Cảm nhận bài thơ Tràng Giang của Huy Cận (30 mẫu)

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận chung nhất 1

I. Mở bài: giới thiệu về bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Huy Cận có những tác phẩm thơ nổi tiếng, mỗi bài thơ mang một phong cách rất riêng. Thơ của Huy Cận mang phong cách thơ hàm súc, triết lí và phục vụ cho cách mạng của nước ta. Một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng là Tràng giang, bài thơ nằm trong tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ thể hiện cảnh thu 1939, bài thơ được sáng tác khi tác giả nhìn bên bờ sông Hồng dưới dòng nước mênh mông sóng nước. chúng ta cùng đi tìm hiểu bài thơ để biết rõ về phong cách thơ của Huy Cận.
II. Thân bài: Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận

1.    Khổ 1: bức tranh thiên nhiên mênh mang, bất tận

·         Những vòng nước xô đuổi nhau đến tận chân trời

·         Qua khổ thơ còn thể hiện nổi buồn miên man của tác giả

·         Sự trôi nổi, phó mặc của tác giả trên dòng sông hữu tình

·         Tâm trạng chia li, tán tác

2. Khổ 2: không gian và thời gian qua bài thơ

·         Không gian hoang vắng, điều hiu

·         Không gian vắng lặng, tĩnh mịch

·         Không gian được đẩy vô tận

·         Cảnh vật khiến con người trở nên nhỏ bé

3. Khổ 3:

·         Không có sự giao hòa, liên quan giữa con người với con người

·         Cái tôi cô đơn, trống vắng, khát khao sự hòa hợp, đồng điệu giữa con người

·         Bức tranh thiên nhiên hiện lên một sự kì vĩ và tráng lệ

·         Nỗi buồn quê hương, đất nước, nỗi buồn da diết của tác giả, sâu sắc của nhà thơ

III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Bài thơ Tràng giang của Huy Cận thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người và thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của tác giả. Qua bài thơ ta cảm nhận được tình yêu của tác giả đối với thiên nhiên.

 Dàn ý Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận hay nhất 2

I. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ Tràng Giang

II. Thân bài

- Cảm nhận về khung cảnh thiên nhiên sông nước mênh mang, rộng dài và tâm trạng của nhà thơ.

+ Sóng gợn nhẹ gợi nỗi buồn mênh mang

+ “Tràng giang”, “điệp điệp” tô đậm nỗi buồn triền miên, kéo dài theo cả không gian và thời gian.

+ “Thuyền về nước lại” gợi sự chia lìa, xa cách, không hứa hẹn gặp gỡ.

+ Sự bơ vơ, lạc lõng, trôi nổi bất định giữa cuộc đời, “củi nhỏ cành khô” gợi sự nhỏ bé, tầm thường.

- Cảm nhận sự hoang vắng trong khung cảnh và sự cô đơn của nhà thơ

+ Khung cảnh hoang vắng, thưa thớt, thiếu vắng sự sống con người

+ Không gian mênh mông, lặng lẽ khắc họa sự cô đơn trong lòng tác giả

+ Khao khát một cây cầu bắc ngang để được giao lưu gần gũi với mọi người, cuộc đời

- Cảm nhận tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước của nhà thơ

+ Hình ảnh tráng lệ nhưng đượm buồn, “bóng chiều sa” gợi cảnh ngày tàn, “chim nghiêng cánh nhỏ” thể hiện sự bé nhỏ, mỏng manh.

+ Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương dợn dợn theo từng con nước lên xuống

+ Khao khát được trở về nhà, về quê hương như tìm một bến đỗ, chỗ dựa tinh thần cho tâm hồn cô đơn.

III. Kết bài

Nêu cảm nhận chung của em về bài thơ Tràng giang


 
Dàn ý Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 3

MB:

  • Giới thiệu đôi nét về tác giả Cù Huy Cận cùng bài thơ Tràng giang (thể hiện đậm nét hồn thơ tác giả trước Cách mạng tháng tám).
  • Khái quát một số nét đặc sắc nổi bật trong nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm.

TB:

  • Bức tranh thiên nhiên vô tận cùng nỗi buồn từ sóng nước.
    • Những xoáy nước xô đuổi nhau đến tận chân trời gợi cảm giác buồn trùng điệp.
    • Một nỗi buồn miên man kéo dài bất tận theo tâm trạng của chủ thể trữ tình. 
    • Sự trôi nổi và phó mặc của tác giả trên dòng sông hữu tình đó.
    • Miêu tả tâm trạng chia li và tan tác của chủ thể trữ tình trong bài thơ.
  • Nỗi buồn cảnh vật bến bờ cùng thời gian và không gian của bài thơ 
    • Sự hoang vắng và đìu hiu với không gian tĩnh mịch và vắng lặng.
    • Không gian được đẩy lên vô tận ngược lại với sự nhỏ bé của con người.
  • Cảm nhận bài thơ Tràng giang để thấy nỗi buồn thể hiện tình yêu đất  nước thầm kín 
    • Không có sự giao hòa giữa con người với con người cũng như con người với thiên nhiên.
    • Sự trống trải và cô đơn, khát khao đồng cảm giữa con người.
    • Một nỗi buồn thấm đượm đầy da diết về quê hương đất nước của nhà thơ. 

KB:

  • Khái quát những ý chính trong bài cảm nhận Tràng giang.
  • Tóm tắt giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
  • Bày tỏ suy nghĩ của bản thân khi cảm nhận bài thơ Tràng giang.

Chỉ với những nét chấm phá khi tả cảnh thiên nhiên bằng những biện pháp so sánh và tu từ độc đáo, nhà thơ Huy Cận đã làm lên không gian bao la bát ngát của thiên nhiên cùng với nỗi buồn sâu thẳm về những kiếp người. Tuy vậy, khi cảm nhận bài thơ Tràng giang, ta đều thấy giữa thiên nhiên và con người lại rất hòa hợp và đan quyện vào nhau. Qua đó, tác giả Huy Cận cũng bày tỏ tình yêu quê hương đất nước con người của chính bản thân ông. 

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 1

Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông rất giàu chất suy tưởng, triết lí, luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. Tràng giang là một trong những bìa thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ.

Ngay ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ.

Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngã

Củi mội cành khô lạc mấy dòng

Đứng trước cảnh mênh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên. Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh "sóng gợn" gợi cho ta liên tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vô tận cũng giống như nổi buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khôn nguôi. Con sóng ở giữa một dòng sông dài và rộng càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lòng không biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. Tác giả đã dùng những hình ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ông và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông.

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu

Lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh "cồn, gió, làng, chợ, bến" để giãi bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vậy trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được.

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan của mình đến một điểm mới.

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu

Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vô tận.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bèo trôi không biết dạt về đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thoát được nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ "đùn" cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là "núi bạc". Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nổi buồn của ông, giống như nổi buồn của ông tích tụ như núi cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim.

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Tác giả đã dùng tự láy "dợn dợn" để diễn tã những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra tích tắt cho thấy nổi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi.

Bài Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận hay nhất 2

Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930 - 1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như" "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động" "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng giang ". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng tám.

Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài

Sóng gợi Tràng giang buồn điệp điệp

....

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "anh" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "Tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa" Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài" "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.

Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế.

Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "Tràng giang " dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.

Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa.

Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc" "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa" bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao" "bến cô liêu".

Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như" sông, trời, nắng, cuộc sông con người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.

Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cần gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không... không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao"

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.

Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều" Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt Tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 3

Có những tác phẩm văn học vừa đọc xong, gấp lại là ta sẽ quên ngay, nhưng cũng có không ít những bài văn bài thơ, thật diệu kì, đã đi sâu vào lòng ta bằng một sức hút vô cùng mãnh liệt. Tràng giang của Huy Cận là một tác phẩm như vậy! Đọc Tràng giang, ta cảm thấy từng lời thơ, từng âm điệu... như những dòng chảy của một con sông, cứ len lỏi nhẹ nhàng nhưng chảy sâu vào tận đáy tâm hồn, khắc chạm vào đó những ấn tượng thâm trầm mà sâu sắc!...

“Thơ Huy Cận thường buồn”, Xuân Diệu, người bạn tri kỉ và cũng chính là người bạn đời thân thiết của Huy Cận cũng đã phải thốt lên như vậy! Là hai người bạn thân thiết của nhau, là hai người thi sĩ đa tình cùng yêu mến và tìm đến với thế giới thiên nhiên vô tận, nhưng ở Xuân Diệu, thiên nhiên say đắm ngọt ngào hương vị ngôn ngữ tình yêu, còn nơi Huy Cận, thì cây cỏ núi sông lại bình thản lặng lẽ như thấm thía nỗi buồn của “cái tôi” lẻ loi cô độc. Tràng giang là một trong những kiệt tác kết tụ từ nỗi sầu “mang mang thiên cổ” đó! Đọc bài thơ, có lẽ ta sẽ bắt gặp được một nỗi buồn, nỗi buồn của chàng thanh niên mà “trọn kiết mắt chàng thường đẫm lệ”, nỗi buồn có lẽ rất… Huy Cận mà đã hơn một lần Xuân Diệu nói về nó như sau:

“Trong thơ Việt Nam, nghe bay dậy một tiếng địch buồn, không phai sáo thiên thai, không phải điệu ái tình, không phải lời li tao kể chuyện một cái tôi, mà ấy là một bản ngậm ngùi dài" có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc bông lau, có phải niềm than vãn của bờ sông bãi cát, có phai mặt trăng một mình đang cảm thông cùng các vì sao? Tiếng rền rĩ dịu em sẽ vấn lấy ta như một dải lụa ôm ấp một vế đau, tiếng len thấm thía vào hồn ta như khí hậu của núi đèo, tiếng làm thành sương đọng lệ trên mắt ta…”.

Một lời nhận xét thật hay! Mà có lẽ chỉ cần bấy nhiêu đó thôi, ta đã hiểu được khá nhiều về thơ Huy Cận!

Và đặc biệt là đối với Tràng giang …

Bài thơ chính là một bức tranh thiên nhiên mà linh hồn của nó là một nỗi buồn xa xăm, hoang vắng, có một cái gì đó như tàn lụi cô đơn".

Sóng gợi Tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Nhìn những cơn sóng nhỏ đang lặng lẽ gối đấu nhau mà đi xa đến tận cuối chân trời, tâm hồn nhà thơ bỗng dâng lên một nỗi buồn “điệp điệp”. Từ “điệp điệp” đã tạo nên hình ảnh một nỗi buồn ngàn trùng, một nỗi buồn triền miên, lớp lớp… Thường người ta nói trùng trùng điệp điệp để chỉ núi non, nhưng ở đây tác giả lại đem nó để miêu tả một nỗi buồn, đúng là một sáng tạo thật độc đáo tong cách dùng từ để hình ảnh hóa một nỗi buồn thật là lãng mạn! Âm điệu thơ như ngân xa da diết, như thân thuộc quen quen! Có lẽ Huy Cận đã liên tưởng đến một câu ca dao:

Sóng bao nhiêu gợn, dạ em sầu bấy nhiêu

Ở đây, có bao nhiêu gợn sóng trên dòng Tràng giang từ là có bấy nhiêu nỗi buồn thi sĩ. Câu thơ không chỉ nghiêng về số liệu mà còn nặng về sắc thái, nỗi buồn chỉ nhẹ nhàng lặng lẽ thôi nhưng da diết và dai dẳng, nó như vô tình ngàn xa và tạo thành một tiếng buồn vô tình, vang vọng mãi giữa đất trời vũ trụ…

Và… nổi bật giữa những lớp sóng bạt ngàn đó là hình anh của một con thuyền, một con thuyền nhỏ nổi bật giữa những lớp sóng nhưng cũng đang khuất chìm trong chúng! Hình ảnh độc đáo vô cùng! Chiếc thuyền con như đang lênh đênh, bập bềnh không định hướng, cứ xuôi mãi, xuôi mãi … theo dòng nước vô tận nghìn trùng…

Cụm từ “nước song song” cũng là một cấu tứ lạ mà ta chưa từng đọc bao giờ, nó đối với “buồn điệp điệp” ở câu trên như để gợi ra một nỗi buồn mênh mông trùng điệp!

Sang câu thơ thứ ba, nước và thuyền đã chuyển động ngược chiều nhau, con thuyền đã không còn trôi xuôi theo dòng nước nữa:

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng…

Thế cân bằng song song của câu thơ đã bị phá vỡ. Thuyền về, mà về đâu? … Không rõ! Chỉ để lại một mặt sông vắng bóng thuyền, nỗi cô đơn như trải rộng ra dường như vô tận. Hình ảnh con thuyền cứ khuất dần, khuất dần rồi xa mờ hẳn, nước đành chia “sầu trăm ngả”. Huy Cận đã khéo léo trong việc miêu tả sự vận động của sự vật để nói đến bước đi của không gian. Thời gian vận chuyển theo tầm nhìn con thuyền và không gian cũng mở rộng cùng với nó. Nếu như lúc trước, không gian chỉ xác định theo dòng nước đang chuyển động song song cùng với con thuyền thì hình bóng con thuyền đã trở nên mất dạng, không gian chợt mở rộng ra đến “trăm ngả”, vô tận mênh mông không có lấy một điểm tựa nào! Chính vì vậy, câu thơ thứ ba đã trở thành một đòn bẩy để nâng câu thơ cuối tạo thành một chi tiết độc đáo vô cùng:

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Độc đáo về hình ảnh thơ và cả ý thơ! “Củi một cành khô” có lẽ là một hình ảnh mà ta chưa từng bắt gặp bao giờ, chính nó đã đưa đoạn thơ thoát khỏi bầu không khí cổ kính để trở về với thời hiện đại" một cành củi khô đang nổi trội dập dềnh giữa muôn vàn cơn sóng, lúc bị đẩy bên này, lúc lại dạt sang bên kia… Đó có phải chăng là hóa thân của một kiếp người lữ thứ, luôn lạc lõng bơ vơ, bị cuốn trôi theo chiều xoáy cuộc đời?

Tràng giang đó, vẫn bình thản suy tư qua lớp sóng “buồn điệp điệp”, qua dòng khơi “nước song song” và qua vẻ hừng hờ mặc cho “thuyền về nước lại” mặc cho nhánh củi lạc loài trôi!… Tràng giang!… Sóng gợn Tràng giang!…

Sang khổ thơ sau, tác giả đã đi sâu vào việc mô tả chi tiết nỗi buồn. Cái buồn bang bạc cả không gian giờ đã không còn đi lang thang vô địch trên sông mà đã tấp vào một cồn đất nhỏ:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Cảnh trong bài thơ chứa đầy tâm trạng. Có lẽ Huy Cận đã tập trung tất cả các hình ảnh và nhạc điệu để làm nổi bật lên cái buồn của con người trước cảnh trời rộng sông dài. Cảm giác buồn gởi trong vần điệu, trong các từ gợi hình mong manh và cô quạnh! “Lơ thơ” gợi hình ảnh, “đìu hiu” gợi cảm giác, cả hai từ láy như đã được nhà thơ phát huy hết hiệu quả để mô tả nỗi buồn, một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, buồn đến lạnh lẽo cô đơn, đến rợp ngợp tâm hồn.

Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, có thể hiểu là “đâu đây có tiếng làng xa vãn chợ”, nhưng đó cũng có thể là câu hỏi mà tác giả đặt ra cho chính bản thân mình" “đâu rồi”, “có đâu” tiếng “làng xa vãn chợ?”…

Ở đây, Huy Cận đã vận dụng khá tự nhiên một thủ pháp quan trọng trong thủ pháp cổ điển" mượn cái “động” để nói đến cái “tĩnh”, cố tìm kiếm và lắng nghe một âm thanh động để lặng đi trong bầu không khí tĩnh lặng đến rợn người!

Nỗi buồn ấy như càng trải rộng hơn trước cái nền không gian mà tác giả dựng nên bằng những từ ngữ vô cùng độc đáo:

Năng xuống, trời lên, sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Cùng một lúc, Huy Cận đã sử dụng thủ pháp của một nhà nhiếp ảnh và nghệ thuật của một nhà hội họa để dựng nên một bức tranh độc đáo. Thông thường từ “chót vót” chỉ được dùng để diễn tả chiều cao, vào thơ sâu thăm thẳm" không gian như vụt lớn hơn ra. Trên bức tranh sông dài hiện thêm một nét trời cao “sâu chót vót”, vài cồn đất nhỏ, “bến cô liêu”. Thiên nhiên phóng khoáng hơn và tưởng chừng sẽ sống động hơn, nhưng không! Khi lòng người còn “đìu hiu”, “cô liêu” thì “cảnh có vui đâu bao giờ”… Vài dải đất giữa sông dài, vài ngọn gió “đìu hiu”, chưa đủ để làm tươi cảnh vật và âm thanh của “tiếng làng xa vãn chợ chiều” thì mơ hồ và mong manh lắm! Quanh tác giả giờ đây chỉ còn có thiên nhiên, một thiên nhiên với cái buồn ảo não và da diết đến bang bạc cả không gian và thời gian" những lớp tiếng sóng gợn Tràng giang, tiếng đìu hiu heo hắt của bờ lau khóm trúc, nỗi sầu vạn cổ tự ngàn xưa chợt theo gió thổi về! Giờ đây, giữa thiên nhiên vũ trụ rộng mênh mông bao la ấy, chỉ còn lại có một mình tác giả, một mình đứng lặng chôn chân trong quạnh quẽ, cô liêu, cũng như Trần Tử Ngang, ngàn năm trước cũng đã có cuộc viễn du tương tự như thế:

Ao người trước đã qua!

Ai người sau chưa tới?

Giữa trời đất vô cùng

Mình ta luôn giọt lệ!

Người cô đơn lại gặp cảnh hoang vắng tịch liêu thì nỗi cô đơn ngày càng thêm đậm. Khổ thơ thứ ba như mở ra cái khung cảnh dường như không có chút dấu vết nào của sự sống, một khung cảnh như đã bị chìm đắm trong thế giới của sự ngột ngạt đến vô cùng.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Nỗi buồn được mở rộng ra hơn, dù lời thơ có thêm được vài gam màu sắc nhạt nhòa! Cảnh có mở ra thêm bờ bờ bãi bãi, thêm ít màu sắc vàng tô điểm giữa bức tranh và thay thế "củi một cành khô" đơn độc lênh đênh đã là những đám bèo "hàng nối hàng" theo nhau đi mãi. Nhưng "hàng nối hàng" kia chợt xuất hiện trong dòng sông của nhà thơ như câu trả lời, đành để mặc cho tâm hồn mình trở thành một chiếc đảo cô đơn giữa mây trời sông nước" "Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề".

Một loạt các tình từ mênh mông lặng lẽ đã gợi lên không khí vắng vẻ u buồn, lại còn thêm những chi tiết phủ định" "Không một chuyến đò ngang”, không một chiếc cầu nối càng làng tăng nỗi cô liêu quạnh quẽ. Đến đây tình trạng cô đơn có lẽ đã lên tới đỉnh điểm, ước mong tìm thấy một "chút niềm thân mật" ở một “chuyến đò ngang”, một sự liên lạc nào đó với con người qua chiếc cầu nhỏ bé, nhưng tất cả đều không có được:

Thuyền không giao nối đây qua đó

Vạn thuở chờ mong một cánh buồm!

Đôi bờ sông như hai thế giới tách biệt nhau, bờ này tự thu mình không liên lạc với bờ kia! Dòng nước vẫn cứ vô tình hững hờ chảy. Tràng giang mỗi lúc một bao la, mỗi lúc mỗi ai hài dưới tâm tư trĩu nặng của người thi sĩ trẻ, đã sớm vương nỗi sầu thiên cổ mênh mang và những cánh bèo đang tản giạt trên lớp sóng nước kia có phải chăng chính là hình ảnh tượng trưng cho thân phận nhà thơ, của lớp người trẻ ở những năm ba mươi, cũng hoang mang vô địch, cũng mỏng manh nhỏ bé, cũng long đong nổi trôi theo dòng chảy bất tận của cuộc đời? Giống như tâm trạng mà Xuân Diệu một lần đã viết" "Chúng tôi cũng bơ vơ, mỗi hồn người là một cõi bơ vơ trong đất trời là một khung bơ vơ". Như vây, cái buồn của Huy Cận, của một chàng thi sĩ đã "hơn một lần gửi áo cho trăng" và lòng vẫn hay "sầu mưa", "tủi nắng” ấy không phải là cái buồn vô cớ, mà nó cũng chính là cái buồn của thời đại, mà nếu nói cho chính xác hơn thì đó là nỗi buồn của thanh niên tiểu tư sản trí thức lúc bấy giờ, những con người bị "giấc mơ con đè nát cuộc đời con" với những mảnh linh hồn nhưng lại bị "thiên hạ bỏ đìu hiu" với những đôi chân "muôn dấu rỗ, thủng gai đời"! Và có lẽ chính vì vậy hơn một lần họ đã từng than thở:

Nếu như chưa biết bao nhiêu lần hốt hoảng

Trong sầu đen đã gãy cánh như dơi

Nếu chưa biết bao nhiêu dòng lệ đắng

Chảy như sông không rửa sạch sầu đời!

Mượn dòng sông để soi linh hồn bé nhỏ cô đơn, nỗi buồn kia như lại càng thêm oằn sâu và trĩu nặng! Nhà thơ đã đem lại cái tâm trạng đầy cô đơn buồn bã ấy mà phủ lên cảnh vật thiên nhiên.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Trên giữa bầu trời xanh mênh mông, mây đùn lên trông giống như những ngọn núi bạc trắng xóa, chợt xuất hiện một cánh chim bé nhỏ mà "Bóng chiều sa nặng đến nỗi nó phải nghiêng cánh" (Xuân Diệu).

Dùng một vật hữu hình để diễn tả một cái vô hình. Thật khó để hình dung được ranh giới giữa cái nhỏ bé hữu hạn và cái lớn lao vô hạn mà Huy Cận đã đưa ra! Cảnh vật hiện lên trong thơ ông dù cho rất buồn nhưng vẫn chưa đựng được một cái gì đó hùng tráng và mạnh mẽ. Điều độc đáo ở đây chính là cách nhìn của nhà thơ! "Trong cánh chim nghiêng, tác giả đã thấy được bóng chiều sa!". Trong lúc Nguyễn Du thấy "bóng chiều" qua những nhánh "tơ liễu thướt tha" Hàn Mặc Tử thấy "bóng xuân sang" trên những giàn thiên lí, thì ở đây Huy Cận cũng tỏ ra tinh tế không kém khi nhận thấy "bóng chiều" về trên một cánh chim nghiêng! Một cánh chim lẻ loi, chấp chới trong ánh chiều đang xuống, khiến cho trời đất như rộng trải ra thêm! Không gian vừa mới trải mênh mông trong dáng dấp ngàn mây "lớp lớp" chất chồng, chợt ầm xuống hoàng hôn rất nhanh, đó cũng là khi tâm hồn người lữ khách chợt bâng khuâng nhớ đến quê nhà.

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Âm hưởng của thơ Đường triền miên trong câu cuối, mượn niềm luyến nhớ quê hương của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu.

Nhật một hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

Nhưng Huy Cận đã bộc lộ tình yêu đậm đà tha thiết hơn! Tình yêu khắc khoải nên thủy triều rạo rực xôn xao. Điệp từ “dợn dợn” cũng rập rờn như sóng Tràng giang “điệp điệp”, cái rập rờn trùng điệp chan chứa biết bao tình. Ngày xưa, nhà thơ Đường phải có “khói sóng trên sông”, Hồ Dzếnh phải có “khói buồn bay lên mây” mới có thể gợi nhớ quê hương, mới có thể “nhớ nhà trong điếu thuốc”, nhưng còn ở đây thì lại khác. Nhân vật trữ tình trong thơ Huy Cận đứng trước cảnh không sương, không khói hoàn hôn mà cũng rung rung nỗi nhớ về một miền quê xa khuất phía chân trời. Huy Cận chẳng cần ngoại cảnh! Lúc này cái buồn đã thành hình, không chỉ còn là cái cảm giác sầu mênh mông vời vợi do xúc cảm sinh tình khi ngắm nước Tràng giang. Hai câu kết được gói gọn trong những dòng cảm xúc thiết tha và đẹp đẽ! Và nó làm ta gợi nhớ đến những câu thơ ngày trước:

Đạm đạm trường giang thủy

Du du viễn khách tình

Bao phủ toàn bài thơ là một nỗi buồn rộng khắp và thấm thía, một nỗi buồn mà Hoài Thanh đã từng nhận xét" “Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ dừng ngựa trên non, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn… Người đã gợi dậy cái hồn buồn của Đông Á, người đã khơi gợi cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này!”.

Buồn nhưng không bi quan, không chán nản! Bài thơ hiện diện với tư cách là một bài thơ buồn nhưng vẫn đậm đà và lắng sâu một tình yêu quê hương tha thiết nồng nàn! Có phải chăng vì vậy mà Xuân Diệu đã từng ca ngợi" “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 4

Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tài năng Huy Cận và thể hiện rõ chất tâm hồn ông. Huy Cận cũng đã nhiều lần kể lại quá trình viết nó. Cảm hứng thơ được gợi từ phong cảnh sông nước vùng Chèm Vẽ ngoại thành Hà Nội. Bây giờ nơi này đã là nội thành đông đúc với nhiều nhà cao tầng, biệt thự nhưng vào thời Huy Cận viết Tràng giang cho đến mấy chục năm sau, nó đìu hiu sông nước, vắng lặng, đẹp và buồn đúng như trong bài thơ đã tả.

Huy Cận kể lại, ông đã thử vào bài bằng nhiều thể thơ, nhưng cuối cùng chọn thơ bảy chữ, đậm chất Đường thi. Ông còn cho biết Lớp lớp mây cao đùn núi bạc là do ông học ở bản dịch thơ Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa". Ý kết là ông tựa vào thơ Thôi Hiệu, qua bản dịch của Tản Đà “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” để tả nỗi buồn của lòng mình: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Chính không gian Đường thi trong hơi thơ bảy chữ tạo nên sự cộng hưởng cảm xúc đồng chiều ấy. Nếu viết ở thể thơ khác, chưa chắc đã có sự cộng hưởng ấy. Huy Cận buồn hơn Thôi Hiệu. Huy Cận thừa biết mình đứng nhờ trên vai người ta, có cao nhưng không chắc mình có chiều cao hơn người ta. Đọc Tràng giang có thể thấy buồn Hoàng Hạc lâu nhưng là ở nhiều chỗ khác chứ không phải ở câu kết so đo ấy.

