Phân tích về vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt hay nhất (69 mẫu)

Cảm nhận về vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt 1

Những năm tám mươi của thế kỉ XX, kịch của Lưu Quang Vũ đã làm chấn động sân khấu kịch Việt Nam thời đổi mới.

"Hồn Trương Ba, da hàng thịt" là vở kịch đặc sắc nhất của ông, được sáng tác từ năm 1981, nhưng ba năm sau (1984) mới được ra mắt khán giả. Vở kịch được sáng tạo từ một truyện cổ tích cùng tên, qua đó, tác giả nêu lên một vấn đề xã hội mang tính triết lý sâu sắc: mối quan hệ giữa thể xác và con người ta không thể sống sống nhờ, sống gửi vào cuộc sống của người khác.

Phần trích đoạn kịch là cuộc đối thoại giữa linh hồn và xác, giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình, giữa hồn Trương Ba và Đế Thích; cuối cùng là cái "chết" của hồn Trương Ba.

Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt là một cuộc đối thoại sinh động, đầy ý nghĩa triết lí. Lớp kịch này có 25 lượt. Xác hàng thịt thì một điều "ông", hai điều "ông", nhưng hồn Trương Ba thì chỉ có "mày", "tao". Thế nhưng xác hàng thịt đã lấn lướt hồn Trương Ba, sỉ nhục hồn Trương Ba đủ điều: Xác hàng thịt cho biết dù có "âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy"; sao ông không nhớ "Khi ông đứng cạnh vợ tay chân run hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại..." hoặc "Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao?

Nghĩa là hồn Trương Ba đã bị sa sút, tha hóa. Khi hồn Trương Ba tự hào cho rằng mình có một đời sống riêng: "nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn" thì xác hàng thịt châm biếm: "Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!".

Xác hàng thịt tỏ ra coi thường hồn Trương Ba, tự kiêu tự đại khẳng định vị thế, vai trò quan trọng của mình. Nào là "tôi đã cho ông sức mạnh" hoặc "Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn". Nào là "Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới... Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi..."

Xác hàng thịt thì thầm: "Tôi rất biết cách chiều chuộng linh hồn"; "Tôi biết cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt"..., "chúng ta tuy hai mà một!".

Cuộc đối thoại giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba là cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn cùng tồn tại trong một con người. Thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau, cả hai gắn bó với nhau để cùng sống, cùng tồn tại. Thể xác có tính độc lập tương đối của nó, có tiếng nói của nó, có khả năng tác động vào linh hồn, vì nó là nơi trú ngụ của linh hồn. Khi thể xác tiêu tan thì linh hồn cũng mất. Khi linh hồn "bay đi" thì thể xác cũng trở về cát bụi. Nhờ có linh hồn đấu tranh, chi phối với những ham muốn, những dục vọng tầm thường của thể xác mà nhân cách được hoàn thiện, tâm hồn được trong sáng.

Câu nói của xác hàng thịt: "Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn" đã cho thấy mối quan hệ hữu cơ giữa thể xác và linh hồn, làm cho ý nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt thêm cụ thể, sâu sắc.

Từ khi sống nhờ xác hàng thịt, hồn Trương Ba bị tha hóa nhiều: tát con trai tóe máu mồm máu mũi (bằng bàn tay, bằng sức mạnh và sự tàn bạo của xác hàng thịt). Hồn Trương Ba khác hẳn ngày xưa, làm vườn thì thô vụng: đã làm "gãy tiệt cái chồi non" của cây cam, đã "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm", đã "làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cá cái diều đẹp" của cu Tị.

Từ ngày mang xác hàng thịt, hồn Trương Ba sống trong bi kịch, trải qua nhiều dằn vặt, đau khổ: vợ muốn bỏ đi để "ông được thảnh thơi ... với cô vợ người hàng thịt"; cái Gái, đứa cháu nội thì khinh bỉ, xua đuổi: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!". Chị con dâu, người thông cảm và thương hồn Trương Ba hơn cả, giờ đây trước cảnh "tan hoang" của gia đình thì vô cùng lo sợ, đau đớn "thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả như lệch lạc, nhòa mờ dần đến cũng không nhận ra thầy nữa...".

Trước lời than khóc của người con dâu, hồn Trương Ba tê tái, "mặt lạnh ngắt như tảng đá Ngồi một mình, như sực tỉnh, như bàng hoàng: "Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta...".

Không thể sống gửi nằm nhờ mãi được, không thể bị lệ thuộc vào thể xác hàng thịt và tự đánh mất mình, hồn Trương Ba an ủi, thức tỉnh, động viên mình: "Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày mà tự đánh mất mình"... Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!".

Sự do dự bị đẩy lùi, bị xua tan. Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba tuy muộn mằn nhưng thật có nhiều ý nghĩa. Con đường tự giải thoát, linh hồn đã nhìn thấy ánh sáng.

Cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa linh hồn Trương Ba và Đế Thích đã đẩy xung đột kịch lên cao trào, đỉnh điểm. Phải tìm gặp ngay Đế Thích, Hồn Trương Ba "đứng dậy, lập cập nhưng quả quyết, đến bên cột nhà, lấy một nén hương châm lửa, thắp lên". Gặp lại người bạn chơi cờ ở cõi trời, hồn Trương Ba thổ lộ bao nỗi niềm day dứt: " Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!... Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn".

Mặc dù đã được Đế Thích cho biết cái lẽ trời, cái lẽ đời là từ Ngọc Hoàng đến người trần mắt thịt có ai được là "mình toàn vẹn", mà "phải khuôn ép mình"... Vả lại, ông đã bị Nam Tào "gạch tên khỏi sổ", thân thể của ông "đã tan rữa trong bùn rồi. Nhưng hồn Trương Ba phân trần, nài nỉ, nói lên thân phận hèn kém, sống gửi nằm nhờ của mình: "Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ hàng thịt. Ông chỉ nghĩa đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!". Hồn Trương Ba không muốn được sống trong thân xác anh hàng thịt nữa, cũng không muốn được "nhập vào cụ Tị" bởi lẽ bao điều phiền toái, trớ trêu sẽ diễn ra, sâu xa hơn nữa sẽ "bơ vơ lạc lõng", "đáng ghét như kẻ tham lam". Thật vô lý, cực kì vô lý, bởi lẽ "một kẻ lý ra phải chết từ lâu mà vẫn cứ sống, cứ trẻ khỏe, cứ ngang nhiên hưởng thụ mọi thứ lộc trời!". Xưa nay, như ta đã biết, những kẻ úy tử tham sinh, những kẻ tham quyền cố vị đều bị đồng loại coi khinh và chê cười!

Hồn Trương Ba tuy có lúc tha hóa sa sút, nhưng giờ đây vẫn tỏ ra tỉnh táo, đáng trọng. Chỉ muốn Đế Thích hóa phép làm cho hồn hàng thịt được "sống lại" với thân xác anh ta; chỉ muốn vị tiên cờ hóa phép làm cho cu Tị được sống lại với mẹ nó, được chơi với bạn bè: "Ông Đế Thích, vì con trẻ ông ạ, vì con trẻ. Ông hay giúp tôi lần cuối cùng"... Ý muốn ấy rất nhân bản và cao thượng.

Hồn Trương Ba càng nói càng cầu khẩn tha thiết: "Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!... Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm cu Tị sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn...".

Cái giá của sự sống và chết "đắt quá, không thể trả được". Cho dù chết là hết, "khi được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì", nhưng sống gửi nằm nhờ thì "còn khổ hơn là cái chết". Hồn Trương Ba đau đớn cảm thấy xót xa: "Mà không phải chỉ một mình tôi khổ!Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi!". Cho dù có được sống, để vui chơi thỏa thích, được chơi cờ với Đế Thích, nhưng hồn Trương Ba đã phủ định: "Nếu còn tiếp tục sống, tôi cũng chẳng thích đánh cờ với ông nữa!... Không có gì chán bằng đánh cờ với tiên!".

Hồn Trương Ba đã bẻ gãy cả bó hương do Đế Thích tặng, hồn Trương Ba nhất quyết muốn nhảy xuống sông tự tử hoặc đâm cổ tự sát để được chết, để tâm hồn mình được "trở lại thanh thản, trong sáng như xưa...".

Ý tưởng của hồn Trương Ba thật cao thượng. Hành động của hồn Trương Ba thể hiện một quan niệm sống đúng đắn, tích cực: không thể sống gửi vào thân xác kẻ khác, không thể sống tha hóa, không được sống dai, cứ cố bám riết vào đời khi cái sống đã mất hết ý nghĩa. Không thể sống giả tạo để mang lợi lộc cho "bọn khốn khiếp".

Hồn Trương Ba phủ định cái sống của mình, chịu cái chết để cho cu Tị được sống, thuận theo lẽ tự nhiên như lá vàng rụng xuống cho mầm non nhú mọc, tươi xanh. Nhân cách của hồn Trương Ba cao đẹp biết bao, đáng trọng biết bao! Bài học về ý nghĩa sự sống và cái chết, bài học về đạo lí và nhân cách được tác giả đặt ra một cách sâu sắc và thấm thía!

Đoạn kết vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" gợi cho độc giả, khán giả nhiều bâng khuâng. Hồn Trương Ba không theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao... của vợ con thương yêu. Cho dù thân cát bụi lại trở về cát bụi nhưng hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm.

Nhiều thập kỉ đã trôi qua, bạn đọc ngày nay được sống trong sự đổi mới toàn diện, trong khí thế vươn lên của đất nước và dân tộc, sẽ còn tìm thấy nhiều tầng ý nghĩa thú vị hàm ẩn trong vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Hồn Trương Ba đã và đang đánh thức chúng ta..

Cảm nhận về vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt 2

Trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ, Hồn Trương Ba da hàng thịt là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông. Vở kịch được tác giả hiện đại hóa từ cốt truyện dân gian, qua hệ thống nhân vật Lưu Quang Vũ đã đặt ra nhiều vấn đề bức thiết của cuộc sống lúc bấy giờ.

Qua cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn, Lưu Quang Vũ chuyển tải đến bạn đọc ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Qua các nghịch cảnh, ta thấy được vẻ đẹp của nhân dân lao động trong cuộc chiến thời bình chống lại cái ác, chống lại sự giả tạo và khát vọng hoàn thiện nhân cách, bảo vệ quyền sống đích thực.

Trương Ba bị chết oan uổng do sự vô tâm, tắc trách của Nam Tào, vì thế được Bắc Đẩu sửa sai, nhưng lại sửa sai một cách vô lý là cho hồn Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt. Vậy là một linh hồn thanh cao, nhân hậu, ngay thẳng lại phải sống nhờ và lệ thuộc vào xác của anh hàng thịt. Linh hồn Trương Ba không sai khiến được mà còn bị xác thịt điều khiển lại, dẫn tới linh hồn bị nhiễm độc tầm thường. Chính vì ý thức được điều này, khiến Trương Ba dằn vặt, đau khổ và đưa ra quyết định sống độc lập.

Trước những lý lẽ của xác thịt, hồn Trương Ba nổi giận, khinh bỉ xác thịt nhưng phần nào cũng ngậm ngùi vì hắn có lý và Trương Ba trở lại xác thịt trong tuyệt vọng. Cuộc tranh cãi với xác thịt là bi kịch thứ nhất, vì xác thịt đã thắng. Còn bi kịch thứ hai là xung đột giữa Trương Ba và gia đình. Ông dằn vặt khi hiểu những gì mình đã, đang và sẽ gây ra những điều tệ hại cho dù ông không hề muốn. Tất cả những người thân đều xa rời ông vì hồn ông dần bị mờ khuất, chỉ còn lại thân xác anh hàng thịt thô lỗ hiện hữu trong nhà gây biết bao phiền toái, chướng tai gai mắt.

Màn kết của vở kịch sau khi đẩy những xung đột lên tới đỉnh điểm, hóa giải những nghịch cảnh, Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn tồn tại vĩnh viễn bên những người thân yêu của mình.

Một cuộc sống không đáng sống vì cái thanh cao phải dung hòa với cái thấp hèn thì chẳng phải sẽ thành bi kịch sao? Thể xác và linh hồn có mối quan hệ hữu cơ với nhau không tách rời. Xác thịt có nhu cầu mang tính bản năng, còn linh hồn mang tính chất thanh cao, vươn tới sự hoàn thiện nhân cách. Qua đây, Lưu Quang Vũ muốn nhấn mạnh rằng khi con người ta phải sống trong cái tầm thường thì tất yếu sẽ bị nhiễm độc, cái tốt đẹp sẽ bị lấn át. Những xung đột từ bên trong con người thông qua cuộc đối thoại có tính giả tưởng giữa linh hồn và thể xác nhằm hướng tới vấn đề mang tính triết học.

Tất cả bi kịch xảy ra từ những tồn tại đầy nghịch lý, trái với lẽ tự nhiên khiến cái dung tục có cơ hội ngự trị, lấn át và đồng lõa những gì vốn thanh cao, tốt đẹp. Qua đó, cổ vũ cho cuộc đấu tranh bảo vệ cho những phẩm tính cao quý của con người nhằm hướng tới khát vọng trong sạch, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn để hoàn thiện nhân cách, để xứng đáng chức vị làm người.

Cảm nhận về vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt mẫu 3

Như chúng ta đã biết, Lưu Quang Vũ là một người vô cùng tài năng, những sáng tác của ông đã để lại cho hậu thế những bài học về cuộc sống về con người về mối quan hệ giữa người với người. Trong đó, Hồn Trương Ba da hàng thịt là tác phẩm kịch nổi tiếng. Chính nhan đề của kịch cũng tạo ra những hấp dẫn không tưởng cho độc giả. Ngoài ra nó còn gợi mở những ý nghĩa ẩn ý trong đó. Một nhan đề không chỉ tạo sức hấp dẫn khi khơi lên được sự tò mò nơi độc giả. Hồn Trương Ba và da hàng thịt chính là những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Hồn và thể xác vốn dĩ gắn liền với nhau, hòa hợp với nhau nhưng khi hồn một nơi xác một nơi thì chuyện gì sẽ xảy ra? Đấy là một trong những điểm thắt nút mà chính ngay tại kịch, Lưu Quang Vũ đã giải quyết một cách thỏa đáng.Có thể thấy rằng da hàng thịt là biểu tượng cho vẻ bề ngoài thể xác con người thì hồn Trương Ba là biểu tượng cho tâm hồn, cho thế giới nội tâm sâu kín bên trong. Sự mâu mâu thuẫn giữa hình thức và bản chất trong một con người. Thông qua kịch thì nó còn nhằm thể hiện một ý nghĩa sâu xa,hồn Trương Ba còn là biểu tượng cho vẻ đẹp trong sáng thanh cao, còn da hàng thịt lại là biểu tượng cho cái xấu xa, cái dung tục tầm thường, cái bản chất thấp kém trong một con người. Một con người không thể sống trong vỏ bọc của một người khác.hơn nữa một tâm hồn thanh cao không thể sống không thể ẩn náu trong một thể xác dung tục. Sống như thế thì còn khổ hơn chết, thế thì thà chết còn thỏa.

