Dàn ý Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 1
1. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ
Năm 1905 Phan Bội Châu lên đường sang Nhật Bản. Khi chia tay bạn bè, đồng chí, Phan ứng khẩu đọc bài thơ này. Bối cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam lúc đó có những điểm đáng chú ý sau:
- Đất nước ta đang trong một hoàn cảnh chính trị rất đen tối, các cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp đã hầu như tan rã, thực dân Pháp đã làm chủ tình thế, ách đô hộ đã mặc nhiên quàng lên đầu lên cổ nhân dân. Nói như Phan Châu Trinh:
Vạn dân nô lệ cương quyền hạ,
Bát cổ văn chương túy mộng trung.
(Muôn dân nô lệ một đàn,
Văn chương bát cổ nồng nàn giấc say.)
- Trong một bộ phận những người trí thức dân tộc, ý chí cứu nước không hề bị thui chột, nhưng vấn đề đặt ra cấp thiết là cứu nước bằng con đường nào? Và một ánh sáng mới đã bắt đầu loé lên. Người ta đón nhận những tư tưởng mới từ bên trời Âu truyền sang, người ta say sưa trước những thành tích duy tân của nước Nhật Bản, Trung Hoa. “Kì diều thay là sức quyến rũ của lí tưởng …thực tế càng ủ dột bao nhiêu thì cái viễn cảnh của tưởng tượng lại càng đẹp đẽ, thấm thía bấy nhiêu. Luồng máu nóng trong quả tim trai trẻ bị kích thíc đã bùng lên đến tột độ” (Đặng Thai Mai). Phan Bội Châu ra đi trong niềm say mê lí tưởng đó với một sứ mạng lịch sử đè nặng đôi vai: khôi phục lại đất nước, tái tạo giang sơn.
2. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ
Cảm hứng của bài thơ là cảm hứng lãng mạn hào hùng sôi trào nhiệt huyết và cháy bỏng khát vọng ước mơ.
- Chí làm trai:
Chí làm trai là một lí tưởng nhân sinh trong chế độ phong kiến, thể hiện tư tưởng nhập thế tích cực của đạo Nho. Chí làm trai đó thường gắn với cái mộng công danh:
Công danh nam tử còn vương nợ (Phạm Ngũ Lão)
Không công danh thời nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ)
hoặc để thoả cái chí tang bồng hồ thỉ:
Chí làm trai nam, bắc, tây. đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
(Nguyễn Công Trứ)
Và trong thực tế, không ít người đã lập nên công tích ở đời như Phạm Ngũ Lão từng “Múa giáo non sông trải mấy thu”, đánh đuổi giặc xâm lăng, giữ gìn đất nước; như Nguyễn Công Trứ từng khơi sông lấp biển, mang cuộc sống ấm no lại cho nhân dân…Phan Bội Châu cũng nói đến chí làm trai và cũng mong làm nên chuyện lạ ở đời:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Nhưng ở một nhà nho tân học, một nhà cách mạng nhiệt thành đang say mê hướng tới ánh sáng lí tưởng mới như Phan Bội Châu thì chuyện lạ đâu có phải là chuyện công danh, cũng đâu phải chỉ là phỉ sức vẫy vùng! Giữa lúc non sông chìm đắm, chí của Phan là chí xoay trời chuyển đất, lấp bể, vá trời chứ đâu chịu ngồi yên mà nhìn đất nước an bài theo ý muốn của bọn thực dân:
Há để càn khôn tự chuyển dời
Đó là lí tưởng sống mà vì nó Phan sẵn sàng hiến trọn cuộc đời mình, lí tưởng mà trước đó không lâu Phan đã nói rõ trong bài hát nói Chơi xuân:
Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ,
Nắm địa cầu vừa một tí con con.
Đạp toang hai cánh càn khôn
Đem xuân vẽ lại trong non nước nhà.