Bài thơ này có vẻ đẹp cổ điển, trang trọng mở vào cao rộng trời đất mà nỗi buồn lại thấm thía sâu thẳm xuống một cõi lòng. Nỗi buồn bàng bạc mơ hồ nhưng đụng vào đầu cũng thấy. Mơ hồ vì buồn không rõ lí do cụ thể. Bàng bạc vì không rõ sắc thái, không rát bỏng nhưng ngân nga như một nỗi bâng khuâng, một tâm trạng nhớ không đối tượng: trời rộng nhớ sông dài. Câu đề từ quả đã ôm đủ chủ đề bài thơ. Nỗi bâng khuâng buồn nhớ đựng đầy không gian. Cảnh nào cũng gợi buồn, cảnh bị nhiễm vào từ trường tình cảm. Huy Cận nói: Đây là bài thơ của tâm hồn. Tâm hồn ông khi ấy thường trực một nỗi buồn thế hệ, cái thế hệ vừa biết suy nghĩ thì chạm ngay vào nỗi buồn mất nước, vào thân phận nhược tiểu, một linh hồn nho nhỏ/ mang mang thiêng cổ sầu. Chất tâm hồn bất thường bắt rất nhạy cảm xúc không gian rộng xa, vắng lặng hắt hiu. Riêng với Huy Cận, người đã từng “nghiêng tai kì diệu” nửa nghe vũ trụ nửa nghe lòng mình. Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn thì không gian trời nước quãng sông Hồng nơi Chèm Vẽ cộng hưởng với lòng ông mà thành thơ là điều không khó hiểu.

Chữ tràng trong Tràng giang đề bài và trong câu đầu tiên vốn ít dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hơn trường nhưng Huy Cận lại chọn dùng… Có người giảng là để khỏi nhầm với sông Trường Giang bên Trung Quốc. Chả hiểu có đúng thế không. Nhưng chỉ căn cứ vào âm thanh (chứ không phải chỉ nghĩa chữ) thì giang hai âm vang đồng dạng đứng liền nhau gợi được khoảng rộng, dàn theo chiều ngang, bát ngát bao la hơn là trường. Trường chỉ cho thấy chiều dài, đa nghĩa chữ và hình âm trường thuôn lại trong khi tràng mở ra. Mặt sông dài rộng, nên đầu sóng của sông, vốn thấp như càng thấp thêm, chỉ như gợn nhẹ mặt sông phẳng. Đã rộng lại tĩnh nên gợi buồn, buồn điệp điệp. Chứ sóng mà dào dạt hay réo sôi chắc dẫn tới cảm giác khác. Điệp điệp là trạng thái của gợn sóng trên tràng giang và cũng là của gợn buồn trong lòng người. Câu vào này buồn thật. Nhưng câu thứ hai: “Con thuyền xuôi mái nước song song" có người cũng cho là câu thơ buồn, buồn lắm, lấy lí rằng: song song là chẳng bao giờ gặp nhau, là không gắn bó gì với nhau. Đấy là vận dụng định lý đường song song trong hình học sơ cấp vào hình tượng văn chương. E khó thuyết phục. Thuyền nước trong câu thơ này là đang gắn bó, thậm chí hài hoà xuôi chèo mát mái. Câu thơ này không buồn. Hơn nữa, vui. Đang vui. (Chữ nước song song chỉ là một dụng ý để đối với buồn điệp điệp). Có đang vui mới dẫn đến cái buồn ở câu sau. Mới tạo nên mối tương quan: vui chỉ khoảnh khắc mà buồn thì tất yếu, ấy là lúc thuyền về tới bến, nước vẫn tiếp tục đi, đi một mình, phiêu bạt hai ngả rẽ vô thường nên mới kinh hãi với cái sầu trăm ngả. Hình ảnh sông nước đến đây đã nhập vào thân phận con người. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả. Một chữ lại (trạng từ), lại sầu… cho thấy cách nhìn đời hồi ấy của Huy Cận khá giống Xuân Diệu (hoa nở để mà tàn - Trăng trong để mà khuyết - Bèo hợp để chia tan - Người gần để li biệt). Thuyền và nước song song xuôi mái chỉ khoảnh khắc rồi lẻ loi với bao nhiêu ngã ba sông nước, sầu trăm ngả. Từ hình ảnh trăm ngả dẫn đến câu cuối đoạn như mội tổng kết:

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Trên sông Hồng, nhất là mùa lũ có thể thấy cả cây trôi, thân gỗ trôi, vật vã nổi chìm trong sóng đục phù sa. Cảnh gợi tang thương. Nhưng không phải mà cảm xúc Huy Cận ở bài này. Ông nói ông phải lựa chọn hình ảnh sao cho ra cai thân phận nổi nênh của kiếp người. Chọn củi hơn là gỗ, chọn một cành không hơn là những cây tươi. Củi một cành mà lạc mấy dòng thì đắt quá, chưa kể nó còn ứng với sầu trăm ngả ở trên.

Đoạn một là nhìn vào mặt sông mà tả. Chi tiết tung hứng, ngôn ngữ đăng đổi và ngay trung tâm của chủ đề. Đoạn hai nhìn ra xa xung quanh: cồn nhỏ, làng xa, trời sâu, bến rộng… không gian mở ra rộng – cao để hồn ngấm vào thưa vắng. Thưa vắng và yên tịnh. Chỉ một âm thanh xa, vọng tự đâu không rõ, mơ hồ như nghe trong hoài niệm một phiên chợ quê lúc vãn người. Âm thanh mơ hồ là cách đặc tả cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này mở không gian. Chiều thẳng đứng thì như đang dãn dần ra theo nắng, theo trời: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”. Sâu chứ không cao là một sáng tạo, gây ấn tượng. Chiều năm ngang thì “ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu"… Không màu sắc, không âm thanh, không hoạt động. Tất cả bất động, lặng đi, ngấm vào nỗi cô liêu.

Cõi rộng không giới hạn, tả dễ miên man. Huy Cận tỉnh táo chuyển lại ánh về mặt sông, về chỗ bắt đầu bài thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Đẩy mức vắng lặng tới chỗ bặt dấu người. Hai đoạn trên còn có thuyền, có chợ. Giờ đây, trên sông chỉ còn có bèo, duy nhất bèo, hàng nối hàng. Không đò ngang, không cầu bắc, không thấy một công trình nào mang dấu người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. Buồn lan theo cảnh. Buồn trải ra xa “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Rồi lại dựng lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc". Trút qua đôi cánh chim nhỏ và rơi xuống một lòng người, ở chỗ cảnh bặt dấu người, nên lòng mới trội lên nỗi nhớ quê, lòng quê. Tình thế trôi dạt nổi nênh của ngoại cảnh làm con người ngậm ngùi thân phận, thèm tình cảm ấm áp gia đình quần tụ. Bài thơ khép lại trong nỗi nhớ nhà. Tính lôgíc trong những bước chuyển của tâm hồn rất được coi trọng trong bài thơ này. Có lẽ vì thế Huy Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận chi tiết nhất 5

Huy Cận là một nhà thơ gắn liền với phong trào thi ca cách mạng Việt Nam. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca… Nhưng sau cách mạng tháng Tám, thơ ông lại mang một màu sắc mới, thơ ông chủ yếu hướng tới cuộc sống và con người, thiên nhiên, tiêu biểu với những tác phẩm như: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”… Và một trong những tác phẩm không thể không kể đến đó là tác phẩm “Tràng Giang” được trích từ tập “ Lửa Thiêng”, bài thơ gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chất chứa một nỗi buồn ảm đạm, ẩn dụ cho một kiếp người nhỏ bé, trôi nổi giữ dòng đời vô định.

Với nhan đề “ Tràng Giang” có nghĩa là “ sông dài” đã gợi cho người đọc một không gian mênh mông, không bến bờ. “Tràng Giang” hai câu từ vừa mang sắc thái cổ điển trang nhã, lại vừa gợi liên tưởng cho người đọc về dòng “Trường giang” trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, nhưng ẩn chứa sau cái mênh mông đó lại là nỗi ưu tư, nỗi buồn của một kiếp người nhỏ bé giữa cái vũ trụ bao la, mênh mông.

Tiếp đến là câu đề từ chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Đứng trước cảnh "trời rộng", "sông dài" lại khiến cho lòng người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Với bốn câu thơ đầu tiên mở đầu cho bài thơ đã hiện lên rõ mồn một được không gian thiên nhiên mênh mông và sự buồn ảm đạm. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ tạo thêm cho người đọc có được không gian mênh mông, bát ngát và mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Sóng thường rất dữ dội, nhưng trong thơ của Huy Cận thì “ sóng gợn” tạo cảm giác cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn kết hợp với “ điệp điệp” càng làm cho người đọc thấy được nỗi buồn đó vô cùng lớn, cứ nối tiếp nhau mãi không hết. Hình ảnh con thuyền ở đây cũng chính là một hình ảnh ẩn dụ cho con người, sự dịch chuyển lặng lẽ, “ song song” giống như thân phận của mỗi người luôn luôn trôi nổi giữa dòng không biết đi đâu về đâu. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thế mà tác giả lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, bằng những ngôn từ những hình tượng hết sức gần gũi với cuộc sống của mọi người, làm cho người đọc thấu hiểu và cảm nhận được không gian mênh mông bao la, và nỗi buồn vô định trong lòng người ẩn chứa trong bức tranh thiên nhiên hùng vỹ.

Và nỗi lòng đó dần đần được mở ra, đưa người đọc dần dần khám phá tìm hiểu

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”

Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Giữa khung cảnh “lơ thơ”, “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, cùng với sự ít ỏi cô độc khiến cho con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Khi nhắc đến khung cảnh chợ, mọi người thường gợi nhớ đến sự nhộn nhịp tấp lập người buôn người bán, nhưng ở đây Huy Cận lại lựa chọn khung cảnh là chợ chiều, khiến cho mọi người thấy được sự yên lặng, vắng vẻ.

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, nhưng vẫn gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại bị tách bạch khỏi nhau. Hình ảnh “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đồng thời, điều đó cho thấy nỗi buồn của nhà văn không chỉ dừng lại ở thiên nhiên xung quanh mà còn gửi lên đến tận trời cao. Hình ảnh “ sông dài”, “ trời rộng”, “ bến cô liêu” cho thấy được không gian bao la của mênh mông, và sự cô đơn lẻ loi của sự vật trước cái cảnh tượng mênh mông đó. Bằng nghệ thuật so sánh, tác giả đã khiến cho người đọc không chỉ thấy nỗi buồn của cảnh vật xung quanh mà nó còn là cảnh vật của lòng người. Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu.

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cần gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng” chứng tỏ rằng không có một số từ nào có thể miêu tả hết được những số phận cô đơn lạc long trong cuộc sống

“Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.”

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "…không…không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Tiếp đến tác giả lại khéo léo sử dụng những hình tượng mẫu tỏng thi ca cổ điển để diễn tả nỗi lòng

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

Hình ảnh thơ là những nét chấm phá của thiên nhiên vừa mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn đùn ra mãi. Hình ảnh chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Như vậy, bằng những nét chấm phá tả cảnh thiên nhiên bằng những biện pháp so sánh, tu từ độc đáo đã làm lên không gian bao la bát ngát của thiên nhiên cùng với nỗi buồn sâu thăm cho những kiếp người. Nhưng giữa thiên nhiên và còn người trong thơ Huy Cận lại rất hòa hợp và đan quyện vào nhau làm an chảy trái tim của người đọc. Điều này, cho thấy được rằng sự tài tình qua các dùng từ, sự cảm nhận của thiên nhiên bằng đôi mắt rất tinh tế, sự bày tỏ lòng mình một cách chân thực đã đem đến cho người đọc một tâm trạng hết sức đồng cảm. Qua đó, nhà thơ Huy Cận còn bày tỏ tình yêu quê hương đất nước con người của chính bản thân ông.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận – Bài văn mẫu số 6

Đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang đến những nơi yên tĩnh để lắng đọng tâm hồn. Những lúc ấy người ta cảm thấy mình bé nhỏ trước không gian mênh mông, vũ trụ rộng lớn. Rồi chợt họ nhận ra kiếp người sao quá ngắn ngủi, đời người thật phù du và con người nhỏ bé trước vạn vật. Đọc “Tràng giang" của Huy Cận cảm xúc trong tôi dâng lên nỗi buồn cô quạnh khi nghĩ về những kiếp người trôi nổi, lênh đênh.

Bài thơ “Tràng giang” ra đời vào năm 1939 khi hồn thơ của Huy Cận mang nét u sầu, chất chứa nhiều phiền muộn, tâm tư. Chính vì thế mà những từ ngữ trong bài phản ánh trực tiếp cái sầu của thi sĩ trước thời cuộc và những suy nghĩ của tác giả trên hành trình đi tìm “Thơ mới”.

Tên tác phẩm “Tràng giang" đã tạo một ấn tượng mạnh mẽ về con sông dài, mênh mông. Tựa đề cũng tạo cảm giác hoài cổ khi thi sĩ sử dụng một loạt từ Hán Việt. Đã có rất nhiều người thử thay thế tên tác phẩm “Tràng giang" thành “Trường giang" nhưng riêng tôi cho rằng cái tên vốn có của nó vẫn chính xác nhất vì khi dùng “Trường giang" chỉ mới diễn tả được độ dài của con sông mà thôi. Thế nhưng khi thay bằng “Tràng giang" con sông không chỉ dài mà còn rộng. Sông trở nên mênh mông, bát ngát hơn từ đó nói lên được ý đồ của tác giả trong sự đối lập giữa thiên nhiên rộng lớn và con người bé nhỏ. Câu đề từ tiếp tục khẳng định về một con sông rộng lớn “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài". Nhưng cảm giác mang lại là sự lưu luyến, nhớ thương về một con sông trong quá khứ.

Khổ thơ đầu tiên không chỉ mang đến bức tranh buồn, cô đơn mà thiên nhiên còn gợi cảnh chia li, tách rời

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Với những câu thơ đầu tiên, tác giả sử dụng nhiều hình ảnh như sóng, con thuyền, củi. Sóng đi liền với động từ “gợn" - dịch chuyển nhẹ nhàng, lăn tăn lan xa. Chỉ với một nét gợn nhẹ ấy cũng đủ làm cho nhân vật trữ tình trở nên buồn bã. Từ láy “điệp điệp" diễn tả nỗi buồn chồng chất, nối tiếp nhau. Nỗi buồn không chỉ dâng lên một lúc mà nó còn kéo dài mãi, miên man không dứt. Trên những gợn sóng ấy xuất hiện “con thuyền xuôi mái" – cô đơn, lạc lõng, bơ vơ. Không nghe thấy tiếng mái chèo tạo nên tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền chỉ thấy một con thuyền buông xuôi, lênh đênh mặc cho nước xuôi dòng. Câu thơ còn độc đáo trong việc khắc họa sự tách rời giữa thuyền và nước. Thiên nhiên không chỉ gợi buồn mà khung cảnh chia lìa cũng thấy rõ.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả" là câu thơ có thể hiểu nhiều cách. Thứ nhất có thể hiểu là khi thuyền về nỗi sầu của nước lại nhân lên gấp bội. Cách thứ hai chỉ rõ hơn về sự chia cắt khi thuyền và nước đi ngược chiều nhau. Lúc thuyền về lại chốn cũ cũng là lúc nước ở lại với dòng sông cùng nỗi sầu, nhưng nỗi sầu này không chỉ đi theo nước một nơi mà là nhiều chốn khác nhau. Phép đối đã được sử dụng thành công để nói về sự chia cách này. Khép lại khổ một Huy Cận mang đến một hình ảnh đậm nét cô đơn - “củi". Tính chất của hình ảnh này là “khô" – héo úa, không còn sự sống cùng với phép đối giữa “một cành khô" – “mấy dòng” càng nhấn mạnh hơn sự chiếc bóng, lẻ loi của củi trên hành trình của mình. Động từ “lạc" đã nói lên được sự bấp bênh, lênh đênh của sự vật nhưng tác giả dùng “lạc mấy dòng" thì càng làm rõ hơn sự gian nan, “bảy nổi ba chìm" của củi. Chỉ với khổ một nhưng tâm trạng mang lại đã buồn bã, u sầu đến vậy.

Tác giả bắt đầu với khổ thơ đầu tiên trong phạm vi hẹp. Đến với khổ thơ tiếp theo, không gian bây giờ đã được mở rộng hơn.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu.”

Hình ảnh “cồn nhỏ" gợi lên không gian vắng lặng, trơ trọi. Tính từ “nhỏ" làm cho hình ảnh này càng bé nhỏ, chơ vơ kết hợp với từ láy “Lơ thơ" gợi cảm giác ít ỏi diễn tả bức tranh thiếu sức sống trên cồn cát. Không gian trên cồn không chỉ buồn mà còn hiu hắt. Đến gió cũng mang cái “đìu hiu" buồn bã, thê lương như nhấn khung cảnh vào nỗi u sầu. Các câu thơ mà tác giả sử dụng trong bài đôi khi được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều" có thể hiểu là một câu hỏi tu từ về vị trí của “tiếng làng xa", trông ngóng về tiếng họp buổi chiều tà. Tuy nhiên “đâu" cũng là một từ mang nghĩa phủ định, tức là đến cả tiếng nói cũng những người họp chợ nhà thơ cũng không hề nghe thấy. Tất cả chỉ còn lại một không gian tĩnh lặng đến lạnh lùng.

Không gian trong khổ thơ thứ hai vừa mở rộng về chiều cao và dài nhưng đồng thời cũng mở rộng cả chiều sâu vũ trụ. Thủ pháp nghệ thuật tương phản “Nắng xuống trời lên" đã giúp không gian mở rộng theo chiều cao. Nắng chiếu xuống tới đâu thì bầu trời càng được đẩy cao tới đó. Chốt lại câu thơ tác giả sử dụng “sâu chót vót" không những gợi được cái thăm thẳm, hun hút mà còn giúp cho vũ trụ được kéo dài ra nhấn mạnh hơn sự nhỏ bé của con người trước thiên hà. Câu thơ cuối cùng của khổ chính là bức tranh thiên nhiên rộng lớn, bát ngát với “sông dài trời rộng". Trên nền không gian ấy xuất hiện “bến cô liêu". Hình ảnh này không chỉ lột tả được cái nhỏ nhoi, đơn độc mà “cô liêu" còn là sự quạnh quẽ, lanh lẽo, chơ vơ. Nghệ thuật tương phản giữa hình ảnh bé nhỏ với không gian rộng lớn càng tô đậm hơn sự u sầu, buồn bã của tác giả khi nghĩ về kiếp người trôi nổi, long đong.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

“Bèo" – sinh vật phù du mang trong mình kiếp sống trôi nổi, bấp bênh, đã vậy còn kết hợp với động từ “dạt" làm rõ hơn sự chìm nổi của sinh vật này. “Đâu" từ hỏi về nơi chốn của “bèo". Hình ảnh bèo lạc lõng, bơ vơ, không điểm tựa không nơi bám vía. “Hàng nối hàng" như khắc họa rõ hơn về số phận của loài sinh vật này. Đọc câu thơ ta có thể liên tưởng về những kiếp người nổi trôi, không có nơi nương tựa. Và trong không gian “mênh mông" đó, tác giả mong ngóng có thể nhìn thấy chuyến đò để cảm nhận được sự sống nhưng dường như không có tín hiệu đáp lại sự mong chờ ấy. “Không một chuyến đò" cũng đồng nghĩa không có hoạt động của con người, điều này càng làm cho nỗi cô đơn dâng lên. Trong khổ thơ này, thi sĩ sử dụng nhiều từ phủ định nhằm khắc họa sự cô đơn trống vắng của lòng người. Tiếp sau “không đò” là “không cầu". Chiếc cầu vốn là hình ảnh đặc trưng của miền quê, mang nét giản dị, thân mật. Nhưng vì hình ảnh này không có nên có thể thấy thiếu vắng cảm giác quê hương. Câu thơ cuối tác giả sử dụng màu xanh và vàng nhằm vẽ nên bức tranh tươi sáng hơn nhưng từ láy “lặng lẽ” đã dìm màu sắc này xuống. Hai hình ảnh “bờ xanh”, “bãi vàng” không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy này được đưa lên đầu như sự nối tiếp của nỗi cô đơn từ vật này sang vật khác.

Trong ba khổ thơ đầu, tác giả chỉ miêu tả về thiên nhiên thì khổ thơ cuối cùng thi sĩ đã bộc lộ nỗi niềm nhớ nước của mình

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh mỏi bóng chiều xa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Chỉ với 4 câu thơ nhưng nhà thơ đã cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Từ láy hoàn toàn “lớp lớp” diễn tả sự chồng chất, nối tiếp nhau. Câu thơ đầu tiên khắc họa những đám mây từng lớp đùn lên thành những dãy núi bạc. Đến đây, ta chợt nhớ tới chữ “đùn” trong bài “Thu hứng” của Đỗ Phủ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Nếu như với Đỗ Phủ câu thơ trên là hình ảnh mây trắng sà xuống thấp tới mức tưởng như đùn từ mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa. Thì trong câu thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” lại mang tới hình ảnh nhiều lớp mây chồng chất lên nhau giống như nỗi sầu của thi nhân đã thấm sâu vào cảnh vật, nó chất chứa trong tâm hồn ông giống như tầng tầng lớp lớp mây kia chất chồng thành núi bạc vậy. Câu thơ tiếp theo tác giả sử dụng thủ pháp cổ điển để nói về tình cảnh lẻ loi đơn độc của cánh chim trước “bóng chiều sa”. Hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ” không chỉ gợi sự đơn độc mà “nghiêng” còn nói tới trạng thái mất cân bằng, không rõ nơi trú của mình là đâu, hình ảnh này càng làm nổi bật hơn sự lận đận của kiếp người trước thiên nhiên. Trong không gian buồn ấy, thi sĩ bỗng nhớ về quê hương

“Lòng quê dợn dợn vời con nước”

“Dợn dợn" là gợi lên, dấy lên, có những cảm xúc khó nói. Chỉ cần nhìn thấy “con nước” là lòng thi sĩ là nhớ về quê hương – nỗi nhớ thường trực. Nếu như ở các câu thơ trên phải có một hình ảnh, chi tiết nào về cố hương thì thi sĩ mới bộ lộ cảm xúc của mình còn trong câu thơ cuối “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" thì không cần bất cứ sự vật nào nỗi nhớ ấy vẫn cứ ùa về. Trong thơ Đường hơn nghìn năm trước cũng từng có tác phẩm nói về nỗi nhớ quê hương

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trêm sông khói sóng cho buồn lòng ai)

(Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu)

Nhưng Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng liền nhớ về quê nhà của mình còn Huy Cận không cần thấy gì nỗi nhớ ấy vẫn dấy lên. Nếu như Thôi Hiệu đứng trên xứ người lòng khắc khoải hướng về cố hương thì Huy Cận lại đặc biệt hơn khi chính ông đang đứng trên mảnh đất của mình nhưng lòng buồn bã, bâng khuâng khôn nguôi.

Như vậy, bằng cách kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố Đường thi và yếu tố Thơ mới, cùng với việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật như từ láy, biện pháp tương phản,… nhà thơ Huy Cận đã giúp người đọc cảm nhận về một bức tranh thiên nhiên mênh mông. Ở đó con người có thể cảm thấy sự bé nhỏ của mình trước không gian, kiếp người ngắn ngủi trước vũ trụ. “Tràng giang” còn là tiếng lòng của một người con yêu quê hương, đất nước sâu nặng.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận đặc sắc nhất 7

Huy Cận là một nhà thơ gắn liền với phong trào thi ca cách mạng Việt Nam. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca… Nhưng sau cách mạng tháng Tám, thơ ông lại mang một màu sắc mới, thơ ông chủ yếu hướng tới cuộc sống và con người, thiên nhiên, tiêu biểu với những tác phẩm như: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”… Và một trong những tác phầm không thể không kể đến đó là tác phầm “Tràng Giang” được trích từ tập “ Lửa Thiêng”, bài thơ gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chất chứa một nỗi buồn ảm đạm, ẩn dụ cho một kiếp người nhỏ bé, trôi nổi giữ dòng đời vô định.

Với nhan đề “ Tràng Giang” có nghĩa là “ sông dài” đã gợi cho người đọc một không gian mênh mông, không bến bờ. “Tràng Giang” hai câu từ vừa mang sắc thái cổ điển trang nhã, lại vừa gợi liên tưởng cho người đọc về dòng “Trường giang” trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, nhưng ẩn chứa sau cái mênh mông đó lại là nỗi ưu tư, nỗi buồn của một kiếp người nhỏ bé giữa cái vũ trụ bao la, mênh mông.

Tiếp đến là câu đề từ chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Đứng trước cảnh "trời rộng", "sông dài" lại khiến cho lòng người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Với bốn câu thơ đầu tiên mở đầu cho bài thơ đã hiện lên rõ mồn một được không gian thiên nhiên mênh mông và sự buồn ảm đạm. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ tạo thêm cho người đọc có được không gian mênh mông, bát ngát và mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Sóng thường rất dữ dội, nhưng trong thơ của Huy Cận thì “ sóng gợn” tạo cảm giác cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn kết hợp với “ điệp điệp” càng làm cho người đọc thấy được nỗi buồn đó vô cùng lớn, cứ nối tiếp nhau mãi không hết. Hình ảnh con thuyền ở đây cũng chính là một hình ảnh ẩn dụ cho con người, sự dịch chuyển lặng lẽ, “ song song” giống như thân phận của mỗi người luôn luôn trôi nổi giữa dòng không biết đi đâu về đâu. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thế mà tác giả lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa.Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, bằng những ngôn từ những hình tượng hết sức gần gữi với cuộc sống của mọi người, làm cho người đọc thấu hiểu và cảm nhận được không gian mênh mông bao la, và nỗi buồn vô định trong lòng người ẩn chứa trong bức tranh thiên nhiên hung vỹ

Và nỗi lòng đó dần đần được mở ra, đưa người đọc dần dần khám phá tìm hiểu

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”

Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Giữa khung cảnh “lơ thơ”, “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, cùng với sự ít ỏi cô độc khiến cho con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Khi nhắc đến khung cảnh chợ, mọi người thường gợi nhớ đến sự nhộn nhịp tấp lập người buôn người bán, nhưng ở đây Huy Cận lại lựa chọn khung cảnh là chợ chiều, khiến cho mọi người thấy được sự yên lặng, vắng vẻ.

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, nhưng vẫn gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại bị tách bạch khỏi nhau. Hình ảnh “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đồng thời, điều đó cho thấy nỗi buồn của nhà văn không chỉ dừng lại ở thiên nhiên xung quanh mà còn gửi lên đến tận trời cao. Hình ảnh “ sông dài”, “ trời rộng”, “ bến cô liêu” cho thấy được không gian bao la của mênh mông, và sự cô đơn lẻ loi của sự vật trước cái cảnh tượng mênh mông đó. Bằng nghệ thuật so sánh, tác giả đã khiến cho người đọc không chỉ thấy nỗi buồn của cảnh vật xung quanh mà nó còn là cảnh vật của lòng người. Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu.

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cần gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng” chứng tỏ rằng không có một số từ nào có thể miêu tả hết được những số phận cô đơn lạc long trong cuộc sống

“Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.”

