận, để nhớ ơn người anh hùng, vua Hùng sai lập đền thờ Gióng ở làng quê, phong Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương, phong mẹ Gióng là Thánh Mẫu Bảo Vương, cho làng có xóm Ban nơi Gióng sinh ra được đặt tên là làng Phù Đổng.

Từ đấy trở đi, người dân quê Phù Đổng của Gióng năm nào cũng mở hội vào ngày Gióng bay về trời, để nhớ lại chiến trận năm xưa và tưởng nhớ công ơn của vị Thánh làng mình. Trong khi đó, người dân hàng trăm làng quanh vùng núi Sóc lại mở hội để tưởng nhớ ngày Gióng sinh ra, cùng nhau nhớ về người anh hùng đã có công giúp dân đánh giặc ngoại xâm, cứu nước.

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 8

Từ thuở còn thơ bé, ta đã được nghe bao câu chuyện kể của bà, của mẹ về lịch sử hào hùng, về những truyền thuyết ly kỳ. Và có lẽ ai khi ấy cũng mang trong mình niềm tự hào và ngưỡng mộ những vị anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Thánh Gióng là một vị anh hùng oai phong như thế. Truyền thuyết Thánh Gióng là truyền thuyết vô cùng hấp dẫn kể về người anh hùng này. 

Truyền thuyết kể lại rằng: Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một ngôi làng nọ bên sông Hồng, có hai vợ chồng nông dân, vừa chăm chỉ làm ăn lại có tiếng phúc đức nhưng đến lúc sắp về già mà vẫn chứa có nấy một mụn con. Một ngày kia, bà vợ ra đồng như thường ngày,  trông thấy một vết chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà liền mang thai, hai vợ chồng vô cùng vui mừng. Nhưng không giống những người khác, chín tháng mười ngày qua đi, bà mang thai mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ nữa là Gióng lên ba tuổi vẫn chẳng biết nói, chẳng biết cười, đặt đâu năm đó, hai vợ chồng vừa buồn vừa lo lắng. 

Cũng năm ấy, giặc Ân đem quân sang xâm lược bờ cõi nước ta, gây nên bao nhiêu tội ác, dân chúng vô cùng lầm than, khổ sở. Xét thấy thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp cả nước tìm người hiền tài cứu nước. Sứ giả đi đến mọi nơi, đi qua cả làng của Gióng. Nghe tiếng rao “Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước”, Gióng đang nằm trên giường bỗng cất tiếng nói đầu tiên:

- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.

Thấy vậy, bà mẹ rất bất ngờ vui mừng, vội đi ra mời sứ giả vào nhà. Gióng yêu cầu sứ giả về tâu với vua, chuẩn bị đầy đủ ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để cậu đi đánh giặc. 

Kỳ lạ hơn, sau khi sứ giả trở về, Gióng ăn rất khỏe và lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Mẹ cậu nuôi không đủ đành nhờ đến hàng xóm láng giềng. Bà con biết chuyện nên cũng rất phấn khởi, ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho cậu rất chu đáo. Ai cũng hy vọng Gióng sớm ngày ra giết giặc giúp nước, trừ họa cho dân. 

Ngày ấy, giặc vừa đến sát chân núi Trâu thì sứ giả cũng kịp mang vũ khí tới. Gióng bèn vươn vai đứng dậy, lập tức trở thành một tráng sỹ, khoác áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng rồi nhảy lên ngựa. Cả người cả ngựa lao vun vút ra trận. 

Trên chiến trường, Gióng tung hoành ngang dọc, tả đột hữu xung, giặc chết dưới tay như ngả rạ. Bỗng gậy sắt gãy, Gióng nhanh như chớp nhổ tre bên đường làm vũ khí mới. Giặc sợ hãi chạy trốn, dẫm đạp lên nhau mà chết. Khi trời đất đã sạch bóng giặc, Gióng phi ngựa bay về núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt, vái tạ mẹ rồi bay về trời. 

Vua phong hiệu cho cậu là Thánh Gióng, nhân dân lập đền thờ phụng, ghi nhớ công ơn. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa sắt thét ra lửa, lửa đã thiêu trụi một làng. Đến nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau, là di tích minh chứng cho chiến công oanh liệt của Thánh Gióng.

Nhiều thời đại qua đi, truyền thuyết người anh hùng Thánh Gióng vẫn được lưu giữ và truyền tụng mãi trong dân gian, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Thánh Gióng chính là biểu tượng cho ước mơ, sức mạnh bảo vệ đất nước của nhân dân ta. 

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 9

   Ngày xửa ngày xưa, vào thời vua Hùng Vương thứ mười sáu, có một đôi vợ chồng tuy đã già nhưng vẫn chẳng có lấy một mụn con. Hai ông bà lão nổi tiếng là người hiền lành, đôn hậu ở làng Gióng nhưng không hiểu sao lại chịu sự không may mắn như vậy. Cho đến một ngày, khi bà lão đi ra đồng thì chợt thấy một dấu chân to khổng lồ. Lấy làm ngạc nhiên, bà lão đưa chân mình vào ướm thử để đo xem dấu vết chân đó to đến cỡ nào. Thời gian thấm thoát trôi đi, bà lão chẳng còn nhớ đến vết chân ngày xưa nữa thì bỗng một ngày bà có thai. Hai vợ chồng bà lão mừng lắm, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Ấy thế mà đứa trẻ đó từ khi sinh ra lại chẳng biết nói, cũng không biết cười, không biết đi, chỉ đặt đâu thì nó nằm đấy. Hai ông bà từ mừng rỡ khi sinh được con đến lo lắng, buồn bã không hiểu sao lại như vậy.