Với một lẽ sống như thế, tư thế con người trong vũ trụ là tư thế của một con người khổng lồ, con người làm chủ hoàn cảnh. Trong cảnh cá chậu chim lồng, giữa những tiếng thở dài bất lực "thời cơ đã lỡ rồi” của văn thơ Cần Vương cuối thế kỉ XIX, cái lẽ sống hào hùng, cái tư thế mạnh mẽ chủ động ấy có sức thu hút biết bao đối với cả một thế hệ thanh niên đương thời!
- Ý thức tự khẳng định mình giữa cuộc đời:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai?
Sự tự khẳng định này cũng là sự tự khẳng định của cái Tôi nhưng là một cái Tôi khác hẳn với cái Tôi cá nhân tư sản chỉ biết đòi hưởng thụ mà trốn tránh trách nhiệm với đời. Đây là một thái độ sống tích cực không buông trôi theo dòng đời mà cũng không thụ động chờ đợi . Cái Tôi ở đây là một cái Tôi trách nhiệm chủ động ghé vai gánh vác trọng trách ở đời. Lẽ sống anh hùng ấy gắn gắn liền với một nhân sinh quan thật cao cả, đẹp đẽ, nó vượt ra ngoài cái danh lợi tầm thường, tuy vẫn có ước vọng thật chính đáng là để lại tiếng thơm muôn đời.
- Quan niệm về vinh nhục:
Trong những tác phẩm văn học khác, có lúc Phan Bội Châu đã nói: “Bôi mặt thờ kẻ thù sẽ là một vật bẩn thỉu trong vũ trụ” (Việt Nam quốc sử khảo), “Sao bằng ngẩng đầu lên làm người lỗi lạc của Tổ quốc” (Hoà lệ cống ngôn). Đó là quan niệm về nỗi nhục và vinh trong trong câu thơ này:
Non sông đã chết sống thêm nhục
Ở thời đại của Phan, không ít người thấm thía cái nỗi đau, nỗi nhục mất nước này, nhưng cách nói của Phan có cái gì đặc biệt, kích động tâm can con người. Một sự khẳng định thật dứt khoát, hàm chứa nỗi tức tối khôn nguôi “Giang sơn tử hĩ”(Non sông đã chết). Một sự phủ định cũng thật dứt khoát nhưng lại hàm chứa sự nóng bỏng sôi sục của con người không cam chịu cúi đầu; phủ định cuộc sống nhục nhã để tìm đến một lẽ sống vinh quang chứ không phải để chìm đắm trong đau buồn, thất vọng. Con người Phan là thế, lúc nào cũng sôi trào bầu nhiệt huyết.
- Thái độ với những thần tượng cũ:
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
Phan Bội Châu là một nhà nho, đã từng qua cửa Khổng, sân Trình, sách vở thánh hiền đã từng thấm sâu vào tim óc. Nhưng cùng với cả một thế hệ nhà nho tâm huyết lúc này, Phan đã được tận mắt thấy sự sụp đổcủa những thần tượng cũ trước làn sóng xâm lăng của thực dân, thấy sự bất lực của những tín điều xưa trước những vấn đề có liên quan đến sự mất còn của đất nước. Hơn thế nữa, ở thời đại “gió Âu, mưa Mĩ” này, một chân trời mới mẻ đã hé rạng trước mắt các nhà nho tiên tiến như Phan Bội Châu. Cái vốn sống, vốn tri thức ấy cộng với bầu nhiệt huyết sôi trào của một con người đang hăm hở tìm đường cứu nước đã giúp Phan Bội Châu có được một ý tưởng táo bạo và dứt khoát như thế với những cái gì đã cũ kĩ, lỗi thời, không đảm đương được trách nhiệm lịch sử đối với dân tộc nữa.
- Khát vọng và tư thế trong buổi lên đường:
Từ đầu bài thơ là những lời bộc bạch đầy hào khí, đến hai câu kết này, tác giả mượn một hình ảnh thơ thật đẹp, thật hùng tráng để bày tỏ lòng mình:
Muốn đuổi theo ngọn gió dài để đi ra biển Đông,
Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên.
