Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo ngang (32 bài văn mẫu)

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 1

Trong nền văn học Trung đại Việt Nam có lẽ sẽ chẳng ai quên được hai nữ nhà thơ tài năng: Hồ Xuân Hương và bà huyện Thanh Quan. Nếu ở bà chúa thơ Nôm ta thấy nét bứt phá, hơi nổi loạn thì ta lại tìm thấy những xúc cảm trầm buồn nhẹ nhàng ở bà huyện Thanh Quan. Tiêu biểu đó là bài "Qua đèo ngang".

Sáng tác trong một lần tác giả đi vào Huế để nhậm chức. Trên đường có đi qua địa danh này, nỗi lòng yêu nước nhớ quê hương, xót nước lạo trào dâng làm cảm hứng để tác giả ngẫu hứng bật ra những vần thơ.

Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với đầy đủ theo cấu trúc truyền thống của thể loại này, bao gồm: đề, thực, luận, kết. Qua đó đã diễn tả những nỗi niềm tâm tư của tác giả về đất nước. Đó là tuyệt thi thấm đượm nỗi buồn man mác, bâng khuâng, để lại trong lòng mỗi người không ít u sầu về lòng người cũng như thế sự đương thời bấy giờ.

" Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa"

Vừa đặt chân đến chốn đây cũng là lúc mặt trời đổ bóng. Thời gian lúc này là " bóng xế tà ", là khoảnh thời gian kết thúc của một ngày. Xưa kia văn thơ trung đại người ta thường chỉ lấy buổi chiều làm hình ảnh trong thi phẩm chỉ khi lòng người mang đậm nỗi buồn. "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", phải chăng là nỗi lòng bà huyện Thanh quan tài năng kia cũng mang một nỗi niềm về thế thời. Từ "chen" được điệp đến hai lần trong một câu thơ như tăng thêm chất hiu quạnh hơn. Nghệ thuật tiểu đối trong cùng một câu tạo nên nhịp thơ đăng đối hài hoà. Thêm đó lại càng làm bức tranh chiều tăng thâm phần hiu quạnh.

"Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà"

Dấu hiệu sự sống, con người đến hai câu thực đã dần xuất hiện. Hình ảnh "tiều vài chú, chợ, mấy nhà" đó là tất cả hơi thở cuộc sống nơi đây. Một lần nữa nghệ thuật tiểu đối trong các câu, giữa các câu đã phần nào tô thêm vào bức tranh con người nơi đây. Biện pháp tu từ đảo ngữ được tác giả sử dụng triệt thành công " Lom khom, lác đác". Đồng thời cũng là những từ láy nhằm chỉ sự hoạt động nhỏ nhặt nhấn mạnh vào sự cô quạnh nơi đây. Đòng thời lột tả về nhịp sống mong manh, thưa thớt mà tẻ nhạt thiếu sức sống.

"Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái da da"

Dường như đến hai câu luận nỗi niền tâm sự càng thên trĩu nặng hơn. "Con quốc quốc" và "cái da da" tạo nên âm hưởng dìu dặt da diết cho âm điệu của câu thơ. Những cảm xúc, dòng suy nghĩ dần bộc lộ rõ hơn của tác giả. Là một nữ sĩ tài năng, tài tú không những thế bà còn là người mang nặng nòng với niềm mất nước trước bấy giờ. Thủ pháp lấy động tả tĩnh được khai thác đã khắc hoạ thêm cái u sầu của bài thơ. Nghe tiếng kêu rỉ máu của "cuốc cuốc" và cái "da da" mà lòng người thêm thê lương đau đáu về nỗi niềm thế sự. Thương cho thảm cảnh đất nước phân li, nước mất nhà tan lú bầy giờ. Dường như để tránh, xoa dịu nỗi đau ấy tác giả đã sáng tạo thay vì "quốc quốc, gia gia" trong từ quốc gia thay bằng từ đồng âm. Nhưng nỗi niềm của bà huyện Thanh Quan vẫn khắc sâu ở đó, vẫn đau đáu trìn tâm khảm, vẫn nặng trĩu u sầu thậm chí thấm đượm trong cả cảnh vật.

Đến hai câu kết:

"Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta"

Non nước giờ đây hiện hữu trước mắt nhưng thay vì thấy sự hùng vĩ tráng lệ thì ta lại vẫn buồn vì những chữ " dừng chân đứng lại". Phải chăng cái dừng chân ấy có phải là cái dừng chân, cái dáng đứng bất lữ trước thế thời của tác giả. Mảnh đất bao la của "cuốc da" mà lòng người thấy cô đơn lạc lõng biết bao, đứng trước cái mênh mông ấy nên bà chỉ cảm thấy " mảnh tình con con". Bởi thế mà cụm từ đầy sáng tạo "ta với ta" thêm khắc sâu nỗi buồn man mác trĩu nặng lòng người hơn.

Bài thơ "Qua đèo ngang" với tài năng nghệ thuật tác giả, kết hợp nhuần nhuyễn giữa các từ láy, các phép đối đã làm nên một thi phẩm để đời. Qua đó ta thấy thêm hiểu nỗi lòng của một thi nữ tài năng mà cũng đầy trân trọn và cảm thông với bà.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang hay nhất - Bài văn mẫu số 2

“Qua đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang - một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ man mác, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, “Qua đèo Ngang” không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi.

Bài thơ “Qua đèo Ngang” được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mở đầu là hai câu đề:

Bước đến đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, không gian, thời gian khi viết bài thơ. Cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép, tưởng như tác giả chỉ thuận chân “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình trước khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều hoàng hôn “bóng xế tà”. Hình ảnh “bóng xế tà” lấy ý từ thành ngữ “chiều ta bóng xế” gợi cho ta một nét gì đó buồn man mác, mênh mang, có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua. Trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Với việc nhân quá các loại cảnh vật qua động từ “chen” cùng với phép liệt kê hàng loạt cho ta thấy nét sống động trong bức tranh khung cảnh này. Cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa đua nhau vươn lên đầy sức sống. Những hình ảnh nhỏ bé nhưng sức sống thật mãnh liệt. Trong ánh chiều tà lụi tàn mà còn bắt gặp được những hình ảnh này để lại cho ta thật nhiều suy nghĩ.

Cảm nghĩ về bài thơ “Qua đèo Ngang”

Hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ cũng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Con người ở đây chỉ có “tiều vài chú” kết hợp với từ láy “lom khom” dưới núi. Cảnh vật thì “lác đác” “chợ mấy nhà”. Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Dường như không khí vắng vẻ, hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật.

Hai câu luận là nỗi buồn được khắc họa rõ nét qua những âm thanh thê lương:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Tiếng kêu thiết tha hay chính là tiếng lòng tác giả. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” là câu thơ từ điển tích xưa về vua thục mất nước hóa thành con cuốc chỉ biết kêu “cuốc cuốc”. Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều thêm tĩnh lặng. Còn tiếng “gia gia” là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi “thương nhà”. Ở đây cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp nhân hóa cùng chuyển đổi cảm giác gây ấn tượng mạnh đã cho ta thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.

Hai câu kết, khép lại những cảm xúc cũng như khung cảnh thiên nhiên của bài thơ:

Dừng chân đứng lại: Trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Cảnh vật đèo Ngang thật hùng vĩ khiến tác giả dừng chân không muốn rời. Cái bao la của đất trời, núi non, sông nước như níu chân người thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la hùng vĩ ấy, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần dâng lên “một mảnh tình riêng ta với ta”. Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn thì nỗi cô đơn của người lữ khác cũng càng đầy. Một mảnh tình riêng, một nỗi lòng sâu kín, những tâm sự đau đáu trong lòng mà không biết chia sẻ nhắn nhủ với ai. Âm hưởng nhịp điệu câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc.

“Qua đèo Ngang” là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đến người đọc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân. Phải thật giàu cảm xúc, thật yêu thiên nhiên cùng con người, Bà Huyện Thanh Quan mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như vậy

Bài văn phát biểu cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 3

Qua đèo ngang là một tác phẩm nổi tiếng của bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà lên đường đến huyện Phú Xuân đi qua đèo ngang là một địa danh phong cảnh hữu tình. Bài thơ là bức tranh ngụ tình sâu sắc của nhà thơ qua đó hé lộ cho chúng ta thấy được nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả hiện lên rõ nét.

Mở đầu bài thơ là hai câu đề
“Bước tới đèo ngang bóng xế tà”

Câu thơ gợi lên thời điểm mà tác giả tới đèo ngang, khi đó thời gian đã vào xế tà tức là đã quá trưa trời đang chuyển sang buổi chiều và sắp tối. Đối với một vùng hoang sơ hẻo lánh thì thời điểm chiều tà cũng là thời điểm mọi người đã quay trở về nhà. Phải chăng chọn thời điểm như thế tác giả muốn nhấn mạnh cho người đọc cái xơ xác vắng vẻ nơi đây. Và từ đây tâm trạng tác giả bắt đầu hỗn loạn khi chứng kiến cảnh vật từ trên cao nhìn xuống.

“Cỏ cây chen là đá cheo hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Khung cảnh ấy thật gợi lên trong lòng người đọc những nỗi nhớ vấn vương rồi lan tỏa ra từng câu thơ khiến cho người đọc thấm đượm được phần nào nỗi nhớ thương của tác giả đối với quê hương. Trời đã chiều tối cảnh vật đã lụi tàn khiến cho tâm trạng của bà càng trở nên xốn xang vô cùng. Cái thời điểm ấy rất phù hợp với tâm trạng hiện giờ của bà. Đúng như trong những câu thơ cổ đã nói đến tâm trạng con người nhuốm màu sang cảnh vật.

Ở đây tâm trạng cô đơn hiu vắng hiu quạnh của tác giả đã nhuốm màu sang cảnh vật khiến cho cảnh vật giờ đây dường như trở nên tam thương hơn bao giờ hết. Ta phải công nhận là cảnh vật trong thơ được hiện lên khá là sinh động. Có cỏ cây có hoa lá nhưng lại là một cảnh tượng chen chúc nhau để tìm sự sống. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Phải chăng sự chặt chội của hoa lá phải chen chúc nhau để tồn tại cũng chính là tâm trạng của tác giả đang vô cùng hỗn loạn. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Tác giả đã sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Nó làm cho người đọc cảm thấy được sự hoang vắng của đèo ngang lúc chiều tà bóng xế mặc dù nơi đây có cảnh đẹp cỏ cây hoa đá, lá. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt ra xa chút nữa như để tìm một hình ảnh nào đó để tâm trạng thi nhân phần nào bớt chút hiu quạnh. Và phía dưới chân đèo xuất hiện một hình ảnh.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Điểm nhìn đã được nhà thơ thay đổi nhưng sao tác giả vẫn chỉ cảm thấy sự hiu quạnh càng lớn dần thêm. Bởi thế giới con người nơi đây chỉ có vài chú tiểu đang gánh nước hay củi về chùa. Đó là một hình ảnh bình thường thế nhưng chữ “lom khom” khiến hình ảnh thơ thêm phần nào đó vắng vẻ buồn tẻ thê lương. Đây là một nét vẽ ước lệ mà ta thường thấy trong thơ cổ “vài” nhưng lại rất thần tình tinh tế trong tả cảnh. Mấy nhà chợ bên kia cũng thưa thớt tiêu điều. Thường thì ta thấy nói đến chợ là nói đến một hình ảnh đông vui tấp nập nào người bán nào người mua rất náo nhiệt. Thế nhưng chợ trong thơ bà huyện thanh quan thì lại hoàn toàn khác, chợ vô cùng vắng vẻ không có người bán cũng chẳng người mua chỉ có vài chiếc nhà lác đác bên sông. Nhà thơ đang đi tìm một lối sống nhưng sự sống đó lại làm cảnh vật thêm éo le buồn bã hơn. Sự đối lập của hai câu thơ khiến cho cảnh trên sông càng trở nên thưa thớt xa vắng hơn. Các từ đếm càng thấy rõ sự vắng vẻ nơi đây. Trong sự hiu quạnh đó bỗng vang lên tiến kêu của loài chim quốc quốc, chim gia trong cảnh hoàng hôn đang buông xuống.

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Nghe tiếng chim rừng mà tác giả thấy nhớ nước, nghe tiếng chim gia gia tác giả thấy nhớ nhà. Dường như nỗi lòng ấy đã thấm sâu vào nỗi lòng nhà thơ da diết không thôi. Lữ khách là một nữ nhi nên nhớ nước nhớ nhà nhớ chồng nhớ con là một điều hiển nhiên không hề khó hiểu. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó? Từ thực tại của xã hội khiến cho nhà thơ suy nghĩ về nước non về gia đình.

“Dừng chân ngắm lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”

Câu kết bài thơ dường như cũng chính là sự u hoài về quá khứ của tác giả. Bốn chữ “dừng chân ngắm lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn xa xôi mênh mang, tác giả nhìn xa nhìn gần nhìn miên man nhìn trên xuống dưới nhưng nơi nào cũng cảm thấy sự hiu quạnh sự cô đơn và nỗi nhớ nhà càng dâng lên da diết. Cảm nhận đất trời cảnh vật để tâm trạng được giải tỏa nhưng cớ sao nhà thơ lại cảm thấy cô đơn thấy chỉ có một mình “một mảnh tình riêng ta với ta”. Tác giả đã lấy cái bao la của đất trời để nhằm nói lên cái nhỏ bé “một mảnh tình riêng” của tác giả cho thấy nỗi cô đơn của người lữ khách trên đường đi qua đèo ngang.

Bài thơ là bức tranh tả cảnh ngụ tình thường thấy trong thơ ca cổ. Qua đó tác phẩm cho chúng ta thấy được tâm trạng cô đơn hiu quạnh buồn tẻ của tác giả khi đi qua đèo ngang. Đó là khúc tâm tình của triệu là bìa thơ mãi mãi còn y nguyên trong tâm trí người đọc.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang hay nhất - Bài văn mẫu số 4

Tác phẩm "Qua đèo Ngang" là bài thơ đánh dấu tên tuổi của Bà Huyện Thanh Quan . Bài thơ ra đời vào thời điểm bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang, một con đèo nổi tiếng tiếng với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ buồn man mác, hồn thơ tinh tế đi vào lòng người "Qua đèo Ngang" không còn là một bức tranh thiên niên đơn thuần mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của nữ thi sĩ với sự tiếc nuối và buồn về thế sự đất nước lúc bấy giờ.

Sự sáng tạo nhưng vẫn có nét truyền thống, bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với kết cấu đề thực luận kết. Mở đầu tứ thơ với hai câu đề:

Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Hai câu thơ đầu tiên thi sĩ đã khai mở toàn bộ không gian, thời gian khi sáng tác bài thơ. Hai câu thơ đề với lối thơ rất tự nhiên, không bị gò ép trong khuôn khổ chung thời ấy. Trong cảnh hoàng hôn "bóng xế tà", nữ thi sĩ bước đến mang trong mình những cảm xúc khó tả, say đắm trong không gian rộng lớn sâu thẳm của đèo cao, thời gian mênh mông của trời chiều. Bao giờ cùng vậy, trong thi ca trung đại, "bóng xế tà" luôn gợi cho con người một nỗi buồn man mác không tên, mênh mang hơn đất trời, có chút gì đó lưu luyến thời gian của một ngày đã qua. Trong không gian chiều ấy, một nét chấm phá làm nổi bất thiên nhiên nơi đèo núi chập chùng: "Cỏ cây chen đá, lá chen hoa". Khi hoàng hôn buông dần phai, không gian ngày tàn mà tác giả còn bắt gặp được một sức sống tiềm tàng của thiên nhiên. Sử dụng phép nhân hóa, kết hợp động từ "chen" nữ thi sĩ như thổi vào thiên nhiên một linh hồn với sự sống mãnh liệt, đang vươn lên. Từ ngọn cỏ, từng nhành hoa nhỏ bé kia đang chen lên những tảng đá lớn, giữa một không gian ấy, cảnh vật mang một nét đẹp lạ lùng.

Từ gần đến xa, tác giả đưa mắt ra phía dưới đèo, con người xuất hiện:

Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Bức tranh chỉ thêm đẹp khi có sự xuất hiện của con người. Biện pháp đảo ngữ các từ láy gợi tả như "lom khom" , "lác đác" và các chỉ từ "vài" , "mấy" làm không gian chở nên hiu hắt, con người thì quá đỗi nhỏ bé so với thiên nhiên hùng vĩ chiều hôm. Dưới chân núi, vài chú tiều phu đốn củi, vài mái nhà thưa thớt quanh quanh. Không gian bao chùm lên toàn bộ cảnh vật là sự hưu quạnh và vắng vẻ.

Hai câu luận là nỗi buồn của thi sĩ trước cảnh giang sơn đất nước đang ngày một lụi tàn:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Tiếng kêu của con quốc hay chính là tiếng lòng tác giả. "Nhớ nước đau lòng con quốc quốc" là câu thơ bắt nguồn từ điển tích xưa về vua Thục vì mất nước mà hóa thành con cuốc chỉ biết kêu những tiếng đau thường. Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều trở nên diệu vợi. Còn tiếng "gia gia" là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi "thương nhà". Thương nhà ở đây có lẽ là nỗi nhớ thương đất nước trong quá khứ hào hùng hay cũng là thương cho sự đổi thay, sự lụi tàn của quê hương. Những xúc cảm của thi sĩ được bộc lộ một cách trực tiếp bằng hai câu luận. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp với biện pháp nhân hóa " đau lòng" "mỏi miệng" cùng chuyển đổi cảm giác từ nỗi lòng thành tiếng thương tạo ấn tượng mạnh đã cho ta thấy bức tranh ấy không chỉ là cảnh vật mà còn là bức tranh tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan với tình yêu thương nước nhà.

Với kết cấu đầu cuối tương ứng, hai câu kết khép lại những tâm trạng của thi nhân:

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Cảnh vật khiến dừng bước chân trên con đường đến Phú Xuân. Cái bao la của đất trời, cái hùng vĩ của núi non, cái mênh mông của sông nước như níu bước chân nữ thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la của đèo Ngang , tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần lấp đầy tâm hồn, bao chùm lên mọi cảnh vật"một mảnh tình riêng ta với ta". Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn bao nhiêu thì nỗi cô đơn của người lữ khách càng vơi đầy. Một mảnh tình riêng, một tâm tư sâu kín, những tâm trong lòng mà chẳng tìm nổi một người để sẻ chia. Nỗi buồn cứ vậy lắng vào cảnh vật, tâm trạng kéo dài miên man. Chỉ có "ta" và "ta" giữa mênh mông trời đất.

Bài thơ khép lại, mở ra những suy tư cho người đọc. Khiến người ta nhớ về một thời đại lụi tàn, một nữ thi sĩ bơ vơ. Bức tranh cảnh vật và tâm trạng ấy để lại biết bao cảm xúc trong lòng người đọc.

Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 5

Ai đã từng đi trên con đường xuyên Việt, hẳn đều biết đến đèo Ngang. Đây là một đèo khá dài và cao, nằm vắt ngang sườn núi cheo leo, hiểm trở của khúc cuối dãy Hoành Sơn, trước khi đâm ra biển. Lên đến đỉnh đèo, du khách sẽ được thưởng thức cảnh đẹp thuyệt vời củ thiên nhiên hùng vĩ: núi non điệp trùng, đại dương bao la, trời cao thăm thẳm. Đèo Ngang là ranh giời tự nhiên giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Thuở xưa, bao người vào kinh đô Huế để thi cử hay làm việc cho triều đình phong kiến đã đi qua đèo này rồi xúc cảm trước vẻ đẹp của nó mà làm thơ ca ngợi. Bà Huyện Thanh Quan trong dịp từ Thăng Long vào Huế nhậm chức Cung trung giáo tập đã sáng tác bài Qua đèo Ngang.

          Đằng sau bức tranh phong cảnh là tâm trạng của nữ sĩ: cô đơn, nhớ nhà và hoài niệm về một thời đại huy hoàng đã qua. Có thể coi đây là bài thơ hay nhất trong những bài thơ sáng tác về thắng cảnh đèo Ngang.

