Phân tích hình tượng con Sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân hay nhất (10 mẫu)

Hình tượng con Sông Đà 1

I. Mở bài:

Là một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước

Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí "Người lái đò sông Đà" đã thể hiện đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà "hung bạo và trữ tình" chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.

II. Thân bài:

1. Khái quát:

"Người lái đò sông Đà" rút từ tập tùy bút "Sông Đà" của Nguyễn Tuân.

Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958.

Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới đã đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân là ta đang đến với một tâm hồn vô cùng phong phú, với những phát hiện hết sức tinh tế, độc đáo về quê hương. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng chính là tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông. Chỉ có N.T mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước N.T có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng 3 câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay ngang qua miền sông ấy. Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn có hai nét tính cách đối lập: hung bạo và trữ tình.

2. Phân tích:

a. Sông Đà hung bạo:

Vách đá "đá bờ sông dựng vách thành" và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:

"Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời"

Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ can nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách

"Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện"

-> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như N.T luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng nay ăm ắp để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.

Gió trên sông Đà: "Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm " -> bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.

Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: "nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", "chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác" -> Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.

Âm thanh thác nước sông Đà:

Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.

Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang "oán trách", "van xin", "khiêu khích", "giọng gằn mà chế nhạo". Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: "nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng" -> Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, N.T quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật.

Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: "Cả một chân trời đá mặt hòn nào trông cũng "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó" -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.

Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì "hất hàm" đứa thì "thách thức", "mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo", sóng nước "đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền"

Trùng vi thạch trận thứ II: Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn

Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.

-> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì "kẻ thù số một của con người". Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút VN.

b. Sông Đà trữ tình:

Dòng sông Đà không chỉ có những "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế manh trên sông đá" mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống "con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo"

Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa:

"Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với sông Gâm, sông Lô "màu xanh canh hến".

Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa" -> Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.

Đến với sông Đà, hăm hở, say mê đến nỗi tác giả như thấy mình như đang "sắp đổ ra sông Đà". Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương" Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa lặng tờ "như từ Lí, đời Trần, đời Lê".

-> Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt Nam.

III. Kết bài:

Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú. Ở tùy bút "Người lái đò sông Đà" chúng ta thấy phong cách giá trị của ông thể hiện rõ nhất là sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, lối văn rất mực tài hoa. Dòng sông Đà "hung bạo và trữ tình" chảy mãi trong dòng văn học nước nhà như niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê hương của nhà văn Nguyễn Tuân.

Hình tượng con Sông Đà 2

1. Mở bài:

- Sơ lược về tác giả Nguyễn Tuân.

- Tác phẩm Người lái đò sông Đà.

2. Thân bài:

a. Lời đề từ:

- “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”: Thế chảy ngược của dòng sông và cảm xúc đồng điệu của Nguyễn Tuân với con sông này.

- “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”: Khơi gợi vẻ đẹp trữ tình của sông  Đà.

b. Hình tượng con sông Đà:

* Vẻ hùng vĩ, hung bạo, dữ dội:

- Hình ảnh rất hấp dẫn “cảnh đá bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, “chẹt lòng sông như yết hầu”, “con nai con hổ đã có lần vọt qua bờ bên kia”, tạo cảm giác”đang màu hè mà cũng cảm thấy lạnh”. Dòng sông tựa như một nhân vật bí hiểm, lạnh lùng, mang đến áp lực vô hình và khó lường.

- Âm thanh:

+ “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”,

+  “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, “nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”,

+ “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…”.

=> Gợi liên tưởng cảnh một con thủy quái đang quẫy mình sôi nổi, giận dữ, hoặc là đói mồi hoặc là kẻ nào đã lỡ tay chọc vào chiếc vảy ngược mới khiến lồng lộn cả lên như thế, làm nổi bật hẳn lên cái vẻ hầm hố, khó chịu của con sông khúc thượng nguồn này.

- Hút nước:

+ Hình ảnh rất độc lạ “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”

+ “mặt giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh”, “Cốc pha lê nước khổng lồ”, r

+ “Từ đáy hút nước nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải”,...

=> Qua những hình ảnh gợi cảm ấy người ta thấy sông Đà có những cái xoáy nước rất mỹ lệ, rất đẹp trong trẻo, xanh ngắt thế nhưng cũng ẩn chứa hàng vạn mối nguy hiểm cho kẻ nào lỡ may sảy chân rơi vào đấy.

- Đá và “trùng vi thạch trận”:

+ Mai phục ở đây hàng nghìn năm, trực chờ tên liều mạng nào đi qua với bộ dạng sốt sắng “nhổm cả dậy” để vồ lấy thuyền, rồi thì dáng vẻ “ngỗ ngược”, diện mạo “nhăn nhúm”, “méo mó”, tư thế đứng, ngồi, nằm, nghiêng,... đều đủ cả, khiến người ta phải kiêng dè trước cái khí thế mà chúng tỏa ra.

+ Chọn cho mình riêng một nhiệm vụ, dứa thì dàn hàng ngang, đứa thì đòi đánh giáp lá cà, lại có cả đứa giả bộ lộ sơ sở, để những đứa còn lại phục kích đánh úp cho thuyền bè không kịp trở tay.

+ Bày cả “trùng vi thạch trận” có tới 3 lớp, lớp sau càng nhiều cửa tử, ít cửa sinh, luồng sống hẹp, luồng chết dày, dường như là không để cho kẻ địch một cơ hội sống còn nào cả.

* Vẻ thơ mộng, trữ tình:

- Dòng sông hiện lên với dáng vẻ hiền hòa, dòng chảy như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo, mềm mại trải khắp vùng Tây Bắc.

- Mang dáng vẻ của một mỹ nhân xinh đẹp, yêu kiều với dòng chảy “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa Ban, hoa Gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”

- Những gam màu nổi bật, lãng mạn theo mùa, ví như “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô”, còn “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.

- Như là một “cố nhân” để liên tưởng đến “màu nắng tháng ba Đường thi” trong thơ Lý Bạch .

- Như là “người tình chưa quen biết” trong cái cảnh nương ngô, đàn hươu, bờ sông hoang dại với nỗi niềm cổ tích thuở xa xưa,... khiến lữ khách xuôi dòng xúc động.

c. Người lái đò sông Đà:

* Diện mạo, tâm hồn:

-  Tuổi thất thập cổ lai hy, nhưng vẫn miệt mài với công cuộc lao động, “không ai nhớ mặt đặt tên”, sống và đóng góp cho đất nước từng ngày.

- Dáng vẻ đậm mùi sông nước mênh mông, vẻ khắc khổ,“tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…”.

- Hai vẻ đẹp nổi bật:

+  Một chiến binh dũng cảm trên chiến trường sông nước, ngày ngày chiến đấu giành giật miếng cơm manh áo.

+ Vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài hoa hăng say trong lao động, là bậc thầy trong nghệ thuật chèo đò ngày ngày viết nên những bản trường ca bất tận về công cuộc lao động không ngừng nghỉ.