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "…không…không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Tiếp đến tác giả lại khéo léo sử dụng những hình tượng mẫu tỏng thi ca cổ điển để diễn tả nỗi lòng

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

Hình ảnh thơ là những nét chấm phá của thiên nhiên vừa mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn đùn ra mãi. Hình ảnh chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Như vậy, bằng những nét chấm phá tả cảnh thiên nhiên bằng những biện pháp so sánh, tu từ độc đáo đã làm lên không gian bao la bát ngàt của thiên nhiên cùng với nỗi buồn sâu thăm cho những kiếp người. Nhưng giữa thiên nhiên và còn người trong thơ Huy Cận lại rất hòa hợp và đan quyện vào nhau làm an chảy trái tim của người đọc. Điều này, cho thấy được rằng sự tài tình qua các dùng từ, sự cảm nhận của thiên nhiên bằng đôi mắt rất tinh tế, sự bày tỏ lòng mình một cách chân thực đã đem đến cho người đọc một tâm trạng hết sức đồng cảm. Qua đó, nhà thơ Huy Cận còn bày tỏ tình yêu quê hương đất nước con người của chính bản thân ông.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 8

Huy Cận là nhà thơ của thiên nhiên nhiên, đất nước, con người. Ông thường viết những bài thơ ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động, của sự say mê cống hiến cho đời. Ta thấy được sự khỏe khoắn, tươi vui trong các tác phẩm của ông như Đoàn thuyền đánh cá, Bài ca cuộc đời.... Nhưng Huy Cận cũng có những lúc u sầu, buồn bã trước trần thế - điều hiếm khi ta thấy trong các sáng tác của nhà thơ này. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương và sự cô đơn, buồn tủi được nhà thơ thể hiện trong bài thơ Tràng giang, được sáng tác năm 1939. Trước cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn, nhà thơ thấy mình nhỏ bé, cô đơn, từ đó khơi dậy nỗi nhớ quê hương tha thiết.

Ta cảm nhận được một tâm trạng đượm buồn của tác giả ẩn sau bức tranh thiên nhiên ở khổ thơ đầu:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng"

Các từ láy "song song", "điệp điệp" gợi ra một không gian sông nước mênh mang, bao la và rộng lớn. Trong không gian ảm đạm đó chỉ có duy nhất một hình bóng con thuyền, nhưng con thuyền ấy cũng lênh đênh, vô định, để mặc cho dòng nước đẩy trôi đi cũng giống như tâm trạng của nhà thơ lúc này. Những sự vật cũng chuyển động hết sức lặng lẽ, như đang u sầu, u uất trước cuộc đời. Hình ảnh "Thuyền về nước lại" nghe sao mà xót xa quá! Thuyền và nước vốn là hai sự vật song hành cùng nhau, thuyền nhờ có nước mới trôi đi, nước thì có thuyền mà sóng sánh, ấy vậy nhưng ở đây Huy Cận lại thể hiện sự chia cắt giữa thuyền và nước, sự chia cắt này gợi một nỗi sầu "trăm ngả".... Không có gì có thể buồn hơn. Câu thơ cuối của khổ thơ thứ nhất là hình ảnh thơ độc đáo với hai vế: "Củi một cành khô - lạc mấy dòng". Lượng từ "một" diễn tả sự ít ỏi, chỉ độc một cành củi khô, cũng giống như chỉ có duy nhất một con thuyền. Tâm trạng buồn bã của tác giả được đẩy đến đỉnh điểm, khi xung quanh các sự vật cũng đều đơn côi, lẻ bóng không biết đi về đâu. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình vừa cho thấy cái vô hồn của cảnh vật, vừa thể hiện lên sự có hồn, là tâm trạng buồn bã của thi nhân.

Khổ thơ thứ hai tiếp tục diễn tả nỗi cô đơn của tác giả, nhưng có một chút gì đó rõ ràng hơn:

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều."

Nếu như ở khổ thơ đầu, ta chỉ thấy những hình ảnh của thiên nhiên thì đến những câu thơ này đã xuất hiện hình bóng của con người. Nhưng con người cũng xuất hiện trong trạng thái thật chán nản, đó là tiếng vãn chợ chiều ở phía xa xa. Một ngôi làng gần đấy đang bắt đầu dọn dẹp cho phiên chợ cả ngày của mình, chỉ còn lại những tiếng chào tạm biệt, âm thanh vãn chợ văng vẳng đâu đấy. Những tưởng sự xuất hiện của con người sẽ làm cho bức tranh bớt ảm đạm hơn nhưng không, chúng lại khiến cho tác giả cảm nhận sâu sắc được tình cảnh của mình, chợ đã không còn tươi vui, tấp nập như buổi sớm mai, cũng như tâm trạng không còn vui vẻ, hào hứng của nhà thơ Huy Cận. Hai câu thơ sau miêu tả thiên nhiên cực độc đáo:

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

Hình ảnh đối lập: "Nắng xuống - trời lên" thể hiện sự buông thả của cuộc đời. Ánh nắng rực rỡ đã nhường chỗ cho một màn đêm sắp buống xuống. Cụm từ "sâu chót vót" là hình ảnh cực kì độc đáo, bởi lẽ "chót vót" vốn là một từ để miêu tả độ cao nhưng ở đây lại được dùng để miêu tả độ sâu, cùng với câu thơ sau tạo nên một bức tranh vô cùng rộng lớn mà trong đó là sự tồn tại nhỏ bé của tác giả.

Khổ thơ tiếp theo vẫn là một sự buồn thương, u ám trong bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà:

"Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

Nhà thơ tiếp tục sử dụng hình ảnh "bèo" trôi, cũng như con thuyền và cành củi khô ở đoạn đầu, là những số phận lênh đênh, trôi nổi không biết dạt về đâu. Khung cảnh bên bến sông trơ trọi, không có một chuyến đò để đưa khách, không có một cái cầu bắc nhịp, chỉ có một bờ bãi rộng lớn bao la. Cả một bức tranh hiện thực đượm buồn mà nỗi cô đơn của tác giả như đang muốn thoát ra khỏi đó, để có một cuộc sống tươi đẹp hơn, tươi vui hơn.

Khổ thơ cuối là nỗi nhớ nhà của tác giả:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"

Cách miêu tả thiên nhiên của Huy Cận như gợi ra trước mắt người đọc một bức tranh với những đám mây cứ tầng tầng, lớp lớp đùn ra trên những ngọn núi cao tít tắp, cùng với đó là hình ảnh cánh chim nhỏ nghiêng trong bóng chiều bay về tổ để đoạn tụ với gia đình. Có lẽ khi chứng kiến những hình ảnh thiên nhiên ở các câu thơ trước, nhà thơ đã cảm nhận được nỗi buồn thấm sâu trong lòng mình nhưng chỉ đến khi nhìn thấy hình ảnh cánh chim, Huy Cận mới bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Ta thấy được tình cảm chân thành, gắn bó của nhà thơ với gia đình, với quê hương, đất nước. Dù có đang ở nơi đâu thì trong lòng của một người con xa quê vẫn luôn khắc khoải nhớ về những bóng hình của những người thân thương...

Tràng là dài, giang là sông, tràng giang là sông dài, cũng là một nỗi buồn kéo dài vô tận của nhà thơ. Huy Cận đã lồng ghép tâm trạng của mình vào từng cảnh vật trong bài thơ, qua đó bộc lộ nỗi buồn thương và nỗi nhớ nhà tha thiết. Đọc bài thơ, ta thấy thêm được một khía cạnh khác trong thơ Huy Cận, rằng ông không chỉ viết hay, viết sâu sắc về sự hồ hởi, tươi vui mà còn viết rất thấm thía, cảm động khi nói về nỗi buồn. Đây quả là một nhà thơ tài ba đáng ngưỡng mộ!

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 9

Trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã giúp ta nhận mặt các nhà thơ trong phong trào thơ mới: “Một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Mỗi nhà thơ khoác lên mình một bộ trang phục khác nhau, mang những điệu tâm hồn riêng biệt. Trong số đó, ta không thể nào không chú ý đến một tâm hồn thơ thường sầu buồn, ảo não của Huy Cận. Nét tâm trạng ấy đã được nhà thơ thể hiện khá đậm nét và thấm thía trong bài thơ “Tràng Giang”.

Bài thơ mở đầu bằng một bức tranh sông nước mênh mang:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

“Tràng giang” dài rộng gây ấn tượng bởi những con sóng nhỏ nối đuôi nhau không dứt. Động từ “gợn” không chỉ gợi hình mà còn gợi tiếng nhỏ, khẽ, êm đềm của dòng sông đang lặng lẽ trôi. Những con sóng miên man, không dứt như ẩn dụ cho nỗi buồn vô hạn trong lòng con người. Sóng sông đã hòa với sóng lòng, hữu hình hóa nỗi buồn trong lòng thi nhân, thấm vào cảnh vật. Con thuyền và dòng nước là hai sự vật vốn đi liền với nhau nhưng ở đây chúng lại ngược chiều, riêng biệt, tách bạch. Con thuyền như bất lực với chính mình, để mặc cho dòng nước cuốn đi đến tận cuối trời. Con thuyền nhỏ nhoi giữa sông nước mênh mang gợi ra bao nỗi sầu cùng trăm mối ngổn ngang, nỗi sầu của sông nước hay nỗi sầu từ lòng người? Với chi tiết cành củi khô, tác giả đã đưa vào thơ ca chất liệu của cuộc sống đời thường. Cành củi khô giữa mây trời sông nước càng nhấn mạnh vào sự ít ỏi, nhỏ bé, đơn côi, tăng ấn tượng vào sự héo hon, tàn tạ, mất hết sự sống. Cành củi khô còn gợi cho ta bao suy nghĩ về kiếp người nhỏ bé, nổi trôi, vô định, về thân phận lạc loài của con người trong buổi mất nước thời bây giờ.

Đến khổ 2, bức tranh sông nước tiếp tục được hoàn thiện với những chi tiết mới:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Tuy đã có thêm cảnh vật nhưng chỉ làm thấm sâu hơn về cảm giác ít ỏi, nhỏ bé, đìu hiu cùng nỗi buồn thê lương hiu hắt. Chợ vốn là dấu hiệu của sự sống. Nhưng ở đây chỉ là một phiên chợ chiều đã vãn như được gọi từ trong quá khứ. Trong câu thứ 2, nhà thơ đã sử dụng rất thành công biện pháp nghệ thuật lấy động để tả tĩnh, càng làm tăng ấn tượng về sự buồn bã, thê lương. Điểm nhìn của nhà thơ bỗng đột ngột thay đổi, từ hai bên bờ ngước nhìn lên trời và trải ra xa hơn. “Sâu chót vót” là một sự kết hợp từ đầy độc đáo, mới mẻ. Câu thơ là cảm giác có thật bởi tác giả nhìn sâu xuống lòng sông và bắt gặp hình ảnh bầu trời đang phản chiếu dưới đáy sông. Không gian có cả chiều cao và chiều sâu càng làm tăng ấn tượng về sự vắng lặng, bến sông đã trở thành bến sầu, bến cô liêu. Trước không gian rộng lớn, rợn ngợp ấy, con người khó lòng tránh khỏi cảm giác về sự cô đơn, nhỏ bé. Buồn, sầu, cô đơn cũng là nét tâm trạng chung phổ biến của cả thanh niên thời đại thơ mới.

Bức tranh tràng giang được mở ra nhưng lại thiên về cảm giác mênh mang, vắng lặng:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Hình ảnh cánh bèo thường gợi sự nổi trôi vô định, nhắc về thân phận nhỏ bé, nổi lênh của kiếp người. Trong thơ Huy Cận là cả một đám bèo nhưng chỉ lặng lẽ từng hàng nối hàng, không biết trôi dạt về đâu. Hình ảnh cây cầu, chuyến đò trong thơ xưa thường được dùng với ý nghĩa để nối liền không gian xa cách, Huy Cận cũng gọi cầu, gọi chuyến đò, khao khát được kết nối, giao cảm, nhưng đáp lại lời thi sĩ chỉ là một sự phủ định tuyệt đối, càng khắc sâu hơn vào nỗi niềm, chia lìa, cách trở. Bờ xanh, bãi vàng vẫn như vậy ngàn đời không đổi, cảnh vật dù có tươi thắm hơn những không đủ sức để xua đi cái giá lạnh trong tâm hồn. Huy Cận như ôm trọn mối cô đơn vào trong lòng, không kẻ bầu bạn, không người sẻ chia.

Khổ thơ cuối bài đã diễn tả đúng nỗi niềm của “một linh hồn nhỏ, mênh mang thiên cổ sầu”:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dờn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Đằng sau bức tranh thiên nhiên là nỗi lòng của con người. Nỗi buồn dường như có sự tăng tiến, từ “điệp điêp”, “trùng trùng” đến “lớp lớp”. “Lớp lớp” diễn tả nhiều lớp mây nối tiếp nhau, lớp nọ liền lớp kia mãi không dứt. Chỉ một chữ “đùn” gợi sự chuyển động của những đám mây nhưng làm cho nó dường như có nội lực từ bên trong, lớp nọ đùn lớp kia tạo thành núi bạc. Câu thơ thứ 2 cũng dễ khiến người đọc liên hệ đến câu thơ nổi tiếng khác của Đỗ Phủ: “Mặt đất mây đùn cửa ai xa”. Cánh chim chao nghiêng như một nét chấm phá cho bức tranh thiên nhiên rộng lớn. Cánh chim vốn là một thi liệu quen thuộc thường dùng để tả buổi chiều trong thơ xưa: “Chim bay về núi tối rồi” hay “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Cánh chim nhỏ bé đối lập với vũ trụ mênh mang vô cùng vô tận một lần nữa lại gợi cảm giác bơ vơ, lạc lõng, buồn thương, tội nghiệp đã trở thành cảm xúc chủ đạo của cả bài thơ. Đến cuối bài, thi sĩ mới trực tiếp bộc lộ tâm trạng:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Từ láy “dợn dợn” thật giàu giá trị biểu cảm khi không chỉ diễn tả sóng nước lan ra mà còn gợi sóng lòng đang cuộn xoáy bên trong con người. Nỗi nhớ quê hương bắt gặp khung cảnh sông nước mênh mông, vắng lặng lại càng trở nên da diết, khắc sâu hơn vào tâm khảm. Ở câu thơ cuối bài, Huy Cận đã vận dụng sáng tạo hai câu thơ của Thôi Hiệu trong bài “Hoàng hạc lâu”

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thuỷ sử nhân sầu”

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)

Nỗi nhớ của Huy Cận không chịu tác động từ ngoại cảnh mới bộc lộ. Nó lúc nào cũng thường chực sẵn trong lòng, chỉ đợi thời điểm để bùng lên tha thiết. Đứng trên mảnh đất quê hương mà nhớ quê, chỉ có thể là nhớ về quê hương của một thuở bình yên trong quá khứ. Đó cũng là tâm trạng chung của cả một thế hệ thanh niên thời trong thời buổi nước ta đang lầm than vì bóng đen nô lệ, đau đớn khi chịu cảnh nước mất nhà tan. Họ có tình yêu đối với quê hương đất nước, bất mãn với thời cuộc nhưng cô đơn, lạc lõng giữa ngã ba đường, chưa thể tìm thấy lối đi cho mình.

Với “Tràng Giang”, Huy Cận đã đánh dấu vị trí của mình trong phong trào thơ mới:

“Là Tràng giang”, khổ nào cũng dập dềnh sóng nước

Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn”.

Người đọc hôm nay đến với thơ Huy Cận cùng một tấm lòng trân trọng “nỗi buồn thế hệ của ông”. Ẩn sau bức tranh sông nước trải dài mênh mang là một tâm sự yêu nước thầm kín, là nỗi lòng của cả một thế hệ “sống giữa quê hương mà bơ vơ như kiếp đi đày”.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 10

Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong phong trào Thơ mới, thơ Huy Cận bật lên trong phong trào Thơ Mới với nỗi buồn mênh mang, khắc khoải, đó là nỗi sầu của một cái tôi giàu ý thức, giàu suy tư về cuộc đời và con người. “Tràng giang” (trích trong tập thơ “Lửa thiêng”) là bài thơ tiêu biểu, thể hiện rõ nhất phong cách thơ của Huy Cận, trong mỗi khổ thơ đều chất chứa nỗi buồn da diết. Đặt cái nhỏ bé của con người trước thiên nhiên mênh mông, Huy Cận đã thành công khơi dậy nỗi cô đơn, cảm giác chơi vơi, lạc lõng của con người giữa dòng đời rộng lớn.

Mở đầu bài thơ là những câu thơ đậm phong cách cổ điển giàu hình ảnh và giàu nhạc điệu, chính những từ láy và cách gieo vần đã tạo nên âm điệu cho cả khổ thơ:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

“Tràng giang” ở đây không chỉ nói đến một con sông dài mà còn rộng, những con sóng trên sông được miêu tả rất thật, sống động với từng gợn sóng, đọc câu thơ “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” ta cảm nhận được sức gợi rất mãnh liệt, từng con sóng giống như những nỗi buồn của thi nhân, nỗi buồn ấy cứ dài rộng, triền miên theo cả không gian và thời gian. Hình ảnh con thuyền xuôi mái chèo, mặc cho sức nước đẩy đưa gợi sự lênh đênh, phó mặc số phận cuộc đời, cũng bởi con thuyền so với dòng sông là quá nhỏ bé, dòng nước “song song”, “thuyền về nước lại” chẳng hứa hẹn sự giao thoa, gặp gỡ lại mang nặng nỗi buồn chia lìa, xa cách. Ta cảm nhận được sự mới mẻ hiện đại trong “Tràng giang” bởi nó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ bé, vô nghĩa như “củi một cành khô”, đã là củi nhưng cũng chỉ có một cành mà lại còn là củi khô, hết sức tầm thường, bé nhỏ. Hình ảnh một cành củi khô lạc trôi bồng bềnh trên dòng nước mênh mông rộng lớn gợi lên nỗi buồn về một kiếp người nhỏ bé, tầm thường. Nỗi buồn càng thấm sâu hơn vào cảnh vật khi cảnh càng hoang tàn, quạnh hiu đến nao lòng:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Cặp từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” cùng gợi lên sự buồn bã, quạnh hiu, cô đơn, không gian xung quanh đều vắng vẻ, lại thêm tiếng vãn chợ chiều đằng xa, chợ chiều ngày xưa vốn đã thưa thớt, vắng vẻ, không có được cái nhộn nhịp tấp nập như chợ sáng, ngay cả tiếng chợ chiều đằng xa cũng không còn nữa, âm thanh cuộc sống của con người văng vẳng nhạt nhòa. Hai câu thơ sau gợi ra một không gian cao sâu, dài rộng mênh mông “sâu chót vót”, chiều cao dường như vô tận, “sông dài, trời rộng”, nhưng đứng giữa cái mênh mông bao la, rộng dài vô tận của vũ trụ đó lại chỉ có “bến cô liêu”, ta cảm nhận được sự cô liêu không chỉ của bến đò mà còn là sự cô liêu trong lòng người, con người nhỏ bé như bị choáng ngợp, lạc lõng giữa đất trời bao la.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Tiếp nối mạch cảm xúc được gợi ra từ hai khổ thơ đầu, đến đây nỗi buồn vẫn được khắc sâu vào hình ảnh bèo dạt lênh đênh, lênh đênh vô định lại thêm sự chia ly tan tác, trời rộng mênh mông nhưng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người “không một chuyến đò ngang”, cũng không có nổi một cây cầu để gắn kết, tạo sự gần gũi với con người. Chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên “bờ xanh” với “bãi vàng” nối tiếp nhau, có thể nói, nỗi buồn của tác giả không dừng lại ở nỗi buồn trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn về nhân thế, cuộc đời.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Khung cảnh trời thu với những đám mây trắng đùn lên phía cuối trời, ánh mặt trời phản chiếu lên những đám mây đó biến chúng thành những ngọn núi màu bạc trắng xóa, gợi cảnh thiên nhiên thật kỳ vĩ, tráng lệ. Thế nhưng xen giữa cái tráng lệ ấy vẫn là nỗi buồn, là hình ảnh cánh chim nhỏ nghiêng mình, con chim bé nhỏ đơn côi lẻ bóng trong buổi chiều tà gợi nỗi niềm xa vắng nhớ thương, cảnh thiên nhiên càng hùng vĩ, rợn ngợp bao nhiêu thì nỗi buồn càng sâu lắng và khắc khoải hơn. Nỗi nhớ quê hương dợn dợn theo từng con nước lên xuống, không thể ngừng, không thể nguôi ngoai, nỗi nhớ nhà cũng theo đó mà càng da diết, không cần khói hoàng hôn, không cần tác động ngoại cảnh cũng đủ làm cho sự nhớ nhung tràn ngập tâm hồn. Nhà thơ khát khao,được trở về quê hương, tìm một bến đỗ cho tâm hồn, tìm nơi sẻ chia sự cô đơn, trống vắng.

Như vậy, xuyên suốt bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận là cả nỗi buồn cứ triền miên, vô tận, đó là cái buồn của một “cái tôi” đang cô đơn trống trải giữa thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Bài thơ mới chấm phá nét cổ điển đã khắc họa rõ nỗi buồn nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời của nhà thơ, đồng thời là tình cảm nhớ thương đối với quê hương, đất nước.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 11

Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới, thơ ông thường mang nỗi sầu nhân thế và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên vũ trũ. Một trong những thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ ấy của Huy Cận là bài “Tràng giang”. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của ông trước Cách mạng. Bài thơ được trích từ tập “Lửa thiêng”, mang tâm sự u hoài trước kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời mênh mông, vô định. Bài thơ vừa có đượm nét đẹp cổ điển lại vừa có nét hiện đại, đem đến nhiều yêu mến, say mê cùng những rung động khó phai trong tâm hồn độc giả.

Mở đầu bài thơ ta bắt gặp lời đề từ ” Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài “. “Bâng khuâng, nhớ” miêu tả tâm trạng, “trời rộng,sông dài ” tả cảnh. từ đó ta thấy lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngã

Củi mội cành khô lạc mấy dòng

Ở khổ một nhà thơ thể hiện nổi buồn của mình trước cảnh sông nước mênh mông,bát ngát. mở đầu bài thơ là hình ảnh “sóng gợn” – những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vô tận cũng giống như nổi buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khôn nguôi. ở đây nhà thơ lặp lại hình ảnh “Tràng Giang” ở đề bài.”Tràng Giang” giống với trường giang, đều là từ Hán Việt, đều chỉ sông dài mà mang tính khái quát, cổ kính. nhưng “Tràng Giang” chỉ cả sông dài lẫn rộng vần “ang” tạo dư âm vang xa, trầm buồn. kết hợp với vầng “ang” còn có điệp từ “điệp điệp” để thể hiện nổi buồn đó.Hình ảnh tiếp theo hiện ra trong nhãn quan của Huy cận là “con thuyền “.Nó gợi sự lẽ loi và cô đơn. Nhưng lạ kìa! con thuyền này đang xuôi mái, nó đang phó mặc cho dòng nước.”con thuyền” này làm cho bức tranh sông nước càng trở nên quạnh vắng,mênh mông và ngược lại,giữa cảnh vật bao la rộng lớn này, hình ảnh “con thuyền” có mà cũng như không.Tếp đến là sự đối lập giữa con thuyền và dòng nước,”thuyền về”,” nước lại” gợi cảm giác chia lìa làm cho nổi buồn của nhà thơ tăng cấp lên thành “sầu”. Và nổi sầu này lan khắp “trăm ngã” của đất trời. cùng với làn sóng, con thuyền thì xuất hiện cành “củi khô” đang trôi giữa dòng nước. tại sao nhà thơ không nói là một cảnh củi khô mà lại sữ dụng hình ảnh “củi một cành khô”? đó là hình thức đảo ngữ để làm tăng sức gợi của hình ảnh nhỏ nhặt tầm thường này – gợi một kiếp người trôi nổi, vô định giữa dòng đời. So với các thơ văn cổ điển thì những hình ảnh xuất hiện trong văn thơ thường là “Tùng, Cúc”. Những hình ảnh nhỏ nhặt,tầm thường không được ưa chuộng. Qua đó thấy được sự sáng tạo độc đáo của Huy Cận – Nhà thơ mới xuất sắc.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Năng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu

Ở khổ hai vẫn là cảnh sông nước, nhưng ngoài những hình ảnh “con thuyền, dòng nước, củi ” ở khổ một thì ở đây được điểm thêm vài nét như “cồn, gió, làng, chợ, bến”

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Hình ảnh còn cát xuất hiện nhiều trong thơ cổ điển. trong trích “Chinh Phụ Ngâm” có câu “Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Nhưng ở Huy cận, sử dụng thêm từ láy “lơ thơ”, kết hợp với “đìu hiu” làm cho cảnh vậy trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được:

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

“làng xa”, “chợ vãn” là âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày,có sự hiện diện của con người nhưng không rõ. câu thơ này có nét tương đồng ơới thơ của Nguyễn Khuyến trong bài “câu cá mùa thu” – “cá đâu đớp động dưới chân bèo”.Có âm thanh cá đớp nhưng ở “đâu”,có thể có mà cũng có thể không. nghe mơ hồ,xa xôi.một sự việc ngay cạnh mình mà Nguyễn Khuyến còn không cảm nhận rõ thì sao Huy Cận có thể biết chính xác sự việc ở một nơi xa thế kia. Sự hiện diện của con người quả thật không có trong cảm nhận của Huy Cận. rồi nhà thơ bỏ qua cái âm thanh mơ hồ kia, hướng lên trời nhà thơ thấy hình ảnh:

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu

Hình ảnh “nắng xuống ” đối lập với “trời lên”, nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý để gợi sự chuyển động hai chiều của đất trời. “Sâu ” gợi độ hun hút, khôn cùng, “chót vót ” gợi độ cao vô tận. “Sâu chót vót” nghe như vô lí nhưng lại là sự sáng tạo độc đáo của Huy cận. đó là cái nhìn tâm tưởng của nhà thơ, nhà thơ đang đứng bơ vơ giữa vũ trụ thăm thẳm nên nhìn xuyên suốt vào lòng đất, vào ruột trời. Cùng với hình ảnh “Nắng xuống, Trời lên ” thì “Sông dài, trời rộng” tạo không gian ba chiều “rộng,cao, sâu”.một không gian ba chiều hiện ra làm cho không gian vô cùng, cảnh vậy vắng lặng gợi nổi buồn xa vắng.không gian oó chứa “bến cô liêu” – gợi sự lẽ loi, trơ trọi, hoàn toàn là cảnh vật đượm buồn.Sau nổi buồn xa vắng thì nổi buồn bơ vơ lại dồn dập vào nhà thơ. Nó được thể hiện ở khổ ba:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Mở đầu khổ ba là hình ảnh “bèo”, hình ảnh này tương đồng với hình ảnh “củi khô” ở khổ một nhưng nó lại gợi một kiếp người trôi nổi, lênh đênh.câu thơ “Bào dạt về đâu hàng nối hàng” là câu hỏi tu từ, là sự hụt hẫng, mất phương hướng của nhà thơ.tiếp đến là hình ảnh “bờ cây xanh, bãi cát vàng”, những hình ảnh này mênh mông, rộng lớn kết hợp với hình thức phủ định “không một cái cầu, không một chuyến đò” nhằm khẳng định không có sự hiện diện của con người. lại một lần nữa nhà thơ trơ trọi với cảnh vật. Nhà thơ sữ dụng các hình thức từ láy “mênh mông, lặng lẽ” gợi nổi buồn bã,hiu quạnh và trống vắng.không có sự giao hòa giữa cảnh và người, nhà thơ không chỉ buồn cảnh vật mà còn buồn thế thái nhân tình, khao khát tình người,tình đời. nhà thơ Huy Cận từng nói “tôi có nổi buồn thế hệ, nổi buồn không tìm thấy lối ra cho nên cứ kéo dài triền miên”. Quả thật như thế, sau nổi buồn sông nước, nổi buồn hiu quạnh, nổi buồn bơ vơ thì khổ thơ cuối cùng là nổi nhớ nhà của ông.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Lúc này nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ “đùn” cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là “núi bạc”. Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nổi buồn của ông, giống như nổi buồn của ông tích tụ như núi.cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim.ở đây cánh chim mang đậm tính chất thơ cổ điển, là tín hiệu thẩm mĩ để báo hiệu hoàng hôn mà ở các nhà thơ khác cũng sử dụng như thế. Tiêu biểu là Hồ Chí Minh trong bài thơ chiều tối – “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”.nhưng khác với HCM, cánh chim của Huy Cận lại đối lập với bầu trời rộng lớn, tượng trưng cho cái tôi cô độc, nhỏ nhoi trước cuộc đời, tô đậm cảm giác rợn ngợp, lạc loài.