   Lúc bấy giờ, giặc Ân tràn sang xâm lược nước ta. Chúng khiến cho đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, tình cảnh đất nước lúc này đang ở thế "nghìn cân treo sợi tóc". Nhà vua sai sử giả đi rao tin khắp nơi, nhằm tìm người tài đứng lên cứu giúp đất nước. Sứ giả đi rao tin cuối cùng cũng đến làng Gióng. Nghe tiếng sứ giả, cậu bé bỗng nhiên cất tiếng gọi mẹ: "Mẹ ơi, mẹ hãy mời sứ giả vào đây cho con". Thấy đứa con mình suốt bao nhiêu ngày tháng không nói, không cười bỗng dưng hôm nay lại cất tiếng gọi mẹ, hai ông bà lão mừng lắm, liền mời sứ giả vào ngay. 

    Khi sứ giả vào nhà, cậu bé đã ngay lập tức yêu cầu sứ giả hãy về chuẩn bị đủ những vũ khí để đi đánh giặc: Ngựa sắt, áo sắt và tấm giáp sắt để phá tan lũ giặc xâm lược. Sứ giả mừng rỡ vội về tâu lên cho nhà vua chuẩn bị. Nhà vua cũng đồng ý theo lời của cậu bé.Càng lạ lùng thay, Thánh Gióng từ khi gặp được sứ giả của nhà vua thì lớn nhanh như thổi, cơm cha mẹ thổi bao nhiêu cậu ăn cũng không đủ no, quần áo chẳng mấy chốc đều chật hết cả. Cậu bé chẳng mấy chốc hóa thành một chàng trai cao lớn, khỏe mạnh, khí thế ngút trời.

   Chẳng bao lâu, nhà mua sai người đem đến đủ cả những thứ mà Gióng yêu cầu. Thánh Gióng lên đường đánh giặc ngay. Cậu đi đến đâu đánh bại quân giặc đến đấy. Khi kiếm gãy, Gióng liền nhổ một bụi cỏ bên đường, quật ngã bọn giặc ngoại xâm. Một hồi, ngựa của Thánh Gióng đã đến chân núi Sóc Sơn, Thánh Gióng liền cởi bộ giáp sắt đang mặc trên người ra mà bay thẳng lên trời. 

   Để nhớ đến công lao của Thánh Gióng, nhà vua đã cho người lập đền thờ của vị tướng này tại quê nhà của ông là làng Gióng. Cho đến nay, vẫn còn rất nhiều dấu tích năm xưa còn lưu lại và cứ tháng 4 hằng năm, người ta vẫn thường đến đền thờ Phù Đổng Thiên Vương để tưởng nhớ ông.

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 10

Chuyện tương truyền rằng: Đời Hùng Vương thứ 6, làng nghèo kia có cặp vợ chồng, tuy lớn tuổi nhưng vẫn chưa có được một mụn con nào cả. Cả 2 vợ chồng buồn bã và ngày đêm cầu trời thương tình hóa duyên để có thể sinh được một người con. Thế rồi một ngày kia, trong lúc đi làm người vợ thấy một dấu chân rất to. Vì tò mò nên người vợ ướm thử, không biết là trời động lòng thương hay sao mà sau đó về nhà người vợ đã có mang. Chưa kịp vui mừng thì tai họa lại ập đến, sau chín tháng mười ngày người vợ chưa sinh kịp sinh con thì người chồng đã qua đời. Mười hai tháng sau người vợ sinh ra một người con kháu khỉnh khôi ngô và đặt tên là Gióng. Lạ thay đứa nhỏ lên 3 vẫn chưa biết đi, biết nói, biết cười, đặt đâu thì cứ nằm đó. Người vợ buồn bã khôn siết nhưng không biết làm thế nào.

Lúc bấy giờ, giặc Ân  xâm phạm bờ cõi nước ta. Nhà vua lo lắng và cho truyền quân lệnh để cầu người tài ra giúp nước dẹp giặc. Sứ giả đi khắp nơi, đến đâu họ cũng la to:

§  Loa loa loa loa! Giặc Ân cướp nước, người tài ở đâu, cứu nước dẹp giặc

Nghe sứ giả rao ngang nhà, Gióng vội bật dậy gọi mẹ:

§  Mẹ ơi! Mẹ mời sứ giả vào đây giúp con

Nghe tiếng con, mẹ Gióng hết sức vui mừng, nhưng vội khựng lại khi nghe con muốn gặp sứ giả. Sứ giả vào đến nơi chỉ thấy đứa bé ba tuổi nằm trên giường, họ không khỏi ngạc nhiên và thất vọng. Thế nhưng Gióng giõng dạc nói rõ:

§  Sứ giả hãy về tâu với nhà vua, đúc cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một cây roi sắt ta sẽ phá tan lũ giặc này.

Từ ngày gặp sứ giả, Gióng khác lạ khi lớn nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng không no. Dân làng chung sức với nhau góp gạo nuôi Gióng, chỉ mong Gióng lên đường lập công, cứu dân, cứu nước. Ngày giặc tràn bờ cõi cũng đến, Gióng dứng dậy vươn mình nhảy lên ngựa sắt, nhổ bụi tre làng làm vũ khí và đánh cho giặc tan tác. Sau khi giết sạch giặc, Gióng cưỡi ngựa bay thẳng về trời. Để ghi nhớ công ơn to lớn giúp diệt giặc cứu nước, người đời đã lập đền thờ và phong cho ông là Phù Đổng Thiên Vương.

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 11

Vào đời vua Hưng năm thứ 6, tại làng Gióng 2 vợ chồng chăm chỉ làm ăn và phúc đức, nhưng họ lại không có con. Một hôm nọ bà đi ra đồng thấy có dấu chân to trên cánh đống, thấy lạ bèn ướm thử chân mình vào, về sau bà mang bầu. 12 tháng sau sinh ra một cậu bé sáng sủa thông minh đặt tên là Gióng.