- Tâm hồn:

+ Lòng hăng say, niềm đam mê trong công việc lao động, đam mê mạo hiểm, thích cảm giác mạnh.

+ Nhiệt thành, dũng cảm, có tâm hồn tươi trẻ, sôi động, bản tính hiếu chiến, đam mê khám phá, chinh phục gian nan thử thách, chẳng bao giờ lùi bước.

* Công cuộc chèo đò vượt thác:

- Một trận chiến không khoan nhượng,“cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một”.

- Chất nghệ sĩ trong tâm hồn của ông lão chèo đò hiện lên một cách rõ rệt, hết sức nghiêm túc, tỉ mẩn, miệt mài và kiên nhẫn với công việc.

+ Nằm lòng “từng dấu chấm câu, dấu chấm than, cả những đoạn xuống dòng”, khắc sâu vào tâm khảm như “đóng đanh vào lòng” từng nhịp từng pháp, không thiếu đến nửa dấu.

+ Dòng sông cũng lại trở thành một chiến trường quen thuộc với vị tướng đã dành cả cuộc đời để chinh phạt, nơi đó ông được phép thi triển hết bao tài năng, tâm huyết, cả thứ binh pháp ông vẫn hằng tâm niệm.

+ Ông lão xông pha chiến trường với tinh thần mạnh mẽ, hiên ngang, mái chèo thay đao, chiếc đò duy nhất thay cho chiến mã, dẫu đơn độc thế nhưng khí thế oai hùng của người lái đò không kém cạnh gì so với sự ghê gớm, dữ dội của con sông Đà.

+ Đối mặt với những “trùng vi thạch trận” giăng mắc, ông lão cũng chẳng ngại ngần mà nắm chặt mái chèo vượt qua sự thách thức, uy hiếp của lũ đá khó nhằn.

=> Ông lão hiện lên với bản chất dũng mãnh, lòng kiên cường đã tôi luyện cả cuộc đời của một người lính chiến, và lòng hăng say lao động, chinh phục thiên nhiên của một người nghệ sĩ điêu luyện có “bàn tay lái ra hoa”.

3. Kết bài:

Nêu cảm nhận.

Hình tượng con Sông Đà 3

I. Đặt vấn đề:

Nguyễn Tuân tự nhận mình là người mắc căn bệnh ” Xê dịch”. Trước cách mạng tháng 8 ông ” Xê dịch” để thay đổi thực đơn cho giác quan. Sau cách mạng sự ” Xê dịch” đã đem lại cho ông nhiều hiểu biết mới mẻ về cảnh sắc thiên nhiên và con người đất nước Tuỳ bút” Người lái đò Sông Đà” trích trong tập tuỳ bút Sông Đà (1960) là kết quả chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn. Trong tuỳ bút ông đã phát hiện và miêu tả ” Chất vàng mười” của cảnh sắc núi sông và con người Tây Bắc. Đặc biệt với ngòi bút tài hoa của nhà pháp thuật ngôn từ Nguyễn Tuân con Sông Đà của Tây Bắc hiện lên vừa hung bạo hùng vĩ vừa tuyệt vời thơ mộng.

II. Giải quyết vấn đề:

1. Giới thiệu chung hình ảnh Sông Đà trong tác phẩm:

Dòng Sông Đà là một trong hai hình tượng nghệ thuật chính của tuỳ bút cùng với hình tượng người lái đò làm nên bức tranh toàn cảnh và hết sức sinh động về Sông Đà. Dòng Sông Đà là phông nền, khung cảnh để từ đó hiện ra hình tượng trung tâm: Người lái đò. Hình ảnh dòng Sông Đà vừa là đối tượng đuợc Nguyễn Tuân miêu tả trực tiếp vừa là phương thức nghệ thuật để gián tiếp làm nổi bật hình tượng nhân vật trung tâm: Người lái đò. Tuy nhiên trong thiên tuỳ bút này Nguyễn Tuân dành khá nhiều bút lực để miêu tả dòng sông. Dòng sông được miêu tả bằng tất cả sự say mê hứng khởi của Nguyễn Tuân. Phong cách nghệ thuật, sở trường của Nguyễn Tuân cũng được bộc lộ đầy đủ ở hình tượng dòng Sông Đà. Dòng sông như một khám phá của Nguyễn Tuân, như một cơ hội được nhà văn khoe ra tất cả sự tài hoa uyên bác nghệ sĩ của chính mình. Dòng sông Đà hiện lên trong trang tuỳ bút như một sinh thể độc đáo vừa có hình hài vừa có cá tính, phong cách có cả số phận. Ngòi bút của Nguyễn Tuân đi sâu miêu tả hai nét tính cách trái ngược của dòng sông Đà: hung bạo và trữ tình.

2. Phân tích hình ảnh dòng sông Đà:

Khác với những hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm tự sự ( truyện ngắn, tiểu thuyết) hình ảnh sông Đà trong tuỳ bút này được giới thiệu về phẩm chất, tính cách một cách trực tiếp. Trữ tình và hung bạo là hai nét tính cách mà Nguyễn Tuân phát hiện từ dòng sông Đà rồi giới thiệu tới người đọc. Đây cũng là nét phong cách riêng của Nguyễn Tuân khi thể hiện một hình tượng nghệ thuật.

a. Sông Đà hung bạo:

Ngay từ lời đề Nguyễn Tuân đã phát hiện ra cái độc đáo của sông Đà ” Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu” Sông Đà không chịu chung hướng với các dòng sông khác mà chọn một hướng đi riêng. Cái độc đáo của sông Đà trước hết bộc lộ ở tính cách hung bạo. Cái hung bạo của con sông Đà hiện lên ở bờ đá ven sông “đá bờ sông dựng vách thành” Vách đá chẹn ngang lòng sông như một cái yết hầu Nguyễn Tuân đưa ra khá nhiều hình ảnh để tả lòng sông chỗ bị đá chen. Tài quan sát và vốn từ ngữ phong phú đã giúp Nguyễn Tuân miêu tả thành công cái dữ dội của đá nơi lòng sông. Vách đá ấy giống như một thứ hùm beo ăn thịt đời sống của cả dòng sông Đà.

Cái dữ dội của dòng sông Đà còn ở tiếng nước, thác nước. Lối văn trùng điệp hình tượng hoá tiếng nước dữ dội của sông Đà. Nó lúc nào cũng trong tư thế cuồng phong thuỷ chiến. Tiếng nước được nhà văn miêu tả như tiếng một con vật khổng lồ đang bị hành hình.