Phan Bội Châu ra đi lần này là để đi “tìm hình của nước”, để tiếp cận cái chân trời mơ ước đã mở ra từ những trang sách “tân thư”. Cho nên trong hành trang Phan Bội Châu mang theo không phải chỉ có cái chí “Đem xuân vẽ lại trong non nước nhà” của bản thân, mà còn cả biết bao kì vọng của bạn bè, đồng chí, của nhân dân. Trách nhiệm đè nặng đôi vai, nhưng tâm hồn thì như đã rứt tung xiềng xích, thả sức cho khát vọng ước mơ. Những ngọn gió dài (trường phong) và muôn trùng sóng bạc cùng một lúc bay lên (Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi) đã chắp cánh cho những khát vọng, ước mơ đó. Ta có cảm giác chính nhà cách mạng, nhà thơ này đã hoá thân thành những cánh chim bằng bay vút lên giữa sóng gió biển khơi, giữa cao rộng đất trời…Hình ảnh mang tính chất anh hùng ca này là kết tinh toàn bộ cái cảm hứng lãng mạn, hào hùng, cái tư thế khoẻ khoắn, hăm hở đầy nhiệt huyết, cái quyết tâm phi thường của nhân vật trữ tình là chính tác giả trong suốt bài lưu biệt này.
Cùng với sự ra đi này của Phan Bội Châu, bài thơ Xuất dương lưu biệt có thể xem như mở đầu cho một loạt anh hùng ca của thời đại mới.
Dàn ý Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 2
1. Mở bài
- Sơ lược về Phan Bội Châu.
- Giới thiệu Lưu biệt khi xuất dương.
2. Thân bài
a. Hai câu thơ đề: Quan niệm về chí làm trai trong thời đại mới:
- Thân nam nhi sống ở trên đời phải tạo ra được chữ “lạ” cho riêng mình, không cam chịu cuộc sống bình thường mờ nhạt, mà phải có lý tưởng cao đẹp, những ước mơ và kỳ vọng lớn, tráng chí ở bốn phương.
- Dám tự thách thức bản thân mình vượt ra khỏi cái vòng an toàn, vượt qua được chướng ngại chi ly, được mất để đạt được những thành công lớn, làm nên sự nghiệp hiển hách, phi thường, khác lạ mà hiếm kẻ làm được.
- “Há để càn khôn tự chuyển dời”. Thể hiện ý chí mạnh mẽ, thái độ hiên ngang, ý muốn thách thức, ngang tầm với vũ trụ, rằng thân trai tráng cần phải nắm chắc và tự quyết định lấy vận mệnh cuộc đời một cách quyết liệt và mạnh mẽ.
b. Hai câu thực: “Trong khoảng trăm năm cần có tớ/Sau này muôn thuở há không ai” chính là nhận thức của tác giả về trách nhiệm của người làm trai với đất nước, dân tộc, là món nợ công danh cần phải đáp đền.
- Khoảng thời gian “trăm năm”,ngụ ý chỉ về một kiếp người và gợi nhắc về một thế kỷ biến động của dân tộc.
- “Trong khoảng trăm năm cần có tớ” là ngụ ý của tác giả về tầm quan trọng của bản thân trong công cuộc phục hưng, bảo vệ đất nước.
- “Sau này muôn thuở há không ai?” lại là một câu hỏi ngỏ, thể hiện sự kỳ vọng, cũng như sự khích lệ của tác giả đối với tầng tầng lớp lớp các thế hệ thanh niên và mai sau nữa.
c. Hai câu luận: tầm nhận thức tân tiến của một nhà nho yêu nước, một nhà cách mạng kiểu mới trước tình hình dân tộc.
- “Non sông đã chết” đó là cái chết của chủ quyền dân tộc, chủ quyền lãnh thổ và sự suy tàn của chế độ phong kiến.
- “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”, nhìn thẳng vào vấn đề, bóc trần sự tụt hậu của nho học, vạch rõ nguyên nhân khiến đất nước lâm vào tình trạng yếu hèn.