Vở kịch không chỉ có ý nghĩa triết lý về nhân sinh, về hạnh phúc con người mà còn góp phần phê phán một số biểu hiện tích cực trong lối sống lúc bây giờ.

Điều đầu tiên, con người đang có nguy cơ chạy theo ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu,dung tục. Nó được thể hiện ở phần trích đoạn giữa linh hồn và xác, giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình, giữa hồn Trương Ba và Đế Thích; cuối cùng là cái "chết" của hồn Trương Ba.

Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt là một cuộc đối thoại sinh động, đầy ý nghĩa triết lí gồm có 25 lượt lời. Xác hàng thịt thì một điều "ông", hai điều "ông", nhưng hồn Trương Ba, sỉ nhục xác hàng thịt đủ điều: xác hàng thịt cho biết dù có "âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy"; sao ông không nhớ "Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại..."; hoặc "Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao?". Nghĩa là hồn Trương Ba đã bị sa sút, tha hóa khi hồn ông sống nhờ trong một thân xác của một kẻ khác chứ k phải chính mình. Khi hồn Trương Ba tự hào cho rằng mình có một đời sống riêng: "nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn" thì đúng lúc đó xác hàng thịt châm biếm: "Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!".

Như vậy qua những lời lẽ của xác hàng thịt tỏ ra coi thường hồn Trương Ba, tự kiêu tự đại khẳng định vị thế. vai trò quan trọng của mình.

Giữa hồn Trương Ba và da Hàng thịt có một cuộc đối thoại và cũng là cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn cùng tồn tại trong một con người. Thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ,gắn bó với nhau để cùng sống, cùng tồn tại. Khi linh hồn "bay đi" thì thể xác cũng trở về cát bụi. Linh hồn đấu tranh, chi phối với những ham muốn, những dục vọng tầm thường của thể xác mà nhân cách được hoàn thiện, tâm hồn được trong sáng.

Mối quan hệ này cũng được thể hiện qua câu nói của xác hàng thịt: "Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn" làm cho ý nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt thêm cụ thể, sâu sắc.

Một điều chúng ta có thể thấy rằng khi sống nhờ xác hàng thịt, hồn Trương Ba bị tha hóa nhiều: tát con trai tóe máu mồm máu mũi .Hồn Trương Ba khác hẳn ngày xưa, làm vườn thì thô vụng: đã làm "gãy tiệt cái chồi non" của cây cam, đã "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm", đã "làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cả cái diều đẹp" của cu Tị.Chính cũng từ lúc ấy bi kịch hồn xác khác nhau đã khiến cho hồn Trương Ba sống trong bi kịch, trải qua nhiều dằn vặt, đau khổ: vợ muốn bỏ đi để "ông được thảnh thơi... với cô vợ người hàng thịt"; cái Gái, đứa cháu nội thì khinh bỉ, xua đuổi: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!". Chị con dâu, người thông cảm và thương hồn Trương Ba hơn cả, giờ đây trước cảnh "tan hoang" của gia đình thì vô cùng lo sợ, đau đớn "thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả như lệch lạc, nhòa mờ dần đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa...".

Hồn Trương Ba tê tái, "mặt lạnh ngắt như tảng đá". Ngồi một mình, như sực tỉnh, như bàng hoàng: "Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta". Không thể sống gửi nằm nhờ mãi được, không thể bị lệ thuộc vào thể xác hàng thịt và tự đánh mất mình, hồn Trương Ba an úi, thức tỉnh, động viên mình: "Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày mà tự đánh mất mình? ... Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!".Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba tuy muộn màng nhưng thật có nhiều ý nghĩa.Linh hồn của Trương Ba đã tìm ra hướng đi cho mình.

Sau đó cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa linh hồn Trương Ba và Đế Thích đã đẩy xung đột kịch lên cao trào, đỉnh điểm. Phải tìm gặp ngay Đế Thích, Hồn Trương Ba "đứng dậy, lập cập nhưng quả quyết, đến bên cột nhà, lẩy một nén hương châm lửa. thắp lên". Gặp lại người bạn chơi cờ ở cõi trời, hồn Trương Ba thổ lộ bao nỗi niềm day dứt: "Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt nữa, không thể được!... Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn".

Mặc dù đã được Đế Thích cho biết cái lẽ trời, cái lẽ đời là từ Ngọc Hoàng đến người trần mắt thịt có ai được là "mình toàn vẹn", mà "phải khuôn ép mình"... Vả lại, ông đã bị Nam Tào "gạch tên khỏi sổ", thân thể của ông "đã tan rữa trong bùn đất" rồi. Sau khi phân trần Hồn Trương Ba không muốn được sống trong thân xác anh hàng thịt nữa, cũng không muốn được ''nhập vào cu Tị" bởi lẽ nhiều điều phiền toái, trớ trêu sẽ diễn ra, sâu xa hơn nữa sẽ "bơ vơ lạc lõng", "đáng ghét như kẻ tham lam". Thật vô lý, cực kỳ vô lý, bởi lẽ "một kẻ lý ra phải chết từ lâu mà vẫn cứ sống, cứ trẻ khỏe, cứ ngang nhiên hưởng thụ mọi thứ lộc trời!". Xưa nay. như ta đã biết, những kẻ úy tử tham sinh, những kẻ tham quyền có vị đều bị đồng loại coi khinh và chê cười!.

Một điều rõ ràng Hồn Trương Ba tuy có lúc tha hóa sa sút, nhưng giờ đây vẫn tỏ ra tỉnh táo, đáng trọng. Ông muốn Đế Thích hóa phép làm cho hồn hàng thịt được "sống lại" với thân xác anh ta; chỉ muốn vị tiên cờ hóa phép làm cho cu Tị được sống lại với mẹ nó, được chơi với bạn bè: "Ông Đế Thích, vì còn trẻ ông ạ, vì con trẻ. Ông hãy giúp tôi lần cuối cùng"... Ý muốn ấy rất nhân bản và cao thượng.Hồn Trương Ba càng cẩu khẩn tha thiết: "Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!... Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm cu Tị sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn ".Hồn Trương Ba đã bẻ gãy cả bó hương do Đế Thích tặng, nhất quyết muốn nhảy xuống sông tự tử hoặc đâm cổ tự sát để được chết, để tâm hồn mình được "trở lại thanh thản, trong sáng như xưa...".Ý tưởng của hồn Trương Ba thật cao thượng.

Như vậy vở kịch còn đề cập đến một số vấn đề không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám, cũng không được sống với thực chất bản thân mình, đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.

Đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt gợi cho độc giả, khán giá nhiều bâng khuâng. Hồn Trương Ba không theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao., của vợ con thương yêu. Như vậy hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm.

Cảm nhận về vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt 4

Trong cuộc đời của mỗi con người chúng ta, khao khát được là chính mình là khao khát thiêng liêng và đáng trân trọng nhất. Có một ai đó đã nói rằng “Tại sao tôi phải sống cuộc đời của người khác và tại sao tôi lại để người khác sống cuộc đời của tôi, tôi muốn được là chính tôi, dù hạnh phúc hay khổ đau thì đó chính là điều mà tôi đã lựa chọn”. Có thể nói khao khát được là chính mình đã được thể hiện trong rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, đó chính là cái “tôi” cá nhân đầy mạnh mẽ. Một trong những tác phẩm thể hiện rõ nhất khao khát này đó chính là một vở kịch rất nổi tiếng vào những năm 80 của thế kỷ trước có tên Hồn Trương Ba, da hàng thịt do nhà soạn kịch tài ba Lưu Quang Vũ chắp bút.

Lưu Quang Vũ (1948-1988), quê gốc ở Đà Nẵng, nhưng sinh sống, học tập và làm việc ở Hà Nội, từng tham gia quân đội trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1960-1970), phục vụ trong quân chủng phòng không, không quân. Ông bắt đầu viết thơ vào năm 1960, sau đó mãi đến những năm 1978 mới bén duyên viết kịch, năm 1980 thì ông đã có vị trí đứng vững trong làng kịch. Ông là nhà viết kịch có nhiều đóng góp đặc sắc, với hơn 50 tác phẩm kịch trong vòng mười năm trời sáng tác và hầu như chúng đều được công chiếu, dàn dựng trên toàn quốc, thậm chí có những tác phẩm còn được công chiếu nhiều lần ở nước ngoài như Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Về sự nghiệp thơ, Lưu Quang Vũ có cách viết thơ giàu cảm xúc, giàu suy tư trăn trở và những khát khao, Hương cây bếp lửa là tập thơ tiêu biểu của ông in chung với Bằng Việt.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch có cốt truyện xuất xứ từ dân gian, ra đời năm 1981, mãi đến năm 1984 mới được công bố, và ngay lập tức đã được độc giả đón nhận nồng hậu. Đoạn trích trong chương trình học nằm ở cảnh thứ 7 và trong phần kết của vở kịch.

Có thể nói trong khuôn khổ đoạn trích, nội dung lớn hiện lên và bao trùm toàn bộ đó chính là bi kịch của hồn Trương Ba. Ông Trương Ba vốn là người hiền đức có tâm hồn cao khiết, sống mẫu mực, yêu vợ thương con, quý cháu, tốt với hàng xóm láng giềng. Ông là một người làm vườn rất chăm chỉ, khéo léo nâng niu từng cành cây ngọn cỏ, hơn thế nữa ông còn chơi cờ rất giỏi, với nước cờ “khoáng hoạt, thâm sâu, dũng mãnh”. Nhưng chỉ vì sự sai sót của thần tiên mà ông bị chết oan, rồi sống lại bằng cách nhập vào xác của anh hàng thịt. Cái sự khập khiễng, không ăn nhập giữa phần hồn và phần xác đặc biệt là khi hồn Trương Ba cảm thấy phần thể xác kia đang dần chiếm lĩnh làm thay đổi cả phần hồn của ông. Hai thực thể hồn và xác đã có cuộc đấu tranh không khoan nhượng, nhưng những lý lẽ tuy có phần bỉ ổi, lươn lẹo của xác đã làm hồn phải lùi bước, thậm chí là không thể cự cãi bởi vì nó là sự thật. Lúc này đây buộc Trương Ba phải quyết định, vì ông không thể sống đau khổ, giằng xé như vậy nữa, đó là một cuộc đời không hoàn chỉnh, sống không bằng chết.

Bi kịch của hồn Trương Ba bắt đầu bằng cái bi kịch bị tha hóa bởi xác hàng thịt và do chính bản thân hồn Trương Ba nhận ra, ông bắt đầu ham uống rượu, thích bán thịt, cũng không còn mấy mặn mà với cái trò chơi thanh cao là đánh cờ. Trong những lời độc thoại nội tâm đầy bối rối, hoang mang và đau khổ, phần hồn muốn rời khỏi, thoát khỏi cái phần thân xác thô lỗ của anh hàng thịt ngay lập tức. Giọng điệu của hồn Trương Ba gấp gáp, sợ hãi và có cả sự ghê tởm, tay ôm đầu đầy bức bối, phải nói ông khao khát được thoát khỏi đến mức mong rằng “được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!”.

Trong cuộc đối thoại với xác hàng thịt cái bi kịch tha hóa của hồn Trương Ba lại càng được bộc lộ rõ hơn. Hồn Trương Ba quyết tâm rời khỏi xác hàng thịt, trở thành một cái bóng lờ mờ và giữa hồn và xác bắt đầu có cuộc đối thoại tranh luận lẫn nhau, hồn Trương Ba thì cho rằng xác anh hàng thịt đã khiến mình đổ đốn, khiến mình thay đổi, ông chỉ trích những thói xấu của phần xác. Khi hồn muốn thoát khỏi xác, thì xác anh hàng thịt trả lời bằng một giọng rất nhạo báng, nhưng lý lẽ rất sắc bén “ông không tách ra khỏi tôi được đâu” rồi thì “ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi,…”. Trương Ba vốn cho rằng xác hàng thịt là thứ vô tri vô giác, là thứ “xác thịt âm u đui mù”, nhưng không quan điểm của nó cũng rất sắc bén và trần trụi đến đáng sợ, nó kể hết những gì mà phần hồn đã tham dự vào, đã bị tha hóa ra sao. Xác nhắc đến những khát vọng khi của hồn Trương Ba khi đứng cạnh vợ hàng thịt, nhắc đến những lần ăn thịt, húp tiết canh, nhờ có sức mạnh của xác mà Trương Ba có thể tát thằng con đến tóe máu mồm vì nó hỗn, có thể vung cuốc, xẻng cày xới khu vườn yêu quý. Cũng nhờ thể xác này mà hồn Trương Ba lại được ở bên vợ con, nhìn ngắm bầu trời, … Và chốt lại xác cho rằng cái linh hồn Trương Ba cứ ưa sĩ diện, dối lòng, bởi đã chiều theo những cái nguyện vọng phàm tục của xác mà lại còn tự nhận mình là tâm hồn cao khiết “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Đúng như lời Trương Ba phản bác, thứ lý lẽ của xác thật “ti tiện”, nhưng cũng theo lời xác thì chỉ có Trương Ba cứ nổi nóng lên, chứ nó thì vẫn rất “nhã nhặn” và cái nhã nhặn, đường hoàng, thẳng thắn ấy đã chọc thẳng vào phần hồn vào chỗ yếu mềm, làm hồn không thể cự cãi được.

Hồn Trương Ba thì ngược lại không thể giữ nổi bình tĩnh, mỗi một lời mà xác thốt ra đều làm ông đuối lý, bởi đó là sự thật, ông bối rối, sợ hãi và có phần lép vế trước cái xác mà ông cho là “âm u đui mù” kia, ông chỉ muốn nó im lặng, đừng nói thêm bất kỳ lời nào, Bởi càng nói, ông càng cảm thấy xấu hổ và không còn tin vào bản thân mình thật sự là một linh hồn cao khiết, “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”, ông bám víu lấy cái lòng tin vào bản thân và dần trở nên tuyệt vọng. Bởi xác hàng thịt đã vạch trắng ra một cuộc chơi, hai bên thông cảm cho nhau “chiều chuộng”, hồn Trương Ba cứ mãi nghĩ rằng tâm hồn mình thanh cao và trong sạch, mấy cái việc xấu xa, bỉ ổi thì cứ đổ tại lỗi do xác chi phối, để được thanh thản. Nhưng suy cho cùng xác và hồn không phải vẫn nằm một chỗ đấy sao, có thực là hồn thanh cao và xác ti tiện hay là cả hai đã dần pha trộn lẫn nhau? Câu trả lời rằng, thực sự hồn Trương Ba đang bị tha hóa dần, không còn là ông của ngày xưa nữa.