Dòng sông được miêu tả như một thuỷ quái đang giãy chết. Như một điện ảnh gia Nguyễn Tuân còn hình dung ra cảnh: một anh bạn quay phim táo tợn ngồi vào chiếc thuyền để hút nước sông Đà hút xuống dưới tận đáy sông để rồi từ đó lia ngược máy quay phim lên. Nước sông Đà như một khối bê tông thuỷ tinh đúc dày. Khối bê tông này có thể đổ ập xuống cả người, cả máy quay phim. Hình ảnh ấy gợi ra vẻ dữ dội nhưng kỳ vĩ của sông Đà. Dòng dông lúc nào cũng ở trong cơn cuồng nộ muốn hút vào lòng nó tất cả những gì trên bề mặt sông Đà. Tính hiếu chiến ấy là biểu hiện rõ nhất của dòng sông Đà hung bạo. Nguyễn Tuân còn tả hết sức tường tận những thác nước sông Đà. “Tiếng thác nước nghe như là oán trách gì rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích giọng gằn mà chế nhạo” Dòng sông Đà như uất ức hờn giận. Đặc sắc nhất là Nguyễn Tuân lấy lửa để tả nước làm cảnh sắc sông Đà dữ dội, hoành tráng “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vẫn tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.

Đá ở sông Đà cũng hung bạo như thác nước sông Đà. Những hiểu biết về võ thuật, quân sự giúp Nguyễn Tuân miêu tả thành công thạch bàn trên ở lòng sông. Mỗi hòn đá mang gương mặt của những chiến binh “Mặt hòn nào cũng ngỗ ngược” một hò đá trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi tên chiếc thuyền. Cả đại dương đá dàn thành trận địa sẵn có hàng tiền vệ, có những boong ke, pháo đài đá, cửa tử, cửa sinh. Khi con thuyền của người lái đò xuất hiện đá ở sông Đà nước ở sông Đà tất cả nhổm cả dậy giao chiến với người lái đò. Sông Đà trở thành một chiến địa dữ dội hào hùng.

b) Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân sông Đà không chỉ hung bạo mà nó còn rất trữ tình. Trước hết là hình day mềm mại duyên dáng của dòng sông. Từ trên cao nhìn xuống Nguyễn Tuân được chiêm ngưỡng toàn cảnh dòng sông trong dáng hình mềm mại uốn lượn tự nhiên của nó. Nguyễn Tuân đã so sánh dòng sông Đà với sợi dây thừng ngoằn ngoèo. Sự so sánh giản đơn nhưng chính xác độc đáo nên tạo được sự bất ngờ thú vị. Sông Đà đẹp thơ mộng trước hết ở vẻ đẹp tự nhiên ấy.

Dòng nước sông Đà cũng mang vẻ đẹp duyên dáng, thi vị: ” Từng nét sông tải ra trên đại dương đá. Từ trên cao, trên nền một đại dương đá núi ẩn hiện lờ mờ qua làn mây là một con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng 2 và cuồn cuộn khói núi mèo đốt nương xuân” Nguyễn Tuân so sánh dòng sông với áng tóc của người con gái. Sông Đà hiện lên như một mỹ nhân duyên dáng, đài các. Sông Đà trở thành nơi hội tụ vẻ đẹp của đất trời, con người Tây Bắc. ít nhà thơ, nhà văn nào tả sông nước bằng hình ảnh nét sông tãi ra, tả con sông bằng áng tóc trữ tình. Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng sông bằng tâm hồn của một thi sĩ nên đã tạo được những liên tưởng kỳ thú như thế về dòng sông.

Sông Đà còn có màu nước trữ tình, mùa xuân dòng xanh ngọc bích mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Sự thay đổi màu nước theo mùa làm dòng sông giống hệt một thiếu nữ thất thường. Nghệ thuật so sánh bất ngờ táo bạo rất Nguyễn Tuân đã làm nên một sông Đà thơ mộng, trữ tình, đa tình, đa cảm. Sông Đà là con sông gợi cảm. Dòng sông Đà mang lại khơi dậy trong lòng người bao nỗi niềm xúc cảm: “Đã có lần tôi nhìn sông Đà như một cố nhân”. Sông Đà gợi niềm vui của con người với cảnh cũ, tình xưa. Đến với sông Đà Nguyễn Tuân còn thấy lòng mình như trẻ lại, thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt rồi bỏ chạy. Sông Đà đã gợi nỗi niềm thơ bé trong lòng tác giả. Cảnh bờ bãi ven sông còn gợi lên trong Nguyễn Tuân niềm vui, niềm hứng khởi rất thi sĩ: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Đặc biệt sông Đà còn gợi trào dâng cảm hứng thi sĩ, đứng trước sông Đà không ai không nghĩ đến những câu ca dao thần thoại Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, những câu thơ tình của Tản Đà, những câu thơ Đường của Lý Bạch. Bỗng chốc sông Đà đã biến Nguyễn Tuân thành thi sĩ của tình yêu cảnh vật, cuộc đời, thiên nhiên xã hội con người.

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn toát lên từ không gian tĩnh lặng. Phải chăng đây là đoạn Sông Đà ở hạ nguồn dòng sông hiền lành yên ả” Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi “. Cái tình lặng ở sông Đà đưa Nguyễn Tuân trở về với quá khứ. Sông Đà trở thành nơi hội tụ của vẻ đẹp lịch sử. Cũng bằng liên tưởng, xúc cảm đồi dào Nguyễn Tuân đã nhận ra vẻ đẹp mộng mơ, huyền ảo, hồn nhiên hoang dã của sông Đà. “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích thủa xưa”. “Bờ tiền sử, nỗi niềm cổ tích thủa xưa” là cách nói rất độc đáo của riêng Nguyễn Tuân. Nó không chỉ tạo cho câu văn nhạc tính mà còn làm ra giá trị gợi cảm của nó. Dòng sông Đà hiện nên thơ mộng, trữ tình, hồn nhiên, tươi sáng. Cảnh sắc ven sông Đà đẹp như trong huyền thoại cổ tích. ở đó cây lá đều tươi mới non tơ” những lá ngô non đầu mùa, những búp nõn cỏ gianh, ở đó có những con vật hoang dã nhưng nghe được tiếng người: ở đó con người đắm chìm trong cảnh vật, thấu hiểu tiếng nói của loài vật. Vẻ đẹp của dòng sông Đà thật trữ tình thơ mộng.

Hung bạo và trữ tình là hai nét tính cách đối lập nhau tạo nên vẻ đẹp đầy sức lôi cuốn của sông Đà. Trong cách miêu tả của Nguyễn Tuân, sông Đà thực sự là 1 người tình nhân chưa quen biết, là một mỹ nhân lắm bệnh nhiều chứng chốc dịu dàng đấy, chốc lại bẳn tính gắt gỏng. Bút pháp lãng mạn với thủ pháp tương phản, hệ thống hình ảnh được tạo ra từ những liên tưởng kỳ thú đã giúp Nguyễn Tuân miêu tả vẻ đẹp kỳ thú đặc biệt độc đáo của sông Đà.

Hình tượng con Sông Đà 4

1. Mở bài:

- Sơ lược về tác giả Nguyễn Tuân

- Hình tượng con sông Đà trong tùy bút Sông Đà.

2. Thân bài:

a. Lời đề từ:

- “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu” => Dòng chảy khác thường chẳng giống ai này của con sông đã khơi gợi lên trong tâm hồn của Nguyễn Tuân những ấn tượng và cảm xúc đặc biệt.

- “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”, bày tỏ cái nỗi lòng thương mến, xúc động trước vẻ đẹp của con sông hùng vĩ bậc nhất Tổ quốc, khơi gợi ra vẻ đẹp nên thơ trữ tình của dòng sông Đà.

b. Vẻ hung bạo, dữ dội và hùng vĩ của dòng sông:

* Hình ảnh:

- Thác đá, ghềnh đá với độ dốc lớn, nước chảy xiết vô cùng hung hiểm.

- “cảnh đá bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, “chẹt lòng sông như yết hầu”, “con nai nai con hổ đã có lần vọt qua bờ bên kia”,”đang màu hè mà cũng cảm thấy lạnh”.

=> Dòng sông hiện lên với những nét bí hiểm, khó lường.

* Âm thanh:

-  “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”.

- “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”.

- Quái dị, với điệu bộ “nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, khiến người ta phải dè chừng.

- “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…”, gợi ra sự giận dữ, cảm giác sôi động của dòng sông khúc đổ thác, mở ra những dự báo về sự hủy diệt mạnh mẽ, điên cuồng của dòng sông.

=> Sử dụng những câu văn ngắn, kết cấu trùng điệp, cùng với các từ ngữ đặc tả cực hạn, tất cả đã mang đến những cảm xúc dữ dội, hãi hùng, và ghi ấn tượng sâu sắc về một con sông Đà với cái vẻ hầm hố, ngang tàn.

* Hút nước:

- Được xây dựng bằng những hình ảnh rất độc lạ “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, “Mặt giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh”, tựa “Cốc pha lê nước khổng lồ”, rồi thì “Từ đáy hút nước nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải”,...

- Liên tưởng thú vị đậm chất nghệ thuật ví như hình ảnh một anh quay phim cầm máy ảnh, cho cả mình cả máy quay xuống cái hút nước của sông Đà để có những khung hình tuyệt vời nhất, đem đến cho độc giả những cảm xúc chân thực.

* Trùng vi thạch trận:

- Với những cửa sinh, cửa tự ngặt nghèo mà con sông đã giăng mắc ra để đánh bẫy những kẻ đi ngang qua nó, vô cùng nham hiểm và xảo quyệt.

- Đá ở đây nghìn năm vẫn mai phục dưới lòng sông, chỉ trực chờ mỗi lần có chiếc thuyền nào mà đi qua khúc sông quạnh quẽ này thì chúng liền “nhổm cả dậy” để vồ lấy thuyền, hòn nào hòn nấy cũng mang bộ dạng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, hòn đứng, hòn ngồi, hòn lại nằm,...

- Đá ở sông Đà chọn riêng cho mình một nhiệm vụ, dưới sự phân chia binh pháp của “thần sông thần đá”, lập thành hẳn ba “trùng vi thạch trận”, chỗ thì dàn hàng ngang chặn lối, chỗ lại đứng giữa khiêu khích, dẫn dụ, chỗ thì đòi đánh “giáp lá cà”, chỗ nhảy ra phục kích.

=> Con sông Đà hiện lên như một kẻ thù không đội trời chung với con người, mỗi trận chiến đều là kẻ sống ta chết, không chừa lối thoát.

c. Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông:

- Mềm mại, dài rộng với hình ảnh “cái dây thừng ngoằn ngoèo”.

- Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông hiện lên qua những liên tưởng rất đặc sắc, dòng chảy “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa Ban, hoa Gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. => Duyên dáng yêu kiều, quyến rũ cả núi rừng Tây Bắc, nhưng cũng mang cả những nét đỏng đảnh, khó chiều của một mỹ nhân hiếm có.

- Sự biến đổi lãng mạn của con sông qua từng mùa,“Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô”, “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.

=> Dịu dàng, nên thơ nhưng cái tính trái khuấy, thích làm mình làm mẩy, giận dỗi với cả Tây Bắc thì nó chưa bao giờ bỏ được.

- Và với Nguyễn Tuân con sông ấy không chỉ là một mỹ nhân, mà còn là một “cố nhân”, đôi lúc còn là một “tình nhân chưa quen biết”, rất tình tứ, yêu thương với cảm xúc “màu nắng tháng ba Đường thi”.

3. Kết bài:

Nêu cảm nhận.

Hình tượng con Sông Đà 5

a) Mở bài

- Giới thiệu sơ lược về tác giả và tác phẩm:

 + Nguyễn Tuân (1910 - 1987)là tác giả yêu cái đẹp, suốt đời đi tìm cái đẹp, có phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa.

+ "Người lái đò sông Đà" (1960) là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân.

- Giới thiệu hình tượng con sông Đà: Hình tượng con sông Đà chính là thứ vàng mười của thiên nhiên mà Nguyễn Tuân tìm kiếm.

b) Thân bài: Phân tích hình tượng con sông Đà

* Hình ảnh con sông Đà hung bạo ở thượng nguồn

- Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông...”.

- Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”, "con hổ con nai có thể vọt qua sông"...

- "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy... cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nên vừa tắt phụt đèn điện" -> hình ảnh so sánh mới lạ đến bất ngờ mô tả cái hẹp của lòng sông.

- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.

-> Sông Đà như đang náo động, gào thét muôn vạn âm thanh, cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.

- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô... mượn cạp ngoài bờ vực” -> Con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.

- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:

    + Xa: âm thanh thác đá “còn xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).

    + Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, "hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”.

-> Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, những hòn đá vô tri vô giác lại mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.

    + Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa)

Trùng vi thạch trận thứ 1: Bọn đá đứa thì "hất hàm" đứa thì "thách thức", "mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo", sóng nước "đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền"

Trùng vi thạch trận thứ 2: Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn

Trùng vi thạch trận thứ 3: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.

-> Gợi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.

=> Sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người.

* Hình ảnh sông Đà trữ tình ở hạ lưu

- Khi từ tàu bay nhìn xuống:

    + Sông Đà “tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình... đốt nương xuân”

    + Sông Đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.

- Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông:

    + Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.

    + Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.

- Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:

    + Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.

    + Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”

-> Sông Đà trữ tình như một cố nhân, một tình nhân.

=> Hình tượng sông Đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua hình tượng sông Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc: một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước, lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy.

* Đặc sắc nghệ thuật

- Ngòi bút miêu tả đậm chất tài hoa uyên bác

- Nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ...

- Lối so sánh liên tưởng độc đáo

- Vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau

- Ngôn ngữ giàu có, tinh tế hiện đại, giàu cảm xúc, đậm chất tạo hình, rất sắc sảo.

c) Kết bài

- Khái quát lại giá trị của hình tượng con sông Đà trong tác phẩm.

- Cảm nhận của em về hình tượng sông Đà.

Hình tượng con Sông Đà 6

Người lái đò sông Đà là một tùy bút rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông Đà. Hình ảnh con sông Đà với 2 đặc tính nổi bật là hung bạo và trữ tình được tác giả khắc họa đậm nét trong tùy bút. Khi miêu tả tính cách hung bạo của sông Đà, tác giả sử dụng những câu văn mang nhịp điệu dồn dập, hình ảnh thơ hùng vĩ. Nhưng khi ca ngợi dòng sông Đà trữ tình gợi cảm ông lại dùng những câu văn dài, êm ả, nghe như tiếng hát ngân nga.

Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà:

– Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. Thuyền được trôi êm: câu văn mở đầu đoạn hoàn toàn là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng; ý lặng tờ nhắc lại trùng điệp tạo chất thơ.
– Thiên nhiên hài hòa mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, kì thú: Cỏ gianh đồi núi đang ra những búp non, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
– So sánh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa mở ra những liên tưởng về sự bát ngát, lãng mạn, hư hư thực thực của dòng sông.
– Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng còi, con hươu ngộ ngẩng đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà. Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sông Đà xúc động trong thực và mơ.

Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế. Nhà văn hiến cho độc giả hình ảnh sống động, ấn tượng sâu sắc:

– Lấy động tả tĩnh: Cá quẫy đủ khiến ta giật mình.
– Cái tĩnh hàm chứa sự bất ngờ bởi sự biến hóa liên tiếp: thuyền thả trôi, con hươu thơ ngộ vểnh tai, áng cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá dầm xanh quẫy vọt. Cảnh và vật đều ở trạng thái động, không chịu ép mình và đều mang hơi thở vận động của cuộc sống nhiều chiều

Nhà văn đã trải lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương đất nước:

– Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà,lòng ông dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử, về tình cảm đối với cố nhân.: nhắc tới đời Lí đời Trần.
– Trước vẻ đẹp hoang dại nhà văn suy nghĩ về về tiếng còi tàu, cuộc sống hiện đại.
– Trải lòng, hóa thân vào dòng sông trong đắm đuối của tình non sông đất nước: Nhớ thương hòn đá thác, lắng nghe giọng nói, trôi những con đò mình nở

Qua đoạn trích thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau chặt chẽ; thấy những đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Đọc “Sông Đà” người đọc càng thêm quý trọng tài năng và tấm lòng của con người suốt đời đi tìm cái đẹp, làm giàu có đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.

Hình tượng con Sông Đà 7

I.       Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân: là tác giả yêu cái đẹp, suốt đời đi tìm cái đẹp, có phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa.

- Tác phẩm: là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân.

- Hình tượng con sông Đà chính là thứ vàng mười của thiên nhiên mà Nguyễn Tuân tìm kiếm.

II. Thân bài

1.       Sông đà “hung bạo”

- Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông ...”.

- Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”

- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.

- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô ...mượn cạp ngoài bờ vực”,

- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:

    + Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu ... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).

    + Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”

    + Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gơi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.

- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người

2. Sông Đà “trữ tình”

- Khi từ tàu bay nhìn xuống:

    + Sông Đà “”tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình ... đốt nương xuân ”

    + Sông đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.

- Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông:

    + Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.

    + Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.

- Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:

    + Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.

    + Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”

- Nhận xét: Sông Đà trữ tình như một cố nhân, một tình nhân.

- Như vậy: hình tượng sông đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua hình tượng sông Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc.

III.     Kết bài

- Nêu cảm nhận về hình tượng Sông Đà.

- Nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực, xây dựng hình tượng thành công.

- Tác phẩm là áng văn đẹp được tạo nên từ tình yêu đất nước của một con người muốn dung văn chương để ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên và con người Tây Bắc.

Hình tượng con Sông Đà 8

A.    TÁC GIẢ -Nguyễn Tuân (1910 – 1987).

1.      Tiểu sử 

–        Sinh tại Hà Nội trong một gia đình nhà nho.

–        Ông học đến cuối bậc Thành Chung, tham gia bãi khoá, bị đuổi học (1929). Sau khi bị tù vì vượt biên giới sang Thái Lan, ông viết báo, viết văn. Năm1941 ông bị bắt giam vì giao du với những người hoạt động chính trị.

–        Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Nguyễn Tuân tham gia Cách mạng và kháng chiến, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới.

–        1948- 1958 ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn  nghệ Việt Nam, 1996 được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

2.      Con người

–        Giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng à Gắn với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.

–        Ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn là để khẳng định cá tính độc đáo của mình, sống tự do phóng túng, ham thích du lịch.

–        Rất mực tài hoa. Ông không chỉ là nhà văn mà còn là người am hiểu nhiều ngành nghệ thuật khác( hội họa, điêu khắc, sân khấu…)

–        Quí trọng nghề văn. Ông cho rằng nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc.

3.      Sự nghiệp văn chương:

a.      Trước Cách mạng tháng tám:

–     Là cây bút văn xuôi trong thời kì cuối cùng của xu hướng văn học lãng mạn 1930-1945.

–     Ông viết các tác phẩm thể hiện lòng yêu nước, yêu truyền thống văn hóa dân tộc và một số truyện thể hiện tâm trạng u uất trước cuộc đời tù đọng.

–      Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Một chuyến đi, Tóc chị Hoài.

b.      Sau Cách mạng tháng tám :

–     Nguyễn Tuân hòa mình vào cuộc sống của nhân dân, tham gia thực tế kháng chiến, thể hiện cái nhìn ấm áp, niềm tin yêu cuộc sống và liên tiếp cho ra đời những tác phẩm mang tính thời sự,

–     Tác phẩm tiêu biểu: Tình chiến dịch, Tuỳ bút sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi

4.      Phong cách nghệ thuật:

v     Tài hoa, uyên bác:

-    Khám phá phát hiện sự vật ở phương diện văn hoá, thẩm mĩ.

-    Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.

-    Tô đậm những nét phi thường, tuyệt vời của cảnh vật, con người

-    Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hoá, nghệ thuật khác nhau trong sáng tác

v     Ngôn ngữ văn học:

-    Từ vựng phong phú

-    Tổ chức câu văn xuôi có giá trị tạo hình cao, có nhạc điệu trầm bổng, cách phối âm, phối thanh linh hoạt,tài hoa.

v     Sử dụng thể loại tùy bút thuần thục, có những thành tựu đặc sắc.

v     Những chuyển biến trong phong cách nghệ thuật:

-    Trước Cách mạng tháng tám1945, phong cách Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ  NGÔNG. Đó là thái độ khinh đời, ngạo đời dựa trên tài hoa, sự uyên bác và nhân cách hơn đời của mình.

-    Sau Cách mạng tháng tám, Nguyễn Tuân hòa nhập vào cuộc sống của nhân dân,  ca ngợi cái đẹp không chỉ ở những tính cách phi thường mà còn ở cả những người lao động bình thường.

B.     Người lái đò sông Đà

1.      Hoàn cảnh sáng tác:

Là kết quả chuyến đi thực tế Tây Bắc của Nguyễn Tuân vào năm 1958. Ông đến với nhiều vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn cuộc sống mới ở vùng cao và vẻ đẹp của thiên nhiên cùng  “ thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông thơ mộng ấy đã đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo và ông sáng tác tùy bút SÔNG ĐÀ (1960), trong đó có NGỪỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ.

2.      Xuất xứ: Trích tuỳ bút “Sông Đà” (1960)

3.      Nội dung:

a.      Hình ảnh con sông Đà:

    Sông Đà được miêu tả như một nhân vật có nguồn gốc, lai lịch, có tên tuổi, có tính cách.

–        Nguồn gốc, lai lịch, tên tuổi: khai sinh ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam…xin nhập quốc tịch VN…,tên Bả Biên Giang, Ly Tiên

–        Tính cách

  + Tính cách hung bạo hiểm ác:

·         Địa hình hiểm trở: Sông Đà hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân thật dữ tợn với những hút nước sâu thăm thẳm, những quãng sông đầy ghềnh thác, những vách đá dựng thành vách.

·         Tính cách hung bạo, hiểm ác của con sông Đà được miêu tả tập trung ở khúc thác dữ ® nghệ thuật nhân hóa, so sánh được sử dụng một cách đặc sắc để miêu tả nước  và đá ở khúc thác.

     Âm thanh dữ dội, cuồng nộ à tiếng nước  “ réo”, “tiếng nước thác nghe như là oán trách… van xin … khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng…”

     Nước như một đội quân hùng mạnh, dữ tợn: “mặt nước hò la vang dậy... có lúc chúng đội cả thuyền lên”.

       Ngoài nước, đá ở khúc thác dữ  cũng được miêu tả một cách sinh động

      Đá mai phục từ  ngàn năm để nhổm cả dậy vồ lấy thuyền.

      Mỗi hòn đá đều có tư thế riêng: đứng, ngồi, nằm…nhưng tất cả đều ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó.

      Đá bày thạch trận trên sông với hàng tiền vệ, boong-ke chìm, pháo đài nổi, mỗi hòn đá như   tướng dữ quân tợn  chỉ chờ  ăn chết cái thuyền .

      Đá như một đội quân hiểm ác, nhiều mưu mô, xảo quyệt à đánh khuýp quật vu hồi, dụ cái thuyền của đối phương, hất hàm hỏi cái thuyền…

   Nhận xét:

-          Được khắc họa bằng ngòi bút miêu tả điêu luyện, độc đáo với các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, nổi bật là nghệ thuật so sánh,nhân hóa giàu liên tưởng và lớp ngôn ngữ tượng hình,phong phú làm nổi bật phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

-          Sông Đà như một sinh thể có hồn, một nhân vật có tính cách, có hoạt động, là “kẻ thù số một” của người lái đo, , là một mụ dì ghẻ ác độc.

-          Tính cách hung bạo, dữ dội của con sông “hung dữ nhất Đông Dương “cũng là vẻ đẹp hùng vĩ của Sông Đà.

+  Tính cách trữ tình, thơ mộng, hiền hòa:

·         Hình dáng “ Sông Đà uôn dài…nương xuân” : Từ trên cao nhìn xuống, sông Đà đẹp, thơ mộng, mềm mại, uyển chuyển như mái tóc của một người thiếu nữà  Câu văn giàu nhạc điệu kết hợp nghệ thuật so sánh độc đáo gợi liên tưởng Sông Đà như hình ảnh của người thiếu nữ Tây Bắc kiều diễm, trẻ trung, duyên dáng.

·         Màu sắc: Màu nước sông Đà chuyển đổi theo tiết mùa, mùa xuân dòng xanh  ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữaàNước của dòng sông thay đổi theo mùa, theo phong cảnh hai bên bờ. Sự thay đổi sắc màu của dòng nước tạo cho Sông Đà vẻ đẹp thơ mộng, huyền ảo.

·         Bờ sông Đà hiền hòa, hoang sơ, tĩnh lặng

o    Chuồn chuồn , bướm bướm bay lượn…, cỏ gianh còn đẫm sương đêm, ngô non vừa mới nhú, đàn hươu…

o    So sánh độc đáo, sáng tạo: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.

·         Sông Đà gợi trong lòng người nhiều cảm xúc

o    Bâng khuâng, xao xuyến như gặp lại cố nhân.

o    Như đắm mình vào không khí thơ mộng, cổ kính của Đường thi.

o    Cảm nhận niềm vui tron vẹn như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm…

o    Cảm xúc tình tứ, tha thiết của một người tình nhân chưa quen biết.

ð       NHẬN XÉT:

–        Với tài năng nghệ thuật của một nhà văn, đôi mắt của một họa sĩ và sự nhạy cảm, tinh tế của một tâm hồn yêu cái đẹp, ưa “xê dịch” kết hợp sự liên tưởng phong phú, độc đáo, Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà như một công trình nghệ thuật của tạo hóa.

–         Qua đó tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước, niềm tự hào về cảnh sắc quê hương tươi đẹp, một biểu hiện của tình yêu nước.

–        Xây dựng hình tượng Sông Đà Nguyễn Tuân thể hiện phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác:

      + Nhìn sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mỹ, tô đậm cái phi thường, tuyệt vời của cảnhvật.

      + Vận dụng kiến thức của nhiều ngành khác nhau để xây dựng hình tượng con sông.

b.      Hình ảnh người lái đò trên Sông Đà:

v     Ngoại hình: Ông lái đò có một ngoại hình đặc biệt. Dấu ấn nghề nghiệp in đậm trên cơ thể, giọng nói, “nhỡn giới” của ông.

v     Nguồn gốc, lai lịch:

-          Ông lái đò Lai Châu, quê ở ngã tư sông sát tỉnh.

-           Ông là người từng trải trong nghề chở đò dọc suốt sông Đà đã mười năm liền.

v     Sự hiểu biết về sông Đà:

-          Ông nắm chắc từng luồng lạch, từng ngọn thác… và đặc biệt ông nắm rất vững quy luật của “thần sông, thần đá” trên con sông nổi tiếng vùng Tây Bắc.

-          Ông am hiểu sông Đà tường tận:  Trí nhớ ông được rèn luyện …….những đoạn xuống dòng.

=> Ông lái đò là người rất gắn bó với nghề nghiệp, từng trải trong nghề chèo đò.

v     Ông rất thích vượt thác

v     Cuộc vượt thác của ông lái đò

–     Trền nền sông nước Đà giang hùng vĩ ông lái đò hiên lên với tư thế của một dũng tướng tài năngvà phong thái của một nghệ sĩ tài hoa trong cuộc vượt thác.

–     Mặc dù bị thương, ông vẫn bình tĩnh cố nén vết thương để giữ vững tay lái, ông đương đầu với thác nước sông Đà một cách dũng cảm, quyết liệt, thông minh, táo bạo như một tay vượt thác nhà nghề àVượt qua ba trùng vi thạch trận một cách điêu luyện, linh hoạt ( cưỡi lên thác sông Đà,  nắm chắc lấy bườm sóng…).

–     Sau cuộc vượt thác, ông lái đò ung dung tự tại “đốt lửa trong hang đá, bàn tán về cá anh vũ…”

v     Ý nghĩa hình tượng nhân vật

-          Xây dựng hình tượng ông lái đò Nguyễn Tuân thể hiện phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác – nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.

-          Nguyễn Tuân đã khắc họa bức chân dung của con người lao động mới vừa hiên ngang, khí phách, oai phong, hùng dũng vừa tài hoa trong cuộc đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên để giành sự sống. Nhà văn cũng thể hiện quan niệm mới mẻ, độc đáo về người anh hùng và người nghệ sĩ:

·         Người anh hùng không chỉ xuất hiện trên chiến trường mà còn có trong cuộc sống lao động hằng ngày, trong cuộc chiến đấu với thiên nhiên để giành sự sống.

·         Người nghệ sĩ không chỉ làm công tác nghệ thuật mà còn là nguời có tài, có tâm huyết trong nghề nghiệp.

4.      NGHỆ THUẬT

-          Thể hiện phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

-          Ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bật ngờ và thú vị.

-          Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và sức gợi cảm cao.

-          Câu văn đa dạng, giàu nhịp điệu, giá trị tạo hình cao.

5.      Ý NGHĨA:

–        Giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động ở miền Tây Bắc của Tổ quốc.  

–        Qua hình ảnh ông lái đò và con sông Đà, tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người và cuộc sống mới ở vùng cao Tây Bắc.

–        “Người lái đò Sông Đà” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, ngôn ngữ kì tài của “bậc thầy ngôn ngữ tiếng Việt”.Thiên tuỳ bút ấy đã kế thừa nét riêng biệt đặc sắc về đề tài, nguồn cảm hứng trong phong cách của Nguyễn Tuân - cảm hứng trước cái dữ dội, tài hoa, tuyệt mỹ.                               

Hình tượng con Sông Đà 9

Mở bài

Giới thiệu khái quát về nhà văn Nguyễn Tuân (những đặc điểm cơ bản về tiểu sử, con người, cuộc đời, các sáng tác tiêu biểu, phong cách nghệ thuật,…)

Giới thiệu khái quát về tác phẩm “Người lái đò sông Đà” (khái quát hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, đề tài, chủ đề, đặc sắc về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,…)

Giới thiệu khái quát về đối tượng cần phân tích: Hình tượng con sông Đà.

Thân bài

Tính cách hung bạo, dữ dội của sông Đà

Dòng chảy: mọi dòng sông đều chảy về hướng đông thì chỉ có duy nhất sống Đà chảy về hướng bắc.

 Những vách đá dựng đứng.

Mặt ghềnh Hát Loong:

Điệp từ “xô” được lặp lại nhiều lần đã diễn tả cuộc truy đuổi quyết liệt của sông Đà.

Sử dụng từ láy “gùn ghè”, “cuồn cuộn” thể hiện dáng vẻ giận dữ, đầy dữ dội, hậm hực.

Những thác nước với âm thanh vang dội, mạn rợn và hoang dại. 

Những cái hút nước:

Tác giả đã sử dụng hình ảnh so sánh “hút nước như những cái giếng bê tông” kết hợp liên tưởng “trên mặt cái hút nước xoáy tít đáy đang lừ lừ những cánh quạ đàn” với cách dùng từ độc đáo “xoáy tít đáy” gợi ấn tượng những hút nước sâu và nguy hiểm

Miêu tả âm thanh của những cái hút nước bằng biện pháp so sánh và nhân hóa “nước ở đây thở và kêu như cửa sông cái bị sặc”, “giếng sâu”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”

Hình nh ảnh liên tưởng, so sánh độc đáo “những con thuyền đi qua quãng đó phải chèo thật nhanh y như ô tô sang số ấn ga để hút qua”. 

Mượn góc nhìn của điện ảnh để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả để người đọc có thể cảm nhận rõ nét về dòng sông.

Thạch trận:

Sử dụng biện pháp nhân hóa để làm rõ chân dung, hình dáng, tính cách của từng hòn đá –

Sông Đà đã giao nhiệm vụ cho chúng bày binh bố trận thành ba tuyến: có hàng tiền vệ, tuyến giữa, boong ke chìm, pháo đài nổi. V

Chúng đã huy động sức mạnh tổng lực của mình để uy hiếp tinh thần con người  với những binh pháp đầy bí hiểm

Tính cách thơ mộng, trữ tình của sông Đà

 Từ trên máy bay nhìn xuống, dòng sông Đà uốn lượn mềm mại, duyên dáng.

Màu sắc: Sắc nước sông Đà thay đổi, biến ảo kì diệu

Dưới điểm nhìn của một cố nhân: dòng sông mang vẻ đẹp cổ kính,mang màu sắc Đường thi.

Dưới điểm nhìn của một du khách: 

Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng và hoang sơ: thể hiện qua hai hình ảnh so sánh gợi cảm giữa cái cụ thể với cái trừu tượng.

Vẻ đẹp tràn đầy sức sống: thể hiện qua hàng loạt các hình ảnh sinh động, gợi cảm, những nương ngô đang nhú lên những lá non đầu mùa, những khóm cỏ gianh đang ra những búp nõn 

Kết bài

Khái quát lại những nét cơ bản của hình tượng con sông Đà và nêu cảm nghĩ của bản thân. 

Hình tượng con Sông Đà 10

I. MỞ BÀI

-     Trong tập tùy bút Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa được nhiều bức tranh thiên nhiên sinh động, hấp dẫn của vùng núi rừng vừa hùng vĩ, hiểm trở, vừa tuyệt vời thơ mộng ở phía Tây Bắc của Tổ quốc. Dưới ngòi bút của nhà văn, miền đất này hiện lên thật tươi đạp với những núi xa, núi gần miên man như trùng vi thạch trận, với những thung lũng vàng một màu lúa chín, với bao nhiêu loài hoa tỏa hương sắc...

-     Nhưng tiêu biểu nhất, được nhà văn tập trung bút lực mô tả công phu nhất, phải kể đến hình ảnh con sông Đà hùng vĩvừa hung bạo vừa nên thơ trong tùy bút Người lái đò sông Dà.

II. THÂN BÀI

A. SÔNG ĐÀ "HUNG BẠO"

Sông Đà được nhà văn xây dựng thành một "nhân vật" có mặt suốt từ đầu đến cuối thiên tùy bút, tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm này. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, sông Đà không còn là một con sông vô tri, vô giác, mà là một "nhân vật" có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động thật phong phú và phức tạp. Tác giả đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Hai đặc điểm hung hạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.

1. Cái hung bạo của sông Đà không chỉ ở những con thác, mà còn ở quang cảnh hùng vĩ với vẻ huyền bí, hoang sơ của dòng sông chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc. Như một nhà quay phim lão luyện, vừa cho người xem thấy bao quát khung cảnh sông Đà, thỉnh thoảng tác giả lại dừng lại, cho khán giả những pha "cận cảnh" thật tiêu biểu về sự hung dữ của con sông này.

Đấy là những cảnh thật hiếm thấy như cảnh đá bờ sông dựng vách thành, chỉ khi nào đến giữa trưa, mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới có ánh nắng. Cách so sánh trên tạo được ấn tượng khá đậm nét về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút khôn cùng. Có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hấu. Vì thế, dòng chảy của con sông bị thu lại rất hẹp: hẹp đến mức đứng bên này hờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách; hẹp đến mức cố quãng con nai con hễđã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ấn tượng về độcao và thẳng của vách đá bờ sông và dòng chảy nhỏ hẹp càng được tô đậm thêm qua một chi tiết tiêu biểu và lối liên tưởng bất ngờ, thiên nhiên hoang sơ gần với đời sống hiện đại của con người: Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hề một cái ngõ mà... ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Nhà văn chẳng những sử dụng thị giác, mà còn kết hợp sử dụng các giác quan khác với những so sánh thật mới mẻ và táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi lên sự hiểm trở, hùng vĩ, lòng sông hẹp lại gián tiếp gợi được sức chảy ghê gớm., dữ dằn của thác lũ.

2. Tính chất hung bạo còn thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông với sự hợp sức của gió, của sóng và của đá. Dường như chúng phối hợp với nhau một cách chặt chẽ để tăng thêm sức mạnh uy hiếp, đe dọa con người: quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy. Ởđây, một phần câu văn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn, gọn, diễn đạt bằng điệp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo nhịp điệu khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển động của gió to và sóng lớn.

3. Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp: trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bêtông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Vì nước bị hút quá mạnh nên phát ra những âm thanh được nhân cách hóa như nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc do nước bên trong và ngoài cống chênh nhau quá nhiều, phát ra tiếng kêu ặc ặc ghê sợ. Để tô đậm thêm sự nguy hiểm của cái hút nước, nhà văn đã phối hợp giữa "tả" và "kể", ở đây, yếu tốtự sự góp phần quan trọng kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Nếu câu văn nêu trên thiên về tả thì hai câu dưới đây thiên về kể: Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý... ở khuỷnh sông dưới.

4. Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước. Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn sàng chặn đánh, tiêu diệt người lái đò, lái mảng, đặc biệt đối với những ai xuôi dòng, ở những nơi này, sông Đà được mô tả như có cả một bầy thủy quái vừa hung hăng, bạo ngược, vừa nham hiểm, xảo quyệt. Lúc thì thác nước khiêu khích, chê nhạo; khi thì hò la, gầm thét, như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Thác nước càng được nhân thêm sức mạnh, sức công phá, nhân thêm mối nguy hiểm đối với nhà đò vì sự góp mặt của hàng ngàn tảng đá to, nhỏ. Mỗi hòn đá được khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì mai phục ở nơi đây để bày thạch trận trong lòng sông. Mỗi lần thấy một con thuyền nào nhô vào đường ngoặt sóng là chúng lập tức nhổm cả dậy để vồlấy thuyền. Tác giả đã dựng dậy và thổi sự sống vào cho những hòn đá vô tri giác, khiến người đọc hình dung chúng cũng táo tợn, hung bạo như một lũ giặc điên cuồng. Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, vẻ đẹp man dại, sức mạnh huyền bí của sông Đà đã hiện ra ở nhiều góc độ khác nhau. Đấy chính là tiềm năng to lớn của Đà giang khi nó được con người chinh phục. Đấy là "vàng trắng" quý báu của đất nước chúng ta. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân nghĩ tới hình ảnh của những tuốc-bin thủy điện. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai trò, vị trí của sông Đà trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.

B. SÔNG DÀ "TRỮ TÌNH"

Sông Đà đâu chỉ hung bạo, đây còn là một dòng sông tuyệt vời thơ mộng. Đặc biệt, từ mạn Thác Bờ về xuôi, sông Đà chỉ còn vẻ dịu dàng, như bất kì một dòng sông nào ở vùng đồng bằng. Bởi vậy, bên cạnh tính hung bạo, Nguyễn Tuân rất chú trọng khắc họa tính trữ tình của dòng sông này. Vốn văn hóa, vốn từvựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những bài thơ.

1. Để khắc họa tính trữ tình, dịu dàng của dòng sông, trước hết, Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà một cách bao quát bằng một câu văn đầy hình ảnh và nhịp điệu: Con

Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, dầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Có thể coi đây là một bức tranh tổng thể về sông Đà, lúc đầu chảy ngoằn ngoèo giữa điệp trùng núi đá và dại ngàn Tây Bắc; nhưng khi về dần đến miền trung du, Đà giang chảy êm ả thẳng dòng.

2.Tác giả ngắm nhìn sông Đà ở nhiều thời gian, nhiều không gian khác nhau. Với tình cảm trìu mến thiết tha, nhà văn đã phát hiện được một cách tinh tế màu sắc của dòng sông biến đổi theo từng mùa. Xuân về, Đà giang xanhngọc bích, tức là màu xanh rất đẹp: vừa trong xanh lại vừa óng ánh, chứ không xanh như màu xanh canh hến. Khi thu sang, nước sông Đà chuyển thành màu lừ lừ chín đỏ... Như vậy, vào mỗi mùa, dòng sông đều có một vẻ đẹp riêng. Chính vì thế, Nguyễn Tuân bực bội khi bọn thực dân cướp nước lại gọi một cách thô bạo sông Đà là dòng sông Đen — sông có màu đen (riviere Noire).

3. Tác giả dành những đoạn văn hay nhất tả cảnh vật ven sông Dà. Để tôn thêm tính trữ tình của dòng sông, nhà văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy chất thơ. Nhịp điệu câu văn lúc thì hối hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn đạt theo lối điệp (bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà) để diễn tả niềm sung sướng đang trào dâng trong lòng tác giả; lúc thì chậm rãi, như tãi ra để diễn tả cái vắng lặng rất nên thơ của con sông này: Cảnh ven sông ở đây lặng tờ... như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Hình ảnh một bờ tiền sử, một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa có sức khơi gợi sâu xa, khắc họa được vẻ đẹp hoang sơ, tồn tại như vĩnh hằng của thiên nhiên. Với cách liên tưởng và ví von ấy, dường như sông Đà còn có vẻ đẹp của một con sông bền bỉ chạy qua tháng năm lịch sử, mang dấu tích văn hóa ngàn xưa của dân tộc.

Với một tình yêu thiên nhiên Tây Bắc tha thiết, tác giả nhìn sông Đà như một cố nhân và ghi nhớ mãi ấn tượng: ở rừng lâu ngày, một lần bám gót anh liên lạc bất chợt bắt gặp dòng sông Đà lóa nắng, ông nhớ tới một câu thơ đầy gợi cảm của Lí Bạch nói về buổi tiễn Mạnh Hạo Nhiên ở bên sông: "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" (Giữa tháng ba mùa hoa khói xuôi (thuyền) về Dương Châu).

III. KẾT BÀI

Tóm lại, bằng một tình yêu thiên nhiên đất nước thiết tha, bằng tài năng của một nghệ sĩ ngôn từ đích thực, đến Nguyễn Tuân, có lẽ lần đầu tiên con sông Đà của Tổ quốc đã bước vào văn học với vẻ dữ dội, hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng chứa chan thơ mộng, trữ tình của nó. Thì ra, với tác giả Người lái đò sông Đà, thiên nhiên cũng chính là một sản phẩm nghệ thuật vô giá, thiên nhiên luôn làm cho con người bị hấp dẫn, mê say.