Thánh Gióng kỳ lạ cậu bé đã đến 3 tuổi vẫn không biết nói, chỉ nằm im, một chữ cũng không thốt ra làm mẹ của Gióng lo lắng và sốt ruột lắm.

Thời thế nước nhà bị giật Ân xâm lược, nhà vừa  sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng loa của sứ giả, bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc Ân”. Sứ giả lấy làm kinh ngạc và vui mừng, vội về tâu với vua. Nhà vua chấp nhận và sai lính làm những vật dụng mà cậu bé yêu cầu trong thời gian ngắn nhất.

Từ ngày biết nói, Gióng lớn nhanh, ăn bao nhiêu cũng không đủ, quần áo mặc vào lại rách. Dân làng cùng với nhau góp cơm góp gạo nuôi Gióng. Chỉ thời gian ngắn một cậu bé trở thành chàng trai khỏe mạnh vạm vỡ cường tráng, sức mạnh làm liệt.

Khi sứ giả hoàn thành xong yêu cầu như giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt vun vút lao vào quân giặc. Giặc dữ chống lại quyết liệt lao về phía Gióng. Gióng cưỡi ngựa sắt uy mãnh lao vun vút, ngựa đi đến đâu phun lửa giết giặc đến đó, xác quân cháy thành tro bụi.

Trận chiến đang quyết liệt bỗng roi sắt bị gãy, Gióng bèn nhổ luôn bụi tre đằng ngà gần đó quật vào quân giặc, quân giặc tan tác, tháo chạy không kịp. Tráng sĩ đuổi quân giặc đến chân núi Sóc dừng lại, lên núi và cởi áo giáp sắt để lại ngựa sắt và tráng sĩ bay lên trời.

Hòa bình đã trở lại, đất nước đã thoát khỏi kiếp nạn xâm lăng, công lao của người anh hùng Thánh Gióng  vẫn còn mãi. Để tưởng nhớ công lao to lớn đó, dân làng lập đền thờ Gióng, hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, làng Gióng. Hàng năm, đến tháng tư làng mở hội tưng bừng để tưởng nhớ người anh hùng dân tộc Thánh Gióng.

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 12

Ở một làng nọ có một người phụ nữ đã luống tuổi mà chưa có chồng. Một hôm bà đi ra đồng thấy có dấu chân to và lạ bất thường. Bà thấy lạ bèn ướm thử chân mình vào dấu chân lạ đó. Thật kì lạ sau khi trở về nhà, bà mang bầu. 9 tháng mười ngày sau sinh ra một cậu bé kháu khỉnh mặt mũi thông minh đặt tên là Gióng.

Nhưng có một điều khác thường đó là Thánh Gióng 3 tuổi vẫn không biết nói. Trong khi những đứa trẻ khác đã nói sõi, chạy nhảy khỏe mạnh thì Gióng vẫn chỉ nằm im một chỗ, một chữ cũng không thốt ra làm mẹ của Gióng lo lắng sốt ruột không nguôi về sự kì lại của đứa con của mình.

Ngày ấy, giặc Ân tràn vào nước ta mang lại bao đau khổ cho nhân dân. Chúng điên cuồng trà đạp đay nghiến cướp của giết người đem đến bao chết chóc tang thương cho người dân. Nhà vua lo lắng cho đất nước nên ra lệnh đi tìm người tài giúp nước mong đuổi được giặc dữ ra khổi đất nước trả lại bình yên cho nhân dân trong nước: “Sáu đời Hùng vận vừa suy, Vũ Ninh có giặc mới đi cầu tài”

Sứ giả đi khắp nơi không tìm được người, đến làng của Gióng, khi cậu bé ba tuổi vừa nghe tiếng sứ giả gọi loa đã bật dậy gọi mẹ mời sứ giả vào. Câu nói đầu tiên Gióng cất lên không phải tiếng gọi cha, gọi mẹ như bình thường mà đó lại là tiếng xin đánh giặc, chí khí ngút trời của một đứa trẻ kì lạ.

Người mẹ ngạc nhiên đến bất ngờ nhưng vẫn chiều lòng con đi gọi sứ giả vào. Sứ giả bước vào, Gióng xin được ra trận đánh giặc, xin nhà vua cấp cho một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một cây roi sắt….Sứ giả thấy chuyện kì lạ mà có người tài giúp nước vui mừng khôn xiết về báo với nhà vua. Nhà vua ngay lập tức sai người gom sắt, mời những thợ rèn giỏi nhất trong nước để có thể làm những đồ Gióng yêu cầu.

Lại nói về Gióng, từ ngày biết nói, bao nhiêu chuyện đã diễn ra khác thường. Gióng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không đủ, quần áo mặc vào lại rách. Dân làng phải cùng nhau góp cơm góp gạo nuôi Gióng. Chỉ trong thoáng chốc, một cậu bé ngày nào đã trở thành một chàng trai khỏe mạnh vạm vỡ cường tráng hơn người.

Khi sứ giả mang những thứ Thánh Gióng cần đến, Gióng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt vun vút lao vào quân giặc. Giặc dữ chống lại quyết liệt lao về phía Gióng. Gióng cưỡi ngựa sắt uy mãnh lao vun vút, ngựa đi đến đâu phun lửa giết giặc đến đó, xác quân giặc cháy thành tro bụi. Gióng đi đến đâu vung roi sắt giết giặc đến đó, xác giặc ngổn ngang khắp nơi. Đang chiến đấu với giặc thì roi sắt bị gãy, Gióng nhổ luôn bụi tre đằng ngà gần đó quật túi bụi vào quân giặc, quân giặc tan tác, tháo chạy không kịp.

Cuối cùng Gióng đã thắng được quân giặc, giặc Ân khiếp vía mà tháo chạy khỏi đất nước không dám quay đầu lại. Nhân dân hân hoan tung hô chiến công của Gióng. Từ nay về sau, bình yên sẽ quay trở lại với nhân dân nơi này, không còn bóng dáng quân thù khiếp vía nữa.