Bi kịch tiếp theo mà hồn Trương Ba gặp phải ấy là cảnh những người thân thuộc cuối cùng cũng không thể chấp nhận một Trương Ba thay đổi và dần tìm cách xa lánh ông. Người vợ ông hằng yêu thương, vốn cũng yêu thương chăm sóc ông bấy lâu nay, đã không chịu nổi cảnh nhìn thấy chồng mình trong thân xác cục mịch, thay đổi đòi bỏ đi biệt xứ. Hẳn bà cũng phải chịu quá nhiều đau khổ, một xuất phát từ gia đình, hai là xuất phát từ những dị nghị của hàng xóm, cuối cùng quan trọng nhất vẫn là sự thay đổi tha hóa của hồn Trương Ba khiến người vợ chán nản, tuyệt vọng và mất niềm tin.

Cả đứa cháu gái mà ông thương nhất giờ đây cũng nhìn ông với đôi mắt “lặng lẽ, soi mói”, có lẽ cô bé đã âm thầm chịu đựng và quan sát ông lâu lắm rồi, cuối cùng ngày hôm nay nó bùng nổ và quyết không chịu nhận ông nữa. Bởi ông thay đổi quá nhiều, Gái tức tối kể về việc ông làm gãy mầm cây cam, đạp nát mầm cây sâm quý và đỉnh điểm là làm hỏng cả diều của cu Tị, đứa bé xấu số đang thoi thóp nhưng vẫn tiếc mãi con diều. Xét lại cũng chỉ vì cái Gái quá thương ông, nó không thể chấp nhận được một người ông lại thay đổi nhiều đến thế. Rõ ràng chuyện của cái Gái, của người vợ đã khiến Trương Ba đã đau khổ nay lại càng đau khổ hơn, ông ngày càng nhận thức được việc bản thân đã thay đổi, tha hóa đến mức nào. Và lời của người con dâu mới chính thức khơi mở tất cả những hoài nghi hoang mang và sợ sệt của hồn Trương Ba, có lẽ trong cả căn nhà này chỉ có chị là bình tĩnh nhất, chị thương bố chồng, nên khéo léo, nhẹ nhàng bộc bạch “Cái bên ngoài là không đáng kể… con cảm thấy, con đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một khác dần mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi,…”.

Chính bi kịch bị người thân yêu chối bỏ đã đẩy xung đột kịch lên cao nhất, buộc Trương Ba phải giải quyết và tháo gỡ vấn đề cho chính bản thân và cả những người liên quan. Ông không chấp nhận buông xuôi để phần xác thịt lấn át tha hóa tâm hồn thêm nữa, bèn gọi Đế Thích xuống và khẳng định cái như cầu mạnh mẽ được sống là mình “Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn là chính mình”. Trương Ba quyết định trả lại thân xác cho anh hàng thịt, sau đó xin cho cu Tị được sống lại và ông không còn muốn sống cảnh éo le, khổ sở này, “Còn tôi, hãy để cho tôi chết hẳn,…”. Và từ khi quyết định được dứt khoát như thế hông Trương Ba bỗng cảm thấy “mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại được thanh thản và trong sáng như xưa”. Có thể nói rằng để đi được đến những quyết định như thế là rất khó khăn đối với Trương Ba, bởi xưa tới nay khát vọng được sống luôn là khát vọng chính đáng và muôn thuở của con người, có ai muốn trở thành cát bụi, xa rời người thân, rời khỏi nơi trần thế tốt đẹp cơ chứ. Nhưng với Trương Ba sống phải cho ra sống, phải được là chính mình, không thể tạm bợ, cũng không thể cứ phụ thuộc và ngày càng trở nên tha hóa đáng sợ được.

Vở bi kịch lạc quan đã kết thúc bằng một kết thúc có hậu, ấy là Trương Ba đã thoát ra khỏi thân xác anh hàng thịt. Hình ảnh vườn cây rung rinh lá chính là nơi lưu giữ những ký ức tốt đẹp về một ông Trương Ba với tâm hồn cao khiết, hình ảnh nên thơ của đoạn kết còn là khung cảnh hai mẹ con chị Lụa và cu Tị đang ôm ấp hạnh phúc, hạnh phúc ấy được đánh đổi bằng sự hy sinh của Trương Ba. Cuối cùng cảnh Trương Ba xuất hiện chập chờn, với lời thoại trìu mến và yêu thương dành cho vợ, cái cảnh cu Tị và cái Gái đã chứng minh Trương Ba đã hoàn toàn trở lại là chính mình, thanh thản, ông đã lấy lại được nguyên vẹn tình cảm của những người thân yêu nhất.

Toàn bộ vở kịch của Lưu Quang Vũ cuối cùng kết lại ở thông điệp: Dù cuộc đời nhiều cám dỗ nhưng con người vẫn luôn phấn đấu để giữ được tâm hồn nguyên vẹn , trong sạch, thẳng thắn, luôn cố gắng để được làm chính mình. Những con người đã khuất hãy là một bản tình ca để tuổi trẻ hôm nay mãi nhớ về, mãi ngân nga từ đó gieo niềm tin cho cuộc đời. Sống có nhiều cách sống, trong đó có cách dù thân xác đã trở về cát bụi nhưng tâm hồn vẫn mãi còn bất tử với những ấn tượng và kỷ niệm đẹp nhất trong lòng người ở lại.

Phân tích đoạn kết tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt hay nhất 5

“Tác phẩm chân chính không chấm dứt ở trang cuối cùng”, ngược lại, một tác phẩm chân chính sẽ còn lưu động mãi những ý nghĩa sâu xa trong lòng độc giả. Hồn Trương Ba da Hàng thịt của nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Vũ đã để lại cho người xem những suy nghĩ và niềm tin rất tích cực về cuộc sống qua đoạn kết rất có hậu.

Trương Ba – một con người đạo đức, hiền lành với tâm hồn trong sáng nhưng không may phải lìa đời do lỗi của Nam Tào. Nam Tào và Đế Thích đã nghĩ cách cho hồn ông nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết. Những tưởng được sống lại, được trở về từ cõi chết là điều rất may mắn cho ông và gia đình. Nhưng, thật đáng tiếc khi anh hàng thịt lại là người thô lỗ, cục cằn. Nay mọi người khó mà nhìn nhận ra sự khiết tịnh của linh hồn Trương Ba bên trong cái thể xác đã có quá nhiều thói hư tật xấu khi còn sống. Trương Ba đã gặp phải rất nhiều rắc rối. Ông rơi và bi kịch của chính mình vì nhiều khi không thể làm chủ được bản thân. Đứng trước nguy cơ bị tha hóa về nhân cách, Trương Ba đã quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết.

Sau cuộc đối thoại tranh luận với xác anh hàng thịt và Đế Thích, cuối cùng Trương Ba cũng đã được toại nguyện. Cảnh kết thúc có hậu cũng đã làm thỏa lòng người xem. Trương Ba không cần phải mượn thân xác của bất kỳ ai để được ở bên vợ con, người thân nữa. Ngay trong những thứ bình dị của cuộc sống hằng ngày vẫn luôn có sự hiện hữu của ông. Vườn cây rung rinh ánh sáng. Nơi ấy từng là không gian quen thuộc gắn với con người Trương Ba, là nơi ông nâng niu, chăm sóc cho từng mầm sống, nơi lưu giữ những kỷ niệm đẹp đẽ về một Trương Ba vẹn nguyện cả linh hồn và thể xác.

Ở một góc nhà đó, hiện lên cảnh tượng cu Tị đang ôm chầm lấy mẹ, chị Lụa cuống quít vuốt ve con… Sự ra đi của Trương Ba đã mang lại sự sống mới cho cu Tị. Chị Lụa đã đớn đau tột độ tưởng chừng như sắp tuột mất đứa con yêu dấu khỏi tay mình, nay nó lại trở về khỏe mạnh vui cười quấn quít ngay cạnh bên. Niềm hạnh lớn lao vô cùng mà Trương Ba mang lại cho hai mẹ con mang ý nghĩa rất thiêng liêng và cao cả.

Tôi ở đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà giẫy cỏ… Không phải mượn thân xác ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu. Lời thủ thỉ của Trương Ba đã nói lên một chân lý của cuộc đời. Rằng: Sống không chỉ là sự tồn tại sinh học, sống như thế nào không quan trọng, quan trọng là mọi người nghĩ như thế nào về mình khi mình đã ra đi. Sự sống của tâm hồn mới là bất diệt, còn thể xác chỉ là những thứ ta nhìn thấy bên ngoài. Giờ đây Trương Ba tuy không được tận tay chăm sóc cho vườn cây, không được trực tiếp trò chuyện, vui cười cùng mọi người trong gia đình, nhưng khi chấp nhận cái chết, ông vẫn hạnh phúc vì tâm hồn mình được vẹn nguyên, vì không phải mượn nhờ thân xác của ai nữa cả. Ông chỉ là ông, là một Trương Ba trọn vẹn, đạo đức, hiền lành như ngày nào. Những kỷ niệm tốt đẹp về ông vẫn còn mãi trong lòng mọi người.

Không những thế, trái tim nhân hậu của Trương Ba đã gieo lên bao mầm non đạo đức cho con cháu. Cái Gái đã nâng niu, trân trọng từng quả na ông trồng, nó lấy hạt vùi xuống đất và nói: Chốn mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi… Dấu chấm lửng giữa dòng được đặt cuối tác phẩm như rót vào lòng người những nỗi niềm thương nhớ, và cũng là sự đồng tình, đồng thuận với sự ra đi mãi mãi của Trương Ba. Ông chấp nhận cái chết nhưng không có nghĩa là tâm hồn ông cũng chết. Ngược lại, những điều tốt đẹp ông đã làm, nay đang được con cháu ấp ủ, nâng niu. Nó sẽ mọc mầm, sẽ lớn lên, nối tiếp nhau như trái na mà cái Gái vừa hái và gieo trồng.

Nếu như lúc trước, cái Gái nhất quyết không chịu nhận Trương Ba bên trong cái xác anh hàng thịt, thậm chí nó còn tỏ rõ thái độ căm ghét, xua đuổi ông. Thì giờ đây khi Trương Ba đã chấp nhận cái chết, nó lại chấp thuận với những gì mà Trương Ba để lại. Điều ấy một lần nữa nói lên chân lý của cuộc sống: Chỉ khi được sống làm chính mình, cuộc sống mới có ý nghĩa trọn vẹn. Không thể nào sống nương nhờ vào kẻ khác, vào những thứ không phải của chính mình. Gia đình Trương Ba dù trống vắng khi mất đi một người thân yêu, nhưng như vậy còn bình yên hơn là phải chấp nhận một vật thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.

Trương Ba đã ra đi, nhưng những kỷ niệm, những dấu ấn tốt đẹp về ông vẫn còn lưu giữ mãi trong nỗi nhớ của mọi người. Vở kịch đã khép lại và mang đến cho người xem một triết lý sống thấm đẫm giá trị nhân văn, ngời sáng nhân cách cao đẹp của con người: được sống làm người là điều rất quý giá, thiêng liêng nhưng được sống đúng bản chất của mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi nó còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người được sống một cách tự nhiên, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn. Ở đó, hạnh phúc của con người là chiến thắng được bản thân, chiến thắng sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị cao quý về tinh thần. Lưu Quang Vũ đã rất thành công khi xây dựng nên một vở kịch đầy ý nghĩa sâu xa. Dù đã nhiều lần được công diễn trên sân khấu, nhưng lần nào cũng khán giả đón xem và hưởng ứng rất đông đảo, nhiệt tình.

Bi kịch và khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba 6

Lưu Quang Vũ là người có tài về nhiều mặt như: viết văn, hay làm thơ, và vẽ tranh…nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt nam. Những vở kịch của ông đã làm xôn xao các dư luận và được đón nhận nồng nhiệt của khán giả. Phần lớn các vở kịch của ông đều được các đoàn nghệ thuật dàn dựng, trong đó vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt là đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ.

Tác phẩm đã thể hiện một quan niệm: Giữa hồn và xác phải có một sự tương hợp hài hòa với nhau, thế nhưng ở đây lại có sự khập khiễng không thể hòa hợp được. Đặc biệt là hồn của một người thanh cao, trong sáng, và rất trung thực phải sống trong xác của một kẻ tầm thường, phàm tục, và đầy bản năng, thô lỗ. Vì vậy từ chỗ thanh cao đến chỗ có những ham muốn tầm thường, thì nhan đề đã thâu tóm những mâu thuẫn xác định ngay trong một con người.

Tính bi kịch của Trương Ba: ông đã chết một cách vô cớ vì sự thiếu trách nhiệm của tiên thánh, và tiên thánh sẽ sửa sai thì nó càng tệ hơn. Thế nên tính bi kịch xảy ra từ khi Trương Ba được sống lại. Và sống trong cái xác của anh hàng thịt, Trương Ba thấy mình bị tha hóa: hồn trong sạch ngay thẳng đang bị cái thể xác thô lỗ, ranh mãnh, chế nhạo, và cám dỗ. Có lúc hồn phải thỏa hiệp với những đòi hỏi bản năng của xác. Đây cũng là nỗi đau khổ của con người khi phải sống trong hoàn cảnh không phù hợp với mong ước của chính mình.

Vì vậy tính bi kịch của Trương Ba không chỉ là bi kịch của cá nhân mà còn là bi kịch gia đình. Quay lại với thể xác, còn hồn Trương Ba phải đối diện với một xung đột khác đó là bi kịch không được thừa nhận. còn người vợ hiền thục rất đau khổ, muốn tìm cách tránh mặt và định bỏ đi. Con trai thì hư hỏng, còn cháu nội thì tỏ thái độ thù ghét muốn đuổi ông đi. Và chỉ có đứa con dâu là người cảm thông với ông “…làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”. Thế là Trương Ba đã rơi vào cái khổ của việc không được chia sẻ và thấu hiểu. Và chính ông đã gây ra những xáo trộn, bất an trong gia đình, và làm cho gia đình lại khổ lây vì sự nhũng nhiễu của lí tưởng. Như vậy, Trương Ba đã rơi vào tình thế cô đơn ngay tại nhà mình. Và Trương Ba đã ý thức được nỗi khổ này của vợ con lớn hơn cả nỗi khổ khi chôn ông xuống đất, và ông cảm thấy mình có lỗi với gia đình. Chính vì điều đó cho ta thấy Trương Ba là một con người rất vị tha.

Ngoài ra tính bi kịch của Trương Ba là ở chỗ mình không phải là mình. Khổ vì bị sự trói buộc có tính định mệnh của phần xác đối với phần hồn và đây là nỗi đau khổ tột cùng của Trương Ba. Vì vậy để thể hiện điều này, Lưu Quang Vũ đã tạo ra một cuộc đấu trí đầy trí tuệ giữa linh hồn và thể xác. Còn tiếng nói của xác là tiếng nói của bản năng, và tiếng nói của Trương Ba là tiếng nói của con người thanh cao, trong sạch, tự ý thức. Đó là cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai mặt tồn tại của con người, và nó được thể hiện sự khát vọng hướng thiện và tầm quan trọng của việc tự ý thức về bản thân và vượt lên chính mình.

Còn anh hàng thịt cũng không kém phần khôn ngoan, lí lẽ cũng có phần đúng đắn: Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người sống vì phần hồn, và để rồi bỏ bê cho thân xác của họ nỗi khổ sở nhếch nhác…. Ý muốn nói lên con người phải có khát vọng sống thanh cao nhưng cũng không thể tách hồn khỏi vật chất đời thường, cũng như những nhu cầu rất chính đáng của con người. Rồi hồn Trương Ba phải thỏa hiệp và nhập vào xác anh hàng thịt. Bởi vì những lí lẽ vừa khó chịu vừa chứa đựng một phần chân lý. Vì vậy màn đối thoại vừa có tính chất hài kịch lại vừa có tính bi kịch và tính bi kịch này có sự mâu thuẫn giữa khát vọng và khả năng.

Hồn Trương Ba ý thức được nghịch cảnh mình nên sự đau đớn day dứt cùng với sự tác động từ bên ngoài như: lý trưởng, gia đình nên Trương Ba phải gặp Đế Thích để giải quyết vấn đề này. Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích cũng rất đặc sắc. Ngôn ngữ của Đế Thích là ngôn ngữ dụ dỗ thuyết phục: lí lẽ không ngoan có vẻ có lý, nâng cao giá trị của Trương Ba, bôi bác sự giả dối có trên thiên đình. Tiên thánh cũng không được sống theo những gì mình nghĩ ở bên trong, đến Ngọc Hoàng cũng phải ép mình cho xứng danh Ngọc Hoàng. Trên trời, dưới đất người ta đều thế cả. Đế Thích sửa sai lại càng thêm sai. Trương Ba đã bác bỏ một cách cương quyết: “Thần có thể chấp nhận một cuộc sống như thế chứ con người thì không” và khăng khăng đòi chết, không chịu nhập vào cái xác của ai nữa.

Bi kịch của ông bắt đầu từ khi ông được sống lại trong cái xác của anh hàng thịt. Như vậy, là con người ai cũng muốn là chính mình mà không muốn sống tạm bợ, chắp vá vào ai đó. Và Trương Ba đã ý thức được vấn đề là sống như thế nào chứ không phải chỉ được sống là đủ. chính vì thế Trương Ba đã dũng cảm chấp nhận cái chết để bảo vệ chân lí, bảo vệ nhân cách, bảo vệ các giá trị nhân sinh và dù có chết cũng là cái chết bất tử. Dù là nghịch lý nhưng đó là con đường phục hưng những giá trị nhân văn. Đó là cuộc thắng lợi của cuộc tranh chấp muôn thuở giữa cái thánh thiện và cái phàm tục. Trương Ba đã chiến thắng được mình và còn chủ động phê phán khuyên bảo Đế Thích.

Đó là chuyện phi thường, một ông tiên phải đuối lý trước con người. Cuối cùng ông cũng phải thốt lên một câu như vỡ lẽ ra một điều mới: “con người dưới hạ giới các ông thật là kì lạ”. Hóa ra các lực lượng siêu nhiên, thần thánh tuy có thể quyết định được việc sống chết của con người nhưng không thể can thiệp vào sự tự do của con người được. Và Lưu Quang Vũ đã thể hiện được niềm tin sâu sắc vào con người vào khả năng vươn lên mọi thực tế nghiệt ngã trong cuộc sống của họ.

Tóm lại những bi kịch của Trương Ba mà nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến người đọc những thông điệp: Con người cần phải sống hài hòa giữa hai mặt vật chất và tinh thần. và không nên kì thị những đòi hỏi vật chất của con người, mà cần tôn trọng quyền tự do cá nhân, giúp mỗi người phải được là mình, sống đúng với chính mình. Và phải sửa chữa những sai lầm để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.

Bi kịch và khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba 7

Nhận thức về hoàn cảnh éo le của mình khi phải sống nhờ trong thân xác của người hàng thịt, nhân vật Trương Ba trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã đau đớn thốt lên rằng: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Câu nói của Trương Ba không chỉ góp phần thể hiện tư tưởng nhân sinh của vở kịch mà còn gợi bao suy ngẫm sâu sắc cho độc giả khi soi chiếu vào trong chính cuộc sống của mình.

“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” là câu nói của Hồn Trương Ba với Tiên cờ Đế Thích. Câu nói thể hiện quan niệm sống của Trương Ba được rút ra từ chính bi kịch sống nhờ cái xác của người hàng thịt.

Câu nói của Trương Ba đã thể hiện khát vọng được giải thoát khỏi thực cảnh hiện tại, mong muốn được sống là chính mình mà không phải cuộc sống bị đổi thay, xáo trộn trước sự chi phối, điều khiển của cái xác nữa. Cũng trong cuộc đối thoại với Đế Thích, Trương ba đã kiên quyết từ chối cơ hội được sống nhưng không được là mình, dù là nhập hồn vào xác người hàng thịt thô tục, tàn nhẫn hay cu Tị ngây thơ, trong sáng thì cũng chỉ là lấy bi kịch này thay thế cho bi kịch khác, Trương Ba vẫn không được sống là mình. Trương Ba từ chối cơ hội được sống quý giá để được sống là mình trọn vẹn, để không phải “sống bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo” nữa.

Câu nói của Trương Ba không chỉ góp phần phát triển kịch tính của câu chuyện, bộc lộ những giằng xé, đau đớn cũng như những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Trương Ba mà câu nói còn thể hiện được những triết lý sâu sắc trong cuộc sống con người. Trong sự đa diện, phức tạp của cuộc sống, con người bị hoàn cảnh xoay vần nhưng con người không thể chấp nhận cuộc sống tạm bợ, bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.

Con người là thực thể thống nhất giữa phần hồn và phần xác, do đó không thể có một tâm hồn thanh cao, thanh sạch trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Để sống trọn vẹn là một con người đúng nghĩa quả thực không hề đơn giản.

Khi con người chấp nhận sống nương nhờ, chắp vá không toàn vẹn, không được sống là mình thì cuộc sống vẫn tiếp diễn, chúng ta có thêm cơ hội để sống thế nhưng cuộc sống ấy cũng thật vô nghĩa. Trong xã hội hiện đại, vẫn còn rất nhiều những người tự đưa mình vào bi kịch, đó là những con người sống giả dối, hèn nhát, không dám sống là chính bản thân mình hay bị tha hóa, biến chất chỉ vì danh và lợi.

Trong vở kịch, sau khi trải qua bao cay đắng khi sống nương nhờ, Trương Ba đã nhận ra bi kịch của bản thân để từ đó kiên quyết từ bỏ cuộc sống không phải của mình. Trương Ba không chấp nhận thỏa hiệp để tiếp tục được sống nhưng cũng đồng nghĩa kéo dài bi kịch không phải vì mình. Lời nói và hành động của Trương Ba đã thể hiện bản lĩnh và vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật khi sẵn sàng đón nhận cái chết còn hơn sống trong sự dày vò của lương tâm và sự ghẻ lạnh, thất vọng của những người thân yêu vì sự thay đổi của chính mình.

Qua câu nói của nhân vật Trương Ba, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã thể hiện được cái nhìn sâu sắc khi phát hiện được bi kịch bên trong con người hiện đại: đó là thực trạng con người sống vội, sống gấp, sống thực dụng mà vô tình đánh mất chính mình.

Phân Tích Truyện Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt 8

Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ - một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh... nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của "tiên cờ" Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu "sửa sai" bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba

Có thể nói Trương Ba đã chết một cách vô lí, ai cũng biết cái chết của Trương Ba là do sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào. Nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn là linh hồn mình phải trú nhờ trong thể xác của kẻ khác. Do phải sống nhờ thể xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay vì phải sống mượn, vá lắp, tạm bợ và lệ thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể. Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ (Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải). Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng. Ý thức được điều đó linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích, đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ranh mãnh dồn hồn Trương Ba vào thế đuối lí và hơn nữa, ve vãn hồn Trương Ba thoà hiệp vì, theo lí lẽ của xác thịt là "chẳng còn cách nào khác đâu", vì cả hai "đã hoà vào nhau làm một rồi". Trước những "lí lẽ ti tiện" của xác thịt, Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, đã mắng mỏ xác thịt hèn hạ nhưng đồng thới cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch cành mà mình đã lâm vào, đành nhập trở lại vào xác thịt trong tuyệt vọng. Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ. Một bên đại điện cho sự trong sạch, nhân hậu và khát vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh nghĩa con người và một bên là sự tầm thường, dung tục. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người. Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý thức, tự chiến thắng bản thân. Màn đối thoại này cho thấy:

Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hoá.

Không chỉ đừng lại ở đó, tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.

Không phải ngẫu nhiên, tác giả không đưa anh con trai thực dụng của Trương Ba vào cuộc đối thoại của Trương Ba với những người thân. Các cuộc đối thoại với vợ con dâu và cháu gái càng làm cho Trương Ba đau khổ hơn. Ông hiểu những gì mình đã, đang và sẽ gây ra cho người thân là rất tệ hại nặc dù ông không hề muốn điều đó. Thái độ của vợ trương Ba, con đâu và cháu gái trước sự biến đổi và tha hoá của Trương Ba.

Vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ nhưng vốn bàn tính vị tha nên định nhường Trương Ba cho cô vợ anh hàng thịt.

Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, "khổ hơn xưa nhiều lắm". Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình "như sắp tan hoang ra cả" khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: "Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa...".

Trái lại, cái Gái, cháu Trương Ba thì phản ứng quyết liệt và dữ dội. Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân (tôi không phải là cháu ông... Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có "bàn tay giết lợn", bàn chân "to bè như cái xẻng" đã làm "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, "Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy". Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!". Tuy nhiên, họ chỉ là những người dân thường, họ không giúp gì được cho tình trạng hiện tại của Trương Ba. Tình huống kịch thúc đẩy Trương Ba phải lựa chọn và sau màn độc thoại nội tâm (hồn Trương Ba thách thức xác anh hàng thịt: "có thật là không còn cách nào khác?" và phản kháng quyết liệt: "Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!"). !". Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái cảnh phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo nữa và muốn được là mình một cách toàn vẹn "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn". Qua lời thoại này của nhân vật Trương Ba. Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm vào đó thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi. Khi con người bị chi phối bở những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đỗ lỗi cho thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì thế giới vốn không toàn vẹn, dưới đất, trên trời đều thế cả. Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: "Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết". Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chấp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Lòng tốt hời hợt thì chẳng đem lại điều gì thực sự có ý nghĩa cho ai mà sự vô tâm còn tệ hại hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, vào bi kịch! Đế Thích định tiếp tục sửa sai của mình và của Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác, tệ hại ít hơn là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, mà theo ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc tức lão lí trưởng và đám trương tuần, không chấp nhận cái cuộc sống mà theo ông là còn khổ hơn là cái chết. Trương Ba kêu gọi Đế Thích hay sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị. Đế Thích cuối cùng cũng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: "Con người hạ giới các ông thật kì lạ". Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện. Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Tuy vậy, chỉ cần nhấn mạnh ở đây vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.

Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hoá thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thăng của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực.

Không chí có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, rong vở kịch nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ: Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra , vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi. Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ.

Phân Tích Truyện Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt 9

Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) là con trai của nhà biên kịch Lưu Quang Thuận, quê gốc Quảng Nam, sống và làm việc trên đất Bắc. Thừa hưởng truyền thống văn chương của dòng họ, Lưu Quang Vũ sáng tác khá sớm. Ở tuổi hai mươi, khi đang là một chiến sĩ của binh chủng Phòng không - Không quân, Lưu Quang Vũ đã có nhiều bài thơ trữ tình được thế hệ trẻ yêu thích. Từ năm 1978 đến năm 1988, ông là biên tập viên của tạp chí Sân khấu. Trong giai đoạn đầu tiên của thời kì đổi mới, xã hội Việt Nam có rất nhiều vấn đề nóng bỏng và bức xúc, liên quan tới quá trình phát triển của đất nước và cuộc sống của nhân dân. Vốn là người quan tâm tới thời cuộc, Lưu Quang Vũ đã quyết định chuyển hẳn sang sáng tác kịch để có điều kiện bày tỏ, thể hiện những nhận thức và quan điểm của mình trước công luận. Chỉ trong vòng mười năm, hơn năm mươi vở kịch với những đề tài hết sức thời sự và thiết thực của Lưu Quang Vũ đã được dàn dựng, biểu diễn trên khắp cả nước, đem lại một sức sống mới cho sân khấu Việt Nam và tạo ra những tranh luận, đánh giá sôi nổi, thậm chí có những ý kiến hoàn toàn trái ngược nhau. Người ta gọi đó là "hiện tượng Lưu Quang Vũ" vì hiện tượng này có thể nói là chưa từng xảy ra trong lịch sử sân khấu Việt Nam. Những vở kịch như: Lời nói dối cuối cùng, Nàng Xi-ta, Nếu anh không đốt lửa, Khoảng khắc và vô tận, Bệnh sĩ, Tôi và Chúng ta... đã khẳng định tài năng xuất sắc và nhiệt tình cháy bỏng cộng tình yêu thương con người, cuộc đời và trách nhiệm công dân rất cao của Lưu Quang Vũ. Ông mất đột ngột trong một tai nạn giao thông năm 1988. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và văn học nghệ thuật.

Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt vốn là một câu chuyện dân gian có từ lâu đời đã được tác giả Lưu Quang Vũ xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng và triết lí nhân văn sâu sắc. Vở kịch được công diễn nhiều lần trong và ngoài nước, được dư luận đánh giá tà một trong những vở kịch làm nện tên tuổi Lưu Quang Vũ. Nội dung vở kịch tóm tắt như sau; Trương Ba là một người làm vườn có tài chơi cờ tướng. Vì sự nhầm lần của Nam Tào (vị quan trên Thiên đình trông coi về việc sinh tử của con người dưới trần gian) nên Trương Ba chết oan. Để sửa sai Nam Tào cùng Đế Thích (tiên cờ) làm cho Trương Ba sống lại trong thân xác anh hàng thịt. Mọi chuyện rắc rối xảy ra từ đây. Trương Ba bị làm phiền liên tục, bị người thân sợ hãi, xa lánh. Bản thân Trương Ba cũng, rất "khó chịu vì phải sống trong thân xác không phải của mình". Cuối cùng ông đã quyết định trả lại thân xác cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết thực sự để giải thoát cho mình. Đoạn trích là đoạn kết, tập trung phản ánh tư tưởng chủ đề của vở kịch: Bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh phải sống nhờ, sống tạm và trái tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu bị tha hóa trước sự lấn át của thể xác phàm tục, thô lỗ. Vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.

Ở đọan này, điểm đỉnh của mâu thuẫn kịch đã được tác giả thể hiện qua sự dằn vặt, giằng xé đau đớn của hồn Trương Ba. Mở đầu là cảnh hồn Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy, nói những câu đầy bực bội, bức xúc: Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!... Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rỗi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!

Tiếp sau đó, hồn Trương Ba tách khỏi thân xác anh hàng thịt và cuộc đối thoại giữa hồn Và xác bất đầu. Dưới lớp vỏ ngôn ngữ của những lời đối thoại là nhiều tầng nghĩa khác nhau, tuỳ thuộc vào trình độ của người xem kịch. Lưu Quang Vũ rất chú ý đến việc dùng ngôn ngữ để phản ánh tính cách và bản chất nhân vật. Xác hàng thịt lên tiếng với giọng điệu mỉa mai, chế giễu và phủ nhận những cố gắng giải thoát của hồn Trương Ba: Vở kịch, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chì là thân xác... Hồn Trương Ba đáp lại với thái độ vừa ngạc nhiên vừa coi thường, mày cũng biết nói kia à? Vô lí, mày không thể biết nói. Mày không có tiếng nói mà chỉ là xác thịt âm u đui mù... Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt.

Lưu Quang Vũ kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian, tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của linh hồn so với thể xác. Thế nhưng tác giả đã để cho cuộc tranh luận giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt không kém phần gay go, quyết liệt. Có những lúc tiếng nói của xác thịt đường như lấn át cả tiếng nói của linh hồn, đẩy linh hồn vào thế lúng túng, bị động: Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục!... Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cung đáng được quý trọng chứ. Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn mảnh đất cây cối, những người thân... Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi... Khi muốn hành hạ tâm hồn con người, người ta xúc phạm thể xác... Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông hay vịn vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác... Mỗi bữa tôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ... Tôi thông cảm với những "trò chơi tâm hồn của ông". Nghĩa là: Những lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh, vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều xấu gì ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết: Cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện, Hà hà, miễn là... ông vẫn làm đủ mọi việc để thỏa mãn những thèm khát của tôi. Hồn Trương Ba tuy vẫn khăng khăng phủ nhận lí lẽ của xác hàng thịt: Lí lẽ của anh thật ti tiện, nhưng rõ ràng là đã lâm vào tình thế tuyệt vọng và chỉ biết than: Trời!

Cả gia đình Trương Ba cũng bị cuốn vào bi kịch bởi những điều lộn xộn, tréo ngoe do hồn một đằng xác một nẻo gây ra. Vợ Trương Ba thì trách móc chồng: ông bây còn biết đến ai nữa! Cu Tị ốm thập tử nhất sinh, từ đêm qua tới giờ bắt đầu mê man, mẹ nó khóc đỏ con mắt. Khổ! Thằng bé ngoan là thế! Cái Gái thương bạn, ngơ ngẩn cả người... Không hiểu thằng bé có qua khỏi được không, khéo mà... Cái thân tôi thì sao trời lại không bắt đi cho rảnh! Bà muốn bỏ nhà mà đi. Bà nói như khóc: Tôi nói thật đấy... ông Trương Ba ạ, tôi đã nghĩ kĩ: Có thể tôi phải đi.. Đi cấy thuê làm mướn ở đâu cũng được... đi biệt. Để ông được thảnh thơi... với cô vợ người hàng thịt.. Còn hơn là thế này... Tôi biết, ông vẫn là người hết lòng thương yêu vợ con... Chỉ tại bây giờ... ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa...

Cái Gái, đứa cháu nội yêu quý của Trương Ba cũng tỏ thái độ gay gắt : Tôi không phải là cháu của ông! ông nội tôi chết rồi. Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông! Ông dám nhận là ông nội, dám đụng vào cây cối trong vườn của ông nội tôi. Khi hồn Trương Ba cố gắng thanh minh:... sáng nào ông cũng ra cuốc xới chăm chút cây cối ngoài vườn, cháu không thấy sao: Chỉ có ông nội cháu mới biết quý cây như thế... thì cái Gái lại càng gào lên căm giận: Quý cây! Hừ, tôi phải rình lúc này, cà nhà đi vắng hết để đến nói với ông: Từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn ông tôi nữa! Ông mà quý cây à? Sáng qua, tôi để ý lúc ông chiết cây cam, bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cà cây sâm quý mới ươm! Ông nội tôi đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy?

Chị con đâu của Trương Ba là người hiểu ông, thương ông nhất. Lúc đầu, chị chấp nhận tình cảnh trớ trêu của cha chồng vì thân xác tuy là của anh hàng thịt thô kệch nhưng tâm hồn ông vẫn thuần hậu như xưa. Chị nói: Thầy vẫn dạy chúng con : Cái bên ngoài có quan trọng gì, chì có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể. Nhưng đến lúc này, chị cũng thấy vừa thương vừa sợ. Chị đau đớn, day dứt khi phải thật tình bộc bạch suy nghĩ của mình với cha chồng: ...thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa... Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giờ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi! Chị con dâu đã nhận xét rất đúng, rất đầy đủ về tình cảnh nan giải của Trương Ba lúc này.

Lời nói của chị con dâu chứa đựng sự thực phũ phàng có tác dụng thức tỉnh hồn Trương Ba, thúc đẩy ông tới một sự lựa chọn một hành động đau xót nhưng quyết liệt. Đoạn độc thoại thể hiện sự dằn vặt khổ sở của hồn Trương Ba khi phải đối điện với chính mình, khi tự đặt ra và trả lời những câu hỏi của lương tâm: Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta... Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? "Chẳng còn cách nào khác". Mày nói như thế hả? Nhưng có thật ta không còn cách nào khác? Không cần cái đời sống do mày mang đến. Không cần!

Để củng cố thêm quyết tâm, Trương Ba thắp nhang cầu khẩn sự giúp đỡ của vị tiên cờ Đế Thích và thổ lộ nỗi khổ tâm của mình: Ông Đế Thích ạ! Tôi không thể tiếp tục mang thân xác anh hàng thịt được nữa, không thể được.. Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Thế nhưng những lời giải thích của Đế Thích lại làm cho Trương Ba một phen bàng hoàng: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất trên trời đều thế cả nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào, thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù nào của ông đâu!

Bàng hoàng nhưng Trương Ba vẫn như đang đắm mình trong dòng suy nghĩ, dằn vặt, thoáng chút trách móc: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết.

Sự giằng xé trong tâm trạng Trương Ba được tác giả vở kịch thể hiện tự nhiên, sinh động và chân thật. Muốn thoát khỏi tình huống khó xử và khó chịu như thế này, Trương Ba chì còn một cách là chấp nhận cái chết vĩnh viễn. Ông muốn Đế Thích trả lại thân xác cho anh hàng thịt để phần hồn sẽ sống hòa thuận với thân xác anh ta, để vợ anh ta không còn phải sống trong cảnh góa chồng thật đáng thương. Trong khi, Đế Thích đang phân vân hỏi nếu làm như vậy thì hồn Trương Ba sẽ trú ở đâu, Trương Ba đã trả lời dứt khoát: Ở đâu cũng được chứ không ở đây nữa. Nếu ông không giúp, tôi sẽ... tôi sẽ... nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất. Mâu thuẫn kịch được đẩy len cao hơn với chi tiết cu Tị con chị Lụa hàng xóm sắp chết. Cu Tị là bạn thận của cái Gái! cháu nội ông Trương Ba. Đế Thích nhân cơ Hội này đề nghị Trương Ba nhập hồn vàp xác cu Tị. Trương Ba suy nghĩ rất nhanh, hình dung rất nhanh về hậu quả của sự việc đó để rồi từ chối, bởi những rắc rối mà ông đang phải chịu đựng đã khiến ông vô cùng khổ sở, khổ sở hơn là chết.

Thương Trương Ba con người hiền lành, đôn hậu và không muốn mất người bạn cờ tri âm tri kỉ nên Đế Thích vẫn cố gắng thuyết phục, nhưng Trương Ba khăng khăng không đổi ý: Tôi đã nghĩ kĩ.. Tôi không nhập vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn! Hành động trả lại thân xác cho anh hàng thịt của Trương Ba là hành động đúng đắn, dũng cảm và hợp đạo lí. Điều đó khẳng định rằng: Một linh hồn dù tốt đẹp đến đâu nhưng phải trú ngụ trong một thể xác khác thì cũng không thể nào thấy thoải mái vì mặc cảm giả dối. Sống như thế thì không phải là sống theo đúng ý nghĩa của từ này mà chỉ là sự tồn tại đơn thuần mà thôi. Trương Ba chết nhưng tâm hồn tốt đẹp cua ông sẽ sống mãi trong tình yêu mến và nỗi tiếc nhớ của gia đình, bạn bè; làng xóm. Chết nhưng lại là vẫn sống.

Đoạn trích Hồn Trương Ba da hàng thịt tập trung cao độ tính chất triết lí và tư tưởng nhân văn của vở kịch có nguồn gốc dân gian này. Lưu Quang Vũ đã đưa vào vở kịch quan niệm đúng đắn về cách sống: Trước hết, mình hãy là mình. Cuộc sống của cá nhân chỉ thực sự. Có ý nghĩa khi biết sống vì niềm vui và hạnh phúc của mọi người vì sự tốt đẹp của cuộc đời. Tư tưởng triết lí về con người của Lưu Quang Vũ vừa biện chứng vừa lạc quan, cao thượng. Tất cả những điểu đó được thể hiện bằng tài năng sáng tạo hiếm có của tác giả khiến vở kịch có sức cuốn hút lạ thường đối với khán giả. Lưu Quang Vũ xứng đáng là nhà biên kịch xuất sắc của sân khấu Việt Nam hiện đại.

Phân Tích Truyện Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt 10

Những năm tháng trên ghế nhà trường được tiếp xúc với nền văn học nước nhà bằng nhiều thể loại phong phú luôn là những kí ức, dấu ấn khó phai nhất trong tâm hồn mỗi người. Em không làm sao quên được những vần thơ mặn nồng thiết tha và đầy xúc cảm của Hàn Mặc Tử, Chế Lan viên hay những câu thơ chạm đáy hồn nhân thế trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Em cũng không thể nào không nhớ bát cháo hành đầy tình người của Thị Nở trong những trang văn của Nam Cao hay nỗi xót xa, đắng cay cho số phận người con gái tài năng nhưng số phận không may mắn của nàng Mị trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. Và đến với kịch Việt Nam, Lưu Quang Vũ đã khiến em cũng không khỏi trăn trở trước những tấn bi kịch của cuộc đời con người qua vở kịch:"Hồn Trương Ba, da hàng thịt".

Trương Ba vốn là một người hiền lành, nổi tiếng với tài chơi cờ. Ông cũng rất chăm chỉ làm ăn, lại làm vườn rất giỏi và có một cuộc sống hạnh phúc bên gia đình của mình. Nhưng trớ trêu thay, vì sự tắc trách của Nam Tào trên thiên đình mà Trương Ba buộc phải chết, để sửa chữa lỗi lầm của mình họ đã hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt để tồn tại. Song, dường như tấn bi kịch lớn lại bắt đầu từ đây. Dù Trương Ba vốn là người có tâm hồn trong sạch, thủy chung, nhân hậu nhưng khi nhập vào xác anh hàng thịt lại khiến Trương Ba vô cùng bức bối và chịu sự chi phối rất nhiều từ cái xác thô kệch ấy.

Cuộc sống "bên trong một đằng bên ngoài một nẻo" khiến cho Trương Bạ chẳng dễ dàng gì để đối mặt với mọi người, sống cuộc sống bình thường như khi trước. Trong xác hàng thịt, Trương Ba làm mọi việc rất vụng về, khó khăn, thậm chí có phần thô lỗ, hung bạo, ngày càng trở nên xấu xa hơn. Trương Ba đang bị xác anh hàng thịt điều khiển, không kiềm chế, điều chỉnh được những cảm xúc của chính mình nữa. Trương Bạ vô cùng bực tức, giận dữ khi không thể nào thoát được khỏi cái thân xác tồi tệ kia, dù đưa ra mọi lý lẽ nhưng anh hàng thịt chỉ cười nhạo hả hê coi đó là sự hiển nhiên và đưa ra những lí do vô cùng ti tiện, ngông cuồng. Hơn ai hết, lúc này đây, Trương Ba hiểu được sự đau đớn tột cùng và bi kịch của cuộc đời mình.

Khi nói chuyện với những người thân yêu trong gia đình, ông càng thấm thía hơn những cảm nhận của họ, Trương Ba hiểu được rằng họ cũng có những cảm xúc riêng, khó khăn riêng. Một người vợ vốn bên cạnh ông bao năm luôn bao dung, nhân hậu vậy mà dường cũng không thể chịu đựng, chấp nhận được nữa. Đứa con dâu bấy lâu luôn yêu thương ba cũng bày tỏ những nỗi xót xa mà cô có thể hiểu cho cuộc sống của ông, nhưng rồi cũng phải nghẹn ngào bày tỏ: "Thầy bảo con cái bên ngoài là không đáng kể...đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa". Đứa cháu gái khi xưa vốn hết mực kính trọng người ông yêu quý của mình giờ cũng hoảng sợ, hắt hủi trước bộ dạng này của ông. Trong trí nhớ ngây thơ của đứa bé ấy là một người ông hiền hậu, khéo léo chứ không phải là một kẻ to béo, hậu đậu, thô lỗ kia. Em đã thẳng thắn từ chối, không chấp nhận một ai khác ngoài ông nội trong tiềm thức của nó: "Tôi không phải là cháu ông....ông nội tôi chết rồi". Càng nghĩ, càng đau khổ. Càng sống, càng xót xa. Dường như nỗi chán chường đến tận cùng cái thể xác không phải là mình, không là của mình đã khiến ông phải thốt lên rằng: "Không cần đến cái đời sống do mày mang lại. Không cần" bằng một sự dứt khoát vô cùng mãnh liệt trước cái xác anh hàng thịt.

Cuối cùng, để giải thoát cho chính mình, ông đã tìm đến Đế Thích. Ông thể hiện sự phản kháng của mình với cái thân xác xấu xa kia với thần Đế: "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn". Mặc cho vị thần kia có giải thích rằng cuộc sống không có gì là hoàn hảo cả, nên chấp nhận sự không toàn vẹn của bản thân mình, Trương Ba vẫn một mực khẳng định: "Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác… nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết". Câu nói của Trương Ba khiến Đế Thích thấy vô cùng kì lạ bởi trong đầu ông luôn tồn tại ý nghĩa sẽ không bao giờ có điều gì toàn vẹn cả trong cuộc sống này, kể cả chốn trần gian hay nơi thiên đình. Khi thoả hiệp cho Trương Ba nhập vào xác cu Tị ông vẫn kiết quyết từ chối. Hơn ai hết, có lẽ giờ đây ông hiểu được rằng, không thể nào có một cuộc sống ý nghĩa thực sự nếu sống nhờ thân xác của kẻ khác. Chấp nhận cái chết không phải là điều dễ dàng nhưng sống mà không được là mình thì càng khó khăn hơn gấp bội.

Cuộc đấu tranh giữa hồn Trương Ba và da hàng thịt là cuộc đấu tranh giữa phần "con" và phần "người" trong một bản thể. Con người để có thể tồn tại đích thực với những giá trị sống bền vững và cao đẹp nhất khi và chỉ khi có sự hoà hợp giữa linh hồn và thể xác. Không thể có một tâm hồn thanh cao sống nhờ vào thân xác của một kẻ thô tục, dối trá. Vì vậy, Trương Ba lựa chọn cái chết để được sống là mình toàn vẹn,  để bảo vệ cho tâm hồn đẹp đẽ của mình trước những sự tha hoá, dụng tục, thô bạo,.. để vươn tới những vẻ đẹp tinh thần là lựa chọn hợp lí cho thấy được tinh thần đấu tranh của những con người lao động lương thiện và phẩm chất cao quý.

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã để lại cho chúng ta những bài học nhận thức đầy suy ngẫm mà vô cùng giá trị. Đó là sự tổng hoà giữa vật chất và tinh thần trong đời sống con người, cần phải dùng hoà để phát triển. Đừng bao giờ chạy theo những ham muốn vật chất tầm thường mà khiến bản thân trở nên mất giá trị và cũng đừng bao giờ vì coi trọng đến tinh thần mà bỏ bê đời sống vật chất, phải biết thích nghi với hoàn cảnh và giữ cho bản thân không bị hoàn cảnh chi phối. Đó còn là triết lý sống về hiện tượng sống nhờ, sống gửi vào kẻ khác, phê phán những kẻ giả tạo, giỏi xu nịnh để tiến thân mà không sống đúng với năng lực, khả năng của mình. Vì mưu cầu danh lợi mà bán rẻ lương tâm.

Bằng tài năng của mình, Lưu Quang Vũ đã xây dựng một vở kịch vô cùng thành công trên nhiều phương diên. Nghệ thuật ngôn từ giản dị, ngôn ngữ đối thoại khắc hoạ rõ tính cách của từng nhân vật, xung đột kịch hấp dẫn và gây cấn. Nội dung vô cùng sâu sắc, chứa tầng sâu giá trị triết lý, bởi vậy mà tác phẩm sống mãi với đời sống văn học, văn hoá của dân tộc qua bao năm tháng.

Bài văn phân tích tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" 11

Nhắc đến Lưu Quang Vũ là nhắc đến một nhà soạn kịch tài hoa, một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu cho văn học hiện đại Việt Nam. Tài năng bao trùm trên các lĩnh vực văn chương nghệ thuật, và trong mỗi lĩnh vực, Lưu Quang Vũ lại để lại những dấu ấn đặc biệt, để lại những thành tựu trải dài suốt hàng thế kỉ.

Trong đó, Lưu Quang Vũ đặc biệt được ghi nhận ở mảng viết kịch và “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được xem là một trong những vở kịch thành công nhất của Vũ. Chính vì thế mà nhà phê bình Ngô Thảo đã từng nói: “Bóng rợp tài năng của Lưu Quang Vũ đã trùm lên che mát cả một vùng sân khấu rộng lớn theo chiều dài đất nước trong một thập niên”.

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch viết về cuộc xung đột căng thẳng giữa Hồn và Xác mà Lưu Quang Vũ đã mượn cốt truyện dân gian để xây dựng nên. Trương Ba là một người hiền lành, chăm chỉ, có học thức lại giỏi đánh cờ nhưng lại chết một cách vô lí. Cái chết của Trương Ba chính do bởi sự vô tâm, tắc trách nơi Nam Tào. Sau đó, để sửa sai, Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại là nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết.

Nhưng không ngờ sự sửa chữa ấy lại dẫn tới một sai lầm trầm trọng hơn, Trương Ba rơi vào hẳn đời bi kịch khi phải sống trong xác hàng thịt – một con người hoàn toàn đối lập với mình. Sau cùng, Trương Ba đã lựa chọn cái chết, trả lại thân xác vay mượn cho Hàng Thịt bởi vì ông muốn “tôi muốn được là tôi của toàn vẹn” bởi “sống thế này, còn khổ hơn là cái chết”.

Và từ đó, vĩnh viễn “không còn cái vật quái gở mang tên “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nữa”. Qua đó, vở kịch đã mang đến một thông điệp to lớn: được sống làm người là quý giá thật, nhưng càng quý giá hơn khi được sống là chính mình, theo đuổi những giá trị mình mong muốn, sống một cách tự nhiên với sự hài hòa giữa tâm hồn và thể xác.

Với cốt truyện như trên, trích kịch xoay cuộc đối thoại nảy lửa giữa hồn và xác. Nguyên nhân xuất phát từ việc Trương Ba phải chịu sự lấn át của thể xác thô lỗ, chiều theo những nhu cầu tầm thường, dung tục mà khiến tâm hồn thanh cao bị nhiễm độc, tha hóa. Hàng thịt bây giờ là cái bình để chứa đựng linh hồn Trương Ba, hàng thịt đòi hỏi những nhu cầu ăn uống rượu thịt, tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi…và cả đời sống vợ chồng mà Trương Ba cho là thô phàm, thấp kém.

Trong khi Trương Ba càng cố gắng chối bỏ, đề cao sự nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn thì hàng thịt lại càng khinh khi, phỉ nhổ: “Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!” Qua đó, Lưu Quang Vũ đã gửi đến cho người đọc những triết lí nhân sinh quý giá hai tấn bi kịch của cuộc đời Trương Ba.

Bi kịch thứ nhất của Trương Ba là bi kịch sống, sống gửi, không được là chính mình. Nghịch cảnh trớ trêu, sự hoán đổi bất ngờ đã xáo trộn hiện thực. Trích kịch mở đầu với những lời kêu gào thống thiết: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!” Trương Ba đang độc thoại trước cảnh bế tắc. u uẩn không lối thoát của hiện tại. Thân xác kềnh càng, bản tính cục cằn thô lỗ của hàng thịt đang dần dần lấn át đi tâm hồn nhân hậu, thanh cao của chính ông.

Đau khổ, quẫn bách, dày vò không ngờ lại trở thành cuộc đời của Trương Ba. Sự hoán đổi quá chênh lệch, linh hồn thanh cao gửi vào xác thân phàm tục đã khiến cho ông muốn bứt mình ra khỏi hiện tại dù chỉ là trong khoảnh khắc: “Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó được tách khỏi cái xác này, dù chỉ là một lát!”

Trong chán nản tuyệt vọng, sự khát khao tách bạch trở nên tha thiết hơn bao giờ hết, tiếng kêu gào thống thiết kia chính là lời cầu cứu của một linh hồn khát khao được nguyên vẹn là mình. Và cũng trong giây phút đó, Hồn và Xác đã được tách ra, cuộc hội thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt được bắt đầu.

Ta thấy trong cuộc đối thoại đặc biệt đó, Hồn Trương Ba đã bị nhạo báng, thách thức và đôi lần đuối lí trước lời nói hùng hồn của Xác hàng thịt. Lời nói của Hồn Trương Ba vô cùng ít ỏi và tất cả đều xoay quanh việc bảo vệ sự trong sạch của chính mình, đề cao tâm hồn cao thượng, lối sống nhân hậu, thanh cao và lên án xác thân hàng thịt đã làm ông dơ bẩn, tha hóa. Xác trước những buộc tội đó không hề đuối lí mà ngược lại, còn ung dung, ngạo mạn thách thức linh hồn.

Trước lời khinh miệt thân xác vô hồn, đui mù “mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…”, hàng thịt đã nghiễm nhiên đáp lại: “Chính vì âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy!” Ta thấy, mỗi lời hàng thịt nói ra đều buộc Trương Ba phải thừa nhận có sự tồn tại của thể xác, hơn nữa, ông đang bị thể xác mà mình khinh khi, xem thường kia trói buộc.

Hồn im lặng và đau đớn thừa nhận sự thắng thế của Xác, nhiều lần phải bất lực đáp lại: “Im đi”, “Ta… ta… đã bảo mày im đi!”, “Ta không muốn nghe mày nữa!”,… Trong suốt cuộc đối thoại, Xác hàng thịt lần lượt kể lại những hành động, những việc làm, những thói quen nhuốm màu phàm tục như “Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại…”, “ông có nhớ hôm ông tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi không?” để cuối cùng khẳng định một điều chắc nịnh với Hồn Trương Ba: “Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục!”.

Bên cạnh đó, Xác hàng thịt còn lần lượt kể lể về những lí lẽ vô cùng thuyết phục như “những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác”, kể về những “trò chơi tâm hồn” mà mình đã nhân nhượng với Trương Ba. Cuộc đối thoại đến hồi kết, hồn Trương Ba cam cảnh thua cuộc và phải quay về với xác hàng thịt.

Qua tấn bi kịch sống nhờ sống gửi này, chúng ta thấy hình tượng Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt chính là ẩn dụ cho hai lối sống đối lập, một bên đại diện cho sự thanh cao, nhân hậu, khát vọng sống cao khiết, một bên là sự tầm thường, dung tục. Đó đồng thời cũng là sự đấu tranh, đối thoại gay gắt trong một con người. Khi con người sống trong thể xác tầm thường dung tục thì ắt sẽ bị nó ngự trị. Ngược lại, nếu chỉ một mực chăm chút linh hồn mà xem thường thể xác thì thể xác cũng nhếch nhác, tầm thường.

Bi kịch thứ hai của Trương Ba là bi kịch bị người thân cự tuyệt. Có thể nói, đây mới là tấn bi kịch đau đớn nhất, sâu sắc nhất của Trương Ba. Ông tuyệt vọng, khổ đau không chỉ bởi sự thay đổi ngỡ ngàng đến không thể nhận ra của chính mình mà còn bởi sự xa lánh, rời bỏ của người thân. Khoảng cách gia đình, những vết rạn nứt đã mơ hồ xuất hiện.

Từng nhớ, trong dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam, từng có một Chí Phèo bị người thân bỏ rơi từ lúc nhỏ, bị Thị Nở ngoe ngoẩy cự tuyệt trên con đường hoàn lương để rồi đi vào một hướng giải thoát mang tính chất đánh đổi: đó là mạng sống, là cái chết. Hoàn cảnh Trương Ba cũng tương tự khi vợ, khi cháu và khi cả con dâu lần lượt rời xa ông. Làm sao Trương Ba có thể thanh minh cho hoàn cảnh hiện tại của chính mình? Làm sao ông có thể giải quyết sự mâu thuẫn giữa hồn và xác đang ngự trị?

Tình thân bị đặt vào giữa bi kịch nghiệt ngã, càng đẩy Trương Ba rơi sâu hơn vào bế tắc của chính mình. Người vợ mà ông hết mực yêu thương cũng không hiểu được ông: “Ông bây giờ còn biết đến ai nữa!”, đòi bỏ ông ra đi “để ông được thảnh thơi… với cô vợ người hàng thịt”, “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”… Mỗi lời nói ra của người vợ như một vết cắt, cắt sâu vào nỗi đau của Trương Ba. Ngay cả đứa cháu ông – Gái cũng đã lên tiếng khước từ, phủ nhận “Tôi không phải là cháu của ông!”

Chính lời nói của đứa trẻ ngây thơ, vô tội đã cáo buộc đanh thép “bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫn lên nát cả cây sâm quý mới ươm”, “ông làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng cả cái diều đẹp mà cu Tị rất quý”…Nó xua đuổi ông như đuổi một tên hung thần, một tên ác quỷ, nó gọi ông bằng những danh xưng xấu xa, bằng lão đồ tể.

Cuối cùng, đến cả chị con dâu – người mà ông tin tưởng nhất cũng đã tỏ ra nghi ngờ: “mỗi ngày con thấy thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”. Chị vẫn tự nhủ mình phải kính trọng, phải yêu thương, phải cảm thông cho người bố chồng bất hạnh nhưng hiện thực giờ đây là cửa nhà tan hoang, là nỗi đau khổ của từng người từng người một “nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia?”

Bây giờ đây, Trương Ba hoàn toàn tuyệt vọng, ông không còn chút niềm tin nào để bấu víu, không còn thiết tha gì một mạng sống đã làm khổ chính mình, hành hạ người thân. Bi kịch nhường ấy là quá đủ. Nỗi đau này phải tiếp tục cho đến bao giờ, Trương Ba “mặt lặng ngắt như tảng đá”, từ chối bỏ, nghi ngờ, chịu ép vế nay đã phải hoàn toàn thừa nhận sự thắng thế của thân xác. Bi kịch bị người thân cự tuyệt đã giúp ông có những suy nghĩ dứt khoát, những hành động quyết liệt nhất để tìm ra con đường tự cứu lấy mình. Cuối cùng, ông đã xin với Đế Thích cái chết bởi “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”.

Sở dĩ Trương Ba từ chối cơ hội cuối cùng mà Đế Thích ban cho, đó là nhập hồn vào xác Cu Tị vừa mới chết là vì ông không muốn một lần nào nữa xảy ra bi kịch oái oăm tương tự. Làm có thể sống một cách bình thường, làm sao có thể dung hòa sự khi bên ngoài và bên trong hoàn toàn trái ngược?

Tâm hồn của Trương Ba là một tâm hồn hoàn toàn khác so với thân xác đang trú ngụ kia. Sẽ chẳng có một lối thoát, một cứu cánh nào vẹn toàn cả “trẻ con phải ra trẻ con, người lớn phải ra người lớn”. Đế Thích quan niệm cuộc sống khác ông, sống chỉ đơn giản là không chết, chẳng cần phải vẹn toàn, phải ý nghĩa, phải như mong muốn gì cả “tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong”, “dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông”.

Cái chết của Trương Ba chính là cuộc hồi sinh ngắn ngủi trong lòng những người thân, khi người chồng, người ông, người cha kính yêu, hiền lành khi xưa đã quay trở về. Từ bỏ cuộc sống giả tạo, mệt mỏi, Hồn Trương Ba quay về với nếp nhà hiền hậu ban đầu, với cuộc sống của chính mình, với bậc cửa ở nhà, với ánh lửa, với cầu ao, với cơi trầu, con ao…

Trương Ba đã nói một câu hết sức bình thường giản dị nhưng lại vô cùng thấm thía cảm động: “Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu…”

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” có nhiều đặc điểm nghệ thuật nổi trội và đã gặt hái thành công rực rỡ ở những buổi công diễn sân khấu kịch. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã lồng ghép vào triết lí nhân sinh quý giá về cuộc sống, cách sống của mỗi con người. Đặc biệt, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, xúc động và gay cấn qua các màn độc thoại, đối thoại đã tạo nên chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm.

Tóm lại, thông qua trích kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ đã khắc họa một cuộc đối thoại sinh động giữa Hồn và Xác để từ đó đi đến kết luận về một cuộc sống thực sự có ý nghĩa, một cuộc sống thể xác và tâm hồn để tìm sự sự dung hòa hợp lí. Và trong bất kì hoàn cảnh nào, con người phải biết đấu tranh vươn lên những giá trị chân thiện mỹ, biết tự hoàn thiện bản thân trên mọi phương diện chính là thông điệp nhân sinh quý giá mà vở kịch mang lại.

Bài văn phân tích tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" 12

Lưu Quang Vũ là một tài năng đa dạng nhưng kịch là phần đóng góp đặc sắc nhất. ông được coi là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu, một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại. “Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Từ cốt truyện dân gian ông xây dựng lên một vở kịch hiện đại chứa đựng nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng và triết lí nhân sinh sâu sắc.

Vở kịch viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công chúng, được công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Văn bản trích trong SGK thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch diễn tar sự đau khổ, dằn vặt và quyết định cuối cùng thật cao thượng của hồn Trương Ba.

Xung đột giữa hồn và xác là xung đột trung tâm của vở kịch. Đến cảnh VII, xung đột lên tới đỉnh điểm cần phải giải quyết. Sau mấy tháng sống nhờ trong xác hàng thịt một cách trái tự nhiên, hồn Trương Ba trở nên xa lạ với người thân và tự chán chính mình: “Không!Không!Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi!”. Tình huống kịch bắt đầu từ chi tiết này.

Trong khi hồn rất muốn thoát ra khỏi thân xác kềnh càng , thô lỗ của anh hàng thịt thì xác lại cứ muốn tồn tại mãi tình trạng này. Và cuộc đối thoại giữa hồn và xác diễn ra: Xác chê hồn là cao khiết nhưng vô dụng. Xác tự hào với sức mạnh đui mù của mình, tự hào đã dụ dỗ, sai khiến được hồn vào những dục vọng của mình. Lí lẽ của xác thật đê tiện những cũng rất thực tế khiến hồn không có cơ sở biện bác.

Dường như xác đã thắng.Trong cuộc đối thoại với xác, hồn ngày càng đuối lí, càng ra vẻ quát tháo, nạt nộ càng chứng tỏ sự lúng túng bất lực. Trong xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba cứ bị tha hóa dần. giờ đây dù không muốn , hồn Trương Ba cũng đã trở nên thô lỗ, vụng về, phũ phàng , lạnh lùng,tàn bạo chứ không còn hiền hậu, nhẹ nhàng như Trương Ba- người làm vườn ngày xưa. Dù có trốn chạy , hồn Trương Ba không thể phủ nhận sự thay đổi đó. Sự chống đối của hồn ngày càng yếu dần.

Tuy mắng xác ti tiện nhưng hồn đành kêu trời vì phải đầu hàng tuyệt vọng. Đoạn đối thoại khẳng định ý nghĩa của sự thống nhất linh hồn và thể xác, giữa bên trong và bên ngoài. Đây là một vấn đề có tính chất khái quát cao, bao trùm nhiều mặt của đời sống xã hội. Hồn Trương Ba rơi vào bi kịch bị tha hóa, Qua tình cảnh này tác giả cảnh báo: Khi con người sống chung với dung tục sẽ bị dung tục lấn át, ngự trị và tàn phá những gì tốt đẹp cao quý của con người.

Tất cả mọi người trong gia đình dù đã cố chiu đựng để thích nghi với hoàn cảnh mới nhưng ngày càng không thể chấp nhận sự thật quái gở trong nhà mình. “Cái quý giá nhất của con người là cuộc sống nhưng không phải bất cứ cách sống, kiểu sống nào. Sống mà đánh mất bản thân, sống giả dối với mọi người, với chính mình, sống như Hồn Trương Ba đang sống thì thà chết còn hơn”.

Và hồn quyết định gọi mời tiên Đế Thích Xuống trần để thực hiện mong muốn của mình. Sau cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với tiên Đế Thích. Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hóa thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình,. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật muôn đời.

Thông qua đoạn trích vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc thông điệp: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình , sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn giá trị hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.

Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính mình, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

Bài văn phân tích tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" 13

Raxun Gamzatop từng nói:"Cái tâm nhờ cái tài mà cháy lên, cái tài nhờ cái tâm mà tỏa sáng." Câu nói này làm ta có những liên tưởng rất tự nhiên về vở kịch" Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt" của Lưu Quang Vũ. Tác phẩm này chính là sự kết hợp hài hòa giữa cái "tâm" của một nghệ sĩ chân chính, cái "tài" của một nhà soạn kịch xuất sắc. Chính sự kết hợp ấy đã làm nên ánh sáng của tác phẩm. ta nhận thấy rằng nguồn ánh sáng diệu kỳ ấy tập trung nhất ở màn kết của vở kịch.

Lưu Quang Vũ là một gương mặt tiêu biểu trong nền văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện đại những năm thuộc thập kỷ 80, thế kỷ 20. Khát vọng được tham dự trực tiếp vào dòng chảy Cuộc Đời, ca ngợi cải thiện, lên cái ác, hoàn thiện cuộc đời và con người, tất cả những điều đó làm nên nhật hứng trong người nghệ sĩ ấy. "Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt" là tác phẩm xuất sắc của Lưu Quang Vũ.

Từ cái kết có hậu của câu chuyện cũ, Lưu Quang Vũ đã mở đầu tác phẩm của mình bằng những vấn đề mới. Đó là mâu thuẫn giữa hồn và xác, giữa cái bên ngoài và điều bên trong.có thể khẳng định rằng mọi điều đặc sắc đã được dùng thử trong cảnh VII -màn kết của vở kịch. Đây là khi xung đột được đẩy lên đỉnh điểm, nút thắt được siết chặt đến cao độ và cũng là lúc người đọc thấu hiểu nhất bi kịch mang tên: " Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt".

Để được tiếp tục tồn tại, Trương Ba chấp nhận chúng ở trong thân xác anh hàng thịt. Nghịch lý này đã tạo ra hoàn cảnh bi kịch. Rõ ràng, đây chính là cái giá mà Trương Ba phải trả cho sự tồn tại của mình. Và như thế, hàng loạt câu hỏi được đề ra. Liệu rằng, khi hoàn cảnh sống thay đổi, con người có thể giữ được phẩm chất tốt đẹp của mình? Nếu cố gắng sống bằng việc đánh đổi tất cả, con người có hạnh phúc hay không? Và cuối cùng, con người sẽ ra sao nếu không còn là chính mình? Và như vậy, tên của bi kịch đã được hé mở. Đó là bi kịch đánh mất chính mình.

"Xác hàng thịt" chính là sự cụ thể hóa cho bi kịch này. Hắn là đại diện cho sự trung dung tục. Dẫu có "âm u đui mù" nhưng có sức sai khiến ghê gớm. Và đáng sợ nhất, Hắn đưa ra lý lẽ ti tiện về "trò chơi tâm hồn" để thuyết phục kẻ khác. Một khuyên Trương Ba đổ lỗi cho thể xác để thỏa mãn thân xác và thanh thản tâm hồn. Một tâm hồn cao khiết Như Trương Ba phải sống trong thân xác của một kẻ phàm phu tục tử.

Điều đó làm ta nhớ tới câu nói của Nguyễn Tuân:"Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đầy ải những điều tốt đẹp vào giữa một lũ cặn bã, và những người có tấm điền tốt lại phải ăn đời ở kiếp với lũ người quay quắt". Chính điều này đã tạo ra bi kịch đau đớn.

Sống trong hoàn cảnh đó, Trương Ba ngày một tha hoá. Nguyên nhân là do Trương Ba phụ thuộc quá nhiều và thể xác, vào yếu tố vật chất bên ngoài. Từ đây,thông điệp của Lưu Quang Vũ muốn gửi tới chúng ta là khi phụ thuộc quá nhiều vào vật chất bên ngoài, ta sẽ có thể đánh mất mình. Đồng thời, tác giả của muốn phê phán những kẻ ham muốn vật chất tầm thường mà trở nên phàm phu, tục tử. Ta chợt nhớ tới lời nhắc nhở của Chế Lan Viên "để nuôi xác thân đem làm thịt Tâm Hồn".

Và sự tha hoá ấy, Trương Ba trở nên đổi khác. Ông có những ham muốn dung tục, hành động vụng về, thay đổi cách sống, cách dạy con, thậm chí là cách chơi cờ. Để cuối cùng người vợ của Trương Ba- một người phụ nữ thấu hiểu và xót thương cho chồng, cảm thấy bất lực. Bà không thể thay đổi việc chồng mình ngày càng hòa nhập vào thân xác anh hàng thịt. Còn người con dâu,Một người sâu sắc, chị cũng nhận ra Trương Ba "đổi khác dần", lệch lạc dần, nhòa mờ dần. Và cuối cùng là cô cháu gái. Trẻ con không dễ gì chấp nhận những thỏa hiệp kỳ quặc của người lớn. Cho nên nó nói rằng Trương Ba chính là "lão đồ tể". Đây là lời nói thẳng thắn và đau đớn nhất đối với Trương Ba.

Từ sự ý thức cay đắng hoàn cảnh cũng như hậu quả bi kịch, Trương Ba dũng cảm bước và cuộc chiến để tìm lại chính mình. Ông chìm đắm trong cuộc độc thoại nội tâm. Để rồi Trương Ba nhận ra sự thắng thế đầy cay đắng của xác hàng thịt:" Mày đã thắng rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ". Nhưng sau đó, Trương Ba vẫn kháng cự một cách bướng bỉnh và đưa ra kết luận kiên cường: "ta không cần cái cuộc sống do mày mang lại".

Cuộc độc thoại nội tâm đã dẫn dắt Trương Bạ tới cuộc đối thoại với Đế Thích. Trong lý thuyết số đông mà Đế Thích đưa ra, Trương Ba không tìm được sự an ủi hay bao biện cho lựa chọn của mình. Chính vì thế, ông từ bỏ giải pháp hấp dẫn là sống nhờ vào xác cu Tị. Rõ ràng, Đế Thích muốn giúp Trương Ba Không phải hoàn toàn là muốn tốt cho Trương Ba. Hơn thế, Đế Thích muốn Trương Ba sống chỉ để khẳng định sự tồn tại của chính mình.

Nhận ra điều đó, Trương Ba mới buồn bã nói: "ông chỉ nghĩ đơn giản để tôi được sống, còn sống như thế nào thì ông chẳng biết". Trú nhờ vào thân xác của người khác chỉ dừng lại ở khái niệm tồn tại, đó không phải là cuộc sống. Đế Thích là đại diện cho trí tuệ, quyền lực, nhưng cũng đại diện cho sự ích kỷ cá nhân. Và như vậy thông điệp mà Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm lại được hé lộ. Những người có quyền lực ngoài việc tránh sai lầm cũng cần tránh xa sự vị kỷ, ham muốn hẹp hòi của cá nhân.

Ngoài ra, tác giả cũng muốn khẳng định rằng lòng tốt nửa vời sẽ chẳng giúp được ai. Trái lại, nó còn để người khác vào bi kịch cay đắng. Giống như câu nói của Thomas Fuller: "lòng tốt không đúng chỗ sẽ chẳng được cảm ơn". Một tâm hồn cao khiết như Trương Ba Không thể chấp nhận việc "một kẻ lẽ ra phải chết từ lâu lại cứ nhác nhiên sống, trẻ khỏe, hưởng mọi thứ lộc trời".

Qua đây, tác giả muốn phê phán những kẻ uý tử tham sinh, ham lợi lộc, chức vị mà tỏ ra trơ trẽn, đáng khinh. Sự dũng cảm đối mặt với cái chết của Trương Ba đã làm cho Bi kịch này trở nên lạc quan. Trương Ba chấp nhận chết còn hơn sống cuộc sống trong thân xác kẻ khác. Điều này cho thấy cái giá cho sự tồn tại còn đắt hơn cả cái chết. Và như thế, thông điệp cuối cùng được hé mở: "phải định giá mọi điều ta định đánh đổi". Đừng vì món lợi trước mắt mà khước từ những điều lớn lao với bản thân.

Ralph Quado Emason đã từng nói:" sống là chính mình giữa cuộc sống luôn cố biến ta thành kẻ khác chính là thành tựu lớn nhất". Vì đã chạm tay vào thành tựu ấy mà Trương Ba lại thấy mình trở lại như xưa: Trong sáng thanh thản.

Bài văn phân tích tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" 14

Lưu Quang Vũ sinh năm (1948 - 1988) là một trong những nhà viết kịch tài năng nhất của nền văn học Việt Nam, tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của ông có vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt là một trong những văn bản đặc sắc với việc khắc họa những mâu thuẫn giữa linh hồn của Trương Ba với xác của hàng thịt, phản ánh bi kịch cũng như khát vọng được hoàn thiện về nhân cách của hồn Trương Ba.

Vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt xuất xứ từ một câu chuyện có trong dân gian từ lâu đời được tác giả Lưu Quang Vũ biên kịch thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra những vấn đề mới mẻ và có ý nghĩa về tư tưởng cũng như triết lý nhân văn một cách sâu sắc. Vở kịch được công diễn tại nhiều nước trên thế giới, là một trong những vở kịch góp phần nên tên tuổi của Lưu Quang Vũ. Với nội dung của nó được tóm tắt như sau:

Trương Ba là một nhân vật người làm vườn nhưng có tài chơi cờ tướng, vì một sự nhầm lẫn nhỏ của Nam Tào nên Trương Ba bị chết oan. Để có thể sửa sai thì Nam Tào cùng Đế Thích để cho Trương Ba sống lại nhưng lại nằm trong thân xác của anh hàng thịt. Mọi rắc rối cũng từ đây mà phát sinh, Trương Ba liên tục bị làm phiền, những người thân thì sợ hãi và xa lánh, bản thân của Trương Ba cũng rất lấy làm khó chịu khi thân xác không phải là của mình.