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Nghệ thật tự láy “dợn dợn” diễn tả những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra tích tắt cho thấy nổi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi. Ở câu thơ cuối Huy Cận chịu ảnh hưởng của thơ đường, tiêu biểu là Thôi Hiệu

Nhật mộ hương quan hà xứ nhị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

Với Thôi Hiệu, mỗi lần thấy khói sóng là ông nhớ nhà da diết nhưng sao da diết bằng Huy Cận khi không có cái gì để gợi nhớ, cho thấy nổi nhớ nhà của Huy cận luôn sôi sục và rạo rực. Từ đó thấy được tấm lòng yêu quê hương đất của ông.

Bài thơ Tràng giang gợi nổi buồn man man thiên cổ của Huy Cận. Tất cả cảnh vật liên quan đến con người đều không hiện hữu, qua đó thấy được nổi cô đơn của Huy cận truớc cảnh thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đậm tình người, tình đời, tình yêu nước tha thiết.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 12

Nhắc tới Huy Cận chúng ta không thể bỏ qua được một nhà thơ với những sáng tác mang cảm hứng buồn trước khi bước vào phong trào thơ mới. Những sáng tác của ông mang đậm tâm hồn và tài năng của ông xuyên suốt thời gian sáng tác. Tràng giang là một trong số những sáng tác tiêu biểu, thể hiện nỗi buồn sâu thẳm sự xao xuyến bâng khuâng của cái tôi Huy Cận trước cuộc sống, nhưng cảnh vật hiện ra trước mắt của thi nhân vẫn mang một vẻ đẹp ẩn chứa những bất ngờ trong sáng tác.

Cảm hứng để sáng tác bài thơ là khi tác giả đứng trước sông Hồng mênh mông bao la, và khi nhìn thấy sự kì vĩ của thiên nhiên , khiến tác giả lại ngẫm lại chính cuộc sống của mình hiện tại, cũng thật nhỏ bé, không biết sẽ như thế nào trước cuộc đời rộng lớn này. Tràng Giang mang một vẻ đẹp cổ điện, như được chấm phá bằng các nét vẽ linh hoạt của các nghệ sĩ trước bức tranh thủy mặc sơn nước hữu tình. Hai chữ tràng Giang vốn là hai từ hán việt ghép vào nhau mà tạo thành. Tràng có nghĩa là mênh mông, trải rộng còn giang chính là sông. Đây lại là một âm mở,cứ thế nếu cứ ngân dài hai chữ này thì mãi mãi không có kết thúc. Mọi thứ cứ trải dài, trải dài khơi gợi cho độc giả nhiều liên tưởng thú vị. Đầu đề chỉ là 2 chữ đó thôi mà toàn bài thơ lại lấy được cảm xúc của độc giả nhiều đến như vậy. Quả thật sự tài tình của ngòi bút Huy Cận trong miêu tả và thể hiện trong suốt những câu từ của bài thơ. Đứng trước cảnh tượng thiên nhiên hùng vĩ như thế, lòng ông lại dấy lên một nỗi buồn mơ hồ, không hiểu rõ là gì và bắt nguồn từ đâu. Nhưng có lẽ trước sự nhỏ bé của con người trước trời đất, cảnh khiến ta ngẫm nghĩ và chiêm nghiệm về những gì đã xảy ra và những gì đang tới.một nỗi buồn vô cớ, nhưng cái cớ đó lại cho chúng ta những phút giây trải nghiệm và tìm ra câu trả lời cho chính bản thân mình.

Hai câu thơ đầu trong bài thơ lại càng  gợi ra vẻ mênh mông và một nỗi trống vắng mênh mang của dòng sông và trong chính tâm hồn thi sĩ. Cái hay của bài thơ là ở chỗ, mặc dù những từ ngữ được sử dụng rất đơn giản nhưng chính nó lại được sử dụng đúng chỗ nên càng tăng thêm vẻ đẹp và chiều sâu ý nghĩa cho bài thơ. “ điệp điệp” là từ láy dùng để miêu tả những gợn sóng trên sông, nhưng nó lại kết hợp với từ buồn khiến chúng ta liên tưởng đến nỗi buồn điệp điệp,đến từng đợt trong lòng thi sĩ. Và hình ảnh tiếp theo cũng được cho là một câu thơ mang sắc thái buồn. Xuất hiện giữa dòng sông là hình ảnh con thuyền,nhưng dường như nó cũng là con thuyền cô độc, hai từ “ song song” được Huy Cận sử dụng như nói tới cảnh không có điểm chúng. Nhưng có lẽ câu thơ hay nhất phải kể đến câu “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Hình ảnh củi khô chứ không phải hình ảnh của một chiếc lá xanh hay một sự vật khác đầy sức sống. Nó đã trở thành một thứ mà trên dòng nước ấy, bị trôi dập không biết về nơi đâu.lại với cọm từ” lạc mấy dòng” càng tỏ ra sự đời trôi nổi, không có sự lựa chọn hay không biết phải chọn cái gì. Đứng trước cuộc đời bao nhiêu ngã rẽ, biết đâu là nơi mà mình có thể đi tiếp, cũng như hình ảnh củi khô, mặc cho gió tấp sóng dập mà vẫn cuộn tròn giữa dòng xoáy cuộc đời.

Những hình ảnh của đoạn thơ tiếp theo cũng không có gì vui hơn, những chi tiết mà ngay khi chúng ta đọc lên đã có một cảm giác ảm đạm thiếu sức sống. Phải chăng nó là cảnh tượng của một buổi chiều tà. Hình ảnh “  cồn nhỏ, làng xa, trời sâu, bến rộng”..như tác giả đang vẽ khiến không gian mở ra rộng – cao để hồn ngấm vào thưa vắng. Mọi thứ trở nên “thưa vắng và yên tịnh” . sự tính lặng đó lại càng nổi bật làm nền cho âm thanh, chỉ có một âm thanh xa vang vọng về nhưng lại khiến cho bài thơ, càng chìm vào trong không khí cổ kính, nhuốm màu quá khứ và hoài niệm. Âm thanh đó mơ hồ là cách đặc tả cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này mở không gian. Chiều thẳng đứng thì như đang giãn dần ra theo nắng, theo trời: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”. Từ “ sâu “ được sử dụng miêu tả độ cao của trời khiến cho hình ảnh miêu tả này rất đắt. Sâu chứ không cao là một sáng tạo, nó gây ấn tượng cho người đọc.tất cả như chòm vào bến cô liêu. Mỗi chữ mỗi hình ảnh của bài thơ đều ngấm cái buồn, cái trống vắng và cô độc, ngay cả bến chờ cũng là Bến cô liêu.   Hình ảnh bèo dạt mây trôi khiến chúng ta liên tưởng về những bài thơ, bài ca dao về sự trôi nổi bấu víu. Không biết từ bao giờ bèo trôi về mặt sông, về chỗ bắt đầu bài thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Giờ đây, trên sông chỉ còn có bèo, duy nhất bèo, hàng nối hàng. Không đò ngang, không cầu bắc, không thấy một hình ảnh hay công trình nào mang dáng dấp con  người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. Nỗi buồn miên man theo cảnh.mọi thứ đều nhuốm một nỗi buồn trải ra xa “Lặng lẽ bờ xanh  tiếp bãi vàng” và dựng lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc". Qua đôi cánh chim nhỏ và rơi xuống một lòng người, ở chỗ cảnh bặt dấu người, nên lòng càng dội lên nỗi nhớ quê, lòng quê. Tình thế trôi dạt thiên nhiên khiến chính con người chúng ta càng thêm ngậm ngùi thân phận, thèm tình cảm ấm áp gia đình quần tụ.Tính logic trong những bước chuyển của tâm hồn rất được coi trọng trong bài thơ này. Kết thúc của bài thơ là nỗi nhớ nhà, mọi thứ trong bài thơ được đẩy đến cao điểm và do đó nỗi buồn đó có lí do của nó

Huy Cận đã mang tới cho người đọc những phút chới với trong cảnh sắc của thiên nhiên với vẻ buồn bã cô độc, mọi thứ trỉa dài theo chiều sâu và chiều rộng nhưng nó càng làm cho sự mênh mang thêm sâu sắc. Cảnh khiến lòng xao động, cảnh khiến người ngậm ngùi và cũng chính là lúc khiến con người nhận ra bản thân mình nghĩ gì.Có lẽ vì thế Huy Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một  bài thơ về tâm hồn.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận hay nhất 13

Tràng Giang là một bài thơ hay tiêu biểu cho phong cách thơ văn của nhà thơ Huy Cận. Nhà thơ Huy Cận đã có lần kể về quá trình viết bài thơ "Tràng Giang" chính là từ cảm hứng sông nước ở vùng ngoại thành thủ đô Hà Nội khi đó nơi đây vẫn còn hoang sơ, thưa thớt người qua lại còn giờ đây nơi đó đã thành khu dân cư đông đúc sầm uất.

Ngay trong nhan đề của bài thơ đã thể hiện được tư tưởng nguồn cảm xúc của bài thơ. Hai từ "Tràng Giang" thể hiện một con sông dài rộng mênh mông, thể hiện sự bao la bát ngát. Ngay dưới nhan đề ta thấy hàng chữ đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài"

Chính lời đề từ đã phần nào khái quát hết nội dung của bài thơ, cũng như tư tưởng, tâm tư tình cảm của tác giả Huy Cận trong bài thơ này. Thể hiện một nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Cả bài thơ "Tràng Giang" diễn tả cảnh đẹp thiên nhiên vùng sông nước vừa mang tính cổ điển vừa có nét hiện đại mang đậm phong cách của thơ Huy Cận.

Trong khổ thơ đầu tiên tác giả đã mở ra cho người đọc một con sông vô cùng rộng lớn chất chứa bao nhiêu nỗi bi lụy, buồn vương sâu thẳm trong lòng tác giả:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

Tác giả Huy Cận đã thể hiện rất nhiều những từ ngữ gợi lên cảm xúc buồn bã, như xuôi mái, lạc mấy dòng, sầu trăm ngả, kết hợp với những từ láy như "song song" "điệp điệp" thể hiện một nỗi buồn mênh mang vô tâm, nỗi buồn của một người đa sầu, đa cảm, trước cảnh nhân tình thế thái có nhiều biến động, bất công trong cuộc sống hiện tại.

Cảm nhận bài thơ "Tràng Giang" của Huy Cận

Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền để nói lên sự cô đơn bơ vơ của cành củi khô, một cành củi nhỏ bé mong manh nhưng lạc trôi ngược dòng, thể hiện sự bất lực không gặp thời gặp vận. Nó hoàn toàn đối lập với con thuyền to lớn lại xuôi mái, thuận theo dòng nước xiết nên chạy nhanh tới phía trước.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Trong khổ thơ này thể hiện một bức tranh thiên nhiên buồn hiu hắt, vắng lặng của một làng quê bình yên thiếu sức sống. Hình ảnh những cồn cỏ, bãi cát  bơ vơ trong khung cảnh bao la rộng lớn, khi con người đứng lại nơi này nghe rõ tiếng gió thổi qua hiu hắt trong lòng. Cảnh vật xung quanh hai bên bờ sông hiện lên vẻ hoang sơ buồn tê tái lòng người.

Hình ảnh phiên chợ là một hình ảnh vô cùng quen thuộc trong thơ cổ, nó thường thể hiện cảnh một đất nước thái bình thịnh vượng, nhưng cảnh "chợ đã vãn" thể hiện những gì vui vẻ đã qua mất, giờ chỉ còn chỗ cho sự nuối tiếc những ngày tháng vui vẻ hạnh phúc xưa cũ mà thôi.

Tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ để tự hỏi lòng mình, nhưng đây là một câu hỏi không có câu trả lời để lại một dấu chấm hỏi buông lửng giữa câu thơ làm cho bài thơ thêm buồn phiền

Trong hai câu cuối của khổ thơ này, tác giả sử dụng biện pháp đối lập giữa "nắng xuống" và "Trời lên" để làm cho không gian xung quanh trở nên mênh mông bao la hơn bao giờ hết. "Sông dài, trời rộng bến cô liêu" thể hiện một con sông mênh mông bơ vơ trong khung cảnh chiều muộn không bóng người, với những cơn gió đìu hiu càng làm cho lòng người se sắt hơn.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thương nhớ
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Trong khổ thơ thứ ba này không gian được mở rộng hơn, có sự chuyển biến từ khung cảnh tĩnh sang động, khi những cánh bèo dạt lững lờ trôi. Nhưng chính điều này lại làm cho bài thơ thêm nặng trĩu nỗi buồn, bởi những cánh bèo kia "trôi" mênh mông vô định không biết mình sẽ đi đâu về đâu tựa như tác giả lúc này không biết tương lai, cuộc sống của mình sẽ trôi về đâu giữa nhân tình thế thái nhiều rối ren.

Trong lòng tác giả có chút mong chờ hy vọng một chuyến đò sự sống của con người sẽ ghé qua nơi đây. Nhưng dường như hy vọng của tác giả chỉ là hy vọng viển vông không thể nào có thực .Tác giả Huy Cận muốn gửi nỗi nhớ thương của mình về nơi quê hương thương nhớ nhưng đáp lại tình cảm của tác giả chính là sự im lặng lặng lẽ tới nao lòng hiu hắt.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Trong khổ thơ cuối cùng nói lên tư tưởng tình cảm của nhà thơ Huy Cận muốn gửi qua bài thơ này. Tác giả đã sử dụng nhiều hình ảnh thường thấy trong thơ Đường cổ như "mây" "núi" để thể hiện nỗi buồn của mình. Rồi hình ảnh cánh chim chiều nghiêng cánh trong bóng hoàng hôn thể như hình ảnh ẩn dụ cho tác giả lúc này.

Trong cảnh hoàng hôn, trên sông nước mênh mông đó không cần phải có những cơn khói chiều, mùi khói bếp cay cay cũng làm cho con người nhớ thương tới quê hương của mình. Chính vì vậy, tác giả đã viết "không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". Câu thơ này làm cho người đọc chúng ta cảm thấy nhớ lại câu thơ trong bài "Hoàng Hạc lâu" của nhà thơ Thôi Hiệu.

"Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai"

Hai câu thơ thể hiện tâm trạng và nỗi nhớ nhà của tác giả, thể hiện nỗi buồn hiu hắt chất chứa trong lòng người lữ khách tha hương nhưng trong lòng luôn hướng tới quê hương của mình.

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

Bài thơ "Tràng Giang" của Huy Cận kết hợp giữa bút pháp nghệ thuật cổ điển và hiện đại tạo nên bức tranh thiên nhiên vô cùng buồn, ám ảnh người đọc.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 14

uy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới (1932-1941). Những vần thơ Huy Cận khiến lòng người da diết, mang một nỗi buồn man mác về thế sự đương thời. Trong đó bài “Tràng giang” là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất. Bài thơ in trong tập “lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn cô đơn bơ của con người ngay giữa quê hương mình.
Toàn bài thơ được chia bố cục làm 4 phần tương ứng với 4 khổ thơ, điều đặc sắc là chúng ta có thể coi mỗi một khổ là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt rất đăng đối.
Mở đầu bài thơ đã mở ra không gian trời đất sông nước tràng giang bao la, rộng lớn:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Ngay từ nhan đề bài thơ “tràng giang” cũng đã gợi ra độ dài miên man cùng với độ rộng bao la. Đồng thời khổ thơ mở ra bức tranh sông nước bao la mênh mông và xen lẫn chút dư vị buồn của tâm trạng con người. “gợn” một động từ gợi ta liên tưởng đến những con sóng nhỏ lăn tăn trăn mặt nước, cứ từng đợt từng đợt lăn do gió hiu hiu thổi. Qua đó gợi ra không khí tĩnh lặng bao trùm lấy không gian. Thật “ người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” ! mượn hình ảnh thiên nhiên để nói lên tâm trạng của nhân vật trữ tình lúc bấy giờ.

Điệp từ “điệp điệp” thực sự thành công khi diễn tả nỗi lòng tuy nhẹ những dai dẳng triền miên. Hình ảnh “con thuyền” xuất hiên nổi bật giữa sông nước đất trời càng trở nên đơn độc, nhỏ bé xiết bao. Từ láy “song song” đồng thời nói nên nhịp chảy đều đều mà cũng đầy sự nhạt nhòa, không chút gợn tình. Tác giả sử dụng cặp từ ngược hướng “ thuyền về nước lại sầu trăm ngả” phải chăng là sự chia li, khởi đầu cho nỗi sầu trăm ngả.

Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô lạc mấy dòng” như càng thêm nhấn mạnh sự tầm thường nhỏ bé, vô giá trị, không chỉ là vật rơi khô gãy. Lại còn là một cành củi thậm chí là “khô”, quá tầm thường nhỏ bé, thiếu sức sống. Trôi dạt vô hướng giữa không gian rộng lớn, ẩn chứa sau đó là những kiếp người và cái tôi lạc loài trong phong trào thơ mới của Huy Cận.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”

Tác giả sử dụng các tính từ “lơ thơ, đìu hiu, chót vót” dường như thành công trong việc khắc họa bức tranh sông nước tràng giang bao la. Từ láy “lơ thơ” gợi lên sự ít ỏi vắng vẻ đến nhỏ nhoi, một sự cô quạng giữa không gia mênh mông chỉ có cồn nhỏ vắng vẻ. Nhân vật trữ tình cố gắng lắng nghe, tìm kiếm đâu đó sự sống con người nhưng tất cả chỉ có thể là âm thanh của một phiên chợ chiều đang vãn đi. Hai câu thơ cuối tác giả sử dụng biến pháp đối “nắng xuống” đối với “chiều lên”, “sông dài” đối với “trời rộng”,”sâu chót vót” với “bến cô liêu”. Động từ ngược hướng lên xuống gợi nên cảm giác chuyển động rõ rệt. Gợi nên chiều cao và sâu không gian được mở vô biên. Một nỗi buồn thấm vào tạo vật con người hiện lên với trạng thái cô đơn.

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Đến khổ thơ thứ ba thì xuất hiện hình ảnh “cánh bèo” vô định, không đơn thuần là cánh bèo không tìm thấy hướng đi của thiên nhiên. Mà đó cũng chinh là nỗi niềm thế sự của một thế hệ thanh niên Việt Nam đương thời khi sống giữa ngã ba đường, giữa cảnh đất nước loạn lạc, bế tắc. Giữa không gian bao la ấy, giữa toàn cảnh vũ trụ rộng lớn ấy không mảy may một bóng người. Bởi chuyến đò, cây cầu chính là dấu hiệu, là biểu hiện của sự sống thì ngay cả nay đây cũng không có. Dùng cách nói phủ định để khẳng định sự cô quạnh, vắng vẻ, thiếu sự sống. Chỉ có “lặng lẽ bờ xanh tiếp bão vàng” chỉ là thiên nhiên. Đó là sự cô đơn, cảm giác bất an của một cái tôi thơ mới.

“ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Khổ cuối dường như thiên nhiên như mờ ảo dần, hình ảnh “đùn núi bạc” là không gian hùng vĩ, tráng lệ. Đối lập với không gian hùng vĩ tráng lệ đó là “chiem nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Nếu những dòng thơ trên ta thấy được rõ dấu ấn cổ điển thì đến đây ta đã bắt gặp yếu tố hiện đại, cánh chim bé nhỏ đang cô vươn cao lên trong buổi chiều tà ấy. Cái tôi thơ mới mang một nỗi buồn nhưng có cả sự thức tỉnh. Hai câu cuối bài thơ “lòng quê dờn dợn vời con nước/ không khói hoàng hôn cũng nhớ nhá” là nỗi lòng hoài hương. Đứng trên mảnh đất quê hương mà vẫn “nhớ nhà”, đó là nỗi niềm yêu nước luôn thường trực dù cho có “không khói”. Nỗi nhớ da diết hơn, cháy bỏng hơn. Nỗi buồn, nỗi thương, nỗi bế tắc dường như đã dồn nén lên tâm hồn Huy Cận.Cùng sự thành công trong việc xây dựng hẹ thống từ ngữ, hình ảnh mang chất liệu hài hòa cổ và hiện đại. Cộng thêm tâm thế, tâm hồn đầy đáng trọng của Huy Cận, tất cả làm nên một “tràng giang” mang đầy nét u buồn, bâng khuâng da diết khiên ta không khỏi bồi hồi xúc động những cũng không kém phần thi vị lãng mạn của một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 15

Huy Cận xuất hiện trong nền văn học Việt Nam trong giai đoạn toàn thịnh của Thơ mới, là một trong những thi sĩ có công đưa phong trào Thơ mới lên đến đỉnh cao; là một đại diện tiêu biểu cho Thơ mới với hồn thơ sầu buồn ảo não:

“Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Gió trăng ơi nay có nhớ người chăng?
Hơn một lần chàng đã gửi cho trăng
Nỗi hiu quạnh của hồn buồn không tới.”

Ở độ tuổi chín nhất của tài năng, phong cách thơ Huy Cận là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thi pháp cổ điển và yếu tố hiện đại, đặc biệt là cổ điển Đường thi và hiện đại thơ mới. “Tràng giang” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật đặc trưng của nhà thi sĩ.

Theo lời tác giả, bài thơ được hình thành vào một buổi chiều mùa thu năm 1939, khi nhà thơ trên đường từ Trường Cao đẳng Canh nông về Hà Nội, đứng ở bờ Nam bến Chèng, ngắm cảnh sông Hồng sóng nước mênh mang, bốn bề vắng lặng mà nghĩ về kiếp người. Chính sự kiện nhỏ nhoi ấy đã gợi thi tứ giúp “chàng Huy Cận” viết nên một “ Tràng giang” hấp dẫn lòng người.

Bài thơ có nhan đề là “Tràng giang”, tức có nghĩa là sông dài. Nhưng là “tràng giang” chứ nhất định không phải là “trường giang” dù cả hai cách biểu đạt đều có chung một ý nghĩa. Nhan đề bài thơ là một từ Hán việt không chỉ gợi tính cổ điển, không khí trang trọng, cổ kính cho bài thơ mà cách sắp xếp hai từ láy âm “ ang” ở gần nhau như vậy còn tạo hiệu quả về mặt âm điệu đến bất ngờ. Âm “ang” là một âm mở, gợi không gian mênh mông, dòng sông dài như cứ trải ra rộng mãi, rộng mãi, tạo ra cái ấn tượng sâu lắng ban đầu cho bài thơ. Bên cạnh nhan đề, không thể không chú ý đến lời đề từ của bài thơ:”Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Lời đề từ hay tựa đề trong một tác phẩm là một điểm tựa cho cảm hứng, ý tưởng của tác giả được triển khai trong tác phẩm, là sự cụ thể hóa nhan đề, là định hướng cho mạch cảm xúc và thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Lời đề từ với những động từ “bâng khuâng”, “nhớ”- những động từ chỉ hoạt động, cảm xúc của con người, từ đó làm hiện lên hình ảnh con người nhớ trời rộng, sông dài, hay cũng có thể hiểu “ bâng khuâng”, “nhớ” là động thái của thiên nhiên, của trời rộng đối với sông dài. Một câu thôi nhưng tạo nên sự giao thoa về hai nét nghĩa làm nổi gân lên mạch cảm xúc chính của bài thơ không chỉ còn nặng trĩu nỗi nhớ nhung mà sông núi, trời đất cũng tràn ngập bâng khuâng, nhung nhớ “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”; là sự giao thoa hoàn hảo giữa cảnh và tình.

Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh sông nước tràng giang mênh mông. Mỗi một đoạn thơ lại tái hiện một vẻ đẹp khác nhau của sông nước tràng giang cũng như những ngổn ngang, bộn bề trong lòng người.

“Tràng giang” mở ra với bức trang sông nước mênh mông và nỗi buồn trong lòng người:

“Sóng nước tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”

Hai câu thơ đầu miêu tả cảnh sông nước và con thuyền”độc mộc”. Thể thơ thất ngôn trường thiên, câu thơ ngắt theo nhịp 3/4 quen thuộc kết hợp với hình ảnh thơ đẹp “sóng”, “con thuyền” đã tạo nên một bức tranh về sông nước trường giang thật nên thơ, hùng vĩ. Nhưng trong cảnh đấy có con nguồi với tâm trạng” buồn điệp điệp” của chính nhà thơ, con người đang hòa mình vào giữa thiên nhiên rộng lớn. Nỗi buồn ấy như thấm cả vào không gian, thời gian, cứ tầng tầng lớp lớp như sóng cuộn trào trong lòng nhà thơ. Trên nền cảnh sông nước tràng giang mênh mang xuất hiện hình ảnh “ con thuyền rẽ nước” và hình ảnh “ một cành củi khô lạc mấy dòng”. Từ bao đời thuyền với nước như hình với bóng, từ bao đời đã gắn bó hợp nhất như một chỉnh thể, bới vậy nên giờ đây khi thuyền “về” và nước ở lại, là sự chia xa, là chia lìa xa cắt đã tạo nên nỗi “sầu trăm ngả”. Đao là nỗi sầu của sông nước trường giang hay nỗi sầu của lòng người? Thật khó để đoán định. Trên nền sông nước mênh mông bỗng xuất hiện hình ảnh một cánh củi khô nhỏ bé, lạc điệu. Phép tương phản đối lập giữa cái nhỏ bé của cành củi và cái mênh mang bao la của tràng giang gợi ấn tượng về một kiếp người nhỏ bé, vô định giữa dòng đời xuôi ngược. ba chữ “lạc mấy dòng” càng khía sâu hơn vào nỗi bơ vơ trơ trọi , không bến đỗ. Cành củi khô là hiện thân cho số phận con người. Đây không chỉ là nỗi niềm của riêng mình Huy Cận mà là nỗi niềm chung của những kiếp người sinh ra và lớn lên trong buổi mất nước.