- Việc phủ nhận nền Nho học vốn đã gắn bó với mình bao nhiêu lâu ấy quả thực là nỗi đau xót vô cùng lớn của tác giả, nhưng với nhân cách cũng như lý tưởng cao đẹp và lòng quyết tâm của một chí sĩ yêu nước, thì không nỗi đau nào vượt qua được nỗi đau mất nước. Mà với tư cách người làm trai, ông lại càng phải thể hiện vai trò phục hưng Tổ quốc bằng con đường tiên tiến chứ không phải là ôm mãi giấc mộng huy hoàng đã qua.
=> Thấy được tâm hồn phóng khoáng, mạnh mẽ và tự do của một chí sĩ yêu nước chân chính, sẵn sàng hy sinh tất cả, nén nhịn nỗi đau cá nhân vì lợi ích của dân tộc, của đất nước, để hoàn trả món nợ công danh.
d. Hai câu thơ kết “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” chính là hình ảnh người chí sĩ yêu nước lên đường vượt biển xa quê hương để tìm tới chân trời mới, học hỏi những kiến thức mới để quay về phụng sự cho Tổ quốc, dân tộc với phong thái hiên ngang và tự tin vô cùng.
3. Kết bài:
Nêu cảm nghĩ.
Dàn ý Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 3
I. Mở bài
– Trình bày cuộc đời và sự nghiệp của tác giả, nhà yêu nước Phan Bội Châu.
– Nêu lên nội dung chính và sự quan trọng bài thơ Lưu biệt khi xuất dương (tinh thần yêu nước của tác giả).
II. Thân bài
– Phân tích 2 câu thơ đề: Quan niệm của tác giả về chí làm trai trong trời đất.
+ Quan niệm đấng nam nhi phải có khát vọng, không cam chịu để cho trời đất xoay chuyển mình.
+ Chí làm trai phải dựa vào tài năng bản thân.
– Phân tích 2 câu thực: nêu lên ý thức và trách nhiệm bản thân trước thời thế hiện tại.
+ Câu 3: trách nhiệm cá nhân trước thời cuộc, vai trò, tầm quan trọng cá nhân với thời thế hiện nay.
+ Câu 4: Nghi vấn “cánh vô thuỳ” (há không ai?) khát vọng sống cống hiến nhằm dâng hết những điều tốt đẹp cho cuộc đời.
=> Ý thức rõ về trách nhiệm của cá nhân, tự nguyện gánh vác trọng trách của lịch sử.
– 2 câu luận : Quan niệm cá nhân Phan Bội Châu trước tình cảnh của đất nước “Non sống đã chết”, “đất nước rơi vào tay giặc”.
Quan niệm mới mẻ, khác với người xưa khi khẳng định “sống thêm nhục”.
Phan Bội Châu cảm nhận sự tồn vong cá nhân liên quan trực tiếp với sự tồn vong dân tộc. Ông đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao nhất đối lập với quan điểm cứu nước lỗi thời, lạc hậu của các nhà Nho đương thời.
– Hai câu kết: Tầm vóc và khát vọng của nhà cách mạng trước khi lên đường.
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Tiên trùng bạch lãng nhất tề phi”
=> Hình tượng kì vĩ được dùng trong câu kết như “trường phong” (ngọn gió dài) “Thiên trùng bạch lãng” (ngàn lớp sóng bạc) thể hiện tư thế lớn lao sánh ngang vũ trụ của nhà hoạt động cách mạng.
=> Ý chí con người mạnh mẽ, vươn mình ra bốn phương, thể hiện bản lĩnh cá nhân.
III. Kết bài
– Nêu lại những nét đặc sắc nghệ thuật nổi bật của bài thơ.
– Nêu giá trị tư tưởng của tác phẩm.
– Liên hệ với ý chí, khát vọng nhà yêu nước trong thời điểm hiện tại.