Dấu vết của cuộc chiến đấu giữa Gióng và giặc Ân vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày hôm nay. Những vết chân ngựa sắt của Gióng dẫm đến đâu tạo thành những hồ lớn, bụi tre bị ngựa sắt phun lửa cháy trở thành những bụi trẻ ngả màu người ta gọi là tre đằng ngà.

Người dân nơi làng của Gióng sinh sống trồng được một giống cà ăn rất giòn và ngon. Quay trở lại với Gióng, cậu sbé làng Phù Đổng ngày nào đã thắng trận. Sau khi giặc Ân tan, Gióng quất roi cho ngựa quay đầu lại, hướng về phía làng vái chào mẹ một lạy rồi bay thẳng lên trời.

Người dân vẫn ca bài ca về chiến công anh dũng của cậu bé làng Phù Đổng:

Tinh anh dấu được khí kiền khôn, Thiên tướng vang lừng tám cõi đồn. Nghe tiếng Hùng vương bẻn nảy việc, Mảng danh, nghịch tặc đã kinh hồn.

Vua Hùng biết ơn đã phong cho Gióng là Phù Đổng Thiên Vương, dân gian vẫn thường gọi là Thánh Gióng. Người dân trong nước nhớ ơn Thánh Gióng thờ phụng như một con người có ơn với đất nước, đời đời hương khói ghi công. Ở nơi Thánh Gióng sinh ra là Làng Phù Đổng đến nay vẫn còn lưu giữ được nhiều dấu tích, các di tích lịch sử về chiến công hiển hách của vị anh hùng dân tộc.Thánh Gióng là tượng trưng cho sức mạnh Việt Nam đối chọi với lũ giặc hung bạo.

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 13

Ta là một phụ nữ sống ở vùng quê Gióng, vào thời vua Hùng Vương thứ sáu. Đất nước khi đó rất thanh bình. Nhà vua anh minh, thương dân nên nhà nhà đều được hưởng ấm no, hạnh phúc. Vợ chồng ta sống trong một ngôi nhà nhỏ, chăm chỉ làm ăn, vui vầy với xóm làng, chẳng bao giờ phải lo đến cái đói. Nhưng cả hai luôn cảm thấy phiền lòng vì gian nhà vắng tiếng trẻ thơ. Hai vợ chồng cứ côi cút mãi trong nỗi mòn mỏi mong ngóng một đứa con cho khuây khoả tuổi già.

Một ngày nọ, ta đi ra đồng làm ruộng nhừ bao ngày khác. Bỗng ta nhìn thấy trên đường đi một dấu chân to kì lạ. Ta chưa bao giờ thấy một dấu chân nào to như thế và băn khoăn không hiểu đó là dấu chân của loài nào. Ta quay xung quanh tìm kiếm xem có ai không nhưng trời còn sớm, đường làng vắng hoe. Nỗi tò mò thôi thúc ta đặt chân ướm thử. Thật không ngờ sau đó, ta về nhà và thụ thai.

Hai vợ chồng mừng rỡ khôn xiết, ngày đêm trông ngóng đến ngày sinh nở. Nhưng hết chín tháng mười ngày rồi mà ta vẫn không lâm bồn. Cái thai vẫn nằm yên trong bụng. Chúng ta lo lắng quá mà không biết phải làm sao. Nhưng rồi đến tháng thứ mười hai thì vợ chồng đã được đón chào một cậu bé con. Chao ôi! Đứa bé mới đáng yêu làm sao: bụ bẫm, kháu khỉnh, khôi ngô như một tiên đổng nhỏ. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết, bà con trong làng cũng chia vui với niềm hạnh phúc.

Tuy nhiên, niềm vui nhanh chóng qua đi khi chúng ta chăm chút, nâng niu mãi mà thằng bé vẫn cứ như lúc lọt lòng. Không nản lòng, hai vợ chồng vẫn cố gắng chăm lo cho nó. Ngày tháng vẫn trôi qua trong vô vọng… Đã lên ba mà thằng bé vẫn không biết đi, không biết nói, biết cười, cứ đặt đâu nằm đấy. Không biết bao đêm ta nằm khóc thầm, phần vì thương con, phần vì tủi phận.

Rồi một hôm loa sứ giả truyền tin giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi, vua Hùng muốn chiêu mộ người tài giỏi để giết giặc bảo vệ đất nước. Đang lo lắng vì thông tin giặc giã, chúng ta vô cùng sửng sốt khi nghe thấy tiếng con:

“Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Ta không tin nổi vào mắt và vào tai mình. Con ta đang nói đấy ư? Vẫn còn bàng hoàng, ta vội vàng chạy ra mời sứ giả, trong lòng vẫn không khỏi băn khoăn, lo lắng. Khi sứ giả vào nhà, đứa con vốn hằng ngày chẳng nói chẳng cười bỗng dưng cất tiếng dõng dạc: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả tỏ ra vô cùng kinh ngạc nhưng cũng không giấu được sự mừng rỡ, vội vã chào chúng ta rồi ra về. Hai vợ chồng mừng vui khôn xiết ôm chầm lấy con.

Kì lạ thay, từ sau hôm đó, thằng bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã đứt chỉ. Hai vợ chồng vô cùng vui mừng, cật lực làm lụng để nuôi con nhưng làm ra bao nhiêu cũng không đủ, đành phải chạy nhờ bà con, lối xóm. Bà con biết chuyện đều hết lòng giúp đỡ, góp gạo nấu cơm, đội cà, dệt vải may áo, mong cho thằng bé mau lớn để giết giặc giúp dân.