          Câu thơ đầu tiên (phá đề) nói đến thời điểm tác giả đặt chân đến đây:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,

           Đó là lúc mặt trời đang lặn. Phía tây chỉ còn chút nắng hắt những tia sáng yếu ớt lên nền trời đang sẫm dần. Thời điểm này rất dễ gợi buồn, nhất là đối với kẻ lữ thứ tha hương.

          Tuy vậy, trời vẫn còn đủ sáng để nhà thơ nhận ra thiên nhiên đẹp như tranh:

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

          Cỏ cây, hoa lá chen nhau mọc bên đá núi. Linh hồn của tạo vật như thấp thoáng sau từng chữ. Điệp từ chen trong các vế đối: cây chen đá, lá chen hoa gợi lên sức sống mãnh liệt của một vùng rừng núi hoang sơ. Cảnh đẹp nhưng nhuốm màu buồn tẻ, quạnh hiu. Những bông hoa rừng không đủ làm sáng lên khung cảnh núi non lúc ngày tàn, đêm xuống.

          Giữa bối cảnh thiên nhiên bao la ấy, thấp thoáng bóng dáng con người và hơi hướng cuộc sống những cũng chỉ ít ỏi, mờ nhạt, xa vời:

Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

          Nhà thơ đã dùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh đặc trưng của cảnh vật và con người ở đèo Ngang. Dáng vẻ lom khom của mấy chú tiều hái củi sườn non khiến cho con người càng thêm nhỏ bé trước thiên nhiên cao rộng. Chợ vốn là nơi biểu hiện đời sống của một cộng đồng làng xã nên thường tấp nập đông vui, nhưng ở đây nó chỉ là mấy túp lều xơ xác bên sông…

          Cái lạnh lẽo, trống trải bao chùm lên cảnh vật, gieo một nỗi buồn thấm thía trong lòng người:

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

          Giữa không gian tĩnh lặng gần như tuyệt đối ấy, vẳng lên tiếng chim cuốc khắc khoải, tiếng chim gia gia não ruột. Đó là những âm thanh có thật mà cũng có thể là tiếng vọng từ tâm trạng chất chứa nỗi buồn thời cuộc của nhà thơ. Bà đã mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ (từ đồng âm khác nghĩa) để nói lên lòng mình trước cảnh vật. Tiếng chim kêu không làm cảnh vật vui lên thêm chút nào mà lại làm tăng phần quạnh quẽ, cô liêu. Phải chăng tiếng chim chính là tiếng lòng của kẻ đang mang nặng tâm trạng u buồn, hoài vọng, nhớ nước, thương nhà?!

          Hồn cảnh, hồn người như có nét tương đồng, cho dù về hình thức hoàn toàn tương phản. Cái bao la, vô tận của non nước tô đậm cái cô đơn, chơ vơ của con người và ngược lại. Vì vậy nên nỗi buồn càng lắng đọng:

Dừng chân đứng lại trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

          Quả là một nỗi buồn khó san sẻ, giãi bày. Nó như kết thành hình, thành khối, thành mảnh tình riêng khiến nhà thơ phải thốt lên chua xót : ta với ta. Chỉ có ta hiểu tâm sự của ta mà thôi! vì thế nên nỗi cô đơn càng tăng lên gấp bội.

          Bài thơ Qua đèo Ngang tuy ra đời cách đây gần hai thế kỉ nhưng nó vẫn giữ nguyên giá trị trước thử thách của thời gian. Bao người yêu thơ thuộc lòng bài thơ này và khâm phục tài năng của tác giả. Thể thơ Đường luật kiểu cách, sang trọng đã trở nên gần gũi, dễ hiểu bởi ngôn ngũ giản dị, trong sáng và những hình ảnh dân dã quen thuộc. Đọc bài thơ, chúng ta thêm yêu giang sơn gấm vóc và càng thêm trân trọng những tấm lòng ưu ái non sông đất nước.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 6

          Việt Nam có rất nhiều con đèo nổi tiếng như Đèo Hài Vân, Đèo Cả, Đèo Phương Hoàng... nhưng nổi bật nhất vẫn là Đèo Ngang vì nó được đi vào thơ ca, được các thế hệ nhắc đến nhờ bài thơ “Qua Đèo Ngang”, một trong sáu bài thơ Đường luật còn lưu lại cho đến ngày nay của nữ thi sĩ tài danh Nguyễn Thị Hĩnh, còn được người đời biết đến qua tên gọi Bà Huyện Thanh Quan. Với những vần thơ trữ tình, in sâu vào lòng người đọc, người nghe nỗi xúc dộng lẫn thán phục, bài thơ đã miêu tả cảnh vật con đèo cũng như tâm trạng của mình khi đi từ Thăng Long vào kinh đô Huế nhậm chức. Những vần thơ ấy dược lưu truyền lại như sau:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
.........
Một mảnh tình riêng, ta với ta ”

Cảnh tượng Đèo Ngang hiện lên qua thời gian và không gian trong hai câu “Đề” như sau:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa ”

          Nhà thơ dừng chân tại Đèo Ngang vào lúc xế tà. Việc sử dụng hình ảnh bóng chiều vào câu thơ có tác dụng giúp người đọc, người nghe cảm thấy bồi hồi xao xuyến vì đây là lúc mặt trời khuất núi, vương lại những tia nắng vàng rượm rồi tắt hẳn. Buổi xế tà là quãng thời gian các nhà văn, nhà thơ thường dùng để diễn tả nỗi buồn, nỗi trống vắng như nhà thơ Nguyễn Du đã viết: “Buồn trông cửa bể chiều hôm.” Hoặc Trần Nhân Tông đã ghi lại trong bài Thiên Trường vãn vọng: “Bóng chiều man mác có dường không.” Việc sử dụng buổi chiều đã phản ánh được tâm sự chất chứa trong lòng tác giả về một nỗi buồn hữu hữu vô vô. Nỗi buồn càng tăng lên khi cảnh vật ở đây có đá, lá hoa chen chúc nhau mọc lên tạo thành một cảnh tượng hoang dã, không có bàn tay chăm sóc của con người. Hình ảnh này cũng đã in sâu vào tâm trí em cảm xúc yêu thương quê hương và từ đó thấu hiểu hơn nỗi nhớ nhà thiết tha của tác giả khi phải rời quên đến một nơi xa lạ.
 
          Trong bóng chiều, cảnh vật tại con đèo dần dần mở ra:

“Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.”

          Dưới ngòi bút của nhà thơ, cảnh vật con đèo hiện lên thật cụ thể, sinh động! Cụ thể ở chi tiết vài chú tiều phu lom khom đốn củi dưới núi, còn bên kia sông lác đác, thưa thớt một vài căn nhà đơn sơ. Bà Huyện Thanh Quan đã thành công trong việc sử dụng biện pháp đảo ngữ. Từ “lom khon” được dưa lên trước nhằm diễn tả cảnh Đèo Ngang tuy có sự sống của con người nhưng người thì lại vừa không thấy mặt vừa không gặp được để trò chuyện. Còn nhà dân thì ở bên kia sông, đồng thời lại thưa thớt vài căn nên có cũng như không. Chính điều này càng làm tăng thêm nỗi buồn cho nhà thơ.
 
          Tâm sự của tác giả càng lúc càng rõ nét qua hai câu “luận”:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.”

          Bức tranh phong cảnh ở Đèo Ngang chẳng những có màu sắc của cảnh vật mà còn trở nên da diết với âm thanh của các loài chim như con chim quốc, con chim da đa... Tiếng chim quốc như nhắc nhở mọi người về điển tích vua Thục Đế hoá thành con chim quốc để luôn nhớ đến nỗi đau mất nước của mình. Em thật khâm phục nghệ thuật đối ý, đối lời trong hai câu thơ này vì khi ghép lại với nhau, người dọc nhận ra ngay dược tâm sự của nhà thơ “Nhớ thương nước nhà, quốc gia quốc gia”.
 
          Tâm trạng của tác giả khi dừng chân tại Đèo Ngang dược đúc kết trong hai câu thơ cuối:

“Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

          Đứng trước cảnh trời cao vời vợi, núi non trùng điệp, sông nước mênh mông, bất cứ ai cũng cảm thấy nhỏ bé, mong manh... Nhà thơ như thu mình lại, chôn giấu sự trống vắng trong tận cõi lòng. “Ta với ta” thể hiện rõ cảm xúc khắc khoải của nhà thơ: tuy một mà hai, tuy mắt ngắm nhìn cảnh thiên nhiên ở con dèo nhưng lòng lại nặng trĩu nhớ về quê nhà không biết bao giờ trở lại. Tâm trạng u buồn này khác hẳn với niềm vui của nhà thơ Nguyễn Khuyên khi sử dụng cụm từ “Ta với ta” trong bài thơ “Bạn đến chơi nhà” vì tuy hai người nhưng cùng một tấm lòng, một tình bạn chân thật. Câu kết của bài thơ như một sợi dây liền mạch, nối xuyên suốt cả bài thơ tạo cho người đọc một cảm xúc day dứt, khó quên.
 
          Bài thơ Qua Đèo Ngang đã thành công khi chuyển tải được tâm sự u buồn của Bà Huyện Thanh Quan, đồng thời lồng ghép vào đó là cảnh tượng thiên nhiên rất thực, rất sinh động của một con đèo nổi tiếng trong thơ ca và trong lịch sử nước ta. Bài thơ không chỉ thành công về mặt ý nghĩa mà còn rất chỉnh chu trong việc dùng từ, tạo câu thật đặc sắc gây thích thú cho người đọc, người nghe.
 
          Càng thấm thìa những vần thơ mang nặng tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan, em càng cảm mến tấm lòng nhớ nước thương nhà của bà hơn. Từ đó em thấy mình phải học giỏi môn Văn để có thể để lại cho đời những vần thơ tuyệt diệu như nữ văn sĩ tài danh.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan - Bài văn mẫu số 7

Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh quê ở làng Nghi Tàm nay thuộc Tây Hồ Hà Nội.bà là một trong những nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại xưa,hiện còn để lại sáu bài thơ đường luật trong đó có bài qua đèo ngang.Qua đèo ngang được tác giả viết theo thể thất cú đường luật.

          Bài thơ Qua đèo ngang là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan,bài thơ được ra đời khi bà đi trên đường vào Phú Xuân đi qua đèo Ngang một địa danh nổi tiếng của nước ta với phong cảnh hữu tình.Với giọng thơ man mác “qua đèo ngang” không chỉ là một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc mà nó còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả.

Mở đầu bài thơ là hai câu đề:

Bước đến đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá,lá chen hoa.

          Chỉ với những câu thơ đầu tiên mà tác giả đã thể hiện được về hoàn cảnh,không gian,thời gian khi viết bài thơ.Hình ảnh “bóng xế tà” lấy từ thành ngữ “chiều tà bóng xế” gợi cho ta một nét buồn nào đó man mác,mênh mang có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua.Trong buổi đẹp hồn nhiên thơ mộng ấy có hình ảnh “cỏ cây chen đá,lá chen hoa” cho ta thấy nét sống động trong bức tranh khung cảnh này, cỏ cây cùng với đá núi,lá và hoa vươn nhau đua sức sống.Những hình ảnh nhỏ bé nhưng sức sống thật mãnh liệt.Trong ánh tà chiều bắt gặp được những hình ảnh này làm ta thật nhiều suy nghĩ.

          Hai câu thực:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

          Đây là khi tác giả nhìn toàn bộ cảnh vật từ trên cao xuống,phóng mắt nhìn về xung quanh,xa hơn là những đá núi cây cổ để tìm đến bóng dáng con người.Hình ảnh bóng dáng con người đã hiện ra nhưng chỉ cần bức tranh thêm hiu hắt,tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ kết hợp với những từ láy để diễn tả nó.Con người ở đây chỉ có “tiều vài chú” kết hợp với từ láy “ lom khom” dưới núi.Cảnh vật thì lác đác thưa thớt “chợ mấy nhà” tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ ở nơi đây.Dường như không khí vắng vẻ,hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật.

          Hai câu luận là nỗi buồn được khắc họa rõ nét qua những âm thanh thê lương:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

          Tiếng kêu thiết tha ở đây hay có thể nói chính là tiếng lòng của tác giả. “nhớ nước đau lòng con quốc quốc” là câu thơ từ điển tích xưa về vua thục mất nước hóa thành con cuốc chỉ biết kêu “cuốc cuốc”.Tiếng cuốc kêu khắc khoải lại làm cho buổi chiều thêm tĩnh lặng còn tiếng “gia gia” là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi thương nhà ở đây tiếng lòng của nhà thơ được bộc lộ rõ nét.Nghệ thuật chơi chữ kết hợp với nhân hóa cùng chuyển đổi cảm giác ấy đã cho ta thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.

          Tiếp theo là hai câu kết:

Dừng chân đứng lại: trời,non,nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

          Đứng trước cảnh vật hùng vĩ khiến tác giả dừng chân không muốn rời.Cái bao la của đất trời,núi non sông nước như muốn níu chân người thi sĩ nhưng đứng trước sự bao la hùng vĩ ấy tác giả lại cảm thấy sự cô đơn trong lòng mình lại dâng lên “một mảnh tình riêng ta với ta”.khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn thì nỗi cô đơn của người nữ khách lại thêm đong đầy.Một mảnh tình riêng,một nỗi lòng sầu kín cùng với những tâm sự bộn bề đang đau đáu trong lòng mà không biết nhắn nhủ với ai,âm hưởng nhịp điệu của câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc của tác giả.

          Với phong cách trang nhã bài thơ Qua đèo ngang cho thấy cảnh tượng đèo ngang thoáng đãng mà heo hút,thấp thoáng có sự sống con người nhưng còn hoang sơ,đồng thời thể hiện nỗi nhớ nước thương dân nỗi buồn thầm lặng của tác giả.Bài thơ cũng là lời nhắn gửi tâm sự nỗi lòng của tác giả đến người đọc,bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối,một tấm lòng yêu nước thương dân.

Cảm nhận về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 8

Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa. Dưới thời vua Minh Mạng, bà từng được mời vào cung để dạy học cho các công chúa và cung phi. Trong một dịp từ Thăng Long vào kinh đô Phú Xuân nhậm chức, Bà Huyện Thanh Quan đã đi qua Đèo Ngang. Trước cảnh hoang sơ, heo hút của con đèo ấy, bà đã tức cảnh mà viết lên bài thơ “Qua đèo ngang” để thể hiện nỗi nhớ nước, thương nhà cùng nỗi buồn sầu, cô đơn của mình.

   Với cách mở đầu tự nhiên, hai câu thơ đề đã khái quát lại những ấn tượng của nhà thơ về thời gian và không gian của Đèo Ngang. Tuy nhiên, với nhà thơ, việc lựa chọn miêu tả những khoảnh khắc, những cảnh vật thiên nhiên ấy không phải là đơn thuần, ngẫu nhiên mà nó còn là các yếu tố nghệ thuật để thể hiện tâm trạng.

“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa”.

   Đặt chân tới đèo ngang vào buổi hoàng hôn “bóng xế tà”. Đây là thời điểm đặc biệt nhất trong một ngày, khi ranh giới giữa ánh sáng và màn đêm chỉ còn là khoảng mờ. Hình ảnh “bóng xế tà” vừa gợi thời gian vừa gợi một nét buồn mênh mênh, tiếc nuối về một ngày sắp tàn. Ở khoảnh khắc ấy, con người rất dễ nảy sinh những cảm xúc cô đơn, buồn sầu, đặc biệt với những người kẻ tha hương đến với vùng đất xa lạ như Bà Huyện Thanh Quan thì những tâm trạng ấy càng trở nên thấm thía. Trong cảnh chiều tà, bức tranh phong cảnh Đèo Ngang được nhà thơ phác họa bằng những nét vẽ thật đẹp, hùng vĩ, hoang sơ. Với biện pháp liệt kê, nhà thơ đã gợi ra một loạt các hình ảnh quen thuộc của núi rừng đó là cỏ cây, hoa lá, đá núi. Điệp từ “chen” gợi lên một khung cảnh thiên nhiên xanh tươi, rậm rạp giàu sức sống, cỏ cây hoa lá chen chúc nhau dày đặc không hàng lối, không trật tự. Cảnh tuy hoang sơ ngút ngàn nhưng lại trống vắng, hiu quạnh. Có cỏ cây, có hoa lá nhưng chúng chỉ mải miết đi đua nhau vươn lên tìm sự sống mà quên sứ mệnh tỏa sắc, khoe hương của mình. Ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên ấy càng dễ khiến cho lòng người nảy sinh tâm trạng, không gian càng rộng lớn hoang sơ con người càng trống trải, cô đơn, không gian càng trống vắng lòng người càng quạnh hiu.

   Hai câu thơ thực, vẫn là bức tranh thiên nhiên núi rừng Đèo Ngang, nhưng lúc này đã có sự xuất hiện của hình bóng con người:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

   Với nghệ thuật đảo cấu trúc câu, tác giả đã nhấn mạnh ấn tượng về hình ảnh cuộc sống của con người dưới chân đèo. “Lom khom”, “lác đác” là những từ láy giàu sức gợi hình gợi cảm được đặt lên đầu câu gợi dáng vẻ vất vả mệt mỏi của người tiều phu sau một ngày dài làm việc cùng sự thưa thớt, ít ỏi của những ngôi nhà, khu chợ. Ngỡ rằng với sự xuất hiện của con người, không gian Đèo Ngang trở nên ấp áp gần gũi hơn, thế nhưng dáng vẻ lom khom của những chú tiều phu cùng sự thưa thớt vắng vẻ của những ngôi nhà, ngôi chợ lác đác như mờ đi trong không gian hùng vĩ càng khiến cảnh vật trở nên vắng vẻ, lạnh lẽo. Hai câu thực đối rất chỉnh cả về âm thanh, từ loại và cấu trúc câu qua đó đã tạo nhịp điệu cân đối cho câu thơ. Không gian càng thưa thớt, vắng vẻ, heo hút càng khiến lòng người càng trở nên quạnh hiu, cô đơn, buồn sầu.

   Đến hai câu luận, nhà thơ đã bộc lộ tâm trạng của mình qua những âm thanh thê lương của tiếng chim:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

   Bức tranh Đèo Ngang không chỉ có thiên nhiên cỏ cây hoa lá, có hình bóng con người mà còn có cả âm thanh của tiếng chim. Giữa cảnh rừng núi mênh mang, tiếng chim cuốc cuốc, đa đa vang lên khắc khoải, da diết càng làm cho cảnh vật trở nên buồn hơn. Thi sĩ lắng nghe âm thanh nhưng đó không phải tiếng kêu của chim nữa mà là tiếng lòng của con người. Với cách chơi chữ đầy tinh tế, cùng việc sử dụng hai điển tích nổi tiếng của Trung Hoa về chim quốc và chim đa đa để nói về nỗi nhớ nước, sự xót xa, tiếc nuối về một thời kì vàng son của triều đại cũ nay không còn, nỗi thương nhớ nhà bởi bà đang phải rời xa tổ ấm yên vui để đến mảnh đất Kinh thành xa lạ. Hai câu thơ cũng sử dụng cấu trúc đảo trật tự cú pháp câu, qua đó nhấn mạnh sâu sắc tâm trạng buồn sầu, nhớ thương của tác giả qua tiếng chim kêu.

   Hai câu thơ kết vừa đóng lại bức tranh cảnh đèo ngang vừa khép lại tâm trạng của con người:

“Dừng chân nghỉ lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

   Một lần nữa phong cảnh hùng vĩ, rợn ngợp của Đèo Ngang lại nổi lên trong bức tranh, Trời mây, non nước như hòa lại làm một trong vẻ hoang sơ, mênh mông. Vẻ đẹp của rừng núi khiến nhà thơ không nỡ chối từ, phải dừng chân nghỉ lại để thưởng thức phong cảnh. Thế nhưng, trước cảnh đẹp ấy lại càng khiến lòng người trào dâng nỗi buồn, cô đơn, thổn thức mãnh liệt. Hai chữ ta xuất hiện trong câu thơ để nhấn mạnh tâm trạng buồn, cô đơn tuyệt đối của nhà thơ. Giữa không gian rộng lớn ngút ngàn chỉ có một mình bà ở đó đối diện với nỗi cô đơn, trống trải của mảnh tình riêng. Hai câu thơ như một tiếng thở dài đầy chua xót cho nỗi lòng thầm kín, ngập tràn nhưng chẳng biết san sẻ cùng ai.