Dàn ý Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 4
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Phan Bội Châu
- Giới thiệu chung về tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương
II. Thân bài
a. Hai câu đề: Quan niệm mới về chí làm trai
“Sinh vi nam tử yếu hi kì”
- Làm trai phải mong có sự lạ “hi kì”: phải có lí tưởng sống, lẽ sống lớn lao, cao đẹp, dám mưu đồ những việc phi thường hiển hách. Không chấp nhận sự nhợt nhạt, tầm thường.
“Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”
- Không để trời đất tự xoay vần cuộc đời mình, con người phải tự tạo ra cuộc đời, thời thế của mình, giành lấy thế chủ động để tự quyết định số phận của mình. Giọng điệu tự tin, táo bạo của một con người khẩu khí
=> Tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi phải tin tưởng ở mức độ và tài năng của mình => Tuyên ngôn về chí làm trai.
b. Hai câu thực: Khẳng định ý thức trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc
“Ư bách niên trung tu hữu ngã”
- “Bách niên”: trăm năm là khoảng thời gian ước lệ nói về cuộc đời của mỗi con người, cũng có ý chỉ thế kỉ nhiều biến động.
- “Tu hữu ngã”: phải có ta. Tác giả tự xưng bản thân mình là “ta” một cách ngạo nghễ.
=> Ý thức trách nhiệm của cái tôi cá nhân trước thời cuộc, ý thức rõ vai trò, tầm quan trọng của cá nhân đối với vận mệnh trăm năm. Điều này đối lập với sự tự cao cá nhân.
“Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
- “Cánh vô thùy” (há không ai): câu hỏi hướng đến thế hệ tiếp nối sau này, đặc biệt là thế hệ thanh niên đang mang tâm lí hoang mang, bế tắc. Phan Bội Châu là người sớm giác ngộ cách mạng, người yêu nước điển hình, ông có đủ dung khí để đi theo con đường mình đã chọn. Ông lo lắng không biết thế hệ sau có nhận thức được như mình hay không?
=> Câu thơ mang mục đích tuyên truyền, cổ vũ cách mạng.
c. Hai câu luận: Thái độ quyết liệt trước tình cảnh đất nước
“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế”
- Tác giả nhận thức về thực trạng của đất nước “giang sơn tử hĩ” (non sông đã chết), đất nước đã chết, rơi vào tay kẻ khác, chỉ còn là “cái xác không hồn”
=> Tác giả trực tiếp bộc lộ cảm xúc của mình “sinh đồ nhuế” (sống thêm nhục). Đây chính là biểu hiện của lòng yêu nước.
Liên hệ: Quan niệm về lẽ nhục vinh trong văn học trung đại
Trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã viết: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; còn hơn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”
=> Phan Bội Châu thể hiện thái độ không cam chịu khi nhận thức được nỗi nhục mất nước:
“Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”
- Phan Bội Châu phủ nhận nền học vấn nho học, nhận ra con đường khoa cử là vô ích. Người cách mạng cảm nhận sự tồn vong của mình trong mối quan hệ trực tiếp với sự tồn vong của dân tộc => hành động cởi mở, luôn tiếp thu những tư tưởng mới mẻ, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đối lập với quan điểm cứu nước trì trệ, lạc hậu của các nhà Nho đương thời.
Liên hệ: Nguyễn Khuyến cũng từng đặt câu hỏi “Sách vở ích gì thời buổi ấy”
d. Hai câu kết: Khát vọng hành động, tư thế buổi lên đường
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”
- Tác giả dựng bối cảnh kì vĩ, hiện lên qua hình ảnh thơ “trường phong” (ngọn gió dài), “thiên trùng bạch lãng” (ngàn đợt sóng bạc)
=> Từ hình ảnh đó làm nổi bật lên tư thế của con người đầy lẫm liệt, oai phong “nhất tề phi” (cùng bay lên), một tư thế của con người đang vượt lên hiện thực đầy tăm tối của thời cuộc, tư thế sánh ngang vũ trụ của con người.