Giặc đã đến chân núi Trâu. Mọi người hết sức lo lắng. Vừa lúc đó, sứ giả của nhà vua mang ngựa sắt, áo giáp sắt và roi sắt tới. Cậu bé trông thấy liền vùng dậy, vươn vai một cái, bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Cả dân làng đều hết sức kinh ngạc. Kì lạ hơn khi nó đến vỗ vào mông con ngựa thì ngựa sắt cũng hí lên vang dội khắp cả vùng. Nó mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt rồi nhảy lên lưng ngựa. Dân làng hò reo vang dội. Con ngựa hí vang, phun lửa đỏ rực, chói cả một góc trời. Con trai ta thúc ngựa, phi thẳng đến nơi có giặc. Nó đi đến đâu, quân giặc chết như ngả rạ đến đấy, hết lớp này đến lớp khác. Đang thế thắng như chẻ tre, bỗng roi sắt gãy, con ta bèn nhổ các bụi tre bên đường quật vào lũ giặc. Quân giặc tan tác. Những tên còn sống sót chạy tán loạn. Con ta đuổi theo chúng đến tận chân núi Sóc. Rồi tại đây, nó cởi áo giáp sắt, để ngay ngắn trên một tảng đá, quay lại nhìn quê nhà như gửi lời chào tạm biệt rồi cùng ngựa sắt bay về trời.

Vợ chồng ta cùng bà con lối xóm vừa mừng vì giặc tan, vừa buồn vì phải xa con. Nhưng biết sao được, con ta là người nhà trời, được Ngọc Hoàng phái xuống để dẹp giặc yên dân, xong việc rồi phải về trời thôi.

Vua Hùng đã sắc phong cho con trai ta là Phù Đổng Thiên Vương. Dân làng cũng lập đền thờ ngay trong làng để tưởng nhớ người anh hùng cứu dân. Tháng tư hằng năm dân làng đều mở hội rất to để ghi nhớ công ơn của con trai ta và để nhắc nhở cho con cháu đời sau nhớ về Phù Đổng Thiên Vương.

Thời gian thấm thoắt như thoi đưa. Thằng bé đã về tròi được lâu lắm rồi. Vợ chồng ta ngày đêm mong nhớ con, nhưng vô cùng tự hào khi nghĩ rằng con mình đang đi khắp mọi nơi thực hiện nhiệm vụ bảo vệ bình yên cho bà con, cho mọi nhà.

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 14

Hằng năm, cứ đến những ngày đầu tháng giêng với khí trời trong trẻo và tưng bừng của ngày tết chưa qua thì ở làng Gióng, Sóc Sơn, Gia Lâm, Hà Nội lại tổ chức hội Gióng để tưởng nhớ vị anh hùng đã có công dẹp giặc Ân, giữ yên bờ cõi và hơn hết là truyền lại cho đời sau tinh thần đấu tranh nhân dân lấy tre làm vũ khí. Hình tượng Thánh Gióng đã trở thành một trong tứ bất tử có sức ảnh hưởng đến văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Câu chuyện về sự ra đời, lớn lên của Thánh Gióng cũng là một câu chuyện thần kì.

Từ rất xưa, khi đất nước ta có tên gọi là Văn Lang và dưới thời cai trị của các vua Hùng. Vào đời vua Hùng thứ 6, vua thuận lòng dân, hợp ý trời nên mưa thuận gió hòa, quanh năm người dân cày cấy, đánh bắt được mùa nên cuộc sống của người dân khắp đất nước tạm yên ổn.

ở một ngôi làng nọ, có hai vợ chồng ông lão ăn ở phúc đức nhưng chẳng may đã ngoài lục tuần mà vẫn chưa có lấy một mụn con. Ông bà ngày đêm cầu trời khẩn phật, đi hết chùa này đến miếu nọ vẫn chưa thấy gì thay đổi. Một hôm, như mọi khi, bà ra đồng cấy lúa, lúc ra về bà thấy một bàn chân rất to và kì lạ in hằn trên đất. Lấy làm lạ, bà ướm thử chân mình vào, về nhà bà đã thụ thai. Khi bụng ngày một to và cũng sắp đến ngày khai hoa nở nhị, ông bà càng trông đợi đứa con thì đứa trẻ vẫn chưa chịu ra đời. Nỗi lo lắng cộng tuổi già khiến ông lão bệnh rồi qua đời. Bà mang thai đúng 12 tháng mới hạ sinh một cậu trai kháu khỉnh. Cậu bé ra đời đã mang trên người một ánh hào quang khác thường. Thời gian trôi qua, cậu bé 3 tuổi mà vẫn không nói, không cười, thậm chí cũng chẳng biết bò, biết đi như những đứa trẻ cùng trang lứa. Hàng xóm láng giềng kẻ bàn tán, người thương hại khiến bà mẹ càng đau lòng. Bà mang cậu bé đến những nhà lang y nổi tiếng mà vẫn không thể chữa khỏi vì cậu bé vốn chẳng bệnh tật gì.

Năm ấy, giặc Ân sang xâm phạm bờ coi nước ta. Chúng đến cướp bóc, phá các thôn làng, bắt giết trâu bò ăn thịt, lấy gạo của nông dân. Cuộc sống của nhân dân bỗng trở nên cơ cực, lòng dân oán hận mà không thể đánh đuổi được kẻ thù. Triều đình cho quân lính ra trận nhưng thế giặc mạnh quân ta không thể nào đấu lại. Vua vô cùng nao núng,bèn cho sứ giá đi khắp nơi trên đất nước tìm nhân tài, sứ giả đi tới đâu loa truyền vang khắp xóm:

·         Loa loa, nay đất nước đang lâm nguy, nhà vua trọng nhân tài, ai có tài năng thì lên kinh phò tá.

Cậu bé đang nằm lăn lóc trong nhà nghe tiếng sứ giả bỗng nhiên thốt lên:

·         Mẹ ơi! Mẹ mời sứ giả vào đây cho con!