   Với thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, biện pháp tả cảnh ngụ tình, các thủ pháp điệp, đối, đảo trật tự cú pháp câu, bài thơ đã thể hiện sâu sắc nỗi buồn sầu, cô đơn thầm lặng của một người phụ nữ hoài cổ, nhớ nước thương nhà trước không gian Đèo Ngang hùng vĩ, hoang sơ. Qua bài thơ ta thêm hiểu biết và yêu thắng cảnh quê hương cùng với đó là niềm trân trọng những vẻ đẹp tâm hồn của Bà Huyện Thanh Quan.

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 9

Bà Huyện Thanh Quan là một trong số không nhiều những nữ sĩ đã ghi lại được tên tuổi của mình trong văn học trung đại Việt Nam. Thơ ca của bà cho đến ngày nay chỉ còn lại sáu tác phẩm nhưng bài nào cũng hay và được đánh giá cao. Tiêu biểu nhất có thể kể đến bài thơ “Qua Đèo Ngang”.

            Đèo Ngang là con đèo chạy qua khúc ruột miền Trung cua Tổ quốc. Xưa, thời các vua chúa còn tranh giành quyền lực, con đèo từng là ranh giới chia đoi giang san thành Đàng Trong, Đàng Ngoài gây nên cảnh loạn li, chia lìa đau xót. Bà Huyện Thanh Quan, nhân trên đường rời quê hương Thăng Long vào kinh đô Phú Xuân (Huế) bái kiến vua Nguyễn, đi qua Đèo Ngang mà chạnh lòng buồn thương cho lịch sử, cho cảnh, cho người và cả cho mình.

 

“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chăn đứng lại: trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”.

 
     

            Thời gian đã ngả về chiều, bước chân con người đã phải dừng lại để nghỉ ngơi; “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà”. Cảnh chiều tà thường gợi cho lòng người nỗi buồn thương vơ vẩn. Huống chi, đây lại là buổi chiều tha hương, vậy nên câu thơ đầu tiên đã gợi nên một nỗi buồn cô đơn, hiu hắt.

            Cảnh Đèo Ngang hiện lên qua những chi tiết đầy sức gợi: cỏ cây, hoa lá, dãy nú, con sông, cái chợ, mấy túp nhà, tiếng chim quốc, chim đa đa, vài chú tiều phu. Thiên nhiên, núi đèo bát ngát, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng rất hoang sơ:

 

“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”.

            Thiên nhiên hoang sơ không có sự chăm sóc của bàn tay con người. Từ “chen” được lặp lại hai lần nằm giữa các từ chỉ sự vật cỏ cây, hoa, đá đã nhấn mạnh sự um tùm, rậm rạp của sức sống hoang dại nơi này. Nhưng thiên nhiên càng hoang sơ thì sự sống con người càng heo hắt. Thật vậy, con người thì ít ỏi, thưa thớt quá, chỉ có “vài” chú tiều đang lom khom nhặt củi. “mấy” nhà chợ lác đác bên sông. Các phụ từ “vài”, “may” kết hợp với hai từ láy lom khom, lác đác đã diễn tả sự thưa thớt, vắng vẻ của sự sống nơi này. Bức tranh Đèo Ngang không phải là bức tranh tĩnh lặng. Đó đây cũng vang lên những âm thanh nhưng đáng buồn thay đó không phải là tiếng “lao xao chợ cá làng ngư phủ” (thơ Nguyễn Trãi) mà lại là tiếng chim kêu thê thiết: quốc quốc, đa đa. Tiếng kêu của hai loài chim dại càng làm cho cảnh vật vắng vẻ, quạnh quẽ đến xót thương. Đặc biệt, ở đây, tác giả còn dùng biện pháp chơi chữ rất tài tình. Tiếng chim quốc được gắn với nỗi nhớ nước “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc”. Tiếng chim đa đa được biến âm thành “gia gia” để cùng nghĩa với nỗi nhớ nhà: “Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Tiếng thương nước, nhớ nhà là của chim hay của chính tác giả vậy? Không chỉ vậy, ở cả bốn câu thơ độc đáo này, nữ sĩ còn dùng biện pháp đảo ngữ đưa các từ “lom khom”, “lác đác”, “nhớ nước”, “thương nhà” lên đầu câu để nhấn mạnh nội dung cần biểu đạt. Đó là sự vất vả của đời sống người lao động, là sự hiu hắt, buồn vắng của sự sống và tâm trạng đau xót, cảm thương của tác giả.

            Cảnh Đèo Ngang là cảnh được miêu tả vào lúc chiều tà, lại được nhìn từ tâm trạng của kẻ xa quê nên cảnh gợi lên cảm giác buồn, hoang sơ, vắng lặng.

            Có thể thấy, ẩn sâu kín trong bức tranh thiên nhiên là tâm trạng của người lữ thứ. Đó là tâm trạng buồn, cô đơn, hoài cổ. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được tiếng kêu da diết của chim quốc, chim đa đa cũng chính là tiếng lòng tha thiết nhớ nhà, nhớ quá khứ của đất nước. Câu thơ cuối cùng chính là cao trào của nỗi buồn, nỗi cô đơn cửa người khách xa quê. Và nhà thơ đã khép lại tấm lòng bằng hai câu hạ bút:

 

“Dừng chân đứng lại: trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”.

            Giữa cảnh trời, non, nước và một mảnh tình riêng có quan hệ đối lập nhau. Cảnh càng rộng lớn thì tình càng cô đơn, con người càng nhỏ bé. Như thế, rõ ràng cảnh góp phần khiến nỗi cô đơn của tác giả càng lớn hơn, nặng nề hơn. Trong hai câu thơ cuối bài xuất hiện cụm từ “ta với ta” khá quen thuộc. Nó gợi đến cái “ta với ta” trong “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến. Nhưng trái ngược với Tam Nguyên Yên Đổ, “ta với ta” của Bà Huyện Thanh Quan là bản thân ta đối diện với chính mình, không phải là cái ta chúng ta vui vầy, ấm áp “Bác đến chơi đây ta với ta”. Và bởi thế, “ta với ta” của Bà Huyện Thanh Quan vang lên cô đơn, bơ vơ và tội nghiệp đến nhường nào!

            “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là một áng thơ Đường luật xinh xắn, mẫu mực, vận dụng thành công nhiều thủ pháp nghệ thuật; đảo ngữ, chơi chữ, lặp từ… Cùng với số ít những bài thơ còn lại của bà, tác phẩm là nhân chứng sống động về một tài năng, một nhân cách đáng trân trọng trong giai đoạn văn học trung đại Việt Nam.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang hay nhất - Bài văn mẫu số 10

Trong dòng văn thơ cổ Việt Nam có hai nữ thi sĩ được nhiều người biết đến đó là Hồ Xuân Hương và bà Huyện Thanh Quan. Nếu như thơ văn của Hồ Xuân Hương sắc sảo, góc cạnh thì phong cách thơ của bà Huyện Thanh Quan lại trầm lắng, sâu kín, hoài cảm… Chẳng vậy mà khi đọc bài thơ “Qua Đèo Ngang ” người đọc có thể thấu hiếu bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu sắc, kín đáo của nhà thơ .

        Nhà thơ mở đầu bài thơ bằng việc tả cảnh đèo nhìn từ trên cao. Khi bóng chiều đã xế, có đá núi, cây rừng, có bóng tiều phu di động, có những mái nhà ven sông… mà sao heo hút, đìu hiu đến nao lòng.

Bước tới đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa…

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

        Cảnh gợi lên trong tâm hồn tình cảm của con người giọt buồn, giọt nhớ …. Trời đã xế chiều, bóng đã dần tàn … cảnh tượng ấy rất phù hợp với tâm trạng của bà Huyện Thanh Quan lúc này. Đó là nỗi u hoài, gợi buồn trước sự đổi thay của xã hội. Thế nên nhà thơ Nguyễn Du cũng đã nói :

“Cảnh nào cảnh chẳng gieo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ”

        Cảnh vật ở đây cũng thật sinh động đấy: Có cả cỏ với cây điểm thêm lá và hoa nhưng tất cả lại được hiển hiện trong hoạt động “chen chúc”. Đứng trước cảnh tượng đó khiến cho con người càng gợi lên sự hoang mang, khiếp hãi. Cảnh vật thì bao la làm cho tâm hồn con người đã hiu quạnh, đơn chiếc tăng thêm sự cô đơn, vắng lặng gần như hoàn toàn trống trải. Nhà thơ quan sát tổng thể cảnh nơi đây. Con người xuất hiện. Nhưng con người càng tô đậm thêm sự buồn vắng. Chính cảnh tượng ấy càng tạo cho nhà thơ những cảm giác hiu quạnh, tẻ nhạt, trống trải.

        Tức cảnh sinh tình:

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

        Nỗi nhớ thương, đau đớn đến tận cùng của lòng người với nhà, với nước, với thân phận cô đơn của mình lại được cộng hưởng bởi những âm vang trong tiếng kêu khắc khoải không dứt của chim cuốc giữa đỉnh cao mây núi, nhìn lên chỉ thấy trời cao, nhìn xa chỉ thấy mây nước vời vợi…

        Nhà thơ đã lắng nghe âm thanh của cảnh Đèo Ngang. Nhưng đó không phải là tiếng kêu của loài chim cuốc, chim đa đa. Mà nói cho đúng đó chính là tiếng lòng của nhà thơ. Nhà thơ mượn hình ảnh loài chim cuốc muốn gợi sự tiếc nuối về quá khứ, triều đại nhà Lê thời kì vàng son, hưng thịnh nay không còn nữa. Gia tộc của nhà thơ vốn trung thành với nhà Lê nhưng không thể nào theo một chế độ đã thối nát. Vả lại đây là lần đầu tiên có lẽ nhà thơ xa nhà nên “cái gia gia” gợi nỗi thủy chung, thương nhớ quê nhà. Cảnh vật vắng lặng, đơn chiếc, xót xa , buồn bã. Càng làm cho nhà thơ mỗi lúc nỗi buồn hoài cảm càng tăng.

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

        Cả thân xác lẫn tâm linh của nhà thơ hoàn toàn tĩnh lặng. Nhà thơ cảm nhận thế giới thiên nhiên nơi đây thật rộng khoáng, bao la. Trong khi đó, con người chỉ là “một mảnh tình riêng”. Con người mang tâm trạng cô đơn, trống vắng hoàn toàn. Thiên nhiên với con người hoàn toàn đối lập với nhau càng làm nổi bật tâm trạng cô đơn, phủ nhận thực tại của nhà thơ.

        “Qua Đèo Ngang” là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Với cách sữ dụng ngôn từ trang nhã nhưng rất điêu luyện đã giúp người đọc thấy được bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu kín. Cảnh Đèo Ngang thật buồn vắng phù hợp với tâm trạng con người cô đơn hoài cảm. Từ bài thơ, cảm thụ tâm cảm của nhà thơ, ta càng cảm thông nỗi lòng của tác giả và kính phục tài năng thi ca của bà Huyện Thanh Quan.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 11

Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luân chuyển. Con người chỉ xuất hiện một lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật đích thực... thì còn mãi với thời gian. Có lẽ mãi mãi về sau, chúng ta vần gặp cảnh hoàng hôn và tâm sự u hoài trong hồn thơ nữ sĩ Thanh Quan qua áng văn trác tuyệt:

Bước tới Đeo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá che hoa

         Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia Dừng chân đứng lại trời, non, nước. Một mảnh tình riêng, ta với ta

         Cha của nữ sĩ Thanh Quan là một nhà nho ở phường Nghi Tàm (Hà Nội). Dưới triều vua Minh Mạng, vốn hay chữ, giỏi thơ văn nên bà được vua triệu vào cung dạy các cung nữ, cung phi. Rời bỏ gia đình, chồng con, xa chốn kinh kỳ náo nhiệt, lòng nữ sĩ không khỏi u buồn.

         Bà Huyện Thanh Quan được sống và được chứng kiến sự huy hoàng của triều đại nhà Lê. Hẳn trong lòng nữ sĩ không khỏi nuối tiếc cái vàng son ấy. Lời thơ của bà mang tâm sự hoài cổ. Ngay trong bài thơ Thăng Long thành hoài cổ ta thấy

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

         Lối xưa xe ngựa, nền cũ lâu đài, hơi hương ngự, nếp áo chầu... phảng phất u hoài trong hồn thơ trang nhã đài các.

         Hầu hết trong các thi phẩm của bà đều mở đầu bằng hình ảnh hoàng hôn. Trong bài thơ Qua đèo ngang cũng không nằm ngoài mô tip đó — một tứ thơ quen thuộc:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá che hoa

         Ở đây cảnh chiều tà được nữ sĩ chọn để xây dựng tứ thơ, không ồn ào, náo nhiệt mà lặng lẽ âm thầm như bức tranh thuỷ mặc cổ điển. Cũng nói về Đèo Ngang nhưng với Cao Bá Quát thì Hoành sơn vang vọng hải ca với những hình ảnh hùng tráng sóng bể trắng xoá bạc đầu, sấm ran chớp giật rợn người, gió táp xô vỡ thuyền... còn với Vũ Quần Phương thì Đèo Ngang hiện ra rất ấn tượng:

Đèo Ngang gánh hai đầu đất nước...

Đèo Ngang quay cuồng trong gió bão...

         Đèo Ngang thật kỳ vĩ, hoành tráng biết bao. Ngược lại với Bà Huyện Thanh Quan, Đèo Ngang hiện ra hoang sơ vắng vẻ buồn bã. Cây lá chen chúc nhau vươn ra ánh sáng mặt trời, rậm rạp hoang sơ... Gợi nỗi buồn man mác trong cảnh chiều tàn sắp tắt. Hình ảnh trong bài thơ vừa mang tính ước lệ vừa chọn lọc gây ấn tượng cho người đọc. Nếu như chỉ dừng lại ở hai câu khai ta chỉ thấy không gian và cảnh vật mà chưa thấy hết cái hay của những câu sau. Đọc toàn bài, cảnh vật đan cài vào nhau, lẫn vào nhau như màu mực đậm, nhạt trong một bức tranh cổ điển. Và đằng sau những hình ảnh ấy là tình cảm bâng khuâng, nao nao của thi nhân.

         Người xưa thường nói: thơ là cô đặc của ngôn từ hay ý tại ngôn ngoại. Cả bài thơ vẻn vẹn có năm mươi sáu chữ mà ý thì sâu sắc biết bao. Bài thơ mở ra bát ngát một vùng trời mênh mông sông nước và lồng vào đó là tâm hồn nữ sĩ chất chứa riêng tư.

         Ta hãy chú ý hai câu cuối:

Dừng chân đứng lại trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

         Cảnh vật được mở ra với trời, non, nước rồi bỗng se sắt lại lòng ta với ta. Đọc bài thơ Qua Đèo Ngang ta có cảm giác nhà thơ không tốn công sức để đẽo gọt gia công từ ngữ, câu văn giản dị trong sáng giàu sức biểu cảm, các thủ pháp tu từ sử dụng điêu luyện, nhuần nhuyễn. Ta không bàn đến niêm luật của bài thơ bởi đây là mẫu mực cho một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Mà chỉ cảm nhận cái nghệ thuật đặc sắc tả cảnh bốn câu thực và luận:

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

         Cái hay của bốn câu này là giản dị, không phức hợp các mệnh đề. Đắt giá nhất phải kể đến nghệ thuật đảo trật tự cú pháp, lom khom, lác đác được sử dụng như những động từ mà lại đặt ở đầu câu, còn các chủ từ đặt cuối câu. Điều này nhăm nhấn mạnh sự vắng vẻ, tiêu điều của cuộc sống và con người chốn đèo Ngang. Ta hãy so sánh với cách viết thông thường:

Vài chú tiều lom khom dưới núi

Mấy nhà chợ lác đác bèn sông

         Câu thơ trở nên thật tầm thường, mất hẳn cái hay, nét đặc sắc. Do vậy hai câu sau từ nhờ và thương được đặt lên đầu câu. Việc đưa hai từ đó lên đầu câu giúp cho người đọc đồng cảm ngay với cái tình của tác giả.

         Ta nghe trong hai câu thơ đó có tiếng của thiên nhiên, của cuộc sông hay chính là tiếng lòng của thi nhân. Tiếng lòng ấy lại gặp chính nó ta với ta.

         Gấp trang sách lại mà tâm hồn ta còn đang bâng khuâng cùng nữ sĩ. Thời gian cứ trôi đi vô tận, nhưng bài thơ Qua Đèo Ngang vẫn sẽ mãi mãi lắng đọng trong tâm hồn chúng ta.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang ngắn gọn - Bài văn mẫu số 12

Bài thơ tả cảnh buổi chiều trên đèo Ngang trước con mắt người lữ khách khi vừa đặt chân tới.

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà.

         Thiên nhiên như ùa đến trong tầm mắt tác giả, cảnh sắc tươi tắn, ưa nhìn nhưng sinh vật và đất đá nương tựa nhau, xen lẫn nhau cũng có vẻ đông đúc.

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

         Nhưng sau sự cảm nhận đầu tiên, tác giả đã có thì giờ buông tầm mắt ra xa, tìm đến thế giới con người. Lẽ ra thiên nhiên có thêm con người phải sinh động, đẹp đẽ hơn nhưng ở đây, sự điểm xuyết của người hái củi thưa thớt, quán chợ lơ thơ chỉ khiến cho cảnh vật thêm hiu hắt.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

         Bà Huyện Thanh Quan đã nhìn bao quát toàn cảnh, bà còn cảm nhận về đèo Ngang qua thính giác: tiếng chim quốc, tiếng chim gia gia vọng đến, rơi vào cái vắng vẻ, tĩnh mịch của buổi chiều trên đèo. Khung cảnh thiên nhiên ấy, hoàn cảnh lữ thứ ấy khiến cho tiếng chim gợi liên tưởng đến những từ đồng âm biểu hiện những ý nghĩa, những vấn đề hết sức sâu sắc và lớn lao: nhớ nước và thương nhà.

         Thương nhà thì đã rõ, Bà Huyện Thanh Quan có một thời được triệu về Huế là chức cung trung giáo tập. Bà vốn người Nghi Tàm, Hà Nội (Bài thơ này có thể làm trong dịp vào cung đó). Một người phụ nữ phải rời nhà đi xa thế, dù là đi làm quan, cũng ngổn ngang biết bao nỗi niềm. Cái tiếng chim gia gia tha thiết khêu gợi biết bao. Nhưng còn cái tiếng khắc khoải của những con chim quốc. Nhiều người cho rằng đó là tâm sự hoài.

         Điều đó không lấy gì làm chắc, bởi lẽ thời bà sống và làm quan đất nước đã chuyển sang nhà Nguyễn đến thập kỉ thứ ba thứ tư rồi. Có điều, như các triều đại phong kiến khác nhà Nguyễn bấy giờ đã bộc lộ những mặt tiêu cực, những chỗ yếu kém và cả những tội ác. Là một nhà thơ nhạy cảm, Bà Huyện Thanh Quan hẳn có những điều buồn phiền, bất như ý về hiện thực xã hội. Cái nỗi đau lòng khi nhớ nước có lẽ chính là như thế, chính là sự nghĩ về hiện tình đất nước đương thời.

         Và thiên nhiên đã đánh thức lòng tác giả những mối suy tư lớn lao thì thiên nhiên bỗng như lùi xa, trả tác giả trở lại với chính tâm tư mình và chỉ có một mình.

Dừng chân đứng lại, trời non nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

         Qua đèo Ngang trước tiên là bài thơ tả cảnh. Cảnh vật hiện ra phong phú dần theo bước chân người đi. Có cảnh sắc: cỏ, cây, hoa, lá, đá, tiều phu bên sườn núi, chợ bên sông, nhà; có âm thanh: tiếng quốc quốc, gia gia khắc khoải, dồn dập. Và khi đi lên đến đỉnh núi thì nhà thơ đã nhìn được một cách tổng quát, toàn thể: trời, non nước. Cái mênh mông vô cùng hùng vĩ ấy của thiên nhiên đã làm nhà thơ sững lại: dừng chân đứng lại.

         Nhưng tả cảnh chỉ là một phần ý nghĩa của bài thơ. Chính là bài thơ đã miêu tả rất rõ diễn biến tình cảm của tác giả khi qua đèo Ngang này. Từ cảm nhận ban đầu, tình cảm của tác giả sâu lắng dần; qua sự tiếp nhận của mắt, của tai, những nỗi niềm tâm sự mỗi lúc một dồn nén để rồi nó chất chứa, cô đọng thành một nỗi buồn, nỗi cô đơn không thể cùng ai chia sẻ. Hình ảnh một con người, lại là một người đàn bà, đứng sững giữa cảnh trời, nước, non cao, trong ánh chiều tà đơn độc biết bao! Ở đây có sự tương phản: tương phản giữa thời gian khoảnh khắc (chiều sắp hết) và vũ trụ vô cùng; tương phản giữa không gian và thời gian: tâm trạng cô đơn, nỗi buồn vô hạn, và cả bóng hình nữ sĩ.

         Qua đèo Ngang là một bài thơ hay và sẽ bất tử với thời gian. Có lẽ cho đến khi nào con đường Nam Bắc còn đèo Ngang thì những người qua đây nhiều người vẫn còn nhớ đến nữ sĩ và như còn mường tượng ra bức tượng bà đứng cao trội lên trong bóng chiều trên đỉnh đèo.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang hay nhất - Bài văn mẫu số 13

“Qua đèo ngang” là bài thơ nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan. Bằng giọng văn tinh tế, điêu luyện, tác giả đã cho độc giả trải nghiệm những màu sắc, hình ảnh gần gũi mà nên thơ. Đồng thời, ta cũng của nhận được tâm ý của tác giả ẩn chứa trong từng câu chữ

Được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bài thơ “Qua đèo ngang” được mở đầu bằng hai câu đề:

“Bước tới đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa”

Chỉ hai câu thơ ngắn, tác giả đã nói được thời gian, địa điểm và cả quang cảnh nơi tác giả đang đặt chân đến. Cảnh vật được nhắc đến thật tự nhiên vì tác giả chỉ “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình chứ không hề có ý làm thơ. Cái “bóng xế tà” gợi một nỗi cô đơn, buồn man mác, lại cũng có chút tiếc nuối về một ngày sắp qua đi ẩn chứa trong câu chữ. Ở đèo ngang, “cỏ cây chen lá, đá chen hoa”. Thiên nhiên, thực vật ở đây được nhân hóa “chen” nhau tạo cảm giác xô bồ, đông đúc mà sống động đến lạ. Cây cỏ, đến hòn đá cũng tràn đầy năng lượng. Sức sống mãnh liệt của chúng trong cảnh chiều tàn lại khiến cho tác giả mơ hồ có thật nhiều suy nghĩ.

Hai câu thực là khi tác giả đã ở trên cao, nhìn xuống phía dưới đèo Ngang, phóng xa tầm mắt và nhìn vạn vật dưới đèo. Không chỉ còn là cây cỏ, đá núi mà ở đây, tác giả còn thấy cả người, cả nhà. Tức là sự sống vẫn tồn tại nơi đây, không kém gì cây cỏ. Thấp thoáng bóng dáng con người đang chăm chỉ làm việc:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ với những từ láy để thể hiện hai câu thơ này. Nhưng dường như, sự sống con người ở đây thật hiu hắt, chỉ “lom khom” làm việc, còn “lác đác” nhà ở. Cảnh vật thật ảm đạm, thê lương. Giữa cảnh vật hùng vĩ, con người thật nhỏ bé, dường như thiên nhiên đã “nuốt trọn” lấy con người.

Tiếp theo, hai câu luận là nỗi buồn được bộc lộ rõ nét qua những từ ngữ não lòng:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Vẫn sử dụng từ láy trong câu thơ, nhưng từ láy ở câu thơ này mang tính chất mạnh hơn, thể hiện tiếng lòng tha thiết của tác giả. Ở đây, tác giả còn sử dụng câu thơ điển tích xưa về vua mất nước đã hóa thành con cuốc, chỉ biết kêu “cuốc cuốc”. Nỗi đau mất mát quá lớn gợi sự thê lương, thảm thiết đến nao lòng. Còn “gia gia” là nỗi thương nhà, tiếng gọi từ chính con tim gọi về chốn chưa. Cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt, độc giả có thể cảm nhận được tấm lòng yêu nước, thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Cảnh vật hùng vĩ trái ngược với trái tim nhỏ bé của tác giả. Tác giả muốn ôm trọn lấy cảnh vật không muốn rời. Cảnh vật, núi non, đất trời như níu chân thi sỹ không buông. Nhưng đứng trước nó, tác giả lại dâng lên sự cô đơn trong lòng. Khung cảnh càng lớn thì lòng lữ khách càng hiu quạnh. Nỗi lòng tác giả, ai thấu hiểu? Hết thúc bài thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc của tác giả.

Một cảnh tượng hùng vĩ, một tâm hồn bao la được tóm gọn trong bài thơ "Qua đèo ngang". Phải thật giàu cảm xúc, phải có một tấm lòng yêu nước da diết mới có thể viết lên được những câu chữ tuyệt vời như vậy. Và Bà Huyện Thanh Quan đã làm được điều đó.

Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 14

Trong số những nhà thơ nữ của thời kì trung đại, có thể nói Bà huyện Thanh Quan là một trong số những nhà thơ mang lại cho em những cảm nhận sâu sắc nhất. bà thường viết thể thơ Đường luật là một trong những dạng thơ cần nhiều quy tắc cả về câu chữ, thanh âm. Ấy thế mà, những bài thơ của bà luôn luôn không những tuân thủ một cách chặt chẽ mà còn mang những ý nghĩa sâu sắc, đem lại cho người đọc rất nhiều những suy nghĩ, gợi hình. Và trong số những tác phẩm của bà, em ấn tượng nhất với bài thơ “ qua đèo Ngang” được tác giả viết khi đi tới Phú Xuân và dừng chân tại đèo Ngang- bài thơ thất ngôn bát cú đường luật khi ấy đã được ra đời.

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Mở đầu hai câu đề là hoàn cảnh của tác giả. Khi nữ thi sĩ bước tới nơi đây cũng đã là hoàng hôn, mọi thứ xuất hiện trước mắt bà là hình ảnh của tất cả cảnh vật như thấm đẫm trong đó sự trầm lắng, nhẹ nhàng. Bà nhìn xuống đất và phía trước mặt, ngay sát cạnh mình, đó toàn là hình ảnh của những nào cây, nào cỏ, nào hoa. Tất cả thiên nhiên của nơi đây đều là sự hoang sơ, tĩnh lặng và chưa có sự khai phá của con người. Thiên nhiên như hòa chung với xúc cảm của con người. tất cả hoa lá, cây cối nơi đây mọc lên rậm rạp, chen chúc lên nhau để kiếm tìm chút ánh sáng mặt trỏi.

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác trên song chợ mấy nhà

Tới  hai câu thực, lúc này, tầm mắt của tác giả đã phóng ra xa. Những hình ảnh hiện trong mắt của người nghệ sĩ lúc này chỉ còn lại là những chấm nhỏ. Đó là những hoạt động của con  người nơi đây. Thế nhưng, ở đây dân cư vẫn rất thưa thớt. Nghệ thuật đảo ngữ trong bài thơ lúc này lại càng làm cho sự đìu hiu, vắng lặng không gian của con người càng gia tăng. Tất cả những điều đó, như nhẹ nhàng mà đi sâu vào người đọc những hình ảnh của đèo Ngang lúc bấy giờ.

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Điểm nhìn của tác giả đã thay đồi. Lúc này đây, nữ thi sĩ đã không cảm nhận thế giời quanh mình bằng đôi  mắt nữa mà bằng chính đôi tai, bằng những âm thanh xung quanh. Thế nhưng, những gì mà bà nghe thấy chỉ là những tiếng kêu “ quốc, quốc” của những con chim cuốc. Tiếng kêu của chúng như hằn sâu vào lòng người bởi chính sự sầu não, cô liêu. Trong hoàn cảnh hoàng hôn nơi hoang sơ, hung vĩ, tiếng kêu đau buồn, gợi lên nhiều kỉ niệm buồn ấy làm cho người đọc, người nghe có tâm trạng như chùng xuống, như khơi gợi lên về những điều suy nghĩ ở trong lòng. Và tác giả- người có mặt ngay tại nơi ấy cũng không còn là ngoại lệ.

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

Sự tĩnh lặng của thiên nhiên, sự hung vĩ, bạt ngàn của nơi đây đã làm cho người nghệ sĩ dâng lên trong lòng rất nhiều những suy nghĩ. Bà nhớ về quê nhà, nhớ đất kinh kì với tâm trạng khắc khoải. Nỗi lòng của bà như được nâng lên, được nổi bật giữa cái to lớn của toàn vũ trụ.

Tóm lại, bài thơ Qua đèo ngang là bài thơ tả cảnh mang rất nhiều những ý nghĩa trong nó mà  qua đó, chúng ta cũng thấy được tình yêu quê hương đất nước của tác giả qua tác phẩm của bà.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 15

Bước vào nền văn học Việt Nam, ta bắt gặp một nữ sĩ tài danh hiếm có, nữ sĩ ấy chính là Bà Huyện Thanh Quan ở thế kỉ XX. Bà đã dùng ngòi bút để giãi bày tâm sự, gửi gắm tình cảm của mình đối với thiên nhiên, đối với đất nước mà bà đã yêu tha thiết. Bài thơ Qua đèo Ngang là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của bà.

Mở đầu bài thơ là cảnh buổi chiều trên Đèo Ngang. Tác giả dừng bước tới Đèo ngang cũng là lúc ánh ngày sắp sửa đi qua:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

"Bóng xế" đã thể hiện một khung cảnh vắng vẻ, trầm buồn, không ồn ào náo nhiệt. Đây là quãng thời gian thích hợp để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải. Còn thiên nhiên ở đây lại mang dáng vẻ hoang sơ, có còn chăng là những tia nắng yếu ớt cuối ngày. Không gian gợi nỗi buồn man mác, đặc biệt buồn hơn đối với người lữ khách tha phương như Bà Huyện Thanh Quan. Bà rất buồn vì phải rời xa quê hương để làm nhiệm vụ. Nhìn thấy cảnh vật ở Đèo Ngang, bà có dịp bộc lộ tâm trạng của mình, đó là cách tả cảnh ngụ tình mà Bà Huyện Thanh Quan cũng như các nhà thơ cổ điển đã sử dụng. Cảnh thiên nhiên càng trở nên lạnh lẽo bởi vẻ thưa thớt của con người:

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Đây là sự vắng vẻ, đơn điệu cảu cuộc sống chốn Đèo Ngang. Đèo Ngang thật kì vĩ nhưng còn hoang sơ, tẻ nhạt. Bóng dáng nữ sĩ dường như bị mất hút vào không gian mênh mông, bất tận ấy. Hình ảnh con người chỉ thoáng bóng, đó là những người lao động khổ cực, bầu bạn với núi rừng, sông núi. Hình ảnh này đã làm cho tâm hồn nữ sĩ mang nỗi buồn thương man mác. Khung cảnh đã buồn, tâm trạng bà lại buồn hơn. Buồn vì đất nước đang lênh đênh trong những triều đại phong kiến. Bà đã mượn tiếng kêu chiều của chim rừng để bày tỏ nỗi lòng mình:

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Sự đơn điệu trong câu thơ thật hay, thật ấn tượng. Có phải chăng "quốc" ở đây là nước còn "gia" là nhà? Tiếng cuốc kêu hay chính là lời non nước? Tiếng gia gia trong câu thơ có phải là lời nhắn gọi của quê hương, gia đình và người thân mà ngày đêm bà hằng mong nhớ. Là phụ nữ thì bà cũng không thể thoát khỏi "nữ nhi thường tình" ấy. Đến đây nỗi nhớ nước và nỗi thầm lặng cô đơn của Bà Huyện Thanh Quan hiện lên rất rõ. Nỗi buồn tâm sự mỗi lúc một dồn nén. Cảm nhận ban đầu là hình ảnh của không gian, cảnh vật rồi đến cuộc sống con người, âm thanh vang vọng trong cuộc sống. Tất cả đã làm cho tình cảm tác giả sâu lắng rồi chất chứa và cô đọng thành nỗi buồn vô tận, nỗi cô đơn không cùng ai chia sẻ:

Dừng chân đứng lại, trời, non nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Tác gia đang đứng trước một không gian rộng lớn với chan chứa nỗi buồn. Đứng trên đỉnh cao của Đèo Ngang, tác giả nhìn thấy cảnh trời non nước, nhìn rõ cảnh tượng thoáng đãng mà heo hút, hoang sơ, thấy rõ cảnh đượm buồn của đất nước và tâm trạng u hoài của chính mình. Bà Huyện Thanh Quan và cảnh Đèo Ngang đang có một điểm tương đồng. Đó là dáng vẻ trầm buồn, day dứt. Nỗi buồn cô đơn chỉ một mình bà bày tỏ, Bà Huyện Thanh Quan đã mượn cảnh tả tình, tâm sự sẻ chia nỗi buồn cùng cảnh vật. Nhà thơ đã tự gặp lại mình trong nỗi buồn thương da diết khôn nguôi của mình bà trước cuộc sống đương thời.

Với bút pháp tả cảnh và biện pháp đảo ngữ mà tác giả đã sử dụng, bài thơ đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng, đượm buồn trong buổi chiều tà ngả bóng, đồng thời thể hiện một nỗi buồn sâu lắng cô đơn của tác giả. Dù tác giả đi làm quan nhưng vẫn khắc khoải nhớ về quê hương. Tâm trạng bà ngổn ngang bao nỗi niềm với đất nước. Đó là cái cao quý ở Bà Huyện Thanh Quan.

Bà đã để lại cho đời những áng thơ đặc sắc. Bài thơ Qua Đèo Ngang mang đậm thời thế cuộc đời, nó đã gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang chi tiết - Bài văn mẫu số 16

Bà Huyện Thanh Quan được xem là thi sĩ nổi tiếng bậc nhất thời cận đại. Thơ của bà thường ẩn chứa phong cách trang nhã, thanh tao, phóng khoáng nhưng đầy dư vị, dư tình. Qua đèo ngang là một trong những tác phẩm đặc sắc trong tuyển tập thơ của bà. Chỉ bằng một vài nét chấm phá điểm xuyết bà đã vẽ ra cả một không gian heo hút, đìu hiu và cả lòng người cô quạnh, nhớ thương nơi đệ nhất hùng quan.

Bài thơ được viết theo thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật. Mở đâu bài thơ là hai câu đề:

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá đá chen hoa”

Câu thơ đã gợi ra cả không gian và thời gian dài rộng. Nhà thơ bước tới chân đèo vào buổi chiều tà, khi ánh mặt trời đã xuống ngang sườn núi, chỉ còn xót lại một vài tia nắng hiu hắt, xa xa. Ánh hoàng hôn như chông chênh, man mác, ngày dài như đang dần trôi đi. Chữ “tà” được buông xuống cuối câu gợi ra một nỗi buồn chóng vánh, thấm thía đầy trắc ẩn. Trong khung cảnh hoàng hôn đượm buồn ấy tác giả lượm nhặt được những hình ảnh hết sức độc đáo : “Cỏ cây chen lá, đá chen hoa”. Nghệ thuật liệt kê kết hợp với tiểu đối : “ cỏ-lá” “đá-hoa” , động từ “chen” lặp lại giữa mỗi vế câu cho ta liên tưởng đến sức sống cảnh vật. Ngày dài khép lại nhưng sự vận động của cảnh vật vẫn thật mãnh liệt, căng tràn. Vần bằng được đặt xen kẽ giữa mỗi câu thơ như tiếng đàn réo rắt cho thấy nỗi niềm xúc động bâng khuâng của thi sĩ đứng trước bức tranh thiên nhiên Đèo Ngang lúc hoàng hôn.

Và rồi không chỉ dừng lại ở đó, nhà thơ phóng tầm mắt ra xa hơn cao hơn để chiêm ngưỡng cho thỏa cái cảnh vật đất trời:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đã bên sông chợ mấy nhà”

Nghệ thuật đảo ngữ tài tình kết hợp với các tính từ gợi cảm giác : “Lom khom’ tiều” “lác đác; mấy”. Trên đỉnh núi chỉ có vài chú tiều phu đi đốn củi về con bên sông lại chỉ có vài ngôi nhà nhỏ đơn sơ. Chợ vốn thương chỉ những gì ồn ã, tấp nập nhưng đến với thơ bà huyện Thanh Quan nó lại dùng để đặc tả cho sự thưa thớ, đìu hiu. Tất cả như đang phô vẽ ra cái dáng vẻ hiu quạnh vắng vẻ nơi Đèo Ngang thăm thẳm. Bóng dáng con người nơi đây thật nhỏ bé, chóng chánh chơi vơi giữa núi non hùng vĩ, choáng ngợp. Một không gian ảm đạm, thê lương và lam lũ báo hiệu những nỗi buồn đang cứ thế lan tỏa mãnh liệt trong lòng người thi nhân: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”

Và rồi chẳng thể kìm nén được nữa, đến hai câu luận nỗi buồn ấy đã bứt ra thành tiếc nấc lòng nghẹn ngào:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Điệp âm “quốc quốc” “gia gia” tạo nên những âm hưởng du dương, dè dặt như đang dằng xé cõi lòng nhân gian. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được tác giả vận dụng thật khéo léo tài tình, không gian tĩnh lặng đến nỗi nhà thơ có thể nghe được cả  tiếng con chim quốc văng vẳng nơi xa. Một không gian não nề thê lương đến tận cùng. Hình ảnh con quốc quốc còn là điển tích kể về vua Thục xưa vì quá yêu nước khi chết hóa thành con quốc đi khắp nơi đều không ngớt tiếng kêu “quốc quốc” . Để rồi khi nghe tiếng chim quốc đặc điệu tác giả thương nhà, nhớ nước. Trong lòng người dấy lên một nỗi buồn xót xa cho cảnh nước nhà phân cách, gia đình li tán, phận người phụ nữ nổi trôi, đơn độc. Nỗi lòng ấy của nữ thi sĩ như kéo dài ra, ngân lên da diết chẳng dừng.

Càng thương nhớ lại càng bẽ bàng xót xa vô cùng:

“Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Cảnh vật nơi đây thực sự rất đẹp, thực sự rất nên thơ. Vốn chỉ là những thứ rất đỗi bình dị, mộc mạc nhưng lại rất giàu cảm xúc dưới đôi măt kẻ lãng mạn. Cảnh vật đã nhuốm màu tâm trạng, đồng điệu với con người. Con người lúc này đây cũng như muốn tan vào thiên nhiên, vào núi rừng để cảm nhận, để tận hưởng và sẻ chia những tâm tư tình cảm. Trước cái bao la, bát ngát của đất trời: trời cao; non xnah; nước thẳm bà huyện Thanh Quan như đang kiếm tìm một tri âm trỉ kỉ để tỏ chia nỗi lòng thăm thẳm. Thế nhưng càng kiếm tìm càng gào thét lại càng vô vọng khi nhận ra chỉ có “ta với ta” dường như giữa cái thế giới mênh mông, rộng lớn thật khó để kiếm tìm sự đồng cảm, sẻ chia, nhìn đi nhìn lại cũng chỉ con lại chính mình, chính mình với thiên nhiên hoang vu, rợn ngợp. Một mình cảm nhận, một mình nén chịu và một mình bật khóc. Câu thơ khép lại như tiếng lòng than thân đầy chua xót nghẹn ngào của chính vị thi sĩ đơn độc.