Nỗi buồn trước cảnh sông nước tràng giang càng thấm đượm hơn theo cấp số nhân và sự chi tiết cụ thể trong việc khắc họa thiên nhiên của tác giả. Huy Cận đã đưa tầm nhìn về phía xa, nơi có những cồn nhỏ và những phiên chợ chiều, những tín hiệu của sự sống. Trong không gian bao la mênh mông vắng lạng của miền nước dài trời rộng, sự sống đã bắt đầu len lói. Nhưng cũng chỉ là một sự sống nhỏ bé và yếu ớt “lơ thơ”, “ làng xa”. Dẫu thực là sự sống có hiện hữu cũng chỉ là lơ thơ, thưa thớt, dẫu thực có tồn tại thì cũng chỉ ở nơi xa xa tít tắp chân mây, chỉ còn vọng lại tiếng vãn phiên chợ chiều quê hiu hiu trong làn gió thoảng. Tâm trạng nhà thơ lúc này là nỗi buồn cô liêu. Nó càng ngày càng lan rộng ra, thấm sâu hơn vào tâm hồn người thi sĩ ấy, thấm ra tận đến từng những câu chứ, vần điệu để rồi nhà thơ phải cất lên tiếng hỏi: “Đâu tiếng làng xa vẫn chợ chiều?” Là câu hỏi vì còn chưa chắc chắn hay là một sự phủ định về sự tồn tại của sự sống giữa nơi thiên nhiên hùng vĩ mà hoang sơ tiêu điều này? Nhìn xa,lắng tai nghe để kiếm tìm, rồi nhà thơ lại hướng ánh mắt lên trời cao: “ Nắng xuống, trời lên sâu chót vót” . Thiên nhiên có nắng, bầu trời trong xanh và cao đặc trưng của những buổi chiều mùa thu. Hiện lên trên bề mặt câu thơ là cách sử dụng từ ngữ vô cùng mới lạ của nhà thơ. Nắng xuống và trời thì lên, đặc biệt là cụm từ” sâu chót vót” gợi một không gian bao la, mênh mông rộng lớn, Bức tranh sóng nước tràng giang như được mở rộng ra về không gian, cao hơn về chiều cao, sâu hơn về phía mặt biển, và con người thì ngày càng trở nên nhỏ bé: “Sông dài, trời rộng bến cô liêu.” Qua đó cho thấy bức chân dung tinh thần của cái tôi thơ mới. Nỗi buồn gọi theo nỗi cô đơn. Đó là nét tâm trạng cảm xúc quen thuộc của tầng lớp thanh niên thời thơ mới.

Với những thi liệu quen thuộc như bèo, cây cầu, con đò,.. khổ thơ thứ ba tiếp tục khắc họa cảnh sông nước bến Chèng ở một tầng mênh mông, vắng lặng mới. Câu thơ sử dụng những từ phủ định “ không một”, “ không cầu”… trong tương quan đối lập với thiên nhiên rộng lớn càng khẳng định cái vắng lặng, chơi vơi, bơ vơ, lẻ loi. Từ đó phản ánh một cái nhìn bế tắc, thắm đượm nỗi buồn của chàng thanh niên trước cuộc đời.

Nỗi buồn như một sợi chỉ vô hình xuyên suốt toàn bài thơ. Những vần thơ sau cuối hiện lên vẫn tỏa ra một nỗi buồn rười rượi.Thiên nhiên đã trở lại với cái vẻ đẹp hùng vĩ vốn có với những mây cao, núi bạc diễm lệ, hoàng tráng. Hình ảnh cánh chim hiện lên giữa thiên nhiên cảnh vật đất trời ấy càng tô đậm thêm nỗi buồn tha thiết của con người. Câu thơ kết khẳng định, bày tỏ một nỗi lòng của chính nhà thơ:” Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Đó như một lời đối thoại lại với một quan niệm của cổ nhân trước đó:” Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Theo Huy Cận nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương luôn túc trực, luôn luôn hiện hữu, là thứ tính cảm rất tự nhiên, không cần có tác nhân ngoại cảnh. Đặt vào hoàn cảnh sáng tác của bài thơ, nhà thơ đứng ngay trên quê hương đất nước mình mà lại nhớ quê thì chỉ có thể lí giải quê đó là quê hương trong quá khứ yên bình, Quê hương của hiện tại đắm trong loạn li, chia cắt, quê hương của ngày ấy là quê hương của cuộc sống bình yên. Ta thấy thấp thoáng đâu đây nỗi buồn sông núi của một chí sĩ yêu nước sống trong đất nước vong quốc nô, hay cũng chính là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên lúc bấy giờ.

“Tràng giang” là tiếng buồn của hồn thơ Huy Cận. Được gợi lên từ những đối lập giữa cái mênh mông vô tận với cái nhỏ bé, mong manh. Tuy nhiên, nỗi buồn không phải là vô cớ mà là nỗi buồn thương về kiếp người, về quê hương đất nước, là nỗi buồn gắn với quan niệm thẩm mĩ của các nhà thơ mới: cái đẹp là cái buồn. Đó cũng là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên thơ mới mà trong thơ của mình Huy Cận thường đem nó giãi bày vào vũ trụ bao la.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 16

Hình ảnh những con sông quê hương đã biết bao nhiêu lần trở đi trở lại trong thơ ca. Mỗi một con sông lại gắn liền với tên của từng thi sĩ, nếu như nhà thơ Hoàng Cầm gắn tên mình với con sông Đuống lấp lành hiền hòa, Tế Hanh nhớ con sông Quê Hương, Thanh Hải xao xuyến với dòng sông xứ Huế, Quang Dũng kết thân với dòng sông Mã thì Huy Cận lại chọn dòng sông Hồng để làm nên tứ thơ của mình. Dòng sông ấy được vẽ lên thật đẹp qua bài thơ Tràng Giang.

Huy Cận là một chàng sinh viên của trường Đại Học Canh Nông, mỗi buổi chiều ông thường một mình đạp xe lên con đê chèm để ngắm con sông Hồng chảy. Chính cảnh vật sông nước nơi đây đã gợi lên tứ thơ Tràng Giang trong Huy Cận. Có thể nói biết bao nhiêu tâm sự nhà thơ chọn sông Hồng là nơi bầu bạn chia se mọi điều. Và cứ thế nó trở thành một thói quen, chiều nào cũng thế nhà thơ luôn đạp xe lên đê để ngắm dòng sông.

Thêm nữa hồn thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám mang một nỗi sầu rất lớn. Và có thế mà Tràng Giang hiện lên tuy đẹp những cũng chất chưa biết bao nhiêu nỗi buồn, nỗi sầu của nhà thơ. Đó là cái buồn trước thời đại cuộc đời.

Về nhan đề của bài thơ thì ban đầu bài thơ có nhan đề là chiều bên sông. Nhan đề ấy quá cụ thể và ít sức gợi không tạo được sức hấp dẫn và thu hút người đọc chính vì thế mà sau này nhà thơ có đổi thành Tràng Giang và cái nhan đề ấy tồn tại đến tận bây giờ. Tràng Giang là một từ hán việt cho nên nó tạo nên một sự trang trọng cổ kính hấp dẫn người đọc hơn. Tràng Giang cũng có nghĩa là sông dài nhưng tại sao tác giả không chọn nhan đề sông dài mà lại chọn Tràng Giang?. Mỗi người nhà thơ khi đặt tên cho đứa con tinh thần của mình đều có cái lý riêng của mình. Để giải thích cho cách đặt nhan đề ấy chúng ta có thể thấy rằng Tràng và Giang đều có chung một vần “ang” nó tạo nên sự cộng hưởng của âm điệu làm cho nhan đề nghe hay hơn. Không những thế “ang” còn là một âm mở cho nên khi đọc lên người ta thấy được sự âm vang của câu chữ.

Lời đề từ của bài thơ cũng mang đến những tâm trạng bao trùm cả bài thơ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. nó gợi lên cả tứ thơ tràng giang với nội dung và tâm trạng. Tràng Giang hiện lên với hình ảnh của cảnh sông trời dài rộng và tâm trạng của con người là thương nhớ bâng khuâng.

Đến với khổ thơ thứ nhất chúng ta được chiêm ngưỡng hình ảnh của một dòng sông với sóng gợn và con thuyền trôi trên mặt nước:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Hình ảnh sóng Tràng Giang hiện lên đầy tâm trạng, nó được truyền tải hết qua hình ảnh của những đợt sóng tràng giang, con thuyền xuôi mái và cành củi khô lạc dòng. Sóng Tràng Giang hay là sóng trong lòng tác giả?. Con sóng kia như mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Người ta thường nói núi trùng trùng điệp điệp nhưng ở đây nhà thơ lại nói là sóng điệp điệp. Qua câu thơ chúng ta thấy hiện ra trước mắt hình ảnh những đợt sóng trùng điệp nối tiếp nhau nhưng không ồ ạt dữ dội mà chỉ “gợn”. Ở đây ta thấy hay một điều là nghe “điệp điệp” thì có vẻ dữ dội lắm nhưng mà chỉ là gợn mà thôi. Ngược lại sóng gợn chút thôi nhưng lại mang đến sự dữ dội trong lòng người. Có lẽ hiểu theo ý thứ hai hợp lí hơn. Nhà thơ đứng trước những gợn sóng nhẹ nhàng của Tràng Giang mà lại thấy buồn dữ dội. Trên dòng sông mênh mông ấy ta thấy có con thuyền nhỏ nhoi rẽ nước xuôi mái song song. Thuyền về nước lại đi thể hiện sự chia ly buồn bã. Đặc biệt là hình ảnh củi một cành khô tượng trưng cho chủ thể trữ tình với tâm trạng cô đơn và lạc lõng vô định không biết trôi về đâu. Tóm lại qua khổ thơ đầu ta nhà thơ đã mở ra một không gian mênh mông của Tràng Giang, đối lập với sự mênh mông ấy là những hình ảnh nhỏ bé. Và những hình ảnh ấy bộc lộ lên một tâm trạng, đó là buồn sầu, rợn ngợp. Nhà thơ như thấy mình nhỏ bé trước cuộc đời.

Để nối tiếp dòng cảm xúc với làn nước điệp điệp trôi ấy, nhà thơ tiếp tục hướng con mắt của mình ra xa sang hai bên bờ sông. Để rồi từ đó ta lại thấy được bức tranh cảnh Tràng Giang với không gian ba chiều đẹp nên thơ nên nhạc. Thế nhưng nó vẫn mang một nỗi buồn phảng phất mãi không thôi:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Từ láy “lơ thơ” thể hiện sự thưa thớt của những cồn đất còn đìu hiu là không khí nơi đây mang một vẻ hiu hắt đến rợn người. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ lại dùng hai tính từ chỉ sự thưa thớt, vắng vẻ ấy trong cùng một câu thơ mà dụng ý của Huy Cận là làm tăng thêm sự vắng vẻ của không gian nơi Tràng giang gợn sóng. Một tính từ thôi đã đủ làm cho người ta cảm nhận được cái vắng vẻ rồi thế mà thêm một tính từ nữa thì càng làm cho người ta thấy cái vẻ u tịch hiu hắt như từng tiếng thở dài của nhân vật trữ tình. Từng tiếng thở dài miên man như nhỏ giọt rồi hòa mình vào sóng. Ngay đến cai khung cảnh mà nhà thơ chọn cũng thật sự buồn, đó là cảnh chiều nó gợi lên sự tan hoang, từ giã, vắng vẻ. Có cảnh có gió rồi giờ là lại xuất hiện thêm âm thanh chỉ tiếng chơ chiều. “đâu” thể hiện âm thanh ấy thật mơ hồ không thể xác định được chính xác nó phát ra từ nơi nào. Phải chăng trước sự cô đơn nhà thơ như muốn tìm kiếm một âm thanh cuộc sống náo nhiệt như tiếng chợ đông vui thế nhưng lại chỉ là mờ ảo. Sau đó là không gian ba chiều của Tràng Giang được nhà thơ gói gọn trong hai câu thơ. Hoàng hôn như đang buông xuống ánh nắng xà xuống thấp hơn và như đang dần tắt lịm dưới chân trời. Ánh nắng càng xuống thì nhìn bầu trời sâu hun hút, sông thì như dài rộng hơn. Có lẽ đó chính là lý do nhà thơ dùng từ “sâu chót vót” chứ không phải là “cao chót vót”. Thế nhưng càng rộng càng dài bao nhiêu thì lại càng cô liêu càng nhỏ nhoi đơn độc bấy nhiêu.

Trên con sông ấy những hình ảnh đã hiếm hoi mà khi có hình ảnh xuất hiên thì lại luôn là những hình ảnh quá đỗi nhỏ bé so với con sông rộng lớn mênh mông ấy:

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh những đám bèo trôi xuất hiện, xua nay bèo luôn là hình ảnh để người ta ví von cho thân phận trôi nổi vô định nay đây mai đó của con người. và ở đây có lẽ nhà thơ cũng dùng với dụng ý nghệ thuật ấy. Có lẽ những hàng bèo nối tiếp nhau kia để chỉ cho thân phận nhà thơ lênh đênh vô định không biết cuộc đời mình sẽ đi về đâu. Trước sự mênh mông ấy không có một chuyến đò ngang qua sông, để cho sông chỉ toàn sóng nước, đã mênh mông lại càng mênh mông hơn. Trên sông cũng không có một chiếc cầu nào bắc ngang để nhà thơ tìm sự kết nối và cứ thế sông nước lặng lẽ buồn thiu chỉ có bờ cỏ xanh rồi tiếp đến bãi cát vàng. Khung cảnh thì nên thơ như thế nhưng chao ôi sao mà buồn man mác. Cái nỗi buồn ấy nó lan tỏa vào trái tim người đọc để rồi thấu hiểu và đồng cảm với con người nhỏ bé trước thực tại.

Sông thường đi liền với núi và ở đây nhà thơ cũng hoàn thành bức tranh Trang Giang của mình bằng nhưng hình ảnh mây núi:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Có thể nói trong việc miêu tả cảnh đẹp sông nước nhà thơ sử dụng triệt để những từ láy gợi hình. “Lớp lớp mây cao” giúp chúng ta cảm nhận được một cảnh tượng những đám mây cuồn cuộn thành từng lớp một bồng bềnh ở chân trời như sà xuống đứng trên núi. Khiến cho những dãy núi chuyển thành màu bạc trắng. Trên không gian bầu trời mênh mông ấy có cánh chim nhỏ khẽ chao nghiêng như trở bóng chiều sa. Hình ảnh mây đùn nui bạc và cánh chim kia đều là những hình ảnh cổ điển. Nó gợi lên sự cổ kính trang trọng biết nhường nào. Cánh chim nghiêng thường gắn với buổi chiều, Hồ Chí Minh cũng từng sử dụng hình ảnh cánh chim ấy trong thơ của mình:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”

Đặc biệt hai câu thơ cuối khiến cho ta nhớ đến hai câu thơ của Thôi Hiệu:

“Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

Nếu như Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng thì chạnh lòng nhớ đến quê nhà thì ở đây nhà thơ Huy cận không cần đến khói sóng mà trong long cũng dợn dợn nhớ quê hương. Nhà thơ cũng có đi đâu xa, nhà thơ vẫn đứng trên mảnh đất quê hương mình. Có thể thấy đứng trên quê hương nhưng nhà thơ vẫn thấy thiếu quê hương.

Qua bài thơ này chúng ta như được trở về quãng thời gian trước đây để ngắm toàn cảnh sông Hồng vào buổi chiều gió hiu hắt. Khung cảnh ấy gợi lên cho biết bao nhiêu con người tình yêu quê hương đất nước mình, những cảnh đẹp đã làm nên hình hài đất nước. Thế nhưng cũng mỗi lần đến với bào thơ này chúng ta lại thêm yêu thêm thương nhà thơ Huy Cận với nỗi bâng khuâng, cô đơn của ông trước thực tại cuộc sống.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 17

Dù đã hơn nữa thế kỉ trôi xa, nhưng trên thi đàn dân tộc vẫn phảng phất dư vị ngọt ngào của phong trào Thơ mới. Nổi bật lên trên nền trời nghệ thuật ấy là hồn thơ Huy Cận với tập thơ "Lửa thiêng" thể hiện tâm thế thời đại mang nỗi sầu nhân thế, nỗi buồn của người dân mất nước. Đây là tập thơ hay toàn bích, nhuần nhị, đằm thắm, hài hoà Đông – Tây, kim – cổ, kết tinh nhiều giá trị văn hoá truyền thống, mà Tràng Giang là một trong những thi phẩm xuất sắc.

Cảm hứng chủ đạo của bài thơ đã người đọc có thể cảm nhận được ngay từ câu từ đề từ. Nhà thơ đã viết: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Thứ nhất chúng ta có thể hiểu câu đề từ này chủ thể của “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” là con người. Còn có thể hiểu theo một cách khác đó chính là chủ thể là tạo vật. Trời rộng bâng khuâng nhớ sông dài. Từ đó ta thấy được câu thơ mang đầy cảm hứng về sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người. Cả con người và trời đất đều mang nỗi niềm, từ trong lòng người mà lan tỏa lên cảnh vật, từ tâm cảnh ra ngoại cảnh “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Từ láy “điệp điệp” vừa thật gợi hình lại vừa thật gợi cảm. Khiến cho ta có thể tưởng tượng ra hình ảnh những làn song nhỏ đang chuyển động nhẹ nhàng,  liên tiếp nhau trải dài trên dòng sông bao la. Từ đó đồng thời dấy lên trong lòng người đọc cảm nhận được về nỗi buồn của  thi nhân như cũng đang hòa tan vào dòng nước. Hai con sóng (sóng nước và sóng lòng) quyện hòa vào nhau, tạo thành một dòng sông tâm trạng. Hình ảnh con thuyền đang trôi như vô định, sự chuyển động như vô tri mặc cho xuôi theo dòng nước và hình ảnh đối xứng “thuyền về – nước lại” gợi ra sự chia ly như càng khắc họa rõ hơn nỗi buồn đó. Cuối đoạn thơ ta lại bắt gặp một hình ảnh vô cùng ấn tượng tượng đó là: Củi (một cành) – Dòng (mấy). Củi tượng trưng cho hình ảnh một con người; dòng ở đây tương trưng cho dòng đời, sự bao la của cuộc sống. Câu thơ đã gợi lên sự bơ vơ, cô đơn của con người trước sự mênh mang của vũ trụ, của cuộc đời. Thi nhân cảm thấy mình thật lạc lõng, đơn độc, bé nhỏ trong sự to lớn, biến chuyển không ngừng của dòng chảy cuộc sống. Một câu thơ bảy chữ vỡ ra thành sáu mảnh cô đơn.

Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Hai câu thơ đầu với “cồn cát” nhỏ lại “lơ thơ”, “gió” thì “ đìu hiu” tất cả những hình ảnh này đều gợi lên khung cảnh thiên nhiên vắng vẻ đến thê lương. Mặc dù ở câu thơ sau ta thấy sự xuất hiện của con người nhưng hoạt động của con người đã ở thời điểm vãn bóng. Điều này lại càng khiến cho khung cảnh cho nên vắng lặng hơn. Sự xuất hiện của con người mới chớm đó nhưng lại nhanh chóng rời đi. Ở câu thơ “nắng xuống trời lên sâu chót vót” không gian hai chiều như được mở ra đó chính là chiều cao và chiều sâu cùng với sự mênh mông dàn trải của “sông dài, trời rộng, bến cô liêu” thì con người lại càng trở nên bé nhỏ, đơn côi hơn. Với cách sử dụng từ độc đáo, âm hưởng trầm bổng, nhà thơ Huy Cận như muốn lấy âm thanh để xoá nhoà không gian buồn tẻ hiện hữu nhưng không thành. Nỗi buồn của lòng người cứ thế hiện hữu bao phủ chiếm cả không gian, đất trời, vũ trụ.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Cảnh vật dường như đã có màu sắc hơn nhưng không những không khiến cho khung cảnh trở nên tươi vui hơn mà ngược lại tăng thêm nỗi buồn. Sự xuất hiện của hình ảnh “cánh bèo- hàng nối hàng” những tưởng sẽ thể hiện sự đông đúc tươi vui thế chỗ cho cái đơn côi “củi một cành”. Nhưng những “cánh bèo” đó lại chính là hình ảnh số phận của những con người nhỏ bé đang trôi dạt trong vô định. Một nét vẽ tượng trưng thứ hai đem đến liên tưởng những kiếp người lưu lạc, trên dòng đời. Đúng là sầu nhân thế, vạn cổ sầu. Ở câu thơ “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” từ "lặng lẽ" đã được nhà thơ Huy Cận dụng ý đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh. Cảnh vật cũng như con người vẫn ở bên nhau, tiếp nối nhau nhưng dường như không có sự liên quan. Không đò, không cầu: gợi không gian xa cách không có cầu nối. Không gian thiên nhiên có thêm màu sắc nhưng nỗi buồn càng đậm và sâu hơn.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Hai câu thơ đầu cảnh vừa mang vẻ đẹp cổ điển vừa mang vẻ đẹp hiện đại. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ trong thơ cổ với hình ảnh “cánh chim”, “mây”, “núi bạc”. Cánh chim trong hoàng hôn bé nhỏ, lẫn vào trong nắng chiều, mang trĩu nặng những tâm trạng của nhà thơ. Tương phản với hình ảnh cánh chim nhỏ bé đó là hình ảnh của thiên nhiên kì vĩ, bao la “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Hai câu thơ cuối vừa mang phong vị cổ điển vừa trực tiếp nói lên tâm trạng buồn nhớ quê hương của nhà thơ. Ta đã bắt gặp hình ảnh tương tự trong thơ cổ qua bài thơ của Thôi Hiệu:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng xử nhân sầu.

Huy Cận đã mượn ý thơ của người xưa để thể hiện một nỗi nhớ quê hương dường như đã có từ lâu của mình. “Không khói hoàng hôn”, không có tín hiệu ở ngoại cảnh nhưng nỗi nhớ vẫn được gợi lên trong tâm cảnh. Một nỗi nhớ in sâu trong tâm khảm của nhà thơ. Khổ thơ cuối chính là sự kết tinh về nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Nỗi nhớ quê, nhớ nhà mênh mang như gửi về mọi phía chân trời và đang trôi theo Tràng Giang.

Bài thơ Tràng Giang đã đem đến người đọc bức tranh thiên nhiên sông nước gần gũi quen thuộc nhưng vắng lặng và bức tranh tâm trạng mang nỗi sầu thiên cổ của nhà thơ. Cảnh đẹp nhưng lại buồn. Đồng thời đây cũng là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ của Huy Cận trước Cách mạng tháng 8.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận hay nhất 18

Huy Cận (1919 – 2005) cũng như nhiều thanh niên thời đó nhận thức được cuộc đời sống tù túng, tẻ nhạt, quẩn quanh nên thường hay có nỗi buồn cô đơn. Bài thơ Tràng Giang được trích trong tập thơ Lửa Thiêng và được xem là một bản ngậm ngùi dài. Bài thơ được viết vào mùa thu năm 1939 và cảm hứng sáng tác được khơi gợi từ hình ảnh sông Hồng mênh mông sóng nước, bốn bề bao la vắng lặng. Khi cảm thụ bài thơ này các em lưu ý từ ngoại ảnh (những điều tác giả miêu tả) mà cảm nhận tâm cảnh (nỗi lòng người trong cảnh).

Khổ 1: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song, Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; Củi một cành khô lạc mấy giòng. -  Hình ảnh quan sát được trên dòng sông rất chân thực nhưng đầy sức gợi.

+ Sóng gợn tràng giang thật nhẹ nhàng, lan tỏa đến vô cùng – gợi nỗi buồn mênh mang (buồn điệp điệp)

+ Con thuyền buông xuôi mái chèo một cách thủ động, mặc cho dòng nước đẩy đưa gợi sự lênh đênh. So với sông nước tràng gian nó cũng hết sức lẻ loi, bé nhỏ.

+ Hình ảnh “nước song song” “thuyền về nước lại” không hứa hẹn về sự hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia lìa, xa cách.

+ Đặc biệt gợi cảm là câu thơ “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Hoàn toàn là tả thực, không sa vào ước lệ sáo mòn. Một cành khô nhỏ bé, mỏng manh, lạc loài giữa mênh mông sóng nước biết trôi dạt về đâu. Người trong cảnh không thể không chạnh lòng nghĩ đến thân phận mình: một cá thể nhỏ nhoi, bơ vơ trôi dạt giữa dòng đời.

+ Chú ý khai thác nghệ thuật của khổ thơ: Phép đối (buồn điệp điệp – nước song song; sầu trăm ngả - lạc mấy dòng); từ láy âm (điệp điệp, song song); tương phản giữa cá thể và vũ trụ (một cành / mấy dòng). - > Khổ thơ gợi nỗi buồn về sự chia li, tách biệt thiếu giao cảm giữa các cá thể với nhau, đặc biệt là nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định giữa cuộc đời.

 Khổ 2: Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

- Hai câu đầu làm nổi bật sự đìu hiu, vắng lặng của cảnh chiều. Đứng trong cảnh không gian đó, con người lại càng cô đơn, càng khát khao được nghe những tiếng vọng thân thiết của cuộc đời (nghê thuật dùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” vừa có giá trị tạo hình vừa có khả năng biểu đạt tâm trạng sâu sắc: gợi lên được sự buồn bã, quạng vắng, cô đơn…. Nhà thơ tìm kiếm âm thanh cuộc sống của con người (đâu tiếng …. Chợ chiều) nhưng đồng thời phụ định ngay trong cách dùng từ “đâu” (không có). Chợ ở một làng xa, lại là chợ chiều, mà chợ đã vãn thì làm sao còn tiếng. Tất cả đều vắng lặng cô tích. Những từ: chiều, xa, vãn, góp phần triệt tiêu âm thanh, triệt tiêu điều tác giả khát khao tìm kiếm).

 - Hai câu cuối khổ thơ, không gian được mở rộng ra nhiều chiều: cao, sâu, rộng, dài. Trong vụ trũ vô cùng, thăm thẳm ấy không chỉ cảnh vắng, cô lieu mà lòng người cũng như rợn ngợp, bởi sự bé nhỏ, lạc loài của cá thể trước cái mênh mông của đất trời. (Hàng loạt từ mở không gian ra nhiều hướng: xuống, lên, sâu chót vót, dài, rộng). Các kết hợp từ rất độc đáo “sâu chót vót” vừa gợi được độ cao của bầu trời vừa gợi được chiều sâu thăm thẳm của vũ trụ. Cách ngắt nhịp thơ có hiệu quả diễn ý: “Sông dài, trời rộng, bến cô lieu”, tô đậm thêm tính chất phân li của các sự vật).

Khổ 3: Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật. Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Tiếp tục khắc sâu, tô đậm mạch cảm xúc đã thể hiện ở hai khổ đầu.

- Cái hiện hữu trước mắt vẫn là những hình ảnh gợi sự lênh đênh, vô định (bèo dạt về đâu) và tĩnh vắng, cô liêu (bờ xanh tiếp bãi vàng). Chú ý khai thác hiệu quả nghệ thuật: từ ngữ gợi sự liên tiếp, nối tiếp của hình ảnh buồn (hàng nối hàng; bờ…tiếp…bãi…); Đạo ngữ (lặng lẽ).

