Phân tích giá trị nghệ thuật trong tác phẩm “Chí Phèo” hay nhất (4 mẫu)

Phân tích giá trị nghệ thuật trong tác phẩm “Chí Phèo” 1

Nam Cao là một nhà văn luôn thành công ở hai phương diện của sáng tác đó là khám phá về nội dung và phát minh sáng tạo về hình thức. Chính điều đó đã nâng tầm vóc nhà văn Nam Cao thành một nhà văn lớn, một tác gia lớn của nền văn xuôi hiện đại. Truyện ngắn Chí Phèo (1941) đã được xếp vào hàng kiệt tác bởi Nam Cao đã “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” cả về nội dung và nghệ thuật. Ở tác phẩm này nhà văn Nam Cao đã thể hiện được một trình độ bậc thầy về nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, khám phá miêu tả sâu sắc tâm lí nhân vật, kết cấu tác phẩm một cách độc đáo và có một vốn ngôn ngữ phong phú sinh động cho mọi loại hinh nhân vật. Theo dõi từng trang truyện ngắn đặc sắc này chúng ta sẽ thấy rât rõ tài nghệ đó của Nam Cao.

Nói đến văn xuôi là nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, mỗi nhà văn có một cách thể hiện khác nhau và thành công ở những mức độ khác nhau. Đối với nhà văn Nam Cao ở tác phẩm này thì ông đã xây dựng được thành công cả tuyến nhân vật chính diện và phản diện và không những thành công mà thành công ở cấp điển hình.

Về các nhân vật phản diện nhà văn tập trung vào ba nhân vật đó là Bá Kiến, Lí Cường và Đội Tảo. Trong đó tác giả tập trung khắc hoạ bản chất của nhân vật Bá Kiến, Bá Kiến thức sự là một con hổ biết cười. Đối với một con mồi như Chí Phèo khi thì Bá Kiến nhỏ nhẹ để làm mềm nhũn Chí Phèo, có khi thì Bá Kiến doạ nạt bằng những lời lẽ có gang có thép. Ngoài cái thủ đoạn đó thì Bá Kiến được tác giả liệt kê ra nhiều thủ đoạn thâm độc xảo quyệt. Với những nét khắc hoạ đó nhà văn đã dựng lên được một Bá Kiến rất sớng động, rất điển hình cho bọn cường hào ác bá ở nông thôn trước cách mạng tháng tám.

Về nhân vật chính diện nhà văn tập trung vào hai nhân vật và mối quan hệ của hai nhân vật đó là Chí Phèo và Thị Nở. Hai nhân vật này có số phận khác nhau nhưng lại làm sáng tỏ cho nhau. Trong đó Thị Nở thực chất là nhân vật để làm nổi bật con người Chí Phèo, bi kịch Chí Phèo. Chí Phèo hiện hình dưới ngòi bút của Nam Cao có số phận rất duyên từ xuát than đến đời sống, nhưng Chí Phèo là nhân vật điển hình vì bên cạnh Chí Phèo còn có Năm Thọ, Binh Chức là những hình đồng dạng với Chí Phèo. Có thể khẳng định thành công nhất về mặt nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo là xây dựng được hai điển hình văn học, trong đó điển hình nổi bật nhất là nhân vật Chí Phèo.

Nói đến văn xuôi là nói đến nhân vật, nói đến nhân vật là nói đến tâm lí tính cách nhân vật, nói đến tác phẩm Chí Phèo là người ta nghĩ ngay đến cái tinh tế của nhà văn trong việc phát hiện ra được những nét tâm lí rất thật rất đúng của những con người tưởng là không có những nét tâm lí đó. Mỗi nhân vật sở dĩ thành công bởi những nét tâm lí tính cách khác nhau. Tâm lí của Bá Kiến là biết tâm lí của người đời, biết mềm nắn rắn buông, tâm lí của vợ Bá Kiến là hiếu kì lẳng lơ, tâm lí của người nông dân là sợ tai hoạ.

Khả năng miêu tả tâm lí sâu sắc nhất của Nam Cao trong tác phẩm này là đã khám phá được diễn tả được tâm lí của nhân vật chính đó là Chí Phèo và Thị Nở. Người đọc rất tâm đắc với nhà văn rất cảm phục nhà văn khi Nam Cao phát hiện được tâm lí của Chí Phèo khi gặp Thị Nở. Khi Chí Phèo nhận được bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo từ ngạc nhiên rồi sau đó là mắt ươn ướt cảm động và tiếp đến là có cái gì đó như là ăn năn muốn làm hoà với mọi người rồi làm nũng với Thị như với mẹ đó là những nét tâm lí rất thật của những con người muốn được tái sinh. Cái sâu sắc của Nam Cao chính là chỗ đó.

Một biểu hiện nghệ thuật độc đáo của tác phẩm đó là cách tổ chức kết cấu tác phẩm. Đó là một cách kết cấu vừa linh hoạt vừa độc đáo vừa đa dạng. Cái độc đáo đầu tiên của kết cấu tác phẩm là tác giả đã đảo ngược thời gian đi từ hiện tại rồi đến quá khứ rồi đến hiện tại. Một biểu hiện của kết cấu không mới nhưng lại rất hợp lí ở tác phẩm này đó là kết cấu theo lối khép kín. Nhà văn mở đầu tác phẩm bằng một lò gạch cũ nơi Chí Phèo ra đời rồi kết thúc tác phẩm cũng mọt lò gạch cũ với một sự liên tưởng một Chí Phèo con sắp ra đời. Cái vòng luẩn quẩn của cuộc đời Chí Phèo vẫn cứ tiếp diễn đó là vòng luân hồi nhưng lại bế tắc. Ýnghĩa của tác phẩm toát ra rất sâu sắc từ kết cấu này.

Ngoài hai kiểu kết cấu trên nhà văn đã tổ chức được một sự đa dạng của hành văn khi thì độc thoại khi thì đối thoại, khi thì kể, khi thì tả, khi thì tường thuật.


Một phương diện nghệ thuật mà nhà văn rất thành công ở truyện ngắn Chí Phèo, đó là cách sử dụng ngôn ngữ rất phù hợp với từng đối tượng nhân vật. Ngôn ngữ của bọn Bá Kiến, Lí Cường là ngôn ngữ của bọn bề trên khi mềm mỏng khi đanh rắn rất biến hoá. Ngôn ngữ của các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở thì rất quê mùa có khi là tục tằng thô lỗ đó là loại ngôn ngữ phù hợp với tính cách nhân vật. Nhìn chung tác phẩm viết về đề tài người nông dân nên ngôn ngữ mà tác giả sử dụng trong tacs phẩm là loại ngôn ngữ bình dân chân quê, rất phù hợp với cảnh và tình của tác phẩm.

Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những truyên ngắn xuất sắc tiêu biểu của văn học hiện thực trước cách mạng tháng tám nói chung của nhà văn Nam Cao nói riêng. Tác phẩm này thành công trên nhiều phương diện cả nội dung và hình thức, nhưng đặc biệt nhất vẫn là nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm. Cùng một vấn đề rất phổ biến của xã hội lúc bấy giờ nhưng với tài nghệ của mình Nam Cao dẫ điển hình hoá được cả hai loại nhân vật chính diện và phản diện. Đọc tác phẩm này chúng ta vừa cảm phục được cái tâm của tác giả lại vừa cảm phục cái tài của tác giả. Cái tâm và cái tài đó là tiền đề để nhà văn thành công ở tác phẩm này.

Phân tích giá trị nghệ thuật trong tác phẩm “Chí Phèo” 2

Thành công của truyện ngắn Chí Phèo không chỉ ở hình tượng nhân vật Chí Phèo mà còn ở bút pháp viết truyện ngắn có một không hai của nhà văn Nam Cao.

1. Bút pháp điển hình hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật.

Nam Cao có biệt tài trong việc miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật. Tác giả có khả năng trong việc miêu tả tâm lý phức tạp của nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên trước mắt người đọc rất sống động, có cá tính độc đáo. Nam cao đã sử dụng nhiều thủ pháp, nhiều phương tiện để miêu tả tâmlý nhân vật, tạo nên một chủ nghĩa tâm lý trong sáng tác của ông. Nam Cao thường sử dụng thiên nhiên làm phương tiện để thể hiện trạng thái tâm lý của nhân vật.

Khung cảnh thiên nhiên được cảm nhận qua đôi mắt của Chí Phèo sau khi thức tỉnh: “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá…” là những âm thanh quen thuộc của cuộc sống mà bấy lâu nay Chí Phèo không nhận thấy, giờ trở thành tiếng gọi tha thiết kéo Chí Phèo trở lại với cuộc sống lương thiện, đánh thức khát khao lương thiện trong tâm hồn Chí

Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình nghệ thuật bất hủ. Họ vừa tiêu biểu cho một loại người có bề dày xã hội, vừa là những con người rất cụ thể, có sức sống nội tại mạnh mẽ.

Khác với những nhân vật của một số nhà văn đương thời có chức năng chủ yếu là khái quát tính cách nhân vật. “Chí Phèo” của Nam Cao đã khái quát một hiện tượng phổ biến đã trở thành quy luật trong xã hội lúc bấy giờ; hiện tượng những người nông dân nghèo lương thiện do bị áp bức bóc lột đè nén nặng nề bị đẩy vào con đường tha hoá lưu manh.

Khi xây dựng nhân vật, Nam Cao tạo ấn tượng bằng hai cách: hoặc là miêu tả chi tiết, đặc tả diện mạo bên ngoài, hoặc là chỉ thoáng qua, không vẽ chi tiết cụ thể về diện mạo của nhân vật. Ở những sáng tác viết về người nông dân Nam Cao thường tạo nên những nhân vật dị dạng và tập trung miêu tả chi tiết hình dáng bên ngoài của những nhân vật này. Đó là bộ mặt “nặng chình chĩnh như người phù, da như da con tằm bủng, lại lấm tấm đầy những tàn nhang. Cái trán ngắn ngủn, ngắn ngủn lại gồ lên. Đôi mắt thì híp lại như mắt lợn sề” của Lang Rận. Đó là bộ mặt “vằn dọc vằn ngang không thứ tự biết bao nhiêu là sẹo” của Chí Phèo hay bộ mặt xấu đến mức ma chê qỷ hờn của Thị Nở.

Đặc tả những bộ mặt dị dạng, ghê tởm của nhân vật là cách thức để Nam Cao làm rõ hơn tính cách bên trong của nhân vật. Ẩn sâu dưới cái vẻ bề ngoài ghê tởm, đáng sợ ấy là những con người hết sức đáng thương. Do hoàn cảnh xô đẩy mà Chí Phèo từ một người nông dân hiền lành, lương thiện bị biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một kẻ đâm thuê chém mướn, gây ra không biết bao nhiêu tội ác, nhưng rồi Nam Cao vẫn phát hiện ra đốm sáng lương tri còn sót lại trong con người bị tước đoạt cả nhân hình và nhân tính ấy. Chí Phèo thức tỉnh và khát khao trở lại làm người lương thiện.

Thị Nở là người đàn bà xấu đến mức ma chê quỷ hờn, nhà lại có dòng giống mả hủi, Thị lại dở hơi nên cả làng Vũ Đại đều xa lánh Thị: “người ta tránh Thị như tránh một con vật nào rất tởm”. Một người phụ nữ như thế mà Chí Phèo muốn chung sống làm lại cuộc đời cũng không được xã hội thừa nhận. Khi miêu tả Thị Nở Nam Cao đã sử dung bút pháp cường điệu để tô đậm cái xấu của Thị Nở, Thị Nở càng xấu thì bi kịch của Chí Phèo càng lớn. Khi xây dựng nhân vật người trí thức Nam Cao ít khi miêu tả ngoại hình. Ông chỉ chú ý đến những nét ngoại hình thể hiện tâm lý, tính cách nhân vật mà ông tập trung đi sâu vào đặc tả diện mạo tinh thần nhân vật qua những giằng xé, những cuộc vật lộn căng thẳng về tinh thần bên trong của nhân vật. Tâm lý nhân vật trở thành đối tượng chính của ngòi bút Nam Cao.

Tài năng miêu tả tâm lý của Nam Cao thể hiện ở chỗ ông có khả năng nắm bắt những biến thái tinh vi, những rung động tinh tế trong tâm hồn con người. Ông là một nhà văn có biệt tài khi miêu tả những trạng thái tâm lý phức tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác, hiền với dữ, giữa con người với con vật. Với tài năng bậc thầy Nam Cao đã diễn tả cụ thể, sâu sắc diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp thị Nở. Thị Nở với bát cháo hành tình nghĩa đã làm sống dậy bản chất lương thiện trong con người Chí. Sau bao nhiêu năm ngập sâu trong vũng bùn tội lỗi, giờ đây Chí Phèo lại khát khao trở về với cuộc sống lương thiện.

Tuy nhiên nhân vật của Nam Cao còn thể hiện như một nhân vật có cá tính hết sức độc đáo, không lặp lại, vừa đa dạng vừa thống nhất. Chí Phèo vừa là kẻ bán rẻ cả nhân tính, nhân hình để tồn tại, vừa là kẻ dám thủ tiêu sự sống của mình khi nhân phẩm đã trở về. Chí Phèo vừa là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một thằng triền miên chìm trong cơn say đến mất cả lý trí, vừa là kẻ khao khát lương thiện, muốn làm hoà với mọi người, vừa là một kẻ nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất, tỉnh táo nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát sâu sắc về quyền được làm người lương thiện đến mức Bá Kiến cũng phải ngạc nhiên. Chí Phèo còn là kẻ cố cùng, vừa là người tự xưng “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”.