Qua đèo ngang là một trong những bài thơ Nôm hiếm hoi còn sót lại của ba Huyện Thanh Quan. Những câu thơ thất ngôn bát cú đường luật với ngôn từ trang nhã, chọn lọc tỉ mỉ công phu, cách niêm luật chặt chẽ tạo cho người đọc một cảm giác chau chuốt, mượt mà và đầy ấn tượng khi thưởng thức. Chặt chẽ nhưng lại không gò bó mà thoáng đãng, bay bổng. Một bức tranh tuyệt tác về cảnh chiều tà nơi đèo Ngang và cũng chính là một bức tranh tuyệt tác của lòng người- lòng thương dân nhớ nước sâu sắc.

Phát biểu cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 17

Bà Huyện Thanh Quan là một thi sĩ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX. Bà sáng tác không nhiều nhưng hầu hết các tác phẩm của bà đều có giá trị lớn. Ai đã từng đọc thơ của bà đều không thể quên được vẻ dịu dàng, trang trọng với nỗi buồn kín đáo, sâu xa ẩn trong từng câu từng chữ của nữ sĩ này. Bài thơ Qua Đèo Ngang là minh chứng cho điều đó:

Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Mở đầu bài thơ là không gian hoang vu, tĩnh mịch của cảnh đèo Ngang lúc chiều về:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Bà Huyện Thanh Quan bước tới đèo Ngang khi “bóng xế tà”, ngày bắt đầu lụi tắt, cảnh vật không còn mang hơi ấm rực rỡ của ban ngày mà chỉ sót lại vài tia nắng vàng vọt, yếu ớt, “bóng xế tà” gợi lên trong người đọc nỗi buồn man mác bâng khuâng. Âm điệu của từ “tà” hạ xuống, kéo dài như âm điệu mênh mang của nốt nhạc trầm buồn sâu lắng. Cái “bóng xế tà” của bà Huyện Thanh Quan làm ta nhớ đến buổi chiều buồn buồn như ca dao xưa:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Những tình cảm thiêng liêng của con người có thể gặp nhau ở một điểm, đó là thời gian. Thời gian dễ gợi trong lòng người bao nỗi cô đơn buồn bã chính là khoảnh khắc hoàng hôn buông xuống. Bà Huyện Thanh Quan ngắm khung cảnh hoành sơn với đôi mắt buồn ngấn lệ và cảnh vật càng vắng lặng hơn khi điệp từ “chen” cho ta hình dung thấy thiên nhiên nơi đèo Ngang không phải là “hoa chen, cỏ xén, lối phẳng cây trồng” mà thiên nhiên ở đây um tùm, rậm rạp, hoa lá, đá chen chúc nhau, xô đẩy nhau để cố vươn lên đón những ánh nắng cuối ngày. Bà Huyện Thanh Quan vẽ nên bức tranh đèo Ngang hoang vu, vắng lặng sao mà buồn đến thế! Tâm hồn buồn bã cô đơn, Bà Huyện Thanh Quan ngắm cảnh để vơi đi nỗi buồn, thế nhưng càng ngắm càng buồn, phải chăng đó là bởi:

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Nỗi buồn của Bà Huyện Thanh Quan như lan tỏa thấm vào vạn vật. Và rồi từ đỉnh đèo Ngang, nữ sĩ phóng tầm mắt về phía xa để tìm chút sự sống: xa xa dưới chân núi thấp thoáng bóng người:

Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Con người nơi đây sao mà nghèo khổ, lam lũ đến vậy! Những từ láy gợi hình “lác đác”, “lom khom” đứng đầu câu càng làm cho cảnh vật trở nên thưa thớt, vắng lặng. Con người hiện lên trên cái ngút ngàn mênh mông của thiên nhiên không làm cho cảnh chiều tươi vui, nhộn nhịp mà càng làm cho bức tranh thiên nhiên vắng lặng, quạnh hiu hơn. Cảnh đấy, thời gian ấy hòa vào tâm trạng của nhà thơ khiến cho nỗi buồn của bà như tăng lên gấp bội và càng xoáy sâu vào tâm hồn nữ sĩ khi văng vẳng bên tai tiêng chim quốc quốc, chim gia gia khắc khoải lúc hoàng hôn đang từ từ buông xuống:

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Câu thơ sao mà tha thiết, khác khoải đến thế! Các từ ghép “đau lòng, mỏi miệng” càng làm cho lòng ta ray rứt, bâng khuâng. Tiếng chim gia gia da diết hay đó chính là nỗi nhớ nhung tha thiết của Bà Huyện Thanh Quan khi phải rời gia đình quê hương, vượt nghìn trùng vào kinh đô Huế nhậm chức “Cung trung giáo tập”. Một con người đa sầu đa cảm như bà thì hỏi làm sao không nhớ không thương quê hương cho được! Còn tiếng chim quốc quốc “nhớ nước đau lòng” khắc khoải? Phải chăng đó là tâm sự sâu kín của nhà thơ, sống trong cảnh đất nước do nhà Nguyễn cai trị, trước những bạc nhược hung tàn của vua chúa, Bà Huyện Thanh Quan luôn hoài niệm về quá khứ vàng son. Bà sống lại những kỷ niệm thời dĩ vãng để rồi nhớ, rồi đau. Nỗi đau ấy càng thâm thìa, xót xa như Tú Xương đã từng viết:

Đêm nghe tiếng ếch bên tai,
Giật mình lại tưởng tiếng ai gọi đò.
(Sông Lấp)

Tiếng chim quốc, chim gia gia bùi ngùi, khắc khoải trong cảnh chiều ảm đạm hay vang lên trong tâm tưởng của nhà thơ? Thiên nhiên bao la đã gợi lên trong thi sĩ bao suy tưởng lớn lao và bây giờ thiên nhiên lại kéo bà trở về với hiện thực một mình cô lẻ:

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tinh riêng, ta với ta.

Trời rộng non cao, nước mênh mông, ta nghe như trong đó có tiếng kêu sững lại của tác giả trước cảnh thiên nhiên bao la, ngút ngàn. Câu thơ với hai hình ảnh đối lập “trời non nước” và “ta với ta” càng gợi cho ta thấy sự cô đơn, lẻ loi của Bà Huyện Thanh Quan. Cụm từ “ta với ta” không mang nỗi vui sướng hân hoan, thắm thiết như của Nguyễn Khuyên mà lại trầm buồn, đơn lẻ. Không chỉ “ta với ta” mà còn “mảnh tình riêng” cho nước cho nhà. Đọc câu thơ ta không khỏi nghẹn ngào, mủi lòng trước sự cô đơn, trống vắng của nữ sĩ. Thân nữ nhi yếu đuối, bà phải xa nhà, xa quê hương mà giờ lại ôm trọn trong lòng nỗi buồn man mác ấy.

Bài thơ sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng, trang nhã thanh tao, lối tả cảnh ngụ tình điêu luyện hòa với lời thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, xao xuyến, bâng khuâng. Cảnh đèo Ngang hiện ra nên thơ, trầm buồn. Đó cũng chính là bức tranh độc đáo không những bộc bạch tâm hồn tác giả mà còn thể hiện bút pháp tài tình, trang nhã của một tài năng. Mãi mãi và mãi mãi, chúng ta, thế hệ mai sau có dịp đi Qua Đèo Ngang thì không thể nào quên được bài thơ và hình bóng người nữ sĩ lồng lộng trên đỉnh đèo cao vời vợi ấy của nghệ thuật.

Bài văn nêu cảm nhận về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 18

Trong thơ ca Việt Nam có hai nữ sĩ đã ghi lại tên tuổi vào dòng văn học trung đại, đó là Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Nếu nói thơ của Hồ Xuân Hương sắc sảo, góc cạnh thì thơ của Bà Huyện Thanh Quan lại mang sự trầm lắng, sâu kín, hoài cảm, gửi gắm nỗi niềm vào lời thơ. Phong cách đó của bà đã làm ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm bà dành cho quê hương qua bài thơ “Qua Đèo Ngang”.

“Bước đến Đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát, giọng thơ nhẹ, trầm lặng mang nét buồn sâu lắng. Nữ sĩ tài danh lần đầu xa nhà, đặt chân đến Đèo Ngang vào một buổi xế chiều, không gian khiến ai nghe cũng cảm giác buồn, gợi nỗi niềm riêng

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà”

Ngay từ đầu, cảnh vật ở Đèo Ngang đã hiện lên dưới ánh nắng chiều sắp tắt, thật hữu tình nhưng vẫn hoang vu, hiu vắng. Đó là khung hiện ra trong con mắt của người xa sứ mang theo vẻ buồn mênh mang. Khoảng khắc “xế tà” xuất hiện như để bộc lộ tâm trạng buồn của một lữ khách cô đơn trước không gian rộng mà heo hút, hoang sơ của Đèo Ngang

“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Điệp từ “chen” của tác giả làm cho cây cỏ lá hoa có sức sống mạnh liệt nhưng nơi đây còn hoang sơ, ít dấu chân người. Câu thơ cho em cảm xúc bâng khuâng, niềm mong ước đặt chân đến miền đất xa sôi này. Nơi đã khơi gợi niềm cảm xúc nhớ nhà của nữ sĩ. Khung cảnh ấy bất giác gieo vào lòng người đọc một ấn tượng trống vắng, lạnh lẽo cả không gian lẫn thời gian. Một bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng lại đượm buồn. Người phụ nữ sang trọng, đài cát, ăn mặc theo lối xưa đang hướng đôi mắt buồn nhìn cảnh Đèo Ngang trong buổi chiều tà lặng êm. Và khi bước chân lên đỉnh đèo, khung cảnh đã được mở rộng thêm

“Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà”

Giữa không gian mênh mông, trống trải của Đèo Ngang không phải là không tồn tại sự sống, vẫn có người, có chợ nhưng lại quá thưa thớt. Từ láy “lom khom, lác đác” cùng từ “vài, mấy” gợi vẻ ít ỏi, thưa thớt, cuộc sống ở đây hẳn còn khó khăn, vất vả. Sự tồn tại đó không làm cho không gian trở nên ấm cúng mà trái lại càng tăng thêm vẻ tàn tạ, hiu hắt của cảnh vật mà thôi! Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đặc sắc nhất là phép đối làm đậm vẻ bâng khuâng, dào dạt trong lòng nhà thơ. Là người phụ nữ đoan trang ở chốn phố phường đông đúc mà giờ lại chứng kiến cảnh tượng trái ngược với khung cảnh hàng ngày được thấy nên cái buồn của cảnh đã bộc lộ cái buồn kết đọng trong lòng bà. Tất cả như hòa quyện cùng với tâm hồn của nhà thơ – một tâm hồn cô đơn, trống vắng vì nỗi nhớ nhà, nhớ quê. Đến đây, em cảm nhận được một vẻ đẹp hoang sơ, heo hút buồn của Đèo Ngang qua con mắt của nhà thơ. Nữ sĩ đã thành công trong việc mượn cảnh tả tình, bày tỏ nỗi niềm hoài cổ, man mác buồn của mình. Cảnh buồn, người buồn, thậm chí cả những âm thanh vang vọng trong chiều tà cũng làm tăng thêm nỗi buồn da diết trong lòng kẻ xa quê

“Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia”

Tác giả khéo léo dùng phép chơi chữ “quốc – nước” “gia – nhà”. Âm thanh khắc khoải, da diết của tiếng chim kêu não nuột, nghẹn ngào hay tiếng lòng của nữ sĩ? Cảnh thể hiện kín đáo, nhẹ nhàng mà tha thiết, sâu sắc tình yêu, nỗi nhớ quê hương, gia đình. Nỗi niềm vời vợi nhớ thương của nhà thơ bất chợt bùng lên trong giây lát, để rồi lại trở về với cái vẻ hoang vắng vốn có của đất trời và sự cô đơn đến tuyệt đỉnh của chính nhà thơ làm xúc động lòng người

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”

Cụm từ “dừng chân đứng lại” là nỗi ngập ngừng lưu luyến khi bước qua “ranh giới hai miền”, là sự đối lập khi đứng giữa đất trời mênh mông, con người trở nên nhỏ bé. Nỗi buồn của con người như cô đặc lại, không người chia sẻ, nỗi buồn được chính nhà thơ chịu đựng một mình. Tác giả đã khiến em nhận ra sự lẻ loi, bé nhỏ, cô đơn của nữ sĩ. Cụm từ “ta với ta” nghe thật cô đơn biết bao, nó diễn tả bà với chính mình, đó là sự cô đơn đến tộc độ, là nỗi buồn sâu thẳm. Nó khác hoàn toàn với “ta với ta” đầm ấm, vui tươi trong “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến. Đọc bài thơ, em đồng cảm với nỗi buồn sâu sắc của tác giả và nhận thấy một điểm đáng trân trọng trong tâm hồn người nữ sĩ tài danh, đó là tình yêu sâu nặng bà dành cho quê hương, đất nước. Bằng cách sử dụng nhiều nghệ thuật, bà Huyện Thanh Quan đã miêu tả cảnh đẹp hoang sơ của đèo Ngang thưở trước, đồng thời thể hiện nỗi cô đơn, nhớ nước thương nhà da diết của chính mình mà có lẽ chỉ có những người xa quê mới cảm nhận hết được. Đây là bài thơ đậm chất trữ tình, được đánh giá cao và thanh công nhất của Bà Huyện Thanh Quan đã miêu tả cảnh đẹp hoang sơ của đèo Ngang thưở trước, đồng thời thể hiện nỗi cô đơn, nhớ nước thương nhà da diết của chính mình mà có lẽ chỉ có những người xa quê mới cảm nhận hết được. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc, là tác phẩm hay trong dòng thơ trung đại Việt Nam. Em yêu thích ngòi bút ngôn ngữ rất nực trang nhã của bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ đọng lại trong ta bao cảm xúc buồn mà đáng nhớ. Nó xứng đáng được người đời ghi nhớ và hoài lưu đến tận sau này

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 19

Đèo Ngang – địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng bình đi vào thơ ca Bà Huyện Thanh Quan lại đẹp nặng niềm thương Tổ quốc đến như vậy. Bài thơ “Qua đèo Ngang” không chỉ lột tả được vẻ đẹp của “đệ nhất kì quan” lúc chiều tà mà còn cho thấy tâm hồn thanh cao, nỗi cô đơn, nhớ nhà thương nước của tác giả:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Dừng chân đứng lại trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Bài thơ “Qua đèo Ngang” viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật tuân thủ khá chặt chẽ quy luật gieo vần nhưng không hề gò ép, mà hết sức tự nhiên, linh hoạt. Qua đó bộc lộ tài năng thi phú, học thức và tấm lòng yêu nước của tác giả.

Thi nhân trên con đường đi qua đèo Ngang gặp lúc mặt trời đã về ngang lưng núi thật kì vĩ:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà”

Ba chữ “bóng xế tà” cũng đủ làm lòng người xao động. “bóng” ở đây có thể là bóng ngọn núi, cũng có thể là bóng của con người. Khi chiều về, mặt trời nghiêng về một phía Trái Đất khiến cho bóng mọi vật cũng đổ nghiêng. Mặt khác, hai chữ “xế tà” còn gợi lên liên tưởng về tuổi xuân của con người đã bước sang nửa kia của cuộc đời, không còn trẻ trung gì nữa. Với một người phụ nữ, tuổi “xế chiều” là cái tuổi mà xuân sắc phai tàn nhiều nuối tiếc, lỡ làng.

Cảnh vật được tác giả thể hiện cũng thoáng chút muộn phiền, cô độc:

“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.”

Câu thơ thứ nhất có cảm tưởng ban đầu như là cảnh vật đầy sinh khí và đông đúc tới mức phải “chen” lẫn vào nhau. Tuy nhiên sự xuất hiện những hai lần của từ “chen” đồng thời liên kết mối quan hệ chồng chéo của cỏ cây – đá và lá – hoa thì trái lại mở ra một trường liên tưởng khác. Cỏ cây và đá cùng mọc trên mặt đất, lá và hoa vốn luôn chung một cành, nhưng chúng phải bon chen mà lấy không gian sống, cỏ lại phải đi tranh chấp với cả đá, cho thấy sự bèo bọt của phận làm hoa cỏ và sự ngột ngạt của không gian mặt đất. Hoa hay cỏ dại đều biểu tượng cho người phụ nữ. Vậy ra nữ thi sĩ cảm thấy cuộc sống này quá ngột ngạt khi phải cô đơn chống chọi với những thứ tầm thường và có sức mạnh khủng khiếp – lễ giáo và tư tưởng cổ hủ của chế độ xã hội phong kiến.

Câu thơ thứ hai có xuất hiện hình ảnh con người đang đốn củi dưới chân núi. Tác giả có lẽ đang đứng cô độc một mình ở nơi rất cao hướng đôi mắt kiếm tim sự sống. Tuy nhiên người chỉ bắt găp hình ảnh “vài” chú tiều phu đốn củi đang trong tư thế “lom khom”. Từ “lom khom” thông thường chỉ dùng để miêu tả người già yếu cả đời vất vả tới mức lưng còng, chân chậm. Ở đây người tiều phu có lẽ cũng chỉ là những người lao động vất vả, cực nhọc gợi lên xã hội nhât dân phải sống trong cảnh nghèo đói, bất công. Tương tự câu thơ thứ ba cũng dùng chữ “lác đác”, “mấy” ít ỏi và hình ảnh chợ nhà trên sông của những ngư dân lặn lội kiếm sống như loài cò vạc suốt cả cuộc đời. Đó là lòng trắc ẩn, lòng thương người sâu sắc của tác giả.

Tấm lòng thương người, yêu quê hương, yêu nước của Bà Huyện Thanh Quan thể hiện sâu đậm hơn trong những câu thơ tiếp:

“Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Tình cảm được bộc lộ trực tiếp thông qua những từ “đau lòng”, “thương”. Tác giả mượn tiếng kêu và hình ảnh con chim quốc, gia gia để nói lên nỗi lòng của mình. Mặt khác, những từ “nhớ nước” và “thương nhà” được đẩy lên đầu câu hoán đổi cho vị trí của chủ ngữ càng làm bật nên tình cảm đó.

Cuối cùng, từ cảm giác thương người tác giả đi đến cảm giác tự thương:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Bắt đầu ở “bước tới” và kết thúc ở trạng thái “dừng chân” cho thấy chân dung nhân vật trữ tình như bị thiên nhiên nơi đây mê hoặc, sững sờ trước cảnh đẹp và trong vận động tâm hồn thì nhân vật trữ tình như thấy lòng mình lắng lại mà suy tư về cuộc đời. Không gian mở rộng theo tầm mắt của tác giả: trời – non – nước. Cả một khoảng không rộng lớn như thế chỉ có độc một “ta” và chỉ có “ta” mà thôi. Sự cô độc lên tới đỉnh điểm trong cảnh thực. Trong lòng người, sự cô độc cũng đạt đỉnh điểm khi chỉ có một “mảnh tình” nhỏ bé này.

Tóm lại, bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan vừa ca ngợi cảnh sắc quê hương, vừa bộc lộ tấm lòng yêu nước thương dân và cũng là nỗi cô đơn, cô độc của tác giả trong cuộc đời.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 20

Bà Huyện Thanh Quan sống ở thế kỷ XIX, bà là một nữ thi sĩ tài danh hiếm có của nền văn học trung đại Việt Nam. Một trong sáu bài thơ của bà Huyện Thanh Quan là bài thơ "Qua Đèo Ngang". Qua Đèo Ngang được tác giả viết trên đường từ Thăng Long vào Huế để nhận chức "Cung trung giáo tập". Bài thơ khắc họa cảnh tượng đèo ngang trong buổi chiều bóng xế tà. Qua đó thể hiện đầy ắp nỗi niềm nhớ thương của bà Huyện Thanh Quan trên bước đường xa xứ. Có thể nói "Qua Đèo Ngang" là một bài thơ hay, gợi trong lòng người đọc nhiều cảm xúc.