 - Hình ảnh mà thi sĩ khát khao tìm kiếm là “Chuyến đò ngang”, là “cây cầu” nhưng sự phụ định đãn nằm ngay trong điệp từ “không”. Cảm thức về sự cô đơn lạc loài trước cảnh sông dài trời rộng đã khiến nhà thơ mong được đón nhận tiếng nói của con người (Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều), mong được nhìn thấy sự giao lưu, gần gũi giữa con người với con người nhưng tất cả vẫn là sự cách ngăn (Hình ảnh con đò, chiếc cầu tượng trưng cho sự giao lưu đôi bờ nhưng không có). Nhà thơ không chỉ buồn khi đối diện với vụ trũ bao la, mà còn buồn về cuộc đời, về nhân thế. Khổ 4. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc... Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

- Khổ thơ này mang màu sắc. Đường thi khá rõ từ hình ảnh ước lệ (cánh chim hướng về núi chỉ cảnh chiều tối) đến cách dùng một số thi liệu thơ Đường (Hình ảnh “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” lấy ý từ câu thơ của Đỗ Phủ trong bài Thu hứng “Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm

– Mặt đất mây đùn cửa ải xa” đều nhằm chỉ sự hùng vĩ của thiên nhiên. Tuy nhiên câu thơ của Huy Cận miêu tả thiên nhiên lấp lánh, tráng lệ mang nét độc đáo riêng). Hoặc hai câu thơ cuối phảng phất ý vị thơ Thôi Hiệu “Quê Hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

 – Nêu cái buồn của Thôi Hiệu bắt nguồn trực tiếp từ ngoại cảnh thì nỗi sầu nhớ của Huy Cận có căn nguyên từ cõi lòng).

 - Hình thức ngôn ngữ mang màu sắc cổ điển nhưng cảm xúc chứa đựng trong lớp ngôn từ đó lại mang tình hiện đại: cái tôi bơ vơ, cố đơn, rợn ngợp trước cuộc đời. Hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ” gợi cảm giác chấp chới, rợn ngợp. Nỗi nhớ nhà “dợn dợn” trong lòng. Đó chính là nỗi khát khao tìm một chỗ dựa cho tâm hồn cô đơn trống vắng của tác giả, chứ không phải là nỗi nhớ nhà thông thường của một người xa quê. Bài thơ Tràng giang gợi lên nỗi bơ vơ, buồn bả của con người trước không gian mênh mông, vô biển và nỗi khát khao giao cảm hòa hợp giữa người với người trong tình đất nước.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 19

Văn học 1930-1945 nổi bật với phong trào Thơ Mới, cũng là thời điểm hàng loạt cây bút mới xuất hiện với những phong cách rất khác nhau. Trong đó, nhà thơ Huy Cận được nhắc tới mang nỗi buồn thiên thu, sầu vạn cổ, “buồn” nhất trong các nhà thơ Mới. Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận tiêu biểu cho nét phong cách này. Bài thơ không chỉ là cảnh thiên nhiên rộng lớn, hoang dại, giàu chất cổ điển mà còn là nỗi lòng của một con người nhỏ bé lạc lõng, bế tắc của kiếp người trôi nổi trên chính quê hương mình.

Ngay từ đầu bài thơ, người đọc đã thấy những nỗi buồn trùng điệp, miên man của một hồn thơ “ảo não”:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Từ “tràng giang” xuất hiện ngay từ đầu bài thơ, trong nhan đề và cả trong lời đề từ được coi là “nhãn tự” của bài thơ. Từ “tràng giang” gợi nhắc tới con sông Trường Giang của Trung Quốc chảy dài, nó như thấp thoáng bóng dáng Đường thi. Tuy nhiên, từ láy “tràng giang” với vần “ang” còn gợi ra chiều sâu và rộng của không gian, tạo nên cảm giác về một vùng nước rộng lớn, mênh mông, chảy cuồn cuộn không ngừng.

Đoạn thơ miêu tả lại cảnh mặt hồ với những con sóng, con thuyền, dòng nước và cành củi trôi trên mặt sông. Các thực thể ấy đi kèm với những từ “gơn”, “một”, “lạc” tạo nên vẻ cô độc, lạc lõng.

Và có lẽ, lần đầu tiên ta thấy được một con sóng kì lạ đến vậy, con sóng biết mang nỗi “buồn điệp điệp”. Những con sóng lăn tăn đang nối đuôi liên tục liên tục vỗ vào nhau thành hàng ngàn nỗi buồn chồng lớp lớp. Trên mặt nước đang “buồn” có độc một con thuyền đang trong trạng thái “xuôi mái” (buông xuôi mái chèo) để mặc cho dòng nước trôi. Hai mạn thuyền tạo thành hai vạch nước song song trôi tuột về phía chân trời, không có điểm dừng, cũng không có điểm chung.

Ngay đến dòng nước trong thơ Huy Cận cũng mang trong mình mối “sầu trăm ngả”. Thuyền và nước là hai thứ không thể tách rời nhau, nhưng ở đây chúng như thuộc về hai thế giới, một thứ thì “về”, thứ kia thì “lại” chỉ còn vương đọng nơi đây một mảnh tình sầu và cành củi khô. Cành củi khô – vật chết, cũng đang lạc lõng giữa dòng đời như nhà thơ đang cô đơn tuyệt đối.

Cảnh sống của con người cũng chẳng kém phần sầu thảm:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Nhà thơ chỉ thấy trong mắt những cồn cát nhỏ lơ thơ như những nấm mồ hoang bên triền cát đìu hiu gió thổi. Quả thật khiến người ta ớn lạnh. Ớn lạnh bởi những gì ta vừa mới hình dung và ớn lạnh vì nghĩ tới những câu thơ xưa của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”:

“Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”

Bỗng từ “đâu”, nơi nào đó xa xa văng vẳng dồn về tiếng chợ chiều, cái âm thanh xô bồ của cuộc sống mưu sinh mà ta đã một lần bắt gặp trong bài “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ”

Nhìn lên trời cao, lăng kính của một tâm hồn lạc lõng, sầu thương chỉ thấy sự chia cắt. Hia thực thể “nắng” và “trời” đáng ra phải cùng hướng nhưng một thứ thì “xuống”, một thứ khác lại ngược “lên”. Không gian cũng như đang ở nơi vũ trụ vô cùng vừa rộng lớn vừa “sâu chót vót”. Chiều sâu, chiều rộng không thể đo đếm bằng bất kì lượng từ nào. Chính vì thế, nhân vật trữ tình càng trở nên nhỏ bé và cô độc hơn.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thương nhớ

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Nhà thơ có vẻ như đang so sánh bản thân với thân phận của loài “bèo dạt”, đó là tâm thế của chính nhà thơ trước thời cuộc xã hội loạn lạc. Như loài bèo trôi, thân phận trí thức bèo bọt cũng không biết đi đâu, về đâu.

Nhà thơ hướng nhãn quan tìm một chút sự sống, sự đồng cảm nhỏ bé nhưng rút cục vẫn không một bóng con người, không một chuyến đò, cũng không có lấy một cây cầu. Đến cây cầu dẫn lối cũng không có, con người đang bế tắc khốn cùng. Con đường – nơi dễ tìm thấy dấu chân người nhất cũng chỉ có “bờ xanh” tiếp nối những “bãi vàng” cô liêu, hoang dại.

Tâm trạng tác giả thể hiện rõ nhất trong khổ thơ cối:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Những hình ảnh như “mây cao đùn núi bạc”, “chim nghiêng cánh nhỏ”, “bóng chiều sa”, “vời con nước”, “khói hoàng hôn” rất đậm chất cổ điển, gợi lên không gian chiều tà chất chứa mỏi mệt, chán trường.

Nhà thơ chìm trong hai cảm giác là “dờn dợn” và “nhớ nhà”. Cảm giác “dờn dợn” là cảm giác nhỏ bé trước không gian rộng lớn vô cùng. Còn “nhớ nhà”. Có ai lại nhớ quê hương khi đang đứng trên mảnh đất quê hương mình? Có lẽ nhà thơ đang hỏi mình và cũng hỏi người đọc: Nhà đâu rồi? Trong xã hội phong kiến – thực dân thối nát này, quê hương là gì đây? Nỗi nhớ không cần khói sóng quê hương vẫn tha thiết nhớ cho thấy nỗi nhớ quê, tình yêu đất nước rất thường trực trong lòng nhà thơ. Đó cũng là tâm trạng chung của nhiều trí thức yêu nước bấy giờ.

Tóm lại, bài thơ “Tràng giang” khá thành công trong việc xây dựng hình ảnh thơ mang chiều sâu của không gian, thời gian. Bài thơ không chỉ là bức tranh thiên nhiên sầu thảm mà còn chất chứa tình yêu quê hương sâu nặng của tác giả.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 20

Mới đọc, có khi nhầm Tràng giang là một bài thơ thuần túy tả cảnh thiên nhiên. Nhưng nghiền ngẫm cho kỹ mới thấy điều tác giả muốn nói đến trong bài thơ này tuyệt nhiên không phải là cái hữu hình, nhất thời; mà là cái vô hình, cái vĩnh viễn. Đúng như Hoài Thanh đã khẳng định: “Huy Cận có lẽ đã sống một cuộc đời rất bình thường, nhưng Người luôn luôn lắng nghe mình sống để ghi lấy cái nhịp nhàng lặng lẽ của thế giới bên trong”. Cái thế giới bên trong, cái linh hồn của tạo vật trong bài Tràng giang, là nỗi buồn xa vắng mênh mông.

   Dòng sông và con người; không gian bao la và tâm trạng cụ thể; đó là một tứ thơ cổ điển:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

   Bài thơ có tựa đề Tràng giang, câu thơ đầu tiên lại nhắc lại tựa đề. Tràng giang chứ không phải Trường giang, mặc dù trường và tràng đều có nghĩa như nhau.

   Tràng giang góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm lắng của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho toàn bộ giọng điệu của cả bài thơ. Mặt khác, Tràng giang còn gợi nên được hình ảnh một con sông dài và rộng, vừa là tràng giang, vừa là đại giang. Phải chăng, đấy là sông Hồng, hoặc sông Cửu Long, bền bỉ muôn đời, đã từng chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử? Và suy cho cùng, sức mạnh của hai câu thơ trên không phải là nghệ thuật miêu tả, mà ở nghệ thuật khêu gợi, khêu gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang), và theo thời gian (điệp điệp).Ở khổ thơ đầu, cũng như toàn bộ bài Tràng giang, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu đối về ý, chứ không bị câu thúc về niệm luật như cách đối trong thơ cổ. Chẳng hạn, Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, có thể coi là đối với Con thuyền xuôi mái nước song song; Nắng xuống, trời lên sâu chót vót, đối với: Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Hoặc ở một cấp độ khác: Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng - Mênh mông không một chuyến đò ngang lại cũng có thể đối với Không cầu gợi chút niềm thân mật - Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng...Nghệ thuật đối ý (và đối xứng) nói trên, một mặt, làm cho giọng điệu của bài thơ uyển chuyển, linh hoạt (tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy đối với một số bài thơ Đường luật hồi đầu thế kỉ); mặt khác, vẫn phát huy được một trong những thế mạnh của loại thơ này, tạo nên không khí trang trọng cổ điển. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy như điệp điệp, song song cũng có hiệu quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính. Nhưng Tràng giang vẫn là một bài thơ hiện đại. Trước hết, hiện đại ở hình ảnh, ở thi liệu, ở cảm xúc:

    Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

   Vào những năm 30 của thế kỉ XX, đây là những câu thơ mới mẻ; bởi trong đó xuất hiện cái tầm thường nhỏ nhoi, vô nghĩa như củi một cành khô... Thơ xưa chủ yếu là “địa hạt” dành riêng cho những tao nhân mặc khách; hầu như thiếu vắng cái hiện thực thô ráp của đời thường. Đến thời Thơ mới, nó mới xuất hiện, góp phần tạo nên cuộc cách mạng trong thơ (Hoài Thanh). Hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh, trên dòng sông mênh mông sóng nước gợi lên nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định.

   Đến khổ thơ thứ hai, nỗi buồn càng như thấm sâu vào cảnh vật:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

        Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

          Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

      Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

   Theo Huy Cận, từ đìu hiu ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm: Non Kì quạnh quẽ trăng treo - Bến Phi gió thổi đìu hiu mấy gò. Cặp từ láy lơ thơ và đìu hiu gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn... Chợ chiều thường buồn tẻ, không có được cái nhộn nhịp, hào hứng của chợ sáng, chợ trưa. Đoàn Văn Cừ đã đặc tả thành công nét buồn này bằng những câu kết của bài thơ Chợ Tết nổi tiếng:

Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê

Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.

   Trong Tràng giang, tiếng chợ chiều đã vãn từ một làng xa nào vẳng lại đã gợi một không khí buồn vắng, cô tịch:

    Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

   Đây là mấy câu thơ có giá trị tạo hình. Không gian được mở rộng, và đẩy cao thêm. Sâu gợi lên ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Chót vót gợi tả chiều cao vô tận. Càng rộng, càng cao, thì cảnh vật càng thêm vắng lặng, chỉ có sông dài, với bến bờ lẻ loi xa vắng (cô liêu). Nỗi buồn tựa hồ thấm vào không gian ba chiều. Con người trở nên bé bỏng, có phần rợn ngợp trước vũ trụ vĩnh hằng, rộng lớn, không khỏi thấy lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian. (Hoài Thanh). Ấn tượng nói trên lại được tô đậm thêm ở khổ thơ tiếp theo:

    Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

                  Mênh mông không một chuyến đò ngang.

        Không cầu gợi chút niềm thăn mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Vẫn trong mạch cảm xúc ở hai khổ đầu, nỗi buồn càng được khắc sâu qua hình ảnh những cánh bèo dạt lênh đênh. Bên cạnh những hình ảnh thuyền và nước cùng trôi về cõi vô biên, hình ảnh cành củi khô bập bềnh trên sông nước ở khổ một, đến khổ thơ này, ấn tượng về sự chia li tán, tan tác được lấy lại một lần nữa, càng gợi thêm một nỗi buồn mênh mông. Toàn cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng con người: Không một chuyến đò, đồng thời cũng không có lấy một cây cầu - những hình ảnh có thể tạo nên sự gần gũi giữa con người với con người, mà chỉ có thiên nhiên (bờ xanh) nối tiếp với thiên nhiên (bãi vàng) xa vắng, hoang sơ.

   Như vậy, sự cô quạnh đã được thi sĩ đặc tả độc đáo bằng chính cái không tồn tại. Thực ra, điều này còn có thể nhận thấy ở khổ bốn (Không khói hoàng hôn...) nhưng rõ nhất vẫn là ở khổ ba. Bởi vậy, có thể nói, thái độ phủ định thực tại của tác giả nằm ngay ở trong kết cấu của bài thơ.

   Khổ kết bài thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường, mà vẫn giữ được nét riêng biệt của Thơ mới, và vẫn thể hiện nét độc đáo của hồn thơ Huy Cận:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

            Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều xa.

   Lòng quê dợn dợn vời con nước.

         Không khói hoàng hồn cũng nhớ nhà.

   Thiên nhiên buồn, nhưng cũng thật tráng lệ. Mùa thu, những đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời. Ánh dương phản chiếu trông lấp lánh như những núi bạc. Hình ảnh mây cao đùn núi bạc tạo ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Trước cảnh sông nước, mây trời bao la và hùng vĩ ấy, bỗng hiện lên một cánh chim nhỏ bé, nó chỉ cần nghiêng cánh là cả bóng chiều sa xuống. Hình ảnh cánh chim đơn lẻ, trong một buổi chiều tà cũng dễ gợi lên một nỗi buồn xa vắng. (Chim hôm thoi thót về rừng / Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành - Truyện Kiều - Nguyễn Du). Nhưng điều đáng nói hơn ở đây chính là hiệu quả của nghệ thuật đối lập; đối lập giữa cánh chim bé nhỏ với vũ trụ bao la, hùng vĩ. Phải chăng, điều này đã làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn, thoáng hơn, hùng vĩ hơn và đặc biệt cũng buồn hơn?

   Như vậy, đi suốt bài thơ là nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn ở bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà Thơ mới, trước hết, chính là nỗi buồn của cả thế hệ, của cả dân tộc, trong những năm ngột, ngạt, dưới thời thuộc Pháp. Vả chăng, có lẽ nỗi buồn nói trên còn xuất phát từ chính quan niệm mĩ học của các nhà thơ lãng mạn đương thời. Theo họ, cái đẹp thường đi sóng đôi với cái buồn. Bô-đơ-le, người được Rem-bô mệnh danh là hoàng đế của các nhà thơ, đã từng có câu thơ nổi tiếng: Em cứ đẹp, và em mãi buồn. Vả chăng, cái buồn của Huy Cận ở bài thơ này, trước sau, vẫn là cái buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn của bạn đọc; nó cũng như cái buồn đã làm nên sức hấp dẫn mê hồn của thơ ca dân gian Nga, như Biê-lin-xki đã nhận xét.

   Bài thơ có ý vị cổ điển, tạo nên được những âm hưởng kì lạ do tác giả đã chọn được thể thơ thích hợp (gần với thể cổ phong), vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu quả, với tần số cao, hệ thống từ láy (10 lần trong 16 dòng thơ), và cách ngắt nhịp truyền thống... Chất cổ điển đặc biệt rõ ở câu kết. Thôi Hiệu nhìn khói nhớ đến quê hương (Nhật mộ hương quan hà xứ thị / Yên ba giang thượng sử nhãn sầu - Hoàng Hạc Lâu.) Tản Đà dịch: Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai? Huy Cận không cần có khói sóng - không cần có cái gợi nhớ - mà lòng vẫn dợn dợn nhớ nhà. Rõ ràng, nỗi nhớ của Huy Cận da diết hơn, thường trực hơn và cháy bỏng hơn; do đó, hiện đại hơn!

Cổ kính, trang nghiêm, Tràng giang còn là một bài thơ rất Việt Nam. Dòng sông sóng gợn, con thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô bồng bềnh, cánh bèo lênh đênh, chợ chiều của làng quê, cánh chim trong buổi chiều tà... thật gần gũi với người Việt Nam chúng ta.

Cảm nhận khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang của Huy Cận 21

 Nếu như Xuân Diệu là thi sĩ của niềm ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi khắc khoái không gian. Đọc Tràng giang, chẳng ai có thể phủ nhận rằng Huy Cận chính là nhà thơ buồn nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Nỗi buồn cố hữu trong tâm hồn cùng với cảm giác lạc lõng trong cảnh đất nước mất chủ quyền mà ông đã viết lên bài thơ Tràng giang sau những chiều dạo chơi bên bến Chèm, Hà Nội. Nỗi lòng ấy, cái tôi ấy được thể hiện rõ ràng nhất trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

    Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong phong trào thơ Mới 1939-1945, thơ ông mang một nét đặc sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội cũng như triết lí. Ông làm thơ từ năm 1934, đăng thơ từ năm 1936 và có nhiều tác phẩm tiêu biểu như tập thơ Lửa thiêng (1940), Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960),...Tràng giang là một bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, sáng tác năm 1939, đăng lần đầu trên báo Ngày nay, sau đó in vào tập Lửa thiêng.

     Ngay từ khổ đầu tiên, Huy Cận đã mở ra trước mắt đọc giả cảnh sông nước mênh mông bất tận:

 Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song

     Cảnh và tình người được thể hiện song song trong từng câu thơ. Con sóng trên mặt nước sông Tràng giang gờn gợn nhẹ nhàng không dứt cũng như nỗi buồn của con người cứ dào dạt đến hết đợt này lại đợt khác. Một nỗi buồn “ điệp điệp “ day dứt lòng người. Với tấm lòng sầu tư ngắm nhìn cảnh ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra từng đợt điệp điệp. Dư ba của dòng sông gợi những xao xuyến trong lòng người; nghệ thuật ẩn dụ đã khiến sóng sông hòa với sóng lòng, những gợn sống trên sông triền miên, vô tận như hữu hình hóa những gợn buồn trong lòng người, nhẹ nhàng mà mệnh mang không dứt. Câu thơ của Huy Cận nhấn mạnh tương quan về sắc thái: sóng gợn miên man vô tận cũng như nỗi buồn điệp điệp triền miên da diết khôn nguôi...Còn con thuyền trên sông, nó không phải được chèo lái mà là “ xuôi mái “ tự mình thả trôi theo dòng nước gợi lên sự lênh đênh trôi dạt phó mặc cho dòng nước chảy. Hình ảnh con thuyền đó gợi lên kiếp người nhỏ bé đơn côi với cuộc đời vô định của mình.

     Giữa Tràng giang điểm nhìn của tác giả hướng vào con sóng nhỏ gợn trên mặt nước. Sóng tuy rất nhiều nhưng chúng hiện ra rồi lại tan biến vào hư vô mãi mãi như thời gian trôi qua không lấy lại được. Từ xưa tới nay thuyền và nước là hai hình ảnh luôn luôn gắn bó không thể tách rời nhau. Vậy mà giờ thuyền với nước chỉ song song nhau thôi chứ không phải gắn bó lâu dài đi cùng nhau hết đoạn đường sông dài vô tận. Bởi vì nước xuôi trăm ngả thuyền biết theo lối nào. Thuyền – nước như hai đường thẳng song song phân cách nhau không bao giờ có điểm chung mà gặp gỡ, điều này dễ khiến ta liên tưởng đến cảnh chia ly , biệt ly giữa thuyền và con nước chảy bên dưới:

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

      Câu cuối của khổ thơ Huy Cận đã mượn hình ảnh con thuyền cô độc một mình thả trôi trên sông để bộc lộ sự lạc lõng cô đơn, đó đã là một cách sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình sâu sắc thế nhưng đọc đến câu thơ “Củi một cành khô lạc mấy dòng “ ta mới tận hưởng rõ nét cái tài, cái hay trong thơ của ông. Như nỗi buồn sầu cô đơn ngày càng ăn sâu vào tâm trí nhà thơ mà cái đơn độc nay còn được nhấn mạnh hơn ở sự nhỏ bé giảm dần của sự vật được đưa vào bài thơ. Giữa một dòng sông rộng lớn duy chỉ có con thuyền thôi đã thấy nhỏ nhoi, lạc loài giữa chốn sông nước, nay chỉ có độc một cành củi khô thì nghe sao thật bé nhỏ đến đáng thương.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 22

Nhà thơ Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới, ông còn là nhà thơ tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam. Bài thơ “Tràng giang” là một trong những bài thơ xuất sắc của ông đóng góp vào nền văn học Việt Nam. Âm điệu chung của bài thơ là âm điệu buồn lặng lẽ, bâng khuâng, da diết là nguồn khởi của nỗi buồn sâu thẳm, nỗi niềm đau đáu trước cảnh đất nước.

Đầu tiên, khi đến với tác phẩm, ta tiếp xúc đầu tiên với nhan đề tác phẩm. Ở đây, “Tràng giang” có thể có nhiều tranh luận xung quanh nhan đề tác phẩm này, có người nói tại sao đều nói về con sông dài, tác giả lại không nói “trường giang”, hay “sông dài” luôn mà lại dùng “Tràng giang”. Có thể hiểu một cách đơn giản như sau: Nếu sử dụng “Trường giang” ta cần phải cắt nghĩa, trường cũng có nghĩa là dài nhưng âm điệu không tạo nên hay tạo thêm cảm xúc, cơ bản âm “ương” không có sự ngân dài ở đây, nếu đặt là “Trường giang” khi nhắc đến tên, không có sức gợi cảm giác, hay hình ảnh. Khi đặt tên tác phẩm là “Tràng giang” gợi đến hình ảnh một con sông dài, buồn. Bản thân âm “ang” cho người đọc một hình dung kéo dài mãi sông không chỉ dài mà còn dài hơn qua nhan đề của tác phẩm.

 “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”

Đây là lời đề từ của thi phẩm, câu thơ như khơi nguồn chứ không phải không có sự liên quan với nội dung tác phẩm. Lời đề từ của tác phẩm giống như những dấu hiệu của tác phẩm, người ta đọc lời đề từ có thể phần nào đó nội dung của bài thơ, của nỗi niềm nhà thơ qua cum từ “Bâng khuâng”. Bâng khuâng theo từ điển Tiếng Việt đó được định nghĩa là cảm xúc luyến tiếc, nhớ thương xen lẫn nhau, gây ra trạng thái như hơi ngẩn ngơ. Trong cảm xúc ấy có “Trời rộng nhớ sông dài” đây là không giam bao la mênh mông rộng lớn. Cảm xúc ấy như nhân lên gấp nhiều lần hơn. Trong “Truyện Kiều” Nguyễn Du cũng đã vận dụng sáng tạo từ bâng khuâng khi sử dụng trong câu thơ:

“Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người

Nhớ nơi kỳ ngộ, với dời chân đi”

Khổ thơ đầu tiên của tác phẩm được Huy Cận viết ra như một sự tuôn trào cảm xúc:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Khổ thơ đầu tiên, tác giả gợi lên cảm xúc man mác buồn, từng gợn sóng từng cảnh vật đều mang một tâm trạng, đặc biệt cộng với cặp từ láy “điệp điệp”, “song song” gợi cho con người cảm giác buồn da diết, vô tận. Trong “Tràng giang” nỗi buồn ấy không chỉ là nỗi buồn của con người, nỗi buồn của tác giả gửi đến người bạn của mình, đó còn là nỗi buồn, sự bất lực trước thời cuộc xã hội lúc bấy giờ. Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và hơn hết là hình ảnh cành củi khô giữa dòng nước đơn côi một mình trong dòng nước, trong xã hội mênh mông, vô tận. Con sông thì thật dài nhưng nỗi buồn lại làm lòng sông thật hẹp, nỗi buồn như hai bờ co lại, gần đến nỗi chạm được vào nhưng lại là khoảng không vô định. Thuyền và nước là hai sự vật luôn gắn liền với nhau nhưng lại như có sự tách biệt, sự xa cách một sự “gây nhung nhớ” trong tác phẩm. Câu thơ thể hiện rõ ràng tâm trạng của nhà thơ Huy Cận nói chung, các nhà thơ cùng thế hệ nói riêng khi chưa tìm được con đường giải thoát.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Đây là khổ thơ tiếp, nhấn mạnh thêm sự cô quạnh của tác giả, của con người trong khung cảnh hiện tại. Một khung cảnh phảng phất buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng. Một làng quê thiếu sức sống. Hình ảnh cồn nhỏ với rất rõ tiếng đìu hiu đến tái lòng, ở ven sông, bờ sông vắng vẻ. Câu hỏi tu từ được sử dụng gợi lên bao niềm chất chứa nỗi lòng con người. Khung cảnh ấy hoang sơ, vắng vẻ càng thêm khi chỉ có không gian, có cồn nhỏ, có gió, đâu đó tiếng chim, tiếng con người. Cảnh vật càng làm sâu sắc hơn nỗi buồn của tác giả.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thương nhớ

Lặng lẽ bờ xanh tiếp nắng vàng”

Khổ thơ thứ ba, tác giả đi tìm sự ấm áp nơi thiên nhiên hiu quạnh này nhưng dường như sự mong đợi ấy không có sự hồi đáp. Sự biến chuyển của thiên nhiên, đất trời không còn u buồn thê lương nữa. Sự biến chuyển hiện ra rõ ràng đến bất ngờ.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vờn con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Khổ thơ cuối với đỉnh cao của thi pháp Huy Cận, cùng với đó, tư tưởng tình cảm của tác giả được gửi gắm. Sự hữu hình hóa cái vô hình tư tưởng của tác giả, bóng chiều đang dần buông xuống cùng với nỗi niềm khôn nguôi của tác giả.

Cùng với việc kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển, Huy Cận đã chấm nên bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Khắc họa được tâm trạng cũng như nỗi lòng của tác giả với quê hương, đất nước cũng như người bạn của mình.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 23

Cảm nhận bài thơ Tràng Giang của Huy Cận, Trong phong trào thơ mới, Huy Cận đa làm nỗi bật được những nét bức phá  đậm chất sử thi và cổ điễn. Mangmột cái gì đó rất riêng cho phong trào thơ của ông. Và bài thơ Tràng Giang được trích trong tập Lữa thiêng là một bài thơ mang đạm chất bức phá đó.

Với sự tinh tế và cách nhìn xa rộng của ông, ông đã mỡ đầu bài thơ bằng những bước bức phá buồn lãng mạng. Nêu cao được sự khó khắn của con người khi phải ngày đêm làm luộng trên con sông những vẫn không đủ ăn mà phải bương chãi lạc trong những cơn sóng xô ác nghiệt. Bằng các hình ảnh rất đơn giản, Huy Cận đã phác học bức tranh rất thực. Như buồn điệp điệp, mái nước song song, sầu trăm ngả và cuối cùng là lạc mấy dòng. Đó là những tư ngữ mang đậm sự khó khắn trong cuộc sống mui sinh của con người ở đây.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngã;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Tiếp theo đó là cảnh ngụ tình, bằng những nét riêng cho phong trào thơ mới của ông, ông đã làm nên một bức tranh của ngụ tình bằng những bức cảnh buồn xa xăm và đó là cách nhớ người yêu của ông khi mà thời gian trôi qua một cách nhanh chóng như vậy nhưng lòng ông vẫn nhớ cái gì đó rất xa xăm và lãng mạng. Bên cạnh đó là một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Hơn thế nữa dường như trong tâm trí của tác giả mang một nét đẹp hiện đại.Xoáy vào trong gười đọc một  không gian không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu". Và dường như tất cả không như mong đợi của tác gải mà hiện lên một bức tranh đìu hiu, vắng vẽ không mọt bóng người, không một tiếng động.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Và tâm trạng của tác giả dường như rối bời, mang một nỗi buồn sâ thẩm về sự nhớ nhà, nhớ quê hương đất nước. Thông qua cách tả phong cảnh, cảnh vật xung quang dường như mọi thứ đang biến đổi lại, đi ngược lại với thời gian với tiềm thức của con người.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Và đó là nỗi nhớ nhà khôn ngoan của tác giả, và ông muốn đóng góp cho quê hương nhưng tất cả đều bất lực không làm gì được. Thông qua những hình ảnh thơ vô cũng độc đáo mà lãng mạng mang một nỗi buồn riêng cho tác giả và sự khao khát hiến dâng cuộc đời cho quê hương đát nước mình.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận chi tiết nhất 24

Bất kì một ai đã từng đọc thơ Huy Cận có lẽ đều nhận thấy rằng thơ Huy Cận thấm đẫm một nỗi buồn. Nỗi buồn ấy có những sắc thái và màu sắc riêng, là “cái buồn toả ra từ đáy hồn một người cơ hồ không biết tới ngoại cảnh” (Hoài Thanh). Có lẽ vì thế mà thơ Huy Cận thường khắc họa những cảnh lụi tàn, bơ vơ, hoang vắng, chia lìa, dường như nhà thơ “lượm lặt những chút buồn rải rác để sáng tạo nên những vần thơ hư ảo. “Tràng Giang là bài thơ tiêu biểu thể hiện rõ nhất phong cách nghệ thuật này của nhà thơ Huy Cận."

“Tràng giang” nói riêng cũng như trong thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám nói chung, đúng như nhận xét của Xuân Diệu trong lời tựa viết cho “Lửa thiêng”: “Cảm giác nổi trội nhất của ta là một cảm giác không gian”. Toàn bộ bài thơ “Tràng giang” đều thấm đẫm nỗi buồn. Mỗi khổ thơ thực chất là một sự triển khai khác nhau của nỗi buồn đó thường được tạo nên bằng cách đối lập giữa cái mênh mông cao rộng như vô hạn yới cái nhỏ bé, mong manh. Bài thơ buồn ngay từ tên. đề và trải dài nỗi buồn đến tận những câu thơ cuối cùng. “Tràng giang” chứ không phải là “trường giang”. Nhan đề gợi sự khái quát và trang trọng vừa cổ điển lại vừa thân mật, hiện đại. Nếu như “trường giang” chỉ gợi cho người ta cảm giác về một con sông dài thì “tràng giang”, do âm hưởng vang xa và kéo dài của vần “ang” còn gợi hình ảnh con sông rộng đồng thời mồ ra một dư âm trầm buồn trong lòng người đọc. Bàn tựa đề này cảnh không phải là con sông Hồng nơi nhà thơ đứng nhìn xuống từ bờ Nam bến Chèm nữa mà trở thành cảnh tràng giang khái quát trong không gian và thời gian. Toàn bộ tứ thơ toát lên từ ngay câu mở đầu và tiếp tục được định hướng cảm xúc chủ đạo trong lời đề từ: “Mênh mông trời rộng nhớ sông dài”. Đó là cảm xúc bâng khuâng: nỗi buồn - sầu nhẹ nhàng lan toả mà sâu lắng trước cảnh sông dài trời rộng.

Mở đầu bài thơ là cảnh sông nước mênh mang vô tận:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song”

Dòng sông và con người, không gian bao la và tâm trạng cụ thể là tứ thơ thường gặp trong thơ ca cổ điển. Sóng gợn tràng giang và nỗi buồn điệp điệp không dứt hết đợt này đến đợt khác như những lớp sóng nhỏ trào dâng, ơ giữa không gian sông nước ấy nổi bật lên một chiếc thuyền đang xuôi mái chèo. Cảnh sông nước mênh mông rợn ngợp không nói ra cũng cảm thấy mang lại cho con người nỗi buồn. Và nhà thơ đặc tả đó là một nỗi buồn điệp điệp. Cũng giống như sự trải dài của dòng sông, nỗi buồn cũng như kéo dài và ngân vang lên mãi, tiếp nối mãi hết đợt này đến đợt khác. Hai từ láy “điệp điệp”, “song song” mang màu sắc cổ điển gợi âm hưởng thật cổ kính. Như vậy mạch thơ được mở đầu là sự tiếp tục cho tứ thơ và mạch cảm xúc đã được gợi ra ngay ngay từ đầu. Bài thơ ngay từ những câu thơ đầu tiên đã gợi đến cho người đọc nhiều suy tư.

“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả

Củi một càng khô lạc mấy dòng”

Vừa là cổ điển nhưng ngay sau đó ta bắt gặp những hình ảnh thơ hết sức hiện đại. “Thuyền về nước lại” là một câu thơ tả thực. Nó gợi ra thực tế đối lập giữa thuyền và nước. Và vì “thuyền về nước lại” nên “sầu trăm ngả”. Con thuyền của hiện thực trôi trên sông gợi ra kiếp người nhỏ bé, cô đơn, với nước chỉ “song song” chứ không gắn bó. Thuyền đi với dòng để chia li với dòng. Từ “buồn” đến “sầu”, từ cái “điệp điệp” đến cái trăm ngả, câu thơ và cảm xúc buồn của nó đã được đẩy lên một cấp độ mới cao hơn. Buồn như vậy bồi sự xuất hiện của cành củi khô “lạc giữa dòng”. Cái bơ vơ lạc lõng trơ trọi của cành củi khô càng được gây ấn tượng mạnh mẽ bởi cách viết đảo ngữ. Không phải “một cành củi khô“ mà là “củi một cành khô“, nó nhấn mạnh thân phận và sô’ phận. Cành củi khô bập bềnh trôi theo sóng gợi nỗi buồn về những kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng cô đơn, càng trở nên cô đơn đáng thương hơn trong cảnh trời rộng sông dài. Khổ thơ vẽ nên cảnh sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ hững. Từ con thuyền, con sóng, cành củi khô..., tất cả đều gợi lên một nỗi buồn, nỗi sầu không gian, đều chứa đựng dự cảm hứa hẹn sẽ không có hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia lìa. Trong sự tương quan đối lập giữa không gian tràng gian bao la rợn ngợp và cái nhỏ bé của cõi nhân sinh, cảm giác cô đơn, lẻ loi của con người trước trời đất càng được tô đậm.

Trần Tử Ngang xa cũng đã từng có tâm trạng tương tự:

“Ai người trước đã qua

Ai người sau chưa tới

Ngẫm trời đất vô cùng

Một mình tuôn giọt lệ”.

Huy Cận đã có công gợi lên tâm lí phổ biến của con người trước vũ trụ “vô thuỷ vô chung”. Nhưng nỗi buồn của ông sâu sắc và khắc khoải hơn nhân sinh bởi nó không chỉ là nỗi buồn đơn thuần khơi gợi từ trong cảnh vật mà còn là nỗi buồn trong tâm hồn người thưởng cảnh.

Khổ hai tiếp tục mạch thơ của khổ một đồng thời có thêm những sáng tạo mới làm cho nỗi buồn càng thấm sâu vào cảnh vật:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”.

Theo Huy Cận, từ “đìu hiu” ông học được từ trong “Chinh phụ ngâm”: “Non kì quạnh quẽo trăng treo/ Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy đèo”. Hơn nữa, cụm từ láy lơ thơ”, “đìu hiu” cùng gợi lên sự buồn bã, hiu quạnh, cô đơn. Có thể là chợ chiều đã vãn nên không còn nghe thấy một âm thanh nào nữa. Hoặc cũng có thể là đó là những âm thanh của một buổi chợ chiều đang vãn từ xa vọng lại, thấp thoáng. Nhưng dù là thế nào đi nữa thì nó cũng chỉ làm cho cảnh vật tăng thêm sự vắng lặng, vì những âm thanh của cuộc sống ở đây hoặc không có, hoặc có một chút thì cũng chỉ nghe thấp thoáng, xa xăm. Đã buồn lại càng buồn hơn. Đứng từ trên bến sông, nhà thơ trải rộng cặp mắt của mình, nhìn lên, nhìn xuống, nhìn xa. “Nắng xuống trời lên sâu chót vót/ sông dài, trời rộng bến cô liêu”. Hai câu thơ tạo hình đặc sắc. Không gian được mở rộng theo nhiều chiều kích khiến cho nỗi sầu cũng có cơ hội để vươn, trải. Không phải là “cao chót vót” mà là “sâu chót vót”, cái sâu gợi cho người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Dường như, ở đây điểm nhìn từ trên bờ sông đã được di chuyển. Tảc giả lấy cái đối lập của “nắng xuống” chiếu rọi xuống lòng sông để làm nổi bật cái “sâu chót vót” sau đó. Vì nắng xuống nên từ khoảng cách từ dòng sông đến bầu trời được đẩy cao lên mãi. Càng rộng, càng sâu thì cảnh vật càng trở nên vắng lặng, chỉ có sông dài với bờ bến lẻ loi xa vắng (cô liêu). Ta có cảm giác tựa hồ như nỗi buồn thâm vào không gian ba chiều. Con người trở nên nhỏ bé và có phần rợn ngợp trước vũ trụ rộng lớn và không thể không cảm thấy “lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian” (Hoài Thanh).

Cảnh vật lại tiếp tục tô đậm bằng hàng loạt các chi tiết gợi buồn khác:

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.

Nếu như ở trên, tiếng chợ chiều đang vãn cũng là “đâu có” thì đến đây, khổ thơ tiếp tục phủ nhận tuyệt đối tất cả những gì thuộc về con người. “Bèo dạt mây trôi”, cánh bèo xa nay vẫn thường gợi cho người ta nỗi buồn về sự nổi nênh vô định. Cái “dạt” của nó cho thấy sự vô định, không biết đâu là bờ bến, không biết đi đâu về đâu. Lại là “hàng nối hàng”, nỗi sầu cứ thế nhân lên, ngày càng nhiều, ngày càng chất chồng. Điệp từ “không” láy lại hai lần càng gợi thêm nỗi buồn mênh mông. Toàn cảnh sông nước tuyệt nhiên không có bóng dáng của con người. Tất cả những sợi dây nối giữa con người và sự sống của con người với nhau đều không tồn tại: không một chuyến đò ngang, không một cây cầu. Nghĩa là người đứng trước cảnh kia đang cô độc một cách hoàn toàn và hơn bao giờ hết đang thấm thìa nỗi cô đơn, bơ vơ ấy. Chỉ là “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Có sự xuất hiện của thiên nhiên thôi thì cũng chỉ là “lặng lẽ” bờ bãi tiếp nối tiếp cũng như nỗi buồn, dù lặng lẽ, nhưng đang ngày càng thấm sâu hơn vào trong tâm hồn con người. Ta hiểu rằng, thi sĩ đã dùng tất cả những cái không tồn tại để làm nổi bật Sự cô quạnh, cũng là để khẳng định một thứ khác, chỉ được gợi ra một cách kín đáo nhưng lại trải ra suốt từ đầu đến cuối tác phẩm: là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời. Thái độ phủ nhận thực tại nằm ngay trong kết cấu bài thơ.

Khổ thứ tư mở ra một không gian hùng vĩ, rợn ngợp:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh mỏi bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà".

Khổ thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường mà vẫn giữ được nét riêng biệt của thơ Mới và thể hiện khá rõ nét độc đáo của hồn thơ Huy Cận ở đây, thiên nhiên tuy buồn nhưng vẫn thật tráng lệ. Những đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời. Ánh dương phản chiếu khiến nó lấp lánh như được dát bạc. Từ “đùn” lấy lại ý thơ của người xa (Đỗ Phủ - “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”) tạo ấn tư­ợng hùng vĩ về thiên nhiên. Nó rất động, như cứ vận động theo hướng phát triển ra mãi, khiến cho ngày càng trở nên hùng vĩ hơn. Và chính vì vậy, cánh chim xuất hiện càng nhỏ bé, lẻ loi: “Chim nghiêng cánh mỏi bóng chiều sa”. Một cánh chim chao trên bầu trời, có lẽ là hiện lên trên chính cái nền của “núi bạc” như kéo đã bóng chiều xuống cùng với nó. Cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều tà càng làm cho không gian trở nên buồn hơn. Và cùng với tất cả những hình ảnh ở trên, chúng làm nền cho sự xuất hiện của tâm trạng nhân vật trữ tình:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhở nhà”.

Cái “dợn dợn” mang đến cho người ta cảm giác của cả cái “gai gai” người. Cái dợn sóng, dợn lòng cứ tăng lên mãi theo những con sóng. “Lòng quê” có sẵn trong tâm hồn giờ đây có cơ hội để phơi trải. Ấy là gì? Nhà thơ gọi đó là nỗi buồn của: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Thì ra tâm sự của nhà thơ là vậy. Đó là nỗi buồn nhớ quê hương da diết. Đứng ngay trên quê hương mình, đất nước mình mà vẫn nhớ. Phải chăng đó còn là tâm trạng kín đáo của một người trước thời cuộc và vận mệnh đất nước, dân tộc? Huy Cận nói rằng, lúc ấy ông buồn hơn Thôi Hiệu vì nhà thơ Trung Quốc phải:

“Quê hương khuất hóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

Có khói sóng kia mới dậy nên nỗi nhớ quê; còn Huy Cận thì chẳng cần có chút “yên ba” nào cũng gợi lên nỗi nhớ nhà. Cách nói phủ định để khẳng định một cách mạnh mẽ hơn. Và cũng có lẽ, nếu như không nói đến chuyện ai buồn hơn ai thì câu thơ cũng mang đến ý thức về thực tại nhiều hơn là tình người.

Bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển, có sự kết hợp hài hoà giữa cổ điển và hiện đại. Bài thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt với những thi liệu truyền thông; mang dáng dấp Đường thi ở sự hàm súc cô đọng, tao nhã, và khái quát. Có thể nhận thây rằng, đi hết bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Là nỗi buồn của thi nhân trước cái mênh mông, rợn ngợp của thiên nhiên, vũ trụ. Là nỗi buồn trước tình đời tình người. Nỗi buồn này như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới, là nỗi buồn của cả một dân tộc, cả một thế hệ thanh niên trí thức những năm tháng mất nước, ngột ngạt, bế tắc. Nó thể hiện những tâm sự yêu nước kín đáo của nhà thơ. Bởi vậy, Đây là cái buồn đẹp, cái buồn của những thanh niên chưa khô hộ, lạnh nhạt, thờ ơ, phó mặc trước cuộc đời. Như những gì Xuân Diệu đã đánh giá: “Tràng giang” là bài thơ dọn đường cho lòng yêu giang san, đất nước.

Cảm nhận hai khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang của Huy Cận ngắn gọn nhất 25

Huy Cận được biết đến với một hồn thơ ‘cổ điển nhất trong phong trào Thơ mới”. Ông tâm sự “Trước Cách mạng, tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng đê Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi ho tôi nhiều cảm xúc”. Và bài thơ “Tràng giang” được viết ra thể hiện một nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trước cuộc đời.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ Huy Cận đã sử dụng hình ảnh thơ quen thuộc: con thuyền, dòng sông để gợi nên cảm xúc:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song”

Âm Hán việt “tràng giang” đã được tác giả sử dụng bằng việc hiệp vần “ang”. Nó gợi cho người đọc một không gian rợn ngợp, đây là cách thể hiện nổi bật cho phong cách thơ Huy Cận. Tâm trạng nhà thơ được mở ra “buồn điệp điệp”. Đây là nỗi buồn đang được cụ thể hóa, nó được hữu hình giống như từng đợt sóng dâng trào gối vào nhau, cứ thế không ngớt vỗ vào bờ. Nỗi buồn ấy dai dẳng mà âm ỉ, như có sự tồn tại vĩnh cửu. Từ “song song” như nói đến hai thế giới đứng cạnh nhau mà không bao giờ gặp nhau. Đó là sự gần gũi mà lại chẳng có sự gặp gỡ. Qua đó, tác giả nhấn mạnh sự đơn lẻ, cô độc của con thuyền trên dòng sông, hay chăng đó cũng chính là sự đơn lẻ của con người bên dòng đời. Nhà thơ Huy Cận đã sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập tạo nét cổ kính cho khổ thơ. Theo quy luật thuyền và nước là hai sự vật gắn bó mật thiết, nhưng trong bài thơ lại có hành động trái chiều, lạc nhịp gợi sự xa cách, gợi cảm giác cô đơn, mất mát:

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Hình ảnh cành củi khô táo bạo và độc đáo trong thi ca Việt Nam. Đó là hình ảnh có một không hai. Huay Cận đã thả vào Thơ mới một cành củi khô để nói hộ tấm lòng cả một thế hệ Thơ mới. Bởi vì, xưa nay những vật tầm thường ít được đặt vào thơ, đặc biệt là thơ cổ, hình ảnh củi khô mang vẻ đẹp giản dị, đời thường nhưng lại có giá trị biểu đặt ghê gớm. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, sử dụng chắt lọc các từ đơn, khiến câu thơ như bị dập gãy, vơ vụn. & tiếng trong một câu thơ mà vỡ thành 6 mảnh cô đơn, sự cô đơn của cành củi khô với sự vô tận của dòng nước.

Cảnh vật vắng vẻ, cô quạnh ở khổ thơ thứ hai, tầm nhìn đã được mở rộng hơn:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nằng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Tác giả sử dụng từ “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi sự xuất hiện ít và thư thớt, cảm giác của con người thoáng buồn khi đứng trước tầm nhìn rộng. Đây là sự cảm nhận bằng thị giác. Bên cạnh đó, tác giả còn có sự cảm nhận bằng thính giác: cảm nhận về âm thanh cuộc sống tiếng chợ chiều. Cảnh vật như thiếu vắng hơi ấm của cuộc sống con người, cần lắm tìm đến sự tri ân. Từ “đâu” mang nhịp chậm, giọng buồn nhuốm sầu. Không gian được thắp lên màu nắng, tăng thêm cả về chiều rộng, độ cao, chiều sâu. Từ đó tác giả đã gợi ra một không gian từ mặt nước đến đáy sông, không gian được đẩy đến tận cùng, khắc họa nỗi buồn, cô đơn của con người trước cuộc đời. Tác giả như không tìm thấy sợi dây liên hệ với cuộc đời, mang đến sự vô vọng.

Hai khổ thơ đầu bài “Tràng giang”, tác giả Huy Cận đã gợi ra cả không gian rợn ngợp, nhưng tâm trạng của con người lại mang cảm giác sầu buồn, cô đơn, nỗi buồn như trải dài vô tận. Đó là sự cô đơn, lẻ loi của con người trước dòng đời, và không tìm thấy sự giao cảm của bản thân với cuộc đời.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận 26

Mở bài 1: “Cái buồn Lửa Thiêng chính là cái buồn tỏa ra từ đáy hồn của một người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh” – Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét như vậy về hồn thơ Huy Cận. Tràng Giang là tác phẩm tiêu biểu cho nỗi sầu nhân thế, cho những nỗi niềm hoài cổ, về nhân tình thế thái của nhà thơ. Trong đó, hai khổ thơ cuối đã thể hiện rõ nét tâm trạng sầu muộn ấy. Bình giảng và cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang để thấy “Nhà thơ đã gọi dậy cái hồn buồn của Ðông Á, đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm đã ngấm ngầm trong cõi đất này”. 

Mở bài 2: Con người trước không gian rộng lớn bao la luôn có cảm giác nhỏ bé, rợn ngợp. Đứng trước không gian ấy, con người thường có nhiều chiêm nghiệm suy ngẫm về cuộc đời để rồi nhận ra sao ta cô đơn quá. Đó cũng chính là nỗi niềm của Huy Cận khi đứng trước không gian trùng điệp rộng lớn của Tràng giang. Sự cô đơn nhỏ bé ấy được thể hiện rõ trong hai khổ cuối của bài thơ.

Mở bài 3: Huy Cận là một trong những cây bút tiêu biểu cho phong trào Thơ Mới (1930-1945). Thơ ông vừa đậm sắc màu cổ điển lại giàu chất suy tư triết lý. Tác phẩm Tràng giang là tứ thơ đặc sắc thể hiện phong cách sáng tác của nhà thơ. Bài thơ được viết vào mùa thu năm 1939 và trích từ tập “Lửa thiêng”. Nỗi sầu đong đầu phủ bóng của nhà thơ trước thiên nhiên hiu quạnh mênh mang đã thấm đượm tấm lòng của nhà thơ đối với quê hương đất nước. Đặc biệt là trong tứ thơ cuối đã thể hiện rõ nét điều này. Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang cho thấy “Người như lạc loài giữa cái mênh mông của không gian, cái xa vắng của thời gian, lời thơ cũng vì thế mà buồn rười rượi” (Hoài Thanh).

Những nét chính về tác giả Huy Cận

Huy Cận sinh năm 1919 mất năm 2005. Tên thật của Huy Cận là Cù Huy Cận. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo ở Hà Tĩnh. Huy Cận ở quê xong sau đó vào Huế học trung học, rồi đậu tú tài tại Pháp. Sau đó ông ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. 

Đến năm 1942, ông bắt đầu có mặt trong một số hoạt động cách mạng như phong trào Sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh. Ông từng tham dự hội nghị Tân Trào và được bầu vào Ủy ban Giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Ông còn từng giữ nhiều chức trách quan trọng trong bộ máy nhà nước như Bộ trưởng Bộ Canh nông đầu tiên, Thứ trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Văn hóa Nghệ thuật, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ Kinh tế, Bộ trưởng Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng (nay là Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ).

Không chỉ hoạt động chính trị mạnh mẽ ông còn là một nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới. Huy Cận nổi lên trên văn đàn như một hiện tượng với tập thơ đầu tiên – Lửa thiêng. Đến với Lửa thiêng người đọc bắt gặp một giọng thơ nồng hậu vừa phảng phất phong vị cổ điển vừa mang dấu ấn hiện đại như nhiều nhà phê bình từng nhận xét hồn thơ của Huy Cận là một hồn thơ “ảo não” rất riêng, man mác một nỗi sầu thế kỷ. 

Huy Cận sáng tác rất nhiều. Có thể kể đến những tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng; Đất nở hoa; Bài thơ cuộc đời; Hai bàn tay em; Phù Đổng Thiên Vương; Những năm sáu mươi; Chiến trường gần đến chiến trường xa; Họp mặt thiếu niên anh hùng; Những người mẹ, những người vợ; Ngày hằng sống ngày hằng thơ; Ngôi nhà giữa nắng, Hạt lại gieo, Tuyển tập Huy Cận tập I, Chim làm ra gió; Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ; Ta về với biển…

Hoàn cảnh ra đời bài thơ Tràng giang 

Bài thơ Tràng giang được viết vào mùa thu năm 1939 khi tác giả đang đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng. Nhìn cảnh sông nước rộng lớn và suy nghĩ về kiếp người chính là nội dung của bài thơ. Đặc biệt ở hai khổ cuối dường như không chỉ đơn thuần tả cảnh mà trong đó ta còn bắt gặp tâm trạng của thi nhân. 

Tràng giang không những là tác phẩm điển hình cho hồn thơ Huy Cận mà còn tiêu biểu cho thơ ca lãng mạn (đặc biệt là phong trào Thơ Mới) trong giai đoạn 1932-1945. Cảnh chiều trong Tràng giang có chiều kích của không gian cao rộng, có sông nước mênh mang và tất cả đều tiêu sơ, hoang vắng, chất chứa nỗi sầu nhân tình thế thái…

Khung cảnh hoàng hôn sầu buồn trong Tràng giang của Huy Cận

Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang của Huy Cận 

Khung cảnh thiên nhiên đượm sầu và nỗi lòng cô đơn của nhà thơ

Nếu ở hai khổ thơ đầu là khung cảnh thiên nhiên sông nước rộng lớn ngợp trời:

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Thì đến khổ thơ thứ hai khung cảnh và điểm nhìn đã được thu hẹp hơn. Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang sẽ thấy rất rõ nỗi sầu buồn trong tâm hồn của thi nhân. 

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Không còn là trời rộng là sông lớn, từ cái nhìn bao quát đã trở thành cái nhìn cận cảnh. Hình ảnh bèo quen thuộc xuất hiện. những cánh bèo nhỏ bé thường gọi sự nhỏ bé của kiếp người. Cánh bèo mong manh như chính kiếp người. Nếu cánh bèo không thể tự di chuyển mà bị dòng nước xô đẩy thì con người cũng thế. So với cuộc đời rộng lớn mênh mông thì con người chỉ là những hạt cát nhỏ bé trôi nổi giữa dòng đời. 

Trong câu thơ dường như thoáng chút bất lực bế tắc. Không chỉ một cánh bèo, một kiếp người mà “hàng nối hàng” nhiều kiếp người cũng đang lạc lõng bơ vơ giữa cuộc đời. Dường như không chỉ có Huy Cận cảm thấy cô đơn thấy lạc lõng ngay chính trên đất nước của mình mà là cả một tầng lớp thanh niên sinh ra trong thời loạn lạc của đất nước. Họ đều như những cánh bèo kia lênh đênh không biết sẽ đi về đâu chỉ đành phó mặc cho dòng đời xô đẩy

“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước

Biết chọn một dòng hay để nước trôi.”