Bà mẹ chưa hết vui mừng vì con mình đã nói được lại hoảng hốt khi con đòi gắp sứ giả, người mẹ can:

·         Con còn bé thế này, sứ giả đang tìm người tài, con gặp ông ấy làm gì.

·         Thưa mẹ, con muốn giúp đất nước, xin mẹ hãy mời ông ấy vào đây?

Người mẹ phần lo sợ, phần thương con van nài nên bạo dạn ra mời sứ giả vào. Lúc này, sứ giả gặp một cậu bé tuổi lên ba, tóc còn để chỏm đang dõng dạc nói chuyện, ông cho là đứa trẻ nghịch ngợm, toan bỏ đi.

·         Có phải ông được lệnh vua tìm người tài đánh giặc Ân? Thế giặc đang hùng mạnh như hổ thêm cánh, nếu không gấp rút thì con hổ ấy sẽ nuốt chửng cả đất nước.

Sau khi nghe xong những lời nói ấy của cậu bé, sứ giả nửa tin, nửa ngờ đáp:

·         Vậy theo ngươi thì nên làm thế nào?

·         Ông tìm đúng người rồi đấy, mau về tâu với vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một chiếc roi sắt, đem đến đây cho ta, còn những chuyện khác cứ giao ta.

Sứ giả nhận ra đây thật là một nhân tài nên vội thúc ngựa chạy nhanh về cung bẩm báo. Đêm hôm trước. vua nằm mộng thấy có phúc tinh trên trời chiếu xuống, tra ra thì nơi ấy chính là chỗ ở của cậu bé nên quả quyết đây thật sự là người tài có thể giúp được cho đất nước. Vua cho truyền quân sĩ ngày đêm rèn các loại binh khí đúng theo yêu cầu của cậu bé. Từ ngày gặp sứ giả, cậu Gióng bỗng khác hẳn đi. Cậu ăn rất nhiều, người mẹ chẳng kịp xay thóc nấu cơm. Hàng xóm thấy vậy cũng góp phần nuôi cậu bé.

Giặc đã tràn nên chân núi Trâu, thế giặc ngày càng hun hãn. Đứng xa vài dặm đã nghe thấy tiếng reo hò của kẻ thù. Đúng lúc này, sứ giả mang đến cho Gióng roi sắt, ngựa sắt và áo giáp sắt. Gióng nhanh chóng khoác tấm áo choàng, bỗng một cậu bé lên ba đã biến mất thay vào đấy là một chàng trai khôi ngô, dáng cao, mắt sáng. Ai nấy đều ngạc nhiên, cả người mẹ Gióng cũng ngỡ ngàng không tin vào mắt mình. Bà mới vỡ ra sự tình, có lẽ đứa con trai của bà thương yêu bấy lâu nay chính là thần tiên trên trời đã sai xuống để giúp dân lành trừ giặc. Các quân sĩ cùng nhân dân nhận thấy được sức mạnh phi thường của người tướng lĩnh càng thêm vững lòng và nguyện đem cả tính mạng của mình để bảo vệ đất nước. Giặc cầm cờ phất trận, trống đánh liên hồi, gió ngựa tung bay. Thánh Gióng nhảy lên mình ngựa sắt, chàng cầm roi sắt và quất vào mông ngựa, ngựa đột nhiên hí vang trời. Chàng phi ngựa xông thằng  đến tên giặc cầm đầu, dủng roi sắt đánh tan quân thù. Chàng mở đường đi trước, quân lính reo hò theo sau khiến kẻ thù khiếp sợ. Chúng chạy toán loạn giẫm đạp lên nhau. Roi sắt gãy, chàng nhổ bụi tre bên đường để đánh. Tre như roi khiến quân giặc tan tành.

Quê hương đã sạch bóng quân thù. Chàng Gióng trở về nhà lạy tạ mẹ rồi từ giã dân làng để bay về trời. Mẹ già vừa thương con vừa lưu luyến:

·         Mẹ con ta duyên chẳng được bao lâu, mẹ thì già rồi lại đơn lẽ một mình muốn có con bên cạnh nhưng vì con chẳng phải người trần. Con phải trở về, con đi mẹ chỉ biết ngóng trông ngày con trở lại.

Thánh Gióng xót xa cho cảnh mẹ già tiễn con nên an ủi:

·         Mẹ đừng buồn, con về trời nhưng cũng sẽ có ngày lại trở về thăm mẹ. Mẹ ở nhà giữ gìn sức khỏe, con mới có thể yên tâm rời khỏi.

Sau buỗi đưa tiễn ngậm ngùi, Thánh Gióng bỏ lại áo giáp sắt, ngựa sắt rồi bay thẳng về trời. Vua nhớ công ơn nên lập đền thờ Gióng tại chân núi Sóc Sơn. Dân làng nơi đây hằng năm đều tổ chức tưởng nhớ chàng.

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 15

Vào đời vua hùng thứ 6, giặc Ân đã tràn lan sang xâm chiếm bờ cõi nước ta. Phe giặc ỷ người đông sức mạnh hung hăng trên chiến trường, nghe danh chúng người dân đã khiếp sợ. Đi đến đâu chúng hung tàn cướp bóc, giết người, cướp của  không chớp mắt. Bấy giờ thế lực của quân ta đang yếu. Nhà vua rất lo lắng cho vận mệnh nước nhà, vì vậy chỉ còn cách là nhờ sứ giả ra thông báo tìm ra người tài cứu.