Bài thơ trước hết mở ra trước mắt người đọc cảnh tượng đèo ngang vào buổi chiều ta bóng xế:

Bước tới đèo ngang, bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Tác giả đã sử dụng từ ngữ giàu sức gợi tả, gợi cảm "bóng xế tà" gợi thời điểm bà Huyện Thanh Quan đặt chân đến đèo ngang là buổi chiều, khi hoàng hôn đang buôn xuống. Đây cũng là thời điểm rất dễ gợi buồn nhất là những người có tâm trạng xa nhà xa quê. Câu thơ thứ hai kết hợp phép nhân hóa "cỏ cây chen đá", "lá chen hoa", điệp từ "chen" cách hiệp vần a "lá"_ "hoa" tất cả ddeuf gợi lên cảnh tượng đèo ngang thật rõ nét với những cỏ, những cây, những lá, những hoa và tất cả đều gợi lên sức sống mãnh liệt của một vùng rừng núi hoang sơ, ngút ngàn. Cảnh thiên nhiên tuy đẹp nhưng mênh mông, rộng lớn, nhạt nhòa trong bóng hoàng hôn cho nên nó ảm đạm và vương vấn nỗi buồn.

Cảnh vật đèo ngang không chỉ có sự xuất hiện của cây cối, hoa lá mà còn có sự xuất hiện của con người:

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Ta bắt gặp trong hai câu thơ trên cách sử dụng từ láy giàu giá trị gợi hình "lom khom", "lác đác", phép đảo ngữ ở cả hai câu thơ "tiều vài chú", "chợ mấy nhà". Đặc biệt phép đối chặt chẽ giữa câu trên và câu dưới "lom khom với lác đác", "dưới núi với bên sông", "tiều vài chú với chợ mấy nhà". Cảnh đèo ngang tuy có thêm sự xuất hiện của con người nhưng quá nhỏ bé, ít ỏi, thưa thớt trước thiên nhiên. Có lẽ chính vì thế mà cảnh vật càng tăng thêm nét vắng vẻ, hoang vu và có phần tiêu điều, xơ xác.

Nhà thơ lại điểm thêm vào cảnh vật đèo ngang những âm thanh hắc khoải của tiếng chim quốc và chim đa:

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Vẫn là cách sử dụng phép đối chặt chẽ giữa hai cau và phép chơi chữ bằng cách sử dụng các từ đồng âm khác nghĩa"quốc quốc", "gia gia". Như vậy giữa không gian tỉnh lặng của đèo ngang trong buổi chiều tà vẳng lên tiếng chim quốc hắc khoải, tiếng chim gia gia não ruột. Chính âm thanh "nhớ nước, thương nhà" của chim quốc, chim gia gia, càng làm thêm phần quặng quẻ, u buồn, cô liêu của cảnh vật. Qua khung cảnh đèo ngang, nhà thơ đă gửi gắn vào cảnh vật đèo ngang tâm trạng "nhớ nước, thương nhà" hoài niệm về một triều Lê từng hưng thịnh của chính mình. Hai câu thơ thể hiện khá rõ bút pháp tả cảnh ngụ tình độc đáo của nhà thơ.

Hai câu cuối khép lại bài thơ la thâu tóm cả cảnh và tình:

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Nhịp thơ chậm tạo âm điệu trầm buồn, da diết, từ giàu giá trị gợi hình"trời, non, nước", gợi cảm"một mảnh tình riêng" cùng với cách sử dụng đại từ "ta" thật độc đáo, phép tương phản giữa cảnh và tình.

Tất cả đã gợi lên cảnh đèo ngang mênh mông,bao la, rợn ngợp mà con người quá nhỏ bé, cô đơn lại đang trĩu nặng trong lòng "một mảnh tình riêng" không biết chia sẻ cùng ai có lẽ vì thế chăng mà cảnh đèo ngangtrowr nên ưu buồn"tâm trạng" của nhà thơ.

Tóm lại Qua Đèo Ngang đã sử dụngthể thơ đường luật, thất ngôn bát cú một cách điêu luyện. Tác giả đã sử dụng bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tì độc đáo. Bài thơ sáng tạo trong việc sử dụng từ láy, từ đồng âm khác nghĩa gợi hình, gợi cảm. Sử dụng nghệ thuật đối hiệu quả trong việc tả cảnh, tả tình. Tất cả đã giúp người đọc bài thơ thể hiện tâm trạng cô đơn thầm lặng, nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ trước cảnh vật đèo ngang. Có thể khẳng định rằng qua đèo ngang la một bài thơ hay, đọng lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang hay nhất - Bài văn mẫu số 21

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan

Bức tranh thiên nhiên trong nỗi niềm của người thi nhân

Qua hai câu thơ đầu của bài thơ, bà Huyện Thanh Quan đã tái hiện trước mắt người đọc cả không gian và thời gian của Đèo Ngang khi nhân vật trữ tình đặt chân đến địa danh này:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.”

Nhà thơ đã chọn một khoảnh khắc mang tính nghệ thuật thường xuất hiện trong thơ để miêu tả phong cảnh Đèo Ngang. Đó là thời điểm ngày dần tàn, trời tắt nắng, cả thiên nhiên vạn vật xuất hiện trên cái nền của “bóng xế tà”. Rõ ràng đây là khoảng thời gian gợi lên trong lòng người nhiều suy ngẫm sau những mỏi mệt của một ngày dài.

Phải chăng, trải qua một hành trình rất dài từ Thăng Long vào Huế, khi “bước tới Đèo Ngang”, bản thân nhà thơ cũng chất chứa những nỗi niềm sâu kín nhưng chưa có cơ hội trải lòng. Đến khi ánh sáng bắt đầu tàn lụi để nhường chỗ cho bóng xế ban chiều cũng là lúc kịp đặt chân đến Đèo Ngang, có cơ hội hướng tầm mắt bao quát cảnh vật. 

Những cảm xúc hoài vọng về quê hương, về nơi chôn nhau cắt rốn của nhà thơ lại dạt dào và hóa thành những dòng thơ. Không chỉ nhắc đến thời gian khi đặt chân đến Đèo Ngang mà tác giả còn gợi ra sự xuất hiện của thiên nhiên, cảnh vật trong không gian núi đèo. Đó là sự “chen” nhau của cỏ cây, đá núi, hoa lá. 

Khi phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, ta thấy trong câu thơ có tổng cộng bảy tiếng nhưng từ “chen” đã được điệp lại hai lần đã góp phần tạo nên một bức tranh thiên nhiên hoang vu nhưng rậm rạp. Sức sống của thiên nhiên nơi Đèo Ngang cũng vì thế mà hiện lên rất đỗi tự nhiên, mạnh mẽ.

Bức tranh cuộc sống hiện lên trong bài thơ

Bên cạnh việc thể hiện sự sống của thiên nhiên, với hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã làm xuất hiện trong bức tranh cảnh vật ấy bóng dáng của con người:

“Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.”

Thông thường, một bức tranh thiên nhiên khi có sự xuất hiện của con người thì cũng trở nên sống động hơn và mang lại cảm giác hài hòa giữa nhân với cảnh. Thế nhưng, khi con người xuất hiện trong tranh ấy với bóng dáng nhỏ nhoi và sự ít ỏi, trong trạng thái “lác đác”, trong tư thế “lom khom” thì lại càng làm cho không gian cảnh vật thêm hoang vắng, mênh mông. 

Nói như vậy là bởi giữa không gian rộng lớn, hùng vĩ, bát ngát trùng mây của Đèo Ngang nhưng chỉ xuất hiện đôi nét phác họa về vài chú tiều, về những mái nhà, khu chợ thưa thớt. Con người chính vì vậy trở nên nhỏ bé vô cùng trước sự vô hạn của không gian. Như vậy, trên khung nền của cảnh thiên nhiên núi đèo bát ngát, bao la, mặc dù có sự hiện hữu của đời sống con người nhưng nếu đó chỉ là sự xuất hiện thấp thoáng, ít ỏi thì chỉ càng tô đậm thêm sự hoang sơ, trập trùng, và bất tận của cảnh mà thôi. 

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, ta thấy hai câu thơ đã thể hiện việc tác giả sử dụng rất khéo léo nghệ thuật đăng đối. Nếu câu trước có “tiều vài chú”, thì câu sau có sự xuất hiện của “chợ mấy nhà”, nếu câu trước những chú tiều ở trong tư thế “lom khom dưới núi” thì câu sau những gian nhà, phiên chợ chỉ “lác đác bên sông”. 

Đặc biệt, với phép đảo trật tự cú pháp, để tính chất của hình ảnh lên trên trước sự xuất hiện của nó (thay vì viết “Vài chú tiều lom khom dưới núi” –“Chợ mấy nhà lác đác bên sông” thì nhà thơ lại viết thành “Lom khom dưới núi, tiều vài chú” – “Lác đác bên sông, chợ mấy nhà”) cùng với sự kết hợp các từ láy “lác đác”, “lom khom” đã có tác dụng gợi hình cho và nhấn mạnh sự leo lét của sự sống con người ở hai câu thực này.

Tâm trạng tác giả trong khung cảnh chiều buồn

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, người đọc còn nhận ra rằng trước khoảnh khắc tắt nắng của một ngày, không gian mênh mông, hoang sơ và đời sống con người thì thưa thớt, vắng vẻ, tâm trạng của nhân vật trữ tình mới thêm trĩu nặng những nỗi niềm, tâm tư:

“Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Trong hai câu thơ trên, bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng điển tích về chim quốc quốc và chim gia gia. Theo chuyện xưa tích cũ, vua Thục Đế do bị mất nước nên rất đau lòng đến nỗi ngày đêm kêu gào và tiếng kêu cất lên chính là tiếng “quốc quốc” (nghĩa là đất nước) và về sau chim quốc quốc được xem là sự hóa thân của nhà vua mà thành. 

Loài chim thứ hai là chim gia gia, còn có tên gọi khác là đa đa lại xuất phát từ câu chuyện liên quan đến hai nhân vật là Bá Di và Thúc Tề. Đây đều là những bề tôi trung thành, chính trực của nhà Thương. Khi đất nước xảy ra biến cố, trước nguy cơ nhà Thương bị sụp đổ vì uy quyền, thanh thế của nhà Chu, Bá Di và Thúc Tề vẫn giữ đạo trung quân, họ cả đời chỉ thờ một vua chứ không thể mang danh kẻ phản bội. Dù có chết họ cũng chịu chứ không chấp nhận sống chung với nhà Chu. 

Đến khi qua đời, linh hồn hai người họ đã hóa thành chim đa đa và không ngớt lời kêu “bất thực cốc Chu gia” (nghĩa là “Không ăn thóc nhà Chu”). Từ gia xuất hiện trong tiếng kêu ấy lại đồng âm với từ gia (có nghĩa là nhà). Do vậy, khi nhắc đến hai điển tích về nghĩa tình sâu nặng đối với nước nhà của những nhân vật cổ xưa, dường như nhà thơ cũng muốn gửi gắm trong đó một nỗi niềm sâu kín về sự thay ngôi đổi vị trong thời đại của mình. 

Tâm trạng “nhớ nước”, “thương nhà” của nhà thơ đã làm toát lên một tấm lòng đáng trân trọng và cần được cảm thông. Bởi vì, trước khi đến Huế, nhân vật trữ tình đã có một khoảng thời gian dài sống và gắn bó với mảnh đất Thăng Long. Chính hình ảnh về vùng đất và con người nơi ấy đã in sâu vào tâm trí của nhà thơ. Nó đã trở thành một miền kí ức dạt dào để đến lúc rời xa, trong thâm tâm bà nảy sinh những cảm xúc “nhớ”, “thương” trên là điều không thể tránh khỏi. 

Do vậy, khi phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang ta thấy Đèo Ngang vốn đã hoang vắng, u tịch nhưng cũng không thể trở nên rộn rã, vui tươi hơn khi có sự xuất hiện của âm thanh tiếng chim. Bởi, tiếng kêu tha thiết, xót xa như vậy thì chỉ làm tăng thêm vẻ cô liêu, buồn vắng của cảnh vật. Tiếng kêu của những loài chim ấy là một cách ẩn dụ cho tiếng lòng của một tâm hồn hoài vọng về sự thịnh suy của triều đại đã qua.

Khi tâm trạng không thể cất giấu mãi hoài vào trong trong cảnh vật, tác giả đã bộc lộ nó một cách trực tiếp qua hai câu thơ cuối:

“Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Những câu thơ tiếp tục gợi ra sự đối lập giữa một con người nhỏ bé, đơn độc với sự rợn ngợp, bao la của non nước mây trời Đèo Ngang. Khi con người đã có dịp cùng trải qua bao thăng trầm với lịch sử dân tộc, con người ấy như bỗng nghiệm ra một điều: đời người chỉ là hữu hạn trong sự vô cùng của thiên nhiên, đất nước…

Cách cắt mảnh các hình ảnh “trời”, “non”, “nước” và những từ mang ý nghĩa riêng lẻ “một”, “mảnh”, “riêng”, “ta” đã làm nổi bật lên trên sự bất tận, bao la của tạo vật là nỗi trống vắng, cô đơn của con người. Con người ấy lại không thể tỏ bày cùng ai những nỗi niềm đang chất chứa mà chỉ có thể bầu bạn với chính mình (“ta với ta”) thì lại càng trở nên cô đơn, lẻ loi hơn bao giờ hết. 

Vốn là người đất Bắc nhưng khi thời thế thay đổi, một người phụ nữ dù có mạnh mẽ đến đâu nhưng khi đặt chân đến một vùng đất mới, nhận nhiệm vụ mới của một triều đại mới thì làm sao không khỏi nhớ về gia đình và tiếc nuối về một triều đại đã tàn lụi. Do vậy, khi đứng trước ranh giới giữa hai miền đất – một đã từng gắn bó sâu đậm, một lạ lẫm mới mẻ, có tâm sự nhưng không biết thổ lộ cùng ai, bà Huyện Thanh Quan đã chọn cách gửi hết cái tình của mình vào cảnh trong phút “dừng chân đứng lại” hướng tầm mắt lên khắp cảnh vật bao la.

Ta thấy bà Huyện Thanh Quan đã phác họa trong bài thơ “Qua Đèo Ngang” không chỉ là bức tranh về ngoại cảnh về thiên nhiên mà còn là bức tranh về tâm trạng của con người. Chính sự hùng vĩ, thoáng đãng nhưng heo hút, thưa thớt sự sống của con người nơi Đèo Ngang đã làm tô đậm thêm sự man mác, sầu bi và cô đơn của nhân vật trữ tình.

Một trong những đặc sắc về nghệ thuật ở tác phẩm này là việc sử dụng thành công biện pháp tả cảnh ngụ tình. Ngoài ra, việc kết hợp các từ tượng hình, tượng thanh, điển tích, phép đảo ngữ và thủ pháp đăng đối đã tạo nên những ấn tượng trong lòng người đọc về một tác phẩm mang tính mực thước, cổ điển về chủ đề cũng như hình thức thể hiện như “Qua Đèo Ngang”.

Tóm lại, thông qua bài thơ “Qua Đèo Ngang”, người đọc thấy hiển hiện rõ nét cả bức tranh phong cảnh và bức tranh tâm cảnh mà bà Huyện Thanh Quan gửi gắm. Từ việc phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang cũng như cảm nhận những tâm tư mà bà thể hiện trong bài, ta lại thấy trân trọng hơn những người như bà vì đã dành tình yêu thương thiết tha, nồng nàn cho quê hương, xứ sở dù phải rời xa và đi đến bất cứ nơi nào.

Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 22

Cùng với các nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm…, Bà Huyện Thanh Quan đã góp phần làm vinh dự cho nền văn học trung đại Việt Nam chúng ta. Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều, nhưng là một tài danh hiếm có.

Tác phẩm của bà hiện còn lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có bài Qua Đèo Ngang nổi tiếng và rất quen thuộc với bạn đọc:

                                    Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

                                    Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

                                    Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

                                    Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

                                    Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

                                    Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

                                    Dừng chân dứng lại, trời, non, nước,

                                    Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Bài thơ được viết bằng chữ Nôm, thuộc thể Đường luật thất ngôn bát cú (mỗi câu bảy tiếng, mỗi bài tám câu) với thanh điệu, vần điệu, bố cục, dối xứng rất hài hoà, tự nhiên, đúng niêm luật, đọc lên nghe xuôi tai, rất dễ thuộc, dễ nhớ. Lướt qua một lần từ câu chữ mở đầu đến kết thúc, chúng ta nhận ra bài thơ đẹp như một bức tranh vẽ lại một vùng non nước miền Trung đất Việt hùng vĩ, mà hoang sơ, gợi cảm.

Câu mở đầu cho ta biết cảnh Đèo Ngang hiện lên vào lúc xế tà, nắng nhạt. Cảnh vật gồm : cỏ, cây, hoa, lá, dãy núi, con sông, cái chợ, mấy túp nhà, vài chú tiều. Đường nét, màu sắc, chi tiết thưa thoáng, nhẹ nhàng, thanh đạm. Nét vẽ của nhà thơ chấm phá từ gần đến xa. Hoà với đường nét, văng vẳng vọng lại mấy âm thanh, tiếng kêu “nhớ nước” của chim cuốc, tiếng than “nhớ nhà” (muốn tìm về tổ) của chim đa đa. Trong nghệ thuật kết cấu thơ, tác giả thật khéo dùng câu đối xứng “Lom khom dưới núi tiều vài chú” đối xứng với “Lác đác bên sông chợ mấy nhà”, đường nét đối xứng với đường nét, hình ảnh cuộc sống con người đối xứng với nhau. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” đối xứng với “Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”, âm thanh, loài vật đối xứng với nhau, hài hoà, cân đối. Trong nghệ thuật dùng từ, tác giả chọn những từ láy lom khom, lác đác, các từ tượng thanh quốc quốc, gia gio gợi hình, gợi cảm, tác động vào sự suy ngẫm, liên tường của người đọc. Thêm nữa, trong cấu trúc câu, xuất hiện phép đảo ngữ tài tình. Ở câu ba, động từ lom khom đảo lên trước danh từ tiều vài chú, xuống câu bốn, tính từ lác đác đảo lên trước danh từ chợ mấy nhà. Nhờ đó, ấn tượng về dáng hình vất vả của người tiều phu, sự thưa thớt, quạnh hiu của lều chợ được nhấn mạnh như nét đậm trong bức tranh… Có thể nói, sáu câu thơ đầu là bức tranh phong cảnh thiên nhiên ở Đèo Ngang, núi đèo bát ngát, thấp thoáng có sự sống con người, nhưng còn hoang sơ. Cảnh được nhìn vào lúc chiểu tà, tác giả đang trong cảnh ngộ phải xa nhà, mang tâm trạng cô đơn, nên không gợi nên cảm giác vui, dẹp mà buồn và vắng lặng. Từ cảnh, toát ra tình cảm con người. Mỗi câu thơ đều có ý nghĩa biểu cảm, trĩu nặng hồn người. Đọc thơ, chúng ta hiểu tâm trạng Bà Huyện Thanh Quan: buồn, cô đơn, hoài cổ. Tiếng chim quốc nhớ nước, tiếng chim đa đa (đọc trệch thành gia gia) thương nhà cũng chính là tiếng lòng thiết tha, da diết của tác giả nhớ gia đình, nhớ quá khứ của đất nước. Hai từ quốc quốc và gia gia vừa tả thực, nói về hai loại chim, vừa ẩn dụ, gợi liên tưởng tới quốc – gia, Tổ quốc và gia đình, nước và nhà đã và đang cất lên tiếng kêu, tiếng gọi tha thiết khiến lòng người không thể thờ ơ.

Đến hai câu thơ cuối :

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.

thì “lòng người”, tâm trạng Bà Huyện Thanh Quan được giãi bày trực tiếp. Đến đây, ngòi bút tả cảnh ngụ tình chuyển sang ngòi bút tâm trạng, thơ hướng nội, tâm tình. Đối mặt trước cảnh trời, non, nước bao la, hùng vĩ, nhà thơ cảm thấy mình như nhỏ bé hẳn lại, nỗi nhớ nhà, thương nước càng thêm da diết, thẳm sâu.

Vậy mà không có ai, không tìm được ai để san sẻ, tâm tình, đành ta với ta, “Một mình mình biết, một mình mình hay” (Nguyễn Du – Truyện Kiều). Ở đây lại xuất hiện một đối lập nữa. Cảnh trời, non, nước, rộng lớn đối lập với một mảnh tình riêng nhỏ hẹp. Cảnh càng rộng lớn, hùng vĩ bao nhiêu thì mảnh tình riêng càng nặng nề, khép kín bấy nhiêu. Cụm từ ta với ta bộc lộ nỗi cô đơn gần như tuyệt đối của tác giả. Nhưng đây không phải là nỗi cô đơn tiêu cực, bi luỵ mà là tấm lòng đau đáu, thiết tha của nữ sĩ Thanh Quan đối với đất nước, đối với gia đình, đáng cảm thông và trân trọng.