=> Thể hiện khát vọng hành động: ra đi tìm đường cứu nước
III. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
Dàn ý Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 5
1. Mở bài
- Sơ lược về Phan Bội Châu.
- Giới thiệu Lưu biệt khi xuất dương.
2. Thân bài
a. Hai câu thơ đề: Quan niệm về chí làm trai trong thời đại mới:
- Thân nam nhi sống ở trên đời phải tạo ra được chữ “lạ” cho riêng mình, không cam chịu cuộc sống bình thường mờ nhạt, mà phải có lý tưởng cao đẹp, những ước mơ và kỳ vọng lớn, tráng chí ở bốn phương.
- Dám tự thách thức bản thân mình vượt ra khỏi cái vòng an toàn, vượt qua được chướng ngại chi ly, được mất để đạt được những thành công lớn, làm nên sự nghiệp hiển hách, phi thường, khác lạ mà hiếm kẻ làm được.
- “Há để càn khôn tự chuyển dời”. Thể hiện ý chí mạnh mẽ, thái độ hiên ngang, ý muốn thách thức, ngang tầm với vũ trụ, rằng thân trai tráng cần phải nắm chắc và tự quyết định lấy vận mệnh cuộc đời một cách quyết liệt và mạnh mẽ.
b. Hai câu thực: “Trong khoảng trăm năm cần có tớ/Sau này muôn thuở há không ai” chính là nhận thức của tác giả về trách nhiệm của người làm trai với đất nước, dân tộc, là món nợ công danh cần phải đáp đền.
- Khoảng thời gian “trăm năm”,ngụ ý chỉ về một kiếp người và gợi nhắc về một thế kỷ biến động của dân tộc.
- “Trong khoảng trăm năm cần có tớ” là ngụ ý của tác giả về tầm quan trọng của bản thân trong công cuộc phục hưng, bảo vệ đất nước.
- “Sau này muôn thuở há không ai?” lại là một câu hỏi ngỏ, thể hiện sự kỳ vọng, cũng như sự khích lệ của tác giả đối với tầng tầng lớp lớp các thế hệ thanh niên và mai sau nữa.
c. Hai câu luận: tầm nhận thức tân tiến của một nhà nho yêu nước, một nhà cách mạng kiểu mới trước tình hình dân tộc.
- “Non sông đã chết” đó là cái chết của chủ quyền dân tộc, chủ quyền lãnh thổ và sự suy tàn của chế độ phong kiến.
- “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”, nhìn thẳng vào vấn đề, bóc trần sự tụt hậu của nho học, vạch rõ nguyên nhân khiến đất nước lâm vào tình trạng yếu hèn.
- Việc phủ nhận nền Nho học vốn đã gắn bó với mình bao nhiêu lâu ấy quả thực là nỗi đau xót vô cùng lớn của tác giả, nhưng với nhân cách cũng như lý tưởng cao đẹp và lòng quyết tâm của một chí sĩ yêu nước, thì không nỗi đau nào vượt qua được nỗi đau mất nước. Mà với tư cách người làm trai, ông lại càng phải thể hiện vai trò phục hưng Tổ quốc bằng con đường tiên tiến chứ không phải là ôm mãi giấc mộng huy hoàng đã qua.
=> Thấy được tâm hồn phóng khoáng, mạnh mẽ và tự do của một chí sĩ yêu nước chân chính, sẵn sàng hy sinh tất cả, nén nhịn nỗi đau cá nhân vì lợi ích của dân tộc, của đất nước, để hoàn trả món nợ công danh.
d. Hai câu thơ kết “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” chính là hình ảnh người chí sĩ yêu nước lên đường vượt biển xa quê hương để tìm tới chân trời mới, học hỏi những kiến thức mới để quay về phụng sự cho Tổ quốc, dân tộc với phong thái hiên ngang và tự tin vô cùng.
3. Kết bài:
Nêu cảm nghĩ.