Bấy giờ ở làng Phù Đổng, có một cặp vợ chồng họ tuổi đã khác cao sống rất hiền lành nhưng tạo hóa vẫn chưa ban cho họ một đứa con nào. Một hôm người vợ ra đồng thăm ruộng, bà phát hiện có bàn chân rất to in trên hằn trên mặt ruộng, vì tính tò mò nên bà liền dùng chân mình ướm thử. Chuyện lạ là khi về nhà bà ngạc nhiên khi phát hiện mình mang thai. Nhưng cái thai đã qua 9 tháng 10 ngày bà vẫn chưa có dấu hiệu sinh nở. Người chồng chẳng mai lâm bệnh và vì gia đình quá nghèo không thuốc chạy chữa nên đã không qua khỏi. Còn bà thì rất tiếc thương cho chồng nhưng vì đứa con nên bà cố gắng tiếp tục sống.

Cho đến tháng thứ 12 bà mới sinh con. Bà sinh ra một chú bé rất khôi ngô tuấn tú, mặt mày sáng sủa, bà đặt tên là Gióng. Gióng đến 3 tuổi vẫn chưa biết cười biết nói chỉ biết đòi ăn, bà càng buồn rầu hơn. Một hôm bà đang ngồi dệt vải, có tiếng sứ giả thông báo: “ Loa..loa..loa.. giặc Ân sang cướp nước.. đất nước đang cần người tài…” Càng ngạc nhiên hơn nữa là bà nghe tiếng Gióng lên tiếng:

“Mẹ.. mẹ ra kêu Sứ Giả vào hộ con”

Bà bàng hoàng ngac nhiên không tin vào tai mình 3 năm không nói cười nhưng tiếng đầu tiên con mình lên tiếng là câu nói như vậy. Nhưng vì sự hối giục của con nên bà chạy theo sứ giả mời ông vào nhà. Sứ giả rất vui mừng vì cuối cùng đã có người giúp đỡ và ông tiếp chân theo người phụ nữ trước mắt vào nhà nhưng khi vào thì chẳng thấy một tráng sĩ cường tráng nào mà chỉ thấy một chú bé nhỏ xíu, ông liền quát người mẹ: “Nhà ngươi đang đùa với ta đấy ư “. Đang tức giận thì ông bất ngờ nghe câu nói xuất phát từ cậu bé và ông vô cùng ngạc nhiên:

– “Sứ giả nguôi giận, nhờ ông về tâu với tức vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một thanh gươm sắt, một chiếc áo giáp sắt và một chiếc nón sắt, ta sẽ đánh đuổi quân giặc”.

– Ngươi là trẻ lên ba nhỏ xíu vậy mà đòi đấy giặc kiểu gì?- Sứ giả không tin vào câu nói mà mình vừa nghe được nhưng cũng cố gắng bình  tĩnh hỏi lại cậu bé. Nhưng cậu bé chỉ cười trừ và không nói thêm tiếng nào.

Về tới cung điện sứ giả tâu với đứa vua và đức vua cũng khá ngờ ngợ nhưng ông tin rằng cậu bé là do ông trời phái xuống giúp ông cứu dân cứu nước. Do đó ông cho sai người rèn ngựa, gươm, áo giáp sắt theo yêu cầu cậu bé.

Từ lúc gặp sứ giả người mẹ càng bàng hoàng hơn khi cậu ăn càng ngày càng nhiều, ăn liên tục mà không thấy no.do nhà bà nghèo nên không đủ gạo nuôi cậu bé. Bà liền kể với làng xóm và mọi người đã tin rằng cậu chính là cứu tinh của đất nước nên đã vận động tất cả người dân góp gạo nuôi cậu bé.Gióng càng ăn càng lớn nhanh như thổi, bao nhiêu cơm cũng không no, bấy nhiêu quần áo cũng không đủ mặc.Nhưng nhờ dân làng đã gps gạo, thịt, vải vóc nên gióng được ăn no và có vải mặc.

Khi đúc xong áo, roi, ngựa, Sứ Giả đem đến cho Gióng. Gióng vươn vai lớn cao to gấp bội lần. Chú đội mũ, cầm gương phóng lên ngựa sắt xông ra chiến trường như như bão táp. Đi đến đâu Gióng chém giặc nhanh như tia chớp. Khi gươm bị gãy, Gióng nhổ các bụi tre bên đường làm vũ khí giết địch.

Chẳng mấy chốc Gióng đã đánh tan lũ giặc cướp nước. Sau đó Gióng cùng ngựa bay thẳng lên núi Sóc, trút bỏ quần áo lại rồi bay thẳng lên trời. Di tích của trận chiến còn lại là những ao hồ rộng lớn đó là do dấu chân của ngựa sắt và khu rừng bị giặc đốt cháy còn có tên là rừng Cháy. Để tỏ lòng biết ơn của vị Thánh đã hóa thân độ thế, dân trong làng đã lập miếu thờ gọi là Thánh Gióng.

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 16

Đó là vào thời vua Hùng Vương thứ sáu. Đất nước thật thanh bình, mọi người đều hưởng ấm no hạrnh phúc. Thế nhưng có một cặp vợ chồng già cứ cui cút mãi trong gian nhà tranh vắng tiếng trẻ con. Một hôm, người vợ đi ra đồng thấy một dấu chân khác lạ. Phần thì tò mò, phần thì vừa thấy thần báo mộng trong đệm, bà đặt chân ướm thử. Không ngờ về nhà thụ thai. Chờ hết chín tháng mười ngày vẫn chưa sanh cặp vợ chồng rất lo lắng .Nhưng đến tháng thứ mười hai thì hai vợ chồng đã có con.Chao ôi,một đứa bé mặt mũi khôi ngô như một tiên đồng.Họ mừng lắm. Họ quyết định đạt tên cho con là Gióng.Nhưng chăm chút hoài mà Gióng vẫn cứ như lúc lọt lòng. Đã ba năm tuổi mà chú bé không biết đi, không biết nói, biết cười. Rồi một hôm loa sứ giả truyền tin giặc Ân đã đến xâm phạm bờ cõi, vua Hùng đang kén chọn người tài giỏi ra công giết giặc. Chú bé bỗng níu tay áo mẹ , khi mẹ của chú đang đưa nôi và Gióng cất tiếng: "Mẹ ơi, mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con". Hai vợ chồng bàng hoàng nhìn nhau,mẹ Gióng bèn vội chạy ra mời sứ giả vào nhà. Thằng bé mắt long lanh và nói sang sảng như phán truyền: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt,một cái roi sắt,một áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này!.". Sứ giả sửng sốt rồi kính cẩn chào cặp vợ chồng ấy ra về. Hai ông bà lão chạy lại ôm con mà mừng khôn xiết. Từ đó chú bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Bà con lối xóm biết chuyện họ rất phấn khởi ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho thằng bé rất chu đáo. Ai cũng hi vọng Gióng sớm ra giết giặc trừ họa cho mọi người. Giặc đã đến chân núi Trâu. Mọi người hoảng hốt nhìn Gióng như cầu cứu. Cũng may là nhà vua đã cho đưa đến áo giáp sắt, ngựa sắt và roi sắt. Chú bé bỗng đứng dậy vươn vai một cái, nó to lớn và mạnh khỏe khác thường. Gióng mặc giáp sắt, cẩm roi sắt và lên yên ngựa sắt.Chú vỗ vào mông ngựa, ngựa hét vang phun một luồng bão lửa về phía trước. Trông thằng Gióng giờ đây oai phong lẫm liệt như tướng nhà trời. Nó khẽ gật đầu chào mọi người rồi phi như bay ra nơi có giặc. Nghe mấy người đi theo Gióng, cùng Gióng giết giặc kể lại thì tráng sĩ ấy đã cầm roi sắt tả xung hữu đột và giặc chết như rạ. Đang xông xáo như vậy thì roi sắt va vào đá núi và bị gãy. Gióng bèn nhổ mấy cây tre bên đường quật nốt đám tàn quân còn lại. Tráng sĩ truy đuổi giặc đến núi Ninh Sóc và tại đây,chú cởi áo giáp sắt để ngay ngắn trên tảng đá rồi cùng ngựa sắt bay lên trời. Mọi người đã lập đền thờ ngay trong làng Phù Đổng,tục gọi là làng Gióng. Và vua Hùng cũng phong cho chú bé ấy là Phù Đổng Thiên Vương. Nghe nói ở Gia Bình có những bụi tre đằng ngà màu vàng óng. Chính ngựa của Gióng đã phun lửa mà nó cháy sém như vậy đấy. Và mọi người có biết không? Những ao hồ chi chít ở là dấu chân của con ngựa sắt ghê gớm mà Gióng cưỡi ấy.Làng Cháy hôm nay sở dĩ có tên gọi như vậy là do ngựa Giống phun lửa và đốt rụi cả một làng. Cũng may bà con đã chạy giặc hết rồi nếu không thì thật là thảm họa.

Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 17

Ở một làng nọ, có một gia đình gồm hai vợ chồng tuy tuổi đã cao nhưng mãi không có mụn con nào. Một hôm, bà vợ ra vườn thì thấy một dấu chân to không giống là của người bình thường nên bà đã ướm thử chân của mình vào đó. Kỳ lạ thay, sau lần đó bà mang thai. Sau chín tháng mười ngày, bà đẻ ra một bé trai hồng hào.

Nhưng cậu bé này lên ba mà vẫn chưa biết nói nửa lời. Bà mẹ lo lắng lắm nhưng cũng chẳng biết làm thế nào. Năm ấy, giặc Ân đang lâm le bờ cõi nước ta, tình trạng dân tộc đang rơi vào tình trạng nguy hiểm, bị giặc ngoài xâm lăng. Nhà vua cho sứ giả đi khắp các vùng trong cả nước để kêu gọi và tìm kiếm người hùng, anh tài ra giúp nước. Một hôm, sứ giả đi ngang qua nhà cậu bé kia thì sau khi nghe giọng của sứ giả lan truyền tin chiêu mộ anh tài thì bỗng nhiên cậu bé bật nói được:
- Mẹ hãy ra gọi sứ giả vào đây cho con thưa chuyện.

Bà mẹ ngạc nhiên, sửng sốt vô cùng nhưng cũng nghe lời con ra mời sứ giả vào. Khi sứ giả vào thấy cậu bé nói có thể đi đánh giặc cứu nước thì thảng thốt vô cùng, ban đầu không tin nhưng cuối cùng cũng phải tin lời. Cậu bé nói:
- Hãy về tâu với vua làm cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một thanh gươm sắt, ta sẽ đi dẹp loạn lũ giặc cướp nước kia.

Nghe thế, sứ giả mừng lắm, ngay lập tức trở về cung bẩm báo cho vua biết. Từ hôm gặp sứ giả, cậu bé thay đổi nhiều lắm. Cậu ăn rất khoẻ. Nhân dân trong vùng góp gạo để nuôi cậu. Cậu bé lớn nhanh như thổi. Và ngày hẹn cũng đã tới. Vua cùng quân lính mang tới cho cậu đầy đủ những thứ mà cậu đã yêu cầu. Thánh Gióng mặc áo giáp sắt, cầm gươm và bước lên ngựa. Con ngựa sắt bay lên trời về phi nước đại tới chỗ quân giặc đang hoành hành. Tới nơi, Thánh Gióng tấn công vào lũ giặc Ân, cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt. Không may, đang trong trận chiến thì gươm của Thánh Gióng bị gãy, chàng bèn nhổ một bụi tre ngà bên đường mà tấn công túi bụi mà lũ giặc. Không lâu sau, bóng lũ giặc cướp nước sạch bóng quân thù. Sau đó thì Thánh Gióng cùng ngựa bày về trời. Hiện nay, vẫn còn nhiều nơi thờ Thánh Gióng – Một trong Tứ Bất tử của Việt Nam.