Chí phèo, Binh chức, Năm Thọ trong “Chí Phèo” vốn là những con người lương thiện nhưng bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa, mất cả nhân hình và nhân tính. Viết về những người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa Nam Cao đã lên án gay gắt xã hội bất công, ngang trái đã chà đạp lên nhân phẩm con người, đồng thời phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện vẫn luôn tồn tại ở ngay cả những con người bị tha hóa ấy.

2. Nghệ thuật trần thuật kể truyện linh hoạt tự nhiên phóng túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, đảo lộn trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên tưởng tạt ngang, tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự nhiên, hợp lý, hấp dẫn.

Ở truyện “Chí Phèo”, Nam Cao đã để nhân vật xuất hiện bắt đầu bằng tiếng chửi: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời…”. Cách mở truyện như vậy gây ấn tượng và tạo sự cuốn hút với người đọc về cuộc đời, số phận của nhân vật.

Nam Cao cũng hay sử dụng và sử dụng thành công kiểu kết cấu vòng tròn. Đây là kiểu kết cấu mà phần mở đầu và phần kết thúc của tác phẩm có sự tương ứng với nhau; những hình ảnh, những tình tiết xuất hiện ở đầu tác phẩm bằng hình thức này hay hình thức khác, lại được gợi ra một cách đầy ám ảnh ở cuối tác phẩm. Hình thức kết cấu này đòi hỏi một sự sắp xếp hợp lý các sự kiện, các tình tiết tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa chúng.

Đọc “Chí Phèo” ta cứ mãi bị ám ảnh bởi hình ảnh “chiếc lò gạch cũ” xuất hiện ở phần đầu và phần cuối tác phẩm. Hình ảnh ấy vừa có ý nghĩa mở đầu và kết thúc, khép lại cuộc đời của một kẻ khốn khổ tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến, vừa như dự báo về sự xuất hiện của một kiếp người mà số phận chắc sẽ còn thê thảm hơn nhiều. Bằng kiểu kết cấu này Nam Cao muốn nói rằng: chừng nào xã hội còn nhiều bất công, ngang trái thì chừng ấy vẫn còn nhiều cuộc đời, nhiều số phận như Chí Phèo.

Ở truyện “Đời thừa” kết cấu vòng tròn lại tạo ấn tượng sâu đậm về sự luẩn quẩn, bế tắc, không lối thoát của nhân vật Hộ. Là một nhà văn có lý tưởng, có hoài bão nhưng vì lẽ sống tình thương, vì gánh nặng gia đình Hộ buộc phải hi sinh lý tưởng, viết dễ dãi để nuôi sống gia đình, vì vậy mà Hộ luôn day dứt, tự dày vò bản thân, Hộ tìm đến rượu để quên đi những đau đớn về tinh thần. Lúc say Hộ đối xử với vợ con như một kẻ vũ phu, nhưng khi tỉnh lại Hộ lại vô cùng hối hận, tuyên bố sẽ chừa rượu, nhưng rồi Hộ lại uống và lại thô bạo với vợ con …sau đó lại ăn năn, hối hận. Kết cấu vòng tròn của tác phẩm đã góp phần làm nổi bật tấn bi kịch tinh thần luẩn quẩn, không lối thoát của nhân vật Hộ.

3. Ngôn ngữ của Nam Cao cũng đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở đời sống, giọng văn hoá đời sống.

Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc.

Với tất cả những đặc sắc nghệ thuật ấy, “Chí Phèo” đánh dấu một trình độ phát triển mới của văn học và nghệ thuật viết truyện ở nước ta.

Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật 3

Nếu như chỉ dừng lại xây dựng Chí Phèo với những điển hình cho nỗi đau khốn cùng của người nông dân đẩy dần họ vào tăm tối, u mê, vào con đường phải thành “đầu trộm đuôi cướp” mới tồn tại được thì chắc rằng tác phẩm ấy, nhân vật ấy sẽ không có sức sống lâu bền như thế. Bản thân Nam Cao luôn trăn trở về nghề viết văn của mình, luôn tâm niệm một điều tác phẩm có giá trị là khi nhà văn biết “biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có…”. Ông không chấp nhận cái nhìn giản đơn đối với hiện thực cuộc sống, luôn khai thác thế giới nội tâm sâu kín của nhân vật “phát giác sự vật ở những bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa” (Chế Lan Viên).

Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã làm được điều đó – là sự sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ luôn ấp ủ hoài bão với nghề. Ông đã dùng tình thương để cảm hóa kẻ lầm đường ấy và để thức tỉnh xã hội vô tình. Ông đã tìm thấy và khẳng định bản chất lương thiện đẹp đẽ, bền vững của con người, ngay cả khi họ đã vùi dập tới mức méo mó cả nhân hình lẫn nhân tính.

Nam Cao đã xây dựng nên một Chí Phèo có xuất thân đặc biệt. Đau đớn cho Chí ngay cả những kẻ sinh ra hắn cũng không hề muốn hắn làm người. “Một anh đi thả ông lươn, một buổi sáng tinh sương, đã thấy hắn trần truồng và xám ngoắt trong một cái váy đụp để bên một cái lò gạch cũ bỏ không”. Họ vứt hắn đi như một thứ tội nợ, mặc dù hắn chẳng có tội tình gì. Rồi Chí cứ bị xã hội ấy ”quăng quật” đến tàn nhẫn khi bị người đàn bà góa mù ”bán” cho một bác phó cối không con.

Với những chữ như “rước”, “bán”, “cho” Nam Cao đã miêu tả nhân vật của mình giống như một thứ đồ vật bị người ta chuyển tay. Khi bác phó cối chết thì hắn ”bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”. Thật khó có thể thấy trên đời này có đứa trẻ nào khốn khổ tủi nhục hơn thế. Mặc dù sinh ra trong một cảnh ngộ cay đắng tủi nhục như vậy, nhưng được nuôi dưỡng bởi những con người nghèo khổ, lương thiện những phẩm chất tốt đẹp của Chí được khơi dậy và lớn lên. Nam Cao đã khẳng định chân lý: tính cách là con đẻ của hoàn cảnh, hoàn cảnh lương thiện sẽ sinh ra những tính cách tốt đẹp.

Chí sẽ vẫn là anh canh điền “hiền lành như đất” nếu như sống trong hoàn cảnh lương thiện nhưng chỉ vì cơn ghen vô cớ, Bá Kiến đã kiếm cớ đẩy Chí vào nhà tù. Nhà tù đã “đẻ ra” một anh Chí Phèo khác hẳn. Nam Cao đã dụng công miêu tả Chí trong bộ dạng giống như một quái nhân mà chưa tác phẩm trước đó hay cùng thời có, nếu đọc thoáng qua sẽ có người quy chụp ông bị ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên. Nhưng không, ngoại hình của Chí xấu xa, gớm ghiếc bao nhiêu thì càng khiến tiếng nói tố cáo hiện thực của Nam Cao thêm sâu sắc.

Ngoại hình của hắn làm cho người dân làng Vũ Đại phát khiếp “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trong gớm chết. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm trùy”.Chính nhà tù đã biến Chí thành kẻ du côn, lưu manh.

Nam Cao đã tô đậm quãng đời làm con quỷ dữ của làng Vũ Đại của Chí bằng hai chi tiết chân thực nhất đó là những cơn say và tiếng chửi. Chưa có kẻ lưu manh trong các tác phẩm văn học Việt Nam lại chửi như Chí “Hắn vừa đi vùa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không?”

Với bài chửi độc đáo của mình Chí Phèo đã tỏ ra rất tỉnh táo giữa những cơn say. Hắn đã sắp xếp các đối tượng mình chửi theo một trật tự đầy ý nghĩa: “từ trời, đến đời, đến cả làng Vũ Đại, đến đứa nào không chửi nhau với hắn…”Đây là một trật tự từ cao tới thấp, từ xa tới gần, từ trừu tượng vu vơ đến cụ thể trực tiếp. Thật ra, Chí Phèo đang cố gắng đi tìm ai là kẻ đã đẩy đời mình đến nông nỗi này. Hắn muốn có lời giải đáp cho câu hỏi: “đứa chết mẹ nào đẻ ra cái thằng Chí Phèo?”

Qua tiếng chửi không có người đáp lại của Chí, ta hình dung ra một số phận khốn khổ. Chí Phèo là một kẻ không cha, không mẹ, lại bị cả làng Vũ Đại ruồng bỏ. Không ai thèm lên tiếng đáp lại hắn. Chí tự chửi, tự nghe. Điều ấy chứng tỏ hắn là một kẻ lạc loài, là một số phận vô cùng cô đơn trong xã hội làng Vũ Đại. Trong tiếng chửi của Chí Phèo vừa có nỗi uất hận, vừa có một nhu cầu tha thiết. Chí mong có người chửi lại mình cũng có nghĩa là muốn được mọi người đối xử với mình như với một con người.

Chí Phèo cứ trượt dài trên con đường tha hóa của mình nếu như không gặp thị Nở. Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao. Thị cũng là một công trình nhỡ tay của tạo hóa. Tuy thuộc về phái đẹp nhưng thị lại có tất cả những gì mà một người phụ nữ không bao giờ muốn có. Mối tình giữa thị và Chí Phèo không phải là mối tình của hai kẻ nửa người nửa ngợm như nhan đề “đôi lứa xứng đôi” mà một nhà xuất bản đã đặt tên. Đó là một tình yêu thông thường vì có đầy đủ các cung bậc như của tình yêu như gặp gỡ – tỏ tình – cầu hôn – thất tình. Thậm chí đây còn là tình yêu đẹp vì nó làm cho hai cuộc đời trở nên tốt đẹp hơn. Từ khi gặp thị Nở, Chí Phèo dần dần từ con vật trở lại kiếp con người.

Lần đầu tiên hắn thấy “sợ rượu”, cũng là lần đầu tiên hắn tỉnh rượu để nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. “Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Những âm thanh quen thuộc, thường nhật ngày nào mà chẳng có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy. Cuộc đời bình dị, thậm chí còn nhiều nhọc nhằn, vất vả nhưng đáng yêu và đáng sống biết bao. Tiếng hai người đàn bà hỏi nhau về giá vải gợi nhắc cho Chí nhớ lại ước mơ thời hắn hai mươi tuổi: “Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”.

Cái giấc mơ ấy đơn sơ mà sao mãi đến bấy giờ hắn chưa thực hiện nổi. Nghĩ đến đây hắn thấy “buồn”. Nỗi buồn này làm cho tâm hồn Chí trong trẻo hơn. Nhớ về quá khứ hắn thấy “buồn” còn nhìn về tương lai hắn thấy “sợ” : sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và sợ nhất là cô độc. Từ chỗ nghe thấy âm thanh bình dị của cuộc sống, nhớ lại ước mơ thuở 20 tuổi đến chỗ biết buồn, biết sợ chính là quá trình nhân tình dần dần trở về trong Chí.

Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật tài tình của Nam Cao, tạo ra bước ngoặt lớn trong tâm lý và số phận của Chí Phèo. Khi nhận được bát cháo hành lúc đầu Chí “ngạc nhiên”, sau thấy “mắt hình như ươn ướt”. Bát cháo hành tuy đơn sơ nhưng lại là tình người lần đầu tiên Chí được đón nhận. Với bát cháo hành, Nam Cao đã xúc động khẳng định: nhân tình của con người rất bền vững, chỉ có thể bị vùi lấp chứ không thể bị hủy diệt. Chỉ cần nhỏ vào tâm hồn u tối một giọt tình thương lập tức tính người sẽ thức dậy.

Chính tình thương của thị đã khơi dậy phần người trong Chí. Từ chỗ “tỉnh rượu” bát cháo hành đã làm Chí “tỉnh ngộ”. Chí khao khát hoàn lương, khao khát mãnh liệt “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện”. Thị có thể mở đường cho hắn về với loài người. Như người chết đuối vớ được cọc Chí đã nói với thị bằng những lời chân tình tha thiết nhất “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ? Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui?”.Năm ngày ngắn ngủi ở bên thị hắn đã sống như một con người: hắn đã cố uống ít rượu và không làm một điều gì có hại cho những người xung quanh. Khát vọng hoàn lương thật cháy bỏng trong Chí.

Nhưng định kiến xã hội đã chặn đứng sự trở về với xã hội loài người của Chí. Thị Nở xét đến cùng tuy sống ở rìa làng, tuy bị coi là “một vật rất tởm” nhưng thị vẫn thuộc vào xã hội loài người. Thị như một thứ đồ phế thải của làng Vũ Đại nhưng khi Chí Phèo nhặt lấy, định coi là của riêng mình thì họ lại xông đến cướp lại. Làng Vũ Đại chủ yếu là những người nông dân thất học, đầy những thành kiến định kiến độc ác mà bà cô thị Nở là người đại diện phát ngôn đã tuyên bố thẳng thừng “Ai lại đi lấy cái thằng Chí Phèo”.

Cánh cửa duy nhất để hắn có thể trở về với xã hội loài người đã đóng sập. Chí định trở lại con đường cũ, bản tính lưu manh trỗ dậy nhưng hương vị tình thương của bát cháo hành, nhân tính vừa thức dậy đã ngăn hắn lại. Trong cơn tuyệt vọng, hắn lấy rượu ra uống nhưng lần này lạ thay “càng uống càng tỉnh”. Hắn không thấy hơi rượu mà cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hương vị của tình người cứ ám ảnh dày vò Chí. “Hắn ôm mặt khóc rưng rức” những giọt nước mắt của Chí lúc này chứng tỏ nhân tính đã trở về trọn vẹn trong hắn.

Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau khi uống rất nhiều rượu. Hành động của Chí lúc này đã được Nam Cao khắc họa rõ nét. Lúc đầu Chí định đến nhà Thị Nở nhưng không hiểu sao chân hắn lại đưa hắn đến nhà Bá Kiến. Có lẽ trong sâu thảm tiềm thức hắn đã nhận ra kẻ hủy hoại đời mình chính là Bá Kiến chứ không phải bà cô thị Nở. Chí đã đi chệch đường nhưng đúng hướng. Bá Kiến có lúc cả giận mất khôn đã cư xử với Chí như một con vật, đã mỉa mai khát vọng lương thiện của Chí. Vừa đau đớn, vừa căm giận, Chí trợn mắt lên, dõng dạc đòi lại cái quý nhất của đời mình đã bị Bá Kiến cướp mất. “Tao muốn làm người lương thiện”.

Chí cũng tỉnh táo nhận ra tình thế bế tắc của mình. Hắn chỉ rõ hai nguyên nhân đẩy hắn vào bước đường cùng “Ai cho tao lương thiện?” chính là ám chỉ Bá Kiến, kẻ đã đẻ ra con quỷ dữ làng Vũ Đại. “Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?” chính là ám chỉ những định kiến tàn ác của xã hội làng Vũ Đại đã chặn đứng khát vọng hoàn lương của Chí. Để bảo toàn tính người vừa trở về Chí đã hành động đột ngột nhưng hoàn toàn logic: đâm chết Bá Kiến và sau đó tự sát. Bá Kiến chết đau đớn đúng với quy luật kẻ gieo gió gặt bão.

Hành động này dự báo mâu thuẫn giữa hai tầng lớp nông dân và địa chủ trong xã hội Việt Nam đã gay gắt tới mức không điều hòa nổi. Người ta thấy cách mạng tháng 8 có mầm mống từ tia chớp của lưỡi dao Chí Phèo. Còn Chí, nhờ lưỡi dao mà khẳng định rằng: thà chết như một con người còn hơn sống như một con vật. Hành động có giá trị tố cáo sâu sắc.

Nam Cao đã xây dựng Chí Phèo với những đặc tính cá biệt, cá biệt từ tính cách đến hành động. Chí Phèo đã được khắc họa cả ngoại hiện bên ngoài lẫn chiều sâu bên trong. Vốn là anh nông dân hiền lành như đất thế nhưng qua bốn bức tường lao lí ra cuộc đời Chí đã trở thành con quỷ dữ. Chí cứ đắm chìm mãi trong những cơn say dài, tiếng chửi của Chí ám ảnh tâm can người đọc và Chí phản kháng bằng con đường lưu manh. Chí vừa là quỷ dữ, vừa là cục sáp trong bàn tay kẻ thống trị và vừa là nô lệ thức tỉnh khi đâm chết Bá Kiến lấy máu để rửa thù rồi tự sát để bảo toàn nhân phẩm mới trở về.

II. Giá trị nghệ thuật:

Nam Cao rất thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình Chí Phèo. Kết cấu cốt truyện đặc sắc với sự dồn nén của thời gian nghệ thuật tạo nên độ căng của trần thuật, tạo nên kịch tính cho tác phẩm: toàn bộ thời gian nghệ thuật của tác phẩm là 6 ngày cuối cùng của cuộc đời Chí Phèo. Tuy nhiên, trong một khoảng thời gian ấy, toàn bộ cuộc đời Chí Phèo được tái hiện qua những hồi tưởng, rồi tiếp tiến đến khi kết thúc. Các sự kiện được sắp xếp liên tục, chồng xếp, đồng hiện tạo nên nhịp điệu trần thuật nhanh, với hàng loạt biến cố trong cuộc đời của Chí Phèo. Với cách tổ chức cốt truyện và trần thuật như vậy đã gia tăng khả năng phản ánh hiện thực một cách đầy đặn và toàn diện của tác phẩm.

Cốt truyện được tổ chức theo lối đan xen các tuyến, các mảng, các quan hệ theo một trục chính của nhân vật Chí Phèo: Chí Phèo – Bá Kiến, Chí Phèo – Thị Nở, Chí Phèo – người dân làng Vũ Đại; Chí Phèo với những hiện tượng Năm Thọ, Binh Chức… Bên cạnh đó, cốt truyện còn được gia tăng kịch tính với những tình huống mang tính bước ngoặt: ba lần chí Phèo đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo gặp thị Nở, Bà cô thị Nở cấm đoán tình yêu của Chí và thị… Cả những chi tiết miêu tả về ngoại hình, chân dung, tâm lý, lai lịch, bói cảnh, các chi tiết giới thiệu về làng Vũ Đại… Tất cả tạo nên một nhân vật đầy đặn, với số phận, tính cách, những trạng thái tâm lý điển hình. Đặc biệt, cách tổ chức cốt truyện như vậy đem đến cái nhìn hiện thực ở cả chiều rộng và chiều sâu.

Tổ chức điểm nhìn trần thuật hết sức hợp lý và bao quát toàn diện. Tác phẩm trần thuật theo ngôi thứ ba, theo điểm nhìn của người kể. Nhưng điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm có sự di chuyển linh hoạt từ người kể sang nhân vật và ngược lại. Vì vậy, nó tạo nên cấu trúc đa giọng, đa thanh: có giọng khách quan của người trần thuật, giọng nhân vật, giọng nửa nhân vật, nửa người kể chuyện. Như thế, luôn luôn có sự chuyển dịch từ cái nhìn bên ngoài vào cái nhìn bên trong nhân vật. Chính vì vậy, nhân vật được cảm nhận sâu sắc, không chỉ là các yếu tố ngoại hiện mà còn có các yếu tố nội tâm, những ước mơ thầm kín, những góc khuất sâu tẳm của tâm linh. Và do đó, người đọc có cách tiếp cận đa chiều, để có thể lý giải hiện thực và những số phận của người nông dân trong tác phẩm, đồng cảm với tư tưởng nhân đạo của nhà văn.

Nhà văn tỏ ra am hiểu ngôn ngữ của người nông dân. Ngôn ngữ của Nam Cao sống động, khỏe khoắn, tinh tế, uyển chuyển, chỉ có thể là ngôn ngữ của một nhà văn đã gắn bó sâu sắc với cuộc sống lam lũ của người lao động. Như trong tiếng chửi của Chí Phèo – một người nông dân lương thiện bị lưu manh hóa khác với Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng – một kẻ lưu manh hóa theo kiểu thành thị thì ngôn ngữ của Chí mang đậm chất nông dân.

Nhà văn đã dùng rất nhiều khẩu ngữ, thậm chí dùng những từ thô tục, suồng sã như “chửi trời”, “chửi đời”, “chửi cha đứa nào”, “mẹ kiếp”…Khẩu ngữ được đánh giá là “máu của văn xuôi nghệ thuật”, quả là rất đúng với trường hợp Nam Cao. Thứ ngôn ngữ mọc lên từ bùn đất làm cho câu văn của Nam Cao có vẻ “ít đồ trang sức”, nhưng chính nhờ thế mà nó sống động và lột tả được một cách chân thực tính cách nhân vật Chí Phèo.

Phân tích giá trị nghệ thuật 4

Chí Phèo” là tác phẩm xuất sắc nhất của Nam Cao góp phần khẳng định tài năng và vai trò của ông trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Tác phẩm được coi là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt đổi mới về nghệ thuật trong nền văn xuôi nước nhà. Kể từ khi truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời cho đến nay đã thu hút rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nó trên nhiều lĩnh vực, từ chuyên ngành văn học hiện đại, văn học dân gian cho đến lí luận văn học. Đây còn là mảnh đất màu mỡ trong các lĩnh vực nghệ thuật khác như điện ảnh, hội họa,...Và, có lẽ nhân vật được bạn đọc biết đến nhiều nhất, ấn tượng nhất, yêu thích trong “Chí Phèo” nói riêng và các tác phẩm của Nam Cao nói riêng chính là Chí Phèo. Thậm chí, Chí Phèo còn vượt tầm thời đại , trở thành nhân vật đi cùng năm tháng trong nền văn học Việt Nam. Để có được sự thành công này không phải tự nhiên mà có. Vậy những yếu tố nào đã khiến cho Chí Phèo có sức hút và sức bền trong lòng độc giả như vậy? Đã có nhiều công trình, nhiều nhà nghiên cứu đã đi tìm hiểu về vấn đề này theo các phương pháp, các hướng tiếp cận khác nhau và việc tiếp cận đối tượng theo quan điểm hệ thống phân tích các biện pháp nghệ thuật thể hiện nhân vật cũng là một hướng đi được vận dụng rộng rãi trong văn chương.

Phương pháp hệ thống là phương pháp có đối tượng nghiên cứu là các hệ thống trong thiên nhiên hoặc xã hội, hoặc là một phương pháo dùng mô hình hệ thống để nghiên cứu các sự vật. Phương pháp sáng tác theo quan điểm hệ thống luôn xem các yếu tố trong quan hệ tương tác qua lại, chi phối lẫn nhau, yếu tố này dựa vào yếu tố kia để tạo nên chỉnh thể hệ thống. Các biện pháp nghệ thuật được Nam Cao sử dụng để thể hiện nhân vật Chí Phèo gồm có các yếu tố: tả , kể, đối thoại, độc thoại, tâm tình…Ta xét đến mối quan hệ tương tác qua lại giữa các yếu tố đó với nhau và rộng hơn với là kết cấu, ngôn từ của tác phẩm. Tất cả chúng cộng gộp, phối hợp một cách nhuần nhuyễn để tạo nên hình ảnh một Chí Phèo vô cùng sinh động.

Chí Phèo là nhân vật điển hình cho người nông dân bị lưu manh hóa , tiêu biểu cho số phận cực khổ của người nông dân bị đè nén bóc lột vừa tiêu biểu cho sự tha hoá phổ biến trong xã hội tàn phá tâm hồn con người – ngòi bút Nam Cao đã đạt tới một sức mạnh phê phán mãnh liệt, sâu sắc, ít có. Vẽ nên hình ảnh người nông dân lưu manh đầy thú tính, “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” hung hãn chuyên gây sự “giở toàn những giọng uống máu người không tanh”, Nam Cao đã miêu tả , ví con so sánh Chí Phèo với loài vật, đồ vật : “Hắn về lần này trông khác hẳn , mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế..”; “Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay là ngoài bốn mươi ? Cái mặt hắn không trẻ cũng không già: nó không còn phải là mặt người: nó là mặt của một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi ? Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là vết sẹo…” Cái hình dạng xấu xí, dị dạng này không phải tự dưng từ lúc đẻ ra mà có, đây là lúc hắn mới đi tù về. Chí Phèo đã bị hoàn cảnh làm méo mó đến mất cả nhân hình. Không chỉ được miêu tả về cái hình dáng, nhà văn Nam Cao còn miêu tả hành động của hắn. Bắt đầu là từ tiếng chửi : “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời. Có hề gì ? Trời có của riêng nhà nào ? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Ðại… Ðã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này ? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo”. Tiếng chửi của một kẻ say rượu mở đầu cho một tác phẩm đã gợi cho người đọc sự tò mò. Tiếng chửi thoạt nghe như vô ý, tiếng chửi càn của kẻ bất mãn, của kẻ say nhưng lại vô cùng logic. Tiếp đó Nam Cao miêu tả một loạt hành động của Chí Phèo: đốt quán, rạch mặt ăn vạ, đòi tiền Binh Chức…Chí Phèo ngày càng trượt dài trên con đường tha hóa, trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến, vô tình phá hoại hạnh phúc bao gia đình mà không hay. Chí Phèo làm mất nhân hình lẫn cả nhân tính. Người đọc dễ dàng nhận ra điều ấy qua sự miêu tả các hành động của hắn. Nhìn Chí Phèo lúc này thì mấy ai nghĩ rằng trước đây hắn từng là một anh nông dân hiền lành, chất phác. Nam Cao lại sử dụng bút pháp miêu tả, chỉ một câu miêu tả trạng thái của Chí khi bóp đùi cho bà ba: “vừa bóp đùi cho bà ba vừa run run” mà cái bản chất hiền lành như đất của anh Chí trước đây hiện lên đầy đủ. Một kẻ suốt ngày chìm trong men say như Chí Phèo lại có lúc sợ rượu: “Hắn thấy nôn nao, chân tay bủn rủn như đến ba ngày nhịn đói. Thế mà bụng lại phinh phính đầy, hình như bụng hơi đau…..Đau thật, đau mỗi lúc một dữ! Nó cứ cuồn cuộn lên. À mà trời lành lạnh. Hễ có gió thì kinh kinh. Mỗi lần gió, hắn thấy rươn rướn người. ….Sao đầu nặng quá mà chân thì lẩy bẩy. Mắt hắn hoa lên. Bụng quặn lại, đau gò người…”; “Hắn đờ hai mắt ra khẽ rên”. Tác giả miêu tả rất kĩ tình trạng , cảm nhận của Chí Phèo khi say rượu. Ông còn tả rất kĩ, rất đẹp cảnh sắc thiên nhiên “trời lành lạnh”, “trăng rắc bụi trên sông và sông gợn biết bao nhiêu vàng”. Đây là lần đầu tiên Chí Phèo được hưởng hạnh phúc, biết đến cuộc sống gia đình là như thế nào. Trước đây hắn chưa khi nào tỉnh, cũng chẳng muốn tỉnh: “Những cơn say cuả hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài mênh mông.. Chưa bao giờ hắn tỉnh.. để nhớ rằng có hắn ở trên đời.. Hắn cũng không biết hắn là con quỷ dữ làng Vũ Đại, tác quái cho bao nhiêu dân làng…”. Tỉnh làm gì rồi để thấy mình cô độc, để thấy mình đã bị cộng đồng đào thải, xa lánh. Có lẽ vì thế Nam Cao đã miêu tả rất chậm cái quãng thời gian ngắn ngủi năm ngày Chí Phèo, Thị Nở bên nhau, dùng những hình ảnh đẹp nhất tạo nên một bức tranh tình yêu và hạnh phúc, ấm áp của gia đình. Năm ngày so với thời gian của một đời người chẳng đáng là bao nhưng lại là quãng thời gian có ý nghĩa nhất với Chí Phèo. Con quỷ gớm ghiếc đó ai mà tin rằng cũng có những lúc lại mềm yếu, có những giây phút suy tư về cuộc đời mình, về những ước mơ một thuở xa xăm. Lần đầu tiên hắn tỉnh rượu kể từ khi ra tù:“hắn bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng hắn đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn!” Hiện tại lay thức lương tâm thành tiếng thở dài não nuột "Chao ôi là buồn!".. Một nỗi buồn đáng quý, bởi nó đã khơi lại những giấc mơ giản dị của một thời lương thiện: "Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm" . Nam Cao lại dùng những dòng miêu tả tâm lí nhân vật để làm nổi bật nên cái bản chất sâu xa từ bên trong của nhân vật, cho bạn đọc thấy được những biến đổi tinh tế trong tâm hồn “con quỷ” ấy.” Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt”. Chí Phèo đã có dấu hiệu của sự khao khát sống, sống như một con người đích thực. Hắn mong được trở về với nhân loại và dồn hết hi vọng nơi Thị Nở. Bát cháo hành giống như một liều thuốc kích thích khiến con quỷ trong hắn biến mất hoàn toàn. Chí Phèo từ ngạc nhiên chuyển sang cảm động. Đây là tâm lí của một người chưa bao giờ được yêu thương và nhất là bàn tay chăm sóc của một người phụ nữ. Rồi hắn thấy say thị, hắn thấy thị vậy mà lại có duyên, hắn thèm lương thiện, hắn cười nghe thật hiền… hắn khóc rồi làm nũng với Thị Nở như một đứa trẻ con… Qua việc miêu tả : miêu tả ngoại hình, hành động, tâm trạng của Chí Phèo, Nam Cao đã dựng lên hình ảnh một Chí Phèo sống động tới mức có thể sờ thấy, cảm thấy.

Những diễn biến tâm lí của Chí Phèo còn được làm sinh động và rõ ràng hơn qua hệ thống độc thoại. Ngay từ lúc đầu vào tác phẩm, tiếng chửi của Chí Phèo cũng có thể coi là một độc thoại, tuy chỉ có nội dung tiếng chửi, không cụ thể thành lời trong ngoặc kép. Tiếng chửi ấy đã cho thấy sự cô đơn, lạc loài của Chí Phèo sau 7, 8 năm ở tù ra. Rồi những suy nghĩ nội tâm khi hắn đến rạch mặt ăn vạ ở nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến dùng lời lẽ dụ hoặc: “hắn lại hơi ngần ngại: biết đâu cái lão cáo già này nó chả lại lừa hắn và nhà rồi lôi thôi ? Ồ mà thật, có thể như thế lắm! Này nó hãy lôi ngay mấy cái mâm cái nồi hay đồ vàng, đồ bạc ra khoác vào cổ hắn, rồi cho vợ ra kêu làng lên rồi cột cổ hắn vào, chần cho một trận om xương, rồi vu cho là ăn cướp thì sao ? Cái thằng bá Kiến này, già đời đục khoét, còn đớp cái nước gì mà phải chịu lép như trấu thế ? Thôi dại gì mà vào miệng cọp, hắn cứ đứng đây này, cứ lăn ra đây này, lại kêu toáng lên xem nào. Nhưng nghĩ ngợi một tí, hắn lại bảo: kêu lên cũng không nước gì! Lão bá vừa nói một tiếng, bao nhiêu người đã ai về nhà nấy, hắn có lăn ra kêu nữa, liệu có còn ai ra ? Vả lại bây giờ rượu nhạt rồi, nếu lại phải rạch mặt thêm mấy nhát thì cũng đau. Thôi cứ vào! Vào thì vào, cần quái gì. Muốn đập đầu thì vào ngay giữa nhà nó mà đập đầu còn hơn ở ngoài. Cùng lắm, nó có giở quẻ, hắn cũng chỉ đến đi ở tù. Ở tù thì hắn coi là thường. Thôi cứ vào”...Đặc biệt, độc thoại tâm tưởng diễn ra khi mà “thị ngoay ngoáy cái mông đít bỏ đi” về với bà cô thị sau năm ngày sống chung với Chí Phèo. Hắn nghĩ sẽ “tự phải đến cái nhà con đĩ Nở kia. Ðến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó. Nếu không đâm được, lúc ấy hãy đập đầu kêu làng” rồi hắn tự nói "Tao phải đâm chết nó!". Ở đây, sự nhập thân của tác giả vào tâm trạng nhân vật bộc lộ những suy nghĩ nội tâm, sự đau khổ nghiệt ngã của một con người bị đẩy vào bước tha hóa, lưu manh hóa nhưng không chịu tha hóa đến cùng, muốn trở lại làm người lương thiện nhưng phải trả bằng cái giá rất đắt: chính là mạng sống của mình. Hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh, hắn nhận ra bi kịch cuộc đời mình rõ hơn bao giờ hết. Tiếng khóc bật ra , hắn ôm mặt khóc rưng rức. Hắn ngửi thấy hơi cháo hành. Chí Phèo đã đặt niềm tin rất lớn vào Thị Nở có thể cứu vớt hắn thoát khỏi kiếp sống như một con quỷ bị mọi người xa lánh. Nhưng Thị Nở đã cự tuyệt hắn, từ chối hắn, niềm tin đổ vỡ, đó là nỗi đau không gì bù đắp nổi trong hắn. Miêu tả tâm lí nhân vật cùng với độc thoại , độc thoại nội tâm được tài hoa của nhà văn Nam Cao kết hợp ăn ý từ đó giúp khắc họa nên bản chất tính cách thực của nhân vật đồng thời giúp thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn.

Nói đến độc thoại thì không thể không nhắc đến đối thoại trong truyện ngắn “Chí Phèo”. Có các đoạn đối thoại giữa Chí Phèo – Bá Kiến, Chí Phèo – người bán rượu, Chí Phèo - Tam Lãng, Chí Phèo – Thị Nở. Và, ngôn ngữ mà Nam Cao sử dụng trong các đoạn đối thoại cũng góp một phần không kém quan trọng làm nên thành công cho tác phẩm. Ngôn ngữ giữa các nhân vật được lựa chọn phù hợp với tính cách từng nhân vật. Ngôn ngữ của bọn Bá Kiến, Lí Cường là ngôn ngữ của bọn bề trên khi mềm mỏng khi đanh rắn rất biến hoá. Ngôn ngữ của các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở thì rất quê mùa có khi là tục tằng thô lỗ. Nhìn chung tác phẩm viết về đề tài người nông dân nên ngôn ngữ mà tác giả sử dụng trong tác phẩm là loại ngôn ngữ bình dân chân quê, rất phù hợp với cảnh và tình của tác phẩm.

Bá Kiến cũng dõng dạc hỏi:
-- Anh Chí đi đâu đấy ?
Hắn chào to:
-- Lạy cụ ạ. Bẩm cụ... Con đến cửa cụ để kêu cụ một việc ạ! Giọng hắn lè nhè và tiếng đã gần như méo mó. Nhưng bộ điệu thì lại như hiền lành; hắn vừa gãi đầu gãi tai, vừa lải nhải:
-- Bẩm cụ từ ngày cụ bắt đi ở tù, con lại sinh ra thích đi ở tù, bẩm có thế, con có nói gian thì trời tru đất diệt, bẩm quả đi ở tù sướng quá! Ði ở tù còn cơm để mà ăn, bây giờ về làng về nước, một thước cắm dùi không có, chả làm gì nên ăn. Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi ở tù...

Những đoạn đối thoại giữa các nhân vật góp phần rất lớn trong việc thể hiện tính cách nhân vật. Bá Kiến hiện rõ là một con cáo già khôn ranh. Chí Phèo thì lộ rõ bản chất của một tên lưu manh chỉ biết rạch mặt ăn vạ. Khi đối thoại với Thị Nở, lúc này tâm lí, tính cách các nhân vật có sự chuyển biến, ngôn ngữ giữa các nhân vật cũng vô cùng thân mật, đáng yêu, rõ giọng điệu quan tâm, làm nũng của những kẻ đang yêu :

- Vừa thổ hả ?
Mắt hắn đảo lên nhìn thị, nhìn một loáng rồi lại đờ ra ngay.
- Ði vào nhà nhé ?
Hắn làm như gật đầu. Nhưng cái đầu không động đậy, chỉ có cái mí mắt là nhích thôi.
- Thì đứng lên.
Chí Phèo cũng có những lúc thật đáng yêu:
Hắn bảo thị:
- Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ ?
Thị không đáp, nhưng cái mũi đỏ của thị như càng bạnh ra. Hắn thấy thế cũng không có gì là xấu. Bằng một cái giọng nói và một vẻ mặt rất phong tình theo ý hắn, hắn bảo thị:
- Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.

Đáng chú ý nhất và kết lại cho toàn bộ tác phẩm khi Chí Phèo nhận ra bi kịch của đời mình, hắn luôn miệng lẩm bẩm sẽ cầm dao đi giết Thị Nở và bà cô Thị nhưng chân hắn lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến :

-- Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế anh cần gì ?
Hắn dõng dạc:
-- Tao muốn làm người lương thiện !
Bá Kiến cười ha hả:
-- Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.
Hắn lắc đầu:
-- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách... biết không ! Chỉ có một cách là... cái này biết không !

Nam Cao đã để cho Chí trong giờ phút ấy cất lên những lời đau đớn : " Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những vết mảnh chai trên mặt này?". Đó là nỗi đau đớn của một người đã bị chặn mất nẻo về với thế giới thân thuộc của Con Người, bởi những định kiến khắt khe của xã hội.

Với một truyện ngắn thì nhắc đến nghệ thuật của nó ta không thể bỏ qua nghệ thuật kể chuyện, xây dựng tình huống truyện. Nam Cao sử dụng kết cấu vòng tròn để kể lại trọn vẹn câu chuyện cuộc đời Chí Phèo. Mở đầu là hình ảnh Chí bị bỏ rơi trong chiếc váy đụp, mặt xám ngắt bên cái lò gạch cũ. Hai mươi tuổi đi làm thuê cho nhà Bá Kiến, hứng chịu cơn ghen tuông của Bá Kiến và nỗi nhục bị bắt bóp chân, bóp lên mãi cho bà ba. Hắn vào tù, khi trở về làng thì hắn biến thành một con quỷ. Chí Phèo gặp Thị Nở và cuộc tình năm ngày chóng vánh đã cho hắn trở lại làm người, trở lại thành anh Chí hiền lành của năm nào. Thế nhưng, Thị Nở đã từ chối hắn, những định kiến đã ngăn không cho hắn trở về thành Con Người. Hắn vác dao đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Và kết thúc lại là hình ảnh cái lò gạch cũ hiện ra một lần nữa. Hình ảnh đấy sức liên tưởng về một thế hệ Chí Phèo con sẽ ra đời, lại cũng sẽ có một Bá Kiến nào khác nếu như xã hội không thay đổi.

Ở khúc ngoặt thứ nhất, nhà văn đã đưa ra hai hình tượng Năm Thọ và Binh Chức - những nhân vật phụ không trực tiếp tham gia vào diễn biến câu chuyện - để làm sáng tỏ nhiều điều. Trong lời kể nhẩn nha, những nhân vật này như tiện thể được nhắc đến, nhưng thực chất, vai trò giải thích, cắt nghĩa của chúng đã được phát huy tối đa. Nếu như nhân vật Năm Thọ ngầm lý giải đầy đủ cho cái nguyên cớ Chí Phèo bị đẩy vào tù (cái nguyên cớ vốn rất mù mờ trong con mắt người dân làng Vũ Đại), thì nhân vật Binh Chức lại rọi sáng cái quá trình biến chất của Chí Phèo. Nhờ sự xuất hiện của những nhân vật ngoài cốt truyện ấy mà tính tất yếu trong mọi biến cố của số phận nhân vật chính được bộc lộ sắc nét, rõ ràng hơn. Từ hai nhân vật bên lề của truyện Chí Phèo, ta càng hiểu rõ hơn điều mà Roland Bathes khẳng định khi nghiên cứu cấu trúc truyện kể: “Chỉ có một con đường duy nhất: hoặc trong văn bản, mọi thứ đều có ý nghĩa hoặc không có ý nghĩa nào hết... Trong tác phẩm nghệ thuật không có yếu tố thừa, cho dù sợi chỉ xâu chuỗi đơn vị cốt truyện với các đơn vị khác có thể rất dài, mong manh hay mảnh mai”.

Ở bước ngoặt thứ hai, tất cả bắt đầu từ tình huống gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở - một tình huống có tính quyết định cho sự đột biến. Tình huống gặp gỡ này thoạt nhìn có vẻ là hoàn toàn ngẫu nhiên, nhưng quan sát kỹ, ta sẽ thấy Nam Cao đã ngầm chuẩn bị khá chu đáo mọi phương diện.

Qua việc tiếp cận đối tượng theo quan điểm hệ thống, đi vào lần lượt các biện pháp nghệ thuật mà nhà văn Nam Cao đã sử dụng để thể hiện nhân vật Chí Phèo, các nét tính cách, sự chuyển biến trong tâm hồn, cuộc đời, số phận nhân vật đã hiện lên một cách rõ ràng và sinh động. Cái chân thật đến ngỗ ngược rồi cả đáng yêu của Chí Phèo được bạn đọc cảm nhận và ghi lại ấn tượng về một nhân vật văn học đặc sắc, một nông dân tha hóa điển hình. Chí Phèo xứng đáng trở thành nhân vật được bạn đọc mọi thời đại yêu thích.