Dàn ý Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 6
1. Mở bài:
Ÿ Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
– Tác giả:
Phan Bội Châu (1867- 1940) quê ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Phan Bội Châu vừa là nhà yêu nước và cách mạng, vừa là cây bút xuất sắc của văn thơ cách mạng, để lại kho tang thơ văn đồ sộ.
Tác phẩm tiêu biểu: VN phong quốc sử, hải ngoại tuyết thư, ngục trung thư.
– Tác phẩm:
Bài thơ sáng tác 1905, tác giả từ giã bạn bè trước lúc lên đường sang Nhật Bản.
Thể thơ: Thất ngôn bát cú đường luật.
2. Thân bài:
4 câu thơ đầu: Quan niệm về chí làm trai:
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời. ”
– Làm trai là phải “lạ”: là phải biết sống cho phi thường hiển hách. Dám mưu đồ những chuyện kinh thiên động địa, xoay chuyển càn khôn.
=>Quan niệm này gần gũi với lí tưởng nhân sinh của các nhà nho thuở trước nhưng nó táo bạo hơn, quyết liệt hơn: con người dám đối mặt với vũ trụ, với đất trời để tự khẳng định mình.
=>Chính lí tưởng sống ấy đã tạo cho con người một tư thế khỏe khoắn ngang tàn ngạo nghễ thách thức càn khôn, đó là một tư thế chủ động trước thời cuộc.
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?”
– Triển khai ý cụ thể về quan niệm chí làm trai của hai câu thơ đầu.
-Chí làm trai phải gắn với ý thức về cái tôi chứ không thể nào sống tầm thường, tẻ nhạt, buông xui theo số phận. Đó là cái tôi công dân đầy trách nhiệm trước cuộc đời.
– Nghệ thuật:
+ Với nghệ thuật đối ý, tác giả khẳng định trong một khoảng trăm năm cần có sự tồn tại của mình và sau này không lẽ không có ai hiểu và tiếp bước quan niệm của ông hay sao.
+ Câu 3 khẳng định dứt khoác, câu 4 chuyển sang nghi vấn bằng câu hỏi tu từ nhằm khẳng định quyết liệt hơn một khát vọng sống hiển hách, phát huy hết tài năng để cống hiến cho đời.
=> Với cảm hứng lãng mạn bay bổng gắn với hình tượng nghệ thuật kì vĩ nhằm làm tăng sức mạnh của khát vọng và niềm tin.
Câu 5, 6: Thái độ và nhận thức của kẻ làm trai trước thời cuộc của đất nước.
“ Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!”
– Non sông đã chết có nghĩa là đất nước đã mất chủ quyền.
– Như vậy, sống mà làm nô lệ, sống mà không có quyền tự chủ thì chỉ thêm nhục mà thôi.
=> Điều đó khẳng định tấm lòng yêu nước của Phan Bội Châu.
– Hiền thánh đã vắng bong thì đọc sách vở cũng ngu thôi => đó là ý tưởng hết sức táo bạo và đầy dũng khí mang tính cách mạng.
=> Khí phách ngang tàn, táo bạo, quyết liệt của một nhà cách mạng tiên phong.
Hai câu thơ cuối:
“ Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi. ”
– Tư thế và khát vọng của buổi lên đường.
– Những hình ảnh lớn lao, kì vĩ: bể Đông cánh gió, muôn trùng sóng bạc đã tạo nên một tư thế ra đi như bay lên.
=> Hình ảnh ấy thật hào hung, lãng mạn, con người dường như được chắp đôi cánh thiên thần để bay trên thực tế tối tăm, nghiệt ngã, vươn ngang tầm vũ trụ. Đó là một tư thế hăm hở, đầy nhiệt huyết, tấm lòng yêu nước của Phan Bội Châu.
3. Kết bài:
Bằng giọng thơ tâm huyết có sức lay động mạnh mẽ, “Lưu biệt khi xuất dương” đã khắc họa vẻ đẹp hào hung của nhà chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX, với tư tưởng mới mẻ và khát vọng cháy bỏng trong buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước.