Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của tác giả Quang Dũng hay nhất (63 mẫu)

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 1

Bài thơ Tây Tiến ra đời vào năm 1948, khi mà cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn cam go và ác liệt nhất. Nhà thơ Quang Dũng bằng tài năng và trái tim thương nhớ đồng đội cũ đã khắc họa nên những nét chân thực nhất về hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp với hình tượng bi tráng hào hùng.

Binh đoàn Tây Tiến được thành lập vào năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ độ Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh địch trên tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ các tỉnh từ Lai Châu đến Thanh Hóa. Cuộc sống chiến đấu của những người lính Tây Tiến vô cùng khổ cực, thiếu thốn. Phần lớn vì vùng núi hiểm trở, chốn rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, thiếu thuốc men. Những người lính Tây Tiến hi sinh nhiều vì bệnh tật còn nhiều hơn sự hi sinh trên chiến trường.

Những người lính Tây Tiến hầu hết là những thanh niên trí thức Hà Thành, phần đông là các sinh viên, học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Mặc dù phải chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy xong họ vẫn hiện lên với hình tượng lãng mạn song rất đỗi hào hùng, bi tráng.

Bài thơ có nhan đề Tây Tiến, nhằm nhấn mạnh tên gọi của binh đoàn và để thể hiện nối nhớ của nhà thơ về 1 thời kháng chiến khó khăn dữ dội nhưng rất đỗi hào hùng, say mê.

Hình tượng người lính Tây Tiến đã được nhà thơ Quang Dũng khắc họa bằng những hình ảnh chi tiết vừa tả thực lại vừa lãng mạn, mạch cảm xúc bài thơ là nhớ thương nên mở đầu bài thơ nhà thơ Quang Dũng đã viết.

“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.

Hình ảnh sông Mã anh hùng là hình ảnh đầu tiên mà nhà thơ nhớ đến. Chắc có lẽ sông Mã là 1 người bạn đồng hành lâu dài cùng các chiến sĩ trên các chặng đường hành quân chiến đấu. Câu thơ giống như một tiếng gọi tha thiết ám ảnh, khoảng cách địa lí xa xôi, vời vợi mà nỗi nhớ luôn thường trực ám ảnh. Câu thơ thứ 2 đã sử dụng tới hai chữ nhớ, ngắt nhịp 4/3 đã diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi, khát khao của tác giả. Cụm từ “ nhớ chơi vơi” nỗi nhớ như lan tỏa trong cả không gian và thời gian thấm vào nỗi lòng, tạo cảm giác như trống vắng, ám ảnh khôn xiết về 1 thời hào hùng đã qua. Câu thơ reo vần “ơi” tạo nên sự dịu dàng, nhớ thương sâu sắc.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường lát hoa về trong đêm hơi”.

Ta có thể thấy “Sài khao, Mường Lát” là những địa danh của các tỉnh miền núi phía Bắc nơi mà binh đoàn Tây Tiến đã từng hành quân qua. Chất lãng mạn và chất hiện thực ở câu thơ này được hòa quyện vào nhau. Viết về đoàn quân mỏi sau cuộc hành quân dài, nhưng khí chất vẫn rất lãng mạn khi “sương lấp”, “ hoa về”, “ đêm hơi”.

Bức tranh thiên nhiên vùng núi Tây Bắc được nhà thơ Quang Dũng khắc họa bằng hình ảnh rất lãng mạn, thông qua cái nhìn của những người lính Tây Tiến, giữa trùng trùng, điệp điệp của núi non, dựng vách hiểm trở, thế mà qua cái nhìn của người lính, khung cảnh ấy lại rất đỗi hay ho và vui nhộn như thế này.

“Dốc lên khúc khuỷa, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.

Hai câu thơ mang hình tượng khái quát cao diễn tả sinh động về những gian khổ của người lính , các từ láy “ khúc khuỷa, thăm thẳm” gợi lên không gian được mở ra nhiều chiều, một không gian thiên nhiên hùng vĩ nhưng nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng. Từ “ heo hút” được dùng rất đặc sắc vừa gợi ra độ sâu khi nhìn xuống, mà khi nhìn lên lại cảm thấy hoang vắng, lạnh lẽo. Địa hình chiến đấu của những người lính Tây Tiến mặc dù quả thực đầy gian khó và hiểm nguy. Hình ảnh “Súng ngửi trời” được sử dụng rất hóm hỉnh, vui tươi, đọc câu thơ ta liên tưởng đến câu thơ “ Đầu súng trăng treo” của nhà thơ Chính Hữu trong bài thơ “ Đồng chí”. Cùng là hình ảnh lãng mạn nhưng với Chính Hữu là hình ảnh hiện thực, từ con mắt tinh tế nhà thơ và ước muốn hòa bình. Còn với Quang Dũng cụm từ “ Súng ngửi trời” là khí phách hiên ngang, giữa thiên nhiên hoang sơ lạnh lẽo, hình ảnh con người làm chủ, khẳng định cốt cách của người lính

“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

Chắc có lẽ đây là những câu thơ miêu tả chân thực nhất về những khó khăn gian khổ của những người lính Tây Tiến nói riêng và những người lính trong thời kháng chiến chống Pháp nói chung lúc bấy giờ. Hình ảnh “ cọp trêu người” và “ oai linh thác gầm thét” là những dẫn chứng thật nhất, sự ám ảnh, dữ tợn của muông thú của thiên nhiên.

“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.

Từ láy “dãi dầu” miêu tả sự nhọc nhằn, vất vả của người lính. Cuộc hành quân trở như trùng lại, chậm lại 1 chút. Qua chữ “ bỏ quên đời” ta thấy được hình tượng, khí phách dược ngời sáng từ chính sự thật đau lòng nhất, các anh đã hi sinh trong quá trình hành quân. Dù là sự mệt mỏi, hi sinh như thế nào, họ vẫn coi đó là sự nhẹ nhàng, thanh thản.

Sau cuộc chiến đấu, hành quân gian khổ, hiểm nguy đối dầu anh dũng với lũ giặc, những người lính Tây Tiến lại trở về nghỉ nghơi với những buổi liên hoan văn nghệ đặc sắc.

“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”.

Sau những cuộc chiến đấu vất vả với súng đạn, bom lửa. Những đau thương, mất mát vì bệnh tật, cái chết ập đến bất cứ lúc nào khi bỏ lại tất cả, hình tượng người lính Tây Tiến lúc này thật gần gũi. Buổi liên hoan bùng cháy lên sự vui tươi, phấn khởi. Hội trại bùng lên với khúc hát tươi vui, sự giao lưu giữa những người lính và những người dân địa phương. Từ “ bừng” được dùng rất hay, thể hiện sự náo nức. Đêm hội ấy, ta làm sao mà quên được hình ảnh người con gái trong buổi liên hoan trong bộ xiêm y vô cùng xinh đẹp, trang trọng. Cảm xúc người chiến sỹ như ngỡ ngàng trước vẻ đẹp lung linh của đêm hội, rồi lại thả hồn vào điệu múa, tiếng nhạc khèn của đêm hội.

“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

Hương vị xôi nếp đầu mùa, tha thiết là một kỉ niệm khó quên trong lòng người lính Tây Tiến. Câu thơ được gieo thanh bằng, tạo ra một cảm xúc bâng khuâng, nhung nhớ đến khó tả

Tiếp theo mạch cảm xúc nhớ thương, nhà thơ Quang Dũng đã viết

“ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Miêu tả rừng núi Tây Bắc nhà thơ đã gợi tả ra độ cao trắc trở thông qua từ “ ngàn thước”, cảm giác chông chênh, một tấc như chạm tay đến trời. Câu thơ thứ hai giống như miêu tả sự tưởng tượng của những người chiến sĩ sau 1 buổi hành quân mệt mỏi, đứng trên cao họ nhìn xa xa, thấy sương mù ẩn hiện là thấp thoáng ngôi nhà của những người dân. Người chiến sĩ như hóa thân thành người nghệ sĩ thả hồn vào điệu nhạc thiên thiên và của chính tâm hồn mình. Cảm giác phiêu lãng, nhẹ nhàng sau chuyến đi hành quân vất vả.

Đang trong mạch cảm xúc nhẹ nhàng, phiêu lãng nhà thơ Quang Dũng đột ngột rẽ sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng, hoài niệm.

“ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có thấy dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Kỉ niệm gợi nhớ của nhà thơ bắt đầu từ khung cảnh “ chiều sương ấy”. buổi chiều luôn gợi ra cho lòng người đọc nỗi buồn. Nỗi buồn ấy có khi là nỗi nhớ nhà, nhớ người thương hoặc có thể là sự vu vơ trước 1 ngày tàn. Nhưng với nhà thơ đó là sự trống trải, luyến tiếc về hình ảnh không rõ sự xác định là ai, theo ý thơ thì đó là “ hồn lau”, “dáng người” người đọc cảm nhận được 1 không gian vắng lặng đượm buồn mênh mang. Các từ như “ có thấy, có nhớ” giống như 1 lời gợi nhớ gợi nhắc tha thiết ân tình. Hình ảnh đối lập “ nước lũ” và “ hoa đong đưa, một bên là sự dữ dội , một bên là sự nhẹ nhàng. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn cộng miêu tả để gợi hoài niệm nỗi nhớ về hình ảnh thiên nhiên Mộc Châu.

Để khắc họa hình tượng chân dung người lính, nhà thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái hiện thực bi thương mà rất đỗi phi thường của người lính Tây Tiến tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

Đoàn “ binh không mọc tóc” có lẽ đây là sự thật trần trụi nhất mà nhà thơ Quang Dũng đã từng viết, các chiến sĩ Tây Tiến họ bị rụng tóc, da dẻ xanh sao vì căn bệnh sốt rét rừng hoành hành. Ốm đau, bệnh tật là vậy nhưng khí thế họ vẫn mang nét “ dữ oai hùm” tạo nên âm hưởng hoành tráng, khí thế sẵn sàng của người lính kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Khí thế hùng dũng là vậy, tâm hồn những người lính Tây Tiến thật mộng mơ. Nếu như ban ngày họ phải chiến đấu hết mình, “ mắt trừng” là cái nhìn thẳng, sâu xa, thể hiện cái nhìn của ý chí, quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Ban đêm khi cuộc chiến đã kết thúc, thì tâm hồn của người lính lại mơ mộng nhớ về Hà Nội, nơi mà có những người mà họ yêu thương nhất. Nỗi nhớ ấy như tiếp thêm sức mạnh, nghị lực chiến đấu. Đọc câu thơ này ta lại chợt nhớ đến câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi :

“ Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”.

Thêm một lần nữa nhà thơ lại viết về sự hi sinh,nhưng lần này cái chết được viết nên anh hùng, cao cả hơn,

“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Viết về đau thương của cái chết nhưng không hề bi lụy, ai oán mà ngược lại đầy dũng khí,hùng tráng. Giọng thơ hùng tráng xong mang đậm nét buồn của sự hi sinh, trên con đường hành quân ấy, lòng họ không thể không cảm thấy xót thương trước những nấm mồ viễn xứ của những người chết trong chiến trận. Họ ra đi vì Tổ quốc nên không hề hối tiếc, kể cả đó là thời xuân xanh. Tác giả mượn khéo hình ảnh “Áo bào” để gợi tả sự ra đi của người lính. Nó gắn liền với sự trang trọng, thiêng liêng, giảm bớt nỗi buồn bi lụy. Sông Mã một chứng nhân lịch sử, đã tấu lên “ khúc độc hành” khúc ca tiễn các anh về với đất mẹ. Động từ “ gầm” là 1 biện pháp nhân hóa, nỗi nhớ thương của lòng người như vang vọng, đau đáu trong lòng những người ở lại.

“ Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

Câu thơ đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ nhưng vẫn mang âm hưởng bi tráng. Nói về li biệt nhưng vẫn hùng tráng, mãnh liệt. Mong mỏi một ngày được gặp lại, nỗi nhớ như tràn ngập cả không gian và thời gian, lời thơ như nhắn nhủ, ước hẹn tha thiết, ân tình. Câu thơ cuối như mời hứa quyết tâm, nỗi nhớ về đoàn binh đã in hằng sâu trong kí ức. Tây tiến trở thành một kỉ niệm sương máu trong cuộc đời nhà thơ Quang Dũng.

Qua bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa nên bức chân dung, hình tượng bi tráng của người lính Tây Tiến trong cuộc cách mạng vệ quốc, vừa chân thực vừa lãng mạn tiêu biểu cho sức mạnh dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 2

Quang Dũng một gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến Việt Nam. Tác phẩm ông để lại không nhiều, nhưng gây ấn tượng sâu sắc, đậm nét trong lòng bạn đọc, đặc biết là tác phẩm Tây Tiến. Người đọc ngoài ấn tượng về khung cảnh núi non hùng vĩ, vừa mơ mộng của nơi núi rừng còn ấn tượng bởi hình tượng người lính kiên cường, anh dũng, lí tưởng sống cao đẹp, sẵn sáng hi sinh cho đất nước. Hình tượng người lính trong tác phẩm Tây Tiến mang một vẻ đẹp rất riêng, rất lạ, đặc trưng cho phong cách thơ Quang Dũng.

Tây Tiến được sáng tác năm 1948, tại Phù Lư Chanh, sau khi nhà thơ dời binh đoàn Tây Tiến để nhận nhiệm vụ khác. Chính hoàn cảnh sáng tác này đã cho thấy toàn bộ tác phẩm thấm đẫm trong nõi nhớ vừa tha thiết vừa thiêng liêng, khắc khoải.

Trong phần một và hai của bài thơ, nổi bật hơn cả là bức tranh thiên nhiên và con người nơi rừng núi khi binh đoàn Tây Tiến đi qua, hình ảnh người lính Tây Tiến chỉ xuất hiện một cách gián tiếp, nhưng cũng đã phần nào cho người đọc hình dung về hình ảnh của họ. Sang đến phần thứ ba nhà thơ mới tập trung tất cả tình cảm cũng như tài năng của mình để tạc vào văn học Việt Nam bức tranh chân dung sừng sững về người lính Tây Tiến. Người lính được khai thác toàn diện từ ngoại hình cho đến tâm hồn, lí tưởng, từ cuộc sống chiến đấu đến sự hi sinh.

Trước hết về ngoại hình, Quang Dũng đã đưa vào hình ảnh giàu chất hiện thực:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện lên vô cùng chân thực: không mọc tóc, quân xanh màu lá. Những hình ảnh này đã xé bỏ tất cả cái nhìn ảo tưởng, tô vẽ về cuộc sống cũng như sinh hoạt của người lính. Để đưa người đọc đến hiện thực trần trụi, gai góc khi do sự thiếu thốn về vật chất cũng nhưng sự hành hạ của bênh sốt rét rừng, hình ảnh những người lính Tây Tiến đã bị biến dạng. Họ hiện lên với chân dung hết sức kì lạ: tóc rụng, da xanh như mùa lá. Hiện thực này cũng đã được các thơ khác đề cập đến như:

Cuộc đời gió bụi pha sương máu

Đói rét bao lần xé thịt da

Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật

Đâu còn tươi nữa những ngày hoa

Tuy nhiên đích đến của Quang Dũng không phải là hiện thực trần trụi đó, mà từ hiện thực ấy nhấn mạnh vào ý chí, nghị lực phi thường của người lính. Bởi vậy, nó đối lập với khó khăn, khắc nghiệt là hình ảnh người lính hết sức oai phong. Dù nước da có xanh xao nhưng ở đó vẫn hiện lên thần thái “dữ oai hùm”. Tạo nên hơi thơ gân guốc, rắn rỏi cũng như bản lĩnh ngang tàng, sẵn sàng vượt lên khó khăn của người chiến sĩ.

Quang Dũng tiếp tục đi sâu khai thác khía cạnh thứ hai tưởng như rất đối lập nhưng kì thực lại rất thống nhất trong tâm hồn người lính Tây Tiến, đó chính là tâm hồn lãng mạn, hào hoa:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hình ảnh “mắt trừng” diễn tả chính xác cái nhìn căm hờn, dữ dội mà người lính dành cho kẻ thù. Ở đó ánh lên lòng căm thù giặc sâu sắc và khát vọng giết giặc lập công, bảo vệ quê hương. Giấc mộng của người lính là phương diện dễ nhận thấy nhất ở bất cứ người chiến sĩ nào trong thời đại kháng chiến. Nhưng sự tinh tế, nhạy cảm của tác giả ở chỗ ông nhìn sâu vào những góc khuất trong tâm hồn người lính. Hình ảnh “dáng kiều thơm” chính là dáng người thướt tha, mền mại của những cô gái Hà Thành, đồng thời cũng gợi đến hương hoa sữa nồng nàn đặc trưng của Hà Nội. Chính giấc mộng đó là động lực để họ có thể sống, chiến đấu một cách anh dũng.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Tiếp tục sử dụng bút pháp nhất quán từ đầu tác phẩm, đến đây Quang Dũng lại đưa thêm hình ảnh đậm chất hiện thực. Không gian xa xôi, biên viễn với những nấm mồ rải rác tạo nên cảm giac xót xa, tang tóc, thê lương. Nhưng chất hiện thực lại không rơi vào sự bi lụy, bởi ngay sau đó tác giả đã viết câu thơ khẳng định lí tưởng của người lính Tây Tiến để cho cảm hứng của cái bi lụy trở thành bi tráng. Người lính Tây Tiến ý thức rất rõ về quãng đời “xanh” – tuổi trẻ, mơ ước, khát vọng, đồng thời họ cũng ý thức ra chiến trường chấp nhận sự mất mát, hi sinh. Nhưng cách ứng xử của người lính với cái chết không phải là sự run rẩy sợ hãi, mà là sự lựa chọn dứt khoát, chủ động. Hai chử “chẳng tiếc” cùng với cấu trúc câu chủ động đã cho thấy rất rõ điều đó. Nhà thơ Quang Dũng để người lính vào thử thách khắc nghiệt nhất, lựa chọn giữa sống vào chết từ đó làm bật lên lí tưởng sống cao đẹp của họ. Lí tưởng sống cao đẹp đó không chỉ của riêng binh đoàn Tây Tiến mà còn là của tất cả những người lính: “Chúng tôi đã đi không tiếc đới mình/ Nhưng tuổi hai mười làm sao không tiếc/ Nhưng ai cũng tiếc thì còn chi tổ quốc/ Việt Nam ơi! Chỉ duy nhất cho Người/ Chúng tôi xin chết”.

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Câu thơ đầu tiếp tục là nét chạm khắc vô cùng chân thực về hiện thực thiếu thốn không chỉ đồng hành với người lính trong suốt quá trình chiến đấy mà còn theo họ đến tận lúc hi sinh. Bởi vậy, ngay cả nghi thức cử hành tang lễ sơ sài nhất cũng không có, họ phải lấy manh chiếu bọc lấy thân. Bằng tất cả sự yêu thương, trân trọng, Quang Dũng đã nâng cái chết có phần xót xa trở thành cái chết vô cùng trang trọng, khi khoác lên mình đồng đội chiếc áo bào – trang trọng, uy nghi. Hai chữ “về đất” là cách nói giảm, nói tránh để bớt đi sự buồn thương, mất mát đồng thời tạo ra tâm thế rất nhẹ nhàng, thanh thản của người lính trước khi mất. Ở đây chết không phải là sự hi sinh mà là sự trở về với đất mẹ. Và để tiễn đưa người lính về với đất mẹ, sông Mã đã gầm lên khúc độc hành dữ dội, hùng tráng để đưa những con người trở về với cõi bất tử.

Bằng sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, ngôn từ tinh tế, sắc sảo Quang Dũng đã thành công khi dựng lên chân dung người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến vừa mang trong mình ý chí, nghị lực kiên cường như bao chiến sĩ khác, vừa mang chiều sâu tâm hồn tài hoa lãng mạn, một nét vẽ rất riêng. Hình tượng người lính Tây Tiến chính là linh hồn cho toàn bộ bài thơ, nó đi vào văn học Việt Nam nhưng một trong những hình tượng tinh tế nhất về đề tài người lính.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 3

Trong nền văn học nước nhà, thơ ca Cách Mạng Việt Nam luôn được coi là tài sản vô giá của dân tộc, bởi chúng phản ánh cả một giai đoạn lịch sử đấu tranh hào hùng của đất nước và con người Việt. Đặc biệt trong thời kì kháng chiến, với cảm hứng yêu nước, thi ca đã thực sự hun đúc nên tượng đại của những chiến sĩ anh hùng, những “Thạch Sanh của thế kỉ XX”. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trở thành hình tượng đẹp nhất, đáng tự hào nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Họ là những người sống có lí tưởng sẵn sàng lấy máu mình để tô thắm lá cờ cho Tổ quốc, đồng thời đó cũng tràn đầy tâm hồn lãng mạn hào hoa. Qua việc tìm hiểu hình ảnh anh bộ đội trong bài thơ “Tây Tiến”, một bài thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung, chúng ta có thể thấy rõ.

"Tây Tiến" là tên của một đơn vị bộ đội được thành lập năm 19471947, giữa những ngày đầu vô cùng gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, trí thức trẻ. Đơn vị này hoạt động chủ yếu trên địa bàn núi rừng miền Tây Bắc sang tới Thượng Lào, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt- Lào và phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Sinh hoạt vô cùng thiếu thốn và gian khổ nhưng lính Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Bài thơ được viết ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây) cuối năm 1948, lúc Quang Dũng rời xa đơn vị chưa lâu, Bài thơ ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, sau đổi lại là Tây Tiến. Qua nỗi nhớ cảnh vật và con người Tây Tiến, bài thơ bày tỏ niềm ngưỡng mộ những người lính trong kháng chiến chống Pháp và ngợi ca một thời gian khổ mà anh hùng trong lịch sử dân tộc. Nỗi nhớ ấy xuyên suốt cả ba đoạn và bốn câu kết thúc của bài thơ.

Trước hết là khổ thơ đầu của bài, Quang Dũng thể hiện sự thể hiện nỗi nhớ của mình về đoàn quân Tây Tiến thông qua nỗi nhớ ấy ta thấy được những hình ảnh bi tráng thể hiện vẻ đẹp của những anh hùng Tây Tiến:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Nỗi nhớ ấy bắt đầu bằng tiếng gọi Tây Tiến ơi. Tiếng gọi đó sao mà nghe tha thiết như thế, nó như vọng vào không gian của con sông Mã, quay ngược lại với những kỉ niệm thời xưa. Một thời đạn bom đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến đấu. Cách hiệp vần ở những chữ cuối mỗi câu khiến cho câu thơ càng vang xa, ngân mãi trong đêm: “ơi, vơi, hơi”. Nó giống như lúc những anh lính tây tiến trút hơi thở mệt mỏi sau một ngày hành quân. Hai địa danh Sài Khao và Mường Lát hiện lên khắc sâu vào nỗi nhớ của tác giả. Hai địa danh ấy gắn với những cuộc hành quân của đoàn quân tây tiến. “Đêm hơi” khiến cho độc giả nghĩ tới nhiều sự vật kì vĩ, đêm hơi có thể là đêm đầy sương và hơi sương, đêm hơi còn là đêm của không khí lạnh của rừng sâu, nhưng cũng có thể là sự di chuyển nhẹ nhàng của những chiến sĩ đoàn quân tây tiến hay chính là những hơi sương trong đêm hành quân ấy thể hiện những khó khăn vất vả của đoàn quân. Những khó khăn của những người lính tây tiến lại trở nên đẹp đẽ và nên thơ trong những vần thơ của Quang Dũng. Đó là những gian nan mà những người lính phải trải qua, chính những gian nan đó lại càng tô đậm vẻ đẹp bi tráng của họ… những triền dốc khiến người ta mới nhìn đã thấy ngại, hai từ thăm thẳm trong câu thơ khiến độ hun hút của những con dốc lại càng trở nên nguy hiểm biết bao nhiêu chưa dừng lại đó, những hình ảnh hun hút, đầu súng của những người lính đang đùa giỡn vấy mây trời.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Những chi tiết, hình ảnh thơ của tác giả đầy ấn tượng. Sương dày như lấp cả đoàn quân, mưa nhiều đến nỗi làm cho những ngôi nhà như trôi bồng bềnh giữa biển khơi… Nhiều câu thơ sử dụng hàng loạt thanh trắc: “dốc”, “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”… làm hiện lên cái gập ghềnh, thăm thẳm, khúc khuỷu, cheo leo của con đường hành quân. Những độ cao độ sâu ấy được tính bằng ngàn thước, nhấn mạnh vào những gian khổ mà đoàn quân phải vượt qua. Tiếp đó là những chữ dùng rất bạo, nhất là ba chữ “súng ngửi trời” gợi lên độ cao chóng mặt.

Hai câu sau có sự phối thanh rất độc đáo. Điệp ngữ "ngàn thước" là một ước lệ nghệ thuật có tính định lượng, khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh, kì thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố tương đồng của điệp ngữ "ngàn thước" và tính chất tương phản của các động từ "lên – xuống"trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác về một nét gập đột ngột, dữ dội cho câu thơ, cũng là cách để nhà thơ gợi tả thật tài hoa độ của của dốc, độ sâu của vực: bên này đường lên núi dựng đứng, vút cao; bên kia vực đổ xuống hun hút, hiểm trở. Trong cả câu thơ đặc biệt giàu tính tạo hình và biểu cảm, dốc núi miền Tây được miêu tả hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng đều khắc họa được đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp hùng vĩ, kì thú. Thông qua bức tranh thiên nhiên, có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến: họ lạc quan, mạnh mẽ, coi thường mọi gian truân, vất vả; những thử thách của thiên nhiên chỉ càng làm rõ hơn ý chí, sức mạnh, tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sĩ của họ. Sau những câu thơ hun hút, nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong bảy thanh bằng, cùng với rất nhiều âm tiết mở; câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mang, dàn trải, nhạt nhòa trong mưa "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Dòng thơ mở ra một khoảng không gian bát ngát, câu thơ như bay ngang trời. Ta như hình dung được người lính đang leo lên những cồn mây, một hôm nào đó, dừng chân bên dốc núi phóng tầm mắt nhìn ngang ra xa, Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngôi nhà bồng bềnh, thấp thoáng, ẩn hiện trong màn mưa hư ảo… Sắc thái phiếm chỉ khiến cụm từ "nhà ai" trở nên mơ hồ, xa xăm. Sắc thái nghi vấn lại gợi nỗi trăn trở trong lòng người. Cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng "nhà" mang thanh huyền như một thoáng trầm lắng, suy tư để rồi sau đó, tất cả những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, ở những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông… rất xa lạ, làm tăng thêm ấn tượng về sự hoang sơ, kì vĩ, bí mật của rừng thiêng, hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, nhớ nhung dễ làm xao xuyến lòng người xa quê. Chúng cho biết không chỉ miền đất mà người lính đã đi qua mà khi “vừa mới đọc lên thôi đã thấy mòn chân mỏi gối” (Trần Lê Văn).

Núi rừng miền Tây tiếp tục được miêu tả trong những nét vẽ đầy ấn tượng:

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"

"Thác gầm thét" và "cọp trêu người" là hai hình ảnh nhân hóa thể hiện sự dữ dội, hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn được sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này. Nếu câu trên có các tiếng "thác", "thét" mang thanh trắc ở âm vực cao thì câu dưới là các tiếng "Hịch", "cọp" cũng mang thanh trắc nhưng lại thuộc âm vực thấp. Và có thể thấy những dấu sắc trong câu trên như gợi âm thanh của tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm thẳm; những dấu nặng liên tiếp trong câu thơ dưới lại như một phỏng tiếng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi ra cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng. "Chiều chiều" và "đêm đêm" là những trạng ngữ chỉ dòng thời gian tuần hoàn, miên viễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị núi rừng miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là "chiều chiều – đêm đêm" – sự ngự trị muôn đời! Nhưng cũng chính điều này lại càng khiến chân dung người chiến sĩ Tây Tiến thêm hào hùng, mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội, vắng bóng con người, những vùng đất tưởng như chỉ là vương quốc riêng của heo hút mây trời, của rừng thiêng nước độc; vùng đất ấy nay đã in dấu chân của những người chiến sĩ kiên cường, dũng cảm trong đoàn quân Tây Tiến.

Sự vất vả, gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến đã ít nhiều thể hiện trong những câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây và hành trình qua miền Tây, ngoài ra còn có những câu thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh người lính cũng như những kỉ niệm của họ trong chặng đường hành quân. Trước hết là một kí ức sâu đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi "

Từ láy "dãi dầu" đã thể hiện toàn bộ những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi hành quân qua miền Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, vượt qua những nắng mưa, sương gió miền Tây... Hai câu thơ tựa như một bức kí họa đầy ấn tượng về người lính Tây Tiến. Sự hồn nhiên của người lính được thể hiện qua những giây phút mệt mỏi, gục lên ba lô và ngủ, bỏ lại sau đó những khó khăn vất vả, những hiểm nguy của kháng chiến. Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu không bước nữa là một hình ảnh đẹp. Câu thơ nhằm nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những người chiến sĩ ấy. Đó là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia là bị nhưng trong cái bi ấy ta lại thấy một cái tráng lệ vô cùng. Họ có thể hi sinh nhưng trong một tư thế rất nhẹ nhõm, “bỏ quên đời” những kí ức về những lúc dừng chân mệt mỏi, những kỉ niệm với những buổi chiều và ban đêm với những con thú dữ gầm rú lên, nhớ những đêm mùa nếp xôi ở Mai Châu.

Ở đoạn thơ tiếp theo người lính hiện ra với vẻ hồn nhiên, có một đời sống tinh thần cũng vô cùng vui vẻ lạc quan, những hình ảnh liên hoan đời thường, cùng với cô gái Viên Chăn xinh đẹp kiều diễm với tình dân quân thân thiết đẹp sao. Bỏ qua những vất vả những người lính hiện ra với vẻ đẹp oai hùng mà cũng hồn.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

“Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và góp vui tinh thần với bộ đội Tây Tiến. Từ “Bừng” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” (“Đuốc hoa” là hoa chúc - cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn). Ở đây, “đuốc hoa” có ý nghĩa là gợi không khí ấm cúng gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã. Có thể hình dung đêm hội mà Quang Dũng viết trên đây như một đám cưới tập thể. Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên tr­ước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phư­ơng xa. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ.

Ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”. Khèn là một loại nhạc cụ của người dân tộc miền núi Tây Bắc còn “man điệu” là một điệu nhạc “lạ” đặc trưng văn hoá của những con người nơi đây. Và hòa vào tiếng khèn ngất ngây ấy là điệu múa Lam vông quyến rũ của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những ngư­ời lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ. Chính vì thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ”. Từ đó, ta có thể thấy được rằng các chiến sĩ của chúng ta dù trong những giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất thì tâm hồn của họ vẫn luôn hướng về lí tưởng cách mạng cao đẹp.

Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương … Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng nhẹ hoá. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây không phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà là ''Người đi Châu Mộc chiều sương ấy''. Nó gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác. Đại từ ''ấy'' làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng!

Không gian nên thơ ấy làm nền cho ngư­ời thơ xuất hiện: Giữa hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường: ''Có nhớ dáng người trên độc mộc''. Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn, dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông, vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhoà… Thiên nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng với con sông Mã, một dòng sông đã chứa trong nó biết bao dữ dội. Nhưng ở đây, dòng sông Mã đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kỳ lạ. Những cánh hoa rừng không bị ''dồi lên dập xuống'' mà là “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa''. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi: Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc.

Với những nét kiên cường dù cho sự khắc nghiệt làm cho ý chí và lòng quyết tâm của chiến sĩ không hề bị phôi phai, những đoàn binh phải chịu đựng hàng trăm những gian nan và nguy hiểm đó đã tác động xấu đến thân thể của người lính, nhưng nó không làm phôi phai đi tinh thần của người chiến sĩ Tây Tiến.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật và nơi khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút giấu diễm, sự thiếu thốn hay những căn bệnh như sốt rét. Chính Hữu trong bài thơ "Đồng chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:

"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng tráng ướt mồ hôi"

Căn bệnh đáng sợ khiến cả binh đoàn bị rụng hết tóc được Quang Dũng khai thác hết sức chân thực của người lính Tây tiến, dù khó khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến đấu chưa bao giờ kết thúc. Hình ảnh quân xanh màu lá là những hình ảnh gầy gò ốm nhưng không hề yếu mà vẫn dữ oai hùm. Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây tiến. Những ánh mắt hiện lên lửa hi vọng và tinh thần chiến đấu oai hùng, không một chút phó mặc cho số phận, cũng có thể đó chính là sự thức trắng không ngủ được vì lo cho biên giới hoặc mở mắt để nhớ những bóng kiều thơm kia. Đó sự hi sinh của những người chiến sĩ ấy, họ phần lớn là những trí thức Hà Thánh ngày đêm nghĩ đến quê nhà với những bóng hồng mà không bao giờ mờ nhạt trong lòng họ.. Đó chính là cái bi của vẻ đẹp người lính. Nhưng nó lại rất tráng vì người ta chết đi vì lí tưởng cao cả của mình thì đó chính là cái chết đẹp. Thay vì chiếu đắp lên, sự ra đi của các anh được ví như sự ra đi của những người được những người khác tôn trọng và biết ơn. Những áo bào thì thay bằng chiếu thể hiện sự giản dị của những người lính. Chiến trường khắc nghiệt làm cho anh phải ra đi chỉ có mảnh chiếu che thân. Đất mẹ chính là nơi các anh sinh ra cũng là nơi mà các anh về, đất mẹ che chở cho các anh mãi mãi yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã hiện ra, gầm lên khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh, không phải là sự chơi vơi nữa mà là tiếng gầm, nó càng tạo nên chất tráng cho bài thơ.

“Tây tiến” được xem là một thi phẩm xuất sắc, gần như đạt đến sự toàn bích về nghệ thuật. Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, đậm chất bi tráng, nhiều sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu. Hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc thái thẩm mĩ phong phú. Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách; (trang trọng, cổ kính; sinh động gợi tả gợi cảm…), có những kết hợp từ độc đáo (nhớ chơi vơi, Mai Châu mùa em…), tên địa danh vừa cụ thể xác thực vừa gợi cảm giác lạ lẫm.. Ba chùm bài thơ là giọng điệu khi tha thiết bồi hồi, khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng man mác, khi trang trọng, khi trầm lắng… Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến: Nhớ những chặng đường hành quân với bao gian khổ, thiếu thốn, hi sinh mất mát mà vẫn có nhiều kỉ niệm đẹp, thú vị, ấm áp; nhớ những đồng đội Tây Tiến anh hùng… Qua đó, tác giả đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên miền Tây tổ quốc. Cũng từ đó mà toát lên chất lãng mạn bi tráng là vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính cách mạng trong thơ Quang Dũng

Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây Tiến vừa hồn hậu, giản dị lại hết sức khí phách. Qua đây ta cũng thấy được những vẻ đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng thêm yêu hơn những con người vì quê hương đất nước. Bài thơ xứng đáng là một tượng đài bằng ngôn ngữ đã bất tử hóa phẩm chất anh hùng của anh bộ đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp rất đỗi gian khổ và vui tươi, hào hùng:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và con người ấy, bài thơ ấy

Vẫn sống muôn đời cùng núi sông”

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến - Bài văn mẫu số 4

Một trong những bài thơ hay mà cho tới tận hôm nay, những vần thơ ấy vang lên vẫn giống như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng trong thơ Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Những câu thơ mang một vẻ hào hoa, mang một phong cách hồn hậu, phóng khoáng. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.

Câu thơ mở đầu như một khúc nhạc dạo cứ ngân dài mãi, khúc nhạc ấy nhắc tới hình ảnh Sông Mã, Tây Tiến ngay ở câu mở đầu cũng được ưu ái với một cách gọi thân thương “Tây Tiến ơi” . đây chính là một trong tiếng gọi trở về những năm tháng kề vai sát cánh bên nhau trong hành quên chiến đấu. Sông Mã hào hùng như minh chứng cho một thời oanh liệt đã qua, cứ ồ ạt cuốn nước chảy tới vô bờ. Vẻ đẹp của những anh hùng tây tiến cũng từ đó hiện ra, vẻ đẹp của những con người đã in dẫu chân trên những con đường hành quân.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đem hơi”

Một thời đạn bom đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến đấu. Cách hiệp vần ở những chữ cuối mỗi câu khiến cho câu thơ càng vang xa, ngân mãi trong đêm: “ơi, vơi, hơi”. Nó giống như lúc những anh lính tây tiến trút hơi thở mệt mỏi sau một ngày hành quân. Hai địa danh Sài Khao và Mường Lát hiện lên khắc sâu vào nỗi nhớ của tác giả. Hai địa danh ấy gắn với những cuộc hành quân của đoàn quân tây tiến. “đêm hơi” khiến cho độc giả nghĩ tới nhiều sự vật kì vĩ, đêm hơi có thể là đêm đầy sương và hơi sương, đêm hơi còn là đêm của không khí lạnh của rừng sâu, nhưng cũng có thể là sự di chuyển nhẹ nhàng của những chiến sĩ đoàn quân tây tiến hay chính là những hơi sương trong đêm hành quân ấy thể hiện những khó khăn vất vả của đoàn quân. Những khó khăn của những người lính tây tiến lại trở nên đẹp đẽ và nên thơ trong những vần thơ của Quang Dũng. Đó là những gian nan mà những người lính phải trải qua, chính những gian nan đó lại càng tô đậm vẻ đẹp bi tráng của họ… những triền dốc khiến người ta mới nhìn đã thấy ngại, hai từ thăm thẳm trong câu thơ khiến độ hun hút của những con dốc lại càng trở nên nguy hiểm biết bao nhiêu.chưa dừng lại đó,những hình ảnh hun hút, đầu súng của những người lính đang đùa giỡn vấy mây trời.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Những độ cao độ sâu ấy được tính bằng ngàn thước, mục đích của nó nhâm nhấn mạnh vào những gian khổ mà đoàn quân phải vượt qua. Nhưng đến câu thơ cuối thì một dòng toàn thanh bằng lại được xuất hiện như bù lại cho những câu thơ mang nhiều thanh trắc. Sự bằng ấy mang đến cho chúng ta một cảm giác thật sự yên bình. “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Những lúc mưa gió, đoàn quân nghỉ ngơi và nhìn ra những cơn mưa như trút nước xuống, khiến một vùng trắng xóa như những mặt nước trắng xóa vậy.

Những gian nan khó khăn ấy mở nguồn cho hình ảnh đẹp vi tráng của những người lính ấy. Cũng có những lúc sự hồn nhiên của người lính được thể hiện qua những giây phút mệt mỏi, gục lên ba lô và ngủ, bỏ lại sau đó những khó khăn vất vả, những hiểm nguy của kháng chiến. Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu không bước nữa là một hình ảnh đẹp. Câu thơ nhằm nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những người chiến sĩ ấy. Đó là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia là bi nhưng trong cái bi ấy ta lại thấy một cái tráng lệ vô cùng. Họ có thể hi sinh nhưng trong một tư thế rất nhẹ nhõm, “bỏ quên đời” những kí ức về những lúc dừng chân mệt mỏi, những kỉ niệm với những buổi chiều và ban đêm với những con thú dữ gầm rú lên, nhớ những đem mùa nếp xôi ở Mai Châu.

Ở đoạn thơ tiếp theo người lính hiện ra với vẻ hồn nhiên, có một đời sống tinh thần cũng vô cùng vui vẻ lạc quan, những hình ảnh liên hoan đời thường, cùng với cô gái Viên Chăn xinh đẹp kiều diễm với tình dân quân thân thiết đẹp sao. Bỏ qua những vất vả những người lính hiện ra với vẻ đẹp oai hùng mà cũng hồn.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Hình ảnh có thấy dáng người trên độc mộc và hoa đong đưa tạo nên một hình ảnh có đôi có cặp, hình ảnh hoa xoáy vào dòng nước càng tạo nên vẻ đẹp thơ mộng nơi đây.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật và nơi khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút giấu diễm, sự thiếu thốn hay những căn bệnh như sốt rét, khiến cả binh đoàn bị rụng hết tóc, quang Dũng đã khai thác một vẻ đẹp hết sức chân thực của người lính Tây tiến, dù khó khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến đấu chưa bao giờ kết thúc. Hình ảnh quân xanh màu lá là những hình ảnh gầy gò ốm nhưng không hề yếu mà vẫn dữ oai hùm. Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây tiến. Những ánh mắt hiện lên lửa hi cọng và tinh thần chiến đấu oai hùng, không một chút phó mặc cho số phận, cũng có thể đó chính là sự thức trắng không ngủ được vì lo cho biên giời hoặc mở mắt để nhớ những bóng kiều thơm kia. Đó sự hi sinh của những người chiến sĩ ấy, họ phần lớn là những trí thức Hà Thánh ngày đêm nghĩ đến quê nhà với những bóng hồng mà không bao giờ mờ nhạt trong lòng họ. Đó chính là cái bi của vẻ đẹp người lính. Nhưng nó lại rất tráng vì người ta chết đi vì lí tưởng cao cả của mình thì đó chính là cái chết đẹp. Thay vì chiếu đắp lên, sự ra đi của các anh được ví như sự ra đi của những người được những người khác tôn trọng và biết ơn. Những áo bào thì thay bằng chiếu thể hiện sự giản dị của những người lính. Chiến trường khắc nghiệt làm cho anh phải ra đi chỉ có mảnh chiếu che thân. Đất mẹ chính là nơi các anh sinh ra cũng là nơi mà các anh về, đất mẹ che chở cho các anh mãi mãi yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã hiện ra, gầm lên khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh, không phải là sự chơi vơi nữa mà là tiếng gầm, nó càng tạo nên chất tráng cho bài thơ

Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây Tiến vừa hồn hậu,giản dị lại hết sức khí phách. Qua đây ta cũng thấy được những vẻ đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng thêm yêu hơn những con người vì quê hương đất nước. Hình tượng các anh vẫn mãi sống trong lớp lớp thế hệ

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến - Bài văn mẫu số 5

Vào một đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ nằm ven bờ con sông Đáy, Quang Dũng bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn tươi nguyên. Năm ấy Quang Dũng là đội trưởng đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh địch trên tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ Lai Châu đến bắc Thanh Hóa. Những người lính của trung đoàn Tây Tiến sống vô cùng thiếu thốn khổ cực, vì rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, thuốc men ít ỏi, vì dưới hành quân là trập trùng núi rừng hoang vu, hiểm trở.

Những người lính Tây Tiến hầu hết là thanh niên Hà Nội, phần đông là học sinh, tiểu tư sản trí thức, tuy chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến năm 1918 (trước đây lấy tên là "Nhớ Tây Tiến") để thể hiện nỗi nhớ và niềm yêu về một thời chiến đấu gian khổ mà hào hùng, dữ dội mà mê say.

Để khắc họa chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh đó lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường tài hoa, đem đến cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong một thời kì lịch sử. Bài thơ được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương nên nó mở đầu bằng câu thơ biểu hiện nỗi nhớ ấy.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Hình ảnh sông Mã anh hùng mở đầu bài thơ như hé mở cho người đọc những câu chuyện oai hùng của binh đoàn Tây Tiến. Trên bước đường ra trận, những người lính Tây Tiến có sông Mã đi cùng bởi vậy cũng thật tự nhiên mà ngay từ đầu bài thơ Quang Dũng gọi tên "sông Mã". Câu thơ giống như một tiếng gọi tha thiết ám ảnh, khoảng cách địa lý thì xa xôi vời vợi mà nỗi nhớ lại luôn thường trực. Trong lòng câu thơ thứ hai dùng hai chữ "nhớ", lại được ngắt nhịp 4/3 đã diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi, khao khát nhung nhớ của tác giả. Cái đặc sắc chính là ở ba chữ "nhớ chơi vơi", chữ "chơi vơi" làm cho người đọc có cảm nhận như lan tỏa vào không gian và thấm sâu vào lòng người, một chút chống chếnh, một chút hụt hẫng, một chút nao lòng. Nỗi nhớ Tây Tiến tưởng như xa mà lại hóa gần, tưởng dịu nhẹ mơn man và lại có sức ám ảnh khôn xiết. Không những thế, người đọc còn như nghe được trong những chữ "nhớ chơi vơi" ấy âm hưởng của núi rừng, của sông suối Tây Tiến. Câu thơ reo vần "ơi" tạo ra được độ dịu nhẹ lâng lâng trong cảm xúc, ở đây cảm xúc nhớ thương giống như một sợi tơ tình bện chặt lòng người. Ngay sau đó nhà thơ đã cụ thể hóa nỗi nhớ của mình.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Các địa danh Sài Khao, Mường Lát trong nỗi nhớ của Quang Dũng trở nên thân gần kì lạ. Viết về hình ảnh đoàn quân mỏi, Quang Dũng lại điểm thêm vào đó hình ảnh "sương lấp", "hoa về", "đêm hơi". Rõ ràng là ở đây chất hiện thực đã đi liền với chất lãng mạn tạo nên nét vẽ độc đáo về Tây Tiến.

Trong cảm xúc nhớ thương của nhà thơ, bức tranh Tây Tiến như được khoác sắc màu huyền ảo, thơ mộng, giàu sắc thái lãng mạn khung cảnh rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến bước chân qua vừa thơ mộng vừa hùng vĩ. Trong nỗi nhớ, những kỷ niệm còn tươi nguyên như sống dậy, nhà thơ nhớ đến hình ảnh một thời gian khổ:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Hai câu thơ mang giá trị tạo hình cao diễn tả một cách cụ thể và sinh động nhất những gian khổ của người lính Tây Tiến trên đường ra trận. Câu thơ thứ nhất ngắt nhịp 4/3 và chủ yếu được gieo thanh trắc đã gợi cho người đọc cảm nhận về một sự trúc trắc gập ghềnh đầy hiểm nguy. Nhưng cái hay của câu thơ chính ở hai từ láy "khúc khuỷu, "thăm thẳm", nó gợi cho người đọc những cảm nhận về một không gian được mở ra nhiều chiều; cao, rộng, sâu, xa, người đọc như sẻ chia được cùng với người lính những vất vả, gian khó. Câu thơ thứ hai chữ "heo hút" được dùng rất đặc sắc, nó khác với hun hút, nếu "hun hút" gợi được độ sâu thì heo hút không giới hạn, từ heo hút không chỉ gợi ra độ sâu mà còn thêm cả cảm giác hoang vắng, lạnh lẽo, hiu quạnh. Địa hình chiến đấu của người lính Tây Tiến quả thực đầy gian khó và nguy hiểm. Hơn thế nữa ba chữ "súng ngửi trời" được sử dụng thật độc đáo, nó cũng giống như hình ảnh "đầu súng trăng treo" của Chính Hữu bao trùm lên hình ảnh là một không gian tưởng tượng lãng mạn, nhưng nó được bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực, từ con mắt tinh tế và ngòi bút đa tài của nhà thơ. Nhờ hình ảnh "súng ngửi trời", câu thơ nói về những gian khổ vất vả nhưng lại làm ngời lên khí phách ngạo nghễ và tư thế hiên ngang của con người, ngoài ra nó còn thể hiện một chút dí dỏm tinh nghịch, một phong cách lính trẻ trung và lãng mạn. Giữa thiên nhiên hoang sơ vắng lạnh, hình ảnh con người không cảm thấy bé nhỏ cô đơn mà lại khẳng định tư thế làm chủ, khẳng định bản lĩnh của một chiến sĩ anh hùng và tinh thần lạc quan của con người. Không những thế, hình ảnh một thời gian khổ còn được biểu hiện qua những câu thơ:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Hình ảnh "oai linh thác gầm thét" và "Mường Hịch cọp trêu người" là những dẫn chứng sống động nhất về những gian khổ hiểm nguy mà người lính Tây Tiến đã phải trải qua khoảng thời gian "chiều chiều", "đêm đêm" trở thành một khoảng thòi gian ước lệ, nó giống như một ám ảnh về Tây Tiến thời gian in sâu trong tiềm thức của chính tác giả. Viết về những gian khổ của người lính, ngòi bút của Quang Dũng cũng ghi lại những hình ảnh hết sức chân thực:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Bao nhiêu vất vả nhọc nhằn của người lính được thể hiện qua hai chữ "dãi dầu". Tuy nhiên từ "dãi dầu" vẫn giúp cho người đọc cảm nhận được chút phong trần giá bụi của người lính trên đường hành quân, phải chăng vì thế hình ảnh của họ thấp thoáng bóng dáng của người tráng sĩ, chinh phu thuở nào. Qua những chữ "bỏ quên đời" ta thấy khí phách bản lĩnh của người lính lại được ngời sáng từ chính những hiện thực tưởng chừng như gian khổ khốc liệt – một chút bất cần phó mặc nhưng hơn hết là một tráng trí anh hùng, dẫu là mỏi mệt hay dầu là hy sinh thì họ vẫn coi những biểu hiện ấy rất đỗi nhẹ nhàng. Những người lính Tây Tiến khi chiến đấu thật anh dũng quả cảm nhưng những giây phút nghỉ ngơi của họ cũng đầy lãng mạn, mê say:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Họ bỏ lại sau lưng mình những hòn tên mùi đạn, gạt bỏ những lo lắng vất vả của cuộc chiến, giữa đời thường, người lính Tây Tiến hiện lên thật bình dị, gần gũi. Một buổi liên hoan bỗng chốc biến thành một ngày hội tưng bừng náo nhiệt qua lăng kính lãng mạn của người chiến sĩ không gian của đêm hội đuốc hoa thật rực rỡ lung linh, câu thơ tràn đầy ánh sáng và màu sắc, trong thơ như có họa. Chữ "bừng" được dùng rất hay, nó không chỉ là sự bùng lên của ánh sáng, của bó đuốc đêm hội mà là sự bùng lên của niềm vui, niềm say mê kiêu hãnh. Trong sự náo nức của đêm hội ấy, hình ảnh người em gái là hình ảnh trung tâm, bao nhiêu con mắt như đổ dồn về phía người em gái để mà "kìa em xiêm áo tự bao giờ" - một cảm xúc ngạc nhiên đến sững sờ nhưng đi liền ngay sau đó là cảm xúc ngây ngất đắm đuối và say mê. Từ Hán việt "xiêm áo" tạo ra nét trang trọng, ở đây hình ảnh người em gái như được mỹ lệ hóa. Những chữ "tự bao giờ" như không giấu nổi cảm xúc ngây ngất của những người lính Tây Tiến, họ ngỡ như hình ảnh của đêm hội với người em gái ấy đã có tự lâu lắm để rồi bất chợt lại thấy ngỡ ngàng. Bức tranh đêm hội được lung linh hóa, mỹ lệ hóa để rồi người đọc tưởng người em gái ấy tựa như một nàng tiên bước ra từ cổ tích giữa hiện thực khốc liệt dữ dội người ta bắt gặp hình ảnh như là huyền thoại, đây chính là sắc thái lãng mạn của bài thơ. Điểm thêm vào bức tranh đêm hội ấy là hình ảnh của nhạc, của khèn, nhịp thơ đồng thời là nhịp của tiếng lòng náo nức mê say, tiếng nhạc của tâm hồn như lan tỏa ra từng câu chữ. Một thời mê say và lãng mạn của người lính Tây Tiến còn được gọi nhắc qua hình ảnh rất đẹp đẽ:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Hình ảnh của cơm lên khói, hương vị của nếp xôi nồng nàn mà tha thiết như quyện chặt tâm hồn người đi xa. Câu thơ chủ yếu gieo thanh bằng, tạo ra một cảm xúc lâng lâng chơi vơi, một chút bâng khuâng nhung nhớ, một chút da diết khắc khoải cũng đủ làm nao lòng người khi nhớ về Tây Tiến. Viết về một thời mê say ấy, Quang Dũng có những câu thơ rất đỗi tài hoa.

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Câu thơ thứ nhất như được bẻ gãy làm đôi, gợi ra cái trập trùng hiểm trở của núi rừng Tây Tiến. Còn câu thơ thứ hai giống như một tiếng buông lơi thật dịu nhẹ chơi vơi. Câu thơ như đẩy tư duy người đọc về một hoài niệm nào đó đã xa vắng trong nỗi niềm của tác giả: tưởng là mơ hồ không xác định, tưởng là vu vơ bất chợt nhưng lại cứ ám ảnh và khắc khoải trong tâm trí tác giả, không những thế, câu thơ còn cố tiết tấu giai điêu rất rõ thể hiện tính nhạc cao. Như vậy người chiến sĩ cũng chính là người nghệ sĩ. Cuộc sống kháng chiến không chỉ có gian khổ mất mát mà còn đẹp lung linh trong tâm hồn người lính. Chính cuộc sống này, cuộc sống đầy chất thơ và mộng này, đã xua tan đi những mỏi mệt, gian lao trong đời sống chiến đấu của người lính. Tiếp đó, mạch cảm xúc đã có sự chuyển đổi: đang ở giọng náo nức giục giã mê say chuyển sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng pha một chút hoài niệm ngậm ngùi:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có thấy dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Hoài niệm của tác giả bắt đầu từ hình ảnh "chiều sương ấy", không gian như thoáng phủ một nỗi buồn mênh mang. Chữ "ấy" có ý nghĩa định vị về mặt không gian như muốn đẩy những kỉ niệm lùi về một nơi rất xa, nó giúp cho người đọc cảm nhận được khoảng cách vời vợi của nhớ thương. Những câu thơ gợi nhiều hơn tả, các hình ảnh được gợi ra không phải là những hình ảnh cụ thể chi tiết mà chỉ là dáng, là hình, rất khó định hình, khó nắm bắt. Nhà thơ dường như không miêu tả cảnh mà chỉ gợi lại cái linh hồn của nó, hay nói đúng hơn cảnh vật được nhìn qua lăng kính nhớ thương, không rõ nét, mờ mờ ảo ảo, hư hư thực thực. Không phải miêu tả lau mà là "hồn lau", không phải miêu tả người mà là "dáng người", người đọc cảm nhận được một không gian hoang sơ vắng lặng đượm một nỗi buồn mênh mang. Đặc sắc nhất của khổ thơ là việc sử dụng cấu trúc câu "có thấy", "có nhớ". Đây không chỉ là câu hỏi mà còn giống như một lời gợi nhắc, một lời nhắn nhủ tha thiết ân tình. Phải chăng hồn lau ấy, dáng người ấy đã trở thành những hình ảnh ám ảnh tâm hồn tác giả, để rồi khi gợi nhắc về nó giống như một điểm nhấn của xúc cảm. Đặc biệt, sự biến đổi trong cách sử dụng các cụm từ "có thấy", "có nhớ" còn là sự thay đổi về giác quan, không chi là cái nhìn mà còn là tâm hồn, trái tim được đánh thức. Câu thơ thứ tư khá độc đáo, nó xuất hiện hình ảnh "nước lũ" đối lập với hình ảnh "hoa đong đưa": một bên là cái mạnh mẽ dữ dội, một bên là cái nhẹ nhàng thật khẽ thật êm. Có lẽ hình ảnh "hoa đong đưa" không còn là hình ảnh tả thực mà đã trở thành hình ảnh diễn tả tâm trạng nỗi niềm của tác giả. Từ láy "đong đưa" khác với từ láy "đu đưa", nó không chỉ miêu tả dáng hình và sự chuyển động như từ "đu đưa" mà còn là đầy tình ý, nó còn là sự đong đưa của ánh mắt đầy hoài niệm mê say, đầy sắc thái lãng mạn và phong cách sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Quang Dũng. Đọc Tây Tiến chúng ta như sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử. Để khắc họa chân dung người lính, nhà thơ đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh đó lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạng để tô đậm cái phi thường, tài hoa, đem đến cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong thời kỳ lịch sử:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Nhà thơ Quang Dũng gọi tên binh đoàn của mình bằng tên gọi khá thú vị "đoàn binh không mọc tóc". Thật thú vị khi những con người ấy lại lấy chính hiện thực gian khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh và tự tôn cho chính mình. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực thiếu thốn khắc nghiệt "tiểu đội xe không kính", qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan và chất lính dí dỏm hài hước. Câu thơ thứ hai tạo ra hai vế đối lập: "quân xanh màu lá"với "dữ oai hùm", một bên là cái thiếu thốn khó khăn gian khổ, một bên là khí phách anh hùng của những người lính Tây Tiến. Ba tiếng "dữ oai hùm" tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ, người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn quân ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh tô đậm nét hùng dũng. Những người lính Tây Tiến cũng là những người lắm mộng nhiều mơ, những người giàu khát vọng hoài bão. Đến đây nhà thơ đã tạo ra nét vẽ chân thực về hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hai câu thơ đã nhấn mạnh chữ "mộng" và "mơ". Từ "trừng" được dùng khá đặc sắc, nó cho thấy bao nhiêu tâm nguyện, bao nhiêu khát vọng hoài bão tự đáy lòng đêu dâng cả lên trên ánh mắt. "Mắt trừng" chỉ một hành động mạnh, nhưng không phái là trừng trị, dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu, khôn nguôi thể hiện những nhung nhớ, ước ao đến khắc khoải. Chữ "mộng" khiến cho câu thơ như bị trùng xuống, ẩn chứa xúc cảm bâng khuâng. Câu thơ của Quang Dũng gợi nhắc người đọc tới một câu thơ của Nguyền Đình Thi: "Những đêm dài hành quân nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu". Nỗi nhớ người yêu, nhớ "dáng kiều thơm" nào đó thật đời thường, bình dị nhưng cũng thật cao quý. Nó khiến cho hình ảnh người lính trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi nhớ ấy trong hành trang của họ như tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu và chiến thắng, nó như một điểm tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh Hà Nội rời ghế nhà trường tham gia chiến trận – những con người "lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa".

Những người lính Tây Tiến sống anh hùng mà chết cùng anh hùng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đì chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Cái độc đáo là nhà thơ viết về sự ra đi của họ nhưng không tô đậm sự sầu thương bị lụy, sự ai oán não nùng mà nhấn mạnh dũng khí hùng tráng, khí phách anh hùng. Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ đến đây âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống, nó giống như một thước phim quay chậm.

Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, sự chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao mồ viễn xứ của những kẻ chết xa quê. Nhưng những người chiến sĩ của chúng ta nhìn với ánh mắt bình thản bởi họ chấp nhận điều đó. Nếu câu thứ nhất tô đậm cái "Bi" thì câu thứ hai tô đậm nét "Tráng", "Hùng". Câu thơ thứ hai giống như một cái hất đầu ngạo nghễ của anh lính Tây Tiến: bất chấp khó khăn, bỏ mặc chết chóc hiểm nguy cận kề, những người lính Tây Tiến vẫn kiên định trong ý chí, dũng cảm trong hành động, ngạo nghễ trong khí phách người anh hùng. Tác giả mượn hình ảnh "áo bào" để gợi tả sự ra đi của những người lính. Đặc biệt nó còn gắn với hình ảnh thiêng liêng và tạo ra sắc thái trang trọng, giảm bớt nỗi buồn thương bi lụy. Nó tạo ra một hình ảnh hết sức cảm động, giống như một sự sẻ chia đồng cảm của tác giả đối với những người lính Tây Tiến. Câu thơ tiếp lại xuất hiện hình ảnh sông Mã - chứng nhân của lịch sử. Sông Mã tấu lên "khúc độc hành" - khúc ca đơn độc buồn thương. Chữ "gầm" - biện pháp nhân hóa, nỗi nhớ thương của lòng người như hóa thân vào nỗi nhớ thương của dòng sông hay dòng sông ấy đang chở đi những khúc ca đau đớn của con người. "Anh về đất" là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt người con yêu dấu của giống nòi. Cuối cùng, sau khi đã hồi tưởng lại bình ảnh đoàn binh Tây Tiến một thời mê say lãng mạn, Quang Dũng đã bộc lộ nỗi niềm mong ước gặp lại Tây Tiến:

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

Câu thơ đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ, nhưng vẫn mang trong nó âm hưởng tráng trí ngất ngời. Câu thơ nói về biệt li, về xa cách, có ngậm ngùi nuối tiếc nhưng vần đầy dũng khí, quyết tâm. Khoảng cách càng xa thăm thẳm thì nỗi nhớ càng trở nên vời vợi bởi xa Tây Tiến không biết bao giờ mới gặp lại. Người đọc cảm thấy nỗi nhớ thương như là đang đầy cả câu thơ. Hai câu cuối, giọng điệu và mạch cảm xúc có sự chuyển hướng: câu thơ giống như một lời mời gọi, một lời nhắn nhủ, ước hẹn tha thiết ân tình. Phải chăng đây là lời hẹn gặp Tây Tiến vào mùa xuân – mùa xuân của hội ngộ, của chiến thắng. Điều đó chứng tỏ tác giả mong ngày gặp lại Tây Tiến, trở về Tây Tiến chính là ngày chiến thắng. Câu thơ kết vang lên đầy kiêu hãnh như một lời thề, lời hứa quyết tâm. Từ nỗi nhớ về một đoàn binh, về những con người cụ thể đã hóa thân thành nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây Tiến đã trở thành nỗi nhớ, niềm yêu tha thiết của Quang Dũng.

Nhà phê bình Phong Lan nhận định: "Tây Tiến là một tượng đài bất tử về người lính vô danh" - bất tử bởi chính những vẻ đẹp hào hoa, hào hùng bi tráng. Vì vậy, người lính Tây Tiến qua bài thơ cùng tên của Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi vĩnh hằng và trong thế giới nhân sinh.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến - Bài văn mẫu số 6

Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa

Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.


Chân dung đoàn binh Tây Tiến chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ "Đoàn quân" thì ở đây tác giả dùng "Đoàn binh". Cũng đoàn quân ấy thôi nhưng khi dùng "Đoàn binh" thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ "không mọc tóc" là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.

Các chi tiết "không mọc tóc, quân xanh màu lá" diễn tả cái gian khổ khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là "tóc không mọc" da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế "dữ oai hùm". Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

"Mắt trừng" biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ "không mọc tóc", "quân xanh màu lá". Chính từ thực trạng này mà chân dung người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày "Mắt trừng gửi mộng" giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc nhưng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa, ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.

Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gần lên khúc độc hành.

"Mồ viễn xứ" là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đường hành quân, nhưng không thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu:

"Áo bào thay chiếu anh về đất"

Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh "áo bào" làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ "áo bào" lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai "thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ "về" nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết "Anh về đất" là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.

Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.

"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng.

Bốn câu kết:

Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.

"Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy"

"Mùa xuân" có thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.

Hình ảnh "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi", "chẳng về xuôi" bỏ mình trên đường hành quân "Hồn về Sầm Nứa": chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm hưởng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: "Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc".

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến - Bài văn mẫu số 7

Nhắc đến kháng chiến chống Pháp, ta sẽ nhớ ngay những người lính nông dân trong Đồng Chí – Chính Hữu: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Và cũng không thể không nhắc đến người lính Tấy Tiến trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Quang Dũng. Bằng ngòi bút vừa hiện thực, vừa lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức tượng đài bất tử về những người lính vô danh mà anh dũng, kiên cường.

Tây Tiến là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, bởi vậy chân dung người lính cũng được tác giả tái hiện tương tự như vậy. Những người lính Tây Tiến không còn cái e dè thuở ban đầu như những người lính trong bài Đồng chí, mà đã mang trong mình nét vừa hóm hỉnh, vừa hiên ngang, mà cũng rất đỗi tài hoa của những người dân xuất thân từ tầng lớp trí thức.

Bài thơ được Quang Dũng mở đầu bằng nỗi nhớ chơi vơi, khắc khoải:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Ta từng biết đến nỗi nhớ tha thiết, bổi hổi “như đứng đống lửa, như ngồi đống than” của những chàng trai cô gái đang yêu nhau trong ca dao,… nhưng ta lại chưa từng thấy nỗi nhớ “chơi vơi”. Đó là một nỗi nhớ thật đặc biệt, thật ấn tượng. Tuy là chơi với ấy nhưng vô cùng thâm trầm, sâu sắc, thấm đượm. Và cũng từ chính nỗi nhớ ấy, Quang Dũng truy dòng hồi tưởng nhớ về những người đồng chí của mình.

Hình ảnh đầu tiên mà ông nhớ đến chính là những đoàn quân hành quân trong màn sương dày dặc: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Một nét vẽ thật hiện thực, thật trần trụi về hành trình chiến đấu gian khổ của họ, họ không chỉ phải đối mặt với thiếu thốn về vật chất, mà còn phải đối mặt với thiên nhiên, khí hậu khắc nghiệt. Nhưng đằng sau đó cũng lại cho ta thấy tinh thần quật cường của những người lính này.

Chân dung người lính vô danh tiếp tục được khắc họa là một nét vẽ hiện thực khác:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Trên đường hành quân dài ngày, người lính phải đối mặt với vô vàn khó khan: địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, thiên nhiên hoang dã, đầy nguy hiểm,… bởi vậy không ít người đã phải bỏ mạng ở nơi rừng thiêng nước độc. Cách gọi anh bạn của tác giả cũng đây thân thương, gần gũi mà cũng trân trọng, xót thương. Cách nói giảm nói tránh “anh bạn dãi dầu không bước nữa” khiến cho cái chết trở nên bớt bi thương hơn, đồng thời cũng khiến cho tổng thể văn bản không nhuốm màu sắc bi lụy.

Sau những nét vẽ thấp thoáng, nhòa nhạt phải đến tận khổ thơ thứ ba chân dung của người lính Tây Tiến mới được phác họa rõ nét:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Đây chính là hình ảnh trung tâm, phối ứng hòa hợp với vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên cũng là vẻ đẹp hào hùng của con người – đó chính là binh đoàn Tây Tiến kiên cường, anh dũng. Họ là những con người không nề hà, khó khăn, gian khổ, mang sức trẻ, niềm tin, khao khát lên đường. Bởi vậy với căn bệnh sốt rét rừng họ không hề sợ hãi né tránh, cách nói thật chủ động: “không mọc tóc” khẳng định khí thế bản lĩnh của bản thân. Màu xanh của da cũng như hòa với màu lá của rừng, đầy oai hùng, dữ dội. Họ hiện lên thật oai phong, ngạo nghễ những đồng thời cũng vô cùng lãng mạn, hào hoa:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Đây quả là một thái cực hoàn toàn trái ngược, mà ta khó có thể hình dung nổi lại tồn tại song song và hòa hợp đến thế trong người lính Tây Tiến. Trong câu thơ đầu, hình ảnh người chiến sĩ hiện lên với hùng tâm tráng trí của kẻ làm trai: “Làm trai cho đáng nên trai/ Xuống đông đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên”. Và nó được thể hiện cái đôi mắt trừng đầy cảnh giác, đầy căm phẫn với kẻ thù, thể hiện lí tưởng anh dũng, hào hùng, thể hiện khát vọng vươn cao hơn, xa hơn. Nhưng câu thơ sau lại dịu dàng, mơ mộng biết mấy. Dáng kiều thơm, vừa có dáng hình, vừa có mùi hương, thật thơ mộng và lãng mạn biết bao. Hình ảnh những người con gái đẹp Hà thành xuất hiện làm với bớt cái khắc nghiệt của chiến tranh, tiếp thêm một nguồn sức mạnh mới cho người chiến sĩ.

Ngay khổ thơ sau đó, Quang Dũng một lần nữa nhìn thẳng vào hiện thực, hiện thực chết chóc, đầy bi thương:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Vì chiến tranh, vì môi trường khí hậu khắc nghiệt mà không ít chiến sĩ đã phải bỏ mạng trên đường hành quân, những nấm mồ rải rác nơi biên cường lãnh lẽo, xa xôi. Câu thở sử dụng hàng loạt từ Hán Việt: biên cường, viễn xứ tạo nên sự trang nghiêm, tôn kính. Và câu thơ tiếp theo càng làm bật lên khí phách của người chiến sĩ, họ ra đi chẳng tiếc khoảng thanh xuân đẹp đẽ, tươi trẻ nhất của mình. Bởi lên đường là họ đã tìm thấy cho mình lí tưởng sống tươi đẹp: hi sinh vì sự độc lập, tự do của tổ quốc. Cũng bởi lí tưởng đó, cái chết của họ cũng được tác giả lí tưởng hóa, trở nên hùng tráng và thiêng liêng hơn:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Anh mang trên mình chiếc “áo bào” trở về với đất mẹ, trở về với khởi nguyên. Và tiễn đưa họ là tiếng sống Mã gầm lên, vừa thể hiện sự xót thương, vừa là tiếng gầm của núi sông cảm ơn những người con dũng cảm đã sẵn mình xả thân cho mảnh đất này.

Với sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, chân dung những người lính vô danh đã được Quang Dũng tạc lên vô cùng anh dũng, đẹp đẽ. ở họ vừa có cái ngang tang, phí phách của một người anh hùng, nhưng cũng vô cùng lãng mạn hào hoa của một kẻ sĩ đất Bắc. Chính họ, những con người vô danh ấy lên đường, cống hiến tuổi trẻ, hi sinh bản thân để dành được độc lập cho tổ quốc, chính họ là người đã làm nên Đất Nước.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến - Bài văn mẫu số 8

Quang Dũng không hề che giấu những khó khăn, gian khổ và hiện thực nghiệt ngã mà người lính phải chịu đựng. Tuy nhiên, sự thật ấy không được miêu tả trần trụi, khô cứng mà thông qua cái nhìn lãng mạn, thi vị:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Người lính Tây Tiến hiện lên với một vẻ đẹp ngoại hình dữ dội, lẫm liệt. Những chàng trai với cái đầu “không mọc tóc”, với nước xa ngăn ngắt xanh đâu phải sản phẩm của trí tưởng tượng để tạo nên sự li kì. Đó là hiện thực của những năm tháng không thể nào quên. Có thể, do người lính chủ động cạo trọc để thuận tiện khi đánh nhau với giặc, có thể do ốm đau, tật bệnh khiến các anh rụng tóc, trụ đầu. Cách dùng từ độc đáo đã đảo thế bị động thành chủ động như một nhà phê bình đã viết: “Không phải là các anh không thể mọc tóc mà dường như không thèm mọc tóc”. Chất ngang tàn, kiêu dũng, xem thường gian lao của người chiến binh đã được thể hiện từ những chi tiết đời thường như thế. Nét vẽ thứ hai về người lính Tây Tiến qua hình ảnh “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Đó là màu xanh của bộ quân phục người chiến sĩ hay màu xanh của những vòm lá ngụy trang hay màu xanh vì căn bệnh sốt rét rừng hằn in trên làn da đoàn quân Tây Tiến.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Ánh “mắt trừng” chứa đầy cảm xúc, đầy nội tâm. Phải chăng đó là ánh mắt căm phẫn, uất nghẹn như muốn nuốt chửng kẻ thù xâm lăng, cũng có thể là ánh mắt đau đáu về quê hương, ánh mắt bồn chồn, thao thức thăm thẳm suy tư nặng trĩu nỗi niềm. Đằng sau ánh mắt ấy là cả một niềm khao khát, mang theo giấc mộng chiến thắng, hứa hẹn ngày trở về, đôi khi giữa ánh mắt xa xăm, rạo rực, khắc khoải xen lẫn giấc mơ về Hà Nội, nhớ Hà Nội – dải đất thiêng ngàn năm văn hiến.

Trong bài thơ Tây Tiến, ngòi bút Quang Dũng không chỉ hướng về vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa mà còn tập trung thể hiện chất hào hùng, bi tráng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Giọng thơ bỗng nhiên lắng xuống da diết hơn, đắm sâu vào cõi lòng người đọc, dấy lên nỗi mất mát tang tóc đau thương được dồn nén trong từ “rải rác”. Trên những chặng đường hành quân bao đồng chí, đồng đội của Quang Dũng ngã xuống, gửi thân xác mình nơi khe suối sườn đèo, cứ thế nỗi đau triền miên, nỗi đau này chưa vơi, nước mắt này chưa ráo thì nỗi đau khác đã cọ cứa vào trái tim những người còn sống.

Hai câu thơ khép lại một lần nữa tô đậm đức hi sinh của những chàng trai đất Hà thành được Quang Dũng thể hiện qua âm hưởng thơ trầm hùng, bi tráng:

“Áo bào thanh chiếu anh về đất

Sông Mã gần lên khúc độc hành”

Quang Dũng có lần tâm sự: “lính Tây Tiến ngã xuống, manh chiếu không đủ che thân, đồng chí, đồng đội vào những bản làng xa xôi để xin chiếu, khi hiểu rõ mục đích của việc sử dụng chiếu, già làng không cầm được nước mắt, họ cùng nhau đan những phên nứa cho cho các anh bó gối thi hài đồng đội”

Bốn câu thơ cuối một lần nữa nhấn mạnh lời thề thiêng liêng vì tinh thần sẵn sàng xả thân cho Tổ quốc. Dù khó khăn gian khổ nhưng không một người chiến sĩ nào thoái thác nhiệm vụ

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

“Tây Tiến” là một bài thơ xuất sắc của Quang Dũng và thơ ca kháng chiến chống Pháp. Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến được tái hiện đầy lãng mạn với một tinh thần bi tráng. Với tác phẩm “Tây Tiến”, Quang Dũng đã góp vào viện bảo tàng người chiến sĩ Việt Nam một bức chân dung đẹp và độc đáo.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến - Bài văn mẫu số 9

Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng là một trong những tác phẩm đặc sắc với hình tượng người lính cụ Hồ. Chân dung người lính cách mạng trong thời kì kháng chiến chống Pháp huy hoàng của dân tộc được hiện lên một cách bi tráng và oai hùng. Nhà thơ Quang Dũng viết về người lính Tây Tiến – đơn vị quân đội thành lập năm 1947 với nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt – Lào – cùng sự kiêu hãnh và niềm tự hào với tất cả tình cảm chân thành của ông.

Chiến sĩ Tây Tiến phần lớn là thanh niên, học sinh sinh viên Hà Nội. Họ là những người biết đến chiến trường khắc nghiệt, nguy hiểm và thiếu thốn kể từ khi đi lính. Bài thơ Tây Tiến là kỉ niệm, hoài niệm của tác giả thay cho lời muốn nói của những người chiến sĩ kiên cường và đồng thời là lời của đồng bào dân tộc ta. Hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ mang những nét phẩm chất đặc trưng của người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

..............

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Người lính Tây Tiến mang một vẻ đẹp rất mực hào hùng, hào hoa giữa môi trường chiến đấu khắc nghiệt. Xuất thân là những chàng trai Hà Nội lãng mạn, những người lính nhìn đời bằng con mắt mơ mộng và đầy tinh thần lạc quan của tuổi trẻ. Ngoài thiên nhiên khắc nghiệt, khó khăn chồng tiếp khó khăn với đoàn quân khi mà những người lính trẻ tuổi còn phải đối mặt với bệnh tật. Bệnh sốt rét làm “đoàn binh không mọc tóc”, tóc rụng và nước da xanh xao như “màu lá”. Thế nhưng tinh thần của họ không bao giờ là bi ai tuyệt vọng. Họ vẫn đứng lên chiến đấu với tâm thế “dữ oai hùm”, “mắt trừng”. Họ vẫn mơ mộng về “Hà Nội dáng kiều thơm”. Họ vẫn là những chiến sĩ trẻ tuổi lãng mạn trong tình yêu và lạc quan trong cách sống. Sự lạc quan ấy như tiếp thêm sức mạnh cho họ trở nên kiên cường và gan dạ dù có khó khăn đến mấy, dù điều kiện môi trường có khắc nghiệt đến nhường nào. Thiên nhiên hoang vu hiểm trở đến thế, tư thế vượt qua của người lính Tây Tiến thật oai phong lẫm liệt và đầy khí phách:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

...........

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Những con dốc nguy hiểm “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” có thể lấy mạng người chiến sĩ bất cứ lúc nào. Vượt qua muôn trùng hiểm trở, tư thế của người lính thật ngang tàn và hùng dũng biết bao “súng ngửi trời”. Người lính tay cầm cao cây súng hiên ngang bảo vệ non sông đất nước. Giữa thiên nhiên vắng vẻ hiểm trở đến “heo hút”, chân dung người lính cụ Hồ vẫn sừng sững kiên cường và trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

............

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Người lính Tây Tiến mang trong mình triết lí sống cao đẹp thấm đượm tình người. Bên cạnh những đôi mắt “trừng” đương đầu với kẻ địch bên bến bờ sinh tử, bên cạnh tư thế hiên ngang hùng dũng chống chọi với thiên nhiên vô tình, những người lính ấy còn có một đời sống tinh thần nồng nàn tình thân với đồng bào dân tộc. Họ trở về là những chàng trai thành thị vui đùa với những cô gái Lào duyên dáng thướt tha. Họ chìm đắm trong cảm xúc nhung nhớ về ngày tháng gắn bó với con người và miền đất nơi đây. Đằng sau tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh của họ là tâm hồn yêu thiên nhiên, đất nước và con người sâu đậm.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

.............

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Nét đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của giới trẻ thời kì kháng chiến. Công cuộc bảo vệ đất nước dài đằng đẵng và khó khăn biết mấy, hòa bình đánh đổi bằng mồ hôi xương máu và muôn vàn sự hy sinh. Đã có biết bao người lính trẻ đã ngã xuống giữa đất trời Tây Bắc. Thân xác các anh nằm lại nơi biên cương “viễn xứ”. Thế nhưng họ vẫn hùng dũng kiên cường cầm súng bảo vệ tổ quốc mà “chẳng tiếc đời xanh”. Cho đến khi ngã xuống, thân xác họ chỉ có chiếc chiếu quý như chiếc “áo bào”, chôn “rải rác”. Những cái chết ấy vừa bi thương vừa tráng lệ, để đời sau cảm phục biết bao trước sự hy sinh bất khuất của những người lính Tây Tiến anh hùng.

Qua bút pháp lãng mạn của nhà thơ Quang Dũng, hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp độc đáo ngang tàng, oai hùng trong mọi hoàn cảnh và mọi tâm thế. Chân dung người lính Tây Tiến chói ngời trong vẻ đẹp lí tưởng, sẵn sàng hi sinh cho độc lập dân tộc. Chúng ta đang được hưởng nền độc lập từ xương máu ông cha ta và các thế hệ đi trước hy sinh mà thành. Ta cảm phục, tự hào và biết ơn sâu sắc những người lính Tây Tiến – người lính cụ Hồ.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến - Bài văn mẫu số 10

Quang Dũng là một nhà thơ chiến sĩ với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu của một con người tài hoa, đa tài. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, là kết tinh của những trải nghiệm trong cuộc đấu tranh chống Pháp cùng những người đồng đội trong binh đoàn Tây Tiến. Thành công nổi bật của của bài thơ là xây dựng được hình tượng người lính Tây Tiến vừa mang dáng dấp của những người chiến sĩ thuở trước, vừa mang những vẻ đẹp hiện đại của những người chiến sĩ chống Pháp, kiên cường nhưng cũng rất đỗi hào hoa, phong nhã.

Đọc Tây Tiến, có ý kiến cho rằng “người lính ở đây có dáng dấp của tráng sĩ thuở trước". Ý kiến khác thì nhấn mạnh “Hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp”. Hai ý kiến tưởng chừng đối lập nhưng hoàn toàn thống nhất bởi nó đều là những nét đẹp đặc trưng trong hình tượng của những người lính Tây Tiến. “Dáng dấp của tráng sĩ thuở trước” là những nét đẹp lí tưởng mang tính ước lệ của văn chương trung đại, “mang đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ thời chống Pháp” lại hướng đến những nét đẹp hiện đại của những người chiến sĩ vệ quốc quân thời kháng chiến chống Pháp.

Trước tiên, hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên với dáng vẻ oai phong, lẫm liệt cùng tinh thần xả thân tự nguyện, tư thế ngang tàng, ngạo nghễ coi cái chết nhẹ tựa hồng mao:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

..............

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Hình tượng người lính Tây Tiến được đặt trong không gian đầy hào hùng, cổ xưa gợi cho độc giả liên tưởng đến không gian bi hùng cổ xưa, nơi những chiến binh anh hùng ra đi vào cuộc chinh chiến. Trong bài thơ Tây Tiến, tác giả Quang Dũng đã sử dụng hàng loạt những từ ngữ Hán Việt “biên cương”, “mồ viễn xứ”, “áo bào” để làm tăng tính trang trọng, để làm cho sự ra đi của người lính giảm bớt đau thương, thiêng liêng hóa cho sự hi sinh thầm lặng đó.

Không gian chiến trường trong bài thơ Tây Tiến hiện lên là miền viễn xứ chốn biên ải, đây là nơi chiến đấu, cũng là nơi mãi mãi nằm xuống của những người lính vô danh, họ đã dâng hiến cả cuộc đời, cả tuổi xanh cho sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ tổ quốc “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Trong sự thiếu thốn của hoàn cảnh, manh áo không lành lặn trên người của những người lính ấy cũng chính là “áo bào”để “thay chiếu anh về đất”. Tuy nói về cái mất mát, hi sinh đấy nhưng nhờ sử dụng ngôn ngữ trang trọng, hình ảnh ước lệ mà sự hi sinh ấy trở nên thật thiêng liêng, cao đẹp.

Không chỉ mang vẻ đẹp của những người chiến binh xưa mà những người lính Tây Tiến còn mang trong mình vẻ đẹp của những người chiến sĩ giải phóng của thời chống Pháp, hào hùng, kiên cường nhưng rất đỗi hào hoa, lãng mạn. Những người lính trong binh đoàn Tây Tiến chiến đấu với tinh thần vệ quốc của cuộc kháng chiến chống Pháp, quyết hi sinh, dâng hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp lớn của đất nước:

“Người đi Tây Tiến không hẹn ước

.............

Hồn về Sầm Nứa, chẳng về xuôi”

Sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt, thiếu thốn về vật chất, hiểm nguy trong chiến đấu với cái chết kề cận nhưng những người lính ấy chưa từng thoái chí, sờn lòng mà luôn lạc quan, vui vẻ thể hiện được sức sống căng tràn của những chàng trai Hà Thành lãng mạn, mộng mơ:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Cuộc sống quân ngũ gian khổ nhưng những người lính vẫn một lòng hướng về biên giới với tinh thần đấu tranh quyết liệt, mạnh mẽ với kẻ thù. Cùng với sự kiên cường, quả cảm trong chiến đấu là những phút lãng mạn, hào hoa của những chàng trai khi nhớ về bóng dáng kiều thơm. Những người lính trong tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng của những người lính vệ quốc nhưng cũng thể hiện những nét đẹp tươi trẻ, nghịch ngợm của những chàng trai đôi mươi đầy lãng mạn, mộng mơ. Cũng chính tinh thần lạc quan, yêu đời cùng những cảm xúc hào hoa, lãng mạn ấy đã mang đến doanh trại – nơi vốn trang nghiêm với những kỉ luật thép trở nên thật rực rỡ, ấn tượng với “hội đuốc hoa”.

Hình tượng những người lính Tây Tiến cũng được gắn liền với sự kiện lịch sử có thật, đó chính là cuộc hành binh của những người lính Tây Tiến, những địa danh xuất hiện trong bài thơ cũng là những địa danh có thực, ngôn ngữ thơ cũng thật bình dị như lời thì thầm tâm sự của những người lính.

Như vậy, hai ý kiến nhận định về bài thơ Tây Tiến nhìn bên ngoài có vẻ đối lập nhưng hoàn toàn thống nhất vì cùng hoàn thiện cho vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, vừa kiên cường, quả cảm vừa lãng mạn hào hoa.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 11

 Sự nghiệp của Quang Dũng không phong phú, đồ sộ như nhiều nhà thơ khác, nhưng mỗi tác phẩm ông để lại đều khắc dấu ấn đậm sâu trong lòng bạn đọc. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, nổi bật nhất là tác phẩm Tây Tiến. Qua những vần thơ đầy tinh tế mà cũng vô cùng chân thực, ông đã tái hiện thành công chân dung người lính, binh đoàn Tây Tiến.

    Tây Tiến được sáng tác năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, sau khi Quang Dũng đã rời binh đoàn Tây Tiến để nhận nhiệm vụ khác. Mặc dù đã rời binh đoàn nhưng nỗi nhớ, tình yêu với binh đoàn vẫn luôn tha thiết, nó đã giúp ông kết tinh nên tác phẩm nghệ thuật này. Bởi vậy, trong tác phẩm cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ tha thiết, sâu đậm.

    Trong phần đầu của tác phẩm, Quang Dũng đã tái hiện một thiên nhiên vừa hoang dã, bí ẩn vừa nên thơ trữ tình và thấp thoáng trong đó ta cũng thấy dáng hình binh đoàn Tây Tiến: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Câu thơ tái hiện chân thực cái chết của người lính trên đường hành quân, nhưng cách nói về cái chết của Quang Dũng rất đặc biệt. Ông diễn tả cái chết bằng hình ảnh “không bước nữa” “bỏ quên đời” đó vừa là cách nói giảm nói tránh làm dịu bớt cảm giác đau thương mất mát, nhưng quan trọng hơn cách nói như vậy tạo nên giọng thơ gân guốc, rắn rỏi, ngang tàng. Không phải người lính không nhìn thấy những khó khăn nhưng họ dám chấp nhận đối diện với hiện thực. Bởi vậy, khắc họa những khó khăn gian khổ cũng là cách Quang Dũng tạo thử thách để nhận ra những phẩm chất đẹp đẽ của người lính.

    Nếu như ở hai phần thơ đầu tiên mới chỉ là những nét vẽ hết sức ít ỏi về người lính, thì sang phần thứ ba, chân dung của họ mới thực sự được tái hiện chân thực, rõ nét.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

    Hai câu thơ đầu tiên đã chạm khắc nổi bật ngoại hình của người lính Tây Tiến. Câu thơ là sự phản ánh hết sức chân thực, những người lính không mọc tóc, người gầy yếu xanh xao do bệnh sốt rét rừng gây ra, cùng với sinh hoạt còn nhiều thiếu thốn, khó khăn, cực khổ, chính những yếu tố đó đã khiến người lính có vẻ bề ngoài thật khác thường. Quang Dũng không tô vẽ hiện thực, mà ông phản ánh như đúng những gì nó diễn ra. Nhưng cái mà ông muốn nhấn mạnh không phải những gian khổ, khó khăn mà đó chỉ là những thử thách để thấy được bản lĩnh, sự phi thường của những người lính Tây Tiến. Bởi vậy, tác giả đã xây dựng hình ảnh đối lập với những khó khăn ấy chính là hình ảnh “dữ oai hùm” – thần thái oai phong, dữ dội và vô cùng anh dũng. Kết hợp với kiểu câu chủ động “không mọc tóc” tạo nên hơi thơ gân guốc, rắn rỏi, bản lĩnh hiên ngang, sẵn sàng vượt lên mọi khó khăn, gian khổ.

    Đằng sau ngoại hình gai góc là một tâm hồn đầy mộng mơ, lãng mạn: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ thứ nhất đã nói lên khát vọng muôn đời của biết bao thế hệ, chính là giết giặc lập công. Ánh mắt ấy vừa chất chứa hờn căm với lũ giặc cướp nước, vừa hừng hực khí thế chiến đấu, sẵn sàng vùng lên chống lại kẻ thù. Nhưng bằng sự nhạy cảm, tinh tế của mình, Quang Dũng còn phát hiện được vẻ đẹp bề sâu, bề sau của người lính Tây Tiến, câu thơ thứ hai nhiều vần bằng, nhịp thơ trở nên trầm xuống, nhẹ nhàng hơn. Chữ “mơ” gói trong mình biết bao ý nghĩa, có thể là nỗi nhớ nhà da diết khắc khoải, cũng có thể là những ước mơ, khát vọng của người lính Tây Tiến. Bên cạnh nhiệm vụ lớn lao, chiến đấu vì Tổ quốc, người lính vẫn dành một góc nhỏ trong tâm hồn mình cho quê hương, gia đình. Giấc mơ của người lính đã hé lộ thế giới tâm hồn đầy lãng mạn, mộng mơ. Họ khác với những người lính nông dân, nhớ về những điều dung dị như: “Ruộng nương anh để bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay/ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” (Đồng chí – Chính Hữu). Người lính xuất thân từ trí thức tiểu tư sản lại mơ về những “dáng kiều thơm” – dáng vẻ tha thướt của thiếu nữ Hà thành. Chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm động lực, sức mạnh chiến đấu trong họ.

    Nhưng nổi bật và đẹp đẽ nhất là vẻ đẹp trong lý tưởng chiến đấu của họ:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

    Sử dụng bút pháp nhất quán từ đầu tác phẩm, đến đây tiếp tục là những khắc họa hết sức chân thực về cái chết của người lính. Hình ảnh “rải rác biên cương” vẽ ra không gian xa xôi, biên viễn nơi biên ải, ở đó biết bao chiến sĩ hi sinh, phải để lại thân xác nơi đất khách quê người. Có lẽ đây là câu thơ hiện thực trần trụi, đau đớn và xót xa nhất trong toàn bộ tác phẩm của ông. Nhưng không vì thế mà câu thơ trở nên bi lụy, ngay sau đó, ông đã khẳng định “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đời người chỉ có một lần “xanh” một lần tuổi trẻ đẹp đẽ, nhưng họ không hề tiếc nuối, họ sẵn sang hi sinh vì mục đích cao cả, bởi nếu “ai cũng tiếc thì còn chi tổ quốc” (Thanh Thảo).

    Hai câu thơ đã khắc họa đầy bi tráng về cái chết của người lính Tây Tiến:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

    Cuộc sống chiến đấu nhiều khó khăn, thiếu thốn, khi các anh hi sinh, ngay cả những nghi thức tang lễ đơn giản nhất cũng không được cử hành, thay vào đó chỉ là manh áo bọc lấy thân rồi trở về với đất mẹ. Bằng tất cả sự yêu thương, cảm thông, trân trọng Quang Dũng đã nâng nó lên thành chiếc áo bào, khiến cái chết trở nên trang trọng hơn. Cùng với đó là sự sử dụng mật độ dày đặc các từ Hán Việt tạo nên sắc thái trang trọng, cổ kính và biến cái chết của người lính Tây Tiến vôn là sự hữu hạn trở thành sự sống vô hạn, bất tử. Hai chữ về đất đã giảm bớt sự đau buồn, cái chết trở nên nhẹ nhàng, thanh thản hơn. Và cuối cùng là khúc tráng ca của sông Mã đưa các anh trở về với đất mẹ. Động từ “gầm” vừa diễn tả nỗi đau đớn tột cùng chứa đựng trong đó cả sự uất hận, nghẹn ngào. Nhưng có bi mà không hề lụy, bởi nó không thê lương mà là một khúc tráng ca độc hành tiễn người lính về với đất mẹ thiên nhiên.

    Với lớp ngôn từ tinh tế, chan chứa tình cảm cảm xúc, Quang Dũng đã tái hiện chân thực vẻ đẹp của người lính Tây Tiến. Họ hiện lên với những nét vẽ vừa chân thực, vừa lãng mạn, tài hoa. Nhưng nổi bật hơn cả là lòng yêu nước, sự anh dũng sẵn sàng hi sinh cho độc lập của đất nước. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến cũng chính là vẻ đẹp chung của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Mĩ oanh liệt, hào hùng.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 12

Mỗi lần nhắc tới nhà thơ Quang Dũng là mọi thế hệ độc giả yêu thơ lại nhớ tới một hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn và tài hoa. “Tây Tiến” là một tác phẩm đặc sắc cho phong cách thơ của nhà thơ Quang Dũng. Thông qua tác phẩm tác giả đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến một thời và mãi mãi với vẻ đẹp hùng tráng đầy ấn tượng.

“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

    Đoàn binh Tây Tiến được thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào). Chiến sỹ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội.

     Người lính Tây Tiến hiện ra với một hình dáng đặc biệt và lạ lùng khiến người đọc cảm thấy thương xót:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

    Quang Dũng miêu tả sự thật về đời sống chiến đấu gian khổ của người lính Tây Tiến vừa thiếu ăn vừa phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng. Điều này làm cho diện mạo của các anh trở nên khác lạ "không mọc tóc”, da “xanh màu lá”. Với nét vẽ “không mọc tóc” của tác giả Quang Dũng chúng ta có thể hiểu theo hai cách. Người lính Tây Tiến cạo trọc tóc để thuận tiện trong chiến đấu, cũng có thể hiểu đó là hậu quả của những trận sốt rét rừng đã hành hạ họ. Với nét vẽ “xanh màu lá” cũng có hai cách hiểu. Xanh là sắc xanh của lá ngụy trang hay làn da xanh xao, ốm yếu của người chiến sỹ. Dù hiểu theo cách nào thì điều tác giả muốn gửi gắm chính là những khó khăn, gian khổ mà đồng đội mình đã trải qua:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

     Với nhà thơ Quang Dũng vẫn là hình dáng không mọc tóc, xanh màu lá ấy nhưng câu thơ còn gợi lên cái khẩu khí ngang tàn, cái khí thế của người lính. Nghệ thuật đảo trật tự từ “không mọc tóc” cho thấy tư thế ngạo nghễ của những chàng trai Tây Tiến. Cách nói “dữ oai hùm” tạo cho người lính dáng vẻ oai phong như con hổ chốn rừng thiêng để chế ngự sự khắc nghiệt của thiên nhiên, của hoàn cảnh.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

     Câu thơ đầu tiên đề cập đến lí tưởng sống và chiến đấu của người lính Tây Tiến. Lí tưởng ấy được gửi gắm qua ánh “mắt trừng” giận dữ, nảy lửa làm kẻ thù phải xóa bỏ đi tham vọng, họ muốn lập công giết chết lũ giặc xâm lược. Song hành cùng lòng căm thù chính là nỗi nhớ quê hương, gia đình, người thân đặc biệt là nỗi nhớ “dáng kiều thơm”. Dáng kiều thơm là ai vậy? Có thể là hình bóng Hà Nội trong nỗi nhớ người lính: vàng son, thanh lịch, hoa lệ. Cũng có thể hiểu đó là người con gái thanh lịch, yêu kiều. Dáng kiều thơm gợi tả cả vóc dáng, hương sắc của người thiếu nữ.

     Bốn câu thơ cuối đã lột tả một cách trần trụi về sự thật tàn khốc của chiến tranh. Nhưng với cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng tác giả đã tái hiện lại cái chết ấy một cách độc đáo, khác thường mang màu sắc bi tráng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

    Trên con đường hành quân các chiến sỹ đã gặp rất nhiều nấm mồ của những người đồng đội nằm lại ven đường hành quân, các anh nằm lại đó cô đơn, côi cút, lạnh lẽo. Điều đặc sắc ở đây là câu thơ của Quang Dũng không gây cảm giác bi lụy mà để lại trong lòng người đọc cảm giác bi tráng, oai hùng. Tác giả dùng một loạt các từ Hán Việt: "biên cương, viễn xứ" tạo sắc thái trang trọng, thiêng liêng, nâng tầm cái chết của người lính. Sức mạnh thiêng liêng giúp người lính vững bước trên con đường hành quân chính là quan niệm lí tưởng về lẽ sống và cái chết. Họ luôn tâm niệm “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh” là hình ảnh ẩn dụ chỉ tuổi thanh xuân của các chàng trai. Họ cống hiến cho quê hương cho đất nước cả tuổi thanh xuân của mình.

     Khi xông pha chiến trường không ai nói trước được sự sống và cái chết:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

    Một sự thật đau xót hiện ra khiến con tim chúng ta tan nát, khi người chiến sĩ nằm xuống manh chiếu bọc thây cũng không có. Với cái nhìn thương yêu, trân trọng, Quang Dũng đã khâm liệm đồng đội mình trong tấm chiến bào sang trọng của ngôn từ. Họ đã “về đất”, đã trở về với cát bụi. Đất mẹ dang rộng vòng tay đón các anh vào thế giới vĩnh hằng của cha ông. Đất êm đềm đón nhận người lính còn sông Mã hùng vĩ cất lên âm hưởng hùng tráng đưa các anh vào thế giới vĩnh hằng.

    Những vần thơ của nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa phần nào cuộc sống thiếu thốn của đoàn quân Tây Tiến. Đối với họ cái chết không phải là cái đáng sợ, với họ được cống hiến tuổi xuân cho quê hương cho đất nước là một niềm hạnh phúc. Tác giả đã xây dựng thành công bức tượng đài bất tử về người lính một thời và mãi mãi.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 13

Đất nước Việt Nam ta đã trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Để có được nền độc lập tự do như ngày hôm nay là là nhờ lao to lớn của biết bao người chiến sĩ đã hi sinh thân mình bảo về tổ quốc. Hình ảnh người lính bước vào thơ ca cách mạng Việt Nam từ đó cũng đã trở thành một chủ đề lớn mà rất nhiều ngòi bút hướng tới. Tây Tiến của Quang Dũng cũng là một trong những bài thơ như thế. Bài thơ là nỗi nhớ của nhà thơ về thời gian gắn bó với đoàn binh Tây Tiến. Đặc trong đoạn thơ thứ ba, nhà thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng mà bi tráng, hi sinh thân mình cho tổ quốc tự do.

Trên con đường hành quân và chiến đấu gian khổ, những người lính của đoàn binh Tây Tiến luôn phải chịu những khó khăn, khắc nghiệt của thiên nhiên nhưng vẫn rất lạc quan, yêu đời với tâm hồn lãng mạn, trẻ trung:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm”

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều Thơm”

Trên con đường hành quân xa nhiều gian nan, dù nắng gió hãy bao táp thì những người lính vẫn luôn hướng về phía trước. Hậu quả của những trận mưa rừng như trút là những trận sốt rét đáng nhớ đối với người chiến sĩ. Rừng hoang, sương muối cùng thuốc men thiếu thốn, những trận sốt rét ấy khiến người lính Tây Tiến rụng tóc, đầu trọc “không mọc tóc” rồi da trở nên xanh xao yêu ớt “quân xanh màu lá”. Hình ảnh thơ “đoàn binh không mọc tóc” thể hiện một cái nhìn vô cùng hài hước của nhà thơ. Đọc câu thơ người đọc liên tưởng đến hình ảnh tóc cũng không thèm mọc. Nó là một cái nhìn rất đỗi lạc quan của nhà thơ cũng như người lính. Nhà thơ cũng không nói các anh chiến sĩ gầy ốm xanh xao mà nói “quân xanh màu lá”. Cùng với hình ảnh thơ “giữ oai hùm”, hai câu thơ nhấn mạnh dù có khó khăn, vất vả và gặp nhiều gian nan đến đâu, người lính Tây Tiến vẫn luôn vô tư và lạc quan, luôn giữ một phong thái hiên ngang, bất chấp gian khổ để tiến lên phía trước. Không hề sơ hãi trước mũi súng kẻ thù, các anh luôn trong tư thế ngẩng cao đầu, oai phong như hùm khiến giặc phải khiếp sợ. Hai từ “mắt trừng” càng nhấn mạnh sự căm phẫn trước tội ác của kẻ thù và tâm thế luôn sẵn sàng bảo vệ tổ quốc. Đó là một vẻ đẹp rất hào hùng của những người lính trong đoàn binh Tây Tiến.

 Không chỉ mang vẻ đẹp lạc quan, yêu đời và rất đỗi hào hùng, những người lính Tây Tiến còn hào hoa và lãng mạn trog hình ảnh “đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”. Nếu tìm hiều về xuất thân của những người lính trong đoàn quân ấy, người đọc sẽ càng thấu hiểu được tâm hồn lãng mạn của các anh. Người lính trong đoàn quân Tây Tiến đều là những người trí thức trẻ tuổi, họ là học sinh, sinh viên gác bút nghiên, lên đường chiến đấu theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Bởi thế nên tâm hồn người lính trẻ này từ lâu đã rất hào hoa, lãng mạn. Đêm đêm, người lính Tây Tiến mơ đến “dáng Kiều thơm”  nơi Hà thành cũng là một điều thật dễ hiểu. Nhớ về dáng kiều cũng là nhớ về quê hương Hà Nội đã gắn bó với các anh suốt những năm tháng dưới mái trường, trước khi các anh lên đường nhập ngũ.

Miên man trong vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến, hình ảnh người lính lại tiếp tục hiện lên thật đẹp đẽ, oai hùng mà bi tráng trong những vẫn thơ tiếp:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nhà thơ đã nhìn thẳng vào sự thật của chiến tranh. Nơi khói lửa can qua, sau những trận đánh lớn, biết bao người lính hiên ngang đã ngã xuống. Nghệ thuật đảo ngữ “rải rác” đã thể hiện rõ sự thật ấy. Hình ảnh “ biên cương mồ viễn xứ” đều sử dụng các từ hán việt khiến câu thơ mang một màu sắc cổ kính hơn, bi hùng hơn. Câu thơ gợi lên một bức tranh về những nấm mồ rải rác nơi biên ải xa xôi sau những trận đánh ác liệt. Nhưng nói lên hiện thực ấy để nhà thơ khẳng định một điều rằng người linh dù hi sinh vẫn không hề nuối tiếc “chẳng tiếc đời xanh”. Bốn từ “chẳng tiếc đời xanh” như một lời thề sắt son của các anh, nguyện hi sinh vì đất nước, vì nhân dân và vì tự do cho dân tộc này. Đó là sự “ra đi không hẹn ngày về, lòng mang khát vọng trong tim”.

Hình ảnh sự hi sinh của người lính hiện lên trong thơ Tây Tiến không hề bi thương mà rất bi hùng. Điều đó thể hiện qua hình ảnh “áo bào”. Một người lính khi hi sinh nơi biên ải cũng chỉ được cuốn một manh chiếu. Nhưng qua cái nhìn hào hùng, bi tráng của nhà thơ cũng là một người lính thì đó là chiếc áo bào oai phong của người lính lúc “về đất”. Người chiến sĩ ra đi cũng thật hiên ngang như những vị tướng sĩ ngày xưa. “Về đất” không có nghĩa là cái chết, mà “về đất” là về với đất mẹ kính yêu rất đỗi nhẹ nhàng. Câu thơ “sông Mã gầm lên khúc độc hành” mang một vẻ đẹp thật hào hùng, nó giống như một khúc ca vang lên thống thiết tiễn đưa những người lính. Hình ảnh “sông Mã gầm lên” cũng cho người đọc nhiều liên tưởng sâu sắc. Đến thiên nhiên cũng phải thổn thức gầm lên trước sự ra đi ấy, nó cũng thể hiện sự đau đớn biến thành sức mạnh để những người lính, những người đồng đội của các anh tiếp tục chiến đầu cho tổ quốc tự do, độc lập.

Bằng những hình ảnh thơ đặc sắc, ngôn ngữ giàu hình tượng, các biện pháp tu từ…, nhà thơ Quang Dũng miên man trong nỗi nhớ về đoàn binh Tây Tiến với nhiều kỷ niệm. Đoạn thơ đã khắc họa tài tình hình ảnh người lính của đoàn quân Tây Tiến rất đỗi trẻ trung, tâm hồn lãng mạn dù có đối đầu với bao khó khăn trong hành quân và chiến đấu. Đoạn thơ đã dựng lên một bức tượng đài hào hùng mà bi tráng về người lính Tây Tiến, đó mãi là hình tượng đẹp sống trong trái tim của thế hệ trẻ hôm nay.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 14

Thơ ca cách cách mạng là một chủ đề lớn trong kho tàng thơ ca Việt Nam. Những bài thơ, ca khúc đã đi sâu vào trái tim của triệu triệu đồng bào về một thời khói lửa chiến tranh. Hình ảnh những người lính bước vào trang thơ cũng rất tự nhiên và gần gũi, là một đề tài quen thuộc trong thơ cách mạng. Nhà thơ Quang Dũng cũng góp vào kho tàng ấy một tiếng thơ đẹp Tây Tiến về hình ảnh người lính xuất thân là những người thanh niên trí thức Hà thành. Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn và cũng rất dũng cảm, ngàng tàng cùng vẻ đẹp bi tráng.

Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên trong trang thơ trước tiên là sự hào hoa lãng mạn. Bởi họ là những người học sinh, sinh viên trẻ đang ngồi trên ghê nhà trướng, ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, nên tâm hồn tinh tế, hào hoa cũng là một điều rát đỗi thường tình, dễ hiểu. Điều đó được thể hiện ban đầu ở cái nhìn háo hức, say mê với cảnh sắc đẹp đẽ của thiên nhiên và con người Tây Bắc:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Cái vẻ đẹp huyền ảo của núi rừng Tây Bắc trong tâm hồn người lính trẻ là những bông “ hoa về trong đêm hơi” của xứ Mường, là hình ảnh của những làn khói nghi ngút từ bát cơm thơm dẻo, từ những “mùa em” – mùa của những cánh đồng bậc thang vàng óng, trĩu hạt cùng hương thơm lúa nếp cho bát xôi thơm dẻo. Những người lính xuất thân từ Hà thành cũng háo hức và say mê vẻ đẹp của buổi chiều lãng đãng mây bay:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người bên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Người lính Tây Tiến hòa mình vào làn sương chập chờn bên núi của buổi “chiều sương ấy”, vào những “hồn lau” đang phất phơ theo chiều gió nơi bến bờ. Và cái nhìn lãng mạn của các anh còn thấy được vẻ đẹp trong từng bông hoa rừng  rực rỡ như hoa mai, hoa mận, hoa ban…đang “đông đưa” bên “dòng nước lũ”. Hẳn là phải tinh thế, tâm hồn thơ mộng lắm mới nhận thấy những vẻ đẹp bình dị như thế.

Không chỉ say xưa vẻ đẹp sông núi, mà người lính trẻ tuổi còn yêu cả vẻ đẹp con người nơi đây. Đó là vẻ đẹp của “dáng người trên độc mộc” của những cô gái miền sơn nước trong bộ xiêm áo rực rỡ trong đêm lửa trại ấm tình quân dân:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”

Chính vẻ đẹp dịu dàng, e ấp, vẻ đẹp của những ngọn đuốc hoa rực rỡ, lung linh cùng tiếng khèn, điệu nhạc khiến cho tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ nảy nở, chắp cánh cho những vần thơ tuyệt vời. Tâm hồn thơ ca của những người lính Tây Tiến quả là một nét độc đáo, tài hoa.

Vẻ đẹp hào hoa lãng mạn cũng thể hiện trong nỗi nhớ của các anh với quê hương và con người nơi các anh gắn bó. Để rồi khi đêm về, những giấc mơ về Hà Nội thương nhớ, về người con gái Hà thành thanh lịch nền nã lại dội về trong nỗi nhớ “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Người lính Tây Tiến hiện lên không chỉ đẹp bởi sự hào hoa, mà còn mang một vẻ đẹp dũng cảm, kiên cường. Dù chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ các anh vẫn luôn cố gắng vượt qua. Nơi các anh hành quân là những dãy núi cao chót vót “khúc khuỷu” tới “ngàn thước”, là những dốc núi cheo leo “thăm thẳm” “heo hút” đến rợn ngợp”

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

Không chỉ có vậy, nơi núi rừng hoa vu, sương muối ấy, người lính còn phải đề phòng những loài thú dữ đáng sợ đầy nguy hiểm:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường hịch cọp trêu người”

Đâu chỉ có núi rừng hoang sơ, hoang dại hiện lên thật dữ dội và ghê rợn, người lính Tây Tiến còn đối mặt với những trận sốt rét, dịch bệnh khiến tóc không thể mọc, làn da héo hon, xanh xao như tàu lá “ đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”.

Thế nhưng, dù khó khăn, gian khổ và thiếu thốn đên đâu, các anh chiến sĩ vẫn cứ dũng cảm vượt qua, hiên ngang và khỏe khoắn. Sau khi vượt qua những đỉnh núi cao chót vót, đứng trên đỉnh núi cao chạm tới mây trời, người lính vẫn vô tư, hiên ngang ví von “súng ngửi trời”. Dù đối chọi với ốm đau bệnh tật, người lính vẫn ngang tàng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”

Người lính ví von “đoàn binh không mọc tóc” như thể tóc cũng không thèm mọc. Cách nói cho thấy sự bình thường hóa việc không mọc tóc, không mọc tóc thì có hề chi. Với các anh, dù da có xanh thì lại càng oai phong, hiên ngang “giữ oai hùm” như thể hiện một ý chí sắt đá, hiên ngang, giữ vững ý chí và tinh thần chiến đấu. Điều đó khẳng định tinh thần và ý chí quật cường của những người lính trẻ, mang theo khát vọng mãnh liệt, nhiệt huyết sục sôi của tuổi trẻ vì một đất nước độc lập, tự do.

Hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên đặc sắc nhất là vẻ đẹp bi tráng, hào hùng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nhà thơ đã nhìn thẳng vào sự thật mà không hề né tránh cái chết, cái sự thật không thể tránh khỏi của chiến tranh khốc liệt. Nhưng sự hi sinh ấy hiện lên đậm chất bi tráng, sử thi như những tráng sĩ ngày xưa tòng quân ra trận. Hình ảnh những nấm mồ nơi biên ải xa xôi hiện lên đau thương nhưng không hề bi lụy, mà rất bi tráng. Cùng với chiếc “áo bào” uy nghiêm đưa các anh về với đất mẹ thiêng liêng là “khúc độc hành” tráng ca hùng hồn đưa tiễn người chiến sĩ. Màu sắc cổ kính hiện lên trong những vần thơ thật đôc đáo, đẹp đẽ. Nó giúp xậy lên một bức tượng đài sừng sững về những người lính Tây Tiến ra đi một cách oai nghiêm, trang trọng, bi tráng.

Đọc bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp người lính Tây Tiến thật hào hoa, lãng mạn cùng sự gan dạ, can trường, hiên ngang và đặc biệt là vẻ đẹp bi tráng, hào hùng. Bài thơ là một khúc tráng ca tuyệt vời còn vang mãi tới lớp lớp thế hệ trẻ ngày nay để luôn ghi nhớ công lao to lớn của những người đã ngã xuống cho đất nước hòa bình, ấm no và hạnh phúc.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 15

Thơ ca cách mạng là một chủ đề lớn trong kho tàng thơ ca Việt Nam. Những bài thơ, ca khúc đã đi sâu vào trái tim của triệu triệu đồng bào về một thời khói lửa chiến tranh. Hình ảnh những người lính bước vào trang thơ cũng rất tự nhiên và gần gũi, là một đề tài quen thuộc trong thơ cách mạng. Nhà thơ Quang Dũng cũng góp vào kho tàng ấy một tiếng thơ đẹp Tây Tiến về hình ảnh người lính xuất thân là những người thanh niên trí thức Hà thành. Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn và cũng rất dũng cảm, ngàng tàng cùng vẻ đẹp bi tráng.

    Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên trong trang thơ trước tiên là sự hào hoa lãng mạn. Bởi họ là những người học sinh, sinh viên trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường, ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, nên tâm hồn tinh tế, hào hoa cũng là một điều rất đỗi thường tình, dễ hiểu. Điều đó được thể hiện ban đầu ở cái nhìn háo hức, say mê với cảnh sắc đẹp đẽ của thiên nhiên và con người Tây Bắc:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

    Cái vẻ đẹp huyền ảo của núi rừng Tây Bắc trong tâm hồn người lính trẻ là những bông “hoa về trong đêm hơi” của xứ Mường, là hình ảnh của những làn khói nghi ngút từ bát cơm thơm dẻo, từ những “mùa em” – mùa của những cánh đồng bậc thang vàng óng, trĩu hạt cùng hương thơm lúa nếp cho bát xôi thơm dẻo. Những người lính xuất thân từ Hà thành cũng háo hức và say mê vẻ đẹp của buổi chiều lãng đãng mây bay:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

..........

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

    Người lính Tây Tiến hòa mình vào làn sương chập chờn bên núi của buổi “chiều sương ấy”, vào những “hồn lau” đang phất phơ theo chiều gió nơi bến bờ. Và cái nhìn lãng mạn của các anh còn thấy được vẻ đẹp trong từng bông hoa rừng rực rỡ như hoa mai, hoa mận, hoa ban… đang “đong đưa” bên “dòng nước lũ”. Hẳn là phải tinh thế, tâm hồn thơ mộng lắm mới nhận thấy những vẻ đẹp bình dị như thế.

    Không chỉ say sưa vẻ đẹp sông núi, mà người lính trẻ tuổi còn yêu cả vẻ đẹp con người nơi đây. Đó là vẻ đẹp của “dáng người trên độc mộc” của những cô gái miền sơn cước trong bộ xiêm áo rực rỡ trong đêm lửa trại ấm tình quân dân:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

..............

Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”

    Chính vẻ đẹp dịu dàng, e ấp, vẻ đẹp của những ngọn đuốc hoa rực rỡ, lung linh cùng tiếng khèn, điệu nhạc khiến cho tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ nảy nở, chắp cánh cho những vần thơ tuyệt vời. Tâm hồn thơ ca của những người lính Tây Tiến quả là một nét độc đáo, tài hoa.

    Vẻ đẹp hào hoa lãng mạn cũng thể hiện trong nỗi nhớ của các anh với quê hương và con người nơi các anh gắn bó. Để rồi khi đêm về, những giấc mơ về Hà Nội thương nhớ, về người con gái Hà thành thanh lịch nền nã lại dội về trong nỗi nhớ “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

    Người lính Tây Tiến hiện lên không chỉ đẹp bởi sự hào hoa, mà còn mang một vẻ đẹp dũng cảm, kiên cường. Dù chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ các anh vẫn luôn cố gắng vượt qua. Nơi các anh hành quân là những dãy núi cao chót vót “khúc khuỷu” tới “ngàn thước”, là những dốc núi cheo leo “thăm thẳm” “heo hút” đến "rợn ngợp”

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,

................

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

    Không chỉ có vậy, nơi núi rừng hoang vu, sương muối ấy, người lính còn phải đề phòng những loài thú dữ đáng sợ đầy nguy hiểm:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

    Đâu chỉ có núi rừng hoang sơ, hoang dại hiện lên thật dữ dội và ghê rợn, người lính Tây Tiến còn đối mặt với những trận sốt rét, dịch bệnh khiến tóc không thể mọc, làn da héo hon, xanh xao như tàu lá “đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”.

    Thế nhưng, dù khó khăn, gian khổ và thiếu thốn đến đâu, các anh chiến sĩ vẫn cứ dũng cảm vượt qua, hiên ngang và khỏe khoắn. Sau khi vượt qua những đỉnh núi cao chót vót, đứng trên đỉnh núi cao chạm tới mây trời, người lính vẫn vô tư, hiên ngang ví von “súng ngửi trời”. Dù đối chọi với ốm đau bệnh tật, người lính vẫn ngang tàng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

..............

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”

    Người lính ví von “đoàn binh không mọc tóc” như thể tóc cũng không thèm mọc. Cách nói cho thấy sự bình thường hóa việc không mọc tóc, không mọc tóc thì có hề chi. Với các anh, dù da có xanh thì lại càng oai phong, hiên ngang, “dữ oai hùm” như thể hiện một ý chí sắt đá, hiên ngang, giữ vững ý chí và tinh thần chiến đấu. Điều đó khẳng định tinh thần và ý chí quật cường của những người lính trẻ, mang theo khát vọng mãnh liệt, nhiệt huyết sục sôi của tuổi trẻ vì một đất nước độc lập, tự do.

    Hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên đặc sắc nhất là vẻ đẹp bi tráng, hào hùng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

.................

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

    Nhà thơ đã nhìn thẳng vào sự thật mà không hề né tránh cái chết, cái sự thật không thể tránh khỏi của chiến tranh khốc liệt. Nhưng sự hi sinh ấy hiện lên đậm chất bi tráng, sử thi như những tráng sĩ ngày xưa tòng quân ra trận. Hình ảnh những nấm mồ nơi biên ải xa xôi hiện lên đau thương nhưng không hề bi lụy, mà rất bi tráng. Cùng với chiếc “áo bào” uy nghiêm đưa các anh về với đất mẹ thiêng liêng là “khúc độc hành” tráng ca hùng hồn đưa tiễn người chiến sĩ. Màu sắc cổ kính hiện lên trong những vần thơ thật độc đáo, đẹp đẽ. Nó giúp xây lên một bức tượng đài sừng sững về những người lính Tây Tiến ra đi một cách oai nghiêm, trang trọng, bi tráng.

    Đọc bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp người lính Tây Tiến thật hào hoa, lãng mạn cùng sự gan dạ, can trường, hiên ngang và đặc biệt là vẻ đẹp bi tráng, hào hùng. Bài thơ là một khúc tráng ca tuyệt vời còn vang mãi tới lớp lớp thế hệ trẻ ngày nay để luôn ghi nhớ công lao to lớn của những người đã ngã xuống cho đất nước hòa bình, ấm no và hạnh phúc.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 16

Quang Dũng – được chúng ta biết đến là một nghệ sĩ đa tài, làm văn, vẽ tranh, soạn nhạc… Nhưng trước hết ông là một nhà thơ có hồn thơ phóng khoangsm hồn hậu, lãng mạn. Ông đã thành công trong sự nghiệp văn chương của mình với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Đặc biệt, “Tây Tiến” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của ông. Có thể nói tinh hoa của tác phẩm được lắng đọng trong tám câu thơ khắc họa chân dung người lính Tây Tiến, hiện lên thật oai phong, lẫm liệt cũng không kém phần lãng mạn, nên thơ.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 
Quân xanh màu lá dữ oai hùm 
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới 
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm 

Rải rác biên cương mồ viễn xứ 
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh 
Áo bào thay chiếu, anh về đất 
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Tây Tiên là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947 với nhiệm vụ là bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hoa lực lượng Pháp. Tây Tiến là địa bàn đóng quân là vùng hoạt động rộng lớn hoang sơ, núi rừng hiểm trở, khắc nghiệt. Thành phần tham gia chủ yếu là học sinh,sinh viên. Điều kiện vô cùng khó khăn và hiểm trở. Đến năm 1948 thì cuộc chiến tranh kết thúc. Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác tại Phù Lưu Chanh nhớ về đơn vị cũ, ông sáng tác bài thơ “Tây Tiến” lúc đầu có tên là Tây Tiến.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Mở đầu đoạn thơ, hình ảnh người lính hiện lên khác thường với nghệ thuật đối lập, Quang Dũng đã đối lập giữa cái bề ngoài “Đầu không mọc tóc”, “da xanh màu lá” với cái bên trong “dữ oai hùm” . Đó chính là sự đối lập giữa cái bên ngoài yếu ớt với cái bên trong mạnh mẽ, oai hùm. Quang Dũng đã dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh một đoàn quân Tây Tiến kì dị độc đáo. Nó không lẫn lộn với bất kì đoàn quân nào. Vì những cơn sốt rét rừng hoành hành, điều kiện vật chất thiếu thốn đã khiên shoj da xanh như màu lá, đầu không mọc tóc, đó chính là sự khắc nghiệt của chiến tranh nhưng ý chí của họ với sức mạnh dữ oai hùm, bằng cách nói khoa trương, tác giả đã nói lên được sức mạnh bên trong lạc quan của những người lính trẻ.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới 
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Bằng nghệ thuật nói quá tác giả đã sử dụng hình ảnh “mắt trừng” để diễn tả tâm trạng của những người lính. Những người lính Tây Tiến sau những giờ phút hành quân chiến đấu, khi đêm về họ thao thức , trằn trọc trong đêm không sao ngủ được. Ánh mắt dữ dội , rực căm thù, họ gửi mộng ước của mình qua biên giới, ước nguyện giết kẻ thù và mooyj ngày quê hương đất nước thân yêu được yên bình. Bên trong cái dáng vẻ oai hùng dữ dằn ấy là một trái tim, là tâm hồn khao khát yêu thương với những kí ức đẹp lung linh về Hà Nội. Diễn tả chất lính hào hoa mơ mộng của những chàng trai Hà Thành.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ 
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt cổ kính đầy trang trọng, tôn kính để nói về sự hi sinh, chiến đấu của người lính. Người lính đã chiến đấu và xác của họ nằm rải rác biên cương ấy. Tác giả dùng cách nói ẩn dụ “đời xanh” để chỉ tuổi trẻ. Viết về chiến tranh không thể không viết về những hi sinh mất mát. Một nền văn học nhân đạo, một nghệ sĩ chân chính không chỉ biết đến niềm vui mà còn nói lên được nỗi đau của con người. Những con người “đầu xanh tuổi ttrer” “biết mơ mộng” “biết yêu đương” nhưng khi cần “chẳng tiếc đời xanh” hi sinh cho đất nước. Đó là một vẻ đẹp khí phách và phẩm chất của người linh . Và nhà thơ Thanh Thảo đã nói:

“Tuổi hai mươi ai mà chẳng tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 còn chi Tổ quốc”

Tiếp đến là hình ảnh “áo bào”:

“Áo bào thay chiếu anh về đất”

Hình ảnh “áo bào” là hình ảnh ước lệ tượng trưng và nghệ thuật nói giảm “anh về đất” . Quang Dũng đã nâng nỗi đau trong những câu thơ của mình sánh ngang với sự hi sinh cao cả ấy. Trên thực tế những người ra trận hy sinh trên chiến trường, đôi khi không có một amnh chiếu để chôn cất, có người hi sinh trong bộ quần áo rách vá tả tơi trên đường hành quân nhưng Quang Dũng vẫn gọi đó là những chiếu áo bào, áo choàng của những người tráng sĩ ngày xưa khi ra trận thể hiện sự trang trọng tôn vinh và ca ngợi.

Trong cái nhìn lãng mạn ấy, sự hi sinh của những người lính còn được bao bọc trong một âm hưởng hùng tráng:

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kì vĩ, một âm hưởng bi tráng. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến được nâng lên tầm sử thi hoành tráng. Sự hi sinh lớn lao đó phải có sự đưa tiễn lớn lao như thế. Hình ảnh sông Mã gầm lên một khúc ca bi tráng để tiễn đưa những người lính Tây Tiến về với đất mẹ.

Tóm lại, với 8 câu thơ, Quang Dũng đã khắc họa chân thật hìn ảnh người lính Tây Tiến oai hùng, lẫm liệt. Những con người “đầu xanh tuổi trẻ” ấy đã chẳng màng tới thanh xuân của mình, sẳn sàng hi sinh vì Tổ quốc kính yêu. Họ không ai khác – những con người có trái tim khao khát yêu mãnh liệt nhưng chưa bao giờ quên trách nhiệm của mình với quê hương với Tổ quốc. Vì vậy, chúng ta là những mầm non tương lai của đất nước, ta phải ra sức học tập, sẳn sàng ra trận khi đất nước gặp lâm nguy, biết yêu thương bảo vệ tổ quốc mình. “Khi đất nước cần thanh niên có, khi đất nước khó thanh niên luôn sẳn sàng”.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 17

Đối với những người chiến sĩ dành phần đời của mình phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, thì có lẽ hình ảnh của chính họ và đồng đội là những ấn tượng sâu sắc khó có thể mờ phai dù tháng năm có trôi đi như nào. Và khi người chiến sĩ ấy là nhà thơ thì dường như chính những hình ảnh ấn tượng đó sẽ là chất liệu để họ sáng tác thi ca. Quang Dũng cũng là một trường hợp như vậy. Viết “Tây Tiến”, ông đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến – hình ảnh về những người đồng đội trong đội quân thân thương của ông.

Quang Dũng có tên khai sinh là Bùi Đình Diệm (1922 – 1988), quê ở Đan Phượng thuộc tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài vì đã thể hiện cái duyên của mình trên nhiều lĩnh vực như làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc… Đồng thời, Quang Dũng cũng là một người chiến sĩ hoạt động hăng hái từ sau Cách mạng tháng Tám.

Ở vai trò là một nhà thơ chiến sĩ, Quang Dũng đã thể hiện một hồn thơ vừa phóng khoáng, hồn hậu nhưng cũng rất đỗi lãng mạn, tài hoa. Năm 2001, nhà thơ được truy tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật vì đã để lại rất nhiều những tác phẩm tiêu biểu cho nền văn học nước nhà: “Rừng biển quê hương” (1957), “Đường lên Châu Thuận” (1964), “Rừng về xuôi” (1968), “Mây đầu ô” (1986).

Trước khi phân tích hình tượng người lính Tây Tiến, người đọc cần nắm được hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm. Bài thơ “Tây Tiến” được sáng tác trong hoàn cảnh gắn liền với nhiệm vụ chiến đấu của ông. Vào năm 1947, đoàn quân Tây Tiến được thành lập với lực lượng chủ yếu là thanh niên và học sinh Hà Nội. Lực lượng này có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào. Một nhiệm vụ khác được giao cho đội quân cũng không kém phần quan trọng là có thể đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như miền Tây Bắc Bộ Việt Nam.

Đội quân Tây Tiến có địa bàn đóng quân và hoạt động khá rộng lớn nhưng đa phần lại là vùng núi hiểm trở bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào). Mặc dù sinh hoạt trong hoàn cảnh, điều kiện hết sức khó khăn, gian khổ, thế nhưng những chiến sĩ thanh niên Hà thành vẫn lạc quan, yêu đời. Ở họ có sự hội tụ giữa chất hào hùng của người chiến sĩ và cả tính hào hoa của tuổi trẻ.

Làm việc trong đội quân Tây Tiến với cương vị đại đội trưởng trong khoảng thời gian không dài nhưng cũng không phải là ngắn từ đầu năm 1947 đến cuối năm 1948, khi chuyển đơn vị công tác, Quang Dũng đã rất nhớ đơn vị cũ của mình. Chính cảm xúc ấy đã giúp nhà thơ viết nên thi phẩm “Tây Tiến”. Bài thơ ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến” và được in trong tập “Mây đầu ô” (1986).

Tác phẩm Tây Tiến được xem là một thi phẩm xuất sắc, gần như đạt đến sự toàn bích về nội dung cũng như nghệ thuật. Nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn và đậm chất bi tráng. Bên cạnh đó, trong tác phẩm cũng đã sử dụng nhiều sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu. Hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc thái thẩm mĩ phong phú. Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách; (trang trọng, cổ kính; sinh động, gợi tả gợi cảm…), có những kết hợp từ độc đáo (nhớ chơi vơi, Mai Châu mùa em…),

Toàn bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị ở Tây Tiến. Đó là những chặng đường hành quân với biết bao gian khổ, thiếu thốn, hi sinh mất mát mà vẫn có nhiều kỉ đầy ấm áp. Khi phân tích hình tượng người lính Tây Tiến, ta thấy nhà thơ cũng đã làm toát lên chất lãng mạn bi tráng và vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính cách mạng.

Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến của Quang Dũng

Hình tượng người lính Tây Tiến qua vẻ đẹp hào hùng gan góc

Trong dòng thơ Quang Dũng, người lính Tây Tiến trên bước đường hành quân là hiện thân của một bức chân dung hào hùng, gan góc. Khi phân tích hình tượng người lính Tây Tiến, ta thấy ngoại hình của họ được khắc họa rất thực:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

Quang Dũng đã khắc họa một diện mạo rất độc đáo khi miêu tả họ trong dáng vẻ “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính cái vẻ độc đáo ấy đã cho thấy một hiện thực khắc nghiệt mà người lính phải đối diện: ốm yếu và xanh xao. Tuy nhiên, cái ốm yếu và xanh xao ấy lại không thể nào vượt lên được sức mạnh tinh thần nơi họ. Hoàn cảnh càng gian khổ, thiếu thốn và khốc liệt thì tinh thần ấy lại trỗi dậy càng mạnh mẽ, quyết liệt để giúp họ vượt qua những hiểm trở của địa hình chiến đấu:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Và cũng rất gian nguy với những hiểm nguy:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

Dưới ngòi bút của tác giả, thiên nhiên miền Tây Bắc hiện lên thật hùng vĩ, dữ dội. Bằng hệ thống các từ ngữ, Quang Dũng đã thể hiện sự khó khăn của điều kiện thiên nhiên. Nếu điệp “dốc” gợi sự nối tiếp, dốc đứng của những đoạn đường hành quân thì các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” với nhiều thanh trắc đã tạo nên tính chất gập ghềnh, trắc trở của núi non.

Độ cao và sâu của núi đồi càng được tô đậm hơn nữa bởi cặp từ tương phản “lên – xuống” và điệp từ “ngàn thước”. Để chinh phục được đoạn đường hành quân đầy khó khăn kể trên quả thật không phải là điều đơn giản. Ấy vậy mà, sự “khúc khuỷu” của dốc núi, sự “heo hút” của cồn mây, sự “thăm thẳm” của vực sâu, sự “gầm thét” của thác nước, sự dữ tợn của thú rừng… vẫn không tài nào ngăn bước hành quân của những người trai chiến sĩ.

Thậm chí đã có lúc khoác súng đứng trên đỉnh núi cao chót vót, họ đã tếu táo đùa vui là “súng ngửi trời”. Và khi phân tích hình tượng người lính Tây Tiến, người đọc nhận ra chính những hiểm trở, gian nguy của chiến trường miền Tây ấy đã góp phần tôi rèn ở họ sự gan góc và anh hùng – những nét tính cách rất cần có để họ có thể đương đầu với những thử thách, khó khăn của nhiệm vụ chiến đấu.

Người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa và tâm hồn rất thơ

Những tưởng tính chất ác liệt của chiến tranh sẽ tước mất sự lãng mạn ở chiến sĩ Tây Tiên vốn xuất thân là những người trai Hà thành lịch thiệp. Nhưng sự thật là dù có gay gắt đến đâu, chiến tranh vẫn không thể làm được điều đó. Những người lính trong đoàn quân Tây Tiến vẫn giữ nguyên sự hào hoa của mình. Bên cạnh sự trúc trắc của địa hình hành quân, họ vẫn xao động trước những đường nét thơ mộng, trữ tình của núi rừng:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Khi phân tích hình tượng người lính Tây Tiến, ta thấy trong trí nhớ của những người lính, đúng là những khó khăn, thử thách ở chiến địa có một sức ám ảnh dai dẳng nhưng họ cũng rất trìu mến với những hình ảnh thân thương nơi đây. Chính bữa cơm nghi ngút khói ấm lòng, chính mùi hương dịu ngọt của nếp dẻo ở bản làng vùng Mai Châu có tác dụng như một bóng mát nương tựa và làm dịu đi những bỏng gắt của chiến tranh.

Ở đây, cách sử dụng từ “mùa em” của tác giả vừa có sự nhẹ nhàng vừa cho thấy nét độc đáo. Nó hóa những nét gân guốc, cứng cỏi ở người chiến sĩ trở nên thân thiện, dịu dàng để hòa cùng một nhịp với những nếp sinh hoạt của những người dân hiếu khách ở vùng cao. Dù không phải là ruột thịt máu mủ nhưng người chiến sĩ và bà con bản làng vẫn có thể kết nối, gắn bó như những người thân trong gia đình.

Nhìn lại mới thấy, hoàn cảnh chiến tranh phần nào đã làm những người xa lạ sát cánh với nhau để cùng thực hiện một mục tiêu lớn là giành lấy độc lập cho đất nước. Có những người không trực tiếp cầm súng chiến đấu nhưng bằng những cử chỉ, hành động yêu thương, quan tâm đến bộ đội thì họ cũng đã góp phần không nhỏ vào cách mạng dân tộc.

Dẫu những người lính không gắn bó với miền đất vùng cao nhưng những khi mỏi mệt, đứng trên dải núi mà phóng tầm mắt về phía có hương vị ấm nồng đã từng hiện hữu tình thương của đồng bào – chiến sĩ, họ vẫn có cảm giác bình yên. Nói cách khác, tình cảm quân – dân chính là nguồn động lực, nguồn cổ vũ tinh thần to lớn để các anh chiến sĩ và vững bước trên đường hành quân.

Không chỉ có nỗi nhớ về những bữa cơm ấm tình quân dân mới thể hiện tình cảm ấm áp của người lính mà khi nhắc về đêm hội liên hoan, ta cũng thấy ở họ sự hào hoa, lãng mạn:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Và một miền kí ức dạt dào trĩu nặng:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Viết nên những dòng như thế, người đại đội trưởng không phải là gồng mình che giấu đi sự gai góc, mạnh mẽ của người chiến sĩ để biến họ trở nên tình cảm, mềm mại. Sự thật bản thân mỗi người luôn có sẵn những cảm xúc yêu thương, nhớ nhung mà những lúc làm nhiệm vụ trọng trách đòi hỏi một tinh thần sắt thép, họ không kịp thể hiện.

Thế nhưng khi có dịp, những cảm xúc rất đỗi tự nhiên ấy lại chảy trôi, những người lính lại trở về là những chàng trai Hà thành với những rung cảm nhạy bén và tinh tế. Đêm “hội đuốc hoa” bừng sáng trong doanh trại đã tạo điều kiện cho các chàng trai được vui tươi, bay bổng và sống dậy một thời quá khứ đã qua.

Khi phân tích hình tượng người lính Tây Tiến, ta thấy có những lúc trong khi đảm nhận trách nhiệm căng thẳng, trong mắt người lính cũng thấp thoáng chút lãng mạn ở vùng đất nhớ thương:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”

Trong ánh nhìn tỏ rõ lòng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ những hình ảnh lấp lánh của một Hà Nội nên thơ. Ở nơi ấy, họ có gia đình, có những kỉ niệm, có giấc mơ diệu kì của một thuở thiếu thời tươi trẻ. Phải chăng, những hình ảnh bình dị mà thân thương trong đôi mắt mê đắm của họ lại là nguồn động viên rất lớn giúp họ có thêm sức mạnh vượt qua những gian khó. Và đây cũng chính là lí do để họ chiến đấu hết mình để bảo vệ những gì họ yêu thương.

Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến với sự hi sinh bi tráng

Chịu đựng nhưng cố gắng, trách nhiệm và lạc quan là những tính cách đã góp phần tô đẹp hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến. Và lẽ ra với những vẻ đẹp ấy, họ có quyền được trở về bình yên sống với những yêu thương mà họ nâng niu trân trọng. Vậy mà khi phân tích hình tượng người lính Tây Tiến, người đọc nhận ra đã có lúc, cái quyền bình dị ấy lại trở nên nan giải vô cùng khi:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Để viết được những dòng thơ này, có thể nhà thơ đã phải nén lại nỗi xót xa khi bản thân chứng kiến hiện thực mất mát, đau thương. Dù sử dụng biện pháp nói tránh qua các từ ngữ “thay chiếu”, “về đất”, các từ ngữ Hán Việt mang âm hưởng cổ kính, hùng tráng như “chiến trường”, “biên cương”, “viễn xứ” để nói về sự hi sinh nhưng tác giả có cố cách mấy, người đọc cũng không hỏi xót xa khi đến lúc cống hiến thân mình cho sự nghiệp đất nước và đến lúc nhắm mắt xuôi tay, đời sống vật chất của họ lại thiếu thốn đến nỗi một manh chiếu liệm cũng trở nên xa xỉ.

Rồi đến lúc, họ sẽ trở thành những nấm mồ vô danh nằm “rải rác biên cương” ở những nơi xa lạ và cô độc. Đi với anh chỉ là chiếc áo lính đã sờn cũ nhưng với các anh lính, chiếc áo thấm đẫm nhọc nhằn lại là chiếc “áo bào” quý giá ghi dấu cả một thời thanh xuân cống hiến miệt mài. Sự cống hiến anh dành cho sự nghiệp chung không hề có một thoáng chần chừ, hối hận bởi họ đã đi mà chẳng “tiếc đời xanh”. Sự ra đi này có lẽ họ đã dự cảm về những điều không may có thể xảy ra, thế nên:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước”

Và sự thật là:

“Đường lên thăm thẳm một chia phôi”

Những người chiến sĩ đã ra đi nhưng họ lại được ra đi trong sự tiễn đưa oai hùng của hồn thiêng sông núi. “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” để tiễn chân và đất mẹ lại đón chào những người con ưu tú bằng tấm lòng bao dung. Khi phân tích hình tượng người lính Tây Tiến, người đọc cảm nhận được rằng sự hi sinh thiêng liêng của các anh vì thế mà hóa thành bất tử.

Đánh giá tác phẩm khi phân tích hình tượng người lính Tây Tiến

Khi phân tích hình tượng người lính Tây Tiến, ta thấy được sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, ngôn ngữ tạo hình và giàu tính nhạc điệu. Bằng tác phẩm “Tây Tiến”, Quang Dũng đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội. Đồng thời, ông cũng gieo vào lòng người những nốt nhạc anh hùng và bi tráng của bản hùng ca về những chiến sĩ quả cảm trong hàng ngũ đội quân Tây Tiến.

Kết bài: Người chiến sĩ Tây Tiến với những vẻ đẹp hào hoa, gan góc, trách nhiệm và anh dũng khi bước vào trang thơ của Quang Dũng đã trở thành một hình tượng mang lại những ấn tượng lớn lao cho người đọc, trong đó có cả tình cảm yêu quý và niềm tự hào, ngưỡng mộ. Khi phân tích hình tượng người lính Tây Tiến, ta thấy dưới ngòi bút tài hoa của nhà thơ Quang Dũng, người lính Tây Tiến hiện lên vừa hồn hậu, giản dị lại hết sức khí phách hào hùng.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 18

Hình ảnh người lính nói chung và những người lính thời kỳ chống Pháp nói riêng từ lâu đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các nhà thơ viết về người lính với tất cả niềm kiêu hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy, Tây Tiến là bài thơ có vị trí đặc biệt.Tây Tiến là một trong những bài thơ sớm nhất viết về người lính cách mạng, ra đời ngay trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trở thành thi phẩm xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau năm 1945 cùng với hình tượng người lính Tây Tiến.

Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và  đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào va miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa ( Lào).

Về xuất thân, các chiến sĩ Tây Tiền phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Mặc dù hoàn cảnh chiến đấu rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất, thuốc men với căn bệnh sốt rét hoành hành dữ dội nhưng những người lính Tây Tiến  vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Có thể nói những người lính Thủ đô đã đi vào cuộc kháng chiến mang theo vẹn nguyên cái mộng mơ, lãng mạn, hào hoa của người con đất Hà Thành.

Bài thơ được hình thành từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng đội và những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả với đoàn quân Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng , kí ức để kết tinh tập trung trong bức chân dung người lính Tây Tiến.

Bằng bút pháp lãng mạn mà không thoát li hiện thực, bài thơ đã khắc họa sừng sững bức tượng đài người lính trường tồn, bất tử mãi mãi với không gian, thời gian.

Trước hết, đó là nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Ta đã từng thấy một “Tiểu đội xe không kính” dí dỏm trong thơ Phạm Tiến Duật thì nay lại thấy một “đoàn binh không mọc tóc” trong thơ Quang Dũng. Nhưng nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến  bắt nguồn từ chính hiện thực đến từng chi tiết. Không mọc tóc là hậu quả của những trận sốt rét rừng khủng khiếp, rừng thiêng nước độc, thuốc men không có nên quân xanh màu lá cũng là thực tế hiển nhiên. Tố Hữu khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài cá nước cũng không quên nhắc tới sức ảnh hưởng ghê gớm của căn bệnh quái ác đó:

Giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Nhưng ẩn sau ngoại hình ấy là sức mạnh nội tâm là tâm hồn, khí phách của những người lính Tây Tiến:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Nếu câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chữ MỘNG thì câu thơ thứ hai nhấn mạnh chữ “Mơ”. Câu thơ mang vẹn nguyên cả ước vọng và điểm đến cuối cùng của đời lính Tây Tiến. Chữ “trừng” được sử dụng khá độc đáo. Người đọc có cảm tưởng như mọi ước mơ khao khát tận đáy lòng đã trào dâng và đong đầy trong ánh mắt người lính. Tứ thơ ấy gợi nhắc đến hình ảnh thơ quen thuộc:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

{Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

Thì ra bao giờ cũng vậy, đích đến cuối cùng của những người lính luôn là hạnh phúc. Nỗi nhớ của họ hướng cả về “dáng kiều thơm”, những bóng hình giai nhân yêu kiều, thướt tha, thanh lịch nào đó ngoài cuộc đời. Họ ra đi chiến đấu vì tự do, độc lập, nhưng trước hết là vì cuộc sống tương lai hạnh phúc mà họ khao khát. Chính vì vậy mà “dáng kiều thơm” trở thành điểm tựa, niềm hi vọng để tiếp thêm cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng.

Những người lính Tây Tiến sống anh dũng mà hi sinh cũng anh hùng. Quang Dũng không hè né tránh hiện thực khắc nghiệt nhất, đau thương nhất, tàn nhẫn nhất của chiến tranh đó là sự hi sinh:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời;

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh;

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lèn khúc độc hành.

Ba lần Quang Dũng nhắc tới sự hy sinh, nhưng lần nào cũng là hình ảnh ẩn dụ để tránh đi từ “chết”. Dường như khi người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ là khi anh tạm nghỉ chân trước cuộc đời. Cái chết không đồng nghĩa với ngừng chiến đấu vì tâm hồn, vì ước nguyện của anh sẽ mãi trường tồn với thời gian. Anh ngã xuống nhưng vẫn kịp trao ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục con đường cách mạng vinh quang. Sự hi sinh của các anh làm người đọc không khỏi nghẹn ngào: “Rải rác biên cương mồ viền xứ”. Chữ “rải rác” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh cho sự quạnh quẽ, lạnh lẽo, hoang vắng gợi cảm giác xót xa đau đớn nhưng đôi cánh của lí tưởng quên mình vì Tổ quốc“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã xoa dịu nỗi đau làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến.

Có lẽ hình tượng người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử với muôn đời. Dòng lịch sử có thể đổi thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đẽ nhất. Qua dòng hồi tưởng của Quang Dũng, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong sự đối mặt với khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng lúc nào cũng lạc quan phơi phới yêu đời. Với âm hưởng thơ lúc dữ dội, khi sôi nổi, lúc lại vang vọng, trầm lắng, bài thơ đã dẫn hồn người đọc trở về một thời quá khứ xưa, để cùng lắng cảm trong nỗi nhớ thương da diết của Quang Dũng.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 19

Là một nghệ sĩ đa tài, Quang Dũng vẽ tranh, sáng tác nhạc, viết văn xuôi, nhưng trước hết, ông là một nhà thơ. Ít có tác giả nào viết về người lính trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc lại  mang một giọng thơ tinh tế, lãng mạn, hào hoa như Quang Dũng, điển hình như hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến- một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Xuất hiện xuyên suốt và là hình tượng trung tâm của thi phẩm, hình tượng người lính trong Tây Tiến hiện lên với những vẻ hồn nhiên, lạc quan mà cũng thật bi tráng.

Tây Tiến không chỉ là đứa con tinh thần nổi tiếng nhất của Quang Dũng mà còn là thành tựu của thơ ca thời kì kháng chiến chống Thực dân Pháp. Bài thơ được in trong tập Mây đầu ô, xuất bản năm 1986. Cảm xúc bao trùm toàn bộ tác phẩm là nỗi nhớ bởi Quang Dũng đã viết nên thi phẩm khi nhớ về binh đoàn Tây Tiến mà trước đây ông từng làm tiểu đội trưởng. Đó là một đơn vị bộ đội được thành lập đầu năm 1947 với nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Hoạt động ở nơi núi non Tây Bắc hùng vĩ, lực lượng chủ yếu là những học sinh, sinh viên, nhiều người ra đi từ Thủ đô Hà Nội, đoàn quân Tây Tiến đã để lại trong nhà thơ những kí ức, kỉ niệm không thể quên. Với tất cả nỗi nhớ thương đơn vị cũ, nhà thơQuang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến với những vẻ đẹp vừa lãng mạn vừa hào hùng, bi tráng.

Lính Tây Tiến lạc quan, dũng cảm và luôn giữ trong mình một tâm hồn lãng mạn, thơ mộng trên những chặng đường hành quân vất vả. Hoạt động ở nơi rừng núi cheo leo, những địa danh chỉ nghe đến tên thôi cũng đã cảm nhận được sự hoang vu, cái lạnh lẽo, buốt giá nơi sương rừng giăng mù mịt, những người lính hẳn sẽ cảm thấy rất mệt mỏi. Không chỉ có cái lạnh mà còn biết bao nguy hiểm, đe dọa tính mạng con người luôn rình rập người lính Tây Tiến trên con đường hành quân:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Nhưng với tâm hồn lãng mạn của những chàng sinh viên thành thị, những màn sương giăng lạnh lẽo, mịt mù gây trở ngại, nguy hiểm cho con đường hành quân ngay lập tức trở thành một "đêm hơi" thơ mộng. Khung cảnh càng trở nên trữ tình hơn với sự xuất hiện của những bông "hoa" lửa đỏ rực chính là những ngọn đuốc soi sáng cho chặng  đường chênh vênh núi cao, vực thẳm của đoàn quân Tây Tiến. Những người lính trẻ xuất thân là học sinh, sinh viên của Thủ đô Hà Nội đã nhìn thấy vẻ đẹp, chất thơ trong chính những khó khăn, gian khổ tưởng chừng như sẽ cản bước con người ấy. Những gian lao trên chặng đường hành quân vẫn cứ tiếp tục, người lính giờ phải đối mặt với sự quanh co, hiểm  trở, dốc nối dốc, đèo nối đèo của con đường núi ghập ghềnh, khúc khuỷu. Ở độ cao tưởng như đã chạm đến mây xanh, những người lính trẻ tưởng như đang đi trong mây, thế nhưng họ vẫn hồn nhiên, tinh nghịch mà trêu ghẹo cả tạo hóa:

Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Bạn đọc như nghe thấy tiếng cười vô lo vô nghĩ của những người lính trẻ, tiếng cười ấy đã làm tan biến đi mọi khó khăn, vất vả của chặng đường hành quân, tiếp thêm sức mạnh cho mọi người để tất cả cùng nhau vững bước tiến lên. Đứng trên đỉnh núi nhìn xuống, cả một vùng trung du Tây Bắc chìm trong sương mù như biến thành một vùng biển mờ ảo, thơ mộng mà những ngôi nhà của người dân như đang bồng bềnh giữa biển khơi. Vẻ đẹp đầy chất thơ ấy đã để lại trong lòng người lính những xúc động khó diễn tả thành lời:

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Lạc quan là thế, lãng mạn là thế nhưng Quang Dũng cũng không hề né tránh hiện thực của cuộc chiến khốc liệt. Chiến tranh xảy ra, hy sinh là hệ quả tất yếu, có những người lính có lẽ vì chặng đường hành quân quá gian khổ, khắc nghiệt đã phải bỏ mạng trên đường đi, thế nhưng dưới ánh mắt của những người lính Tây Tiến, họ chỉ như đang dừng lại nghỉ chân vì một chặng đường dài đã trải qua nhiều mệt mỏi, đau đớn:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh, người lính hiện lên trong hai câu thơ trên dường như chỉ đang ngủ thiếp đi trên đường hành quân vì quá mệt mỏi. Không dùng từ “hy sinh” hay “mất”, cách diễn đạt “bỏ quên đời” được nhà thơ khéo léo sử dụng vừa là một cách nói giảm nói tránh, nén nỗi đau thương vừa tôn lên sự hy sinh cao cả của người lính Tây Tiến. Họ ra đi thanh thản, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng mà bản thân vẫn ở trong tư thế, đội hình đánh giặc: “gục lên súng mũ”. Giữa những bi thương, người lính Tây Tiến đã đứng lên với dáng vẻ hùng tráng, thách thức mọi khó khăn, gian khổ.

Cuộc đời người lính không chỉ trải dài trên những chặng đường hành quân hiểm trở mà còn là những giây phút tạm quên đi cuộc chiến tranh khốc liệt, sống đúng với tuổi trẻ của mình. Đêm hội hoa đăng của bản làng miền sơn cước, không khí lễ hội cùng những bản nhạc vui vẻ vang lên khắp nơi, những điệu khèn, điệu múa cuốn hút người ta đến ngắm nhìn không rời mắt. Nổi bật trong đêm hội ấy chính là vẻ đẹp của những dáng hồng sơn cước:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Hai chữ “kìa em” vừa ngạc nhiên, bất ngờ lại có cả chút thích thú của những chàng lính trẻ vất vả trên những chặng đường gian khổ nay được nghỉ ngơi, được hòa mình vào đêm hội hoa đăng cùng những sơn nữ duyên dáng. Tuy nhiên, cũng có thể, “em” ở đây chính là những chàng lính Tây Tiến đóng giả những cô gái để vui đùa, làm vơi bớt đi những gian khổ, hy sinh. Từ đây, ta càng hiểu hơn về những người lính hài hước, dí dỏm, tinh nghịch bên cạnh hình ảnh hùng tráng, anh dũng. Họ bước vào cuộc chiến đấu không chỉ với gươm đao, súng ống mà còn với cả những nhu cầu văn hóa, tinh thần như bất cứ ai, họ biết thưởng thức những điệu múa, điệu khèn duyên dáng. Vẻ đẹp ấy càng được tôn lên khi được đặt trong bối cảnh của cuộc chiến tranh khốc liệt với những hiểm nguy luôn đe dọa mạng sống của những người lính bất cứ lúc nào.

Cũng là những người lính với vẻ ngoài gân guốc, mạnh mẽ ấy, họ cũng có một tâm hồn thật lãng mạn, mộng mơ:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Lính Tây Tiến xuất thân phần lớn đều là những học sinh, sinh viên ra đi từ thành thị hay Thủ đô Hà Nội, tâm hồn họ vốn nhiều mộng và mơ. Sau một ngày hành quân, trải qua bao gian lao, nguy hiểm, người lính Tây Tiến lại thao thức mộng về những chiến công sẽ lập được. Tinh thần mạnh mẽ, ý chí ngùn ngụt, quyết tâm được thể hiện trọn vẹn qua đôi mắt “trừng” mang đầy lòng căm thù giặc. Giữa những khốc liệt của bom đạn chiến tranh, những chàng lính trẻ với tâm hồn lãng mạn, hào hoa vẫn có những giây phút hướng về Thủ đô thân yêu, nơi có những thiếu nữ yêu kiều, duyên dáng. Thật là một giấc mơ dịu dàng! Đã có một thời, những câu thơ này bị phê phán là thiếu chân thực, là tiểu tư sản, ủy mị, thế nhưng phải hiểu được xuất thân của những người lính Tây Tiến, ta mới có thể thấy được đây chính là hình ảnh chân thực nhất của họ- những người lính trẻ xuất thân từ tầng lớp trí thức. Nhớ về “dáng kiều thơm” ấy để tiếp thêm cho bản thân sức mạnh, để lòng thêm quyết tâm tiến bước, chiến đấu vì quê hương, đất nước.

Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên trong bài thơ được khắc họa nổi bật nhất chính là nhờ bút pháp bi tráng qua những câu thơ miêu tả ngoại hình của họ:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Không nhắc đến dáng vẻ hiên ngang, hung dũng hay tư thế chiến đấu của người lính, Quang Dũng lại thể hiện hình ảnh người lính Tây Tiến với ngoại hình ngang tàn, ngạo nghễ, hoàn toàn không giống với hình ảnh người lính ta thường thấy trong các tác phẩm khác. “Không mọc tóc” hay “xanh màu lá” đều là những hệ quả của căn bệnh sốt rét rừng, nhưng với góc nhìn độc đáo, mới lạ, đầy tinh thần lạc quan của mình, nhà thơ đã biến những gian khó vì bệnh tật ấy thành những nét ngoại hình cá tính, rất đúng với tính cách của những người lính trẻ lạc quan, hài hước. Chỉ là một chi tiết nhỏ thôi nhưng cách tác giả dùng từ “đoàn binh” chứ không phải “đoàn quân” như cách diễn đạt thông thường đã tạo nên sự khác biệt lớn cho câu thơ. Với việc dùng từ Hán- Việt “đoàn binh”, câu thơ như được tiếp thêm sức  mạnh, mang âm hưởng khỏe khoắn, gợi khí thế hào hùng, mạnh mẽ. Cùng với đó, phép so sánh ngầm mà không dùng chữ “như” trong “quân xanh màu lá” đã một lần nữa tiếp thêm sức mạnh cho những người lính. Sự xanh xao của sắc mặt, da dẻ do những sốt rét rừng gây ra không khiến lính Tây Tiến trở nên ốm yếu mà ngược lại, họ còn như hòa vào với rừng xanh, oai phong như mãnh hổ ngự trị chốn rừng sâu nước hiểm. Cho dù thể chất có bị tổn thương, những người lính Tây Tiến vẫn luôn vững bước tiến lên với sức mạnh tinh thần bất diệt.

Ngày ngày đối mặt với đủ mọi nguy hiểm suốt dọc đường hành quân, rồi cũng sẽ có những người lính phải ra đi:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Không hề né tránh hiện thực, nhà thơ Quang Dũng đã phản ánh lại sự mất mát bi thương của chiến tranh qua hình ảnh những nấm mồ nằm rải rác nơi biên cương. Đã có bao nhiêu người hy sinh ở nơi này vì cuộc chiến ác liệt, có lẽ không thể đếm hết được. Bi thương như thế, đau đớn như thế nhưng vẻ đẹp của lí tưởng lớn lao đã át đi tất cả. Những người trẻ còn cả tương lai, tuổi trẻ phía trước nhưng không màng đến bản thân, chỉ nghĩ cho độc lập, tự do của quê hương, đất nước, họ sẵn sàng xông pha chiến đấu bất chấp những hiểm nguy có thể cướp đi sinh mạng bất cứ lúc nào. Sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, câu thơ như một lời khẳng định, quyết tâm “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Chính những người lính Tây Tiến cũng đã hy sinh không ít, sự hy sinh của họ dưới ngòi bút của Quang Dũng lại được bao phủ bởi hào quang của cảm hứng lãng mạn, bi tráng:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Người lính khi hy sinh thường được quấn một tấm chiếu quanh mình và được chôn cất, nhưng do thiếu thốn, những người lính Tây Tiến thậm chí còn không có manh chiếu bọc thây. Họ được chôn cất chỉ với một lớp áo mỏng, nhưng chính tấm áo đã sờn rách, bạc màu vì sương nắng ấy lại là tấm áo bào trang trọng và ý nghĩa nhất dành cho những người lính đã hiến dâng cả tuổi trẻ và sinh mạng của mình cho đất nước. Nhắc đến sự hy sinh với cụm từ “anh về đất”, nhà thơ đã thể hiện niềm ngưỡng mộ, tự hào đối với những người lính đã ra đi. Dường như, sự hy sinh của người lính không phải là cái chết, đó chỉ là sự hóa thân vào hồn thiêng sông núi sau những tháng ngày hành quân gian khổ. Đất mẹ đang dang rộng vòng tay đón những đứa con thân yêu trở về. Sự ra đi ấy của họ còn có tiếng khóc tiễn đưa của thiên nhiên, tiếng gầm của dòng sông Mã như rung chuyển cả trời đất. Nỗi bi thương như vang non sông. Với cách khắc họa này, sự hy sinh của những người lính Tây Tiến trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết.

Qua bài thơ Tây Tiến, hình ảnh người lính hiện lên vừa mang những nét đặc trưng quen thuộc của người lính thời kì kháng chiến chống Thực dân Pháp vừa có những nét tính cách mới mẻ được khắc họa chân thực. Với bút pháp lãng mạn và bi tráng, người lính Tây Tiến xuất hiện trong bài thơ không chỉ đóng vai trò quyết định cho thành công của tác phẩm mà còn để lại trong tâm trí bạn đọc những ấn tượng sâu sắc. Họ là những người lính hào hoa, phong nhã và lãng mạn nhất nền văn học kháng chiến Việt Nam.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 20

Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ, Tây Tiến là một hồi tưởng rất đẹp, những kỉ niệm đầy sống động về người chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến. Bài thơ mặc dù là dòng chảy thương nhớ hướng về đoàn quân nhưng vẫn tập trung khắc họa được vẻ đẹp bi tráng và lãng mạn của những người lính Tây Tiến.

Quang Dũng đã bắt gặp vẻ đẹp tài hoa nhưng cũng rất đỗi phi thường ở những người lính Tây Tiến. Cũng chẳng có gì là lạ bởi phần đông đoàn quân Tây Tiến la những học sinh Hà Nội vừa “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến”. Họ mang trong mình lý tưởng của Đảng, chút mộng mơ của thời cắp sách đến trường, sức mạnh của tuổi trẻ và chất con người Hà Nội vốn từ lâu đã nổi tiếng thanh lịch hào hoa. Bài thơ với ba mươi tư câu thơ đã xây dựng nên bức tượng đài người lính Tây Tiến trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp bi tráng nhưng cũng không kém phần lãng mạn hào hoa. Hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh gian khổ với nhiều mất mát hy sinh nhưng ở họ vẫn toát lên phong thái cốt cách anh hùng, một vẻ đẹp vừa hào hùng hào hoa và cũng vừa bi tráng.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quan xanh màu lá dữ oai hùm”

Hai câu thơ có âm hưởng mạnh mẽ nhờ cách sử dụng từ ngữ tài hoa, dùng “đoàn binh” có âm vang hơn “đoàn quân’, đồng thời gợi ra hình ảnh đoàn binh luôn cầm chắc vũ khí trong tay với tư thế sẵn sang chiến đấu với tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Hai câu thơ đó chính là cái gân guốc bắt nguồn từ hiện thực khắc nghiệt. “Không mọc tóc” chính là hậu quả của những cơn sốt rét rừng, quân xanh màu lá cũng là một thực tế hiển nhiên, ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh màu lá ngụy trang hay là xanh làn da vì thiếu máu. Cũng giống như Tố Hữu đã viết trong bài thơ “Đồng chí”:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

Hiện thưc được khúc xạ qua bú pháp lãng mạn của Quang Dũng trở thành cách nói mang khẩu khí ngang tang, cứng cỏi, không mọc tóc chứ không phải tóc không thể mọc được vì sốt rét. Cách nói chủ động làm cho người lính Tây Tiến đì từ cái dữ dội của rừng thiêng mà ra xuất quỷ nhập thần trong mỗi nhiệm vụ. Ẩn sau ngoại hình ấy là sức mạnh nội tâm “dữ oai hùm” là khí phách của đoàn quân ấy, có tác dụng cực tả thần thái tư thế oai phong, dữ tợn của đoàn quân ấy khi đánh giặc. Những hình ảnh rất thực, giọng điệu lãng mạn của Quang Dũng như mang nghĩa tượng trưng rất khí phách. Khó khăn gian khổ là thế nhưng các chiến sĩ Tây Tiến vẫn không nguôi vơi đi nỗi nhớ, những tình cảm lãng mạn:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Những người lính Tây Tiến gân guốc, cứng rắn mạnh mẽ lại là những chàng trai hào hoa, phong nhã đầy mộng mơ. “mộng” và “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: biên cương – nơi còn đầy bóng giặc với mộng giết giặc lập công và Hà Nội nơi quê hương yêu dấu – mơ những dáng hình thân yêu. ‘dáng kiều thơm’ ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, nỗi nhớ ấy của họ khác với nỗi nhớ của những người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu”:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Nhưng nỗi nhớ này của những người lính Tây Tiến lại chẳng khác nào nỗi nhớ cảu Nguyễn Đình Thi trong bài thơ “Đất nước”.

“Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

Nỗi nhớ của người lính Tây Tiến về dáng kiều thơm, thanh lịch, duyên dáng của thiếu nữ Hà Nội mang một vè hào hoa, lịch lãm vốn có của những trí thức đất nước Hà Thành. Lý tưởng, khát vọng của người lính Tây Tiến được thể hiện ở tinh thần xả thân vì nghĩa lớn, sự hy sinh cao cả để bảo vệ Tổ quốc:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Sau những câu thơ rắn rỏi đẹp đẽ thì đến đây âm điệu của câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm, còn gì thiêng liêng, cao cả hơn sự hi sinh chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi mộ viễn xá của những người chết xa quê. Nhưng các chiến sĩ vẫn bình thản bởi vì họ sẵn sang chấp nhận điều đó. Một trong những lý do thôi thúc họ lên đường là hình ảnh của những người anh hùng mà họ tiếp nhận được trong văn chương. Vượt lên trên tất cả là khát vọng được ra đi được dâng hiến và xả thân cho đất nước. Hai câu thơ tiếp vẫn mang âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

“Áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hi sinh của họ. Trong thực tế các chiến sĩ hi sinh thậm chí không có nổi một manh chiếu nhưng khi đi vào “Tây Tiến” cái đẹp để lại là cái đẹp trong tâm tưởng. “Về đất” là cách nói giảm nói tránh về sự mất mát đau thương. Đâu đây vẫn còn những giọt nước mắt đọng lại sau những hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm sâu xa. “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở sau khi đã thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Sự hi sinh của những con người ấy lớn lao thầm lặng ly động cả đất trời khiến cho dòng sông Mã phải gầm lên khúc đôc hành. Tiếng gầm ấy như một lời vĩnh biệt những người con yêu của đất nước.

“Tây Tiến” là tấc lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa, bên cạnh cái bi là cái hùng, bên cạnh sự mất mát đau thương là sự hy sinh cao cả, thiêng liêng. Nửa thế kỉ qua, bài thơ ngày thêm một sáng giá và những câu thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến với vẻ đẹp bi tráng lãng mạn đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 21

Trong vườn hoa thơ ca viết về người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có rất nhiều bông hoa lạ mà đẹp. “Tây Tiến” là một trong những bông hoa viết về người lính mang một vẻ đẹp khác với vẻ đẹp của người lính các bài thơ cùng thời. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến kiên dũng mà tình tứ, cháy bỏng khát vọng lập công của một thời anh hùng rực lửa mà lại rất lãng mạn hào hùng, hào hoa.

Tây Tiến ra đời vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp khi mà những chàng trai “mang chí nam nhi thời loạn,” “xếp bút nghiên ra xa trường”. Họ coi gian nan là “nợ anh hùng phải vay” nên sẵn sàng dấn thân đương đầu với mọi gian nan thử thách trong hàng binh trận mạc. Họ ra đi bỏ lại sau lưng mình “gian nhà không mặc kệ gió lung lay” , bỏ lại sau lưng “luống cày đất đỏ, tiếng mõ đêm trường”, họ ra đi “lột sắt đường tàu rèn thêm dao kiếm/ Áo vải chân không đi lùng giặc đánh”. Họ là nam nhi thời loạn với vẻ đẹp của người thanh niên Việt Nam “trượng phu có chí anh hùng”. Nhưng họ cũng là những con người mà khi “Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa” nên bản thân họ chứa đựng hai vẻ đẹp hào hùng và hào hoa.

Hào hùng là vẻ đẹp mang phẩm chất, cốt cách mạnh mẽ thuộc về ý chí. Hào hoa là thuộc về tình cảm lãng mạn. Hai nét hào hùng và hào hoa dường như đối lập nhau, hào hùng là ý chí là sức mạnh là hào khí của một lớp thanh niên mang tinh thần thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hào hoa lại là một tâm hồn mềm mại lãng mạn “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, “Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”.

Viết về người lính trong chiến tranh văn học nói chung, thơ ca nói riêng chủ yếu chỉ đề cập đến vẻ đẹp dũng cảm anh hùng mà ít khi bộc lộ vẻ đẹp lãng mạn tình tứ trong tâm hồn người lính, thực ra đây chính là một điểm thành công của Tây Tiến, chính nhờ có điểm thành công này mà vẻ đẹp của người lính Tây Tiến mang sắc thái vừa riêng biệt vừa cùng với vẻ đẹp của người lính trong các bài thơ khác. Đồng chí của Chính Hữu, Cá nước của Tố Hữu… đã hoàn chỉnh về vẻ đẹp  của anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp.

Vẻ đẹp hào hùng hào hoa của người lính Tây Tiến hiện lên qua cuộc sống chiến đấu vô cùng gian khổ.  Một cuộc vạn lý trường chinh Tây Tiến đầy gian nan thử thách. Núi cao, dốc đứng, thác ghềnh,vực sâu… Có lúc như chìm vào thung lũng sương mù hay đỉnh núi cao chọc trời Tây Bắc “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Có lúc đoàn quân rơi vào trận địa của núi non trùng điệp:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Thiên nhiên cứ cố tình giăng ra biết bao thử thách bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng bẻ gẫy ý chí của con người. Người lính Tây Tiến cứ thầm lặng dấn thân, cứ dần vượt qua hiểm trở của lộ trình oai linh của rừng thiêng núi độc. Sự rình mò của thú dữ, sự dãi dầu của thân xác. Rồi cái chết hiện ra, người lính Tây Tiến phải đối mặt với tất cả:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Hào hùng nhất mà cũng lãng mạn nhất có lẽ là lúc Quang Dũng khắc họa chân dung người lính:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Chân dung ấy được khắc họa bởi hai nét vẽ chủ đạo: Bi và Tráng. Bi là bi thương. Tráng là hào hùng. “Bi tráng” vừa đối lập mà cũng vừa thống nhất hài hòa, nghĩa là vừa đau thương vừa hào hùng hay càng đau thương càng hào hùng. Bi thương ấy hiện lên qua ngoại hình người lính ốm đau, tiều tụy, đầu trọc “không mọc tóc” , da dẻ xanh xao, héo úa “quân xanh màu lá”. Ma thiêng nước độc của Tây Bắc thật khủng khiếp. Lam sơn chướng khí núi rừng và hậu quả của sốt rét rừng ác tính, của đói rét, gian khổ đã bào mòn đi sức trẻ của những người lính. Sốt rét là một thực tế khắc nghiệt. Thơ ca kháng chiến chống Pháp không ít những lần nhắc đến như thế:

Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

(Chính Hữu)

Sốt rét đến “Má anh vàng nghệ” (Tố Hữu), đến “Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật/ Đâu còn tươi nữa những ngày xanh” (Thôi Hữu)… Còn lính Tây Tiến sốt rét đến rụng hết tóc trông đến kỳ dị.

Đối lập với “bi” là “Tráng”. Nghệ thuật tương phản giữa cái bên trong trong (tinh thần) và cái bên ngoài (ngoại hình) đã tạo nên vẻ đẹp của Tây Tiến. Đoàn quân ốm mà không yếu, bi mà vẫn hùng vì: Hình ảnh “không mọc tóc” gợi cái ngang tàng, ngạo nghễ, coi thường gian khổ của chất lính trẻ luôn hóm hỉnh đùa vui.  Từ “đoàn binh” mang nghĩa rộng hơn “đoàn quân” để chỉ sự đông đảo, hùng mạnh. Ba từ “dữ oai hùm” là phi thường hóa người lính. Đó là những con người đang làm chủ tình thế, áp đảo kẻ thù. Vì thế cái hùng lấn át cái bi, sức mạnh chiến đấu lấn át hoàn cảnh tạo nên một tập thể có sức mạnh “thôn Ngưu đẩu”.

Hai câu thơ tiếp, người lính hiện lên bởi vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa trong mộng trong mơ:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Vẻ đẹp Lãng mạn là vẻ đẹp tâm hồn vượt qua hiện thực gian khổ hướng tới niềm lạc quan. Ở đây, trong gian khổ thiếu thốn nhưng người lính vẫn mộng mơ.

 “Mắt trừng” là đôi mắt vừa có chí vừa có tình:  “Chí” trong ý chí đánh giặc. Đôi mắt ấy đang gửi về bên kia biên giới giấc mộng đánh giặc, mộng lập công, mộng hòa bình, mộng trở về. “Tình” trong tình yêu quê hương, con người. Đôi mắt ấy gửi vào giấc mơ về Hà Nội “Đêm mơ Hà Nội”. Hà Nội là quê hương của người lính cũng là thủ đô yêu dấu. Hà Nội của cả nước, của biết bao vần thơ trong nỗi nhớ. Một Nguyễn Đình Thi xao xuyến với mùi hương cốm mới, một làn hơi may rất mỏng, lá vàng rơi…

“Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”

Tướng Huỳnh Văn Nghệ “Nhớ Bắc” với “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”.

Lính Tây Tiến ra đi thì mãi nhớ về một Hà Nội với “dáng kiều thơm”. Kiều thơm là chỉ bóng dáng những người bạn gái đẹp, thanh lịch, dịu dàng. Còn là hình bóng trong mộng của Quang Dũng (Theo lời kể của nhà thơ Vân Long thì người người yêu Quang Dũng dạo ấy có tên chữ lót là Kiều).

Từng một thời bài thơ Tây Tiến bị xem là “có vấn đề” cũng vì chất mộng mơ trong hai câu thơ này. Nhưng thời gian đã chứng minh cho sự bất tử của nó, chất lãng mạn chính là liều thuốc tinh thần cho người lính vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt thời bấy giờ. Đó là lãng mạn cách mạng chứ không phải là cái lãng mạn kiểu “mộng hão”, “mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản như Hoài Thanh và một số nhà phê bình từng nhận xét.

Giữa những ngày gian khổ các chiến sĩ Tây Tiến vẫn vui vẫn sống vẫn giữ nguyên cốt cách hào hoa của mình, họ tổ chức những đêm lửa trại tưng bừng náo nhiệt

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ.

Cái dữ dội khốc liệt của chiến tranh biến mất chỉ còn lại không gian tràn ngập ánh sáng chập chờn hội đuốc hoa và tâm hồn người lính như bốc men say trong hội vui thắm thiết của tình quân dân. Câu thơ “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” bộc lộ tất cả cái ngỡ ngàng vui sướng cái đắm say của tâm hồn lại có cái hóm hỉnh, tinh nghịch của lính. Có thể hình dung những tâm hồn hào hoa ấy đang đắm chìm trong vẻ đẹp của những bóng hồng Tây Bắc. Người lính như được chắp cánh  bởi vẻ đẹp con người và cảnh vật vùng Tây Bắc, như đang bay lên trong tiếng nhạc điệu khèn. Phải có một cái gì đó thật lãng mạn đắm say trong tâm hồn Quang Dũng nên ông mới viết được những câu thơ hay đến thế. Những chữ “xiêm áo”, “man điệu”, “khèn lên,” “nhạc về” gợi lên vẻ đẹp hư ảo, một vẻ đẹp vừa gần vừa xa của một khung cảnh nơi xứ lạ phương xa, làm lòng người như đắm say, xốn xang hơn.

Đi suốt bài thơ ta gặp cái chất bốc tếu, cái ngang tàng kiêu bạc của người lính Tây Tiến rất rõ. Vừa treo mình cùng hơi thở nặng nhọc trên các dốc núi cheo leo ta gặp ngay cụm từ “súng ngửi trời” rất dí dỏm, rất lính. Thiên nhiên miền Tây dữ dội với núi cao, vực thẳm, thác gầm  lùi lại phía sau người lính. Vẻ đẹp tâm hồn lạc quan của người lính được nhân lên sánh ngang thiên nhiên hùng vĩ. Đi suốt toàn bài thơ cái chất hào hùng của người lính hiện lên qua hiện thực gian khổ thiếu thốn tột cùng “sương lấp,” “đoàn quân mỏi,” “dãi dầu”, “không bước nữa,” “bỏ quên đời” với ý chí dấn thân thái độ kiên định sắt đá “chẳng tiếc đời xanh,” “không hẹn ước,” “chẳng về xuôi.”

Đến cái chết cũng thật Hào hùng hào hoa !

Nói đến người lính, nói đến chiến tranh không thể tránh khỏi cái chết. Cái chết vẫn là một mối đe doạ, một sự thật đáng ngại và rất bi thảm, nhưng qua ngòi bút Quang Dũng ta lại thấy dược ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến, có thể nói ngay cái chết cũng rất đỗi hào hùng người lính Tây Tiến dù có chết cũng “không rời vũ khí, không xa đội ngũ”.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Rồi những cái chết nơi rừng hoang biên giới “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Nhưng câu thơ thứ hai lại vang lên như một lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, đúng là giọng điệu của bậc trượng phu “Coi cái chết nhẹ như lông hồng” sáng ngời chí trai cường: “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa/Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”.

Hai câu thơ:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

đã đẩy vẻ kiêu dũng lên cực điểm, hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ để tái tạo ở đây vẻ đẹp tráng sĩ làm mờ đi thực trạng thiếu thốn , gợi được hào khí của chí trai thời loạn. Chữ “về” nói thái độ ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết. Phong Lan trong “Bài thơ Tây Tiến – tượng đài bất tử về người lính vô danh” đã nói về vẻ đẹp của người lính Tây Tiến qua cái chết như sau: “Lý tưởng cách mạng đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất anh hùng ngang tàng và chất men say lãng mạn ngay cả khi họ chết cũng như phảng phất nét nghệ sĩ tài tử”.

Ngày nay đọc lại “Tây Tiến” của Quang Dũng, bỗng thấy nhớ đến nao lòng một thời kỳ lịch sử bi tráng của dân tộc, một thời đại “Một đi không trở lại”. Các anh đã ngã xuống cho “lá cờ cách mạng thêm đỏ thắm”, cho tượng đài tự do được tôn cao. Lịch sử sẽ mãi nhớ tên các anh những người anh hùng bất tử.

Thế hệ thanh niên ngày nay sống trong thời bình cũng rất xứng đáng với thế hệ cha anh ngày ấy. Họ trân trọng những giá trị lịch sử, biết yêu quý và giữ gìn những thành quả mà cha anh đã đổ xương đổ máu để bảo vệ. Chính vì vậy, họ phát huy sức mạnh quyền làm chủ trong học tập trong lao động. Phát huy sức mạnh tuổi trẻ để đưa đất nước Việt Nam ra tầm thế giới. Đội Robocon của ĐH Lạc Hồng luôn mang về giải sáng tạo trong các cuộc thi quốc tế. Các đội tuyển thể thao cờ vua, bóng đá, cầu lông… đến các đội đi thi Olympic Toán, Vật Lý, Hóa Học đều giành giải cao mang lại vẻ vang cho nước nhà. Đấy là hình ảnh đẹp cho sự vươn xa của trí tuệ Việt.

Thanh niên ngày nay cũng rất coi trọng lòng biết ơn, coi trọng giá trị nhân văn cao đẹp của dân tộc ta “Uống nước nhớ nguồn”. Hình ảnh, đoàn người xếp hàng dài trước linh cữu đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhiều bạn trẻ không cầm được nước mắt trước sự ra đi của người là biểu tượng cho vẻ đẹp về lòng tự cường, tự tôn dân tộc.

Bác Hồ nói “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại kết thành một làn sóng sôi nổi”. Quả đúng như vậy, dân ta ở đây, mà trước hết là tuổi trẻ đã thể hiện quyết tâm rực lửa ấy bằng những hành động có tính đoàn kết cao độ. Biểu hiện đó là hàng năm có hàng ngàn thanh niên tình nguyện nhập ngũ tham gia vào công tác huấn luyện. Vào độ tháng 5.2014, khi Trung Quốc ngang ngược đặt giàn khoan HD – 981 vào thềm lục địa Việt Nam, hàng triệu con người Việt Nam đã xuống đường tuần hành (trong đó chủ yếu là thanh niên). Họ đã hăng say đấu tranh cho công lý, đấu tranh cho lẽ phải, đấu tranh cho chủ quyền. Đó là họ đang sống cho xứng đáng với bao anh hùng đã ngã xuống trên mảnh đất này.

Thanh niên ngày nay họ cũng rất biết yêu thương, nghĩa tình, nhân ái. Họ sống quý trọng người già, yêu thương em nhỏ. Họ biết sống hi sinh bản thân mình vì người khác và vì những điều lớn lao cho cộng đồng cho xã hội. Một Nguyễn Hữu Ân chăm sóc mẹ bị bệnh ung thư, mẹ mất, nhận người đàn bà bên cạnh giường bệnh của mẹ mình làm mẹ nuôi (người mẹ nuôi ấy cũng bị bệnh ung thư); Nguyễn Văn Nam học sinh trường THPT Đô Lương 1 (Nghệ An) đã hi sinh sau khi cứu được 5 em nhỏ khỏi bị chết đuối… Chừng ấy tấm gương đủ để thấy thanh niên ngày nay rất đáng tự hào.

Tuy nhiên, cũng công bằng mà nói, bên cạnh những thanh niên trở thành biểu tượng cao đẹp của tuổi trẻ Việt Nam thì cũng không ít bạn trẻ lại trở thành điều ngược lại. Đáng phê phán và lên án thay là một bộ phận giới trẻ bây giờ sống vô cảm, chỉ biết sống cho riêng mình, hưởng thụ cho chính mình mà không thèm quan tâm đến mọi điều xung quanh. Họ làm ngơ trước ánh mắt van xin của một cụ già đang cần một bàn tay dắt qua đường, họ lạnh lùng trước một em bé xin ăn đang đói lả, họ phung phí ổ bánh mì vào thùng rác trong khi đây đó có bao người phải ăn cả giấy gói bánh còn dính ít đồ thừa… Trong khi họ vung tiền vào quán Bar, vũ trường… thì còn đó bao em thơ chưa một lần được có tấm áo lành lặn để đến trường. Đáng buồn thay.

 “Tây Tiến” của Quang Dũng là bài thơ về một thế hệ thanh niên với lý tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” – họ là những con người đã nguyện dâng hiến máu xương mình cho tổ quốc. Thời gian đã đi qua, gió bụi thời gian có thể phù mờ bao huyền thoại nhưng tượng đài về người chiến binh Tây Tiến năm xưa thì mãi mãi bất tử cùng thời gian. Càng trân trọng và yêu quý thế hệ cha anh ngày ấy đã ngã xuống vì hòa bình, thế hệ thanh niên chúng ta ngày nay phải quyết tâm sống sao cho thật xứng đáng.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 22

Cuộc chiến tranh nào cũng có sự hi sinh, đổ máu, nước mắt và đi vào lòng của người dân. Những anh hùng, người lính vô danh đã hi sinh, nhưng văn học với sứ mệnh cao cả đã khắc họa rõ nét người chiến sĩ cách mạng đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Ở trong thơ Quang Dũng cũng tôn lên một bức tranh bất tử của người chiến sĩ yêu nước ngã xuống vì dân tộc.

Tây Tiến của Quang Dũng là chuỗi hồi ức về nổi nhớ đồng đội của nhà thơ. Người lính với tay cầm sung chiến đấu nơi biên cương miền Tây Tổ quốc, đã được khắc nét bằng bút pháp khác thường làm nổi bật lên một vẻ đẹp hào hùng của người lính đã mang lại nhiều cảm xúc nghẹn ngào cho người đọc. Bài thơ ra đời năm 1948, hai năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Trong thơ, hình ảnh người lính xuất hiện giữa núi rừng hoang sơ, kì vĩ với vực thẳm, dốc đá, thác gầm,…cồn mây heo hút, sương lấp, cọp trêu người.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”, cả câu văn đã giúp ta thấy được một hình ảnh đầy khó khăn gian khổ đang ở phía trước,Quang Dũng đã sử dụng các động từ rất mạnh “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” để làm toát lên vẻ đẹp hào hùng của núi rừng nhưng các chiến sĩ vẫn mãi không lùi bước. “Súng ngủi trời” chỉ một độ cao vời vợi cùng với sự “lên cao, xuống thấp”của địa hình, sự nguy hiểm được tăng lên gấp bội đang vây quanh cuộc đấu tranh. Nhưng xa xa ở trên kia, ngôi nhà đang dần hiện ra trong cơn mưa xa “Nhà ai Pha Luông”” một địa danh vô cùng xa lạ, mờ mịt với người chiến sĩ, làm tăng thêm vẻ xa lạ, hoang sơ, mịt mù, bí ẩn của núi rừng, nhưng đó sẽ là điểm đến, là chỗ dừng chân, là khát vọng của các chiến sĩ. Trên khung cảnh thiên nhiên, dáng vẻ người lính xuất hiện thật oai liệt, luôn xung phong đương đầu mọi thử thách. Nhưng vẫn luôn yêu đời và lạc quan.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Hai câu thơ trên gợi sự bi thảm, người lính đó đã chiến đấu hết mình, bỏ mặc tuổi thanh xuân, bỏ mặc nổi sợ hãi cái chết, bỏ mặc mọi thứ, chỉ quyết một điều, phải chiến đấu để quyết giữ hòa bình, độc lập cho dân tộc. Và họ đã hi sinh, ra đi ở nơi biên cương, không ai biết danh tính, không ai biết mặt, họ ra đi mà không để lại lời trăn trối gì, chỉ mong rằng anh em chiến sĩ đang ở lại, hãy viết nên bài hùng ca chiến trường, bài ca của người lính. Ôi sao thấy sót xa!

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Rừng núi hiểm trở, đâu đâu cũng có nguy hiểm đang rình rập, không ai chiều lòng người lính trẻ đang thiếu thốn mọi mặ từ thức ăn, đến mền, chiếu, thuốc thang,…đều không có đủ. Khí hậu lạnh, dịch sốt rét hoành hành, các chiến sĩ của chúng ta không có đủ phương tiện gì để chống lại, làm tóc tai rụng, biến thành những đội quân không mọc tóc. Nhìn làn da xanh ngắt vì thiếu ăn, vì ốm, họ trở thành những quân xanh oai hùm nhưng không khiến ta cảm thấy sợ hãi, mà trong lòng luôn thấy xót thương làm sao.

Và nhiều người đã hi sinh, không một mảnh chiếu để chôn cất, tấm áo mỏng manh thay thế cho tấm chiếu, họ được chôn cất tuy sơ sài, nhưng sâu trong lòng những người ở lại, họ vẫn mãi sống.

Áo bào thay chiếu, anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Hình ảnh “Sông Mã” như một điệp khúc tiễn đưa người chiến sĩ về với đất mẹ vĩnh hằng, giống như đang ru ngủ, chở che các chiến sĩ, đây là một tình cảm thiêng liêng  dành cho các chiến sĩ.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Ngoài vẻ đẹp hào hùng của những người chiến sĩ, xung quanh đó còn vẽ lên một nét đáng yêu, mơ mộng, lãng mạng nhưng không kém tinh nghịch, đậm chất những chiến sĩ trẻ trung.

Ánh lửa doanh trại phấp phới những hội đuốc hoa, những cô em với xiêm áo, tiếng kèn, tiếng nhạc hòa vào, làm tan chảy bao chàng chiến sĩ, bao cô gái. Một bức tranh thơ mộng, vừa thực vừa hư, tô vẽ lên bao ước mơ tươi đẹp.

Những con người sống và làm việc tại rừng núi hiểm trở, luôn chịu sự rình rập của nguy hiểm, có thể đổ máu và hi sinh bất kì lúc nào. Nhưng với họ, những người lính cách mạng luôn mang trong mình trọng trách bảo vệ đất nước. Họ không hề run sợ trước sự hung bạo của kẻ thù, sẵn sàng hi sinh vì dân vì nước, không tiếc thân mình.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 23

Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng là bài thơ hay viết về đề tài người lính trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Nhà thơ Quang Dũng vừa là một người chiến sĩ, vừa là một nhà thơ, một nhà văn và một nhạc sĩ, nên trong thơ của ông thường có đầy đủ các yếu tố nghệ thuật. Mỗi vần thơ như chứa đựng những nốt nhạc trầm bẩm làm du dương say đắm lòng người.

Trong bài thơ "Tây Tiến" Quang Dũng viết về những người đồng đội của mình bằng tất cả những tình cảm thương yêu nhất, thơ của ông luôn thể hiện một hào khí đậm chất chiến trường máu lửa.
Hình ảnh người lính được tác giả xây dựng vừa gần gũi, thân thuộc đời thường với tất cả người đọc. Nhưng không vì thế mà mất đi vẻ oai hùng, đậm chất bi tráng dũng cảm của người lính Tây Tiến.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Trong hai câu thơ này hình ảnh người lính Tây Tiến vô cùng gần gũi, với hình ảnh "không mọc tóc" bởi những người lính Tây Tiến khi đi hành quân qua rừng núi gặp những cơn sốt rét rừng, làm cho mái tóc người lính rụng hết. Những người lính gặp nhiều khó khăn trong chặng đường hành quân gian khổ của mình.

Nhưng những người lính Tây Tiến thể hiện một cuộc sống vô cùng khắc khổ, nhưng vẫn không hề mất đi vẻ oai nghiêm, anh dũng trong hình ảnh của những người lính. Người lính của chúng ta khi đi hành quân trong rừng thường ngụy trang bằng một cành lá rừng để che mắt quân thù. Như một con hổ nguy trang để rình mồi.

Cuộc sống của người lính vô cùng gian khổ, thiếu thốn trăm thứ vật chất, phải đối diện với bệnh tật…Nhưng họ vẫn luôn tràn ngập niềm tin vào tương lai phía trước.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Trong hai câu thơ tiếp theo hình ảnh người lính được tác giả Quang Dũng xây dựng với đậm chất thơ. Nếu như ở câu trên "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới" thể hiện một hình ảnh người lính vô cùng anh dũng luôn có tinh thần cảnh giác cao độ trước kẻ thù. Thì câu thơ dưới "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Thể hiện một hình ảnh người lính vô cùng trẻ trung đáng yêu. Những người lính trong binh đoàn Tây Tiến đều là những chàng trai ra đi từ thủ đô Hà Nội. Họ đều là những người tri thức trẻ theo lời kêu gọi của nhà nước mà xếp bút nghiên lên đường đi chiến đấu. Họ ra đi vì tình yêu quê hương, đất nước, muốn bảo về quê hương của mình, những người thân yêu của mình. Những người lính tuổi đời còn rất trẻ, trong lòng có những rung động của tuổi thanh xuân nhưng chỉ dám chôn giấu trong trái tim mà thôi. 

Trong hai câu thơ này, thể hiện sự nhân văn của nhà thơ Quang Dũng khi miêu tả chân thành đời sống nội tâm của những người lính. Những người lính của chúng ta đều muốn có một mái ấm gia đình, về ngôi nhà hạnh phúc của mình. Chính vì vậy, họ ra đi để bảo vệ nền độc lập của dân tộc để xây dựng cho riêng mình một mái ấm gia đình với người  con gái mà họ thầm thương trộm nhớ.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc có rất nhiều người đồng đội, người lính của chúng ta đã nằm xuống nơi chiến trường. Những nấm mộ không tên, nằm rải rác dọc đường Trường Sơn không còn xa lạ với những người đã từng tham gia lính chiến.

Những con người ra đi trong thầm lặng, họ đã hy sinh thân mình để bảo vệ từng mảnh đất quê hương, vì một tương lai tốt đẹp hơn cho dân tộc của mình. Trong những trận đánh ác liệt không biết bao nhiêu người lính của chúng ta đã nằm xuống. Các anh ra đi giữa tuổi hai mươi vô cùng tươi đẹp, cuộc sống của những người lính mới chỉ bắt đầu. Nhiều người vẫn còn chưa bao giờ hẹn hò hoặc cầm tay một người bạn khác giới. Nhưng các anh đã hy sinh vô cùng dũng cảm để bảo vệ quê hương đất nước này.

Sự hy sinh của các anh vô cùng cao cả, các anh không tiếc máu xương thân thể của mình để bảo vệ từng nắm đất của quê hương. Bảo vệ những người thân yêu, bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Nhờ có sự hy sinh to lớn của các anh mà chúng ta hôm nay được sống trong một đất nước thái bình, được học hành được hưởng một cuộc sống bình yên không tiếng súng.

“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Những chiến sĩ nằm lại nơi chiến trường xa xôi, các anh ra đi những người đồng đội tiễn đưa các anh trong tâm trạng vô cùng đau xót tiếc thương. Nhưng ở chiến trường mọi thứ đều thiếu thốn, nên tang lễ của các anh cũng giản dị, chỉ một chiếc áo bào thay chiếu bó thây, đưa các anh trở về trong lòng đất mẹ thiêng liêng. Các anh ra đi thanh thản, thiêng liêng, tổ quốc nhớ ơn sự hy sinh của các mãi mãi.

Nhà thơ Quang Dũng không những từ ngữ mang đậm sự chết chóc, mà ông chỉ dùng một từ vô cùng nhẹ nhàng "về đất" để thể hiện sự ra đi của những người lính vô cùng nhẹ nhàng, không gợi nên vẻ bi lụy, sầu não.

Người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến sống chiến đấu cho quê hương đất nước của mình. Họ luôn sẵn sàng hy sinh tính mạng, trí lực của mình vì dân vì nước mà không bao giờ cảm thấy tiếc nuối.

Các anh ra đi núi rừng, thiên nhiên cũng cảm thấy đau khổ với sự ra đi của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải xót xa kêu lên những âm thanh ai oán, tiếc thương vô hạn. Trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng chất bi tráng và màu sắc lãng mạn được lan tỏa trong toàn bộ bài thơ, theo chiều dài của lịch sử.

Hình ảnh người lính trong Tây Tiến là đoạn thơ vô cùng độc đáo thể hiện một hình ảnh vô cùng giản dị gần gũi nhưng đậm chất sử thi lãng mạn. Hình ảnh người lính trong bài thơ "Tây Tiến" là một tượng đài tráng lệ trong lòng người đọc và trong lịch sử dân tộc nước ta.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 24

Chiến tranh qua đi nhưng đã để lại vô số đau thương trong mỗi người. Những mất mát, hi sinh của một thời kháng chiến oanh liệt, hào hùng được tái hiện qua rất nhiều tác phẩm. Tạo nên dòng văn học kháng chiến và tô điểm vào đó là Tây Tiến của Quang Dũng. Trong toàn bộ bài thơ, hình tượng người lính Tây Tiến được khắc họa rất rõ nét.

Tác giả Quang Dũng là tên tuổi nổi bật của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Ông là một người rất đa tài trên nhiều lĩnh vực làm thơ, sáng tác nhạc, vẽ tranh…Thơ ông thể hiện sự phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài ba. Tên tuổi Quang Dũng gắn liền với những tập thơ tiêu biểu như Mây đầu ô, Thơ văn Quang Dũng..

Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt- Lào. Và nhà thơ Quang Dũng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến. Hơn ai hết, Quang Dũng gắn bó và lưu giữ kỉ niệm cùng đồng đội, đồng chí. Nên sau khi phải chuyển sang đơn vị khác vào năm 1948, nỗi nhớ đồng đội cũ và chiến trường xưa đã trở thành nguồn cảm hứng giúp nhà thơ viết lên Tây Tiến. Hình tượn người lính Tây Tiến hiện lên rất chân thực dưới ngòi bút Quang Dũng.

Vẻ đẹp bi tráng của chiến sĩ Tây Tiến muốn nói đến sự hi sinh cao cả, ý chí, tinh thần hùng tráng của họ. Vượt trên mọi gian khổ khó khăn, người lính dũng cảm đối mặt với nghịch cảnh. Hình ảnh bi tráng người lính hiện lên trong bài thơ bi thương mà không hề bi lụy.

Chặng đường hành quân của người lính phải đối mặt với vô số hiểm nguy, hiện thực xoay quanh con đường hành quân rất gian khó.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

Đây là hai câu thơ ghi lại một chi tiết rất hiện thực trên con đường hành quân ra trận của những người lính Tây Tiến. Hai chữ “dãi dầu” gợi bao vất vả, nhọc nhằn mà người lính Tây TIến phải vượt qua ở núi rừng miền Tây hiểm trở. Cùng với đói r,ét ốm đau, bệnh tật, nhiều người lính đã ngã xuống trên con đường hành quân khi chưa kịp ra tới chiến trường. Nhưng Quang Dũng đã diễn tả cái bi ấy bằng cảm hứng lãng mạn, qua những cụm từ như không bước nữa, gục lên súng mũ, bỏ quên đời, khiến sự ra đi của các anh trở nên thanh thản, nhẹ nhàng.  Các anh dường như đang dừng chân nghỉ bước, đang ngủ quên một cách vô tư hồn nhiên trên dọc đường đi. “Sự nhẹ hóa” cái chết của những người chiến binh Tây Tiến càng tô đậm tinh thần hào hùng,  bất khuất của đoàn binh.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến được hiện lên với những nét vẽ ngoại hình dị thường, lạ lẫm. Hình ảnh một đoàn binh không mọc tóc, quân xanh màu lá chính là hệ quả của cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện vô cùng thiếu thốn, gian khổ của những năm đầu kháng chiến chống Pháp: đói khát, ốm đau, căn bệnh sốt rét rừng hoành hành đến rụng cả tóc đầu, gương mặt trở nên xanh xao vàng vọt. Nhưng cũng có người  tự cạo trọc đầu để thuận tiện hơn trong sinh hoạt và chiến đấu. Cuộc sống gian khổ thiếu thốn đó đã được Tố Hữu, Chính Hữu miêu tả chân thực trong những câu thơ của mình. Đến thơ Quang Dũng, hiện thực thậm chí còn khắc nghiệt hơn. Nhưng Quang Dũng đã tái hiện hiện thực bằng cảm hứng lãng mạn, bằng biện pháp đảo, phủ  định “không” cùng những thanh chắc mạnh mẽ. Những người chiến binh ấy không cần có tóc, không cần mọc tóc chứ không phải do tóc của họ không mọc được. Không phải một cá nhân mà cả một đoàn quân trọc đầu. Vừa dị thường lạ lẫm, vừa ngạo nghễ.  Hình ảnh quân xanh màu lá màu của lá rừng, của cành lá ngụy trang trên ba lô người chiến sĩ-  cũng là màu của sự sống.  Kết hợp cùng với ẩn dụ dữ oai hùm. Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến  hiện lên thật oai phong lẫm liệt, tràn đầy khí phách tựa như con hổ chốn rừng thiêng.

Những vần thơ sau Quang Dũng đã tập trung miêu tả vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến, với lý tưởng và hy sinh cao đẹp.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

 Hai câu thơ thơ đã phản ánh sự thật khốc liệt của chiến tranh, về sự hy sinh của người  lính Tây Tiến. Câu thơ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh giống như một câu hát hùng tráng vang lên để khẳng định lí tưởng cao đẹp của người chiến sĩ với tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Quyết tâm lên đường chiến đấu với lý tưởng giành độc lập dân tộc và giải phóng đất nước, câu thơ sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập chia câu thơ làm hai vế. Một bên là chiến trường khói lửa ác liệt với những chết chóc, hy sinh. Một bên là tương lai phơi phới với tuổi trẻ đầy xuân sắc. Họ không tiếc thân mình, chấp nhận chiến đấu hi sinh để bảo vệ từng tấc đất của vùng biên giới Việt Lào. Những người lính khi lên đường theo tiếng gọi của tổ quốc họ luôn xác định đó là con đường chết chóc như Tố Hữu đã viết;

 Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu

 Dấn thân ngô là phải chịu tù đaỳ.

 Bi thương được gợi lên qua câu thơ Raỉ rác biên cương mồ viễn xứ. Hình ảnh những nấm mồ hoang nơi rừng sâu biên giới không hương khói, ít người qua lại gợi nhiều buồn đau, thương cảm xót xa. Dưới những cánh rừng rộng lớn mênh mông, người lính Tây Tiến đã ngã xuống nơi xa xôi của tổ quốc. Câu thơ sử dụng hàng loạt từ Hán Việt: biên cương, mồ viễn xứ tạo sắc thái trang trọng, thành kính trước sự rủi hi sinh anh dũng của người chiến sĩ đồng thời nhằm giảm bớt tang tóc, đau thương.

Những chiến binh Tây Tiến còn ấp ủ trong mình bao nhiêu mộng mơ, dự định còn dang dở nhưng giờ đây họ không thể viết tiếp những ước mơ của mình. Họ không thể trở lại quê nhà bởi họ đã hiến dâng thân mình cho tổ quốc họ đã ngã xuống và hi sinh anh dũng:

Áo bào thay chiếu anh về đất

 Sông Mã gầm lên khúc độc hành

 Hai câu thơ đã khái quát lên những yếu tố khó khăn, gian khổ của kháng chiến mà những người lính Tây Tiến phải trải qua. Họ chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn lương thực, thực phẩm, thuốc men, đạn dược và họ hi sinh cũng trong hoàn cảnh thiếu thốn đó. Câu thơ gợi lên sự thương cảm xót xa khi những chiến binh Tây Tiến về với đất mẹ không có manh chiếu niệm thân. Những chiếc áo lính bạc màu vì mưa nắng, rách vì bom đạn giờ đây trở thành những chiếc áo bào trang trọng để khâm niệm các anh khi về với đất mẹ. Hai chữ về đất là cách nói giảm nói tránh làm vơi đi đau thương đồng thời bất tử hóa hình ảnh người lính Tây Tiến. Họ về đất gợi cho ta liên tưởng những người lính khi đã hoàn thành nhiệm vụ với tổ quốc và ra đi thanh thản, trở về trong lòng đất mẹ trong giấc ngủ ngàn thu. Dù hy sinh nhưng linh hồn các anh mãi hòa vào sông núi, vào hình ảnh hồn lau nẻo bến bờ đúng như Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định:

 Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy!

 Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

 Có cuộc chiến tranh nào mà không đau thương mất mát? Có vinh quang nào mà không đổi bằng máu xương? Sự hi sinh cao cả của những người lính Tây Tiến đã đổi lại vinh quang cho dân tộc. Cái chết của họ nhẹ nhàng, thanh thản. Bi thương nhưng không hề bi lụy mà vẫn tráng lệ, hào hùng. Đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh thật hùng tráng.

 Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

 Người lính ra đi dẫu không có tiếng kèn đưa tiễn của đoàn quân nhạc nhưng đã có khúc ca của dòng sông Mã tấu lên một bản nhạc trầm hùng đưa tiễn người lính Tây Tiến về với đất mẹ. Cả đất trời, ả quê hương cùng những người đồng chí đồng đội đang nghiêng mình trước vẻ đẹp của những chiến binh đã hi sinh vì bảo vệ dân tộc.

HÌnh tượng người lính Tây Tiến còn mang vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

 Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Ấn tượng đậm nét về thiên nhiên miền tây và hình ảnh đoàn binh Tây Tiến trên con đường hành quân. Nỗi nhớ của tác giả thể hiện qua hai địa danh Sài Khao, Mường Lát. Những cái tên của miền đất lạ-  những địa danh ghi dấu địa bàn hoạt động đóng quân của đoàn binh Tây Tiến. Hình ảnh sương lấp đoàn quân mỏi với thiên nhiên dữ dội âm u, lạnh lẽo khắc nghiệt như đang vùi lấp đoàn quân trên con đường ra trận với vất vả gian khổ, thì hình ảnh hoa về trong đêm hơi lại là nét vẽ tương phản đối lập. Qua hình ảnh hoa về trong đêm hơi gợi cảnh rừng núi mỹ lệ, thơ mộng, êm đềm, dịu nhẹ. Con đường hành quân của người chiến sĩ Tây Tiến có những phút giây êm dịu, lãng mạn trong tâm hồn khi cảm nhận cái đẹp.

Thiên nhiên Tây Tiến đẹp còn gắn với hình ảnh người lính Tây Tiến lãng mạn:

 Heo hút còn mây súng ngùi trời

 Khung cảnh vắng lặng dường như không có dấu vết của sự sống con người. Cồn mây là ẩn dụ gợi tả độ cao. Đứng giữa mây trời ngỡ như đi trên mây. súng ngùi trời là biện pháp nhân hóa mạnh mẽ táo bạo. Những người lính Tây Tiến đang đứng trên đỉnh cao nhất của thiên nhiên. Mũi súng gần như chạm đến đỉnh trời. Câu thơ không tả độ cao vô tận của dãy núi mà còn gợi lên tư thế của người lính trên con đường ra trận.

Thiên nhiên thơ mộng và người lính hài hoa hiện ra trong câu thơ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Chúng ta càng cảm nhận được tâm hồn đầy lãng mạn của nhà thơ cũng như người lính Tây Tiến. Âm điệu, hình ảnh thơ với nhiều điểm đặc biệt. Những câu thơ trên miêu tả cảnh sông nước miền Tây là những thanh trắc rất dữ dội thì câu thơ này là một câu thơ với toàn thanh bằng phẳng lặng, nhẹ nhàng, êm ái như một tiếng thở phào nhẹ nhõm sau chặng đường vượt dốc. Hình ảnh nhà ai xuất hiện đã làm cho rừng miền Tây thêm ấm áp bớt đi phần lạnh lẽo. Đặc biệt, hình ảnh những mưa xa khơi gợi lên một liên tưởng thú vị. Những ngôi nhà, bản làng như chìm trong trong mưa rừng mà ngỡ như một hòn đảo đang bồng bềnh giữa biển cả. Một cảnh tượng êm  đềm, thanh bình, dịu nhẹ như một gam màu lạnh xoa dịu sự khắc nghiệt, dữ dội của bức tranh miền Tây. Đồng thời, thể hiện những phút giây thanh thản nghỉ ngơi của người lính Tây Tiến.

 Sự lãng mạn ấy còn là thể hiện trong tình quân dân ấm áp:

 Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

 Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Cụm từ Nhớ ôi Tây Tiến với cách sử dụng nghệ thuật đảo ngữ đã tô đậm nỗi nhớ dâng trào, nỗi xúc động trong tâm hồn tác giả. Những hình ảnh quen thuộc bình dị mà gợi cảm: bát cơm lên khói, mùi thơm của xôi nếp đầu mùa… không chỉ mang ý nghĩa tả thực mà còn gợi liên tưởng về tình nghĩa quân dân sâu nặng. Đó là nghĩa tình quân dân nồng ấm, là tấm lòng thơm thảo của những cô gái Mai Châu dành cho người chiến sĩ. Hai chữ mùa em thật trìu mến dịu dàng. Đó không chỉ là mùa lúa, mùa gặt mà còn là mùa của tình người. Bao nhiêu ngàn gian khổ của đoàn quân dường như đã bị xóa nhòa để nhường cho tình quân dân ấm áp.

 Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến còn thể hiện trong kỷ niệm về đêm liên hoan văn nghệ. Không gian hội đuốc hoa là một không gian bừng ánh sáng. Chữ bừng là nét vẽ có thần, gợi sự bừng sáng có sắc màu. Màu đen tăm tối của núi rừng nhường chỗ cho ánh sáng. Nó gợi sự bừng tỉnh của cảnh vật, đồng thời gợi lên niềm vui, náo nức trogn lòng người. Hình ảnh thiếu nữ Tây Bắc:

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp.

Với những bộ xiêm áo lộng lẫy, những điệu múa mềm mại tựa như các nàng tiên trong hội đuốc hoa. Trong tâm hồn lãng mạn, cái nhìn đa tình của những chàng trai trẻ Tây Tiến, những ngọn đuốc hoa tỏa sáng trong đêm tối. Các chàng trai Tây Tiến như bị hút hồn bởi những vẻ đẹp cảnh vật và con người xứ lạ Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Câu thơ như một tiếng reo vang, vừa ngỡ ngàng, vừa say đắm theo “ tiếng khèn”. Bao gian khổ, khó nhọc qua đi và các anh hóa thân trở lại thành những học sinh, sinh viên, những người nghệ sĩ với tâm hồn thơ mộng. Tâm hồn các anh như bay lên cùng sóng nhạc, vượt cả biên cương đến tận thủ đô của nước bạn Lào để xây hồn thơ, xây giấc mộng về tình yêu và hạnh phúc.

 Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Những người lính Tây Tiến xuất thân từ tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ luôn tự hào về gốc gác của bản thân. Họ là những người Hà Thành hào hoa thanh lịch. Xuất thân từ mảnh đất nghìn năm văn hiến. Vì vậy, họ mang trong mình cốt cách của người Hà Nội. Khi ra chiến trường, dù phải đối diện với nhiều thử thách khó khăn, họ vẫn mang nhiều mộng mơ, mơ về  dáng kiều thơm nghĩa là trong tâm hồn, trong trái tim họ luôn hướng về mảnh đất Hà Thành, hướng về quê hương. Nơi đó có gia đình, có người thân yêu, có những bóng hồng trong tim. Đó là sức mạnh tinh thần để người lính có thêm động lực để tiếp tục chặng đường gian khổ phía trước. Những người lính khi ra chiến trường không ai là không nhớ, không thương về gia đình, về quê hương. Trong bài Đồng chí, những người lính nông dân áo vải nhớ về mái nhà tranh, với giếng nước, gốc đa, người lính trẻ trong bài Nhớ của Hồng Nguyên lại nhớ về người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo. Còn trong Tây Tiến, người lính Tây Tiến lại nhớ nhiều hơn về dáng kiều thơm, chứng tỏ rằng tâm hồn họ còn rất lãng mạn, mộng mơ. Họ bỏ lại sau lưng tất cả để lên đường theo tiếng gọi của tổ quốc, để làm tròn nhiệm vụ của mình.

Vẻ đẹp bi tráng, vẻ đẹp lãng mạn luôn song hành cùng nhau để làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến. Hình ảnh so sánh, ẩn dụ, nhịp thơ biến hóa linh hoạt… đã giúp nhà thơ xây dựng tượng đài người chiến sĩ. Vẻ đẹp bi tráng, tinh thần lãng mạn của họ tạo nên nét riêng cho hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ. Vượt trên khó khăn, khắc nghiệt của chiến tranh, nhà thơ Quang Dũng dùng ngòi bút của mình vẽ lên chân dung anh bộ đội cụ Hồ bằng thơ, bằng nhạc, bằng họa.

Tây Tiến cùng hình tượng người lính Tây Tiến sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc. Ở họ, bạn đọc nhìn thấy một thời hào hùng, một quá khứ đau thương nhưng đầy vẻ vang của dân tộc. Và mỗi chúng ta lại càng thêm kính phục, tin yêu lớp lớp thế hệ cha ông đã ngã xuống vì độc lập, vì tự do cho dân tộc.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 25

Hình ảnh người lính Việt Nam nói chúng và những người lính thời kỳ chống Pháp nói riêng từ lâu đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm.  Các nhà thơ viết về người lính với tất cả niềm kiêu hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy, “Tây Tiến” là bài thơ có vị trí đặc biệt. Dù ra đời vào năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, vậy mà hơn nửa thế kỷ sau, chất lãng mạn - hào hùng của tác phẩm vẫn còn sức hấp dẫn lay động, làm say mê bao nhiêu tâm hồn. Trong “Tây Tiến” người ta thấy hiện lên sừng sững bức tượng đài người lính. Những con người rất thật, rất đẹp, rất có hồn, bất tử mãi mãi với không gian, thời gian !

Thực ra "Tây Tiến” không phải một tác phẩm có đề tài mới lạ. Tất cả những gì mà nó thể hiện cũng chỉ xoay quanh hình ảnh người lính. Nhưng ở "Tây Tiến" người ta không thấy những đau thương mất mát đến bi lụy, lại càng không thấy những lời cổ vũ hỗ hào đến sáo mòn. Người lính của Quang Dũng đã khước từ khuôn mẫu gò bó để đến với đời thực, Với hiện thực kháng chiến gian khổ bộn bề. Chính tính chân thực ấy đã tạo khả năng hướng ngoại cho tác phẩm, tạo mối dây liên kết gắn bó giữa hình tượng thơ và độc giả trong suốt chặng đường lịch sử dài.

 "Tây Tiến" đã tái tạo và bất tử được hình ảnh bình đoàn Tây Tiến đẹp rạng ngời. Những người lính Thủ đô đi vào cuộc kháng chiến mang theo vẹn nguyên cái mộng mơ của người con đất Hà Thành. Bài thơ cứ miên man trong nỗi nhớ, để rồi từ đây, một thời gian khổ, một thời mê say được gợi lại. Đoàn binh Tây Tiến đến với chúng ta không chỉ với tư cách những chiến sĩ từng trải qua khó khăn gian khổ mà còn với tư cách những chàng trai lãng mạn nhưng không kém kiêu dũng. Đối với mỗi người con Việt Nam, họ đã trở thành anh hùng trong trang sử vàng dân tộc. Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên, trước hết là qua dòng chứa đong đầy của nhà thơ. Đây cũng là một nét khác biệt của tác phẩm. Không giống như nhiều bài thơ khác được ghi lại ngay sau các sự kiện lịch sử, Tây Tiến chỉ đơn thuần như những kỷ niệm riêng của Quang Dũng về một thời gian khổ mê say. Vì vậy, tính thời sự chỉ mất đi chút ít, nhưng tính trữ tình lại được thêm vào rất nhiều. Đó là nỗi nhớ ắp đầy trong khoảng trống câu chữ, mà lúc nào đọc lên người ta cũng xúc động nghẹn ngào. Cả bài thơ, kỷ niệm lúc nào cũng thi nhau gợi về, tưởng như nỗi nhớ đã có từ lâu lắm, để rồi đến hôm nay mới có dịp vỡ òa:

 “ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

 Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ”

Câu thơ như lời gọi mời, gợi nhớ, gợi nhắc vẻ một thời quá khứ gian khổ mà đẹp vô cùng. Mở đầu bài thơ, người chiến sĩ Tây Tiến không hiện lên trực tiếp mà gián tiếp qua hình tượng "Sông Mã". Dòng sông Mã không chỉ là chứng nhân lịch sử đồng hành cùng binh đoàn Tây Tiến mà còn là biểu tượng cho những chiến sĩ Tây Tiến oai hùng. Đứng ở hiện tại và đưa mắt về quá khứ, trong Quang Dũng dâng tràn một cảm xúc khó tả. Nỗi nhớ "chơi vơi. Người đọc như được nhập thân vào với tác giả để cảm nhận những thổn thức, mong mỏi, khát khao trong lòng người. Dường như trong nỗi nhớ ấy là cả chút gì hụt hãng, nao lòng, cứ mơn man, lan tỏa, thấm sâu vào cảnh vật, con người. Đó cũng là xuất phát điểm của bài thơ, để từ đó nỗi nhớ nhung của nhà thơ tự nó gọi về, tạo nên một “Tây Tiến” bất hủ.

Trong dòng hồi ức của Quang Dũng, người lính Tây Tiến hiện lên song hành với biết bao khó khăn, gian khổ.

Khi nói đến chiến tranh ấn tượng muôn đời bao giờ cũng là sự đau thương, chia lìa, sự tang tóc, buồn thảm. Đời lính chiến đấu vì thế không thể tránh khỏi những vất vả, khó khăn. Nhưng ngoài n lính Tây Tiến còn phải chịu đựng nhiều nghiệt, hiểm trở mang lại:

“Dốc lên khúc khuỷu dôc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Hai câu thơ là bốn nét vẽ gian khổ đầy ấn tượng. Nếu câu thơ đầu gieo hầu hết thanh trắc thì câu thơ thứ hai lại gieo 9/14 thanh bằng. Cái tài của Quang Dũng là đồ gieo thanh bằng hay thanh trắc vẫn giúp người đọc nhận ra cái trúc trắc gập gềnh đầy hiểm nguy của địa hình. Quả thực "thi trung hữu nhạc, thi trung hữu họa". Hàng loạt từ láy "khúc khuỷu", thăm thẳm" được đặt cạnh nhau tạo nên hiệu quả cộng hưởng ngôn ngữ rất cao. Những hình ảnh thơ nối nhau liên tiếp đã gợi cho người đọc hình dung liên tưởng về không gian mở. Không chỉ sâu mà còn rất rộng, không chỉ cao mà còn rất xa. Dường như khó khăn cứ chất chồng như từng dãy núi trùng trùng, điệp điệp.

Điều đặc biệt là những chiến sĩ Tây Tiến lại có cái nhìn rất trẻ nghịch và lãng mạn về hiện thực gian khổ ấy. Trong đôi mắt họ, hiện t khổ đến đâu cũng vẫn có nét đẹp, niềm vui riêng. Họ vẫn có thể "miệng cười buốt giá” trước mọi gian lao:

“Heo hút cồn mây súng ngửi giữa trời”

Câu thơ, tự nó đã tách ra làm hai phần. Nếu bốn tiếng thơ đầu còn diễn tả sự gian khổ, thì ba tiếng thơ sau đã ánh lên chút trẻ trung đây lãng mạn. Từ hút" được đảo lên đầu như một điểm nhấn quan trọng cho câu thơ. Quang dũng đã rất tinh tế khi sử dụng "heo hút” chứ không phải "hun hút". Hai từ láy thoạt nhìn có thể giống nhau, nhưng thực chất lại có ý nghĩa biểu đạt khác nhau. Nếu "hun hút” gợi được chiều sâu và chỉ chiều sâu mà thôi thì "heo hút" vừa gợi tả độ sâu, vừa gợi tả độ sâu, vừa đánh thức cảm giác trống trải, lạnh lẽo, hoang vắng, quanh hiu.

Sự trống vắng ấy do địa hình tạo nên và đã có ảnh hưởng rất lớn đến con người. Trước không gian rợn ngợp, con người vốn đã bé nhỏ nay lại càng nhỏ bé hơn. Nhưng nhưng cái “tâm” thì không biên giới, không độ cao nào có thể ngăn trở.

Càng trong gian khó, hiểm nguy sự can trường cũng như tinh thần lạc quan của người chiến sĩ càng cất cánh. Hình ảnh "súng ngửi trời”  thể hiện một chút dí đỏm, trẻ trung, một chút tinh nghịch đáng yêu, đáng mến.

 Cũng chẳng có gì là lạ, bởi binh đoàn Tây Tiến đều xuất  thân từ những thanh niên Thủ đô tuổi đời còn rất trẻ. Họ vẫn còn thiết tha yêu cuộc đời.

Ý thơ sao mà giống với “đầu súng trăng treo” của Tố Hữu. Thì ra ở trong cùng một hoàn cảnh chiến đấu, những ý tưởng lớn đã gặp nhau và tạo ra mối liên kết kết bền chặt giữa những con người có cùng mục đích sống. Vượt lên trên cả hoàn cảnh chính là tâm hồn người chiến sĩ.

Có thể nói, những khó khăn gian khổ đã trở thành một phần không thể thiếu của đời lính và trở thành nỗi ám ảnh in sâu trong tiềm thức tác giả. Quang Dũng không bao giờ có thể nào quên.

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét.

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

Nhà thơ đã tái tạo lại hình ảnh điển hình, sống động nhất về một thời đây khó khăn, thử thách. "Chiều chiều", "đêm đêm" là những khoảng thời gian ước lệ, không rõ là buổi chiều hay buổi đêm nào. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc không phải một chiều, một đêm mà là rất nhiều. Những khó khăn gian khổ như trải dài cùng năm tháng.

Khi mở đầu bài thơ "Tây Tiến", ấn tượng đầu tiên hiện về trong Quang Dũng là những kỷ niệm về một thời gian khổ. Hình tượng người lính Tây Tiến luôn xuất hiện song hành với những khó khăn.

Trên mỗi bước đường họ đi qua đều có những hiểm nguy không chỉ từ kẻ thù mà còn từ thiên nhiên đem lại. Nhưng cũng như bao người lính khác, khó khăn không làm chùn bước con người mà chỉ nâng tầm con người lên. Thật đáng khâm phục khi trong hoàn cảnh nào, họ vẫn lạc quan đầy trẻ trung tỉnh nghịch. Chính nét tỉnh thần quý báu ấy đã tạo nên sức sống trường tồn của Tây Tiến với muôn đời.

Không chỉ biết đối mặt với hiện thực khó khăn, mà còn hơn thế nữa, hình ảnh người lính Tây Tiến còn hiện lên với vẻ đẹp lãng mạn vô cùng — một, nét đẹp của những người con đất Hà Thành ngày xưa.

Khi xung pha trận mạc, người lính Tây Tiến có thể trở thành những anh hùng chiến đấu anh dũng quả cảm, nhưng trong giờ phút giải lao, họ cũng thật gần gũi, thật chân thành.  

Bỏ lại những mũi đạn, hòn tên, gạt sang một bên những lo toan kháng chiến bộn bề, họ trở về với đúng tâm hồn mình: những chàng trai trẻ tuổi hào hoa mơ mộng rất bình dị giữa đời thường. Qua lăng kính lãng mạn của họ, một buổi liên hoan văn nghệ bỗng chốc trở thành một đêm hội:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên mạn điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hôn thơ"

Không gian đêm hội đuốc hoa hiện lên thực rực rỡ lung linh, ngập tràn ánh sáng. Câu thơ trước như gọi câu sau. Nhạc thơ ngọt ngào du dương nhưng vẫn toát lên niềm vui, niềm rạo rực đương bồi hồi trong ngực trẻ. Cộng hưởng với âm nhạc của câu chữ là âm thanh của tiếng khèn. Tất cả hòa quyện vào nhau, như vẫy gọi, chào mời, như gợi thương gợi nhớ, như trì núi, vấn vương. (Dường như đọc câu thơ, không phải người). Và dường như không phải đọc thơ rồi tìm thấy Quang Dũng trong thơ mà chính nhịp lòng náo nức mê say của người lính Tây Tiến đã tỏa rạng để dệt nên những vần thơ bất hủ.

Nếu ở khổ thơ đầu người ta còn thấy Quang Dũng đắm mình trong hồi tưởng về một thời gian khổ thì đến đây, những xúc cảm ấy quả thực, tâm hôn người chiến sĩ Tây Tiến là cả một thế giới rộng sâu. Đi vào khám phá thế giới ấy, có những khi cái ta bắt gặp không phải là niềm vui, mà là những kỷ niệm buồn. Nét “bi” trong mỗi con người chiến sĩ Tây Tiến cũng thật đặc biệt: “bi” nhưng không “lụy”,”bi” nhưng không gắn liền với nước mắt. Nỗi buồn ở đây gắn với nỗi nhớ, thật dìu dịu, nhè nhẹ mà như mơn man, lan tỏa. Nỗi buồn đậm chất lãng mạn, mộng mơ. Mọi hình ảnh của thực tại đều bị nhòa đi rồi hoàn toàn biến mất, nhường chỗ cho miễn thương nhớ đang thi nhau gọi về:

“ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ đong đưa hoa”

Nhịp thơ đột ngột chuyển. Từ những dòng thơ sôi nổi, náo nức, mê say bỗng chuyển sang bâng khuâng (pha chút ngậm ngùi, hình ảnh thơ giờ lại càng mờ mờ, ảo ảo). Vì vậy tính chất lãng mạn ở đây như được nhân lên gấp đôi. Từng vần thơ sâu lắng cứ vang vang rồi in đậm, khắc sâu trong tiềm thức độc giả.

 Có thể nói ở khổ thơ này Quang Dũng gợi nhiều hơn tả. Nhà thơ mở ra không gian hư hư thực thực bằng hình ảnh buổi "chiều sương ấy". Dường như chữ "chiều sương “ đã gợi nhớ, gợi thương cho nhà thơ nhiều quá, để từ đây hoài niệm ùa về. Chỉ một từ "ấy" thôi mà có sức đẩy hoài niệm về một miền rất xa trong quá khứ. Câu thơ cứ ắp đầy một nỗi nhớ niềm thương khó tả.

Cái hay của Quang Dũng là ông đã dùng chính sự lãng mạn của người lính Tây Tiến để tạo ra nhiều văn thơ đầy mộng mơ. Khổ thơ không gợi ra những hình ảnh, chi tiết cụ thể mà chỉ là những "dáng”, những “hình”. Có cảm giác như trong nỗi niềm nhớ thương, Quang Dũng đã nắm bắt được toàn bộ thần thái sự vật và bất tử ong thi ca. Cảnh vật được nhìn qua lăng kính nhớ thương vì vậy trở nên mờ mờ, ảo ảo, hư hư,thực thực. Hai tiếng "có thấy, có nhớ gieo thanh trắc như những nốt nhạc vút cao của khổ thơ, gợi nhắc con người về một thời quá khứ một cách thiết tha ân tình.Từ cái nhìn trực giác (có thấy) đến cái nhìn trong tâm tưởng (có nhớ) là sự chuyển biến trong cảm xúc. Dường như trái tim, tâm hồn của cố nhân (Quang Dũng) đã được đánh thức, để rồi từ đây chỉ còn lại những lắng đọng cùng nỗi buồn mênh mang trong lòng người. Điểm nhấn của nỗi nhớ ấy hướng về một hình ảnh đặc biệt: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa". Câu thơ gợi ra hai hình ảnh đối lập: một mạnh mẽ (dòng nước lũ): một nhẹ nhàng, khe khẽ, dịu êm (hoa). Phải chăng hình ảnh hoa đong đưa không còn là hình ảnh thực nữa mà đã trở thành nỗi nhớ, niềm thương tác giả.

Chữ “đong đưa" được dùng rất tinh tế "Đong đưa" chứ không phải đung đưa. Bởi dung đưa chỉ có thể diễn tả trạng thái chuyển động, còn "đong đưa" diễn tả cả ánh mắt. Có lẽ nào hình ảnh "hoa đong đưa", cộng hưởng với (dáng người trên độc mộc) đã ngâm gợi lên hình ảnh người con gái? Nhìn dưới góc độ ấy thì tâm hồn người chiến sĩ Tây Tiến thật lãng mạn quá, đáng trọng đáng mến đến vô cùng.

Có thể nói người lính Tây Tiến là những chàng trai biết vượt lên trên hoàn cảnh. Chiến tranh ác liệt với máu, với đạn lửa và nước mắt không thể xóa đi sự lãng mạn trong tâm hồn họ. Kể cả khi ranh giới giữa sự sống với cái chết liền kề, họ vẫn cất cao tiếng hát yêu cuộc đời. Họ lãng mạn cả khi buồn. Họ mộng mơ cả khi vui. Chính nét đẹp tâm hồn ấy đã đưa họ đến gần với mọi thế hệ độc giả, và bất tử họ trong lòng người đọc muôn đời.

Không chỉ biết đối mặt với hiện thực gian khổ, sống lãng mạn, mộng mơ, người lính Tây Tiến còn hiện lên với tư cách những anh hùng với tráng chí ngất trời.

Đối với người lính nói chung và binh đoàn Tây Tiến nói riêng, đã bước vào chiến tranh là phải chấp nhận đau khổ, hy sinh, mất mát. Nhưng ngời sáng ở những con người Tây Tiến oai hùng là cách tiếp nhận hiện thực bình thản đến lạ kỳ. Họ biết tự biến gian khổ, khốc liệt thành niềm kiêu hãnh tự tôn cho chính mình:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm” Ta đã từng thấy một "Tiểu đội xe không kính" dí dỏm trong thơ Phạm Tiến Duật thì nay lại thấy một đoàn binh không mọc tóc" trong thơ Quang Dũng. Người lính Tây Tiến tự gọi tên đoàn binh của mình khá thú vị. Trong câu thơ người ta thấy chút ngang tàng của người lính trẻ tuổi. Tóc không mọc không phải vì bị bệnh mà vì không thèm" mọc. Cộng hưởng vào đó là nét kiêu hùng. “Quân xanh màu lá dữ oai hùm". Hoàn cảnh thiếu thốn gian khổ chỉ là điều kiện tôi luyện thêm khí phách anh hùng cho người lính Tây Tiến. Đọc câu thơ người ta thấy phơi phới một niềm tin tưởng, lạc quan vào cuộc đời và in đậm một trang chí hùng dũng.

Mục đích của Quang Dũng khi sáng tác "Tây Tiến" không phải để dựng lên hình tượng người chiến sĩ tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ chỉ là tấm chân tình mà nhà thơ gửi đến đồng đội cho vơi đi nỗi nhớ đơn vị cũ. Nhưng chính tính chân thực trong cảm xúc đã cho người đọc một tấm chân dung sống động về người lính Tây Tiến. Họ không hiện lên với khuôn mẫu của trang trí, anh hùng mà cũng rất đỗi lắm mộng, nhiều mơ:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” 

Nếu câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chữ “mộng” thì câu thơ thứ hai nhấn mạnh chữ mơ. Câu thơ mang ven nguyên cả ước vọng và điểm đến cuối cùng của đời lính Tây Tiến. Chữ trừng được sử dụng khá độc đáo. Người đọc có cảm tưởng như mọi ước mơ khao khát tận đáy lòng đã trào dâng và đong đầy trong ánh mắt người lính. “ Trừng” là động từ mạnh lại được đặt cạnh “ mơ” - lúc đầu ngỡ như một sự khập khiễng. Nhưng thật ra câu thơ rất giàu giá trị biểu cảm. Từ “trừng” không có nghĩa là trừng trị , dọa nạt mà thể hiện cái nhìn đau đáu, khôn nguôi, những nhung nhớ, khát khao đến khắc khoải. Câu thơ như trùng xuống trong xác cảm bâng khuâng dâng tràn. Tứ thơ ấy gợi nhắc đến hình ảnh thơ quen thuộc:

“ Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

Thì ra bao giờ cũng vậy, đích đến cuối cùng của những người lính luôn là hạnh phúc. Nỗi nhớ của họ hướng cả về "dáng kiều thơm" nào đó ngoài cuộc đời. Họ ra đi chiến đấu vì tự do, độc lập, nhưng trước hết là vì cuộc sống tương lại hạnh phúc mà họ khao khát. Chính vì vậy mà "dáng kiều thơm" trở thành điểm tựa, niềm hy vọng để tiếp thêm cho họ sức mạnh chiến đấu và chiến thắng, - Những người lính Tây Tiến sống anh hùng mà chết cũng anh hùng. Nhưng không lúc nào trong bài thơ ta thấy hiện lên nét sầu thương, ai oán, bị lụy, não nùng. Ngay cả khi viết về cái chết, Quang Dũng vẫn nhấn mạnh cái dũng khí hùng tráng của đoàn binh Tây Tiến:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa 

Gục lên súng mũ bỏ quên đời” 

"...Rải rác biên cương mồ  viễn xứ 

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” 

"Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành" 

Ba lần Quang Dũng nhắc tới sự hi sinh, nhưng lần nào cũng là hình ảnh ẩn dụ để tránh đi từ "chết". Dường như khi người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ là khi anh tạm nghỉ chân trước cuộc đời. Cái chết không đồng nghĩa với ngừng chiến đấu vì tâm hồn, vì ước nguyện của anh sẽ mãi trường tồn với thời gian. Anh ngã xuống nhưng vẫn kịp trao ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục con đường Cách mạng vinh quang. Sự hi sinh của các anh làm người đọc không khỏi nghẹn ngào: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ". Chữ "rải rác" được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh cho sự quạnh quẽ, lạnh lẽo, hoang vắng. Người đọc thấy xót xa thay cho những người con chiến đấu vì Tổ quốc mà phải gửi xác nơi xứ người. Nhưng đối với người trong cuộc, họ không cảm thấy xót xa đau đớn. 

"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". 

Câu thơ gợi nhắc người đọc về ý thơ Nguyễn Đình Thi: "Người ra đi đầu không ngoảnh lại". Câu thơ giống như một cái hất đầu ngạo nghễ, bất chấp khó khăn, bỏ mặc sự chết chóc cận kề, những người lính Tây Tiến vẫn kiên định trong ý chí, ngạo nghễ trong khí phách. Đó là tư chất người anh hùng.

Nói về sự hi sinh của người lính, tác giả mượn hình ảnh áo bào. Câu thơ vừa mang sắc thái trang trọng, vừa giảm bớt sắc thái bi lụy buồn thương. Đằng sau câu chữ là cả sự sẻ chia, đồng cảm cũng như trân trọng, yêu thương chân thành mà tác giả dành cho người lính Tây Tiến.

Cuối khổ thơ hình ảnh sông Mã một lần nữa trở lại: Sông Mã được nhân hóa như một chứng nhân lịch sử theo suốt dọc cuộc đời binh đoàn Tây Tiến. Mở đầu bài thơ hình ảnh Tây Tiến được đi liền với đoàn bình thì đến cuối bài, chỉ còn "sông Mã gầm lên khúc độc hành" khúc nhạc cô đơn, buồn thương khiến ta cảm động. Nỗi nhớ thương của lòng người đã hóa thân vào dòng sông hay chính dòng sông ấy chở đi khúc ca đau đớn của con người? Câu thơ gợi lên sự hy sinh trong tráng chí, tư thế người anh hùng.

Có lẽ hình tượng người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử với muôn đời. Dòng lịch sử có thể đổi thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đẽ nhất. Qua dòng hồi tưởng của Quang Dũng, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong sự đối mặt với khó khăn, gian khổ nhưng lúc nào cũng lạc quan phơi phới yêu đời. Họ ra đi mang theo vẹn nguyên sự lãng mạn, mộng mơ của con người Hà Nội. Họ sống anh hùng, hi sinh cũng anh hùng. Với âm hưởng thơ lúc dữ dội, khi sôi nổi lúc lại vang vọng, trầm lắng, bài thơ đã dẫn hồn người đọc trở về một thời quá khứ xưa, để cùng lắng cảm trong nỗi nhớ thương da diết của Quang Dũng về những đồng đội anh hùng.

“ Tây Tiến” đã trở thành một kỷ niệm đẹp trong lòng người đọc. Hình ảnh đoàn binh Tây Tiến cứ mãi gợi nhắc đến trong lòng ta về một thế hệ tuổi trẻ. Hình ảnh thơ luôn quấn lấy ta, khiến ta xúc động nghẹn ngào bởi:

“ Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 26

Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ là một trong những tượng đài đẹp nhất, đáng tự hào nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Họ là những người sống có lí tưởng sẵn sàng lấy máu mình để tô thắm lá cờ cho Tổ quốc, đồng thời đó cũng tràn đầy tâm hồn lãng mạn hào hoa. Qua việc tìm hiểu hình ảnh anh bộ đội trong bài thơ "Tây Tiến", một bài thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung, chúng ta có thể thấy rõ.

   Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng viết về những người lính chiến đấu nơi biên cương miền Tây Tổ quốc. Bài thơ được viết theo bút pháp lãng mạn. Bút pháp này sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập và có khuynh hướng tô đậm những cái khác thường, phi thường để tác động mạnh vào cảm xúc của người đọc.

   Bài thơ ra đời năm 1948, hai năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Cái hào khí của cả một dân tộc vừa giành được độc lập đã phải vùng lên cầm gươm, súng để bảo vệ nền độc lập tự do non trẻ, thiêng liêng của mình đã truyền vào người lính, tạo cho họ một vẻ đẹp lãng mạn hào hùng. Tâm hồn lãng mạn ấy luôn hướng về cái khác thường, phi thường.

   Người lính Tây Tiến, qua cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng được xuất hiện trên cái bối cảnh hoang sơ, kì vĩ, dữ dội, hiểm trở mà cũng rất khỏe đep và thi vị với đủ núi cao, vực thẳm, dốc đứng, thác gầm… cùng với những cồn mây heo hút, sương lấp, mưa xa khơi, cọp trêu người:

    "Dốc lên khúc khuỷu dốc thẳm thẳm

    Heo hút cồn mây súng ngửi trời

    Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuồng

    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"

   Những chi tiết, hình ảnh thơ của tác giả đầy ấn tượng. Sương dày như lấp cả đoàn quân, mưa nhiều đến nỗi làm cho những ngôi nhà như trôi bồng bềnh giữa biển khơi… Nhiều câu thơ sử dụng hàng loạt thanh trắc: "dốc", "khúc khuỷu", "thăm thẳm"… làm hiện lên cái gập ghềnh, thăm thẳm, khúc khuỷu, cheo leo của con đường hành quân. Tiếp đó là những chữ dùng rất bạo, nhất là ba chữ "súng ngửi trời" gợi lên độ cao chóng mặt. Hai câu sau có sự phối thanh rất độc đáo. Câu trên nhiều thanh trắc, đổ xuống gần như thẳng đừng: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống", và câu thơ sau thì toàn thanh bằng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi", dòng thơ mở ra một khoảng không gian bát ngát, câu thơ như bay ngang trời. Ta như hình dung được người lính đang leo lên những cồn mây, một hôm nào đó, dừng chân bên dốc núi phóng tầm mắt nhìn ngang ra xa, thấy nhà ai đó thấp thoáng ẩn hiện qua một không gian mù mịt sương mù, mây núi. Những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông… rất xa lạ, làm tăng thêm ấn tượng về sự hoang sơ, kì vĩ, bí mật của rừng thiêng. Chúng cho biết không chỉ miền đất mà người lính đã đi qua mà khi "vừa mới đọc lên thôi đã thấy mòn chân mỏi gối" (Trần Lê Văn).

   Phi thường ở sự gian khổ cùng cực: ăn đói, mặc rách, bệnh tật, sốt rét đến xanh da, trọc tóc. Hình ảnh người lính được tác giả khắc họa thật độc đáo và có phần kì lạ. Sốt rét làm cho thân thể của họ tiều tụy. Tuy nhiên, họ vẫn giữ được vẻ hào hùng. Với bút pháp lãng mạn, tác giả đã nhấn mạnh sự tương phản giữa ngoại hình và nội tâm, giữa hình thức có phần xanh xao tiều tụy với sức mạnh tinh thần mãnh liệt bên trong.

   Đó là những con người phi thường: tràn đầy khí phách anh hùng chẳng những dám đương đầu với mọi thử thách gian truân: đói rét, bệnh tật, rừng thiêng nước độc, thú dữ… mà còn có thái độ, tư thế, khí phách hiên ngang trước cái chết:

    "Rải rác biên cương mồ viễn xứ

    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

   Câu thơ "Rải rác… viễn xứ" còn gợi lên một cái gì đó hơi bi thảm. Những câu thơ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" đã nâng ý thức lên thành bi tráng bởi cái phương châm sống, triết lí sống rất đẹp của tuổi trẻ thời ấy. Người lính Tây Tiến mang dáng vẻ của những người anh hùng kiểu Kinh Kha sang Tần, người chinh phu thời xưa một đi không trở về, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng:

    "Gió hiu hiu hề! Nước sông Dịch lạnh tê

    Tráng sĩ ra đi, không trở về"

   Chủ nghĩa lãng mạn cũng thường hay nói về nỗi buồn, cái chết với ý nghĩa biểu hiện cái đẹp với chất bi hùng. Do phải chiến đấu trong hoàn cảnh vô cùng ác liệt, cực khổ, các chiến sĩ chết vì sốt rét rừng nhiều hơn là vì chiến trận, và khi chôn cất, đến ngay manh chiếu che thân cũng không có nhưng dù vậy, hình tượng người lính trong thơ vẫn phải đẹp, phải sang, phải hào hùng. Người lính ngã xuống trong tiếng nhạc bi tráng của núi sông:

    "Áo bào thay chiếu anh về đất

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

   Tiếng gầm của sông Mã như một khúc độc hành tiễn đưa người chiến sĩ đi về trong lòng đất mẹ vĩnh hằng, gợi lên biết bao tiếc thương ngậm ngùi. Điều đó làm cho cái chết của người lính có bi mà không có lụy, vẫn đẹp và hào hùng. Bài thơ "Tây Tiến" có một màu sắc bi tráng rất độc đáo.

   Người lính Tây tiến không chỉ có vẻ đẹp lãng mạn hào hùng, mà còn có một vẻ đẹp đáng yêu khác. Đó là chất hào hoa, thanh lịch, chất mơ mộng rất lãng mạn. Đoàn quân Tây Tiến gồm hầu hết là những người thanh niên Hà thành tài hoa, trong đó tác giả Quang Dũng là một trong những con người tài hoa nhất.

   Chất tài hoa ấy bắt rất nhạy với những hình ảnh đẹp đẽ, nên thơ, cái nét tinh tế của cảnh và người, đặc biệt là những cái đẹp mang màu sắc xứ lạ phương xa. Từ một làn sương chiều mờ ảo đến một dáng hoa lau núi phất phơ, đơn sơ, gợi cảm; từ một đêm hội đuốc hoa như trong truyện cổ tích đến những bông hoa "đong đưa" rất tình tứ bên dòng nước lũ, tất cả đều in rất đậm trong tâm hồn người lính để tạo nên những bức tranh vừa thực, vừa mộng:

    "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

    …Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"

   Những con người ấy sống vô cùng gian khổ nơi rừng núi, thường xuyên phải tiếp xúc với thần chết, nhưng đêm đêm hồn mộng của họ vẫn bay về với những cô gái Hà Nội đẹp một cách thanh lịch, dịu dàng:

    "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

   Quang Dũng đã khắc họa một cách khá đầy đủ chân dung tập thể của người lính Tây Tiến từ diện mạo đến tâm hồn, khí phách anh hùng, thái độ trước cái chết cũng như vẻ hào hoa rất Hà Nội của họ. Bài thơ xứng đáng là một tượng đài bằng ngôn ngữ đã bất tử hóa phẩm chất anh hùng của anh bộ đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp rất đỗi gian khổ và vui tươi, hào hùng:

    "Tây Tiến biên cương mờ khói lửa

    Quân đi lớp lớp động cây rừng

    Và con người ấy, bài thơ ấy

    Vẫn sống muôn đời cùng núi sông"

          (Giang Nam)

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 27

Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, hình ảnh người lính vốn trở thành đề tài nổi bật của các thi nhân đã diễn đạt thành công hình ảnh người lính. Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ hào hoa Quang Dũng là một kiệt tác xuất sắc sau năm 1945 về hình ảnh người lính Tây Tiến nơi hiểm trở được diễn đạt qua đoạn thơ sau:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Bài thơ Tây Tiến như bộc lộ lại nỗi nhớ của tác giả về những người đồng đội cũ trong binh đoàn Tây tiến được sáng tác năm 1948. Bài thơ được viết theo thể thơ hiện đại bảy chữ với cách ngắt nhịp vô cùng đa dạng phong phú.

Ở những dòng thơ trước, tác giả nhìn thấy bao hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân vất vả, tàn khốc vẫn đầy lãng mạn, tâm tình để cảm nhận vẻ đẹp không gian rừng núi Tây Bắc. Người lính được miêu tả tỉ mỉ để hiện rõ bức tranh thiên nhiên, tạo nét tương đồng và đối lập. Đến khổ thơ này, tác giả dành tình cảm đặc biệt về hình ảnh người lính cùng sự hi sinh bi tráng, hào hùng của họ. Giọng thơ độc đáo, dí dỏm trong hình ảnh người lính kiêu hùng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Hình ảnh miêu tả từ hiện thực khó khăn gian khổ mà chỉ có người lính Tây Tiến gặp phải.Tóc chẳng còn, thân chịu sốt rét hoành hành làm họ xanh xao, tiều tụy: “ Không mọc tóc” “quân xanh màu lá” chỉ có binh đoàn Tây Tiến xa xôi, hiểm trở. Họ là những thanh niên tuổi trẻ, rời xa Hà Thành để hi sinh cống hiến bảo vệ chốn biên cương chịu gió sương. Ngoài ra họ còn có vẻ ngoài bặm trợn"dữ oai hùm" làm cho kẻ thù khiếp sợ. Tuy nhiên qua sự miêu tả đặc sắc của tác giả, họ lại toát lên vẻ phi thường, mãnh liệt vượt lên hoàn cảnh như những mãnh thú rừng xanh. Hai câu thơ thể hiện tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường của người lính Tây Tiến trong môi trường khắc nghiệt.

Khí hậu khắc nghiệt, bệnh tật đã làm thay đổi ngoại hình của người lính Tây Tiến, từ những cậu học trò nào giờ đã trở thành một con người dãi dầm với gió sương. Qua hai câu thơ này lại gợi cho ta nhớ về bài thơ Đồng chí” của Tố Hữu với những hình ảnh người lính nông dân chịu đầy cực khổ, bệnh tật “Rét run người, vầng trán ướt mồ hôi”.

Sau hình ảnh chân dung người lính mãnh liệt trong chốn rừng núi hiểm trở, tác giả nghĩ thầm đến tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những người lính Tây Tiến:

‘Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm’

Hai hình ảnh vừa thực tế vừa lãng mạn có sự liên kết mật thiết. Ánh mắt trừng ‘gửi mộng qua biên giới’ thể hiên sự uy phong, lẫm liệt cũng bộc lộ tâm sự mơ màng của những người lính trẻ Hà Nội. ‘Mắt trừng’ đó có thể sự căm thù giặc ngoại xâm của những anh hùng kiêu hãnh Tây Tiến. Những ánh mắt như hiện lên ngọn lửa hi vọng và tinh thần chiến đấu oai hùng, không chút lo lắng cho số phận mơ màng nhớ chốn biên cương hay dáng kiều thơm kia. ‘Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm’ những người lính trẻ ngày ngày canh gác biên cương xa xôi, với tướng mạo vô cùng dữ tợn nhưng đêm họ tâm tư tình cảm họ lại trái ngược hoàn toàn. Vì xuất thân là tầng lớp tiểu tư sản nên họ có một tâm hồn vô cùng lãng mạn và hào hoa. Khi đêm tối xuống, trong giấc mơ của những người lính Tây Tiến là sự nhớ thương của người lính về một Hà Nội xưa, hay đơn giản nhớ người thân quê nhà cả người yêu thân thiết mà không bao giờ mờ nhạt trong họ. Đó có thể là hình ảnh cô gái quen nhau trước khi đi hay có thể là cô gái chưa từng quen biết chỉ nhẹ lướt qua ở chốn Hà Thành. Chi tiết này thể hiện sự tinh tế của Quang Dũng, tác giả miêu tả đặc sắc chân dung người lính trong nét phi thường nhưng vẫn không quên đồng cảm một giấc mơ vô cùng đơn giản mà rất lãng mạn, giấc mơ về một về dáng kiều thơm duyên dáng kia.

Qua hai câu thơ trên, ta có thể thấy tính cách của họ trái ngược hoàn toàn với ngoại hình tuy có vẻ bề ngoài khác thường nhưng họ lại có một tình cảm vô cùng lãng mạn và nên thơ. Những khó khăn mà người lính phải đối mặt vô cùng nhiều, nhiều hơn cả cái cái chết. Âý vậy mà khi nói đến cái chết của họ, Quang Dũng viết thật đặc biệt:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Ở bốn câu thơ đầu, tác giả đã khắc họa thành công ngoại hình cũng như tính cách của người lính Tây Tiến qua việc sử dụng nghệ thuật tương phản. Qua đó làm nổi bật hình ảnh người lính Tây Tiến, tuy xa mà gần, tuy có vẻ có khác thường nhưng đầy hào hoa và lãng mạn.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh”

Ngoài vẻ đẹp hiên ngang, lẫm liệt tác giả còn khắc họa vẻ đẹp trong cái chết.Ở hai câu thơ, tác giả đã khắc họa cái chết đầy bi tráng của người lính Tây Tiến. “Rải rác” chỉ số lượng nhiều không thể nào đếm trên con đường núi rừng biên cương chống kẻ thù xâm lược. Trên đoạn đường hành quân Tây Tiến xa xôi, nhiều chiến sĩ đã phải ngã xuống vì chiến đấu với quân thù, vì bệnh tật những cơn sốt rét hoành hành. Với biện pháp nói giảm nói tránh nhằm che giấu đi sự đau thương mất mát của người lính trẻ tác giả đã tinh tế tôn vinh những cái chết hi sinh cao thượng. Chiến trường khốc liệt không thể mang lại cho người ra đi một nơi an nghỉ vĩnh viễn thật tốt bên cạnh những người thân yêu. Ngã xuống trên mảnh đất biên cương, họ sẽ là những “mồ viễn xứ”tiếp tục ngày đêm canh giữ từng tấc đất thân thương. Từ đó chúng ta có thể khẳng định sự bất tử của những con người vĩ đại ngã xuống vì nền độc lập tự do.

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông mã gầm lên khúc độc hành”

Hai câu thơ cuối của đoạn thơ, tác giả tiếp tục bộc lộ sự bi tráng về cái chết của những người lính. Trong hình ảnh của vị tướng quân oanh dũng luôn có một chiếc áo bào, ở đây tác giả lấy hình ảnh “ áo bào thay chiếu” nhằm làm nổi bật sự oanh dũng của những người lính. Ngoài ra, ở câu thơ này tác giả còn sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ để làm cho câu thơ thêm độc đáo, mới lạ. “Anh về đất” theo quan niệm của dân gian “Sống gởi thác về” câu thơ có nghĩa là người lính Tây Tiến đã hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thành nghĩa vụ với dân tộc, với đất nước thân thương. Họ đã thanh thản ra đi trở về bên kia thế giới, với đất mẹ.

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Cái chết của người lính Tây Tiến làm cho đất trời luyến tiếc, cả thiên nhiên Tây Bắc cũng gào thét. Sông Mã “ gầm lên” như một bản nhạc trung điệu tiễn đưa người lính Tây Tiến vừa đưa cái chết vào cõi trường cửu, nâng cái chết của họ lên tầm vĩ đại.

Qua bốn câu thơ cuối ta đã thấy cái chết bi tráng của những người lính Tây Tiến. Nhưng cái chết ấy đầy luyến tiếc, với những người còn sống sẽ là nỗi đau không quên của những người đồng chí.

Trong câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh thể hiện” mạnh mẽ lí tưởng sống của người lính Tây Tiến. Họ vì yêu nước có thể gạt đi tất cả tương lai của bản thân chấp nhận xa gia đình, người thân, cả người yêu dù có hi sinh hay gặp khó khăn trắc trở vẫn không lùi bước. Qua đó thể hiện tinh thần yêu nước bất khuất, kiên cường của người lính nơi chốn biên cương quyết hi sinh vì lí tưởng sống.

Qua hình ảnh nổi bật của người lính tác giả đã miêu tả được hoàn toàn hình tượng các người lính Tây Tiến, những anh hùng kiêu hãnh quên mình vì đất nước kết hợp với khá nhiều biện pháp nghệ thuật độc đáo tác giả đã cho người đọc hiểu thêm về người lính vất vả lúc bấy giờ cũng như những cực khổ mà họ đã trải qua trong suốt năm tháng đó.

Đoạn thơ đã thể hiện trọn vẹn hình ảnh oai hùng cả sự hào hoa kết hợp cái chết bi tráng và lí tưởng sống của người lính trong bài thơ. Hình ảnh người lính hiện lên mang vẻ đẹp bi tráng trong cảm ứng lãng mạn và ngợi ca vị anh hùng. Cùng với việc kết hợp các nghệ thuật, biện pháp tu từ tác giả đã khắc họa thành công chân dung người lính Tây Tiến đầy tình yêu nước và ý chí kiên cường càng quý trọng những thứ trong cuộc sống hơn vì nó do những chiến sĩ đã hi sinh cả tính mạng để đánh đổi bảo vệ độc lập, tự do.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 28

Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên dáng thơ mộng, mĩ lệ của Tây Bắc, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng tập thể những người lính Tây tiến với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."

     Như ở trên đã thấy, cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ mà đến đây, cách tả người càng lạ hơn. Thơ ca thời kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ "Đồng chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:

"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi"

     Còn ở đây, nhắc đến hình ảnh "Đoàn binh không mọc tóc", tác giả đã gợi lại hình ảnh anh "vệ trọc" một thời. Nhưng câu thơ còn có ý tả thực về một hiện thực trần trụi và khắc nghiệt: những con suối độc, những trận sốt rét rừng đã làm cho người lính xanh xao, rụng tóc. Hình ảnh lạ thường nhưng không hề quái đản. Người lính dù có tiều tụy nhưng vẫn ngời lên một phẩm chất đẹp đẽ, kiêu hùng: "không mọc tóc" chứ không phải là "tóc không mọc". "Không mọc tóc" có vẻ như là không thèm mọc tóc, không cần mọc tóc… thể hiện thái độ coi thường gian nguy, vượt lên hoàn cảnh của người lính Tây Tiến.

     Ba tiếng "dữ oai hùm" đặt cuối câu giống như tiếng dằn rất mạnh, khẳng định ý chí ngút trời, tinh thần chiến đấu sôi sục của người lính. Câu thơ giống như cái hất đầu đầy kiêu hãnh, ngạo nghễ người lính Tây Tiến thách thức gian khổ, chiến thắng gian khổ, trở thành người anh hùng. Trong bài thơ có một cái tên thành thị, hoa lệ: Hà Nội, nhưng đó không phải là một cái mốc có thật trên đường Tây Tiến mà ở đây trở thành một mốc của độ cao bởi giấc mơ kia chính là một đỉnh điểm. Câu thơ diễn tả tinh tế chân thật tâm lý của những người lính ra đi từ thủ đô. Hình ảnh Hà Nội và dáng kiều thơm hiện về trong đêm mơ không làm cho họ nản lòng, thối chí mà ngược lại là nguồn động viên, cổ vũ đối với các chiến sĩ. Một thoáng kỉ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức cho họ trong cuộc chiến đấu gian nan. Nó là động lực tinh thần giúp người lính băng qua những tháng ngày chiến tranh gian lao của đời mình.

      Bốn câu thơ tiếp theo, tác giả nhìn thẳng vào cái bi nhưng đem đến cho nó một vẻ hào hùng lẫm liệt và sang trọng:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

     Những từ Hán Việt cổ kính trang trọng "biên cương", "viễn xứ" đã làm cho những nấm mồ chiến sĩ được vùi lấp vội vàng nơi rừng hoang biên giới cũng trở thành những nấm mồ chí tôn nghiêm. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành bi tráng bởi nhân cách của người đã chết "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đời xanh tuổi trẻ biết bao nhiêu là hoa mộng nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ quốc. Họ đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhàng và thanh thản vô cùng. Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ảnh "da ngựa bọc thây" đầy vinh quang thì người lính tây tiến với hình ảnh "áo bào thay chiếu" đầy sức mạnh ngợi ca. Thực tế, những người lính gục chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không có, huống chi là "áo bào". Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng mạn đã tạo ra ở Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái chết của người lính. Trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây tiến không chìm trong cái lạnh lẽo như trong thơ của Đặng Trần Côn: "Hồn tử sĩ gió ù ù thổi" mà được bao bọc trong một âm hưởng hùng tráng: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành".

     Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kì vĩ. Âm hưởng bi hùng của khúc chiêu hồn tử sĩ dội lên từ chữ "gầm". Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc dữ dội, oai hùng của nó, vừa là để đưa tiễn hồn người chiến sĩ về nơi vĩnh hằng, vừa nâng cái chết lên tầm sử thi hoành tráng. Các anh ra đi và lại trở về với đất mẹ, về với những người anh hùng dân tộc đã ngã xuống, là tiếp nối truyền thống cha ông. Và phải chăng tiếng gầm của dòng sông Mã cũng chính là tiếng lòng của người còn sống? Bởi cái chết của đồng đội không làm họ chùn bước mà chỉ làm tăng thêm lòng quả cảm và chí căm thù.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 29

Tây Tiến là bài thơ hay nhất của Quang Dũng cũng là một trong những bài thơ tuyệt bút về “anh bộ đội Cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng là nhà thơ chiến sĩ, vừa cầm súng đánh giặc, vừa làm thơ. Ông viết về đồng đội, về đoàn binh Tây Tiến thân yêu của mình. Thơ Quang Dũng nóng bỏng hào khí chiến trường.

     Sau một thời gian xa đơn vị và đồng đội, ông viết bài thơ Tây Tiến này vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa điểm bên bờ sông Đáy hiền hoà. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông Mã và núi rừng miền Tây Bắc xa xôi. Đó là nỗi nhớ “chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Đây là đoạn thơ thứ ba trong bài Tây Tiến, đã khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

(…)

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

     Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, đoàn binh Tây Tiến hiện ra giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm dộng. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da xanh phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực: “không mọc tóc". Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm đầu kháng chiến vốn thế. “Không mọc tóc” là hình ảnh phản ánh cái khốc liệt của chiến trường:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

     Cái hình hài không lấy gì làm đẹp: “quân xanh màu lá”, “không mọc tóc” tương phản với “dữ oai hùm” là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tình thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ. “Dữ oai hùm” là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Các chiến binh “Sát Thát” đời Trần: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão); “Tì hổ ba quân, giáo gươm sáng chói” (Trương Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế “bình Ngô”: “Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Bình Ngô đại cáo) — Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh quân thù, thời đại nào cũng có những chiến sĩ “tì hổ” và “dữ oai hùm” như thế đó! Với niềm tự hào, Quang Dũng đã viết nên một câu thơ rất hay: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm”, lấy cái “thô”, cái “mộc” để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.

     Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật… muôn lần khó khăn, thử thách nhưng họ vẫn có những giấc “mơ”, giấc “mộng” rất đẹp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

      Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc. “Mắt trừng” – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới" – mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Lại có những giấc mơ đẹp. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai Hà hành “xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa: “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ). Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù, nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao được những hàng me, hàng sấu, nhưng phố cũ trường xưa, “Những phố dài xao xác hơi may?”… Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu, những “dáng kiều thơm" từng hò hẹn. Hình ảnh “dáng kiều thơm" trong câu thơ của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút nhà thơ – chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc.

      Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ Chính Hữu mang theo nỗi nhớ "giếng nước gốc đa”, nhớ mái nhà tranh, nhớ ruộng nương…; trong thơ Hồng Nguyên là nỗi nhớ “người vợ trẻ – Mòn chân bên cối gạo canh khuya”, … thì người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng, nỗi nhớ gắn liền với “mộng” và “mơ”. Mộng lập chiến công, mơ “dáng kiều thơm”. Hữu Loan trong bài thơ Màu tím hoa sim cũng viết rất hay về nỗi nhớ của người lính chống Pháp:

Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến tranh

Mấy người đi trở lại

Lỡ khi mình không về

Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê…

     Viết về “ruộng’’ và “mơ” của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời của đồng đội. Đó là một nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp.

      Bốn câu thơ tiếp theo là những nét vẽ bổ trợ, tô đậm bức chân dung người lính.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ.

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

     Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây. Họ nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sĩ “rải rác biên cương”. Câu thơ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh", đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận vì một lí tưởng rất đẹp. “Đời xanh" là: trai trẻ, là tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…” những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Họ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Câu thơ “Chiến truờng đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu làm nô lệ”. Quang Dũng ghi lại cảnh bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy:

Áo bào thay chiếu anh vế đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

      Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm “áo bào” bình dị ấy: “anh về đất”. Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã xuống là: “về đất”, nằm trong lòng Mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ “chết”, từ “hy sinh” mà lấy cụm từ “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì đất nước quê hương. “Anh về đất” bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến sĩ. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ” tống tiễn linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn thu. Câu “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” là một câu thơ hay vì gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Phong cách ngôn ngữ của Quang Dũng rất đặc sắc, bên cạnh những từ ngữ bình dị đời lính như: gục, không mọc tóc, dữ, trừng, về đất, chiếu, gầm lên… lại có một số từ Hán Việt như: mộng, mơ, biên giới, dáng kiều, biên cương, viễn xứ, áo bào, khúc độc hành – nhờ đó mà cái bình dị làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường tô đậm cái anh hùng, vĩ đại. Chất bi tráng và màu sắc lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử.

      Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ “có hồn”. Người lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 30

Bài thơ Tây Tiến là một trong những bài thơ xuất sắc nhất trong kho tàng văn học Việt Nam thời kì chống Pháp. Cho đến tận ngày hôm nay, khúc ca hào hùng mà không kém phần bi tráng mang tên Tây Tiến vẫn còn nguyên vẹn sức hấp dẫn của mình.

Bài thơ đã khắc họa nên chân dung người lính tây tiến vừa lẫm liệt lại vừa nên thơ, giữanúi rừng Tây Bắc thăm thẳm mênh mông. Có thể nói, hình tượng người lính Tây Tiến là một hình tượng vừa độc đáo lại vừa có tính phổ quát giữa những tháng ngày khói lửa chiến tranh khốc liệt.

Người lính Cụ Hồ đã trở thành bến đậu nghệ thuật, điểm dừng chân khơi nguồn cho sức sáng tạo không bao giờ vơi cạn trong trái tim người nghệ sĩ. Vẫn còn đó hình ảnh người lính “miệng cười buốt giá chân không giày” trong thơ Chính Hữu, và rồi Quang Dũng đã làm nên Tây Tiến – một bài ca không bao giờ quên, bài ca ấy đã thắp sáng lên ngọn lửa của lí tưởng, bài ca soi sáng rạng ngời chân dung người lính cụ Hồ mà cụ thể là chân dung người lính tây tiến. Nó cũng là bài ca đã neo đậu trong sâu thẳm trái tim người dân đất Việt mỗi khi tìm về lịch sử. Quang Dũng đã tinh lọc những nét khái quát nhất, tiêu biểu nhất để dựng nên bức tượng đài nghệ thuật bất hủ về hình tượng đoàn quân Tây Tiến. Bức tượng đài ấy viết lên bằng cảm hứng lãng mạn nhuốm màu sắc bi hùng, bi tráng chứ không hề bi thương, bi lụy.

Luận điểm thứ nhất trong dàn ý chân dung người lính tây tiến là vẻ đẹp dữ dội, lẫm liệt. Cụ thể, hình ảnh đoàn binh Tây Tiến hiện lên với những chi tiết vô cùng độc đáo

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Hai câu thơ là hình ảnh tả thực về những người lính tây Tiến. Những chàng trai với mái đầu “không mọc tóc”, với nước da ngăn ngắt xanh đâu phải sản phẩm của trí tưởng tượng để tạo nên sự giật gân, li kì. Mà đó là hiện thực khốc liệt của những năm tháng chiến tranh không thể nào quên. Do ốm đau bệnh tật khiến các anh rụng tóc, trụi đầu song cách dùng từ độc đáo đã chuyển việc không mọc tóc từ bị động sang chủ động. Chất ngang tàng, kiêu dũng, xem thường gian lao của người lính Tây Tiến là được thể hiện ngay từ những chi tiết đời thường như thế.

Nét vẽ thứ hai trong chân dung người lính tây tiến là hình ảnh “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Đó là màu xanh của bộ quân phục người chiến sĩ hay màu xanh của những vòm lá ngụy trang, hay màu xanh vì căn bệnh sốt rét rừng hằn in trên đoàn quân Tây Tiến. Da đầu rụng hết, da dẻ xanh xao vàng vọt thật, nhưng những người lính Tây Tiến vẫn giữ được vẻ uy nghi lẫm liệt như hùm hổ chốn rừng thiêng: “dữ oai hùm”. Bao nhiêu sức mạnh nội lực, sự can trường của người lính như dồn nén vào câu chữ để tôn lên sức mạnh kì diệu của con người bắt nguồn từ lòng yêu nước đang rần rật chảy trong từng đường gân, thớ thịt của những chàng trai Hà Thành. Quang Dũng đã phát huy triệt để hiệu quả của biện pháp đối lập giữa vẻ bề ngoài và nội tâm. Nhìn vẻ bề ngoài người lính vừa tiều tụy, vừa can trường, vừa mang khí phách của một hiệp sĩ, vừa như những người khổng lồ không có trái tim. Thế nhưng đó chỉ là lớp vỏ bao bọc hạt ngọc tâm hồn hào hoa, lịch lãm và lãng mạn trong chân dung người lính tây tiến

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Hai câu thơ thể hiện sự đối lập rõ rệt về hình ảnh người lính Tây Tiến. Nếu câu thơ trên miêu tả một đôi mắt tràn ngập sự căm thù giặc, lòng quyết tâm đánh đuổi kẻ thù của người lính thì đến câu thơ thứ hai, hình ảnh người lính lại hiện lên rất đỗi dịu dàng.

Ánh mắt trừng chứa đầy cảm xúc, đầy nội tâm. Phải chăng đó là ánh mắt căm phẫn, uất nghẹn như muốn nuốt chửng kẻ thù xâm lăng, cũng có thể là ánh mắt đau đáu hướng về quê hương, chân dung người lính tây tiến hiện lên với ánh mắt bồn chồn, thao thức thăm thẳm suy tư nặng trĩu nỗi niềm đầy ám ảnh. Đằng sau ánh mắt ấy là cả một niềm khao khát, mang theo giấc mộng chiến thắng, hứa hẹn ngày trở về. Đôi khi giữa ánh mắt xa xăm rạo rực khắc khoải xen lẫn giấc mơ về Hà Nội. Người lính Tây Tiến xa Hà Nội mang theo “dáng kiều thơm”. Một cách cảm nhận thật nho nhã, lịch lãm, nỗi nhớ trở nên vời vợi hơn, đằm thắm, ngọt ngào da diết hơn. Dáng kiều thơm – bóng dáng những thiếu nữ Hà thành dịu dàng duyên dáng. Vẻ đẹp tâm hồn hào hoa, lịch lãm, lãng mạn của những chàng trai “xếp bút nghiên lên đường bảo vệ Tổ quốc”. Khổ thơ đã khắc họa hình tượng chân dung người lính Tây Tiến trong khắc nghiệt, gian khổ trên chặng đường hành quân. Sau những giờ hành quân nhọc nhằn, người lính Tây Tiến tìm về nét tính cách hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn, tìm về vầng sáng lung linh trong kí ức – những thiếu nữ Hà Thành

Sang đến khổ thơ tiếp theo, giọng thơ bỗng nhiên lắng xuống, da diết hơn, dấy lên những nỗi mất mát, tang tóc đau thương được dồn nén trong từ rải rác. Thật vậy! Trên những chặng đường hành quân , bao đồng chí, đồng đội của nhà thơ trong đoàn quân Tây Tiến đã ngã xuống, gửi thân xác mình nơi khe suối sườn đèo, những nấm mồ dọc theo con đường hành quân.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Một loạt những từ Hán Việt như biên cương, viễn xứ được sử dụng để trang trọng hóa, cổ kính, vĩnh hằng và bất tử hóa đức hi sinh trong chân dung người lính tây tiến. Có biết đâu những nấm mồ xanh cỏ, nơi ải nước xa xôi, hoang vu, lạnh lẽo mãi trở thành mộ chí tôn nghiêm. Họ nằm xuống nhưng không mất đi mà hóa thành hồn thiêng sông núi để sống muôn đời với dân tộc Việt Nam anh hùng.

Hai câu thơ đã khép lại một lần nữa tô đậm đức hi sinh của những chàng trai đất Hà thành được Quang Dũng thể hiện qua âm hưởng thơ trầm hùng, bi tráng

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành 

Quang Dũng đã có lần tâm sự: “Lính Tây Tiến ngã xuống, manh chiếu không đủ che thân, đồng chí, đồng đội vào những bản làng xa xôi để xin chiếu, khi hiểu rõ mục đích của việc xin chiếu, già làng không cầm được nước mắt, họ cùng nhau đan những phên nứa cho các anh bó gối thi hài đồng đội”. Vậy là hình ảnh áo bào được lí tưởng hóa – một hình ảnh tượng trưng để xua đi cái bi thương, bi lụy, lấy lại cái bi hùng, tráng lệ cho sự hi sinh. Đây là một luận điểm quan trọng học sinh cần hết sức lưu ý khi làm đề cảm nhận vẻ đẹp người lính trong đoạn 3 tây tiến

Trong những năm bom rơi đạn nổ, chất lãng mạn bay bổng vượt lên trên hết thảy trở thành nơi trú ngụ của những tâm hồn đẹp. Vậy nên, hình ảnh áo bào trong câu thơ như một liều thuốc xoa dịu nỗi đau đớn, an ủi vong hồn người đã khuất. Những người lính Tây tiến về với đất mẹ, đất mẹ sinh ra anh và đất cũng mở rộng vòng tay đón các anh về trong tình yêu thương, đùm bọc, nâng đỡ và sẻ chia. Cho dù khâm liệm bằng manh chiếu, phên nứa nhưng đó cũng chính là chiến bào đưa các anh về với đất mẹ. Quang Dũng đã khơi gợi những tình cảm sâu xa đến tận đáy lòng người đọc để thấm thía hơnchân dung người lính tây tiến – hình ảnh những người con đã hi sinh tính mạng, xương máu và cả một thời tuổi trẻ cho dáng hình Tổ Quốc hôm nay. Bốn câu thơ cuối bài một lần nữa nhấn mạnh lời thề thiêng liêng vì tinh thần sẵn sàng xả thân cho Tổ quốc. Dù khó khăn gian khổ nhưng không một người lính Tây Tiến nào thoái thác nhiệm vụ.

Tây Tiến người đi không hẹn ước,

Đường lên thăm thẳm một chia phôi.

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Tây Tiến là bài thơ xuất sắc của Quang Dũng và thơ ca kháng chiến chống Pháp. Với cảm hứng lãng mạn bay bổng và tinh thần bi tráng, Quang Dũng đã khắc họa thành công chân dung người lính tây tiến yêu nước, yêu đời, hào hoa, anh dũng. Với tác phẩm Tây Tiến, Quang Dũng đã góp vào kho tàng người chiến sĩ Việt Nam một bức chân dung đẹp và độc đáo.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 31

Có thể nhận thấy được những hình ảnh người lính nói chung và những người lính thời kỳ chống Pháp nói riêng đã từ lâu đi vào văn chương một cách thật tự nhiên và nó cũng như một nguồn thi cảm cho chính các tác phẩm đó. Ta như thấy được chính các nhà thơ viết về người lính với tất cả niềm kiêu hãnh, đó còn chính là một niềm thật tự hào. Và ta như thấy được chính giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy thì tác phẩm “Tây Tiến” là bài thơ có vị trí đặc biệt.

Ta đã biết được Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947. Và đơn vị này đảm nhiêm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, để có thể mà bảo vệ biên giới Việt- Lào và  đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào va miền Tây Bắc Việt Nam. Hơn thế nữa thì địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào) nữa.

Những người chiến sĩ Tây Tiền phần đông chính là thanh niên Hà Nội và trong họ thì dường như có rất nhiều học sinh, sinh viên.  Hoàn cảnh chiến đấu là gian khổ như vậy như người lính vẫn rất yêu đời và lạc quan biết bao nhiêu. Những người lính trẻ trong hành trang của họ dường như vẫn chất chứa những nỗi nhớ xa quê, đó còn mùi sách mới đã tạm gác lại vì sự nghiệp cho nước nhà.

Bài thơ ‘Tây Tiến’ đã như được hình thành từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng đội và những ngày tháng, đó chính là những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả với đoàn quân Tây Tiến mà dường như cũng đã gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, nó như thật là hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy quả thật cũng như đã đánh thức mọi ấn tượng, đó là cả những kí ức để kết tinh tập trung trong bức chân dung người lính Tây Tiến.

Quang dũng chính với bút pháp lãng mạn mà không thoát li hiện thực, bài thơ đã khắc họa được hình ảnh như thật là sừng sững bức tượng đài người lính trường tồn, bất tử mãi mãi với không gian, thời gian hùng vĩ của núi rừng của đất trời. 

Trước hết, người đọc như thấy được đó chính là nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Ta dường như cũng đã từng thấy một “Tiểu đội xe không kính” dí dỏm trong thơ Phạm Tiến Duật thì nay người đọc lại có thể như thấy một “đoàn binh không mọc tóc” trong thơ Quang Dũng. Nhưng quả thật đó chính là những nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến dường như cũng đã bắt nguồn từ chính hiện thực đến từng chi tiết. Chi tiết “không mọc tóc” đó chính là hậu quả của những trận sốt rét rừng khủng khiếp. Ta vẫn nhớ được nhà thơ Tố Hữu khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong thi phẩn “Cá nước’ dường như cũng không quên nhắc tới sức ảnh hưởng ghê gớm của căn bệnh quái ác đó:

Giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Ta như thấy được sự ẩn sau ngoại hình ấy là sức mạnh nội tâm là tâm hồn, khí phách của những người lính Tây Tiến:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Nếu chính ở những câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chữ “mộng” thì dường như ở chính câu thơ thứ hai nhấn mạnh chữ “Mơ” hơn rất nhiều. Người đọc như thấy được chính câu thơ dường như cũng đã mang vẹn nguyên cả ước vọng và điểm đến cuối cùng của đời lính Tây Tiến. Có thể thấ được chữ “trừng” được sử dụng khá độc đáo. Người đọc chúng ta lại như có cảm tưởng như mọi ước mơ khao khát tận đáy lòng đã trào dâng và nó còn như đong đầy trong ánh mắt người lính. Tứ thơ ấy như đã khéo léo như gợi nhắc đến hình ảnh thơ quen thuộc:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

{Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

Ta như biết được chính cái đích đến cuối cùng của những người lính luôn là hạnh phúc. Qủa thật rằng chính nỗi nhớ của họ hướng cả về “dáng kiều thơm”, những bóng hình giai nhân yêu kiều, như cũng thật là thướt tha, thanh lịch nào đó ngoài cuộc đời. Họ dường như cũng đã ra đi chiến đấu vì tự do, độc lập của đất nước nhưng trước hết đó còn chính là vì cuộc sống tương lai hạnh phúc mà họ khao khát bấy lâu nay. Có lẽ chính vì vậy mà “dáng kiều thơm” cũng như đã trở thành điểm tựa, đó cũng chính là một niềm hi vọng để tiếp thêm cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng.

Người đọc làm sao có thể quên được những người lính Tây Tiến sống anh dũng mà hi sinh cũng anh hùng. Tác giả Quang Dũng dường như cũng không hề né tránh hiện thực khắc nghiệt nhất, né tránh những đau thương nhất, tàn nhẫn nhất của chiến tranh đó là sự hi sinh của những người lính:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời;

– Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh;

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lèn khúc độc hành.

Có tới ba lần tác giả Quang Dũng nhắc tới sự hy sinh, nhưng lần nào cũng là hình ảnh ẩn dụ để tránh đi từ “chết”. Dường như ta như thấy được khi người lính Tây Tiến cũng như đã ngã xuống chỉ là khi anh tạm nghỉ chân trước cuộc đời. Cái chết của người lính cũng đã không đồng nghĩa với ngừng chiến đấu vì tâm hồn, vì ước nguyện của anh sẽ vẫn mãi mãi trường tồn với thời gian với năm tháng. Những người lính như đã ngã xuống nhưng vẫn kịp trao ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục con đường cách mạng vinh quang. Ta như thấy được cả những sự hi sinh của các anh làm người đọc không khỏi nghẹn ngào đó chính là những câu thơ “Rải rác biên cương mồ viền xứ”. Chữ “rải rác” dùng rất đắt nó như được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh cho sự quạnh quẽ, lạnh lẽo, gợi lên được cả những sự hoang vắng gợi cảm giác xót xa đau đớn nhưng đôi cánh của lí tưởng quên mình chính là vì Tổ quốc cho nên họ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã xoa dịu nỗi đau làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến như hiển hiện rõ nhất.

Hình tượng người lính Tây Tiến quả thật như đã trở thành bất tử với muôn đời. Có thể thấy được rằng theo dòng lịch sử có thể đổi thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đẽ nhất, tinh tế nhấy. Bằng việc qua dòng hồi tưởng của Quang Dũng, ta như thấy được hình ảnh những người chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong sự đối mặt với khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng lúc nào cũng lạc quan phơi phới yêu đời và như còn in đậm trong tâm trí của bạn đọc.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 32

Ra đời trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống pháp gian khổ, “Tây Tiến” là những hồi tưởng rất đẹp, những kỷ niệm đầy sống động về người chiến sỹ cộng sản về người chiến sỹ trong đoàn quân “ Tây Tiến” . Hồi tưởng của một anh lính tài hoa của tinh thân xả thân vì nghĩa lớn – Quang Dũng. Cho nên, khác với vẻ đẹp của các bài thơ cùng thời, vẻ đẹp của “Tây Tiến” là vẻ đẹp hài hòa, hào hoa, bi tráng.

“Tây Tiến” hiện lên trong thơ ca của Quang Dũng là khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, kì vĩ và đủ cả núi cao, vực thẳm dốc đứng, thác gầm cùng cồn mây heo hút, dòng lũ hoa trôi với khói lên, sương lấp, mưa xa khơi… Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ, dữ dội ấy, nổi bật lên hình ảnh đoàn quân Tây Tiến “nhỏ bé” như bé như bị ngập hút đi. Nhưng chính sự đối chọi, tương phản đó càng tăng thêm khí phách anh hùng của đoàn quân cách mạng , mà kẻ thù cũng như gian khổ không thể khuất phục nổi. Hình ảnh những người lính qua nét vẽ của Quang Dũng thật khác thường.

Khác thường ở sự gian khổ cùng cực: ăn đói, mặc rét, bệnh tật, sốt rét, da xanh, trụi tóc. Khác thường ở chỗ tác giả cố ý không miêu tả một gương mặt chiến sỹ riêng biệt với tên tuổi cụ thể nào, ông đã dồn các phẩm chất tốt đẹp của những tráng sỹ Tây Tiến thành tấm gương minh chứng của cả một đoàn quân:

“ Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Ta có thể hiểu, đây là hình ảnh khá chân thật với diện mạo bên ngoài mũ áo ngụy trang, thân thể xanh xao vì sốt rét. Những cảm hứng ở đây lại tràn đầy những nỗi niềm thân quen. Từ thân quen mà thấy cái anh hùng của họ. Câu thơ tạo nên hình ảnh đối lập, bề ngoài thì “xanh như tàu lá” thiếu sức sống, nhưng bên trong người chiến sỹ thể hiện một phong độ anh hùng, oai hùm nơi “rừng thiêng nước độc”. Câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” đã gợi được cái dũng khí của người chiến binh thuở ấy. Nó mang cái dáng dấp kiêu hùng của người coi thường gian khổ, hi sinh để giữ cái thể hiên ngang của đoàn quân Tây Tiến. Hiên ngang và thật lãng mạn.

Với bút pháp lãng mạn và cảm hứng say nồng, Quang Dũng đã dựng nên cái tương phản trong hình ảnh để rồi hòa hợp với tâm hồn làm cho ta thấu hiểu và cảm thông tìm thấy ở đây một hình ảnh đẹp.

Người Hà Nội trở thành người chiến binh thì cái oai phong cũng rất Hà Nội. Quang Dũng đã viết đúng hình ảnh người lính Tây Tiến từ Hà Nội chiến tranh mà ra đi:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Thực ra hai câu thơ ấy chỉ là nỗi lòng của nhà thơ muốn bộc lộ thật đậm, thật rõ chất lính của người thanh niên Hà Nội tài hoa lẵng mạn. Lại có người nói: thời chiến ác liệt nói về giấc mơ “dáng kiều thơm” là xa rời tinh thần chiến đấu. Thực ra, cuộc đời con người vô cùng phong phú, tâm trạng của chàng trai Hà Nội lại càng có những nét hào hòa và tình cảm riêng. Có nên nói người lính Tây Tiến. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, chỉ tô đậm cái đẹp của những con người ấy mà thôi.

Hơn nữa, vẻ đẹp chân thực không bao giờ là, cho con người giảm sút lòng chiến đấu. Phẩm chất người lính qua hồi tưởng của Quang Dũng đã hiện ra vừa hào hùng, hào hoa và cũng vừa bi tráng. Nhà thơ đã nhìn thẳng vào những tổn thất hi sinh đã viết những câu thơ:

“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Câu thơ cái gì xót xa gợi niềm cảm thương trong lòng người đọc. Miền đất biên ải xa xổi đã yên nghỉ bao cuộc đời người lính. Nơi đó có chút gì hoang vắng ghê rợn trước những nấm mồ viến xứ. Nhưng rồi sau đó cảm hứng thơ lại bừng lên những suy nghĩ thật hào hùng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, thể hiện một sự quên mình của lớn thanh niên đầy nghĩa khí. Phương châm sống của họ cao đẹp mà giản dị. Thời ấy không ít thơ viết về người chiến sỹ, nhưng chỉ có “Tây Tiến” của Quang Dũng mạnh dạn nói đến cái chết. Cái chết tạo nên vinh quang của tuổi xuân thầm lặng mà cao cả, hiến mình cho dân tộc.

Nét đặc sắc của Quang Dũng trong “ Tây Tiến” còn thể hiện ở một ngòi bút sắc sảo tinh tế. Viết về chiến tranh, nhưng cả bài thơ không có một chữ nào về trận đánh, tiếng súng, về máu đổ hay về kẻ thù. Người đọc vẫn hình dung rất rõ gương mặt và không khí chiến tranh. Điều lạ lùng là bài thơ có ba lần nói đến cái chết của người chiến sĩ trong các trường hợp khác nhau, nhưng không một lần nói nhà thơ nhắc tới từ “chết” hoặc “hi sinh”. Nhà thơ đã thay thế từ “chết” bằng cụm từ giản dị “về đất” “bỏ quên đời”, “hồn về” …Đến đoạn thơ cuối lí tưởng cách mạng và tuổi trẻ đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất hùng mạnh ngang tàng và chất men say lãng mạn đáng yêu. Ngay cả khi chết cũng phảng phất vẻ nghệ sỹ- tài tử, cái đẹp bi tráng chứ không bi lụy.

Để tiến người lính Tây Tiến hi sinh, Quang Dũng không cần đến một lời ca ngợi sao món nào, cũng không cần đến một giọt nước mắt…Ông chỉ đến cho trời đất chứng giám, thu nhận thể xác và linh hồn người lính vào lòng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” tiếc thương đưa người lính Tây Tiến vào cõi bất tử. Bởi vì, kể từ đây hồn các anh đã hòa quyện vào cả cây, sông núi đã trở thành “hồn thiêng đất nước”.

Nhà phê bình Phong Lan nhận định : “ Tây Tiến một tượng đài bất tử về người lính vô danh”. Bất tử bởi chính vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng này. Và do vậy, người lính Tây Tiến qua bài thơ cùng tên Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi vĩnh hằng và trong thế giới nhân sinh.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 33

Đất nước đã hòa bình độc lập nhưng hình ảnh về những lính anh hùng, can đảm đã nhuốm máu mình trên từng tấc đất vẫn mãi là những ký ức đẹp của cả dân tộc Việt Nam. Quang Dũng – một nhà thơ tinh tế lãng mạn, và cũng là một người lính đã có những vần thơ rất chân thực viết về những đồng đội của mình trong đoàn quân Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Đoạn thơ được trích từ bài “Tây Tiến” của Quang Dũng với những từ ngữ giàu hình ảnh trong giọng điệu phóng khoáng, tự do, tự hào. Tác phẩm đã gây ấn tượng mạnh trong lòng độc giả bởi hình ảnh những người lính Tây Tiến đầy bi tráng. Như một lời khẳng định, Quang Dũng đã thẳng tay viết:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”.

Không khó khăn gì để trả lời câu hỏi tại sao lại là “đoàn binh không mọc tóc”? Là tóc không mọc hay không thèm mọc? Cuộc sống giữa rừng sâu cùng với sự khó khăn thiếu thốn buộc các anh phải dãi dầu mưa nắng. Những côn sốt rét rừng đã khiến tóc các anh bị rụng, không thể mọc lại được, người gầy xanh xao. Nhưng nhà thơ Quang Dũng và cũng là người lính với tâm hồn lãng mạn, yêu đời đã biến sự thật ấy thành những điều rất tự nhiên, thậm chí là có phần hài hước, vui vẻ. Có lẽ lúc ấy tuổi các anh cũng chỉ tầm mười tám đôi mươi. Hoặc có anh bằng lứa tuổi của những bạn sinh đang đọc bài thơ này. Gác lại sách vở, gác lại những ước mơ còn dang dở, các anh đã rời ghế nhà trường để cầm súng chiến đấu cho Tổ quốc có ngày được độc lập tự do. Bước vào chiến trường, là bước vào ranh giới của sự sống và cái chết, nhưng không ai bảo ai, họ đều thấu hiểu điều đó và cùng chung một lòng quyết chiến đấu đến cùng. Những cơn sốt rét rừng đâu có là gì. Tóc rụng hay không mọc được cũng chẳng sao, các anh không thèm mọc tóc nữa. Cách nói này của Quang Dũng rất hài hước, rất đúng với khí thế của cả đoàn binh. Trên chiến trường, họ gan dạ với quả tim sắt đá, nhưng đêm về lại thổn thức nhớ người yêu. Ở bên kia biên giới, người yêu bé nhỏ của anh hẳn cũng đang ấp ủ những nỗi nhớ niềm thương và thầm mong ngày đoàn tụ để cùng anh tiếp tục những lời hẹn ước còn dở dang.

Nhưng chiến tranh đâu có thể nói trước điều gì. Ai ngã xuống, ai quay về còn chưa rõ. Chỉ biết rằng, dẫu có chết các anh cũng “chẳng tiếc đời xanh”. Quang Dũng cũng đã bộc bạch rất chân thành: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Có lẽ chính vì điều này mà bài thơ đã một thời bị cấm phát hành vì cho rằng đã nói lên những mất mát hi sinh quá lớn của quân đội Việt Nam, khiến tinh thần người lính đi xuống. Nhưng sau cùng, bài thơ vẫn được đón nhận và trở thành một khúc hành quân đầy tự hào với hình ảnh những người lính đang rộn ràng bước chân. Họ lên thác xuống ghềnh, chèo đèo lội suối, vượt bao gian khó, có những lúc:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

Bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu vất vả đều tan biến mỗi khi anh nghĩ đến ngày đất nước hòa bình thống nhất, ngày các em nhỏ được tung tăng đến trường và đôi lứa không còn phải chia ly mỗi người một ngả.

Như vậy, người lính trong bài thơ đã được Quang Dũng thể hiện đậm chất bi tráng, vừa chân thực, vừa hài hước, vừa mang nhiều ý nghĩa cho thế hệ trẻ hôm nay, mai sau và mãi mãi noi theo. Những người lính ấy đã một lòng yêu nước, đồng tâm đồng lực đánh đuổi quân thù. Người ngã xuống, hòa máu mình vào đất, người bỏ lại một phần cơ thể trên chiến trường xa xôi… Mẹ mất con, vợ mất chồng… Những cuộc tình dang dở… Sau cùng, tất cả đã được đền đáp bằng ngày thống nhất toàn dân, ngày hòa bình độc lập trở lại trên đất Việt Nam. Và nếu có thể được hi sinh lần nữa, chắc chắn các anh cũng luôn sẵn lòng.

Những người lính hôm nay nói riêng và cả thế hệ trẻ nói chung đã không phải chịu cảnh bom rơi đạn gào, cảnh chia ly đẫm nước mắt kẻ ở người đi, hãy sống cho thật tốt. Thật đáng buồn cho những người trẻ đang lầm đường lạc lối đi vào con đường tệ nạn xã hội, làm buồn lòng những anh hùng đã ngã xuống. Hãy dừng lại khi còn kịp, hãy là những người lính thời bình đầy thông minh và hoài bão, ước mơ dựng xây cuộc đời, dựng xây đất nước.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 34

Hình tượng người lính trong thơ ca kháng chiến là đề tài quen thuộc với hình ảnh về những con người dung cảm sẵn sàng hy sinh tính mạng cho Tổ quốc. Vì thế, không ít lần khi đến với thơ ca kháng chiến, ta bắt gặp hình tượng người lính trong Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của Tố Hữu, Đồng chí của Chính Hữu, Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu…. và đặc biệt là hình tượng người lính hào hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến.

Tây Tiến là đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với quân Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và nhà thơ là đội trưởng của đơn vị Tây Tiến. Các chiến sĩ chủ yếu là thanh niên Hà thành, phần đông là sinh viên học sinh phải chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần nhưng vẫn luôn giữ tinh thần lạc quan, yêu đời và chiến đấu dũng cảm vì quê hương đất nước. Vì thế, khi đặt bút viết về hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài về người lính với vẻ đẹp bi tráng và lãng mạn.

Trong bài thơ, Quang Dũng nhắc tới hàng loạt các địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mai Châu… theo dải nỗi nhớ vơi đầy và những ấn tượng thoát ẩn thoắt hiện trong tâm tưởng nhà thơ về những chặng đường hành quân gian khổ. Bài thơ được viết theo bút pháp lãng mạn, khuynh hướng tô đậm những cái khác thường, sử dụng bút pháp đối lặp nhằm tác động mạnh vào cảm quan người đọc để khêu gợi trí tưởng tượng của bạn đọc.

Được dừng chân bên xóm núi, được giao lưu văn nghệ với tình quân dân đầm ấm, bình yên khiến các chiến sĩ say sưa ngắm nhìn các cô thôn nữ rực rỡ trong xiêm áo đủ sắc màu. Tâm hồn họ như bốc men sau ngây ngất, và dư âm chiến tranh như lắng xuống nhường chỗ cho phút giây sống trong hòa bình, hạnh phúc với vũ điệu xứ lạ khiến chàng thi sĩ mộng mơ, bay bổng.

Nhà thơ đã cho ta thấy cuộc hành quân đầy gian khổ, hiểm nguy của binh đoàn Tây Tiến, các chiến sĩ của ta phải leo dốc núi hiểm ác dữ dội, chìm vào sương rừng mây núi dày đặc. Quang Dũng nhắc tới sự heo hút, hiểm trở của rừng núi để nói lên sự gian khổ của người lính. Những câu thơ viết về sự hiểm nguy gian khó sử dụng nhiều thanh trắc khiến người đọc cảm thấy nghe trúc trắc, ghồ ghề như nghe được thấy cả hơi thở gấp gáp, mệt nhọc của người lính đang hành quân, lúc lên lên lúc trượt xuống biết bao nguy hiểm. Những nét vẽ của Quang Dũng không để hình ảnh người lính Tây Tiến chìm trong bi lụy mà thật lạ và đầy sức tưởng tượng “súng ngửi trời”. Ấy là hình ảnh người lính đạt tới đỉnh cao của ngọn núi chót vót thì cả người và súng tưởng như chạm vào mây trời.

Khi họ đã đạt tới độ cao như mây ngàn thì tâm hồn nhẹ nhàng như trút hết được mọi mệt nhọc để phóng tầm mắt ra bốn hướng ngắm nhìn những nóc nhà, ngắm khói lam chiều. Một màn sương lãng mạn với những nốt nhạc được bao phủ lên, đẩy tâm hồn người lính vượt lên những cái khốc liệt của chiến tranh.

Sự tàn khốc của chiến tranh khiến người lính ngã xuống nhiều khi còn không có cả tấm áo lành lặn,chỉ có manh chiếu để khâm liệm tiễn đưa đồng đội về nơi an nghỉ. Và Quang Dũng đã khắc ghi cảnh tượng đau thương ấy qua hình ảnh áo bào sang trọng để các anh về với đất Mẹ thanh thản, bình yên.

Mỗi bước đường của người lính Tây Tiến nói chung và các chiến sĩ Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh là mỗi bước hi sinh nhưng nhà thơ không nhìn vào sự mất mát ấy theo chiều bi lụy mà rất nhẹ nhàng. Các chiến sĩ chỉ chìm vào giấc ngủ ngàn thu bỏ lại phía sau bao sự mất còn bởi các anh đã dấn thân và chấp nhận, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Đó chính là vẻ đẹp bi tráng của người lính Việt Nam nói chung trong chiến tranh.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 35

Trải qua hai cuộc kháng chiến khốc liệt chống Pháp và chống Mỹ, đã có biết bao tác giả, bài thơ và các phẩm viết về tinh thần người lính cụ Hồ được ra đời nhằm tôn vinh vẻ đẹp và ý chí chiến đấu của các anh. Quang Dũng là một trong những nhà thơ đa tài ấy. ông đã sáng tác nên bài thơ “ Tây Tiến” để khắc họa rõ nét hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống pháp. Đặc biệt qua khổ 2 của bài thơ, độc giả càng cảm nhận được rõ rét và sâu sắc những khó khăn, gian lao và vất vả mà các anh phải trải qua suốt bao năm tháng chiến đấu.

Đoàn quân Tây Tiến phần đông là các thanh niên trí thức hà Nội, sau bao quyết tâm rời xa gia đình, quê hương đã đi lên khu vực biên giới Việt Lào để cùng tham gia chiến đấu. Tuy sống trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn nhưng ánh mắt và tâm hồn của họ vẫn luôn toát lên vẻ lạc quan, yêu đời. Nếu như hai khổ thơ đầu tiên, Quang Dũng đã khắc họa rõ nét về nỗi nhớ cuộc sống sinh hoạt trong thời kì kháng chiến. Thì đến khổ tiếp theo, hình ảnh những người lính đã hiện lên một cách rõ nét và chân thực biết bao:

“ Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Sống ở nơi rừng thiêng nước độc, biết bao căn bệnh nguy hiểm luôn đe dọa đến mạng sống của những người lính. Hai câu thờ đầu đã đề cập đến một hiện thực của căn bệnh sốt rét mà người lính thường mắc phải. Thiếu thốn cả về đồ ăn thức ăn, thuốc thang điều trị lại càng trở nên khó khăn, chỉ bằng sức lực và ý chí của các anh đã trở thành những động lực để chống chọi lại với cái rét thấu xương mà căn bệnh sốt rét mang đến. Những cái đầu cạo trọc để che giấu sự hiện diện với quân thù, còn có những cái đầu bị rụng tóc, xanh xao vì bệnh tật, đói rét. Nhưng những điều ấy vẫn không thể ngăn cản sức mạnh oai hùng của đoàn quân Tây Tiến. Họ vẫn rất oai phong, lẫm liệt tiến lên phía trước như chúa tể của chốn rừng xanh nơi đây.

Thế nhưng, ẩn sâu trong tâm hồn những người lính trẻ vẫn luôn có những dòng cảm xúc hết đỗi mộng mơ, chân thành:

“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Chống chọi với những mệt mỏi, các chàng trai với đôi mắt sáng , “ trừng” lên để càng thể hiện quyết tâm chiến đấu. Vậy nhưng, các anh vẫn luôn khát khao được thưởng thức cái đẹp, chẳng còn thấy đạn bom, máu và nước mắt, nơi xa xôi nào ấy chốn đô thành, hình ảnh của những người em, người bạn gái thân thương vẫn luôn ẩn hiện, thấp thoáng trong tiềm thức của các anh.

Sự hi sinh, mất mát là điều tàn khốc nhất mà chiến tranh mang đến. các anh ra đi với ý chí “ quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Tác giả dồn hết biết bao tình cảm, niềm xót thương vào những câu thơ sau:

“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Là những người lính, chỉ cần ở đâu có bóng dáng quân thù thì nơi đó sẽ cần chiến đấu. Vì thế, nơi đây đều tìm thấy dấu vết của những người lính đã ngã xuống. Hàng loạt các từ “ biên cương”, “ mồ”, “ viễn xứ” càng làm khắc sâu nỗi đau thương mất mát. Các anh được sinh ra có quê hương, gia đình, thế nhưng vì đất nước, khi các anh ngã xuống lại chẳng thể về với nơi đất mẹ, phải nằm với gió lạnh cằn cỗi chốn “ viễn xứ”. Thế nhưng, chẳng bao giờ ý chí của các anh bị cái chết làm cho suy sụt. “ Chẳng tiếc đời xanh” vang lên đầy sức mạnh và cũng là lời khẳng định hào hùng nhất về ý chí sắt thép của các chàng lính Tây Tiến.

Hai câu thơ tiếp theo của đoạn vẫn là âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát nhưng những cái chết ấy mang theo biết bao ý nghĩa cao cả, bất tử:

“ Aó bào thay chiếu anh về đất

Sông mã gầm lên khúc độc hành”

Những nấm mồ nằm nơi biên cương xa xôi , đến một chiếc áo quan cũng chẳng thể chuẩn bị chu toàn cho các anh nơi chiến trường. Aó bào là tấm áo thân thương, sát cánh trên khắp mọi nẻo đường cùng người lính. Trên tấm áo đấy, cũng đơn sơ giản dị nhưng vấn có thể sánh ngang cùng với áo bào của các vị vua chúa tôn quý. Quang Dũng càng muốn khẳng định và tôn vinh giá trị sự hi sinh của các anh. Là những người có công với đất nước, khi các anh ngã xuống, về đất, không chỉ có sự tiếc thương của các đồng chí, đồng đội mà còn cả thiên nhiên, “ sông Mã” cũng phải gầm lên thể hiên sự mất mát to lớn. Âm thanh vang dội của dòng sông , của hồn thiêng Tây Bắc thay biết bao lời muốn nói để gửi lời từ biệt, biết ơn các anh. Tinh thần bi nhưng ko lụy, chết những vẫn mãi bất tử.

Đoan thơ thứ ba với giọng điệu chân thành, vừa thể hiện những hình ảnh thiếu thốn, xót xa nhưng cũng đồng thời thể hiện lòng kính trọng đối với công ơn và sự hi sinh của các anh. Hình ảnh người lính Tây Tiến vẫn luôn đậm chất hào hùng, bi tráng giữa bốn bề hùng vĩ, vang danh mãi non sông.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 36

Viết về Tây Tiến - Quang Dũng viết bằng dòng hồi ức. Và trong dòng hồi ức ấy nỗi nhớ đồng đội luôn xao động, gợi về những kỉ niệm, hình ảnh thân thương, tha thiết, sâu lắng. Ta bắt gặp dòng hoài niệm về đồng đội, về những tình cảm, nỗi lòng người lính Tây Tiến qua đoạn thơ:

    ... Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

   Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

 Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Rài rác biên cương mồ viễn xứ,

      Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,

Áo bào thay chiếu anh về đất,

  Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Từ bối cảnh rừng núi hoang vu, hiểm trở trong đoạn đầu bài thơ đến đây hiện lên rõ nét hình ảnh của đoàn chiến binh Tây Tiến:

     Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Thoạt đầu, câu thơ tưởng như chỉ mang một chút ngang tàng, một chút đùa nghịch đầy chất lính, nhưng càng đọc mới càng thấy hiện thực khắc nghiệt, mới thấy hết những gieo neo, khổ ải của đoàn quân Tây Tiến. Không mọc tóc - đó là hậu quà của những cơn sốt rét rừng run người làm tiều tụy, làm rụng hết cả tóc của các chiến sĩ. Rồi nước độc, rừng thiêng, bệnh tật hành hạ... tất cả như vắt kiệt sức lực khiến cho quân xanh màu lá.... Hai câu thơ cho ta thấy được hình ảnh rất thực của các chiến sĩ Tây Tiến khi phải đối phó với bệnh tật: ốm, xanh, rụng tóc... Nhưng không phải vì thế mà họ mất đi vẻ oai phong dữ dội "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới..."

Đoàn quân mỏi, xanh tựa lá mà vẫn mang oai linh rừng thẳm. Mắt trừng lên dữ dội là để gửi mộng vượt biên cương và để "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Những người chiến sĩ Tây Tiến hầu hết là những chàng trai thị thành khoác áo lính dù ra đi chiến đấu, dấn thân vào gian khổ, họ vẫn luôn mang và giữ một tâm hồn hào hoa, thanh lịch, đa tình, một tâm hồn đầy thơ mộng. Mơ dáng kiều thơm là mơ dáng vẻ kiều diễm, quyến rũ, thanh lịch của những người bạn gái thủ đô ngàn năm văn hiến, có người cho rằng Quang Dũng viết câu thơ này là mộng rớt vì nó không phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến. Song thực chất đây là một tình cảm hết sức chân thật của người chiến sĩ, nó mang một ý nghĩa nhân văn chân chính bởi thể hiện ước mơ đẹp của con người về một cuộc sống hoà bình, hạnh phúc đẩy người lính ra đi chiến đâu.

Cả đoạn thơ bốn câu thì ba câu trên toàn nói về cái khác thường, oai dữ. Câu thơ thứ tư ngược lại đầy vẻ mềm mại, trữ tình, mơ mộng. Đoạn thơ khắc họa những hiện thực hết sức nghiệt ngã, nhưng lại không chỉ sử dụng phương pháp tả thực, mà thể hiện bằng bút pháp lãng mạn cho ta thấy hình ành của người lính không xanh xao, tiều tuỵ mà oai phong, dữ dội. Chữ nghĩa và bút pháp của Quang Dũng thật tài hoa. Các chữ không mọc tóc, dữ oai hùm, mắt trừng khắc họa rất sâu tư thế chủ động, vẻ kiêu hùng, ngang tàng của những chiến binh Tây Tiến. Hoàn cảnh gian khổ, những thử thách, gian nan của một miền Tây thâm u, hiểm trờ không làm cho những người lính Tây Tiên chùn bước, họ vẫn giữ ý chí, quyết tâm. Bên cái bi của hoàn cành vẫn trỗi lên cái tráng của ngoại hình và tinh thần. Bằng thủ pháp dường như đối lập, Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và đa cảm của người chiến sĩ Tây Tiến. Núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, đi trong sự hùng vĩ ấy, sự hoang sơ ấy, những người lính Tây Tiến như được truyền thêm sức mạnh, vững bước vượt qua những gian khổ, hi sinh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...

Những người lính Tây Tiến không tiếc đời ra đi chiến đấu cho quê hương, không tiếc đời sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Họ ra đi mà vẫn nhớ, vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng, khi họ hi sinh thì "áo bào thay chiếu anh về đất”. Bằng hai chữ "áo bào", nhà thơ đã nâng cao giá trị, đã tái tạo được vẻ đẹp cao quý. một vẻ đẹp như những người tráng sĩ xưa nơi những người Tây Tiến, vẻ đẹp ấy làm mờ đi thực trạng thiếu thốn ở chiến trường. Rồi "anh về đất', cái chết nhẹ như không, như về lại những gì thương ỵêu, thân thuộc ngày xưa. "Anh về đất là để sống mãi trong lòng quê hương, đất nước. Và sông Mã thay lời núi sông cất lên lời ai điếu bi hùng: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành".

Nỗi đau thật dữ dội, chỉ một tiếng "gầm than trầm uất", nỗi đau như dồn nén, quặn thắt từ bên trong. Không có nước mắt của đồng đội, chỉ có con sông Mã với nỗi đau cuộn chảy trong lòng, độc hành... chảy ngược vào tim.

Cả đoạn thơ nói đến cái chất thật bi mà cũng thật hùng. Những người lính Tây Tiến đã được nhà thơ khắc họa với nỗi nhớ thương tha thiết, với vẻ đẹp hoang sơ, dữ dội như vẻ đẹp của núi rừng.

Hình ảnh những người lính, tình cảm đồng đội, đồng chí vốn xuất hiện trong thơ ca kháng chiến. Ta vẫn thường bắt gắp những người lính chân chất, giản dị, gần gũi trong thơ Chính Hữu:

Áo anh rách vai,

Quần tôi có vài mành vá.

Miệng cười buốt giá,

Chân không giầy...

Hay trong bài thơ Hồng Nguyên:

Lũ chúng tôi,

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ,

Quen nhau từ buổi "một, hai"...

Nhưng với Tây Tiến của Quang Dũng thì khác. Bài thơ đã khắc hoạ không phải lả những người lính xuất thân từ những người nông dân cày sâu cuốc bẫm mà là những chàng trai, những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Với Tây Tiến, Quang Dũng đã đưa người đọc ngược lên một miền Tây thăm thẳm, nơi núi rừng, thiên nhiên mang nét đẹp hoang dại, hiểm trở. Và nỗi bật lên trên nền núi rừng miền Tây ấy là hình ảnh những người lính Tây Tiến vượt lên trên mọi khổ ải, gian lao, toả sáng ý chí anh hùng.

Với tám câu thơ chan chứa niềm thương nỗi nhớ da diết, Quang Dũng đã đưa người đọc trở lại một thời Tây Tiến với biết bao đồng đội mến thương của nhà thơ... Tất cả đã giúp Quang Dũng tái tạo và khắc họa hình ảnh oai hùng về người lính Tây Tiến. Với bút pháp tài hoa và giàu tình, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh những chiến binh Tây Tiến không chỉ mang vẻ dữ dội, mãnh liệt mà còn mang vẻ đẹp hào hoa, hào hùng thật bi tráng. Và Tây Tiến không chỉ phổ đúng hồn thơ Quang Dũng má còn sáng lên chất thẩm mĩ hiếm thấy.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 37

Nằm trong mảng đề tài viết về người lính Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp, ‘Tây Tiến” là bài thơ thành công khi xây dựng được hình ảnh người lính không chỉ mang phẩm chất chung của tất cả những người lính Việt Nam mà còn mang những nét riêng độc đáo. Điểm nối bật trong bài thơ là hình tượng người lính với vẻ đẹp bi tráng, được khai thác thông qua bút pháp lãng mạn. Vẻ đẹp này của hình tượng người lính tập trung nhất trong khổ thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 

Quân xanh màu lá dữ oai hùm 

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới 

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm 

Rải rác biên cương mồ viễn xứ 

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh 

Áo bào thay chiếu anh về đất 

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Bài thơ ra đời vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, khi Quang Dũng nhớ đến những người đồng đội cũ của mình trong binh đoàn Tây Tiến xưa. Đây là bài thơ viết về một binh đoàn mà phần lớn là thanh niên trí thức Hà Nội. Họ ra đi chiến đấu, mang trong mình nhiệt huyết hừng hực của tuổi hai mươi nhưng tâm hồn cũng chất chứa đầy nét hào hoa lãng mạn của một chàng trai Hà thành. Ở những khổ trước, người ta bắt gặp hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân vất vả nhưng vẫn đầy lãng mạn, mở rộng hồn mình ra để cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời, sửng sốt trước sự xuất hiện của một “bông hoa về trong đêm hơi”, say đắm trong bức tranh “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Và cũng chính họ thật tinh nghịch, dí dỏm khi phát hiện ra hình ảnh đầy sức gợi “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Người lính không được miêu tả trực tiếp (trừ hình ảnh “anh bạn dãi dầu không bước nữa”) mà chủ yếu hiện lên qua bức tranh thiên nhiên, trong nét vừa tương đồng vừa đối lập với thiên nhiên đó. Đến khố thơ này nhà thơ đã giành cả một đoạn thơ dài chỉ để nói về hình ảnh người chiến sĩ và sự hi sinh đầy bi tráng của họ. Người lính được miêu tả qua những hình ảnh thực, gợi cảm:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Hình ảnh miêu tả xuất phát từ hiện thực những khó khăn gian khổ mà người lính gặp phải. Đó là thời tiết khắc nghiệt, đói ăn, bệnh tật, sốt rét hoành hành khiến cho hình hài trở nên tiều tụy: “không mọc tóc”, “xanh màu lá”. Nói đến những gian khổ, vất vả nhưng giọng thơ Quang Dũng thật hào hùng. Ông gọi binh đoàn Tây Tiến là đoàn binh không mọc tóc. Cả một “đoàn binh” lại mang “oai” của hùm tạo cho người ta cảm giác ở đó dường như đang toát lên sức mạnh lớn lao không thế nào khuất phục được. Sức mạnh đó được bổ sung thêm bằng hình ảnh:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Hai hình ảnh, một thực tế, một lãng mạn được đặt cạnh nhau thậm chí còn là cầu nối cho nhau. Anh mắt trừng “gửi mộng qua biên giới” thế hiện cái uy phong lẫm liệt của họ. Ta tự hỏi tại sao lại là “mắt trừng gửi mộng” mà không phải là ánh mắt nào khác? Phải chăng khoảng cách là quá xa mà người chiến sĩ thì chỉ muốn rút ngắn nó lại trong chốc lát đế nhanh được trở về với Hà Nội thân thương? Cũng có thế, nhưng điều quan trọng là thông qua hình tượng ấy, người lính Tây Tiến hiện lên không chỉ anh dũng, hào hùng mà còn đầy chất uy nghiêm và đầy sức mạnh. Ba câu thơ đang miêu tả theo cấp độ có thể nói là tăng tiến về hình ảnh đầy ấn tượng của người lính chợt chùng lại bởi một “dáng kiều thơm” ở mảnh đất quê hương. Chi tiết này thế hiện sự tinh tế của Quang Dũng, nhà thơ miêu tả người lính trong những nét phi thường nhưng vẫn không quên đồng cảm với một giấc mơ bình thường nhất và cũng là lãng mạn nhất: giấc mơ về một dáng kiều thơm. Họ là những chàng trai mười chín, hai mươi tràn đầy nhựa sống, khát khao yêu và khát khao hạnh phúc. Họ có quyền mơ về một bóng hình giai nhân nào đó chứ! Nhiều hơn thế, hình ảnh người con gái còn gắn với mảnh đất Hà thành, nơi người lính đã sinh ra nên có lẽ giấc mơ ấy còn là giấc mơ về gia đình, về quê hương, mảnh đất nơi họ đã sinh ra và gắn bó. Sự thay đổi đột ngột của hình tượng thơ làm cho bài thơ thêm hấp dẫn đồng thời khẳng định nét lãng mạn trong tâm hồn những người lính trẻ. Người lính trẻ hiện lên trong đoạn trích anh hùng bất khuất trước gian khổ nhưng cũng ngang tàng và đầy nghịch ngợm. Thêm một nét để họ trở nên gần gũi, đáng yêu và đáng quí.

Trước đó chỉ bằng hình ảnh “gục lên súng mũ bỏ quên đời”, Quang Dũng đã khiến cho người đọc ngậm ngùi về sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Nhà thơ tránh không dùng đến từ hi sinh mà khắc họa người lính Tây Tiến ngã xuống nhưng vẫn trong tư thế bước tiếp khúc quân hành cùng đồng đội. Những câu thơ tiếp theo này lại một lần nữa nhắc đến hi sinh của những người lính trong binh đoàn Tây Tiến:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Bốn câu thơ trước hết dựng lên một thực tế trong cuộc chiến đấu. Người chiến sĩ ra đi là đã xác định trước được những gì mình sẽ phải trải qua:

“Làm cách mạng từ khi tôi biết 

Dấn thân vô là chịu tù đày 

Là gươm kề cổ, súng kề tai 

Là thân sống chỉ coi còn một nửa”

Chiến trường khốc liệt không thể mang lại cho người nằm xuống một nơi an nghỉ vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu. Ngã xuống, họ sẽ là một trong những “nấm mồ viễn xứ” trên biên cương, tiếp tục làm công việc ngày đêm canh giữ từng tấc đất thân thương. Không ai không xác định được điều ấy. Vậy mà họ vẫn ra đi, vẫn cống hiến:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Bởi nói như nhà thơ Thanh Thảo:

“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

Nhưng tuổi hai mươi làm sao không biết?

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi

Thì còn chi Tổ quốc”

Chính bởi xác định được lí tưởng sống cao đẹp ấy mà lớp thanh niên vẫn ngày đêm hát vang khúc quân hành, ra đi bảo vệ quê hương, đất nước. Rồi có những người ngã xuống “giản dị và bình tâm” nhưng cái chết của họ lại mang dáng dấp của một vị anh hùng sử thi. Hoàn cảnh chiến tranh thiếu thốn, người hi sinh không có lấy một mảnh chiếu trước khi đưa về với đất. Tấm áo ngày thường vương bụi trường chinh trở thành áo bào đưa các anh về với đất mẹ. Cuộc ra đi có sự chứng kiến và tiễn đưa của đất trời. Dòng sông Mã “gầm lên” khúc bi ca độc hành đầy đau đớn xót xa nhưng cũng thật hào hùng.

Khổ thơ sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ có ý nghĩa trong việc khắc họa hình tượng người lính. Hình ảnh thơ cụ thể, gần gũi như “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “mắt trừng”... kết hợp với sự đối lập, so sánh (quân xanh màu lá), sự chuyển đổi linh hoạt của cảm xúc:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Cùng biện pháp nhân hóa:

Sông Mã gầm lên khúc độc hành...

Làm cho người lính hiện lên chân thực, gần gũi: dữ dội, can trường nhưng cũng rất đa tình, hào hoa.

Có thể nói, hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong đoạn thơ mang vẻ đẹp bi tráng mà không hề bi lụy. Cái bi tráng được thế hiện ở những khó khăn, gian khố cũng như mất mát, hi sinh mà người lính phải trải qua nhưng tâm hồn và ý chí của con người thì luôn bất khuất, vượt qua và chiến thắng hoàn cảnh. Giữa cái khổ con người vẫn hiện lên thật đẹp. Trong cái chết nhưng vẫn thấm đẫm chất hùng. Nhắc đến đau thương, mất mát nhưng không làm nhụt chí mà chỉ góp phần thể hiện hình tượng người lính, tăng thêm vẻ đẹp hào hùng cho hình tượng đó. Chất bi tráng được kết hợp với cảm hứng lãng mạn và ngợi ca tạo nên hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến mang vẻ đẹp sử thi nhưng vẫn vô cùng gần gũi và thân thuộc.

Đoạn thơ đã thể hiện trọn vẹn hình tượng người lính trong bài thơ, góp phần vào sự thể hiện chủ đề chung của tác phẩm. Hình tượng người lính hiện lên mang vẻ đẹp bi tráng trong cảm hứng lãng mạn và ngợi ca hào sảng. Thành công của đoạn thơ và cả bài thơ đã diễn tả cảm động tình cảm của Quang Dũng dành cho những người đồng đội của mình ở binh đoàn cũ: Binh đoàn Tây Tiến.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 38

Đã bao mùa thu đi qua kể từ mùa thu cách mạng tháng Tám thành công cho đên bây giờ đã hơn sáu mươi năm. Sáu mươi năm đã trôi qua với bao thăng trầm của lịch sử,có những người lính may mắn trở về với cuộc sống trở về với gia đình mảnh đất thân yêu của mình. Cũng có những người đã vĩnh viễn ra đi. Họ đã trrở về với đất mẹ thân yêu. Họ đã hoá thân vào non sông đất nước Việt Nam này, cùng đất mẹ sinh tồn mãi mãi. đối với Quang Dũng cũng vậy, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên qua trang văn của nhà thơ mang đậm chất bi tráng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, bởi lẽ một điều rằng Quang Dũng có trong trang văn đó, là một trong những người lính may mắn trở về với đất mẹ vì thế ông mới có thể viết lên trang thơ sâu đậm đến thế

và một trong những đoạn thơ hay nhất của bài là:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành."

Mở đầu đoạn thơ ông viết:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

trên nền thiên nhiên hoành tráng ấy nổi bật bức tượng đài nghệ thuật bất tử với vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng của đoàn quân Tây Tiến.Những hình ảnh "không mọc tóc, quân xanh màu lá" được nhìn qua cái nhìn đầy thiện cảm và lãng mạn là kết quả của những tháng ngày phải đối mặt với đói rét bệnh tật và hiểm nguy vì thế người lính trở nên xơ xác tiều tuỵ da xanh như lá. Ở giữa cái "non thiêng nước độc ấy" dù không chết bởi chiến tranh cũng chết bởi bênh tật và đói rét dường như lúc này cái thiếu thốn về vật chất mới làm các anh như thế. Đấy không pahỉ là đoàn binh của những người lính Tây Tiến không mọc tócmà đây là hiện thân khắc nghiệt của chiến tranh. Dù hiện lên có xơ xác, tiều tuỵ nhưng các anh vẫn hiện lên với vẻ kiêu hùng dữ dội khiến kẻ thù phải khiếp sợ và hơn như thế nữa các anh đã chiến thắng được sự ghê gớm của núi rừng Tây Bắc. Dường như hai câu thơ xuất hiện chất bi mà ta chẳng hề thấy chất bi chút nào mà cái hùng cái lãng mạn đã lấn át cái bi.

"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Rét run người vầng trán đẫm mồ hôi"

đối với Chính Hữu thì cái rét làm cho các anh run người trán ướt đẫm mồ hôi còn với Quang Dũng thì "không mọc tóc, quân xanh màu lá" dường như hai nhà thơ bắt gặp nhau trong hoàn cảnh ấy, cùng chung cảnh ngộ, cùng chung số phận cái ghê gớm của chiến tranh, nhưng không hề bị luỵ.

Dù có đau thương đến đâu nhưng người lính Tây Tiến vẫn không nguôi nhớ về quê nhà nhớ về Hà Nội dáng kiều thơm:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Với nghệ thuật điêu luyện "mắt trừng" gửi mộng ở nơi đây các anh nhớ về quê nhà với biết bao tình cảm. ở mảnh đất Hà Thành phồn hoa ấy có thấp thoáng bóng hình gia đình, có bóng dáng cha mẹ và đặc biệt hơn có bóng dáng của những người mà các anh yêu thương. Như vậy dú ở xa nhưng các anh vẫn không nguôi nhớ về quê nhà với một tình yêu sâu lặng thầm kín nhất.

Đã từng có thời người ta căn cứ vào hai câu thơ này mà để gạt bỏ cả bài thơ gạt bỏ nhà thơ Quang Dũng để nó mãi mãi vùi sâu trong quá khứ, vào quên lãng, để không ai còn biết bài thơ nhà thơ nữa. Bởi người ta cho rằng hai câu thơ này là mộng rớt làm mất đi vẻ đẹp, sự hùng hồn của bài thơ, khi ra chiến trường không được bị luỵ không được tưởng nhớ đến quê nhà phải dốc toàn tâm, toàn lực cho sự đấu tranh dành độc lập cho dân tộc. Nhà thơ Nguyễn đình Thi từng viết:

"Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy"

Người lính của Nguyễn Đình Thi ra đi không mang một chút vương vấn bụi trần nào, dẫu biết rằng ra đi có thể một đi không trở lại nhưng vẫn hiên ngângnh dũng không bao giờ từ bỏ ý chí của mình. Bởi nếu ngoảnh lại sẽ chẳng bao giờ đi được. Còn với người lính của quang Dũng họ ra đi chiến trường vẫn mang một tình yêu quê hương đất nước một thứ tình yêu mãnh liệt nhất. Biết đâu đấy nó lại là nơi tiếp thêm ý chí, sức mạnh cho những người lính kia thì sao, và làm cho họ bớt đi cái nỗi nhớ quê nhà".

Người ta thường nói cái gì vĩnh cửu thì sẽ vĩnh cửu mãi mãi, cái gì sự thật thì mãi mãi là sự thật, cái gì xứng đáng thì sẽ mãi mãi xứng đáng, và quả thật thời gian đã trả lại vị trí cho bài thơ, cho nhà thơ, cho những người yêu thích bài thơ Tây Tiến.

Ra đi là thế, chiến đấu là thế họ biết rằng khi mình ra đi sẽ có ngày một đi không trở lại nhưng họ vẫn ra đi chiến đấu hết mình cho sự độc lập của dân tộc bởi thế cho nên ta mới bắt gặp những hình ảnh

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh"

Đọc câu thơ ta thấy thấp thoáng bóng hình của thơ cổ với những con người quyết gạt tình riêng ra đi vì nghĩa lớn yêu đời nhưng rất yêu nước vì dù có hi sinh nhưng vẫn phải hi sinh một cách anh hùng "sống đánh giặc , chết cũng đánh giặc" Nguyễn Đình Chiểu-văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc"

Lí tưởng cách mạng đã truyền cho người lính và cả chất ngang tàng đôi khi pha sắc màu anh hùng hảo hán thời xưa"coi cái chết nhẹ tựa lông hồng" ra đi không vướng thê nhi, không tiếc đời xanh. Dù ta biết có chiến thắng nào mà khồn phải trả giá bằng máu và nước mắt.

"Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Cả bài thơ ta không hề thấy Quang Dũng nói về trận đánh nào. Vậy mà ở đây ta lại bắt gặp sự hi sinh của những người lính. Sự hi sinh ấy đầy ngang tàng và anh dũng, các anh hi sinh bằng những chiếc áo màu xanh chính các anh đang mặc hàng ngày. Hiện thực đau lòng đến nỗi " con sông Mã phải gầm lên tiếng khóc đau thương tiễn đưa các anh .

"Ở đây không manh ván

Chôn anh bằng tấm chăn"

(Viếng anh - Hoàng Lộc)

Cảm hứng lãng mạn như bao trùm hào quang lên cái chết của người lính Tây Tiến. Tác giả đã sử dụng biện pháp nói giảm làm vơi đi nỗi đau từ đó vĩnh viễn hoá sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Cái chết là sự trở về với đất mẹ vĩnh hằng nơi mà các anh đã sinh ra mà thôi. Các anh đã làm nên dáng đứng Việt Nam của một đất nước kiên cường bất khuất:

"Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta"

Dù biết ra đi sẽ có ngày một đi không trở lại nhưng họ vẫn đi theo tiếng gọi của tổ quốc vì nền độc lập của dân tộc. Và họ tin rằng ngày mai đây thôi nước nhà sẽ độc lập, sẽ tự do.

Các anh ra đi và đã hoá vào non sông đất nước Việt Nam này"

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn"

(Tiếng hát con tàu- Chế Lan Viên)

Sáu mươi mùa xuân đã đi qua kể từ ngày bài thơ Tây Tiến ra đời vượt qua sức cản phá của thời gian những người lính Tây Tiến vẫn còn dư âm của một thì chiến đấu kiên cườnh anh dũng bất khuất của dân tộc ta. Nhà thơ Quang Dũng đã dựng lên bức tượng đài nghệ thuật bất tử bằng ngôn từ về người lính vô danh mà ông đã dựng lên bằng cả tâm hồn mình, sự ra đi chiến đấu và ngã xuống" .Những người lính mãi mãi sống trong lòng của mọi người dân đất Việt hôm qua hôm nay và mai sau. Và đặc biệt hơn các anh là tấm gương để những lớp thanh niên Việt Nam ngày nay phấn đâú tu dưỡng bản thân:

"Đâu cần thanh niên có

Đâu khó có thanh niên

Lớp cha trước, lớp con sau

Đã thành đồng chí, chung quân anh hùng"

                                                 Tố Hữu.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 39

Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp, với hồn thơ hào hoa, lãng mạn thấm đượm tình đồng bào đồng chí. Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được tác giả viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.

Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, thơ của ông song hành cùng những chặng đường của cách mạng Việt Nam. Bài thơ Việt Bắc là một thành công đặc biệt trong đời thơ Tố Hữu. Tác phẩm vừa là bản tình ca về tình cảm cách mạng – giữa đoàn cán bộ miền xuôi với nhân dân Việt Bắc, vừa là bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ mà vẻ vang của dân tộc.

Hai đoạn trích được trích từ hai bài thơ đều tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận, song mỗi nhà thơ lại có những cách khám phá, cách thể hiện riêng.

Cái bi thương của người lính được gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính.

Hình ảnh đoàn binh không mọc tóc không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà nét vẽ này xuất phát từ một hiện thực trong cuộc sống của người lính Tây Tiến: họ phải cạo trọc đầu để giảm bớt những bất tiện trong sinh hoạt ở rừng và để tạo thuận lợi trong đánh trận; có khi những cái đầu không mọc tóc kia là hậu quả của những trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc.

Và dù hiểu theo cách nào thì đó cũng là hình ảnh gợi lên sự gian khổ thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến tranh. Tuy nhiên với cách diễn đạt độc đáo của Quang Dũng, người lính Tây Tiến hiện lên không tiều tụy, nhếch nhác mà kiêu dũng, ngang tàng. Nói về họ, Quang Dũng vẫn dùng từ đoàn binh – gợi cảm giác về một đội ngũ đông đảo, hừng hực khí thế.

Hình ảnh quân xanh màu lá ở đây có thể hiểu là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cho cả đoàn quân xanh màu lá. Nhưng theo mạch thơ có lẽ còn nên hiểu đây là câu thơ miêu tả gương mặt xanh xao, gầy yếu vì sốt rét rừng, vì cuộc sống kham khổ. Ở đây, cách diễn đạt của của Quang Dũng khá tinh tế khi miêu tả đoàn quân xanh màu lá chứ không phải xanh xao, người lính do đó mà như hài hòa cùng với thiên nhiên, ốm mà không yếu, ốm mà vẫn trẻ trung, vẫn tràn đầy sức sống.

Đối lập vẻ ngoài tiều tụy là khí phách bên trong, kết hợp từ dữ oai hùm gợi cho người đọc thấy trên gương mặt xanh xao, gầy ốm của người lính vẫn toát lên vẻ dữ dội, kiêu hùng của những con hổ nơi rừng thiêng. Dường như, ở miền đất hoang sơ, bí ẩn có bóng hổ rình rập, đe dọa với cọp trêu người thì người lính cũng có oai hùm dữ dội, uy nghi để chế ngự và chiến thắng.

Những cơn sốt rét rừng ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Thơ ca thời kỳ kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

(Đồng chí – Chính Hữu)

Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế.

(Cá nước – Tố Hữu).

Sau này một nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mỹ cũng viết về căn bệnh sốt rét rừng của những người lính bằng những vần thơ tê tái:

Nơi thuốc súng trộn vào áo trận

Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân.

Họ còn là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới là đôi mắt thao thức về quê hương Hà Nội, về một dáng kiều thơm trong mộng. Mộng và mơ gửi về hai phía của chân trời: biên giới và Hà Nội. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa… hay chính xác hơn là nhớ về bóng dáng của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ. Câu thơ của Quang Dũng gợi nhắc người đọc tới một câu thơ của Nguyền Đình Thi:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Nỗi nhớ người yêu nhớ dáng kiều thơm nào đó thật đời thường, bình dị nhưng cũng thật cao quý. Nó khiến cho hình ảnh người lính trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi nhớ ấy trong hành trang của họ như tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu và chiến thắng, nó như một điểm tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh Hà Nội rời ghế nhà trường tham gia chiến trận – những con người lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa.

Trong chặng đường hành quân gian khổ, thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ thử thách ý chí nghị lực của người lính. Cùng hoạt động trên địa bàn rừng núi Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu gắn bó mật thiết với thiên nhiên núi rừng nơi đây, nhưng mỗi người lính lại mang cảm hứng khác nhau tạo nên nét đẹp rất riêng, rất độc đáo trong Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu.

Tác giả Quang Dũng và Tố Hữu đều nêu lên cái nhìn khái quát chung cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. , ta thấy rằng những đoàn quân trong thời kì kháng chiến chống Pháp đều được tái hiện bởi vẻ đẹp hào hùng, bởi lý tưởng cao đẹp và ý chí kiên cường bất khuất trong cái gian nan, hiểm nguy, thiếu thốn nơi chiến trường. Cả hai đoạn thơ đều mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn khi tái hiện không khí kháng chiến sục sôi trên các ngả đường đồng thời thể hiện niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến.

Đây là một cuộc chiến tranh sáng ngời chính nghĩa hợp với ý trời lòng dân. Cho nên lực lượng của ta ngày càng trưởng thành lớn mạnh không ngừng. Từ một đội quân trên dưới ba mươi người xuất phát từ cây đa Tân Trào hôm nào, dưới sự chi huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, hôm nay chúng ta đã có một đội quân hùng mạnh liên tiếp gặt hái được những chiến công chói lọi: Thu Đông, Sông Lô, Biên Giới…

Giờ đây, chúng ta đang chuẩn bị tổng phản công bằng một chiến dịch lịch sử. Chúng ta hoàn toàn làm chủ chiến trường Việt Bắc cả về thế lẫn lực. Cho nên đoàn quân ra trận hôm nay xuất phát từ mọi ngả đường Việt Bắc như những gọng kìm nhằm bao vây quân giặc đang co cụm ở những cứ điểm cuối cùng:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Câu thơ thứ hai mở ra một bối cảnh khác, đó là ngày kháng chiến chống Pháp, máy bay địch chủ yếu hoạt động ban ngày. Do đó ta phải hành quân đêm xưa là rừng núi là đêm (Tố Hữu). Trên các nẻo đường Việt Bắc đêm nối đêm cứ rầm rập tiến quân ra trận. Từ láy rầm rập là một từ tượng thanh rất gợi cảm. Nó diễn tả bước chân đi đầy khí thế hăng say và sức mạnh áp đảo của một tập thể người đông đúc có đội ngũ chỉnh tề. Với từ rầm rập đặc sắc ấy, cuộc ra trận của quân ta bỗng trở thành một cuộc hành quân diễu binh hùng tráng:

Xuân hãy xem cuộc diễn binh hùng vĩ

Ba mươi mốt triệu nhân dân

Tất cả hành quân

Tất cả thành chiến sĩ.

Vì thế mà bước chân của đoàn quân ấy đêm đêm như làm rung chuyển cả mặt đất. Hình ảnh thơ mang đậm mầu sắc hùng tráng. Từ cái nhìn chung ở câu một và hai đến đây, tác giả đi vào cái nhìn cụ thể. Nếu câu trên, tác giả tả khí thế ra trận của quân ta qua ấn tượng thính giác, thì các câu sau, tác giả tả bằng thị giác: Quân đi điệp điệp trùng trùng. Từ láy điệp điệp trùng trùng thật giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gọi lên trong ta những đoàn quân ra trận nối dài vô tận và rất hùng vĩ như những dãy núi kế tiếp nhau vậy. Sau này nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã viết:

Từ nơi em gửi tới nơi anh

Những đoàn quân trùng trùng ra trận

Như tình yêu nối trời vô tận

Ở đây ta lại bắt gặp một hình ảnh thơ được viết với bút pháp cường điệu mang đậm màu sắc anh hùng ca. Vì vậy sức mạnh khí thế của đoàn quân ra trận đã được nâng ngang tầm với sức mạnh của thiên nhiên sông núi. Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Câu thơ vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa khái quát tượng trưng sâu xa. Trước hết nó diễn tả đoàn quân đi trong đêm, đầu súng lấp lánh ánh sao trời. Nhưng đó cũng là lấp lánh ánh sao lý tưởng.

Hình ảnh tươi sáng ấy kết hợp với hình ảnh chiếc mũ nan giản dị trang bị còn thiếu thốn của anh bộ đội, tạo cho anh một vẻ đẹp bình dị mà  cao cả, bình thường mà vĩ đại. Nhà thơ Chính Hữu cùng đã có câu thơ rất hay Đầu súng trăng treo.

Hai câu thơ cuối cùng của đoạn thơ cho ta thấy khí thế khẩn trương của cuộc kháng chiến:

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

Tiếp theo đoàn dân công là những đoàn xe chở vũ khí đạn dược ra chiến trường. Xe nối đuôi nhau, đèn pha bật sáng trưng như ánh sáng ban ngày. Chi bằng một hình ảnh ấy, Tố Hữu đã diễn tả được cái đông đảo hùng mạnh của lực lượng cơ giới quân ta. Hai câu thơ có hai hình ảnh đối lập: Nghìn đêm thăm thẳm sương dày với Đèn pha bật sáng như ngày mai lên đã làm nổi rõ được sự trưởng thành vượt bậc của quân ta và niềm tin tất thắng của những người ra trận. Nếu ở đoạn thơ trước, chúng ta phải mai phục, nương náu nơi rừng sâu, núi thẳm hàng ngàn đêm tăm tối gian khổ thăm thẳm sương dày để có giờ phút bừng sáng quật khởi đầy niềm tin chói lọi này.

Tuy nhiên, hai đoạn thơ còn thể hiện những nét riêng biệt trong phong cách sáng tác của hai tác giả. Quang Dũng không hề né tránh những hiện thực khó khăn thiếu thốn của người lính phải trải qua. Không chỉ miêu tả vẻ ngoài mang đậm tráng trí của người lính thời xưa Quang Dũng còn tập trung khắc họa vẻ đẹp tâm hồn bên trong tiềm ẩn nhiều nét mộng mơ hào hoa rất Tây Tiến.

Người lính hào hoa, phóng khoáng, được tái hiện trong khung cảnh khắc nghiệt của thiên nhiên Tây Bắc, trong đói khổ, thiếu thốn và căn bệnh sốt rét hoành hành mà vẫn hiên ngang, bất khuẩt. Trong khi đó, Tố Hữu chủ yếu ngợi ca sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, hình ảnh người lính hiện ra giản dị, nhưng dũng cảm, hiện ra trong đoàn quân đông đảo, hào hùng.

Nếu Quang Dũng dùng thể thơ thất ngôn với nhiều từ ngữ Hán – Việt: đoàn binh, biên giới, kiều thơm… tạo nên không khí hùng tráng phảng phất không khí thời xưa, giọng thơ cổ điển mà hiện đại. Còn Tố Hữu sử dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát truyền thống, bằng những từ láy tượng thanh, gợi cảm, ngôn ngữ sử thi hùng tráng, giọng thơ sôi nổi hào hùng, Tố Hữu đã tái hiện bức tranh tổng kết về không khí sôi động, hào hùng, lớn mạnh của quân và dân ta trong kháng chiến chống Pháp.

Có những nét khác biệt ấy là do hoàn cảnh sáng tác và phong cách nghệ thuật khác nhau của hai tác giả. Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Hồn thơ ông mang nét phóng khoáng, tài hoa, lãng mạn. Còn Tố Hữu viết Việt Bắc trong thời kì thắng lợi, giải phóng miền Bắc, lịch sử bước sang trang mới, nên thơ ông có phần lạc quan và có niềm tin hơn. Bên cạnh đó, thơ Tố Hữu mang phong cách trữ tình chính trị, do đó, ông thiên về ngợi ca lòng tin với cách mạng, với chiến thắng dân tộc.

Cả hai tác giả đều có trải nghiệm từ thực tế chiến đấu nên thơ đều có chất hiện thực để khắc họa hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp. Đó là sự bước tiếp nối với hình tượng sĩ phu yêu nước trong quá khứ, và là hình tượng mở đầu cho hình tượng chiến sĩ giải phóng quân kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này. Đó là những tượng đài bất hủ của lòng yêu nước và tự hào dân tộc của nhân dân ta. Từ hình tượng người lính có thể khắc họa lên một đất nước với nhiều đau thương mà anh dũng:

Nước Việt Nam từ trong máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

( Đất nước – Nguyễn Đình Thi )

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 40

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Tây Tiến là nét son đẹp nhất, tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ người nghệ sĩ ấy. Bài thơ là bức tranh vẽ lên từ những gam màu nỗi nhớ, là bức tranh hiện thực dữ dội, bi tráng mà không mất đi vẻ lãng mạn nên thơ về thiên nhiên Tây Bắc, là bức chân dung về người lính, đời lính trong những ngày chống Pháp đầu tiên. Tây Tiến còn là lời hẹn ước đi lên giành độc lập của những chàng trai trẻ quyết ra đi vì đồng bào, xứ sở. Nếu ở những khổ thơ đầu tiên, bức tranh về thiên nhiên, nỗi nhớ được tái hện rõ nét, sinh động thì ở những lời thơ sau đây, bức tranh chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa hiện ra đẹp vô cùng.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

                             Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

                             Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

                             Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

                             Áo bào thay chiếu anh về đất

                             Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Trước hết, nhắc về Tây Tiến là nói tới đơn vị bộ đội được thành lập vào năm 1947 – những tháng ngày đầu chống Pháp của dân tộc ta – hoạt động dọc biên giới Việt – Lào, nơi núi rừng Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ. Tham gia vào đoàn quân ấy phần đông là sinh viên, học sinh đến từ thủ đô Hà Nội, và là cả Quang Dũng – người đại đội trưởng sát cánh, gắn bó cùng đoàn quân. Chính vì gắn bó, chính vì ngày đêm cùng bên nhau, cùng sinh hoạt, cùng chiến đấu mà Quang Dũng rất thấu hiểu về con người và cuộc đời người lính nơi ấy. Để rồi khi phải rời đến đơn vị khác, ông rất nhớ, rất nhớ. Nhớ về một “đoàn binh không mọc tóc” lừng lẫy một thời.

Trong nỗi nhớ của mình, bức chân dung người lính được Quang Dũng họa lên với nét bút tả thực trần trụi, gân guốc:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Hai tiếng Tây Tiến vang lên mở đầu ý thơ như một lời nhắc nhớ đích đến của nỗi nhớ trong lòng là Tây Tiến, đồng thời cũng ấn chứa niềm tự hào, kiêu hãnh tha thiết. Cụm từ không mọc tóc đã nói lên sự thật bi thương về một thời kì kháng chiến đầy gian truân, vất vả. Những người lính của ta phải sống và chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn đủ bề. Họ trải qua cái đói, cái rét lạnh cắt thịt cắt da của nơi rừng thiêng nước độc hoang sơ, khắc nghiệt. Họ phải chịu đựng cả sự đau đớn về cả thể xác và tinh thần từ những con sốt rét rừng, bệnh tật. Cụm từ quân xanh màu lá cũng nhấn mạnh sự trần trụi của hiện thực ấy khi nhà thơ nói về màu xanh áo lính hay chính là nói về cái xanh xao vàng vọt của nước da các anh. Trong hoàn cảnh khó khăn, vất vả cơm chẳng ăn no, thuốc chia nhau từng chút, những cơn sốt rét nghiệt ngã này đã cướp đi bao sinh mệnh của những người lính nơi đây. Đó là một sự thật trong hiện thực tàn khốc của chiến tranh, và nó không chỉ xuất hiện trong thơ Quang Dũng mà còn từng được Chính Hữu và Tố Hữu nói đến:

              Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh

              Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

                      (Đồng Chí – Chính Hữu)

               Giọt giọt mồ hôi rơi

              Trên má anh vàng nghệ

              Anh vệ quốc quân ơi

              Sao mà yêu anh thế!

                     (Cá nước – Tố Hữu)

    Thế nhưng, chính cái khó khăn của hoàn cảnh, chính sự tác động của ngoại cảnh ấy càng khiến vẻ đẹp của người lính thêm sáng ngời. Họ là đoàn binh ốm nhưng không yếu. Họ đem theo sức mạnh của cả một binh đoàn mà vững vàng tiến bước. Thay vì một cách nói bình thường, Quang Dũng sử dụng cách diễn đạt không mọc tóc vừa mang ý nghĩa phủ định vừa mang hàm nghĩa khẳng định song hành - vừa nói tới việc tóc không thể mọc do bệnh tật vừa như thể hiện sự chủ động của các anh khi lựa chọn dáng vẻ bên ngoài ấy của mình. Cách đảo trật tự từ như vậy đã truyền tải được chất lính ngang tàn, kiêu hùng, coi thường gian khổ của người lính Tây Tiến. Nhà thơ cũng chọn hình ảnh dữ oai hùm, với “hùm”- chúa tể rừng xanh - để nói về người lính Tây Tiến. Bệnh tật là thế, thiếu thốn là thế nhưng các anh vẫn giữ được thế chủ động, vẻ oai phong lẫm liệt mà tiến bước hành quân, bảo vệ núi non, nước nhà, dân tộc. Sự đối lập trong cách miêu tả của nhà thơ Quang Dũng đã rất thành công làm sáng bừng lên vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến, đồng thời làm cho cái “bi” của hiện thực lan tỏa ra rõ nét cả trước mắt, cả trong lòng người đọc.

    Không dừng lại ở đó, Quang Dũng cũng họa lên một bức tranh về người lính với khát vọng chiến đấu, lí tưởng cống hiến cao đẹp:

                        Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

    Mắt trừng là cách nói cực tả khắc họa ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng, khát vọng gửi trong mộng chiến trường cao đẹp của những người trai thời loạn. Gói ghém những khát vọng ấy gửi vào cái mắt trừng như gửi về tương lai tươi đẹp hơn, một tương lai sạch bóng quân thù các anh sẽ trở về. Tại đây, cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng đan xen với nét bút tả thực quen thuộc đã tạo nên bức tranh hài hòa mang theo giấc mộng, ý chí, lí tưởng cao đẹp của người lính. Ngay trong tiềm thức, các anh biết mình là ai và biết rất rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình với quê hương dân tộc.

    Những người lính Tây Tiến, những chàng trai đất Hà thành, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc để chiến đấu và hiến dâng, hành trang họ mang thep không chỉ là vẻ ngoài gân guốc, oai hùm mà còn là một tâm hồn lãng mạn, sự trẻ trung và nhiệt huyết. Rời xa quê nhà để đến với một miền Tây Bắc xa xôi đầy bí ẩn, lạ lẫm, hiểm nguy, họ nhớ, một nỗi nhớ lãng mạn dịu dàng:

                        Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

    Câu thơ là sự lắng dịu của tâm hồn, là phút giây người lính Tây Tiến nhớ về Hà Nội bên cạnh cái gian khổ của lội suối băng rừng. Bên cạnh tinh thần sục sôi chiến đấu vẫn có một khoảng trời của tâm tư, của cõi mộng. Khác với những người lính có xuất thân từ nơi nước mặn, đồng chua trong thơ Chính Hữu, người lính Tây Tiến trong vần thơ Quang Dũng là những học sinh, sinh viên thủ đô, ra đi với tất cả tuổi trẻ, nhiệt huyết của thanh xuân nên các anh nhớ về Hà Nội, nhớ về dáng kiều thơm. Mơ Hà Nội là nỗi nhớ gửi về mảnh đất đã tiễn bước các anh lên đường, cũng là phần tâm hồn thẳm sâu, là nhịp đập trái tim. Vì nơi ấy, các anh ra đi và đó cũng là nơi chào đón, mong đợi bước chân chiến thắng của các anh trở về. Ở nơi ấy còn có hình bóng của những thiếu nữ đất Hà Thành, những dáng kiều thơm. Lời thơ mênh mang nỗi nhớ về một Hà Nội thanh lịch và hào hoa với những bóng hình giai nhân thướt tha, yêu kiều. Quang Dũng khắc họa nỗi nhớ ấy của các anh chân thật, nhẹ nhàng. Như vậy, những người lính vừa có một tinh thần thép, một ý chí kiên cường vừa có một trái tim dạt dào cảm xúc. Những anh lính Tây Tiến ra đi mang theo phong thái hào hoa của người trí thức, họ đến Tây Tiến với cả trách nhiệm công dân và bằng cả hành trang sách vở. Cho nên giấc mơ, mộng ước của họ vẫn thơm mùi sách vở học trò, dịu dàng, lãng mạn.

    Không chỉ là hào hùng và hào hoa, hình tượng người lính trong Tây Tiến cũng phảng phất bóng dáng của những anh hùng chinh phu, tráng sĩ của văn học thủa trước. Tuy nhiên, đặc biệt hơn, ở họ còn lấp lánh nét hào hoa lãng mạn, lung linh vẻ đẹp phi tráng thấm đẫm chất anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Trong hai câu thơ, những từ Hán Việt biên cương, viễn xứ gợi lên một không gian xa xôi, đó là vùng biên giới nước nhà, là con đường hành quân mà người lính đang từng ngày trải qua. Những từ Hán - Việt ấy tạo nên không khí trang trọng để nói về sự hi sinh của các anh. Từ tượng hình rải rác gợi sự thưa thớt, ít ỏi, được đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh cái chết đau thương của người lính. Câu thơ tuy nói về sự hi sinh, mất mát nhưng lại chẳng hề bi lụy mà vẫn ngời lên vẻ tráng lệ, mang dáng dấp của tráng sĩ thời xưa trong văn học cổ.

Khi miêu tả về người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không nhấn chìm người đọc vào sự đau thương, bi lụy. Đôi cánh của lí tưởng, đôi cánh của sự lãng mạn đã nâng đỡ. Chính vì vậy, những nấm mồ nằm rải rác nơi rừng hoang, biên giới xa xôi kia như phần nào được dịu vợi đi nỗi đau trước ánh sáng rực rỡ, bỏng cháy của lí tưởng quên mình vì tổ quốc của các anh. Những người lính ấy đối mặt với mồ viễn xứ nhưng sự hi sinh mất mát đó không thể ngăn được ý chí các anh. Dẫu rằng họ biết sẽ hi si, sẽ gian khổ trăm bề nhưng vẫn cứ ra đi, ra đi để đổi lấy độc lập dân tộc, để dành lại hạnh phúc cho quê hương, cho hậu phương thương mến: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Câu thơ vang lên một triết lí sống của tuổi trẻ, giọng thơ mạnh mẽ, dứt khoát, vừa phảng phất chí khí người anh hùng tráng sĩ thủa xưa vừa thể hiện lí tưởng cao đẹp của thời đại Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Những người lính Tây Tiến với tư thế chủ động luôn sẵn sàng ra đi mà không hề do dự, tính toan. Họ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, vì độc lập tự do dan tộc, học chẳng tiếc đời xanh.

Nếu như trong thơ xưa thường mượn hình ảnh mái đầu xanh để nói về tuổi trẻ thì Quang Dũng lại sáng tạo ra hình ảnh đời xanh để lại ấn tượng lớn trong lòng người đọc. Hình ảnh ấy tượng trưng cho tuổi trẻ, tuổi thanh xuân quý giá trong đời người. Đó là những năm tháng đẹp đẽ nhất của mỗi đời người với biết bao hoài bão, dự định cho tương lai. Tố Hữu cũng từng viết:

Hai mươi tuổi, tim đang dào dạt máu

Hai mươi tuổi, hồn quay trong gió bão

Gân đang săn và thớ thịt căng da

Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa!       

Vậy mà người lính ra đi không hề băn khoăn hay do dự đắn đo. Nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng cách nói phủ định chẳng tiếc để khẳng định dứt khoát, quyết liệt tinh thần sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc thân yêu của các anh. Thái độ của người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp, họ coi độc lập tự do của Tổ quốc lớn hơn cả sinh mạng bản thân mình. Quả thực Không gì quý hơn độc lập tự do, không gì cao quý hơn tình yêu Tổ quốc. Điều này khiến ta gợi nhớ về hình ảnh những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa:

Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình

Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc sức ra tay bộ hổ

Câu thơ cũng gợi ta nhớ đến những âm vang hào sảng của một thời. Đó là lí tưởng sống đẹp của tuổi trẻ, sẵn sàng hiến dâng tất cả cho quê hương, đất nước:

Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc

                                                                (Thanh Thảo)

Những người lính Tây Tiến ra đi với nguyện ước xả thân vì Tổ Quốc, họ coi nhẹ cái chết, hi sinh. Vì thế, người lính Tây Tiến không chỉ hào hùng trong tư thế chiến đấu mà ngay cả khi ngã xuống, họ cũng là ngã xuống trong tư thế hào hùng, vinh quang.

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Nếu người lính khi xưa ra trận có da ngựa bọc thấy, chiếc áo bào ôm xác lúc hi sinh thì ở đây, người lính Tây Tiến với cuộc sống vốn thiếu thốn đủ bề. Vậy nên khi nằm xuống, có khi họ không có lấy cả tấm chiếu bọc thân. Đồng đội đành đưa họ về đất mẹ với tấm áo lính đã bạc màu sương gió, chiếc áo đã từng thấm đẫm mồ hôi và giờ đây thấm đẫm cả máu các anh và nước mắt đồng đội. Đây là sự bi thương của người lính Tây Tiến nói riêng, người lính trong kháng chiến hống Pháp nói chung. Viết về sự ra đi ấy cũng đã có nhiều câu thơ đau lfng, xót xa:

Ở đây không gỗ ván

Niệm anh bằng tấm chăn

Của đồng bào Cửa Ngăn

Tặng tôi ngày phân tán

        (Viếng bạn – Hoàng Lộc)

Thế nhưng, qua ngòi bút của Quang Dũng, nó đã trở thành tấm chiến bào sang trọng, bọc lấy thi thể người đã khuất. Điều đó gợi lên sắc thái cổ kính, sang trọng trước sự hi sinh, đồng thời làm nhẹ đi sự đau thương của hiện thực tàn nhẫn.

Bằng cách nói giảm nói tránh anh về đất, nhà thơ như xoa dịu nỗi đau thương, mất mát trước sự ra đi của các anh, đồng thời cũng khẳng định sự bất tử của người lính đã hi sinh. Linh hồn họ được về với đất mẹ và trường tồn mãi với núi sông. Đất mẹ mở rộng vòng tay đón lấy anh khi anh hoàn thành trọn vẹn nghĩa vụ với núi sông, bờ cõi nước nhà. Đó không còn đơn thuần là cái chết mà nó trở thành sự hóa thân vào đất nước của các anh. Tinh thần tự nguyện hiến dâng tuổi xuân cho Tổ quốc, sự hi sinh thầm lặng nhưng vĩ đại đã làm nên chất sử thi hùng tráng cho thi phẩm và dựng lên một tượng đài bất tử về người chiến sĩ.

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt dặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước

     (Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm)        

Trên hành trình vào cõi bất tử, bên những người lính ấy có dòng sông Mã mang nặng nghĩa tình, tấu lên khúc nhạc bi hùng đưa tiễn họ:

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Sự mất mát, hi sinh đó không chỉ để lại sự tiếc thương cho những con người còn sống mà còn như khiến cho cả thiên nhiên đất trời muôn phần xót xa. Câu thơ như mang linh hồn của núi rừng Tây Bắc để tiễn biệt các anh. Dòng sông Mã ấy gắn bó, kề bên từ khi các anh hành quân cho đến khi các anh chiến đấu và ngã xuống, dòng sông ấy đã chứng kiến tất cả vui buồn, kỉ niệm thân thương, để rồi giờ đây nó như tấu lên mãi khúc nhạc trầm, hùng để tiễn đưa linh hồn các anh về cõi vĩnh hằng bất tử, về với đất mẹ nghĩa tình. Khúc gầm ấy như chứa đựng nỗi xót xa của cả những người đồng đội, những người ở hậu phương và là cả sự đau thương, mất mát của núi rừng, Tổ quốc.

Khổ thơ khép lại, người lính Tây Tiến ra đi trong dư vang gầm thét của dòng sông Mã, tiếng gầm thét ấy sẽ mãi ngân vang thấm sâu vào lòng của người đọc. Như vậy, với bút pháp lãng mạn và hiện thực đan xen nhuần nhuyễn, linh hoạt, hài hòa cùng thể thơ bảy chữ, ngôn ngữ tài hoa giàu liên tưởng…, Quang Dũng đã xây dựng thành công một tượng đài bất tử bằng thơ về hình tượng người lính Tây Tiến nói riêng và người lính trong kháng chiến chống Pháp nói chung. Những người lính ấy hiện lên với vẻ đẹp vừa hào hùng, vừa hào hoa, vừa lãng mạn vừa bi tráng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, để rồi đã qua gần bảy thập kỉ mà bài thơ vẫn luôn là tác phẩm thơ tiêu biểu cho giai đoạn kháng chiến chống Pháp của nền văn học dân tộc. Quả thực Tây Tiến là tượng đài bất tử của người lính vô danh.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 41

Những bức tượng đài về con người Việt Nam trong kháng chiến không chỉ được viết bằng những trang sử hào hùng mà còn bằng những áng thơ văn tuyệt đẹp. Họ khổ đau nhưng vẫn ngời sáng sức mạnh và niềm tin. Dù có mất mát đau thương nhưng điều cuối cùng ở lại là sự kiên định với lí tưởng và hi sinh vì cuộc sống. Sự hi sinh của những người lính đã sống vì Tổ quốc đã được Quang Dũng tái hiện chân thực trong bài thơ “Tây Tiến”:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Và:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ cùng quân đội Lào bảo vệ vùng biên giới Việt-Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Quang Dũng viết về người lính Tây Tiến không chỉ bằng con mắt quan sát mà còn bằng chính những trải nghiệm thực tế bởi ông cũng là một người lính Tây Tiến năm xưa. Cuối năm 1948, ông phải rời quân đoàn đi làm nhiệm vụ khác, nỗi nhớ về Tây Tiến và núi rừng, con người Tây Bắc đã giúp ông viết lên bài thơ. Bài thơ được viết lên bằng nỗi nhớ, được họa bằng hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và hoang sơ, hiểm trở và hình ảnh con người thành trung tâm với những nét hào hoa, lãng mạn mà thật cao đẹp. Đặc biệt, tầm vóc của con người được khắc họa đẹp nhất, ấn tượng nhất qua những hi sinh, mất mát.
Gian nan bao giờ cũng được xem là ngọn lửa thử vàng. Trước những dãi dầu thân xác trong dằng dặc thời gian là hình ảnh:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Hai câu thơ đầu là bức họa ấn tượng về người lính. Hai tính từ “dãi dầu” đã đủ để làm hiện về bao vất vả, nhọc nhằn của những cuộc hành quân. “Không bước nữa” có thể là những giây phút hiếm hoi người lính buông mình vào giấc ngủ; nhưng cũng có thể là một thực tế đau xót là người lính đã ngã xuống và không thể bước cùng đồng đội. Sự hy sinh là có đấy và Quang Dũng không bao giờ né tránh hiện thực. Nhưng hiện thực trong mắt ông không bao giờ chỉ giản đơn và tẻ nhạt. Một loạt các từ mang tính chủ động: “không bước nữa”, “bỏ quên đời” làm cho câu thơ trở nên gân guốc, rắn rỏi; giọng thơ ngang tàng; khó khăn trở nên nhẹ tênh và con người hiện lên với tâm thế chủ động, ung dung trước những khó khăn gian khổ, thậm chí là hi sinh mất mát. Sau này, ta cũng được gặp giọng điệu ngang tàng ấy trong những câu thơ rất lính của Phạm Tiến Duật: “Không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo” (“Bài thơ về tiểu đội xe không kính”). “Thác gầm thét, cọp trêu người” là những hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm sự hoang sơ, dữ dội, bí hiểm của núi rừng Tây Bắc. “Chiều chiều, đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ thời gian lặp lại miên viễn, vĩnh hằng. Sức mạnh của thiên nhiên ngự trị nơi đây không phải chỉ có một chiều, một đêm mà là “chiều chiều, đêm đêm”. Nhưng đó cũng là thời gian của những cuộc hành quân Tây Tiến. Vì thế mà hai câu thơ miêu tả cái thâm u, bí ẩn của rừng núi miền Tây Bắc càng khiến chân dung người chiến sĩ thêm cao lớn, mạnh mẽ.
Sau đó, Quang Dũng còn một lần nữa nhắc tới sự hi sinh của những người lính:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Câu thơ là một trong những bức tượng đài bi tráng nhất của người lính Việt Nam. Nơi viễn xứ, những con người ấy chỉ còn là áo vải mong manh. Cái bi, cái mất mát trong chiến tranh là chẳng thể nào chối bỏ. Vì thế, Nguyễn Duy từng đúc kết một cách đau xót: “Kì quan nào chẳng hắt bóng xót xa” (“Đứng trước tượng đài Kiev). Nhưng bi mà không hề lụy. Câu thơ sử dụng hệ thống những từ Hán Việt: “biên cương” “viễn xứ”, “chiến trường”, “áo bào”, “độc hành” làm cho không khí trở nên trang giọng, lời thơ trầm lắng, giọng thơ trầm hùng, bi tráng. Lại một cách nói chủ động: “chẳng tiếc đời xanh” khẳng định khí thế ngang tàng của những bậc nam nhi coi cái chết nhẹ tựa hồng mao. Hình ảnh “áo bào” gợi về bóng dáng những Kinh Kha bên bờ sông Dịch: “Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn” cùng biện pháp nói giảm nói tránh càng làm cho người lính hiện lên cao đẹp. Cái chết đối với họ, đơn giản chỉ là sự trở về khi mình đã sống và chiến đấu hết mình trong một tâm thế ung dung, nhẹ nhàng. Trước đây, khi nhắc đến những câu thơ này của Quang Dũng, người ta thường thấy ở đó những biểu hiện tiêu cực của “mộng rớt”, “buồn rớt” hay “yêng hùng tư sản”. Cái khẩu khí của nhà thơ, của những anh bộ đội Tây Tiến ấy, thực ra, vô cùng đáng trọng. Nó là biểu hiện quyết tâm của những con người yêu giống nòi, sẵn sàng đổ máu hi sinh vì những lẽ sống lớn lao. Họ không phải nạn nhân, những con tốt đen vô danh vô nghĩa trên bàn cờ trận mạc mà là những “chủ thể đầy ý thức của lịch sử”, biết sống đẹp từng giây phút, biết ước mơ, hi vọng và khi cần thì sẵn sàng hiến dâng. Những câu thơ của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ đã bỏ mình vì nghĩa lớn. Sự ra đi của họ lại được cất lên thành khúc “độc hành” của sông Mã đầy uy nghiêm và trang trọng. Tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vũ trụ.
Một bài thơ hay không bao giờ là sự giản đơn, tĩnh tại mà luôn có sự vận động trong chính bản thân chủ thể của nó. Thiên nhiên trong hai đoạn thơ đi từ dữ dội đến hào hùng, thiêng hóa, từ hình ảnh của những khó khăn thử thách thành nền để tôn vinh và thiêng hóa con người. Người lính từ đối đầu để chinh phục thiên nhiên, vượt qua thử thách đến hòa hợp để làm trung tâm trong bức tranh thiên nhiên. Bút pháp thơ đều từ tả thực kết hợp với bút pháp sử thi, hào hùng, cảm hứng bi tráng nhưng ở mỗi đoạn lại có những thay đổi và độc đáo riêng. Những câu thơ đem cho chúng ta có một phong vị rất riêng: vừa dung dị, vừa bay bổng, không đẽo gọt cầu kì mà có khi vẫn mới lạ một cách đáng ngạc nhiên.
Những câu thơ của Quang Dũng không chỉ đơn giản là câu chữ mà như là những khúc tráng ca hào hùng, là những bức tượng đài trường tồn về những con người bất tử mà dẫu cho lịch sử đã sang trang, những chiến tuyến đã hạ xuống nhưng nó vẫn không thôi làm ám ảnh và xúc động cho bạn đọc nhiều thế hệ.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 42

Quang Dũng gọi tên đoàn binh của mình bằng một đặc điểm rất ngộ nghĩnh thú vị: không mọc tóc. Câu thơ thoáng nghe tưởng là lạ, ngẫm lại mới thấy hay, không trực tiếp miêu tả cái khốc liệt của chiến trường nhưng hiện thực tàn ác của chiến tranh đã được khắc sâu sống động. Người lính Tây Tiến gọi chính những gian khó, thiếu thốn, vất vả của mình thành một niềm kiêu hãnh. Thấy ngay trong chính bệnh tật, đau khổ một sự tự tin, chủ động, vui nhộn và hóm hỉnh. Khó khăn, gian khổ được gọi tên mà sao đầy say mê, tự hào, kiều hãnh. Người ta không thấy một lời kêu than, không thấy một sự mệt mỏi, dường như nụ cười vẫn lấp lánh trong đoàn binh có cái tên lạ lùng ấy! Người lính Tây Tiến không chỉ biết chấp nhận hoàn cảnh sẵn sàng đón nhận gian khó mà cao hơn thế, họ ngạo nghễ vượt qua nó, lấy nó làm nụ cười, làm một tên gọi cho chính mình. Họ lấy cái ngạo nghễ, anh hùng ấy để đối lập, đối diện với hiện thực tàn khắc của chiến tranh. Ba tiếng dữ oai hùm dằn mạnh giống như sự rắn rỏi, mạnh mẽ của khí phách người lính Tây Tiến. Những câu thơ nói về đau thương, thiếu thốn, gợi ra sống động cái khốc liệt của chiến tranh nhưng lại khẳng định nhấn mạnh cái anh dũng, kiên cường, khí phách hiên ngang của người lính Tây Tiến. Người ta quên đi những gian khó, không để ý đến những thiếu thốn, vất vả, cái còn lại trong lòng người đọc là một niềm tin yêu, ngưỡng mộ trước những con người anh hùng của một thời đại anh hùng.

Về với người lính Tây tiến, về những con người anh hùng, bất khuất ấy. Quang Dũng còn dành những nét vẽ rất tài hoa, thơ mộng:

Mắt trừng gởi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Người lính Tây Tiến mạnh mẽ, rắn rỏi trong chiến đấu nhưng cũng hết sức lãng mạn, say mê trong những phút giây thơ mộng, ở họ, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư chất của một anh hùng và phong cách của một trí thức lãng mạn. Bao nhiêu yêu thương, nhớ mong, mộng ước của họ được gửi gắm, dồn tụ ở hình ảnh mắt trừng. Biên giới và Hà Nội hoa lệ có một khoảng cách rất xa xôi, người lính Tây Tiến muốn lấy được mộng ước, khát vọng của mắt nhìn đau đáu làm cầu nối thu ngắn không gian, kéo hẹp khoảng cách. Hình ảnh mắt trừng không chỉ gợi một nỗi niềm đau đáu khôn nguôi mà còn như chất chứa bao khắc khoải, mong chờ. Không chỉ là niềm yêu niềm nhớ, gửi gắm trong mộng ước của họ còn là ước vọng, niềm tin mãnh liệt, thao thức nhớ thương. Ánh nhìn của người lính Tây Tiến không tan đi trong không gian, không mờ đi trong đêm tối của núi rừng Tây Bắc, nó cứ trao mãi vào lòng người đọc và gõ lên những nhịp thương nhớ khôn cùng. Dáng kiều thơm và một Hà Nội phồn hoa xa xôi chính là nguyên do của nỗi niềm mong nhớ ấy. Đó không phải là một bóng dáng cụ thể nào, cũng không chỉ bó hẹp trong một tình yêu đôi lứa, nỗi niềm thương nhớ trào dâng của người lính Tây Tiến cao hơn là một nỗi nhớ nước, yêu nhà, là một tình yêu quê sâu đậm. Bởi vậy, đôi mắt nhớ thương của đoàn binh Tây Tiến không phải là mộng rớt của thứ lãng mạn rẻ tiền, nó vừa có nét dữ dằn, khỏe khoắn của tư chất người lính, vừa tha thiết một nỗi niềm thương nhớ cao đẹp khôn nguôi. Hình ảnh người lính Tây Tiến là một bức tượng đài đẹp đẽ với tư thế hiên ngang, với khí phách anh hùng và có cả những say mê, ước vọng lãng mạn, đẹp đẽ. Nhưng thơ Quang Dũng còn tả rất thực về những mất mát, hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Không thi vị hóa hiện thực, ngòi bút thơ Quang Dũng dám nhìn nhận vào những tổn thất tất yếu của con người trong chiến tranh tàn khốc. Hình ảnh người lính Tây Tiến cũng có những phút giây mỏi mệt:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Chữ dãi dầu đã lột tả được hết sự khắc nghiệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, gian khó phủ lên đầu người lính, nên mệt mỏi, dãi dầu là những phút giây đương nhiên. Người lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ của người lính cũng là tất yếu đó sao? Điều đó đáng cảm thông, chia sẻ chứ đâu phải đáng lên án chỉ trích đây? Không nên chỉ chú trọng đến những phút giây như thế nào quy chụp tội lỗi, miêu tả như vậy chẳng phải Quang Dũng đã vẽ những nét vẽ chân thực nhất về cuộc sống? Không chỉ dám nói, dám nhìn thẳng những phút giây như thế, Quang Dũng còn dành những dòng kiêu hùng nhất để viết về cái chết của họ:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Ngay chính trong cái chết, người lính Tây Tiến vẫn thể hiện, khẳng định được khí phách anh hùng, tư thế ngạo nghễ của mình. Người ta có thể rùng mình ghê sợ trước cái lạnh lẽo, hoang vu của những mồ viễn xứ nhưng không khỏi tự hào, kiêu hãnh trước sự hy sinh bất khuất anh hùng của đoàn binh. Những từ Hán Việt được sử dụng trang trọng giống như những nét tâm hương trước họ. Một manh chiếu bọc người được Quang Dũng gọi kiêu hãnh tự hào là áo bào. Sự ra đi của người lính Tây Tiến là một hiện thực tất yếu của chiến tranh nhưng người ta không thấy cái đau thương bi lụy, cái còn lại treo mãi trong tiễn người là dư ba mênh mang, vang vọng của khúc độc hành sông Mã. Đó giống như một khúc tráng ca tiễn đưa người anh hùng về với đất Mẹ. Cảm thấy trong lời thề sống dậy một niềm kiêu hãnh tự hào, người ta quên đi nỗi xót xa, lạnh lẽo, tái tê của sự hi sinh. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến được đặt giữa đất trời, thiên nhiên, có đất mẹ dang tay đón đợi, có dòng sông Mã anh hùng dạo lên khúc tráng ca đó chẳng phải là một sự hy sinh đẹp đẽ, cao quý nhất hay sao? Hy sinh anh hùng cũng là một đặc điểm đẹp đẽ hoàn thiện hình ảnh của người lính Tây Tiến.

Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ có hồn. Người lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Trong thơ ca kháng chiến chống Pháp, hình ảnh người chiến sĩ được miêu tả chân thực và đẹp qua những sáng tác như Đồng chí của Chính Hữu, Lên Tây Bắc và Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của Tố Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên,... Quang Dũng đã đóng góp vào bức tranh chung đó một gương mặt đẹp của người lính thủ đô chiến đấu ở chiến trường xa, vùng núi biên giới Việt - Lào. Có thể nói, Quang Dũng đã thành công khi chạm khắc một tượng đài bất tử về những người lính vô danh một thời đánh giặc không thể nào quên.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 43

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian

"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm - Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hnội dáng kiều thơm - Rải rác biên cương mồ viễn xứ - Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

"Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế QDũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà "đời vẫn cứ tươi" như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và QDũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. QDũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dtộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ
"Tây Tiến đoàn quân ..... khúc độc hành"
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:
" Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi "
hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của QDũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của QDũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. 2 chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà QDũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật hoá" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ
"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu - Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu"
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu - Thể diện sài long xâm lược quân"
Có thể nói QDũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lsử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dtộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi QDũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về HNội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
"Từ thuở mang gươm đi mở nước - Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long" dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. QuDũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đsống tâm hồn phong phú. không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ QDũng.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu QDũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. QDũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Trong Chinh phụ ngâm:
"Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi - Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi - Chinh phu tử sĩ mấy người - Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ QDũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ
"áo bào thay chiếu anh về đất"
Bao nhiêu thương yêu của QDũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo QDũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn" cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế
"ở đây không manh ván - Chôn anh bằng tấm chăn - Của đồng bào Cứa Ngàn - Tặng tôi ngày sơ tán"
Chỉ có điều câu thơ của QDũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy QDũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca

"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, QDũng đã dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của QDũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 44

Hình ảnh người lính Việt Nam nói chung và những người lính thời kỳ chống Pháp nói riêng từ lâu đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các nhà thơ viết về người lính với tất cả niềm kiêu hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy, Tây Tiến là bài thơ có vị trí đặc biệt. Dù ra đời vào năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, vậy mà hơn nửa thế kỷ sau, chất lãng mạn – hào hùng của tác phẩm vẫn còn sức hấp dẫn lay động, làm say mê bao tâm hồn. Trong Tây Tiến người ta thấy hiện lên sừng sững bức tượng đài người lính. Những con người rất thật, rất đẹp, rất có hồn, trường tồn, bất tử mãi mãi với không gian, thời gian!

Thật vậy!

Khi gấp trang Tây Tiến lại, Nhiều người trong số chúng ta có thể tìm ra lời giải đáp cho ranh giới giữa sự giống và khác nhau trong các tác phẩm văn chương. Thực ra Tây Tiến không phải một tác phẩm có đề tài mới lạ. Tất cả những gì mà nó thể hiện cũng chỉ xoay quanh hình ảnh người lính. Nhưng ở Tây Tiến người ta không thấy những đau thương mất mát đến bi lụy, lại càng không thấy những lời cổ- vũ hô hào đến sáo mòn. Người lính của Quang Dũng đã bước từ khuôn mẫu gò bó để đến với đời thực, với hiện thực kháng chiến gian khổ bộn bề. Chính tính chân thực ấy đã tạo khả năng hướng ngoại cho tác phẩm, tạo mối dây liên kết gắn bó giữa hình tượng thơ và độc giả trong suốt chặng đường lịch sử dài. Tày Tiến đã tái tạo và bất tử được hình ảnh binh đoàn Tây Tiến đẹp rạng ngời. Những người lính Thủ đô đi vào cuộc kháng chiến mang theo vẹn nguyên cái mộng mơ của người con đất Hà Thành. bài thơ cứ miên man trong nỗi nhớ, để rồi từ đây, một thời gian khổ, một thời mê say được gợi lại. Đoàn binh Tây Tiến đến với chúng ta không chỉ với tư cách những chiến sĩ từng trải qua khó khăn gian khổ mà còn với tư cách những chàng trai lãng mạn nhưng không kém kiêu dũng. Đối với mỗi người con Việt Nam, họ đã trở thành anh hùng trong trang sử vàng dân tộc.

Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên, trước hết là qua dòng hồi tưởng chan chứa đong đầy của nhà thơ. Đây cũng là một nét khác biệt của tác phẩm.

Không giống như nhiều bài thơ khác được ghi lại ngay sau các sự kiện lịch sử, Tây Tiến chỉ đơn thuần như những kỷ niệm riêng của Quang Dũng về một thời gian khổ mê say. Vì vậy, tính thời sự chỉ mất đi chút ít, nhưng tính trữ tình lại được thêm vào rất nhiều. Đó là nỗi nhớ ắp đầy trong khoảng trống câu chữ, mà lúc nào đọc lên người ta cũng xúc (lòng nghẹn ngào. Cả bài thơ, kỷ niệm lúc nào cũng lũ nhau gọi về, tưởng như nỗi nhớ đã có từ’ lâu lắm, để rồi đến hôm nay mới có dịp vỡ òa:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ cùng vơi

Câu thơ là lời gọi mời, gợi nhớ, gợi nhắc về một thời quá khứ gian khổ mà đẹp vô cùng. Mở đầu bài thơ, người chiến sĩ Tây Tiến không hiện lên trực tiếp mà gián tiếp qua hình tượng “Sông Mã”. Dòng sông Mã không chỉ là chứng nhân lịch sử đồng hành cùng binh đoàn Tây Tiến mà còn là biểu tượng cho Những chiến sĩ Tây Tiến oai hùng. Đứng ở hiện tại .và đưa mắt về quá khứ trong Quang Dũng dâng tràn một cảm xúc khó tả. Nỗi nhớ “chơi vơi”. Người đọc như được nhập thân vào với tác giả để cảm nhận những thổn thức, mong mỏi, khát khao trong lòng người. Dường như trong nỗi nhớ ấy là cả chút gì hụt hẫng, nao lòng, cứ mơn man, Lan tỏa, thâm sâu vào cảnh vật, con người. Đó cũng là xuất phát điểm bài thơ, để từ đó nỗi nhớ nhung của nhà thơ tự nó gọi về, tạo nên một Tây Tiến bất hủ.   •

Trong dòng hồi ức của Quang Dũng, người lính Tây Tiến hiện lên song hành với biết bao khó khăn, gian khổ.

Khi nói đến chiến tranh, ấn tượng muôn đời bao giờ cũng là sự đau thương, chia lìa, sự tang tóc, buồn thảm. Đời lính chiến -đấu vì thế không thể tránh khỏi những vất vả, khó khăn. Nhưng ngoài những khó khăn chung toàn đất nước thời ấy, người lính Tây Tiến còn phải chịu đựng nhiều khó khăn riêng do địa hình đóng quân khắc nghiệt, hiểm trở mang lại:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Hai câu thơ là bốn nét vẽ gian khổ đầy ấn tượng. Nếu câu thơ đầu gieo hầu hết thanh trắc thì câu thơ thứ hai lại gieo 9/14 thanh bằng. Cái tài của Quang Dũng là dù gieo thanh bằng hay thanh trắc vẫn giúp người đọc nhận ra cái trúc trắc gập ghềnh đầy hiểm nguy của địa hình. Quả thực “thi trung hữu nhạc, thi trung hữu họa”. Hàng loạt từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” được đặt cạnh nhau tạo nên hiệu quả cộng hưởng ngôn ngữ rất cao. Những hình ảnh thơ nối nhau liên tiếp đã gợi cho người đọc hình dung liên tưởng về không gian mở. Không chỉ sâu mà còn rất rộng, không chỉ cao mà còn rất xa. Dường như khó khăn cứ chất chồng như từng dãy núi trùng trùng, điệp điệp.

Điều đặc biệt là những chiến sĩ Tây Tiến lại có cái nhìn rất trẻ trung, tinh nghịch và lãng mạn về hiện thực gian khổ ấy. Trong đôi mắt họ, hiện thực dù gian khổ đến đâu cũng vẫn có nét đẹp, niềm vui riêng. Họ vẫn có thể “miệng cười buốt giá” trước mọi gian lao:

Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Câu thơ, tự nó đã tách ra làm hai phần. Nếu bốn tiếng thơ đầu còn diễn tả sự gian khổ, thì ba tiếng thơ sau đã ánh lên chút trẻ trung đầy lãng mạn. Từ láy “heo hút” được đảo lên đầu như một điểm nhấn quan trọng cho câu thơ. Quang Dũng đã rất tinh tế khi sử dụng “heo hút” chứ không phải “hun hút”. Hai từ láy thoạt nhìn có thể giống nhau, nhưng thực chất lại có ý nghĩa biểu đạt khác nhau. Nếu “hun hút” gợi được chiều sâu và chỉ chiều sâu mà thôi thì “heo hút” vừa gợi tả độ sâu, vừa đánh thức cảm giác trống trải, lạnh lẽo, hoang vắng, quạnh hiu. Sự trống vắng ấy do địa hình tạo nên và đã có ảnh hưởng rất lớn đến con người. Trước không gian rợn ngợp, con người vốn đã bé nhỏ nay lại càng nhỏ bé hơn. Nhưng cái “tâm” thì không biên giới, không độ cao nào có thể ngăn trở. Càng trong gian khó, hiểm nguy, sự can trường cũng như tinh thần lạc quan của người chiến sĩ càng cất cánh. Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện một chút dí dỏm, trẻ trung, một chút tinh nghịch, đáng yêu, đáng mến. Cũng chẳng có gì là lạ, bởi binh đoàn Tây Tiến đều xuất thân từ những thanh niên Thủ đô tuổi đời còn rất trẻ. Họ vẫn còn thiết tha yêu cuộc đời. Ý thơ ấy sao mà giống với “đầu súng trăng treo” của Chính Hữu? Thì ra ở trong cùng một hoàn cảnh chiến đấu, những ý tưởng lớn đã gặp nhau và tạo ra mối liên kết bền chặt giữa những con người có cùng mục đích sống. Vượt lên trên cả hoàn cảnh, đó chính là tâm hồn người chiến sĩ.

Có thể nói, những khó khăn gian khổ đã trở thành một phần không thể thiếu của đòi lính và trở thành nỗi ám ảnh in sâu trong tiềm thức tác giả. Quang Dũng không bao giờ có thể nào quên.

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Nhà thơ đã tái tạo lại hình ảnh điển hình; sống động nhất về một thời đầy khó khăn, thử thách. “Chiều chiều”, “đêm đêm” là những khoảng thời gian ước lệ, không rõ là buổi chiều hay buổi đêm nào. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc không phải một chiều, một đêm mà là rất nhiều. Những khó khăn gian khổ như trải dài cùng năm tháng.

Khi mở đầu bài thơ Tây Tiến, ấn tượng đầu tiên hiện về trong Quang Dũng là những kỷ niệm về một thời gian khổ. Hình tượng người lính Tây Tiến luôn xuất hiện song hành với những khó khăn. Trên mỗi bước đường họ đi qua đều có những hiểm nguy không chỉ từ kẻ thù mà còn từ thiên nhiên đem lại. Nhưng cũng như bao người lính khác, khó khăn không làm chậm bước con người mà chỉ nâng tầm con người lên. Thật đáng khâm phục khi trong hoàn cảnh nào, họ vẫn lạc quan đầy trẻ trung tinh nghịch. Chính nét tinh thần quý báu ấy đã tạo nên sức sống trường tồn của Tày Tiến với muôn đời.

Không chỉ biết đối mặt với hiện thực khó khăn, mà còn hơn thế nữa, hình ảnh người lính Tây Tiến còn hiện lên với vẻ đẹp lãng mạn vô cùng – một nét đẹp của những người con đất Hà Thành ngày xưa.

Khi xông pha trận mạc, người lính Tây Tiến có thể trở thành những anh hùng chiến đấu anh dũng quả cảm, nhưng trong giờ phút, giải lao, họ cũng thật gần gũi, thật chân thành. Bỏ lại những mũi đạn, hòn tên, gạt sang một bên những lo toan kháng chiến bộn bề, họ trở về với đúng tâm hồn mình: những chàng trai trẻ tuổi hào hoa mơ mộng rất bình dị giữa đời thường. Qua lăng kính lãng mạn của họ, một buổi liên hoan văn nghệ bỗng chốc trở thành một đêm hội:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kì.a em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Không gian đêm hội đuốc hoa hiện lên thực rực rỡ lung linh, ngập tràn ánh sáng. Câu thơ trước như gọi câu sau. Nhạc thơ ngọt ngào du dương nhưng vẫn toát lên niềm vui, niềm rạo rực đương bồi hồi trong ngực trẻ. Cộng hưởng với âm nhạc của câu chữ là âm thanh của tiếng khèn. Tất cả hòa quyện vào nhau, như vẫy gọi, chào mời, như gợi thương gọi nhớ, như trì níu, vấn vương. (Dường như đọc câu thơ, không phải người). Và dường như không phải đọc thơ rồi tìm thấy Quang Dũng trong thơ mà chính nhịp lòng náo nức mê say của người lính Tây Tiến đã tỏa rạng để dệt nên những vần thơ bất hủ.

Nếu ở khổ thơ đầu người ta còn thấy Quang Dũng đắm mình trong hồi tưởng về một thời gian khổ thì đến đây, những xúc cảm ấy quả thực, tâm hồn người chiến sĩ Tây Tiến là cả một thế giới rộng sâu. Đi vào khám phá thế giới ấy, có những khi cái ta bắt gặp không phải là niềm vui, mà là những kỷ niệm buồn. Nét “bi” trong mỗi con người chiến sĩ Tây Tiến cũng thật đặc biệt: “bi” nhưng không “lụy”, “bi” nhưng không gắn liền VỚI nước mắt. Nỗi buồn ở đây gắn với nỗi nhớ, thật dìu dịu, mơn man, lan tỏa. Nỗi buồn đậm chất lãng mạn, mộng mơ. Mọi hình ảnh của thực tại đều bị nhòa đi rồi hoàn toàn biến mất, nhường chỗ cho miền nhớ miền thương đang thi nhau gọi về:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Nhịp thơ đột ngột chuyển. Từ những dòng thơ sôi nổi, náo nức, mê say bỗng chuyển sang bâng khuâng (pha chút ngậm ngùi lúnh ảiih thơ giờ lại càng mờ mờ, ảo ảo. Vì vậy tính chất lãng mạn ở đây như được nhân lên gấp đôi. Từng vần thơ sâu lắng cứ vang vang rồi in đậm, khắc sâu trong tiềm thức độc giả.

Có thể nói ở khổ thơ này Quang Dũng gợi nhiều hơn tả. Nhà thơ mở ra không gian hư hư thực thực bằng hình ảnh buổi “chiều sương ấy”. Dường như chữ “chiều sương” đã gợi nhớ, gọi thương cho nhà thơ Nhiều quá, để từ đây hoài niệm thi nhau hiện về. Chỉ một từ “ấy” thôi mà có sức đẩy hoài niệm về một miền rất xa trong quá khứ. Câu thơ cứ ắp đầy một nỗi nhớ niềm thương khó tả.

Cái hay của Quang Dũng là ông đã dùng chính sự lãng mạn của người lính Tây Tiến để tạo ra nhiều vần thơ đầy mộng mơ. Khổ thơ không gợi ra những hình ảnh, chi tiết cụ thể mà chỉ là những “dáng”, những “hình”. Có cảm giác như trong nỗi niềm nhớ thương, Quang Dũng đã nắm bắt được toàn bộ thần thái sự vật và bất tử nó trong thi ca. Cảnh vật được nhìn qua lăng kính nhớ thương vì vậy trở nên mờ mờ, ảo ảo, hư hư, thực thực. Hai tiếng “có thấy”, “có nhớ” gieo thanh trắc như những nốt nhạc vút cao của khổ thơ, gợi nhắc con người về một thời quá khứ một cách thiết tha, ân tình. Từ cái nhìn trực giác (có thấy) đến cái nhìn trong tâm tưởng (có nhớ) là cả sự chuyển biến trong cảm xúc. Dường như trái tim, tám hồn của cố nhân (Quang Dũng) đã được đánh thức, để rồi từ đây chỉ còn lại những vùng đọng cùng nỗi buồn mênh mang trong lòng người.

Điểm nhấn của nỗi nhớ ấy hướng về một hình ảnh đặc biệt: “trôi dòng Nước lũ hoa đong đưa”. Câu thơ gợi ra hai hình ảnh đối lập: một mạnh    mẽ     (dòng nước  lũ);    một   nhẹ nhàng, khe khẽ, dịu êm (hoa). Phải chăng hình ảnh “hoa đong  đưa”  không còn   là hình ảnh thực nữa mà đã trở thành nỗi nhớ, niềm thương tác giả? Chữ “đong đưa” được dùng rất tinh tế. “Đong đưa” chứ không phải “đung đưa”. Bởi “đung đưa” chỉ có thể diễn tả trạng thái chuyển động, còn “đong đưa” diễn tả cả ánh mắt. Có lẽ nào hình ảnh “hoa đong đưa”, cộng hưởng với “dáng người trên độc mộc” đã ngầm gợi nên hình ảnh người con gái? Nhìn dưới góc độ ấy thì tâm hồn người chiến sĩ Tây Tiến thật lãng mạn quá, đáng trọng đáng mến đến vô cùng.

Có thể nói người lính Tây Tiến là những chàng trai biết vượt lên trên hoàn cảnh. Chiến tranh ác liệt với máu, với đạn lửa và nước mắt không thể xóa đi sự lãng mạn trong tâm hồn họ. Kể cả khi ranh giới giữa sự sống với cái chết liền kề, họ vẫn cất cao tiếng hát yêu cuộc đời. Họ lãng mạn cả khi buồn. Họ mộng mơ cả khi vui. Chính nét đẹp tâm hồn ấy đã đưa họ đến gần với mọi thế hệ độc giả, và bất tử họ trong lòng người đọc muôn đời.

Không chỉ biết đối mặt với hiện thực gian khổ, sống lãng mạn, mộng mơ, người lính Tây Tiến còn hiện lên với tư cách những anh hùng với tráng chí ngất trời.

Đối với người lính nói chung và binh đoàn Tây Tiến nói riêng, đã bước vào chiến tranh là phải chấp nhận đau khổ, hy sinh, mất mát. Nhưng ngời sáng ở những con người Tây Tiến oai hùng là cách tiếp nhận hiện thực bình thản đến lạ kỳ. Họ biết tự biến gian khổ, khốc liệt thành niềm kiêu hãnh tự tôn cho chính mình:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Ta đã từng thấy một “Tiểu đội xe không kính” dí dỏm trong thơ Phạm Tiến Duật thì nay lại thấy một “đoàn binh không mọc tóc” trong thơ Quang Dũng. N^ười lính Tây Tiến tự gọi tên đoàn binh của mình khá thú vị. Trong câu thơ người ta thấy chút ngang tàng của người lính trẻ tuổi. Tóc không mọc không phải vì bị bệnh mà vì ‘không thèm” mọc. Cộng hưởng vào đó là nét kiêu hùng “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Hoàn cảnh thiếu thốn gian khổ chỉ là điều kiện tôi luyện thêm khí phách anh hùng cho người lính Tây Tiến. Đọc câu thơ người ta thấy phơi phới một niềm tin tưởng, lạc quan vào cuộc đời và in đậm một tráng chi hùng dũng.

Mục đích của Quang Dũng khi sáng tác Tây Tiến không phải để dựng lên hình tượng người chiến sĩ tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ chỉ là tấm chân tình mà nhà thơ gửi đến đồng đội cho vơi đi nỗi nhớ đơn vị cũ. Nhưng chính tính chân thực trong cảm xúc đã cho người đọc một tấm chân dung sống động về người lính Tây Tiến. Họ không hiện lên với khuôn mẫu của trang trí, anh hùng mà cũng rất đỗi lắm mộng, nhiều mơ:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Nếu câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chữ MỘNG thì câu thơ thứ hai nhấn mạnh chữ “Mơ”. Câu thơ mang vẹn nguyên cả ước vọng và điểm đến cuối cùng của đời lính Tây Tiến. Chữ “trừng” được sử dụng khá độc đáo. Người đọc có cảm tưởng như mọi ước mơ khao khát tận đáy lòng đã trào dâng và đong đầy trong ánh mắt người lính. “Trừng'” là động từ mạnh lại được đặt cạnh “mơ” – lúc đầu ngỡ như một sự khập khiễng. Nhưng thực ra câu thơ rất giàu giá trị biểu cảm. Từ “trừng” không có nghĩa trừng trị, dọa nạt mà thể hiện cái nhìn đau đáu, khôn nguôi, những nhung nhớ, khát khao đến khắc khoải. Câu thơ như trùng xuống trong xúc cảm bâng khuâng dâng tràn. Tứ thơ ấy gợi nhắc đến hình ảnh thơ quen thuộc:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

(.Đất nước – Nguyễn Đình Thi) Thì ra bao giờ cũng vậy, đích đến cuối cùng của những người lính luôn là hạnh phúc. Nỗi nhớ của họ hướng cả về “dáng kiều thơm” nào đó ngoài cuộc đời. Họ ra đi chiến đấu vì tự do, độc lập, nhưng trước hết là vì cuộc sống tương lai hạnh phúc mà họ khao khát. Chính vì vậy mà “dáng kiều thơm” trở thành điểm tựa, niềm hy vọng để tiếp thêm cho họ sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.

Những người lính Tây Tiến sống anh hùng mà chết cũng anh hùng. Nhưng không lúc nào trong bài thơ ta thấy hiện lên nét sầu thương, ai oán, bị lụy, não nùng. Ngay cả khi viết về cái chết, Quang Dũng vẫn nhấn mạnh cái dũng khí hùng tráng của đoàn binh Tây Tiến:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời;

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh;

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Ba lần Quang Dũng nhắc tới sự hy sinh, nhưng lần nào cũng là hình ảnh ẩn dụ đề tránh đi từ “chết”. Dường như khi người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ là khi anh tạm nghỉ chân trước cuộc đời. Cái chết không đồng nghĩa với ngừng chiến đấu vì tâm hồn, vì ước nguyện của anh sẽ mãi trường tồn với thời gian. Anh ngã xuống nhưng vẫn kịp trao ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục con đường cách mạng vinh quang. Sự hy sinh của các anh làm người đọc không khỏi nghẹn ngào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ’. Chữ “rải rác” được đảo lên đầu câu, nhấn manh cho sự quạnh quẽ, lạnh lẽo, hoang vắng. Người đọc thấy xót xa thay cho những người con chiến đấu vì Tổ quốc mà phải gửi xác nơi xứ người.

Nhưng đối với người trong cuộc họ không cảm thấy xót xa đau đớn “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Câu thơ gợi nhắc người đọc về ý thơ Nguyễn Đình Thi: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại”. Câu thơ giống như một cái hất đầu ngạo nghễ, bất chấp khó khăn bỏ mặc sự chết chóc cận kề, những người lính Tây Tiến vẫn kiên định trong ý chí, ngạo nghễ trong phí phách. Đó là tư chất người anh hùng.

Nói về sự hy sinh của người lính, tác giả mượn hình ảnh áo bào. Câu thơ vừa mang sắc thái trang trọng, vừa giảm bớt sắc thái bi lụy buồn thương. Đằng sau câu chữ là cả sự sẻ chia, đồng cảm cũng như trân trọng, yêu thương chân thành mà tác giả dành cho người lính Tây Tiến.

Cuối khổ thơ hình ảnh sông Mã một lần nữa trở lại: Sông Mã được nhân hóa như một chứng nhân lịch sử theo suốt dọc cuộc đời binh đoàn Tây Tiến. Mở đầu bài thơ hình ảnh Tây Tiến được đi liền với đoàn binh thì đến cuối bài, chỉ còn “sông: Mã gầm lên khúc độc hành” khúc nhạc cô đơn, buồn thương khiến ta cảm động. Nỗi nhớ thương của lòng người đã hóa thân vào dòng sông hay chính dòng sông ấy trở đi khúc ca đau đớn của con người? Câu thơ gợi lên sự hy sinh trong tráng chí, tư thế người anh hùng.

Có lẽ hình tượng người lính Tây Tiến đă trở thành bất tử với muôn đời. Dòng lịch sử có thể đổi thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đẽ nhất. Qua dòng hồi tưởng của Quang Dũng, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong sự đối mặt với khó khăn, gian khổ nhưng lúc nào cũng lạc quan phơi phới yêu đời. Họ ra đi mang theo vẹn nguyên sự lãng mạn, mộng mơ của C011 người Hà Nội. Họ sống anh hùng, hy sinh cũng anh hùng. Với âm hưởng thơ lúc dữ dội, khi sôi nổi, lúc lại vang vọng, trầm lắng, bài thơ đã dẫn hồn người đọc trở về một thời quá khứ xưa, để cùng lắng cảm trong nỗi nhớ thương da diết của Quang Dũng về những đồng đội anh hùng.

Tây Tiến đã trở  một kỷ niệm đẹp trong lòng người đọc. Hình ảnh đoàn binh Tây Tiến cứ mãi gợi nhắc trong lòng ta về một thế hệ tuổi trẻ. Hình ảnh thơ luôn quấn lấy ta, khiến ta xúc động nghẹn ngào bởi:

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 45

Lấy cảm hứng từ cuộc sống chân thực mà chính bản thân tác giả trải qua,những chàng trai, những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Thêm một lần nữa Quang Dũng đã đưa chúng ta về với tây Tiến với những kí ức vừa lãng mạn vừa bi tráng. Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây Tiến vừa hồn hậu,giản dị lại hết sức khí phách.Qua đây ta cũng thấy được những vẻ đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, đặc biệt ở khổ thơ thứ 3

Tây Tiến đoàn quăn không mọc tóc

Quăn xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật và nơi khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút giấu giếm, sự thiếu thốn hay  những căn bệnh như sốt rét, khiến cả binh đoàn bị rụng hết tóc, quang Dũng đã khai thác một vẻ đẹp hết sức chân thực của người lính Tây tiến, dù khó khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến đấu chưa bao giờ kết thúc. Hình ảnh quân xanh màu lá là những hình ảnh gầy gò ốm nhưng không hề yếu mà vẫn dữ oai hùm. Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây tiến.

Những ánh mắt hiện lên lửa hi cọng và tinh thần chiến đấu oai hùng, không một chút phó mặc cho số phận, cũng có thể đó chính là sự thức trắng không ngủ được vì lo cho biên giời hoặc mở mắt để nhớ những bóng kiều thơm kia..Đó sự hi sinh của những người chiến sĩ ấy, họ phần lớn là những trí thức Hà Thánh ngày đêm nghĩ đến quê nhà với những bóng hồng mà không bao giờ mờ nhạt trong lòng họ.. Đó chính là cái bi của vẻ đẹp người lính. Nhưng nó lại rất tráng vì người ta chết đi vì lí tưởng cao cả của mình thì đó chính là cái chết đẹp.

Thay vì chiếu đắp lên, sự ra đi của các anh được ví như sự ra đi của những người được những người khác tôn trọng và biết ơn.Những áo bào thì thay bằng chiếu thể hiện sự giản dị của những người lính. Chiến trường khắc nghiệt làm cho anh phải ra đi chỉ có mảnh chiếu che thân. Đất mẹ chính là nơi các anh sinh ra cũng là nơi mà các anh về, đất mẹ che chở cho các anh mãi mãi yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã hiện ra, gầm lên khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh, không phải là sự chơi vơi nữa mà là tiếng gầm, nó càng tạo nên chất tráng cho bìa thơ

 Với việc sử dụng biện pháp đối, nhà thơ Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và đa cảm của người chiến sĩ Tây Tiến. Chúng ta có thể thấy núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, đi trong sự hùng vĩ ấy, sự hoang sơ ấy,  và những người lính Tây Tiến như được truyền thêm sức mạnh, vững bước vượt qua những gian khổ, hy sinh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,         

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…

Những người lính tây tiến không sợ hi sinh bản thân họ, nếu có thể họ không tiếc hi sinh thân mình để bảo vệ những người thân yêu mình ở hậu phương. Họ ra đi mà vẫn nhớ, vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng, khi họ hi sinh thì "áo bào thay chiếu anh về đất. . Đất mẹ chính là nơi các anh sinh ra cũng là nơi mà các anh về, đất mẹ che chở cho các anh mãi mãi yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã hiện ra, gầm lên khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh, không phải là sự chơi vơi nữa mà là tiếng gầm, nó càng tạo nên chất tráng cho bài thơ.

 Những vần thơ của khổ thơ của khổ thơ thứ 3 tuy nói lên những gian khó thiếu thốn của những người lính nhưng đối với họ sự cống hiến hết lòng cho tổ quốc, sự nằm xuống của họ tạo nên một bản anh hùng ca mà đời sau vẫn mãi còn ấp ủ. Không có gì đẹp hơn là những anh lính trên vai vác súng và lòng đầy can đảm và vô tư như thế này. Khổ 3 chính là khổ thơ tiêu biểu nhất của toàn bài thơ.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 46

Đề tài, hình ảnh người lính nói chung là một nguồn cảm hứng cho rất nhiều tác giả, sáng tác ra nhiều tác phẩm vô cùng thi vị, để lại tên tuổi cho nhiều tác giả. Các nhà thơ viết về đề tài người lính với những niềm kiêu hãnh vô cùng tự hào giữa muôn vàn tác phẩm như vậy. Bài thơ Tây Tiên có một vị trí vô cùng quan trọng đặc biệt trong nền thơ ca Việt Nam.

Bài thơ "Tây Tiến" là một trong những bài thơ sáng tác từ rất sớm về đề tài người lính trong cuộc kháng giải phóng dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Binh đoàn Tây Tiên là một đơn vị quân đội được hình thành vào những năm sau cách mạng tháng.

Tám năm 1945, có nhiệm vụ phối kết hợp với binh lính Lào để nhằm bảo vệ biên giới Việt Lào. Địa điểm đóng quân v hoạt động của binh đoàn Tây Tiến khá rộng, bao gồm tất cả các tính Lai Châu, Hòa Bình, Sầm Nưa, Thanh Hóa…

Họ đều là những người lính xuất thân từ thủ đô Hà Nội nơi được mệnh danh là những nho sinh yêu nước, có tâm hồn lãng mạn tinh tế, có học thức bởi trong đó chủ yếu là học sinh sinh viên. Mặc dù, trong quá trình chiến đấu có rất nhiều gian khổ, thuốc men với căn bệnh nguy hiểm như sốt rét rừng, làm cho đầu tóc bị rụng hết, thân thể gầy mòn, nhưng tâm hồn cuộc sống vô cùng lạc quan, tinh thần anh dũng quả cảm.

Nhiều người lính thủ đô đã đi vào cuộc kháng chiến bảo vệ dân tộc mang theo những vẹn nguyên của một trái tim đa cảm, lãng mạn, mang theo sự hào hoa của một người lính xuất thân từ Hà Thành.

Bài thơ Tây Tiến được hình thành từ những nỗi nhớ, những nỗi nhớ vô cùng da diết về tình cảm đồng đội trong những tháng ngày kháng chiến gian khổ. Nó là những kỷ niệm không thể nào quên của tác giả với binh đoàn Tây Tiến, gắn liền với vùng đất hùng vĩ gian khổ hiểm trở vô cùng thơ mộng lãng mạn.

Nỗi nhớ ấy đánh thức, làm bừng tỉnh trỗi dậy những ấn tượng vô cùng sâu sắc trong ký ức, thể hiện một nỗi nhớ chơi vơi tha thiết trong trái tim của người lính Tây Tiến.

Nhà thơ Quang Dũng chính là bút pháp vô cùng lãng mạn không hề xa rời thực tại bài thơ khắc họa một bức tượng đài người lính vô cùng anh hùng, bi tráng trường tồn theo thời gian.

Hình tượng người lính hiện lên với nhiều nét thô mộc, gân guốc, thể hiện sự giản dị, mộc mạc của người lính trong binh đoàn Tây Tiến.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Chúng ta từng thấy một hình ảnh người lính anh dũng, hài hước, lạc quan trong bài thơ "Tiểu đội xe không kính" trong bài thơ vô cùng hài hước dí dỏm của tác giả Phạm Tiến Duật. Hay hình ảnh người lính mộc mạc, giản dị, trong bài thơ "Đồng chí" của nhà thơ Chính Hữu.

Nhưng trong bài thơ "Tây Tiến" hình ảnh người lính của hiện lên gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến đều hiện lên những chi tiết vô cùng sống động, chân thực, thể hiện một cuộc sống gian khổ nhưng kiên cường của người lính Tây Tiến.

Hình ảnh người lính Tây Tiến có chút mộc mạc giản dị, với hình ảnh không mọc tóc, vừa khắc khổ vừa bi tráng, thể hiện những trận sốt rét rừng, không thuốc men, màu lá giữ oai hùm.

Tác giả Quang Dũng khi vẽ chân dung người lính Tây Tiên trong bài thơ đã không quên nhắc tới những hình ảnh vô cùng khắc khổ, thể hiện sự hiện thực của căn bệnh quái ác.

Nhưng ẩn chứa sau ngoại hình giản dị, khắc khổ đó thể hiện một sức mạnh vô cùng nội tâm sâu sắc khí phách oai hùm của những người lính Tây Tiến.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hai câu thơ thể hiện sự nhấn mạnh của sự mơ mộng của những người lính Tây Tiến. Câu thơ mang hình ảnh vẹn nguyên về ước vọng của người lính trong trái tim, tâm hồn của người lính trẻ. Nó nói lên ước mơ khát vọng sâu xa trong tâm hồn của người lính Tây Tiến. Trong bài thơ này gợi nhắc tới ước mơ bình dị của người bình thường, khi tới tuổi yêu thương muốn có một người mộng mơ, để thương để nhớ.

Trong mỗi con người chúng ta ai cũng có những ước mơ về hạnh phúc riêng của mình. Họ mơ về một hạnh phúc lứa đôi, một mái ấm gia đình ấm áp vui vẻ có nhiều tiếng cười. Những hình bóng giai nhân yêu kiều, thể hiện sự thanh lịch. Những người lính ra đi vì sự tự do độc lập của tổ quốc, vì những người thân yêu mà họ luôn hướng tới. Họ muốn bảo vệ sự bình yên của người thân của quê hương.

Hình bóng "dáng kiều thơm" chính là điểm tựa tâm hồn, niềm hy vọng tiếp sức mạnh cho người lính Tây Tiến trên con đường hành quân gian khổ của mình.

Hình ảnh người lính Tây Tiến vô cùng anh dũng, hy sinh cũng thể hiện sự anh hùng, như một bức tượng đài bi tráng. Nhà thơ Quang Dũng không hề tránh né cuộc sống khắc nghiệt của người lính phải trải qua mà ông đã miêu tả nó sinh động nhất, khắc nghiệt, gian khổ nhưng không vì thế mà bi lụy đau thương.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời;

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh;

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lèn khúc độc hành.

Hình ảnh những người lính nằm xuống hy sinh nơi chiến trường vô cùng giản dị, thể hiện người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ khi anh đã nghỉ chân rồi lìa xa cuộc đời này, nhưng cái chết không đồng nghĩa với sự ngừng chiến đấu, bởi tâm hồn của những người lính thể hiện ước nguyện của người lính luôn tồn tại mãi với thời gian.

Những người lính ngã xuống nhưng vẫn kịp trao những trái tim ngọn lửa của trái tim tuổi trẻ của những người lính cách mạng vô cùng anh dũng, vinh quang. Thể hiện sự hy sinh của anh dũng của người lính Tây Tiến làm người đọc vô cùng nghẹn ngào.

Hai chữ rải rác, mồ viễn xứ… thể hiện việc người lính ra đi trong chiến tranh là rất nhiều, ở đâu cũng gặp. Đồng thời thể hiện sự xót thương, da diết của tác giả với những người lính khi nằm xuống nơi chiến trường.

Câu thơ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" thể hiện sự kiên cường của tâm hồn người lính dù có hy sinh thân mình cũng không hề tiếc nuối, thân thể, của mình.

Hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiên trở thành một hình tượng mạnh mẽ bất tử muôn đời, theo thời gian dòng lịch sử có thể thay đổi nhưng hình ảnh người lính Tây Tiến luôn là hình tượng đẹp đẽ bi tráng nhất.

Những người lính Tây Tiến thể hiện sự đối mặt với gian nan, nguy hiểm nhưng lúc nào cũng lạc quan yêu đời, thể hiện niềm tin phơi phới vào tương lai.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 47

Nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 là một nền văn học nổi bật với khuynh hướng đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn với sự trưởng thành của nhiều nhà văn, nhà thơ bước ra từ chiến trường cùng nhiều các tác phẩm văn học xuất sắc. Trong đó phải kể đến các tác giả nổi bật như Tố Hữu, Chính Hữu, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Đình Thi, Phạm Tiến Duật, Chế Lan Viên,... Đặc biệt khi nói về sự vất vả, ác liệt của chiến trường biên giới phía Bắc những năm đầu kháng chiến chống Pháp thì nổi bật có sự xuất hiện của cây bút tài hoa, đại diện cho những người lính xuất thân từ tầng lớp trí thức Hà thành lên đường ra chiến trận. Tây Tiến được viết bằng giọng thơ hào hùng, bi tráng mang đậm cảm hứng lãng mạn, hào hoa và khuynh hướng sử thi, với hình tượng người lính Tây Tiến oai hùng, mạnh mẽ, hiên ngang vượt qua mọi sự khắc nghiệt của chiến trường miền Tây Bắc, một lòng chiến đấu và hy sinh cho Tổ quốc.

Binh đoàn Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947, với lực lượng chủ yếu là các thanh niên Hà thành, nhiều nhất là các học sinh, sinh viên vừa rời ghế nhà trường tiến thẳng ra tiền tuyến khốc liệt. Binh đoàn được phân công một nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới phía Bắc đồng thời đánh tiêu hao lực lượng của thực dân Pháp tại đây, với địa bàn hoạt động rất rộng lớn dường như bao quát cả vùng biên giới phía Bắc, thậm chí mở rộng sang cả vùng Sầm Nứa của nước bạn. Có thể thấy rằng đó là một điều kiện chiến đấu vô cùng khắc nghiệt, đặc biệt trong những năm đầu kháng chiến, đất nước giành được chính quyền không bao lâu thế nên hầu như quân tư trang rất thiếu thốn, thuốc men và cả vũ khí đều vô cùng eo hẹp. Giữa chốn rừng thiêng nước độc, những cơn sốt rét rừng kinh hoàng, số lượng chiến sĩ hy sinh vì bệnh tật thậm chí còn nhiều hơn là vì đạn, bom của giặc thù, cả một vùng biên giới phía Bắc nơi nào cũng in dấu xương máu của các anh ngã xuống. Thế những dẫu có nhiều vất vả, gian lao nhưng người lính Tây Tiến vẫn một lòng chiến đấu và hy sinh cho Tổ quốc, cho dân tộc, đặc biệt là ở họ vẫn luôn giữ cho mình chất lãng mạn và hào hoa trong tâm hồn. Tây Tiến được sáng tác vào cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa phương hiền hòa bên cạnh dòng sông Đáy thuộc tỉnh Hà Đông cũ. Bài thơ là dòng hồi tưởng của nhà thơ Quang Dũng về một thời Tây Tiến đã qua, lắm oai hùng nhưng cũng nhiều gian lao vất vả, đặc biệt thông qua đó hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên với nhiều những nét đặc sắc, bao gồm nỗi nhớ, vẻ đẹp tâm hồn và quan trọng nhất là tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất.

Đầu tiên hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong nỗi nhớ về vùng núi rừng Tây Bắc xa xôi, lắm gian nan hiểm trở.

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi."

Sự hồi tưởng về quá khứ của tác giả thông qua một loạt các địa danh nổi tiếng như Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát gợi ra cho độc giả về một cung đường hành quân rộng lớn bao la, ẩn chứa nhiều những khó khăn vất vả của đoàn quân Tây Tiến. Thế nhưng không phải vì sự mệt mỏi, khắc nghiệt mà người lính nỡ lòng bỏ quên đi những kỷ niệm xưa cũ mà ngược lại những kỷ niệm ấy đã trở thành ký ức đáng quý không thể xóa nhòa. Để mỗi khi nhắc về đó luôn là một nỗi nhớ "chơi vơi", mang cảm giác trơ trọi, chống chếnh, hẫng hụt khi phải xa nơi chiến trường mà một thời mà các anh đã từng gắn bó, đã từng bỏ lại máu xương của đồng đội, từng để lại nước mắt mồ hôi của chính bản thân và cả những dấu chân quân hành đầy bi tráng, hiên ngang. Những ấn tượng sâu đậm về sương và dốc núi đã mở ra cho người đọc về những khó khăn vất vả mà người lính Tây Tiến phải vượt trong hơn một năm chiến đấu ở chiến trường Tây Bắc. "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi", hình ảnh sương ấy gợi liên tưởng về những câu thơ của Chính Hữu "Đêm nay rừng hoang sương muối/Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/Đầu súng trăng treo", sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc được diễn tả bằng hình ảnh sương mù vừa lạnh vừa mờ mịt chắn tầm nhìn. Trước quang cảnh ấy, thực tế rằng không có con người nào mà không cảm thấy mệt mỏi, chùn bước chân, thế nhưng trong tầm mắt lãng mạn và tinh thần lạc quan thì người lính Tây Tiến lại nhìn ra một vẻ đẹp rất đặc biệt "Mường Lát hoa về trong đêm hơi", hình ảnh sương kéo đến ùn ùn kết thành hình những bông hoa trắng ngay giữa núi rừng hùng vĩ tạo nên một cảm giác thơ mộng, trữ tình và tinh thần của người lính lại càng thêm phấn chấn, hăng hái trước cảnh nên thơ, bất chấp những khó khăn đang chờ.

"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"

Ngoài hình ảnh sương thì hình ảnh dốc cũng là một đặc trưng lớn nhất của chiến trường Tây Bắc, địa hình quanh co khúc khuỷu, lên xuống chập chùng "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống" nhiều lần làm bước chân của người lính chiến rã rời, đặc biệt sự heo hút, vắng lặng của chốn rừng thiêng nước độc lại càng thêm thách thức tinh thần của đoàn quân Tây Tiến. Thế nhưng giữa cái vắng lặng, hiểm trở người lính chiến vẫn nhận ra, hoặc đúng hơn là chính tinh thần lạc quan, tươi trẻ của những người con xứ Hà thành đã đủ sức biến chứng thành cảm hứng lãng mạn, có chút hồn nhiên, dí dỏm trong mấy từ "súng ngửi trời". Hơn thế nữa họ vẫn luôn tìm cho mình chút hơi ấm của đất nước, của con người, cảm nhận sự yên bình trong bão tố bằng hình ảnh xóm làng, nhà cửa thân thuộc trong câu "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi", để từ đó lần nữa vực dậy tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, vì nhân dân vì đất nước. Không chỉ vậy, những cảm hứng lãng mạn trong chặng đường hành quân gian khổ đã làm vơi bớt đi phần nào sự mệt mỏi, điều kiện khắc nghiệt của chiến trường những năm đầu kháng chiến. Vẻ đẹp của người lính trong nỗi nhớ là nằm ở chỗ đó, tuy không quá rõ ràng nhưng độc giả vẫn có thể cảm nhận được bằng những vần thơ rất đỗi tài hoa.

Tuy nhiên Quang Dũng sẽ không chỉ đem mình cảm hứng lãng mạn vào thơ, nếu như vậy thì hình tượng người lính lại trở nên tầm thường và không có gì đặc sắc, ông tiếp tục khắc họa người lính chiến trong nỗi nhớ bằng những hình ảnh bi tráng, bằng những nỗi sợ thực tế ở chiến trường.

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"

Quang Dũng viết rất nhẹ nhàng "Anh bạn dãi dầu không bước nữa/Gục lên súng mũ bỏ quên đời", có người từng cho rằng có lẽ là hình ảnh người lính chiến ngủ sau những chặng đường khó khăn gian khổ, nhưng nhìn vào thực tế khốc liệt của chiến trường miền tây thì đó là sự hy sinh của một người lính Tây Tiến, anh ra đi trong giấc ngủ ngàn thu, tay vẫn ôm lý tưởng chiến đấu là súng và mũ. Nhà thơ đã tìm những cái cách nói giảm nói tránh để giảm bớt đi sự đau thương, mất mát trong chiến đấu, cũng như khắc họa một vẻ đẹp khác của người lính Tây Tiến ấy là xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Không chỉ vậy hình ảnh oai hùng, anh dũng của đoàn quân Tây Tiến còn ẩn hiện sau tiếng gầm thét của thác nước, của những loài hùm beo hổ báo ngự trị nơi núi rừng, bởi dẫu có gặp biết bao những nguy hiểm rình rập thì người lính Tây Tiến vẫn vững bước hành quân, vẫn giữ cho mình một tinh thần thép, họ vẫn đi hết chiến trường miền Tây Bắc, sang cả vùng Sầm Nứa của Lào, rồi vòng về vùng tây Thanh Hóa, có gì có thể cản được bước chân oai hùng ấy đâu.

Và giữa những tháng ngày hành quân gian khổ người ta không chỉ thấy được vẻ đẹp của người chiến sĩ trong lúc hành quân gian khổ, mà còn thấy hình tượng của người lính trong những lúc sinh hoạt đời thường. Mà ở đó vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, hồn nhiên của những chàng thanh niên Hà thành, mang theo hành trang còn thơm mùi mực bút được thể hiện một cách rõ ràng và tinh tế bằng cảm hứng lãng mạn sâu sắc.

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Bên cạnh cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt thì họ cũng có một cuộc sống tinh thần rất sôi nổi, dù rằng điều này không thường xuyên diễn ra, ở đó ta thấy hiện lên hình ảnh người lính chiến tạm quên đi những khổ cực, những hy sinh mất mát, những đớn đau trong chiến đấu để hòa mình vào cuộc vui, say sưa nhảy múa bên đống lửa bập bùng. Họ cũng là những con người có cảm xúc, cũng ham thích sự náo nhiệt, rộn ràng, đặc biệt những người lính Tây Tiến lại xuất thân từ thủ đô thế nên trong tầm suy nghĩ, họ luôn có cái gì đó rất hào hoa và lãng mạn. Người lính chiến cũng buông lỏng tinh thần, thấy yêu đời, thấy trẻ trung khi được tiếp xúc với những cô gái vùng cao xinh đẹp duyên dáng, trong những điệu múa, những nụ cười trong trẻo, điệu bộ "e ấp", trong tiếng nhạc, tiếng khèn dân tộc vừa đầm ấm, vừa có phần mới mẻ. Cuộc vui lễ hội sau những ngày tháng chiến đấu kiên cường vất vả đã để lại trong trái tim người chiến sĩ những niềm vui, niềm hạnh phúc sung sướng khó tả, đó là cảm giác lâng lâng, thi vị, hồn người bỗng hóa thơ. Và người lính Tây Tiến lại mang trong mình một nỗi nhớ khác, nỗi nhớ thi vị và trữ tình không chỉ với con người mà với cả thiên nhiên thơ mộng trong những câu thơ rất lãng mạn.

"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?"

Đó là về hình tượng người lính trong nỗi nhớ chiến trường, trong đời sống sinh hoạt tinh thần, nhưng có lẽ nổi bật và đáng chú ý nhất về hình tượng người lính Tây Tiến thì phải kể đến những câu thơ còn lại. Mà ở đó khuynh hướng sử thi trong tạo hình nhân vật trở nên nổi bật và đặc sắc hơn cả, kết hợp với cảm hứng lãng mạn đã làm cho hình tượng người lính Tây Tiến trở thành tượng đài bi tráng và bất tử của nền văn học Việt Nam những năm 1945-1975.

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Bằng hai nét vẽ "không mọc tóc" và "quân xanh màu lá" nhà thơ Quang Dũng đã tái hiện được một cách chân thực và sống động hiện trạng quân đội ta những năm đầu kháng chiến đầy gian khổ. Bệnh tật, những cơn sốt rét rừng khủng khiếp đã hành hạ những người lính chiến, để lại một hình ảnh có vẻ hơi kỳ dị "đoàn quân không mọc tóc", cùng với làn da xanh xao, xám ngắt như màu lá lạnh lẽo chốn núi rừng hoang vu. Có thể nói rằng Quang Dũng thường phát huy cảm hứng lãng mạn trong thơ mình một cách dày đặc thế nhưng chỉ riêng những nét vẽ này Quang Dũng lại thẳng thắn, không trốn tránh sự thật mà phơi bày ra cái khắc nghiệt của chiến trường miền Tây Bắc những năm 1947-1948. Mà sự khắc nghiệt này cũng đã nhiều lần được các nhà thơ cùng thời tái hiện, ví như Chính Hữu "Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh/Rét run người vầng trán ướt mồ hôi" hay Tố Hữu với vần thơ "Giọt mồ hôi rơi trên má anh vàng nghệ", đó là ký ức không thể nào quên đối với người lính Tây Tiến. Và trong cái hiện thực vẫn tồn tại cái lãng mạn, Quang Dũng không để hình tượng người lính chiến ở vị trí bị động trước khó khăn thay vào đó bằng bút pháp lãng mạn, phóng khoáng ông đã đặt hình ảnh người lính Tây Tiến vào tầm vóc chủ động. Không phải là sốt rét đến nỗi không mọc tóc (dù đó là sự thực) mà bằng ngòi bút tinh tế ông đã vẽ lại một nét thành "không mọc tóc", đoàn quân chủ động không mọc tóc để tạo cho mình một hình hài đặc biệt, dữ dằn đương đầu với chiến sự. Màu xanh xám của da dẫu là vì bệnh tật hành hạ thế nhưng nó vẫn ẩn chứa một vẻ mạnh mẽ, kiên cường, oai hùng, khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ. Hiện thực đau thương nhưng bằng đôi mắt tài hoa, phóng khoáng, lãng mạn của Quang Dũng, nó đã khoác lên mình một vẻ hào hùng, bi tráng và mang tầm vóc sử thi của thời đại. Ẩn chứa bên trong cái ngoại hình bi tráng, dữ dằn ấy là sức mạnh nội tâm của người lính chiến, bắt nguồn từ hình ảnh "đoàn binh" gợi sự đông đúc, tinh thần đoàn kết, khí thế ra trận mạnh mẽ.

Bên cạnh những nét vẽ về một tâm hồn kiên cường, bất khuất thì tượng đài người lính Tây Tiến còn được khắc họa bằng những nét vẽ về một tâm hồn mộng mơ, giàu sức trẻ. Trong những đêm ôm súng không ngủ trên đất khách, người lính chiến đã hướng tầm mắt, hướng tâm hồn mình về với Tổ quốc thân yêu, về với quê hương Hà thành nơi các anh đã gửi lại bao kỷ niệm về một thời áo trắng, bút vở thân yêu. Và ở đó còn có cả bóng dáng những cô gái Hà Nội dịu dàng, duyên dáng, là tình yêu, là nỗi nhớ của những chàng thanh niên xa quê hương chiến đấu. Xét thấy đây là một câu thơ rất tinh tế và nó phản ánh đúng bản chất của con người, không phân biệt là tiểu tư sản hay là nông dân thì trong tâm hồn mỗi một người đều có những nhu cầu tình cảm, nhu cầu hạnh phúc, cũng chính vì lẽ đó thì ngoài tình yêu quê hương, yêu đất nước thì tình cảm cá nhân cũng chính là một trong những nguồn động lực to lớn để thúc đẩy và nâng cao tinh thần chiến đấu đấu, chứ không phải là làm suy sụp hay gieo rắc tính ủy mị trong lòng quân như những quan niệm trước đây.

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Hình tượng người lính Tây Tiến tiếp tục được khắc họa bằng những nét vẽ về lý tưởng và khát vọng chiến đấu cao đẹp, bất chấp sự hy sinh, mất mát để giành về cho Tổ quốc thân yêu sự độc lập và tự do. "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" đó là hiện thực tàn khốc của chiến trường, nhưng bằng việc dùng những từ Hán việt trong câu thơ của mình thì ý thơ trở nên trang trọng, cổ kính hơn hẳn, bớt đi cái sự thê lương, ảm đạm, kéo về sự hào hùng, bi tráng nhưng không bi lụy trong chiến đấu. Đọc câu thơ tiếp "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh", nó như là một lời thề sắt son, quyết tâm vì Tổ quốc mà hy sinh cả đời trai trẻ, họ đã xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, điều đó càng tô đậm nên vẻ đẹp sử thi anh hùng của người lính Tây Tiến. Đặc biệt hình ảnh hy sinh mất mát lại càng làm nổi bật nên hiện thực và sự oai hùng trong chiến đấu của bộ đội ta "Áo bào thay chiếu anh về đất", nó xuất phát từ việc những người lính lần lượt nằm xuống trên chiến trường, thế nhưng vì hoàn cảnh thiếu thốn, họ buộc phải ở lại nơi đất lạ cùng với một manh chiếu bó thây. Tuy nhiên với ngữ điệu thơ nhẹ nhàng, trầm thấp Quang Dũng không đem đến nỗi đau thương, bi lụy mà thay vào đó là cảm giác tự nguyện, tự nghĩa của những người anh hùng, họ đến và chiến đấu hết mình rồi về với đất mẹ thiêng liêng với một tâm thế thanh thản, hiên ngang vì hoàn thành sứ mệnh trả nợ nước, trả nợ cho đời, họ chẳng còn gì nuối tiếc. Hình ảnh "Sông Mã gầm lên khúc độc hành" tựa như là khúc nhạc hùng tráng, tiễn đưa người lính chiến về với thế giới bên kia, con người cố kìm nén nỗi đau, thế nhưng thiên nhiên là chứng nhân lịch sử đã chứng kiến biết bao đau thương mất mát đến giờ phút này cũng phải bật ra tiếng thét bi tráng, vang vọng cả đất trời.

Hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ đã được Quang Dũng khắc họa một cách tài tình bằng những nét vẽ đậm nhạt khác nhau, kết hợp tính nhạc cùng với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, tạo nên một tượng đài bi tráng và bất tử của nền văn học Việt Nam hiện đại. Qua đó ta thấy được vẻ đẹp của những người con anh hùng trong kháng chiến thông qua nhiều khía cạnh khác nhau, từ sự kiên cường trong điều kiện đấu tranh gian khổ, tâm hồn tươi trẻ, mơ mộng, đến lý tưởng và sự hy sinh vĩ đại trong cuộc kháng chiến anh hùng của cả dân tộc.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 48

“Tây Tiến”  là bài thơ hay nhất của Quang Dũng cũng là một trong những bài thơ tuyệt bút về  “anh bộ đội cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng là nhà thơ – chiến sỹ, vừa cầm súng đánh giặc, vừa làm thơ. Ông viết về đồng đội, về đoàn bình Tây Tiến thân yêu của mình. Thơ của Quang Dũng nóng bỏng hòa khí chiến trường.

Tây Tiến – Quang Dũng

Sau một thời gian xa dân tộc đơn vị và đồng đội, ông viết bài thơ “Tây Tiến” này vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa điểm bên sông Đáy hiền hòa. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông Mã và núi rừng miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ “chơi với” bao kỉ niệm và cảm động một thời đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Đây là đoạn thời thứ 3 trong bài “Tây Tiến” đã khắc họa “ khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sỹ trong máu lửa:

“ Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu , vượt qua bao núi cao dốc thăm thẳm “ heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Đoàn quân Tây Tiến hiện ra ra giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng , nước da xanh phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực: “không mọc tóc”. Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm đầu kháng chiến vốn thế. “không mọc tóc” là hình ảnh phản ánh cái khốc liệt của chiến trường:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Cái hình hài không lấy gì làm đẹp: “quân xanh màu lá”, “không mọc tóc” tương phản với “dữ oai hùm” là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ. “ Dữ oai hùm” là hình ảnh người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Trong Bình ngô đại cáo Nguyễn Trãi có viết  ” Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” ! Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh giặc, thời đại nào cũng có những chiến sỹ “tì hổ” “vuốt nanh” . Với niềm tự hào đó Quang Dũng đã viết nên câu thơ ” Quân xanh màu lá dữ oai hùm” lấy cái thô để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn chiến sĩ.

Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật… muốn lần khó khăn, thử thách nhưng họ vẫn có những  giấc “mơ”, giấc “mộng” rất đẹp:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời : biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc “Mắt trừng” hình ảnh gợi nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới”  – Mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên cương lập nên bao chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Dù trong hoàn cảnh như vậy các anh vẫn nhớ những “dáng kiều thơm” từng hò hẹn, Quang Dũng đã đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút của nhà thơ – chiến sĩ nó đã trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc.

Bốn câu thơ tiếp theo làm là những nét vẽ bổ trợ, tô đậm bước chân dung người lính:

“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên  chiến trường miền Tây. Họ nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sỹ “ rải rác biên cương” câu thơ để lại trong lòng nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” . Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm văn canh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo ” Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính.  Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ độc lập tự do cho tổ quốc. Anh bộ đội cùng nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá ” Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước”. Quang Dũng đã ghi lại  cảnh tượng bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Các tráng sỹ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ với tấm “áo bào” bình dị ấy: “Anh về đất”. Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản.  Nhà thơ không dùng từ “chết” hay “hi sinh” mà lấy cụm từ “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị ấy. Đất mẹ ôm các anh vào lòng để các anh hòa cùng non sông tổ quốc. Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì đất nước quê hương. Câu “Sông mã gầm lên khúc độc hành” là một câu thơ hay vì nó gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng đồng thời tạo nên âm điệu trầm hùng, thương tiếc.

Ngôn ngữ của Quang Dũng thật đặc sắc bên cạnh những từ ngữ bình dị như : gục, không mọc tóc, dữ, trừng, về đất, gầm lền… lại có một số từ hán việt: mộng, mơ, biên giới, dáng kiều thơ, viễn xứ, áo bào, khúc độc hành – nhờ đó mà cái bình dị làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng cái bình thường tô đậm cái anh hùng, vĩ đại. Chất bi tráng và màu sắc lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử.

Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ “Tây Tiến” là đoạn thơ độc đáo nhất. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu hiện cảm xúc, tạo nên những câu thơ “có hồn”. Người Lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Hình tượng người chiến sỹ Tây Tiến mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu và tâm hồn dân tộc.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 49

Hình ảnh người lính Tây Tiến là hình ảnh đẹp nhất nảy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp được Quang Dũng khắc họa qua tác phẩm cùng tên. Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những đấu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc và hình ảnh người lính là một trong số đó. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng.

“Đồng chí” của Chính Hữu, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là những bài thơ nổi tiếng một thời vẽ lên vẻ đẹp hào hùng, hào hoa bi tráng của người lính chống Mỹ, nhưng thi phẩm đặc sắc nhất phải kể đến “Tây Tiến” của Quang Dũng. Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Họ thuộc nhiều tầng lớp khác nhau nhưng đều tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc, ra đi với lí tưởng chung của dân tộc và chiến đấu với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Như bao thanh niên hăng hái với lí tưởng cao đẹp: ra đi vì Tổ quốc. Quang Dũng, tác giả của bài thơ Tây Tiến cũng hòa vào dòng người nô nức đi nhập ngũ. Từ bỏ tầng lớp tri thức để hăng hái tham gia vào kháng chiến, sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ. Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về đồng độ, những tháng năm chiến đấu gian nan mà đầy tự hào, nhớ đơn vị cũ, bao con đường hành quân cùng đồng đội mà ông đã qua, nỗi nhớ ấy bật ra thành hai câu thơ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Nỗi nhớ đơn vị cũ dai dẳng trong con người nghệ sĩ ấy, nhớ “chơi vơi” nỗi nhớ không có hình, không có lượng nhưng hình như rất mênh mồng đầy ắp. Rồi nhà thơ Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:

“Sài Khai sướng lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

Chiến trường luôn đầy những gian khổ, chông gai, qua đoạn thơ này có thể thấy được sự gian nan ấy. Con đường hành quân với bao khắc nghiệp của một miền đấy vùng núi rừng biên ải. Tất cả những từ ngữ miêu tả “heo hút”, “dốc lên khúc khuỷu”… đều để diễn tả một nỗi khó khăn, trắc trở gập ghềnh. Bó ghi lại ấn tượng về một miền núi thật dữ dội và khắc nghiệt. Và hình ảnh người lính hiện lên với sự hi sinh cao cả và những gian khó, hiểm nguy mà họ phải chịu đựng:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ, bỏ quên đời.”

Đó là sự thật tàn khốc trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên đường hành quân. Sư hy sinh thầm lặng góp sức vào công cuộc khàng chiến. Người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng giữ tư thế của người lính đã làm sáng bừng cả ý thơ. Đã ra đi nhưng súng mũ cấn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn sẵn sàng trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Người lĩnh dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến khó khăn khóc nhưng vẫn chẳng chùn bước, vẫn kiên cường bước về phía trước.

Sự gian khó ấy góp phần nói lên cái bi tráng của anh hùng, nói cái gian khổ để đề cao cái chiến thắng. Và hình ảnh người lính sẽ không cao đẹp và hùng vĩ đến vậy nếu những chiến thắng là quá dễ dàng và họ không trải qua những thứ gian truân gập ghềnh của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt:

“Lao xao sóng vỗ ngọn từng

Gian nan là nợ anh hùng phải vay”

Lời đúc kết ấy là giá trị ý nghĩa cao đẹp nhất của chiến thắng, của nhân phẩm con người để rồi giữa sự khắc nghiệt ấy thì niềm vui, sự sống dù nhỏ cũng thật ấn tượng:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”

Gian khó hay vất vả nhưng người lính vẫn luôn cảm nhận được sự sống ấm áp xung quanh mình. Họ vẫn mang một tâm hồn yêu đời, lạc quan, trẻ trung. Chính vì lẽ ấy, trong họ vẫn luôn có một hình ảnh dáng thuyền độc mộc, dáng hoa trên nước lũ. Ngỡ bao thử thách của chiến trường bom đạn sẽ khiến họ quên đi nhưng với một tấm lòng cao cả, họ vẫn mãi nhớ. Rồi chính những hình ảnh ấy đã trở thành nguồn động viên to lớn thúc giục họ chiến đấu, vượt qua và hiên ngang đón nhận những thử thách mới:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá, dữ oai hùm”

Đoàn quân ấy bất chấp khó khăn, căn bệnh sốt rét làm đoàn binh không có tóc, nhưng cách nói “không mọc tóc” của Quang Dũng lại góp phần tạo nên bức tượng tráng sĩ với dáng dấp hùng vĩ và oai phong. Họ sẵn sàng hi sinh để  bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ “Mơ về Hà Nội dáng kiểu thơm”, hình ảnh yên bình ấy tiếp sức cho họ, khiến họ gian khổ chẳng ngại bước:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Ôi! Còn gì đáng quý và cảm động đến đau đớn hơn thế. Những người lính oai phong ra đi chẳng tiếc chi tuổi trẻ, chẳng tiếc chi một cuộc đời bởi họ nhận thức được vai trò và trách nhiệm của chính mình. Và vì trong những con người cao cả ấy là một trái tim nồng nàn yêu nước.

Ý chí một đi không trở lại là ý chí chung của cả thế hệ trẻ, cả một thời đại đã một lần nữa được khẳng định qua “Tây Tiến”- Quang Dũng. Những hy sinh của người lính Tây Tiến ấy đã góp vào trang sử vàng chói lọi của lịch sử dân tộc, độc lập tư do hôm nay là được tạo nên từ máu và tinh thần quả cảm của những người lính dũng cảm!

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 50

Quang Dũng vốn là một nhà thơ tài hoa và với ngòi bút dồi dào sáng tạo ông đã khắc họa  hình ảnh người lính Tây Tiến đô thành với những nét đẹp sáng ngời và dũng cảm. Khổ thơ thứ 3 trong bài Tây tiến là một trong những khổ thơ đắc sắc.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm….
Sông Mã gầm lê khúc độc hành

 Những hình ảnh người lính tây tiến mới đậm chất hào hùng làm sao. Họ sống và sinh ra là những chàng trai mang nguồn gốc đô thành, với vẻ hào hoa lịch lãm vốn có của mình. Nhưng, nay trở thành người lính phải sống trên vùng núi cao hiểm trở. Điều đó đã khiến “không mọc tóc” và họ bị sốt rét rừng nên cả cơ thể trùm trong màu lá.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hình ảnh người lính không chỉ có những giây phút làm việc, họ còn nghỉ ngơi và nằm bên nhau. Những giấc mơ của họ luôn hướng về miền quê xinh đẹp nơi có những cô gái trong tà áo trắng tinh khôi. Không những thế ánh mắt họ luôn giữ mộng gửi tinh thần thép qua biên ải. Khẳng định khí thế quyết tâm và trái tim người lính lãng mạn, hào hoa.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Những nơi biên ải xa xôi, người lính tây tiến đã để lại trái tim mình ở đó. Thân xác họ hi sinh và trở về đất mẹ. Họ nằm rải rác khắp biên cương viễn xứ. Nơi đó chính là nơi ghi dấu chiến trường họ nằm xuống, ra đi nhưng chẳng tiếc đời xanh, chẳng màng thanh xuân tươi trẻ.

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Áo bào là hình ảnh những tấm áo khoác ngoài của họ. Đó là hình ảnh thực đau thương, người lính không có chiếu, mà dùng áo bào để quấn thân mình nằm xuống. Sông Mã như cất lên tiếng khóc đau thương những anh hùng. Như gầm lên và chia buồn cùng đất nước trước mất mát của họ.

Cảm ơn Quang Dũng đã để lại cho ta một hình ảnh người lính Tây Tiến như vậy. Họ đã sống và chết, giản dị như vậy, và dũng cảm như vậy. Ta càng phải cố gắng để dựng xây đất nước, báo đáp công ơn ông cha ta để lại.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 51

Tây Tiến một binh đoàn được thành lập giữa nước ta để phối hợp với quân đội của nhân dân nước Lào, nhằm giúp hai nước liên kết cùng bảo vệ vùng biên giới, trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Hình tượng người lính trong bài thơ "Tây Tiến" chính là một người lính giản dị, đời thường nhưng vẫn đẹp và toát lên những ánh hào quan của mình.

Bài thơ "Tây Tiến" được tác giả Quang Dũng miêu tả lên cảnh núi rừng hoang sơ, những con đường Trường Sơn với nhiều núi cao vực thảm, tạo nên những gập ghềnh trên con đường hành quân của chặng đường đi của những người lính Tây Tiến. Thiên hiên hung dữ và khắc nghiệt đã tạo nên một người lính với những nét vẽ vô cùng thô mộc nhưng tạo nên một hình ảnh người lính giản dị, gần gũi nhưng cũng tăng lên thần thái anh hùng của những người chiến sĩ cách mạng, những người lính dù chịu nhiều gian khổ nhưng vẫn luôn thể hiện được phẩm chất cao quý, anh dũng.

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Thông qua những câu thơ này đó ta thấy hình ảnh người lính vô cùng chân thành, diện mạo bên ngoài của người lính được nguy trang với những chiếc lá cây xanh, thân thể của người lính vô cùng cùng ốm yếu xanh xao bởi những trận sốt rét rừng bởi nơi rừng thiêng nước độc đã khiến cho người lính trở nên gầy gò đi rất nhiều. Hình ảnh người lính không mọc tóc gợi lên nhiều sự thô mộc, giản dị nhưng vô cùng gần gũi với người đọc. Dù người lính của chúng ta gặp nhiều khó khăn, trong chặng đường hành quân của mình nhưng người lính vẫn luôn làm tốt nhiệm vụ chiến đấu của mình. Họ vẫn luôn chắc tay súng vững vàng để bảo vệ nền độc lập của nước nhà trước kẻ thù. Những người lính đã thể hiện một dáng dấp của một người anh hùng, luôn đối đầu với những hy sinh khó khăn gian khổ, thể hiện sự hiên ngang lãng mạn của mình. Dù người lính luôn gặp những khó khăn nhưng trong trái tim của họ vần tràn đầy lòng nhiệt huyết một niềm tin vào ngày mai tươi sáng. Những người lính Tây Tiến đều ra đi từ thủ đô Hà Nội họ từng có thời đi học ngồi dưới mái trường thân thương. Họ luôn mơ về một hình ảnh dáng kiều thơm, một hình ảnh người lính với những giấc mơ về một cuộc sống bình yên, thể hiện tinh thần rất nhân văn của tác giả Quang Dũng.

Bằng ngòi bút văn chương lãng mạn sâu sắc đã thể hiện cảm hứng nhân văn vô cùng đẹp và đậm chất thơ trong hình ảnh người lính. Người lính ra đi từ Hà Nội trở thành những người chiến sĩ vô cùng anh dũng, một người lính vô cùng anh dũng phi thường

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Trong hai câu thơ này trong bài thơ "Tây Tiến" là hình ảnh vô cùng nhân văn thể hiện một người lính lãng mạn, những người lính với nét hào hao, một giấc mơ vô cùng thiêng liêng thể hiện một mái ấm gia đình một hạnh phúc lứa đôi giản dị. Những người lính mang theo giấc mơ về một ngày mai tươi sáng lên đường để bảo vệ quê hương của mình khỏi kẻ thù.  Dù gặp nhiều khó khăn thử thách nhưng họ vẫn luôn kiên cường, thể hiện sự anh dũng, hào hao của mình. 

 Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Trong hai câu thơ này thể hiện sự xót xa của tác giả khi xây dựng người lính trong bài thơ Tây Tiến. Những người lính khi tham gia những trận đánh họ đã hy sinh thân mình để bảo vệ từng nắm đất quê hương. Những con người lính đó đã dành cả tuổi thanh xuân của mình để bảo vệ cuộc sống bình yên của những người thân. Họ đã sống đẹp và sống giản dị, những cái chết của người linh chính sự hy sinh cao cả mà chúng ta vô cùng biết ơn bởi sự hy sinh của họ đã giúp cho dân tộc Việt Nam chúng ta được bình yên như ngày hôm nay.

Hình ảnh những người lính trong bài thơ Tây Tiến thể hiện cách viết vô cùng tinh tế, hào hoa, sắc sảo của nhà thơ. Khi đọc xong bài thơ chúng ta nhớ mãi về hình ảnh người lính vừa oai hùm, vừa giản dị với những nét vẽ mộc mạc, giản dị. Những người lính ra đi tạm biệt cuộc sống trở về với đất mẹ, nhưng trái tim họ cảm thấy vô cùng bình yên bởi họ đã dành trọn tuổi thanh xuân của mình để bảo vệ quê hương của mình. Họ đã sống đẹp sống hết mình với tuổi trẻ một tuổi trẻ vô cùng ý nghĩa có lý tưởng sống tích cực.

Hình tượng người lính trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng là một hình ảnh người lính vô cùng chân thực giản dị những vẫn toát lên sự anh dũng, một hình tượng người lính đậm chất thơ nhưng lại không tô hồng mà luôn bất tử trong lòng người đọc.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 52

Viết về cuộc sống và chiến đấu của quân và dân ta là ưu tiên hàng đầu của nền văn học kháng chiến. Chúng ta có thể tự hào rằng, nền văn học nước nhà đã có những tác phẩm xuất sắc, phản ánh sâu sát cuộc sống và chiến đấu kiên cường, bất khuất của các chiến sĩ.

Các nhà văn đã bám sát hiện thực cuộc chiến, kịp thời phát hiện, ca ngợi, biểu dương những tấm gương anh hùng, đã chiến đấu quên mình vì đất nước. Và “Tây Tiến” của Quang Dũng là một trong những đề tài nổi cộm đó, đọc “Tây Tiến” ta sẽ luôn nhớ đến hình ảnh các chiến sĩ gân guốc trong chiến tranh một cách thực nhất qua các câu thơ 

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc…

........................

…Sông Mã gầm lên khúc độc hành!

- Cái gian khổ của người lính ngoài thao trườngđược Quang Dũng miêu tả một cách rất thực và pha chút hóm hỉnh trong câu thơ:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Qua hai câu thơ như lột tả hết sự chịu khó với các bệnh tật của các chiến sĩ, đó là sự khổ cực mà chiến tranh gây ra. Gian khổ trước hết phải đối đầu với quân địch và tiếp theo là sự đôí mặt với nhiều căn bệnh trong cơ thể mình.

Quang Dũng đã miêu tả một đoàn quân cầm súng anh hùng và tóc không mọc, da thì xanh tái . Qua đây ta có thể thấy bệnh sốt rét làm các anh đến nỗi tóc không mọc nhưng không vì thế mà làm các anh nhục chí dưới các căn bệnh đó.

Các anh vẫn hiên ngang chắc tay súng, đoàn binh đó vẫn đoàn kết một lòng tiến về phía trước không sợ một cái chết nào, không gì có thể đánh bại được các chiến sĩ hùng dũng đó.

Hình ảnh đó gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Hình ảnh các chàng trai Hà Nội kiêu hùng hào hoa ấy giống như hình ảnh các chiến sĩ Trường Sơn đánh giặc với những chiếc xe không kính trong ”Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.

Bạn đọc có thể cảm nhận được họ có  trái tim chứa đầy nhiệt huyết, chứa đầy tinh thần chiến đấu. Tất cả khó khăn dồn nén lên cơ thể, trách nhiệm của một người lính với dân, với nước hết sức nặng nề trên vai các anh nhưng các anh vẫn giữ tinh thần hiên ngang ”dữ oai hùm”.

Cho thấy các anh yêu nước, yêu dân tộc này biết bao!

Khó khăn, gian khố là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi, vơi đi nhừng tình cảm lãng mạn:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Chiến trường đầy máu và sự mất mát nhưng các anh vẫn hi vọng về một điều đẹp đẽ ở phía trước. Vẫn là tư thế nhìn thẳng quân thù “mắt trừng” nhưng trong tâm trí các anh luôn khắc ghi hình ảnh gia đình, những người thân thương

Ước muốn là thế nhưng cac anh hiểu được sự hi sinh là điều tất nhiên có thể xảy ra, đây là chỗ một sống một còn, các anh dám nhìn thẳng vào sự thật khóc liệt:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…

Đến câu thơ: Sông Mã gầm lên khúc độc hành!

Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Hành quân trên đường đi qua các nấm mồ của đồng đội nhưng các anh vẫn không run sợ vì cái chết trước mắt, các anh vẫn hành quân về phía trước một cách hùng dũng.

Các anh hiểu nếu như có hi sinh thì đó là một sự hi sinh cao cả, là sự hi sinh vì dân, vì nước. các anh dám đánh đổi tính mạng của mình để xây nền hòa bình, độc lập cho tổ quốc, cho đất nước. Tiêng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.

 Quang Dũng đã xây nên một hình tượng đẹp của những chiến sĩ anh hùng, có ý chí, có sự quyết tâm bền bỉ, sắt son,.. Đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 53

Trong bài Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng lên một bức tượng đài uy nghi, sừng sững về những người lính cách mạng vừa chân thực, vừa có sức khái quát đại điện cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Cùng tham khảo dàn ý chi tiết và bài viết mẫu cảm nhận hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến qua bài viết dưới đây.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh mùa lá dữ vai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Khổ thơ đã khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến trong khắc nghiệt, gian khổ trên chặng đường hành quân. Sau những giờ hành quân nhọc nhằn, người lính Tây Tiến tìm về nét tính cách hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn, tìm về vầng sáng lung linh trong ký ức – những thiếu nữ Hà Thành. 

* Vẻ đẹp ngoại hình dữ dội, lẫm liệt:

+ Hình ảnh:

– “Đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”: vừa thực tả những gian khổ, nghiệt ngã nơi chiến trường mà người lĩnh phải trải qua; vừa thể hiện sự chủ động, ngang tàng của họ.

– “Mắt trừng”: lòng căm thù giặc; sự oai phong, lẫm liệt của anh hùng thời loạn.

+ Từ ngữ “dữ oai hùm”: những người lính Tây Tiến hùng dũng, hiên ngang như vị chúa tể rừng xanh.

– Vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa: nhớ về những thiếu nữ Hà thành duyên dáng.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Sự hi sinh bi tráng của những người lính Tây Tiến đã “làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ thắm”. Chính những kỉ niệm ấy khiến cho những người lính sẽ không thể nguôi quên quãng thời gian đã từng gắn bó.

* Vẻ đẹp bi tráng:

+ Hình ảnh: những nấm mồ lạnh lẽo. Đây chính là hiện thực cuộc chiến và sự hi sinh.

+ Tâm thế: chẳng tiếc đời xanh, không né tránh cái chết, sẵn sàng dâng hiến tuổi thanh xuân đẹp nhất cho đất nước.

+ Từ ngữ:

– “Biên cương”, “viễn xứ”, “chiến trường”, “độc hành”: những từ Hán Việt tạo âm điệu trang trọng khiến cho những cái chết trở nên thiêng liêng.

– “Áo bào”, “về đất”: tráng lệ hóa sự hi sinh, làm cho câu thơ bi mà không lụy, giảm bớt sắc thái đau buồn.

– “Khúc độc hành”: Khúc nhạc thiêng liêng mà con sông nhân chứng cất lên để tiễn đưa người lính về với đất mẹ.

– Tình cảm gắn bó với núi rừng Tây Tiến: hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Từ trải nghiệm của cuộc đời chiến sĩ trong khói lửa, đạn bom, Quang Dũng đã dựng lên một bức tượng đài uy nghi, sừng sững về những chàng trai Hà Nội mang gươm đi giữ nước: anh hùng, bất khuất trong chiến đấu, lãng mạn, yêu đời trong cuộc sống nhọc nhằn.

Sống hào hoa và chết hào hùng. Đó là vẻ đẹp sáng mãi của đoàn quân Tây Tiến. Chính những vẻ đẹp, những nghĩa tình ấy khiến cho người lính dù về xuôi vẫn luôn khắc nhớ Tây Tiến như một kỉ niệm của một thời hi sinh nhưng hào sảng.

Quan Dũng không hề che giấu những khó khăn, gian khổ và hiện thực nghiệt ngã mà người lính phải chịu đựng. Tuy nhiên, sự thật ấy không được miêu tả trần trụi, khô cứng mà thông qua cái nhìn lãng mạn, thi vị:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Người lính Tây Tiến hiện lên với một vẻ đẹp ngoại hình dữ dội, lẫm liệt. Những chàng trai với cái đầu “không mọc tóc”, với nước da ngăn ngắt xanh đâu phải sản phẩm của trí tưởng tượng để tạo nên sự li kì. Đó là hiện thực của những năm tháng không thể nào quên. Có thể, do người lính chủ động cạo trọc để thuận tiện khi đánh nhau với giặc, có thể do ốm đau, bệnh tật khiến các anh rụng tóc, trụi đầu. Cách dùng từ độc đáo đã đảo thế bị động thành thế chủ động như một nhà phê bình đã viết: “Không phải là các anh không thể mọc tóc mà dường như không thèm mọc tóc”. Chất ngang tàng, kiêu dũng, xem thường gian lao của người chiến binh đã được thể hiện từ những chi tiết đời thường như thế. Nét quân phục người chiến sĩ hay màu xanh của những vòm lá ngụy trang hay màu xanh vì căn bệnh sốt rét rừng hằn in trên làn da đoàn quân Tây Tiến như một nhà thơ từng viết:

“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật

Đâu còn tươi nữa những ngày qua”

Dù đầu rụng hết tóc, da dẻ xanh xao vàng vọt lên màu bệnh tật nhưng lính Tây Tiến vẫn giữ được vẻ uy nghi lẫm liệt như hùm hổ chốn rừng thiêng, như chúa tể sơn lâm “dữ oai hùm”. Bao nhiêu sức mạnh nội lực, vẻ can trường của người lính như dồn nén vào câu chữ để tôn lên sức mạnh kì diệu của con người bắt nguồn từ lòng yêu nước đang rần rật chảy trong từng đường gân, thớ thịt của những chàng trai Hà thành. Quang Dũng đã phát huy triệt để hiệu quả của biện pháp đối lập giữa vẻ bề ngoài và nội tâm, nhìn vẻ ngoài người lính vừa tiều tụy, vừa can trường, vừa mang khí phách của một hiệp sĩ, vừa như những người khổng lồ không có trái tim. Thế nhưng đó chỉ là lớp vỏ bao bọc hạt ngọc tâm hồn – tâm hồn hào hoa, lịch lãm, lãng mạn và giàu đức hi sinh:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Ánh “mắt trừng” chứa đầy cảm xúc, đầy nội tâm. Phải chăng đó là ánh mắt căm phẫn, uất nghẹn như muốn nuốt chửng kẻ thù xâm lăng, cũng có thể là ánh mắt đau đáu hướng về quê hương, ánh mắt bồn chồn, thao thức thăm thẳm suy tư nặng trĩu nỗi niềm. Đằng sau ánh mắt ấy là cả một niềm khao khát, mang theo giấc mộng chiến thắng, hứa hẹn ngày trở về, đôi khi giữa ánh mắt xa xăm, rạo rực, khắc khoải xen lẫn giấc mơ về Hà Nội, nhớ Hà Nội – dải đất thiêng ngàn năm văn hiến, nhớ Hà Nội bởi:

“Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa

Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng

Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng

Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm”

(Ngày về – Chính Hữu)

Những ai đã từng sống và gắn bó với Hà Nội khi đi xa đều vương một nỗi buồn, đều mang theo một nỗi nhớ; nhớ phố cổ thâm nghiêm, nhớ lá vàng rơi trên vai người thiếu nữ, lá vàng đậu trên rèm cửa. Ai đó lại xao xác tâm hồn bởi tiếng rao đêm hay Nguyễn Đình Thi nhớ nhiều và thật nhiều “mùi hương cốm mới” mỗi độ thu về. Còn người lính Tây Tiến xa Hà Nội mang theo “dáng kiều thơm”. Một cách cảm nhận thật nho nhã, lịch lãm, nỗi nhớ trở nên vời vợi hơn, đằm thắm, ngọt ngào, da diết hơn. Dáng kiều thơm – bóng dáng của những người thiếu nữ Hà thành dịu dàng trong tà áo dài duyên dáng bên Tây Hồ. Phải chăng đó là bóng hồng, bóng liễu đã một thời để nhớ, để thương. Vì thế mà nỗi nhớ còn đượm mùi sách vở, tôn lên vẻ lịch lãm của người Hà Nội. Đây không phải là cái “mộng rơi mộng rớt” của những trí thức tiểu tư sản mà là vẻ đẹp tâm hồn rất hào hoa, lịch lãm, lãng mạn của những chàng trai “xếp bút nghiên lên đường bảo vệ Tổ Quốc”. Khổ thơ đã khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến trong khắc nghiệt, gian khổ trên chặng đường hành quân. Sau những giờ hành quân nhọc nhằn, người lính Tây Tiến tìm về nét tính cách hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn, tìm về vầng sáng lung linh trong kí ức – những thiếu nữ Hà thành.

Trong bài Tây Tiến, ngòi bút Quang Dũng không chỉ hướng về vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa mà còn tập trung thể hiện chất hào hùng, bi tráng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay áo anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Giọng thơ bỗng nhiên lắng xuống da diết hơn, đắm sâu vào cõi lòng người đọc, dấy lên nỗi mất mát tang tóc đau thương được dồn nén trong từ “rải rác”. Thật vậy! Trên những chặng đường hành quân bao đồng chí, đồng đội của Quang Dũng ngã xuống, gửi thân xác mình nơi khe suối sườn đèo, cứ thế nỗi đau triền miên, nỗi đau này chưa vơi, nước mắt này chưa ráo thì nỗi đau khác đã tới cọ cứa vào trái tim những người còn sống. Một loạt những từ Hán Việt: “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ” được sử dụng để trang trọng hóa, cổ kính, vĩnh hằng và bất tử hóa đức hi sinh của người lính Tây Tiến. Có biết đâu những nấm mồ xanh cỏ, nơi ải nước xa xôi, hoang vu, lạnh lẽo mãi trở thành một chí tôn nghiêm mà đời đời Tổ quốc ca ngợi, ngưỡng vọng. Người xưa có câu: “Cổ lai chinh chiến kí người hồi – Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về”. Đó là hiện thực tất yếu từ ngàn đời nay, đặc biệt trong thời đại Hồ Chí Minh nối tiếp trang sử truyền thống cha ông càng không thể làm ngơ trước họa xâm lăng. Lính Tây Tiến cũng vậy. Họ sẵn sàng dâng hiến tuổi thanh xuân để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Họ nằm xuống nhưng không mất đi mà hóa thành hồn thiêng sông núi để muôn đời với dân tộc Việt anh hùng. Người chiến sĩ Tây Tiến đã “sống giản dị, chết bình tâm”, hiên ngang và cao thượng như lời thơ Thanh Thảo viết:

“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình “

(Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)

Nhưng nếu ai cũng tiếc tuổi hai mươi

Thì còn chi Tổ quốc”

Hai câu thơ khép lại một lần nữa tô đậm đức hi sinh của những chàng trai đất Hà thành được Quang Dũng thể hiện qua âm hưởng thơ trầm hùng, bi tráng:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Quang Dũng đã có lần tâm sự: “Lính Tây Tiến ngã xuống, manh chiếu không đủ che thân, đồng chí, đồng đội vào những bản làng xa xôi để xin chiếu, khi hiểu rõ mục đích của việc sử dụng chiếu, già làng không cầm được nước mắt, họ cùng nhau đan những phên nứa cho các anh bó gối thi hài đồng đội”. Vậy là “áo bào” được lý tưởng hóa – một hình ảnh tượng trưng để xua đi cái bi thương, bi lụy, lấy lại cái bi hùng, tráng lệ, đồng thời để trang trọng, vĩnh hằng, bất tử hóa. Áo bào vốn được dùng cho vua chúa xưa để khơi gợi con người mang trong mình lí tưởng đẹp. Trong những năm bom rơi đạn nổ, chất lãng mạn, bay bổng vượt lên trên hết thảy trở thành nơi trú ngụ của những tâm hồn đẹp. Vậy nên hình ảnh “áo bào” trong câu thơ như một liều thuốc xoa dịu đi những nỗi đớn đau, an ủi vong hồn người đã khuất. Lính Tây Tiến về với đất mẹ, đất mẹ sinh ra anh, đất cũng mở rộng vòng tay đón các anh về trong tình yêu thương, đùm bọc, nâng đỡ và sẻ chia. Cho dù khâm liệm bằng manh chiếu, phên nứa nhưng các anh sẽ được sưởi ấm bằng chính tình yêu của mảnh đất mà: “Mẹ Âu Cơ đã đi một vòng Trái Đật – Và chọn hình tia chớp để sinh con” (Trần Mạnh Hảo). Quang Dũng đã khơi gợi những tình cảm sâu xa đến tận đáy lòng người đọc để thấm thía hơn hình ảnh những người con đã hi sinh hóa hình Tổ Quốc.

Bài Tây Tiến là một trong những tác phẩm xuất sắc của Quang Dũng và thơ ca kháng chiến chống Pháp. Với cảm hứng lãng mạn bay bổng và tinh thần bi tráng, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình ảnh những người lính yêu nước, yêu đời, hào hoa, anh dũng. Với tác phẩm “Tây Tiến”, tác giả đã góp vào viện bảo tàng người chiến sĩ Việt Nam một bức chân dung đẹp và độc đáo.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến 54

Trong thời kì đấu tranh chống giặc cứu nước, người lính trở thành một hình tượng trung tâm được nhiều người nghệ sĩ đi vào khai thác, thể hiện. “Tây Tiến” của Quang Dũng cũng là một trong số những sáng tác như thế. Tác phẩm đã thực sự thành công khi đi vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến trong thời kì kháng chiến chống Pháp trong đó vẻ đẹp bi tráng là vẻ đẹp nổi bật để lại trong người đọc nhiều xúc cảm.

“Tây Tiến” là bài thơ viết về binh đoàn Tây Tiến nơi nhà thơ đã từng sống và chiến đấu. Những người lính trong binh đoàn phần đông là thanh niên Hà Nội, chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, vô cùng thiếu thốn về mọi mặt nhưng vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Ở họ có vẻ đẹp tinh nghịch hào hoa của chàng trai đất Hà thành nhưng cũng thật kiêu hùng, can đảm trong cuộc chiến đấu. Miêu tả về họ, Quang Dũng sử dụng bút pháp lãng mạn và cảm hứng ngợi ca khiến cho dù trải qua đau thương, gian khổ thì người lính vẫn hiện lên mang vẻ đẹp thật đặc biệt: bi tráng mà không hề bi lụy.

Chất bi tráng ở đây trước hết có được là do được đặt trên nền của bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và diễm lệ, thơ mộng mà đầy hoang sơ, bí ẩn. Mảnh đất Tây Bắc vừa là môi trường sống và chiến đấu của người lính nhưng cũng vừa mang trong mình vẻ đẹp riêng. Con người đặt trong đó vừa chan hòa, giao cảm với thiên nhiên lại vừa đối lập và bị thiên nhiên thử thách. Trước cái heo hút của cồn mây, cái gập ghềnh của “dốc thăm thẳm”, của “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, người lính vẫn vượt lên trên, giành về mình thế chủ động. Chinh phục đỉnh cao để nhìn lên và phát hiện ra một hình ảnh đầy dí dỏm: “súng ngửi trời”. Vượt qua núi đá gập ghềnh để được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mờ ảo đầy màu sắc của “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Vượt qua cái mệt mỏi của chặng đường hành quân, mở rộng lòng mình ra đón nhận vẻ đẹp bất ngờ của thiên nhiên, của một cánh hoa về trong đêm hơi.. Bằng cách đặt nhân vật vào bức tranh thiên nhiên như vậy, Quang Dũng đã khẳng định vẻ đẹp dũng cảm kiên cường nhưng cũng đầy tinh nghịch, lãng mạn của người lính Tây Tiến.

Cũng trong thiên nhiên đó, người lính Tây Tiến xuất hiện với tầm vóc bi tráng, khác thường:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Gian khổ của chiến tranh đã làm cho hình hài người lính trở nên tiều tụy thế nhưng dưới con mắt lạc quan, đầy sức mạnh và 'niềm vui sống nó lại trở thành nét rất riêng, thành cái “uy” của họ. Cụm từ miêu tả “dữ oai hùm” vừa thể hiện sức mạnh oai phong lẫm liệt của những người đang cầm súng bảo vệ quê hương, lại vừa ẩn chứa sau đó nét lạc quan, hài hước của họ. Bài thơ xuất hiện một hình ảnh đối lập độc đáo:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”

Người lính được khắc họa trong sự hài hòa giữa một chàng trai Hà thành tâm hồn lãng mạn và một người lính dũng cảm kiên cường, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc. Chúng không hề đối lập mà bổ sung cho nhau, tôn vẻ đẹp của nhau lên.

Những khó khăn mà người lính phải đối mặt là vô cùng, nhiều khi là cả cái chết. Ấy vậy mà khi nói về cái chết, Quang Dũng đã nói đến họ trong những hình ảnh thật đặc biệt:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Tư thế “gục lên súng mũ bỏ quên đời” bi tráng, thanh thản, dung dị mà đầy tính truyền cảm. Nó phảng phất chất nghệ sĩ, tài tử, kiêu hùng khi từ giã cuộc sống của người chiến sĩ. Đã ngã xuống mà vẫn như tư thê cùng đồng đội tiếp bước hành quân. Đến mảng hồi ức này, ta cảm thấy trong lời thơ của Quang Dũng có sự trầm lặng, xót xa nhưng tuyệt đối không hề bi lụy. Nó làm ta nhớ đến tư thế của anh giải phóng quân thời chống Mĩ hi sinh trên đường bay Tân Sơn Nhất:

“Anh giải phóng quân

Trên đường bay Tân Sơn Nhất

Tì súng trên xác trực thăng

Và anh chết khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”

Ngợi ca người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề ngần ngại khi nói đến cái chết của họ. Bởi chính trong cái chết, người chiến sĩ hiện lên càng đẹp đẽ:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Cõi chết trong cách nhìn của Quang Dũng tức cũng là cái nhìn của tất cả những người lính Tây Tiến cũng khác thường và tạo hình dữ dội. Nó nói lên cái tột cùng cơ cực lẫn cái lẫm liệt kiêu hùng. Trong cuộc chiến đấu một mất một còn, “rải rác biên cương mồ viễn xứ” là điều người lính luôn thấu hiểu. Nhưng không vì thế mà nó làm nhụt đi ý chí chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Mỗi người lính Tây Tiến đều tâm niệm: “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, nghĩa là họ tình nguyện cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho đất nước, cống hiến thanh thản và trọn vẹn mà không đòi hỏi nhận lại một điều gì cả.

Cái chết thiếu thốn không vì thế mà làm giảm đi vẻ đẹp của người lính. Người chiến sĩ ra đi như một vị anh hùng thần thoại:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Tấm áo trước nay người lính vẫn thường hay mặc trở thành “áo bào” đưa anh về với đất mẹ. Và sự ra đi có chứng kiến, tiễn đưa của núi sông, trời đất. Khúc gầm dữ dội của dòng sông khiến cho cái chết trở nên hào hùng. Nó là khúc bi ca tiễn đưa những con người gần gũi nhưng cũng thật vĩ đại.

Người lính hiện lên mang vẻ đẹp bi tráng mà không hề bi lụy. Cái bi tráng thể hiện trong những gian khổ mất mát, đau thương to lớn, nhưng tinh thần lại hiên ngang, bất khuất, coi thường gian khổ, coi thường cái chết; thể hiện trong cái khổ mà vẫn đẹp, chết mà vẫn hùng của người chiến sĩ.

Làm nên vẻ đẹp bi tráng này, điều đầu tiên phải kể đến là cảm hứng và bút pháp lãng mạn của Quang Dũng khi xây dựng hình tượng nhân vật. Cảm hứng lãng mạn hướng tới những cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng của cộng đồng, của dân tộc. Chính nó đã tạo ra ở nhà thơ cái nhìn có tính anh hùng cổ điển trong hình ảnh người lính, đặc biệt trước cái chết của họ. Bút pháp lãng mạn khắc họa người lính Tây Tiến ở những nét phi thường, kết hợp với sắc thái bi tráng trong hình tượng tạọ nên tính sử thi đặc biệt của bài thơ, đúc kết lại trong lòng người đọc những tình cảm tốt đẹp.

Góp phần tạo nên vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến còn ở giọng điệu thơ hào sảng với hình ảnh chi tiết có ấn tượng mạnh mẽ. Thiên nhiên và con người vừa đôi lập lại vừa đồng điệu. Sự đối lập trong hệ thống hình ảnh, giữa thực tế chiến đấu và đời sống tinh thần phong phú, tinh tế, nhạy cảm; giữa những khó khăn gian khổ với niềm lạc quan tin tưởng vào cuộc sống. Tất cả làm nên hình tượng về người lính Tây Tiến còn lại mãi với thời gian.

“Tây Tiến” là bài thơ ngợi ca hình tượng người lính trong thời kì kháng chiến chống giặc ngoại xâm, khi “những ngày vui sao cả nước lên đường” đi chiến đấu: “Lớp cha trước lớp con sau/ Đã thành chiến sĩ chung câu quân hành”, vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến đã trở thành một biểu tượng đẹp cho tinh thần yêu nước và chiến đấu kiên cường của dân tộc Việt Nam, thêm một “dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ”...