Đọc Qua Đèo Ngang, chúng ta cảm nhận, bài thơ trang nhã, rất tiêu biểu cho thơ Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan. Đèo Ngang hiện lên với cảnh thiên nhiên bát ngát, hùng vĩ, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng còn heo hút, hoang sơ, đủ gợi lên trong tâm hồn tác giả một nỗi nhớ nước, thương nhà, một nỗi buồn cô quạnh, não nề.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 23

Bà huyện Thanh Quan là một nhà thơ tài năng. Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện. “Qua đèo Ngang” là một trong những bài thơ như thế.

Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người. Vì thế bài thơ tả cảnh Đèo Ngang vào thời điểm ấy đồng thời nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách – nữ sĩ.


Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình, vào thời điểm “bóng xế tà”:

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà”

Đó là lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã “tà”, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi buồn thấm thía.

Câu  thơ thứ hai tả cảnh sắc ở đèo Ngang với cỏ cây, lá, hoa… đá:

“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần chân: “tà” – “hoa” làm cho câu thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự  ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước. Nơi ấy chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. Cỏ cây, hoa lá phải “chen” với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng.

Hai câu thơ tiếp theo, nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.

Điểm nhìn của tác giả đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiều phu, nhưng chỉ có “tiều vài chú”. Hoạt động là “lom khom” vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ trong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.

Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ vận dụng rất tài tình:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”.

Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà “thương nhà mỏi miệng”, nỗi buồn thấm thía vào chín tầng sâu cõi lòng, toả rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương. Sắc điệu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Trong lòng người lữ khách nỗi “nhớ nước”, nhí kinh kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhí chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết!

Hai câu thơ cuối bài tâm trang nhớ quê, nhớ nhà càng bộc lộ rõ:

“Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta”.

Bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: “Trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn bèn phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn.

Có thể nói “Qua Đèo Ngang” là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kỳ thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua từng dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phép đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mỹ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hoà với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Vì thế bài thơ “Qua Đèo Ngang” là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 24

Đèo Ngang là một con đèo rất dài và cao nằm vắt ngang sườn núi cheo leo và hiểm trở nó là ranh giới giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Thuở xưa, khi muốn vào Huế thi cửa thì phải đi qua đèo này từ đó có rất nhiều bài thơ hay nói về con đèo ngang. Và Bà Huyện Thanh Quan trong một dịp từ Thăng Long vào Huế khi đi qua đã nổi dạy cảm xúc và sáng tác nên bài thơ này.

Mở đầu bài thơ tác giả đã cho ta thấy được thời điểm bắt đầu đến đèo ngang:

“Bước tới đèo ngang bóng xê tà”

Lúc này cảnh vật ở đèo ngang đang vào lúc chiều tà mặt trời đang dần buông xuống để nhường chỗ cho buổi tối. Khi mặt trời buông xuống cảnh vật như đang hưởng ứng vào thời gian nghỉ ngơi sau một ngày dài mệt mỏi. Tuy vậy nhưng cảnh vật vẫn rất rõ ràng khiến người đặt chân đến đây vẫn nhìn được vẻ đẹp lộng lẫy của của đèo ngang.

“Cỏ cây chen lá, lá chen hoa”

Như vậy ta thấy được dọc đèo ngang có rất nhiều cây cối và hoa lá. Những cây hoa đan xen nhau nở dộ dưới nền xanh của lá và ánh chiều tà lấp lánh khiến trái tim người nghệ sĩ phải thốt lên thành những vần thơ hay mà ít người có thể làm được như vậy.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Ở đây tác giả đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh cảnh vật và con người nơi đây. Giữa khoảng không của đất trời bao la rộng lớn có dáng vẻ nhỏ bé lom khom của mấy chú tiều nhỏ đang hái củi. Nhìn xa thêm một chút bên cạnh sống là cảnh chợ có mấy nag xung quanh. Thể hiện đời sống thưa thớt của con người nơi đây. Đồng thời lúc này cũng là chiều tà nên mọi thứ đang bắt đầu trở lên lạnh lẽo và trống vắng hơn. Từ đó gieo một nỗi buồn man mát vào tâm hồn của người đọc.

“Nhớ nước lòng đau con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Đất trời đang tĩnh lặng thì ở đâu đó đang văng vẳng tiếng con chim quốc, chim gia gia kêu khiến nỗi buồn càng da diết hơn. Tiếng chim kêu vang không làm cho cảnh vật vui lên mà làm cho tâm trạng con người càng bi sầu hơn trước thiên nhiên và cảnh vật nơi núi non nghìn trùng. Đồng thời lúc này con người càng suy nghĩ nhiều hơn đặc biệt là nỗi nhớ nhà và ước mong giúp đất nước. Tác giả cũng thật tinh tế khi đan xen giữa hồn cảnh và hồn người. Cái bao la rộng lớn và sự hưu quạnh của cảnh vật cũng như tâm hồn của con người đang chơi vơi.

“Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Nỗi buồn như được khắc sâu hơn và kết thành một mảnh tình mà chỉ có ta mới hiểu được nỗi buồn đó. Vì thế nỗi buồn không được san sẻ với ai càng làm tăng nỗi buồn và sự cô đơn hơn.

Bài thơ Qua Đèo Ngang là một bài thơ hay của Bà Huyện Thanh Quan dù ra đời rất lâu rồi nhưng vẫn giữ nguyên giá trị trước thời gian. Bài thơ nói về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người nơi đèo ngang thưa thớt và hiểm trở. Đồng thời cũng nói lên tâm trạng buồn tủi cô đơn của tác giả không biết chia sẻ với ai.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 25

Thi phẩm đặc sắc “Qua đèo Ngang” là một trong những tác phẩm đặc sắc và đã làm lên tên tuổi cho bà Huyện Thanh Quan. Thi phẩm có hoàn cảnh sách tác là khi tác giả đang trên đường vào Phú Xuân. Khi đó đứng lặng nhìn cảnh đèo Ngang – một địa danh nức tiếng ở nước ta sở hữu một phong cảnh hữu tình thì bằng giọng thơ như man mác cùng với hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện đã giúp cho sáng tác“Qua đèo Ngang” có hồn hơn, Bài thơ không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, người đọc cũng nhận thấy được nó cũng có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi.

Khi đi tìm hiểu sâu sắc bài thơ “Qua đèo Ngang” đầu tiên là nó được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mở đầu là hai câu đề nói lên được khung cảnh đèo Ngang nơi đây:

Bước đến đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Bà Huyện Thanh Quan cũng thật tài tình biết bao nhiêu, cũng chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, khái quát lên được không gian, thời gian khi viết bài thơ. Không thể phủ nhận được với cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép nào và tưởng như tác giả chỉ thuận chân “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình khi tác giả đứng trước khung cảnh đèo Ngang. Khung cảnh đèo Ngang lúc này đây ở trong buổi chiều hoàng hôn “bóng xế tà”. Thế rồi hình ảnh “bóng xế tà” được tác hỉa lấy ý từ thành ngữ “chiều ta bóng xế” thực sự là một sự sáng tạo, điều này cũng đã gợi tả cho chúng ta một nét gì đó buồn man mác, mênh mang, đồng thời cũng lại có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua.

Khi đứng trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả dường như chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang để đưa vào trong thơ đó là hình ảnh “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Sử dụng thành công biện pháp nhân hóa các cảnh vật cũng đã khiến cho động từ “chen” lúc này đây cũng đã cho thấy được nét sống động trong bức tranh có khung cảnh này. Có thể thấy được hình ảnh cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa dường như cứ đua nhau vươn lên thật đầy sức sống mãnh liệt nhất. Với những hình ảnh nhỏ bé là vậy nhưng nó cũng có được một sức sống mãnh liệt không gì có thể tiêu diệt được.

Tiếp đến là hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, tác giả lúc này đây như đang phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người trong bức tranh thiên nhiên rộng lớn:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Chỉ cần đọc bài thơ thôi là chính với hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Người viết thật tinh tế khi chọn lựa và sử dụng biện pháp đảo ngữ cũng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Hình ảnh những con người ở đây chỉ có tiều vài chú được kết hợp với từ láy “lom khom” dưới núi. Có lẽ rằng chính với các cảnh vật thì cứ thật lác đác chợ mấy nhà. Điều này cũng cho thấy rằng tất cả nhưng cũng quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Không khí ở đây như hiu quạnh.

Người đọc nhận thấy được hai câu luận là nỗi buồn được khắc họa rõ nét qua những âm thanh thê lương:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Thực sự chỉ cần nghe tiếng kêu quốc quốc, gia gia cũng chính là tiếng lòng tác giả. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” được lấy từ điển tích xưa về vua Thục bị mất nước và biến thành con cuốc mà chỉ biết kêu “cuốc, cuốc” sao đến rầu lòng.

Cuối cùng đến hai câu kết, khép lại những cảm xúc cũng như khung cảnh thiên nhiên của bài thơ:

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Lúc này đây thì cảnh vật đèo Ngang thật hùng vĩ khiến tác giả dừng chân không muốn rời. Thực sự rằng chính cái bao la của đất trời, núi non, sông nước như níu chân người thi sĩ. Thế nhưng khi đứng trước không gian bao la hùng vĩ ấy, tác giả lúc này đây cũng lại chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần dâng lên và chỉ “ta với ta”.

 “Qua đèo Ngang” được đánh giá chính là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đên người đọc. Thông qua những vần thơ thì bức tranh thiên nhiên hùng vũ ở đèo Ngang được hiện ra thật đẹp. Ẩn sâu trong đó thì còn thể hiện được nét đượm buồn, tình yêu nước, yêu thiên nhiên của nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan.

Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 26

Trên một trăm năm mươi năm trước, có thể trong dịp vào Huế nhận chức Cung trung giáo tập, chức nữ quan dạy học cho các cung nữ, Bà Huyện Thanh Quan đã sáng tác bài Qua Đèo Ngang, một bài thơ hay, một bức tranh tâm trạng "nhớ nước", "thương nhà" độc đáo.

Bốn câu đầu bài thơ tả cảnh:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà 
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Tác giả đến Đèo Ngang vào lúc chiều tà bóng xế, cảnh đẹp nhưng buồn. Ở đây, cỏ cây hoa lá chen chúc, xô bồ. Lối điệp từ (chen), điệp vần (lá, đá, hoa) gợi nét hỗn độn hoang vu của một vùng núi non hiểm trở. Bà đưa mắt nhìn xuống dưới núi, bên sông. Bóng dáng con người thấp thoáng nhỏ bé, thưa thớt lác đác, lom khom, tiều vài chú, chợ mấy nhà. Cảnh vật ấy đủ để nhà thơ cảm nhận một cách sâu lắng cái buồn vắng quạnh hiu của một chiều tà ở miền sơn cước.

Bốn câu sau bài thơ mượn cảnh tả tình, nói lên tâm sự của tác giả trước cảnh ấy.

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc 
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia 
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

Lúc chiều tà trên đèo vắng, tiếng cuốc kêu khắc khoải, tiếng đa đa vô hồi thắt quặn trong lòng nhà thơ càng gợi thêm nỗi niềm vời vợi nhớ thương. Bà nhớ nhà, nhớ quê, nhớ một thời vàng son nào đó đã qua trong một nỗi niềm cô quạnh buồn thương man mác của tâm hồn.

Khép lại bài thơ là hình ảnh bé nhỏ của nữ sĩ trước mặt là "trời non nước" vô tình như mở rộng ra đến vô tận. Chính vì vậy, bà cảm thấy cô đơn, quanh quẽ, đành quay về với chính mình, đối diện với chính mình “ta với ta” Hai chữ "ta" nhưng vẫn chỉ có “một mảnh tình riêng” nghĩa là vẫn chỉ có một người. Điều này đủ thể hiện nỗi cô đơn cùng cực của nữ sĩ khi ấy.

Về mặt nghệ thuật, Qua Đèo Ngang thuộc thể thất ngôn bát cú Đường luật, một thể thơ vốn kiểu cách, sang trọng. Thế nhưng, với ngòi bút tài hoa điêu luyện của tác giả, bài thơ có ngôn ngữ giản dị, trong sáng này đã trở nên gần gũi, thân thuộc với tất cả mọi người. Bài thơ khiến ta thêm yêu đất nước với bao cảnh đẹp tình sâu và thêm trân trọng những hồn thơ rung động diệu kì trước những bức tranh non sông gấm vóc.

Bài văn cảm nhận của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 27

Xuất hiện vào cuối thế kỉ XVIII, Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nữ sĩ để lại dấu ấn không phai mờ trong nền văn học Việt Nam trung đại. Sáng tác của bà để lại không nhiều nhưng tất cả các tác phẩm đều đạt đến trình độ mẫu mực với vẻ đẹp rất đỗi trang nhã, đài – các và thấm đẫm niềm hoài cổ. “Qua Đèo Ngang” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp ấy của hồn thơ nữ sĩ.

“Qua Đèo Ngang” là tác phẩm ra đời khi nữ sĩ đang trên đường vào kinh đô Huế theo lệnh vua Minh Mạng nhận chức Cung trung giáo tập- chức nữ quan dạy học cho các phi tân, cung nữ và công chúa trong cung. Vậy nghĩa là nhà thơ đã phải để gia đình ở lại Thăng Long để trở thành người lữ khách cô độc khi tâm hồn nữ sĩ chan chứa tình yêu thương dành cho quê hương và gia đình. Sẵn có tâm trạng như vậy nên dường như chỉ cần khẽ chạm vào một cảnh vật gợi buồn là dòng tân trạng nữ sĩ sẽ tuôn tràn, hoá thành những vần thơ lai láng cảm xúc. Tâm trạng nữ sĩ gặp bức tranh thiên nhiên Đèo Ngang đã hoá thành những vần thơ bất hủ. … Mở đầu bài thơ, như trong bất cứ bài Đường luật thất ngôn bát cú nào, hai câu đề gợi mở không gian, thời gian, hoàn cảnh lúc nữ sĩ đặt chân đến Đèo Ngang. Một bức tranh thiên nhiên hiện ra qua cái nhìn của nữ sĩ hết sức nên thơ nhưng vắng lặng, mang vẻ đặc trưng của con đèo nối liền hai miền Nam-Bắc. Bức tranh được miêu tả trong thời khắc lúc xế tà.

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà .

Nhà thơ đặt chân tới Đèo Ngang vào buổi hoàng hôn, lúc ngày sắp tàn. Đó là thời điểm thường gọi tâm trạng buồn. Bởi vì lúc cuối ngày là thời điểm sum họp của mỗi gia đình. Nó khiến những kẻ tha hương lữ . thứ thấm thía hơn bao giờ hết nỗi cô đơn, lẻ loi, thèm khát một mái ấm. Nó cũng là thời khắc con người mệt mỏi sau một hành trình dài, cần tìm nơi ngơi nghỉ. Con người cần biết mấy hơi ấm sự sống con người để khoả lấp nỗi buồn bã cô đơn. Vậy nhưng không gian xung quanh nữ sĩ lại hoàn toàn trái ngược:

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Nhìn ra xung quanh, nữ sĩ chỉ thấy cỏ cây và đá đan xen, chen chúc. Hai từ chen cùng phép láy âm trong hai từ “đá” và “lá” đã đặc tả sự rợn ngợp của thiên nhiên. Một thiên nhiên tràn trề sức sống như tuôn ra choán ngợp không gian. Trước mắt nhà thơ chỉ là vẻ hoang sơ của núi rừng. Nữ sĩ bèn phóng tầm mắt ra xung quanh kiếm tìm bóng dáng con người. Bức tranh Đèo Ngang mênh mông rộng lớn đều thu vào tầm mắt:

Lom khom dưới núi tiều tài chú

Lác đác bên sông chỉ mấy nhà

Bức tranh thiên nhiên có con người nhưng những hình ảnh ấy hiện lên vô cùng mờ nhạt, thưa thớt. Đó là những chú tiều người đi lấy củi lẫn cùng cây cối. Là những mái nhà lác đác bên sông. Hai từ láy “lon khon” “lác đác” đặc tả sự bé nhỏ thưa thớt đã được đảo lên đầu câu thơ trong phép đảo ngữ nhấn mạnh thêm ấn tượng đặc điểm của sự vật, khiến hình ảnh con người đã ít ỏi lại càng thêm vắng vẻ, những mái nhà đã ít lại càng thêm thưa thớt. Biện pháp đối cân chỉnh góp phần tạo nên sự toàn vẹn của sự hoang vắng. Bức tranh có núi có sông, sơn thuỷ hữu tình là vậy mà dường như chỉ có thiên nhiên ngự trị. Tác giả mi hình ảnh con người nhưng lại để khắc hoạ rõ nét hơn sự mênh mông rợn ngợp ấy. Bóng dáng con người lọt thỏm vào giữa thiên nhiên rộng lớn, trở nên vô nghĩa, có mà như không.

Ngắm nhìn quang cảnh đã thấy thấm buồn, nữ sĩ lại càng buồn hơn khi nghe âm thanh rừng chiều. Tiếng chim quốc và chim đa đa mỗi khi trời chập tối lại cất lên tiếng kêu da diết khắc khoải:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc .

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Tiếng kêu của loài chim quốc gợi nhớ về câu chuyện Thục Đế mất nước biến thành loài chim ra rả kêu gọi hồn nước đến rũ xương. Nó xoáy sâu vào tâm hồn nhà thơ, khơi gợi những tâm sự u hoài. Tác giả đã thật tài tình khi sử dụng hai từ tượng thanh “quốc quốc”, “gia gia” để miêu tả âm thanh tiếng chim kêu. Vừa miêu tả cảnh thật nhưng đồng thời cũng để nói nỗi lòng đang ăm ắp. Đó là nỗi nhớ nước thương nhà lúc nào cũng thường trực trong tâm hồn nhà thơ trên dặm đường lữ thứ. Bước chân vào kinh đô Huế, Bà Huyện Thanh Quan bỏ lại Thăng Long cả gia đình thân thuộc, cả quê hương yêu dấu. Và điều quan trọng hơ: nữa là bà đi làm việc cho một triều đại mới trong khi vương triều mà nữ sĩ hằng tôn thờ và nặng lòng là triều Lê đã sụp đổ, đã tan thành mây khói từ rất lâu. Trong tâm hồn nữ sĩ, chữ “quốc” chính là triều Lê vàng son thủa trước. Nhớ nước thực chất chính là niềm hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan về một triều đại đã trở thành quá vãng mà lòng bà chưa dứt được để chấp nhận một vương triều mới. Hai câu thơ đối nhau chỉnh tề diễn tả tâm trạng nữ sĩ canh cánh hai nỗi niềm ưu tư: nhớ nước và thương nhà cân bằng nhau, nỗi niềm nào cũng da diết sâu nặng. Tâm sự không hoàn toàn nấp vào trong cảnh mà được bộc lộ rõ ràng, trực tiếp qua những từ như “đau lòng”, “mỏi miệng”, cho thấy những tình cảm ấy của nhà thơ đã tuôn tràn không thể ngăn giữ được. Bức tranh Đèo Ngang bởi thế thấm đẫm nỗi buồn

Dừng chân đứng lại trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Hai câu thơ cuối bài dựng lên ấn tượng về sự đối sánh giữa nhân vật trữ tình và thiên nhiên vũ trụ. Câu thơ không chỉ cho người đọc thấy hướng nhìn của nữ sĩ lúc đặt chân đến Đèo Ngang (trông lên chỉ thấy trời, trông ngang thấy núi, trông xuống thấy nước, một khung cảnh hoàn toàn chỉ có thiên nhiên, chẳng thấy bóng con người) mà còn biểu lộ một tư thế của nhà thơ. Dường như nữ sĩ đã đặt mình đối diện ngang tầm với thiên nhiên rộng lớn để cảm nhận sâu sắc hơn sự cô đơn của mình. Chỉ có mình với thiên nhiên vĩ đại. Nỗi cô đơn ấy đã biến nhân vật trữ tình thành một hình tượng lớn lao. Con người đã mang nỗi cô đơn to lớn của mình và đối diện cùng vũ trụ và cảm thấy mình ngang tầm vũ trụ. Trong hoàn cảnh ấy, nỗi niềm tâm sự của nữ sĩ không biết san sẻ cùng ai. Cụm từ “ta với ta” kết thúc bài thơ không hề giống cụm từ “ta với ta” được Nguyễn Khuyến sử dụng trong “Bạn đến chơi nhà”. Ở Nguyễn Khuyến, “ta với ta” là ta với bạn, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Tình cảm gắn bó sâu nặng thấu hiểu nhau, tri âm tri kỉ với nhau nên có gì cũng san sẻ được. Ở bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan thì “ta với ta” là mình với chính mình, không có ai chia sẻ. Mọi nỗi niềm chỉ một mình mình biết một mình mình hay. Câu thơ khép lại bài thơ bằng nỗi cô đơn mênh mông của nhân vật trữ tình. Nỗi cô đơn toả chiếu vào vũ trụ. ” “Qua Đèo Ngang” là bài thơ vịnh cảnh những bức tranh phong cảnh Đèo Ngang dù hiện lên với những nét đặc trưng nên thơ và vắng vẻ nhưng đằng sau cảnh là ăm ắp tình. Nỗi buồn, tâm sự u hoài, nỗi niềm hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan đã tỏa chiếu vào cảnh vật khiến cảnh đẹp mà thấm buồn. Một nỗi buồn sang trọng và trang nhã như hồn thơ của nữ sĩ. “Qua Đèo Ngang” xứng đáng là một trong những kiệt tác của nền văn học Việt Nam trung đại.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 28

Nói đến  văn học trung đại của Việt Nam chúng ta không thể không nhắc đến tên tuổi của hai nữ thi sĩ tiêu biểu cho giai đoạn văn học này đó chính là Hồ xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Cùng nổi danh trong thời kỳ văn học trung đại nhưng mỗi thi sĩ lại mang một hồn thơ khác nhau. Nói  đến Hồ Xuân Hương chúng ta sẽ nghĩ ngay tới bài thơ “bánh trôi nước” hồn thơ của Hồ Xuân Hương mang đầy vẻ gai góc, sắc bén và có hàm ý vô cùng thâm sâu và mạnh mẽ như chính con người bà vậy. Nhắc tới Bà huyện Thanh Quan thì chắc hẳn người đọc không tể quên được bài thơ “Qua Đèo Ngang” đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của bà, bài thơ là nỗi lòng trầm tư sâu sắc và đầy sâu lắng của tác giả.

Bài thơ Qua Đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Bài thơ ra đời trong khi bà vào Phú Xuân và đi qua Đèo Ngang. Trước vẻ đẹp của đất trời, non nước và con người bà đã sáng tác nên bài thơ này.Bài thơ mang ý vị sâu lắng, nỗi buồn , nỗi cô đơn của người thi sĩ dường như đã nhuốm màu lên cảnh vật. Tác giả đã mở đầu bài thơ với hai câu đề:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa

Lối mở đầu bài thơ của tác giả hết sức tự nhiên, chỉ với hai câu thơ vô cùng ngắn gọn tác giả đã khái quát được toàn bộ thời gian không gian cảnh vật. Đây là một bức tranh chiều hoàng hôn với hình ảnh “bóng xế tà” hình ảnh ấy gợi lên cho con người ta nỗi buồn mang mang mác vì một ngày sắp khép lại. Trong câu thơ dường như đang ẩn chứa nỗi niềm u buồn, tiếc nuối của nữ thi sĩ. Trước không gian rộng lớn của Đèo ngang và trước thời gian “bóng xế tà” nhen nhóm lên hình ảnh của cỏ cây, hoa lá. Đó là những điều đẹp đẽ, tươi mới của cuộc sống. Trong câu thơ “cỏ cây chen lá, đá chen hoa” tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa, cỏ cây hoa lá cũng biết chen chúc nhau, đua nhau trỗi dạy, thể hiện sức sống mãnh liệt của những thứ thật nhỏ bé và đơn giản.

Tác giả đã phóng tầm mắt của mình ra xa hơn, nhìn bao quát cảnh vật, cảnh vật trong quan sát của tác giả được thể hiện trong hai câu đề:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Trong bức tranh đã  xuất hiện hình nhr của con người nhưng nó lại “lác đác”  “tiều vài chú “con người thư thớt làm cho bức tranh cũng chở nên đìu hiu vắng vẻ, càng khiến con người trở nên nhở bé và hiu quạnh trước cảnh tượng hùng vĩ của thiên nhiên. Trong hai câu thơ này tác giả đã triệt để sử dụng biện pháp đảo ngữ nhấn mạnh dáng vẻ “lom khom”của chú tiều, sự “lác đác “của những mái nhà bên sông.  Chính biện pháp đảo ngữ khiến chúng ta thấy được nét quạnh hiu, vắng vẻ của bức tranh chiều tà.
Đến hai câu luận người đọc sẽ hiểu rõ hơn lí do vì sao mà bức tranh thiên nhiên dưới ngòi bút của tác giả lại u buồn đến vậy, câu thơ ẩn chứa nỗi buồn thê lương của người nữ sĩ:

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Câu thơ không chỉ đơn thuần là tiếng kêu tha thiết của con cuốc mà còn là chính nỗi lòng của tác giả, đó là nỗi nhớ thương quê nhà. Câu thơ đã sử dụng thành công điển tích xưa nói về thời vua Thục mất nước, ông đã hóa thành con chim cuốc và vì nhớ nước mà luôn kêu “cuốc cuốc”. Tiếng chim cuốc cuốc trong bóng chiều tĩnh lặng càng tô đậm nỗi buồn của tác giả. Tiếng kêu “gia gia” ẩn chứa trong đó là nỗi “thương nhà” . Qua nghệ thuật chơi chữ kết hợp với việc sử dụng sắc sảo thủ thuật nhân hóa người đọc đã hiểu được nỗi lòng sâu thẳm của tác giả, hiểu cảm nhận của bà về thực tại xã hội lúc bấy giờ.

Kết thúc bài thơ là hình ảnh:
Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

Cảnh Đèo Ngang thật đẹp và hùng vĩ đó là núi non, mây trời. Cảnh đẹp ấy như muốn níu chân người thi sĩ. Cảnh thì đẹp như vậy nhưng lòng người lại chứa đựng nỗi buồn mang mác, chính sự hùng vĩ của núi đồi khiến người thi sĩ nhận ra đó là “Một mảnh tình riêng ta với ta” lòng tác giả có biết bao u buồn sầu lắng nhưng biết chia sẻ cùng ai bây giờ. Kết thúc bài thơ là tiếng thở dài, để lại trong lòng người đọc những day dứt không nguôi.

Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan đã thể hiện rõ tâm tư của tác đó là nỗi buồn, nỗi nhớ thương và cả lòng yêu nước tha thiết của tác giả. Bài thơ đã khép lại nhưng hồn thơ của bà sẽ còn mãi, nó đã in đậm trong lòng người đọc.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 29


Trong lịch sử văn học Việt Nam, Bà Huyện Thanh Quan (Nguyễn Thị Hinh) thuộc vào số các tác giả để lại tác phẩm không nhiều, nhưng gây được mối cảm tình nồng thắm nơi bạn đọc. Những ai đọc thơ bà đều cảm thấy một điệu thơ êm ái, ngọt ngào, một nỗi buồn cô đơn, lặng lẽ ám ảnh trong tâm hồn. Bài Qua Đèo Ngang này cũng vậy.

Về mặt thanh luật, bài thơ làm đúng theo luật thơ Đường thất ngôn bát cú thể trắc. Cả bài chỉ có ba chữ “cỏ”, “chen”, “ta” là không theo sát luật chuẩn, nhưng được luật “nhất tam, ngũ bất luận” cho phép. Điều đáng chú ý là mấy chữ không theo sát đó lại nằm trong dụng ý của tác giả là tăng thêm thanh bằng cho bài thơ được thêm êm ái, và tạo nên sự lặp từ tự nhiên: “chen đá, lá chen hoa” và “ta với ta”.

Xét về mặt tả cảnh, bài thơ cực tả cảnh chiều tà hoang vắng, cô độc để thể hiện một niềm cô trung, nhớ tiếc kín đáo của nhà thơ.

Bài thơ mở đầu bằng cảnh “bóng xế tà” nơi đèo cao heo hút. Bóng xế tà – sự kết hợp vừa Nôm vừa Hán – như kéo dài cái bóng chiều ra cho tình cảm thêm ngao ngán, bâng khuâng. Cảnh chiều tà trong thơ cổ thường gợi nhớ về một triều đại cũ, non nước cũ.

Cảnh “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”, tuy có cỏ cây hoa lá, nhưng hẳn không phải cảnh đẹp bởi vì sự “chen đá”, “chen hoa”, gợi vẻ um tùm, hoang dại, vô trật tự chen lấn, lại không sắc hương, đường nét.

Hình ảnh mấy chú tiều phu “lom khom” mải mốt hái củi dưới núi, như chẳng quan tâm gì đến thế sự, còn “lác đác” mấy túp lều chợ (có sách chép là rợ – đồng bào thiểu số; có lẽ đây là mấy túp lều tạm che mưa, nắng của kẻ tiều phu, không phải lều chợ), gây nên cảm giác vừa hoang vắng, vừa xa lạ. Đây đúng là nơi sơn cùng thuỷ tận của xứ Đàng Ngoài thời vua Lê, chúa Trịnh. Từ đây trở vào đã là xứ khác.

Chính lúc ấy vẳng lên tiếng con chim cuốc kêu buồn nghe như vua Thục Đế xưa khóc nước cũ:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng , cái gia gia

Ở đây đúng ra phải viết là “con cuốc cuốc”, con chim cuốc kêu “cuốc cuốc” Nhưng người nghe lại nghe là “quốc quốc” nên chép là “quốc”, như đang khóc nước, một trường hợp “tá âm” – mượn âm trong văn chương khá phổ biến. Trần Danh Án, một di thần nhà Lê có câu: “Gia cô kêu gia gia – Đỗ quyên kêu quốc quốc” (lời dịch).

Chim đa đa (gia cô) được đọc chệch thành “gia gia” cho đối với “quốc quốc” và hợp cảnh nhớ nhà; và tiếng kêu “mỏi miệng” mà vô ích mới đáng thương làm sao. Đây là tiếng chim kêu khi chiều xuống hay tiếng lòng thương nhớ réo gào trong tâm hồn Bà Huyện? Thật khó mà phân biệt, khi con người đang đứng trên đường phân chia xưa kia của hai xứ.

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước 

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Một phút dừng chân lại nhìn trời, nhìn non, nhìn nước, như một động tác chào từ biệt, một cử chỉ phơi trải tấm lòng. Còn bảy chữ trong câu kết là một lời cảm thán, chữ nào cũng mang nặng một niềm đơn chiếc mà không có ai chia sẻ. “Một mảnh tình” không giống với một tấm tình, bởi nó thiếu nguyên vẹn, như bị cắt xén ra, và cũng có ý tự khiêm nữa. Lại là “tình riêng”, tình cá nhân của tác giả, tình nhớ triều xưa, hẳn không giống với tình số đông đương thời. “Ta với ta” nghĩa là chỉ ta mới hiểu ta; mà như vậy càng tăng thêm cảm giác về sự cô độc.

Bầu trời, ngọn núi, bờ biển càng gợi ra một không gian bao la, cao rộng bao nhiêu, lại càng tương phản với mảnh tình bé nhỏ, đơn chiếc bấy nhiêu. Hai câu thơ mà rất nhiều ý. Nhưng cái buồn thầm lặng mà vẫn cứng cỏi. Phải chăng đây là nét đặc trưng của nỗi buồn xưa, nỗi buồn trước cảnh non sông biến đổi, triều đại hưng phế, nhưng tình riêng vẫn còn “bất biến” với chính mình?

Qua Đèo Ngang đâu phải giản đơn là vượt qua một con đèo, một địa danh, địa giới. Qua Đèo Ngang còn là vượt qua một triều đại, vượt lên chính mình. Cái tên Đèo Ngang đối với Bà Huyện có thể có chút ý vị ngang trái nào đó.

Đạo đức phong kiến không chấp nhận một thần dân có thể thờ hai vua, hai triều đại nhưng triều đại mới vẫn cần sự cộng tác của các thần dân triều đại cũ. Bà Huyện sinh vào thời Nguyễn, chồng bà cũng làm quan thời Nguyễn. Nhưng vốn người gốc Thăng Long Bắc Hà thì lòng lưu luyến triều xưa còn nặng. Qua Đèo Ngang thời ấy có nghĩa là rời bỏ đất cũ, vào theo chúa mới. Điều làm cho bà không hổ thẹn là bà vẫn không thôi thương tiếc cựu triều.

Bài thơ thật êm ái, tha thiết. Cảnh sắc Đèo Ngang được miêu tả bằng những đường nét tiêu biểu của cảnh thực, lại vừa tiêu biểu cho nỗi lòng. Thơ bà Thanh Quan hay về âm điệu réo rắt, tha thiết, lại có vẻ đẹp trau chuốt sắp đặt, cao quý trang nhã, mang đậm hồn cổ điển.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang hay nhất - Bài văn mẫu số 31

Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam. Những tác phẩm của bà thường là những tâm sự, là nỗi buồn sâu kín trước thời thế của đất nước. “Qua đèo Ngang” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ điềm tĩnh, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan.

   Bài thơ được sáng tác theo thể thơ thất ngôn bát cú. Chỉ vỏn vẹn 8 câu thơ nhưng đã diễn tả được hết cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời đất bao la.

   Hai câu thơ đề gợi lên một khung cảnh hoang sơ, quạnh vắng, âm u nơi đèo Ngang:

                        “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

                         Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Có thể thấy, không gian thật mênh mông và rộng lớn. Thời gian ở đây là lúc khi hoàng hôn buông xuống, ánh mặt trời chuẩn bị tắt “bóng xế tà”. Đây cũng là lúc tâm trạng con người dễ buồn, dễ sầu. Con người cảm thấy cô đơn lạc lõng giữa không gian quá bao la. Cảnh vật thiên nhiên âm u, quạnh vắng đến nao lòng, chỉ có cây và hoa. Từ “chen” được lặp lại hai lần càng gợi lên sự hiu quạnh nơi núi rừng. Hoa lá quấn quýt với nhau như để xua bớt đi sự cô đơn, quạnh vắng của khung cảnh thiên nhiên.

Cảnh vật đã âm u, đời sống của con người lại càng thưa thớt. Hai câu thực đã cho thấy điều đó:

                        “Lom khom dưới núi tiều vài chú

                          Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Nghệ thuật đối được tác giả sử dụng thành công: lom khom- lác đác ; tiều vài chú-chợ mấy nhà gợi lên sự thưa thớt, vắng vẻ. Có sự hiện diện của con người nhưng chỉ là ít ỏi “vài”, “mấy”. Hai câu thơ có sự đảo trật tự cú pháp một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo Ngang.  Từ láy “lom khom”, “lác đác” vừa chỉ hành động vừa chỉ số lượng. Sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh chờn vờn trước mắt tưởng gần nhưng lại thật xa xôi. Muốn có người bầu bạn cũng trở nên khó khăn.

   Giữa không gian mênh mông, quạnh vắng, con người mang một nỗi buồn man mác. Và rồi tiếng chim cuốc, chim đa đa vang lên càng làm cho con người buồn hơn:

                     “ Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

                       Thương nhà mỏi miệng cái da da”

Tiếng chim cuốc và chim đa đa đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng não nề vô cùng, thấm đến tận tâm can. Người lữ khách nghe văng vẳng tiếng chim kêu mà lòng quạnh hiu, tê tái. Tác giả thành công khi sử dụng biện pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Trên cái nền tĩnh lặng giữa đất trời bao la, tiếng chim kêu thực sự não nề và thê lương. Nghe tiếng chim cuốc, chim đa đa mà “nhớ nước”, “thương nhà”. Nỗi lòng của người lữ khách nặng trĩu, trùng trùng điệp điệp không dứt.

Đến hai câu thơ kết, cảm xúc và nỗi niềm của tác giả được đẩy lên đến đỉnh điểm:

                       “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,

                        Một mảnh tình riêng ta với ta”

Con người trở nên quá nhỏ bé trước không gian mênh mông của đất trời. Tác giả cảm thấy mình quá lạc lõng, không có điểm tựa để bấu víu, chỉ có “một mảnh tình riêng”. Ba chữ “ta với ta” cho thấy nỗi cô đơn tuyệt đối của người lữ khách. Nỗi buồn trở nên vô hạn, buồn thấu tâm can, buồn nghiêng ngả đất trời.

   Với giọng điệu da diết kết hợp thủ pháp nghệ thuật đối, đảo lộn trật tự câu, hình ảnh, âm thanh  giàu sức gợi, tác giả đa mang đến cho người đọc những vần thơ khó quên. Bài thơ gợi khung cảnh đèo Ngang hoang sơ, quạnh vắng. Đó cũng là nỗi buồn, nỗi cô đơn của người lữ khách tha phương trước không gian mênh mông, rộng lớn.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang - Bài văn mẫu số 32


Bài thơ “Qua Đèo Ngang ” là một trong những bài thơ xuất sắc nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được ra đời khi bà đang trên đường đi vào Phú Xuân – Huế, dừng chân tại Đèo Ngang là nơi phong cảnh hữu tình, tại đây nhà thơ đã không chỉ thể hiện về vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn, tiếc nuối của mình trước thời kì phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi.

“Bước đến Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa.”

Câu thơ đã nhắc tới toàn bộ hoàn cảnh, không gian và thời gian tại Đèo Ngang, nhân vật trữ tình khi đặt chân đến đây đã tức cảnh sinh tình trước khung cảnh Đèo Ngang khi buổi chiều tà. Khung cảnh ấy gợi lên một nỗi buồn man ma, mênh mang và xa xăm, tiếc nuối về một ngày sắp hết. Việc nhân hóa các loài cây cỏ với động từ “chen” đã tạo nên nét vẽ sống động cho bức tranh thiên nhiên đầy sức sống, hơn thế còn là sức sống mãnh liệt. Tiếp theo ở hay câu thơ thực, tác giả đang ở tư thế đứng trên đèo cao mà phóng tầm mắt nhìn về xung quanh, ra xa để tìm kiếm bóng dáng con người:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Sự xuất hiện của con người lại càng làm tăng thêm vẻ hiu hắt mênh mang của cảnh vật. Biện pháp đảo ngữ kết hợp với những từ láy đã góp phần diễn tả không khí vắng vẻ của cuộc sống nơi đây, vẻ hiu quạnh bao trùm lên toàn bộ cảnh vật. “tiều vài chú” đang “lom khom” dưới núi, đó là hình ảnh của con người lao động vất vả, thưa thớt. “Lác đác” bên sông “chợ mấy nhà” ấy là chỉ sự nghèo đói và kém phát triển của vùng đất này. Hai câu luận đã khắc họa rõ nét nỗi buồn của tác giả qua những âm thanh thê lương, não lòng:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Tiếng con cuốc kêu khắc khoải làm cho bóng chiều càng thêm tĩnh lặng, tiếng “gia gia” là lời thiết tha gợi nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm kết hợp với nhân hóa chuyển đổi cảm giác đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan. Hai câu thơ kết đã khép lại những cảm xúc của tác giả cũng như cô đọng lại vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên:

“Dừng chân đứng lại: Trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Nơi cảnh vật ấy đã khiến tác giả dừng chân không muốn rời đi, cái bao la mênh mông của đất trời như níu chân người thi sĩ. Đứng trước không gian hùng vĩ ấy tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình đang ngày một dâng lên. “Một mảnh tình riêng” chính là một nỗi niềm sâu kín, tâm sự đau ấu trong lòng nhà thơ, không biết phải san sẻ cùng ai, âm hưởng bài thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm buồn mà còn mang nặng những nỗi niềm nuối tiếc của một tấm lòng yêu nước thương dân như Bà Huyện Thanh Quan.