Huy Cận cũng thế nên ông thấu hiểu cho tình cảnh của những người thanh niên giống ông. Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang sẽ thấy chỉ một từ láy “mênh mông” nhưng cũng đã đủ diễn tả không gian rộng lớn của đất trời. Không gian như được mở rộng ra vô biên. Và trong không gian rộng lớn ấy chỉ có cánh bèo nhỏ bé lênh đênh, thật cô đơn và tuyệt vọng. 

Sau khi vẽ ra không gian rộng lớn ấy, nhà thơ đã đi đến một điệp khúc “không” độc đáo. Điệp từ “không” được lặp lại hai lần trong lời thơ – “không một chuyến đò ngang”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”. Không có gì cả, không có người cũng chẳng có sự vật. Nỗi cô đơn cứ thế mà ngự trị khắp nơi len lỏi vào không gian xen lẫn vào tâm hồn nhà thơ. Đó cũng chính là điều đã làm nên cái điệu buồn miên man này. 

Nhưng dường như không chỉ có cảnh vật cô đơn mà con người dường như cũng từ chối cả sự giao tiếp với thế giới xung quanh. Chính con người dường như cũng đang thu mình lại giữa sự cô đơn, khép lại tấm lòng của mình và từ chối giao tiếp với thế giới. Bến và đò vốn muôn đời nối liền nhau, nhắc đến bến là phải nghĩ đến đò nhưng trong câu thơ thì bến trống rỗng mà thuyền cũng chẳng đến. Bến đó nhưng nào có đợi mong thuyền hay một chuyến đò nào sang sông. Tất cả mọi sự vật đều từ chối sự kết nối. 

Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang ta thấy từ láy “lặng lẽ” đã nhấn mạnh thêm sự trống vắng tĩnh lặng đến đáng sợ nơi đây. Trong im vắng cũng chính là lúc người ta sống thật với lòng mình sống thật với những cảm xúc của mình. Nhưng trong im vắng người ta lại cảm thấy cô đơn nhiều hơn, để rồi cần tìm một nơi để nương tựa sẻ chia. 

“Bờ xanh” tiếp “bãi vàng”, những gam màu đã bắt đầu xuất hiện. Nhưng có màu xanh tươi mát hay màu vàng ấm áp cũng không khiến cho bức tranh này tươi mới hơn mà ngược lại nó càng trở nên âm u tịch mịch. Những gam màu ấy chỉ càng khiến cho cảnh trở nên hiu hắt đìu hiu. Cảnh buồn thấm vào cảnh vào người hay chính nỗi buồn sự cô đơn của con người khiến cảnh vật cũng u ám như câu thơ của Nguyễn Du từng viết

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang sẽ thấy con người đang cô đơn lạc lõng trong không gian rộng lớn, trong thời gian mênh mông vô thủy vô chung của đất trời…

Nỗi nhớ quê hương sâu lắng mà kín đáo của nhân vật trữ tình

Thật không sai khi nói rằng thơ của Huy Cận có sự hòa quyện chặt chẽ giữa chất cổ điển và chất hiện tại. Điều ấy được thể hiện rõ ở khổ thơ cuối:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang, ta thấy hình ảnh những đám mây chất chồng lên nhau được diễn tả thật hùng vĩ qua dòng phác họa “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Từ láy “lớp lớp” diễn tả khối lượng lớn, và dường như còn đang tiếp diễn. Sức sống ấy cứ dâng lên không sao kìm nén được. Sức sống ấy được diễn tả cô đọng qua từ “đùn”. Trong thơ văn, không ít nhà thơ đã dùng từ “đùn” để thể hiện sức sống của cảnh vật như Đỗ Phủ từng viết

“Giang giang ba lãng kiêm thiên dũng

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.’

(Thu hứng)

(Lưng trời sóng lượn lòng sông thẳm

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)

Hay Nguyễn Trãi cũng từng viết:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”

(Cảnh ngày hè)

Huy Cận cũng sử dụng từ “đùn” ấy để diễn tả sự chất đống, chất dồn của đám mây. Những đám mây xếp chồng lên nhau tạo cho ta cảm giác như những núi bạc đã lơ lửng trên không. Hình ảnh hiện ra thật hùng vĩ làm sao. Trong bức tranh cổ thi ấy, nét động bắt đầu xuất hiện. Đầu tiên chính là “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình ảnh con chim cuối ngày thường gợi ra một cảm giác chán chường mệt mỏi như trong câu thơ của Bà huyện Thanh Quan.

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn”.

Hay trong câu thơ của Hồ Chí Minh

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”.

Cánh chim của Huy Cận cũng thế chở đầy mệt mỏi lo âu và cả sự cô đơn rợn ngợp. Chú chim nhỏ bé cô đơn giữa bầu trời rộng lớn. Cánh chim nếu so với bầu trời thật quá nhỏ bé cũng như con người với dòng đời này. Khi cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang, ta nhận ra cuộc đời này nếu so với dòng chảy vô tận của thời gian thì chẳng khác nào một hạt cát giữa sa mạc, một giọt nước giữa đại dương. 

Nếu ở những dòng thời trên thời gian không xuất hiện cụ thể thì ở dòng thơ này thời gian đã được xác định “bóng chiều sa”. Giữa hai sự vật “chim nghiêng cánh nhỏ” và “bóng chiều sa” dường như không có sự kết nối, cho người đọc tự liên tưởng. Chính vì vậy ta có cảm tưởng dường như cánh chim đang chở nặng bóng chiều hay chính cánh chim mỏi mệt đã kéo bóng chiều xuống. Nhưng dù hiểu theo cách nào ta vẫn thấy hình ảnh ấy hiện ra thật tráng lệ.

Nỗi buồn của người lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp

Từ điểm nhìn trên cao, Huy Cận đã di chuyển điểm nhìn xuống mặt nước quen thuộc

“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Lòng quê chính là tình cảm dành cho quê hương đất nước. Hóa ra nhà thơ không chỉ quan tâm đến bản thân mà ngầm trong đó là một tình yêu nước thầm kín. Từ láy dợn dợn gọi tả sự chuyển động nhỏ nhưng diễn ra liên tục không ngừng như một sự ám ảnh. Tình yêu đối với quê hương cũng thế có đôi khi mạnh mẽ có khi khi lại ẩn khuất trong cuộc sống nhưng nó vẫn tồn tại mãi ở đó không khác đi. Không nhắc về nói nhưng mỗi lần nhớ đến vẫn cảm thấy đau nói. Dùng sự vật biểu trưng để nhớ đến quê hương không phải là điều xa lạ. Như Lí Bạch từng nhìn trăng mà nhớ quê hương:

“Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương”

Hay Thôi Hiệu cũng từng:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

Nhưng nếu các thi nhân xưa cần vật để gợi nhớ quê hương thì Huy Cận đang ở trên quê hương mà vẫn nhớ về quê hương. Tại sao một con người đang đứng trên đất nước mình mà lại đi nhớ về quê hương? Bởi lẽ quê hương ta đang bị quân giặc giày xéo, đây không phải là quê hương đúng nghĩa, nên dù đang đứng ngay trên quê hương mình nhưng ông vẫn thấy cô đơn, thấy bơ vơ như những con người xa quê…

Tràng giang nói riêng cũng như toàn bộ tác phẩm nói chung sẽ thấy bài thơ chính là một nỗi buồn cô đơn dài vô tận. Nỗi buồn ấy không chỉ đến từ vạn vật mà còn đến từ chính tâm trạng thi nhân. Đó là tâm trạng của một người không có được tự do trên chính đất nước mình. Giọng thơ đượm buồn kết hợp với những hình ảnh rộng lớn của không gian đã cho thấy được sự cô đơn nhỏ bé của kiếp người trước sự trôi nổi của dòng đời.

Cảm nhận bài “Tràng Giang” nói chung cũng như hai khổ thơ cuối nói riêng sẽ thấy tác phẩm là đại diện tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Huy Cận. Một cái buồn ảo não, một nỗi sầu nhân thế ngấm xuyên vào cảnh vật và vào cả lòng người. Bởi thế mà nhà thơ Lê Duy đã từng viết: 

“Là Tràng Giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước,

Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn…”

Cảm nhận hai khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang của Huy Cận 27

Độc giả biết đến hồn thơ của Huy Cận trước cách mạng là một hồn thơ sầu, buồn trước nỗi sầu nhân thế. Đến với bài thơ “Tràng giang”, ta lại bắt gặp một nỗi buồn, cô đơn sâu sắc của tác giả trước cuộc đời. Đặc biệt, nỗi sầu buồn ấy được làm nổi bật trong hai khổ thơ cuối của bài thơ.

Khổ thơ thứ 3 đã gợi ra hình ảnh một kiếp người nhỏ bé, vô định, chênh vênh trước dòng đời mang nét cổ kính:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Hình ảnh “bèo dạt” như gợi bão tố của cuộc đời đang xô đẩy số phận một con người nhỏ bé như hình ảnh bèo cô độc, bị xô đẩy. Con người như cùng bơ vơ trước cuộc đời. Điệp từ “không” nhấn mạnh sự trống vắng, thiếu hụt, mất mát. Nó góp phần phủ định hiệu quả. Dòng sông là bức tường ngăn cách, phương tiện đi qua nó là “đò”, “cầu”, là cái khiến con người xóa bớt sự cô đơn. Nhưng ở đầy, đã có sự phủ định tuyệt đối “không cầu”, “không đò”, đó lại là sự khẳng định không có bất kì tín hiệu, mối liên hệ nào để con người gần gũi nhau, giá trị sống của con người đang bị hoàn toàn tiêu diệt. Nếu bị tước đoạt những thứ giúp con người đến với nhau thì không cuộc sống không có giá trị. Phương tiện giúp con người xóa đi sự xa cách mà ở hoàn cảnh này lại hoàn toàn không có. Sự sống của con người dường như bị tiêu diệt, vì sống giữa cuộc đời mà không có sự liên hệ, cảm thông hay chia sẻ. Hình ảnh “bờ xanh’, “bãi vàng” là hai sự vật vốn dĩ đứng cạnh nhau mà lại không có một mối liên hệ ràng buộc nào. “Lặng lẽ” chỉ hoạt động âm thầm, kín đáo, riêng lẻ. Tác giả đã gợi ra bức tranh cảnh vật hoang vắng, thiếu hơi ấm tình người.

Khổ thơ thứ 4 gợi ra cả một bầu tâm sự của tác giả:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vờn con nước 

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Hình ảnh “mây cao”, “núi bạc” mang hình ảnh kì vĩ, mang tầm vóc lớn. Nhà thơ đã lựa chọn sử dụng những hình ảnh lớn lao, kì vĩ, mượn từ “đùn” của nhà thơ Đường, đó là sự chuyển động từ bên trong đẩy ra bên ngoài: từng lớp mây trắng cứ bung nở, tỏa ra thành một núi bạc. “Lớp lớp” là nhiều, chồng lên nhau, không có điểm kết thúc. Hình ảnh mây trắng hết lớp này đến lớp khác như một cây bút bông nở lên trên trời cao. Mây trông như những ngọn núi bạc, mây là núi, núi tựa mây. Hình ảnh “cánh chim” là một công thức ước lệ trong thơ cổ, lấy cánh chim để gọi buổi chiều, nói hộ tâm trạng con người. Hình ảnh “cánh chim” gợi sự sống cho cảnh vật, nhưng cánh chim nhỏ lại nghiêng đi, không chịu được sức nặng của bóng chiều đang xa xuống, tạo sự đối lập giữa cảnh bầu trời cao rộng hùng vĩ ở câu trên và cánh chim nhỏ bé ở câu dưới. Câu thơ cuối cùng “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” chính là tâm sự nhớ quê hương mà tác giả gửi gắm. Cách thể hiện nỗi nhớ nhà: không cần có yếu tố gợi nhớ mà vẫn nhớ vì nỗi nhớ luôn thường trực ở trong tâm hồn thi sĩ. Huy Cận đứng trước dòng sông của đất nước, thể hiện tâm sự của nhà thơ đối với đất nước. Người đọc nhận ra được sự cô độc của tác giả do mất quê hương, đây là một tâm trạng thầm kín, thể hiện tình yêu nước của nhà thơ.

“Tràng giang” là một bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng buồn, đặc biệt hai khổ thơ cuối thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ. Tình yêu ấy mang tâm sự thầm kín của tác giả. Trong đó còn có sự kết hợp giữa hiện đại và cổ điển, xứng đáng là bài thơ hay nhất của tập “Lửa thiêng”.

Cảm nhận hai khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang của Huy Cận 28

Nhà thơ Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng với làng thơ mới, mỗi tác phẩm của ông đều gửi gắm những tâm trạng, nỗi buồn phiền, sầu muộn của mình trong đó.

Bài thơ Tràng Giang là một bài thơ tiêu biểu gắn liền với Huy Cận, thể hiện nỗi buồn của tác giả trước nhân tình thế thái, trước nỗi buồn nhân thế. Thể hiện tình cảm yêu quê hương, đất nước của tác giả.

Đặc biệt là hai câu thơ cuối thể hiện rõ nét tâm trạng phiền não, sầu muộn của tác giả Huy Cận với những nỗi sầu nhân thế.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Hình ảnh từng cụm bèo lững lờ trôi trên sông vô định không biết đời mình rồi sẽ đi đâu về đâu, trong bối cảnh không gian mênh mông sông nước trời biển bao la, thời gian là cảnh chiều tà, nhìn những đám bèo trôi vô định, không có phương hướng khiến cho tác giả cảm thấy nôn nao buồn. Một nỗi buồn nhân thế không biết tỏ bày cùng ai, chỉ có thể gửi gắm vào những câu thơ của riêng mình.

Trong câu thơ “mênh mông” hai từ láy này gợi lên cho người đọc sự sầu muộn bao la, trước cảnh sông chiều nhưng không có một con đò nhỏ để qua sông, càng làm cho lòng người thêm man mác.

Tác giả đã sử dụng nghệ thuật  đối lập giữa không gian và con người bé nhỏ, không gian càng mênh mông thì con người càng cảm thấy mình thật cô đơn bé nhỏ, lạc lõng biết bao nhiêu.

Khung cảnh thiên nhiên thể hiện như tâm trạng của nhà thơ Huy Cận lúc này đều gợi lên tâm trạng buồn. Giữa đất trời sông nước bao la không tìm được một người bạn tâm giao tri kỷ, không ai có thể hiểu nỗi lòng của tác giả, làm cho nỗi cô đơn cứ thế mà xô sóng ở trong lòng, con người cảm thấy mình thật bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện tại.

“ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

Cánh chim chiều nghiêng bóng trước hoàng hôn, một cánh chim nhỏ nhoi lẻ loi trên bầu trời bao la rộng lớn, thể hiện sự cô liêu khắc khoải. Cánh chim chiều chao nghiêng kia phải chăng chính là hiện thân của tác giả lúc này, đang cảm thấy trào dâng nghiêng ngả những cơn sóng lòng. Đang cảm thấy mình lẻ loi, cô đơn trước cuộc đời bao la rộng lớn.

Thiên nhiên trong khổ thơ này gợi lên cho người đọc cảm giác buồn thê lương, não lòng, đúng như câu thơ của Nguyễn Du viết trong tác phẩm Truyện Kiều rằng:

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” để thể hiện sự cô đơn, lẻ loi buồn chán của tác giả trước thiên nhiên, cuộc đời.

Tác giả Huy Cận đã vô cùng tinh tế khi đặt cánh chim đối lập cô đơn với không gian bao la rộng lớn, mênh mông của đất trời, vũ trụ…

“Lòng quê rờn rợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Trong hai câu thơ này thể hiện tâm trạng nhớ nhà nhớ quê hương của tác giả Huy Cận. Người xưa thường nhìn khói lam chiều gợi lên cảnh nhớ nhà, nhớ mùi khói bếp thơm ngai ngái để hướng tới quê hương, gia đình, hướng tới người thân thương nhất của mình.

Nhưng Huy Cận viết “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” thể hiện nỗi nhớ của ông là nỗi nhớ thường trực, nó luôn chứa đựng in sâu trong lòng tác giả, không cần phải có chất xúc tác là khói lam chiều mới nhớ.

Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ vô cùng hay thể hiện bức tranh quê hương trong cảnh hoàng hôn vô cùng tươi đẹp, sinh động, với hình ảnh thân thuộc như cánh chim, mây trời, sông nước, rồi những cánh bèo trôi…

Tất cả đều gợi lên một bức tranh chiều tà vô cùng tinh tế, tươi đẹp nhưng thể hiện một nỗi sầu nhân thế vô cùng sâu sắc trong lòng tác giả.

Cảm nhận hai khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang của Huy Cận 29

Huy Cận nhà thơ xuất chúng của phong trào thơ mới, thơ của ông mang nhiều tâm trạng, nỗi buồn của chính thi nhân và nỗi sầu nhân thế. Đoạn cuối của bài thơ Tràng giang là một trong số đó.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc ,

Chim nghiêng cảnh nhỏ :bóng chiều sa,

Lòng quê dờ dợn vời non nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Tác giả đã dùng những từ láy " lớp lớp" ở đây để miêu tả rõ hình ảnh của nhưng đám mây nhiều nó từng lớp từng lớp đã làm bạc đi cả bầu trời, câu thơ :"lớp lớp mây cao đùn núi bạc " nàa thơ đã dùng biện pháp so sánh ẩn dụ và bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

”Mặt đất mây đùn cửa ải xa” để tô thêm vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ tác giả đã so sánh màu của những đám mây với" bạc" một cách so sánh khá khéo leó. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi thành núi bạc. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều. Trời mây thì bao la, rộng lớn như vậy còn chim thì chao nghiêng nhưng ở đây không phải là chao nghiêng một cách bình thường mà "chim nghiêng cánh nhỏ :bóng chiều sa":Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.có lẽ những đàn chim đang vội vã bay về tổ ấm của mình để tránh được cái " bóng chiều sa".Dường như những cánh chim đó đang bị đè nặng của cảnh xế chiều buông xuống và điều đặc biệt hơn là cánh chim không bình thường mà chim nghiêng bỏi đôi cánh nhỏ bằng đôi cánh nhỏ của mình chim bay vể tổ ấm của mình đề tránh được một không gian rộng lớn buổi chiều tà. chim bay đi đâu cho thoát khỏi cái bóng chiều tà đang đè nặng xuống mình? Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

"lòng quê dờn dợn vời non nước"

LÒNG QUÊ ở đây muốn nói lên nỗi nhớ quê hương của nhà thơ , sự hướng tâm chứ không chỉ đơn thuần là tấm lòng chất phác , quê mùa. hai từ "dờn dợn " cho ta cảm nhận sóng biển đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay tác giả đang nhớ thương vậy? "Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Hai từ "dờn dợn "còn gợi cho ta thấy được sự lên xuống uốn lươn của sóng biển hay nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng của một buổi chiều tà. Và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà là liên tục ,nhiểu lần nhưng nỗi ấy mới chỉ là 'dờn dợn ' mà chưa phải là cuồng nhiệt. câu thơ muốn nói lên lòng nhớ quê hương khi tác giả sông nước. hay trong chuyện kiều cũng ả nỗi nhớ nhà nhưng lại chưa biết đâu là nhà khi:

"bốn phương mây trắng một màu

trông vời cố quôcbiết đâu là nhà"

kiếu nhớ quê nhà nhưng bốn phương đều là một màu làm sao để nhận ra được đâu là nhà hay trong cuộc sống của cô như thế thì sẽ biết về đâu và đâu sẽ là nhà?vâng lòng nhớ quê hương được gợi lên bởi từ” mây trắng ", cánh chim chiều và được tác giả nhấn mạnh ở từ" con nước'. tác giả kết thúc bài thơ một cách nhẹ nhàng nhưng sâu lắng:

"không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" 

Nhà thơ đã mượn từ "khói " trong thơ của nhà thơ thôi hiệu để nói lên nỗi lòng của mình, nếu như nhà thơ Tô Hiệu nói" trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" thì nhà thơ HUY

CẬN không có "khói " nhưng vẫn nhớ về nhà hay cái nôi mà mình đã nuôi ta trưởng thàn. nhà thơ tô hiệu mới nói lên nỗi nhớ nhà một cách chung nhưng ở đây nhà thơ huy cận đã khẳng định "không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" câu thơ rất mạnh mẽ dứt khoát . Xưa kia nhà thơ thôi hiệu buồn vì cõi tiên mù mịt , quê nhà cách xa , khói sóng trên sông gợi cho tác giả thấy mờ mịt mà sầu. Nhưng nay Huy Cận buồn trước cảnh không gian hoang vắng ,sóng "gợn tràng giang "khíến ông nhớ tới quê hương như một nguồn ám áp vá là tổ ấm hạnh phúc đối với ông.thôi hiệu tìm giấc mơ tiên chỉ thấy hư vô , đó là lòng khát khaôột cõi quê hương thực tại còn Huy Cận một mình đối diện với khung cảnh vô tình ,hoang vắng lòng ông lại muốn được trở về với quê hương mang nặng tình thương và mang lại sự ấm áp cho tác giả đó cũng là nỗi khát vọng của ông. Bằng những biện pháp so sánh và sự tài tình miêu tả của nhà thơ đã thể hiện rõ nỗi buồn , nỗi nhớ nhung quê hương của tác giả. Nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

Thơ mang đậm nét buồn , buồn ở đây không phải là buồn do cảnh vật tàn phai , không gian chật hẹp , tù túng hay chết chòcma buồn vì cái đẹp thiếu tình người ,từ một sự mất mát các mối liên hếco tính phổ quát gây nên.một cái buồn đậm màu triết lí , nỗi buồn đó cũng phản ánh sự thay đổi đòi sống xã hội , khổ thơ cũng muốn nói lên nỗi buồn của những ai khi phải xa quê hương.

Cảm nhận khổ thơ hai trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận – Bài văn mẫu số 30

"Tràng giang" là bài thơ kiệt tác của Huy Cận rút trong tập thơ "Lửa thiêng" (1940). Bài thơ có một câu đề từ rất đậm đà: "Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài". Tác giả đã có lần nói: "Tràng giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn", "Tràng giang" tiêu biểu cho vẻ đẹp của hồn thơ Huy Cận trước cách mạng: hàm súc, cổ điển, giàu chất suy tưởng triết lí, thấm thìa một nỗi buồn nhân thế "sầu trăm ngả".

   Bài thơ dược viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, có 4 khổ thơ hợp thành một bộ tứ bình về tràng giang một chiều thu. Đây là khổ thơ thứ hai của "Tràng giang"

    "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

    Đây tiếng làng xa vãn chợ chiều,

    Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

    Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".

   Từ dòng sông, sóng gợn, con thuyền xuôi mái và cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sóng., ở khổ một, Huy Cận nổi đến cảnh tràng giang một buổi chiều mênh mông, vắng vẻ. Giọng thơ nhè nhẹ man mác buồn. Không gian nghệ thuật được mở rộng về đôi bờ và bầu trời. Những cồn cát thưa thớt nhấp nhô "lơ thơ" như nối tiếp mãi dài ra. Gió chiều nhè nhẹ thổi "đìu hiu" gợi buồn khôn xiết kể. Hai chữ "đìu hiu" gợi nhớ trong lòng người đọc một vần thơ cổ:

    "Non Kì quạnh quẽ trăng treo,

    Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò"

           (Chinh phụ ngâm)

   Làng xóm đôi bờ sông, trong buổi chiều tàn cũng rất vắng lặng. Một chút âm thanh nhỏ bé lao xao trong khoảng khắc tan chợ, văn chợ ở đây đây, ở từ một làng xa vẳng đến. Lấy động để tả tĩnh, câu thơ "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều" đã làm nỗi bật sự ngạc nhiên, chút bâng khuâng của người lữ khách về cái vắng vẻ, cái hoang vắng của đôi bờ tràng giang. Các nhà Thơ mới coi trọng tính nhạc trong thơ, vận dụng nghệ thuật phối âm, hòa thanh rất thần tình, tạo nên những vần thờ giàu âm điệu, nhạc điệu, đọc lên nghe rất thích. Hai câu đầu đoạn có điệp âm "lơ thơ" và "đìu hiu", có vần lưng "nhỏ — gió", có vần chân: "hiu - chiều". Câu thơ của Huy Cận làm ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu:

    "Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,

    Lả lả cành hoang vắng trở chiều..."

           (Thơ duyên)

   Các điệp thanh: "Nhỏ nhỏ", "xiêu xiêu", "lả lả"; các vần thơ, như vần lưng "nhỏ" với "gió", vần chân "xiêu" với "chiều". Những vần thơ "tươi nhạc tươi vần" ấy đã trở thành thơ trong trí nhớ của hàng triệu con người yêu thích văn học.

   Trở lại đoạn thơ trong bài "Tràng giang" của Huy Cận, ta như được nhập hồn mình vào cõi vũ trụ mênh mông và bao la. Trời đã về chiều. Nắng từ trên cao chiếu rọi xuống làm hiện ra những khoảng sâu thẳm tẳm trên bầu trời, vẻ đẹp của bầu trời thu quê hương ta đã trở thanh vẻ đẹp của thi ca dân tộc: "Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao" (Thu vịnh); "Trời cao xanh ngắt - Ô kìa..." (Tiếng sáo Thiên Thai); "xanh biếc trời cao, bạc đất bằng" (Xuân Diệu). Thi sĩ Huy Cận lại nhận diện bầu trời không phải là cao mà là sâu, "sâu chót vót" :

    "Nắng xuống / trời lên sâu chót vót"

   Bầu trời và lòng sông "sóng gợn" là không gian hai chiều, rộng và cao, sâu. Trời cao thăm thẳm, rộng mênh mông in xuống, soi xuống lòng sông. Người ta thường nói "cao chót vót" và "sâu thăm thẳm", nhưng Huy Cận lại cảm nhận là "sâu chót vót" vừa để làm nổi bật hai vế tiểu đối: "nắng xuống" // "trời lên", vừa gây ấn tượng về cái bao la, mênh mông đến rợn ngợp của không gian vũ trụ vô tận, và cũng là nỗi buồn như vô tận trong lòng người. Khách li hương càng cảm thấy nhỏ bé, lẻ loi và cô đơn trước không gian vô hạn của vũ trụ. Dòng sông như dài thêm ra, bầu trời như rộng thêm ra, bến đò (hay bến lòng?) như cô liêu hơn, xa vắng quạnh hiu hơn. Lời đề từ nhà thơ đã viết: "Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài", cảm hứng ấy đã được láy lại ở thơ số 8, mở ra một trường liên tưởng dầy ám ảnh về vũ trụ thì vô hạn vô cùng, còn kiếp người thì nhỏ bé, hữu hạn: "Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".

   Cảnh sắc tràng giang được nói đến trong đoạn thơ là một không gian nghệ thuật đẹp mà buồn, vẻ đẹp của những dòng sông trên mọi miền đất nước hội tụ trong tâm hồn thi nhân, vẻ đẹp của tình yêu quê hương, tình yêu sông núi. Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước của Huy Cận, của thế hệ các nhà thơ thời tiền chiến. "Tràng giang" đã hợp lưu trong lòng người hơn 60 năm rồi. Đọc đoạn thơ trên, ta mới thấu hiểu nỗi lòng thi nhân trước Cách mạng: "Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm…"