Cuối cùng thì Trương Ba cũng đã quyết định trả lại thân xác cho anh chàng hàng thịt, giải thoát cho mình và chấp nhận cái chết. Đây là đoạn trích của đoạn kết trong tác phẩm tập trung phản ánh những chủ đề tư tưởng của vở kịch. Ở trong đoạn này, mâu thuẫn đỉnh điểm đã được tác giả thể hiện qua sự dằn vặt, cũng như những giằng xé một cách đau đớn của hồn Trương Ba. Cảnh hồn Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt với tư thế ngồi ôm đầu chính là cảnh mở đầu cho đoạn kịch, nói ra những câu đầy bực bội:

“Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi…Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồii! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!” Sau đó chính là cảnh hồn của Trương Ba được tách khỏi xác của anh hàng thịt, cũng từ đây thì cuộc đối thoại giữa hồn và xác cũng được bắt đầu.

Dưới vỏ bọc ngôn ngữ của những lời đối thoại có nhiều ý nghĩa khác nhau, tùy theo trình độ của những người xem kịch mà Lưu Quang Vũ cũng chú ý đến sử dụng ngôn ngữ mà phản ánh tính cách và bản chất của nhân vật. Xác của anh hàng thịt lên tiếng với những giọng điệu hết sức mỉa mai, phủ nhận những cố gắng để giải thoát linh hồn của Trương Ba như “cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu”…

Hồn của Hồn Trương với thái độ vừa coi thường vừa ngạc nhiên: “mày cũng biết nói kia à? Vô lí, mày không thể biết nói”… “hoặc có thì cũng là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được "thèm ăn, thèm rượu thịt”. Lưu Quang Vũ thừa kế những tư tưởng của những truyện cổ dân gian một cách thấm nhuần, và tiếp tục khẳng định những vai trò to lớn của linh hồn và thể xác. Tuy thế nhưng tác giả đã cho người xem một cuộc tranh luận không kém phần gay go và quyết liệt giữa linh hồn của Trương Ba và xác của anh hàng thịt.

Có những khi tiếng nói của xác thịt còn lấn át cả tiếng nói của linh hồn, làm cho linh hồn bị đẩy vào ở thế bị động và lúng túng: “Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục!… Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ?” hay sự phân bua lí lẽ đòi công bằng qua câu “Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi… Khi muốn hành hạ tâm hồn con người, người ta xúc phạm thể xác…”

Thương Trương Ba với bản tính hiền lành, phúc hậu đồng thời không muốn làm mất đi người bạn cờ tri kỉ mà Đế Thích vẫn cố gắng thuyết phục để Trương Ba đổi ý nhưng ông vẫn giữ nguyên: “Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!” Hành động trao trả lại thân xác cho anh hàng thịt của nhân vật Trương Ba là một hành động đúng đắn và hợp đạo lí. Điều đó có thể khẳng định: Một linh hồn dù có tốt đẹp đến đâu nhưng mà phải trú ngụ trong một thể xác của người khác thì cũng không thể nào có thể thấy thoải mái vì những mặc cảm giả dối.

Có thể nói trích đoạn vở kịch hồn Trương Ba da hàng thịt đã tập trung một cách cao độ tính triết lý cũng như tư tưởng nhân văn của vở kịch đến từ dân gian này. Tác giả đã cho người đọc và người xem thấy được một quan niệm về cách sống một cách đúng đắn hãy là chính mình, cuộc sống thực sự của một cá nhân chỉ có ý nghĩa khi chúng ta sống vì niềm vui và sự lạc quan, hạnh phúc của tất cả mọi người vì sự tốt đẹp cho cuộc đời.

Bài văn phân tích tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" 15

Lưu Quang Vũ thoạt đầu được nhiều người biết đến với tư cách nhà thơ. Nhưng về sau, ông gây được tiếng vang và đặc biệt được biết tới một với tư cách một nhà viết kịch tài ba. Những năm tám mươi, kịch của Lưu Quang Vũ đã chiếm lĩnh sàn diễn của rất nhiều nhà hát.

Lưu Quang Vũ mang khát vọng được bày tỏ, muốn được thể hiện tâm hồn mình vào thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gứi và dâng hiến. Khi đất nước bước vào thời kì vận động đổi mới, ý thức dân chủ trong đời sống xã hội đã ùa vào văn học. Hiện thực được phản ánh mang tính đa diện, đa chiều. Số phận con người, vấn đề cá nhân được khám phá, thể hiện đầy đu hơn, sâu sắc hơn.

Khát vọng được tham dự, được trao gứi. dâng hiến, khát vọng về cái đẹp, cái thiện, về sự hoàn thiện nhân cách con người vừa là ý thức công dân vừa trớ thành nhiệt hứng nghệ sĩ ờ Lưu Quang Vũ. Lúc ấy, viết kịch chính là hình thức có điều kiện tham dự, “xung trận” trực tiếp.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt được sáng tác theo hướng khai thác cốt truyện dân gian và gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống hiện thời. Truyện dân gian gây kịch tính sau khi hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt dẫn tới “vụ tranh chấp” chồng của hai bà vợ phải đưa ra xử, bà Trương Ba thắng kiện được đưa chồng về.

Lưu Quang Vũ khai thác tình huống kịch bắt đầu ở chỗ kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương Ba được sống “hợp pháp” trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở nên rắc rối, éo le để rồi cuối cùng đau khổ, tuyệt vọng khiến Hồn Trương Ba không chịu nổi phải cầu xin Đế Thích cho mình được chết hẳn. Xâv đựng tình huống và giải quyết xung đột như vậy, Lưu Quang Vù đã gứi gắm một triết lí sâu sắc về lẽ sống, lẽ làm người: cuộc sống thật đáng quý, nhưng không phải sống thế nào cũng được.

Nếu sống vay mượn, sống chắp vá, không có sự hài hòa giữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi. Cuộc sống của mỗi con người chỉ thực sự hanh phúc, chỉ có giá trị khi được sống đúng là mình, được sống tự nhiên trong một thể thống nhất. Đó là chủ đề tư tưởng chính của vở kịch.

Tài năng kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện trên nhiều phương diện, tiêu biểu nhất là tài dựng cảnh và dựng đối thoại. Kịch tính căng ra trong những xung đột, những mâu thuẫn bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ hành động và ngôn ngữ nội tâm được diễn tả sống động, lời thoại thấm đẫm triết lí nhân sinh.

Đoạn trích có thể gọi là “Thoát ra nghịch cảnh” là cảnh cuối, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trờ nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Hồn Trương Ba cảm thấy không thể sống trong “da” anh hàng thịt, không thế kéo dài “nghịch cảnh” mãi được.

Hồn muốn tách ra khỏi cái thân xác kềnh càng, thô lỗ. Trong tình trạng ấy; nhà văn đã sáng tạo khi dựng lên đoạn đối thoại giữa hồn và xác để rồi trước sự giễu cợt, mỉa mai của xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba càng trở nên đau khổ, bế tắc. Thái độ cư xử của người thân trong gia đình càng khiến hồn tuyệt vọng.

Hồn Trương Ba đã châm hương gọi Đế Thích, hai bên đang đối thoại thì cu Tị chết. Đế Thích gợi ý để hồn rời xác anh hàng thịt sang xác cu Tị. Nhưng hồn Trương Ba, sau một “quãng đời” vô cùng thấm thía, hình dung ra những “nghịch cảnh” khác khi phải sống trong thân xác một đứa bé đã quyết định xin cho cu Tị được sống và mình được chết hẳn.

Đúng là “nghịch cảnh” trớ trêu. Lưu Quang Vũ đã dựng lên hai cuộc đối thoại đặc sắc (đối thoại giữa hồn và xác và đối thoại giữa hồn và Đế Thích) cùng những đối thoại hỗ trợ khác (hồn với người vợ, với cái Gái, với chị con dâu) để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba lên đến tận cùng từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh được phát biểu một cách sâu sắc, thấm thía.

Trước khi diễn ra cuộc đổì thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho hồn Trưưng Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: Không! Không! Tỏi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ớ không phải là cùa tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi. ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”.

Rõ ràng, hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với cái ước nguyện khắc khoải của hồn đã nói lên điều đó. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa.

Trương Ba bây giờ đâu còn là một người làm vườn chăm chỉ, hết lòng thương yêu vợ con, quan tâm tới hàng xóm láng giềng như ngày trước. Ông Trương Ba được mọi người kính trọng đã chết rồi. Trương Ba bây giờ vụng về. thô lỗ, phũ phàng lắm. Người đọc. người xem càng lúc càng được thấy rõ điều đó qua các đối thoại và hồn Trương Ba cũng cáng lúc rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.

Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn hồn vẫn phải thừa nhận Đó là cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thớ nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì...”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn cho là “phàm.

Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mùi”, ... tất cả đều là sự thật. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy minh ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.”.

Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. Không chỉ đau khổ, hồn còn xấu hổ trước những lời nói công khai của xác mà trước đó hồn đã cảm thấy mà không muốn nói ra, không muốn thừa nhận.

Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người thân. Người vợ mà ông rất mực vêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được... còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cám nhận được: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý.

Nó một mực khước từ tình cảm của ông: tôi không phải là cháu ông.. Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả câv sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cụ Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó “ông nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.

Chị con dâu là người sâu sắc. chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa..”.

Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng “cũng không khổ bằng bây giờ”. Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi.

Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần... lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào. Đặc biệt sau hàng loạt câu hỏi có vẻ tuyệt vọng của chị con dâu: “Thầy ơi, làm sao. làm sao giữ được thầy ở lại. hiền hậu, vui vẻ tốt lành như thầy của chúng cơn xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?” thì đương nhiên hồn không thể chịu đựng thêm được nữa.

Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ.. Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

Cuộc trò chuyện giừa hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn... Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”.

Người đọc, người xem có thế nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn.

Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gứi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng chênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.

Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ "bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.

Cái chết cua cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Dựng tả quá trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm. Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ.

Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chi thích hường thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cánh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn”. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn.

Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.

Lưu Quang Vũ đã chết một cách rất thương tâm trong một tai nạn giao thông. Khoảng trống mà nhà viết kịch tài ba ấy để lại trong nền sân khấu Việt Nam là không thế lấp đầy. Vở kịch cuối cùng được Lưu Quang Vũ đặt tên là Chim sâm cầm không chết. Với tất cả những gì để lại cho đời thì mãi mãi Lưu Quang Vũ không chết.

Từ bấy đến nay, Hồn Trương Ba, da hàng thịt và gần 50 vờ kịch khác của Lưu Quang Vũ vẫn được dàn dựng và công diễn. Những triết lí về cuộc đời, về con người, về xã hội... đặt ra trong các vở kịch luôn có ý nghĩa với mọi người, mọi thời.

Bài văn phân tích tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" 16

Lưu Quang Vũ là nhà sọan kịch, nhà thơ, nhà văn hiện đại của việt Nam. Ông đã để lại nhiều tác phẩm đồ sộ. Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn cũng như in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông. Rất nhiều các tác phẩm của ông đã làm sôi động sân khấu Việt Nam thời kỳ đó. “Hồn Trương Ba da hàng thịt” là minh chứng cho điều đó.

Vở kịch viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công chúng, được công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Văn bản trích trong sách giáo khoa thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch diễn tả sự đau khổ, dằn vặt và quyết định cuối cùng thật cao thượng của hồn Trương Ba.

Vở kịch kể về Trương Ba một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của “tiên cờ” Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba đến một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú vào người khác.

Mở đầu là cảnh hồn Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy, nói những câu đầy bực bội, bức xúc: Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tiếp sau đó, hồn Trương Ba tách khỏi thân xác anh hàng thịt và cuộc đối thoại giữa hồn và xác bắt đầu. Hồn bức bối bởi không thể nào thóat khỏi các thân xác.

Xác hàng thịt thì cười nhạo, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê ghớm của mình, dồn hồn vào thế đuối lí, thỏa hiệp với Hồn Trương Ba “chẳng còn cách nào khác đâu vì cả hai đã hòa vào làm một rồi”. Linh hồn luôn đấu tranh để vượt lên những đòi hỏi không chính đáng của thể xác. Qua đó, Lưu Quang Vũ cũng cảnh báo khi con người chung sống với dung tục sẽ bị dung tục lấn át thắng thế và tàn phá những điều tốt đẹp cao quý trong con người.

Sống nhờ trong thể xác của người khác, hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái. Tai hại nhất là chuyện hai bà vợ chèo kéo và hồn Trương Ba cũng là đàn ông nên đâu dễ làm ngơ trước những cám dỗ xác thịt. Thêm nữa, đứa cháu không chịu nhận ông nội. Tệ hơn, ông còn có đứa con học đòi phường gian xảo. Xung quanh ông còn có tên lí trưởng đồi bại, những bậc tiên thánh trên trời vô trách nhiệm, cố tình lấp liếm lỗi lầm.

Những rắc rối, dị hợm của cái hồn Trương Ba trong thể xác anh hàng thịt giờ đây đâu còn là bi kịch cá nhân nữa. Hệ lụy mở với những người xung quanh, câu chuyện đã tự biến nó thành tâm điểm của cái rối ren, đảo điên chung quanh xã hội. Không chỉ riêng hồn Trương Ba hay gia đình ông ta mà nó còn làm chao đảo, khốn đốn biết bao nhiêu gia đình khác, bao nhiêu cuộc sống khác, từ đất lên đến tận trời. Lỗi lầm bắt đầu từ tiên thánh, những người nắm vận mệnh con người: Nam Tào, Bắc Đẩu, Đế Thích,… Và sau đó, chính con người với lòng tham, sự vô liêm sỉ, thái độ hòa hiệp với cái xấu,… càng làm cho lỗi lầm rối ren hơn.

Với màn kết Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hoá thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và của sự sống đích thực.

Đoạn trích Hồn Trương Ba da hàng thịt tập trung cao độ tính chất triết lí và tư tưởng nhân văn của vở kịch có nguồn gốc dân gian. Lưu Quang Vũ đã đưa vào vở kịch quan niệm đúng đắn về cách sống, trước hết mình hãy là mình. Cuộc sống của cá nhân chỉ thực sự có ý nghĩa khi biết sống vì niềm vui và hạnh phúc của mọi người, vì sự tốt đẹp của cuộc đời.

Bài văn phân tích tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" 17

Lưu Quang Vũ là một người đa tài, ông hoạt động trong hầu hết lĩnh vực nghệ thuật. Ông vừa có thể viết truyện, làm thơ, am hiểu về hội họa… song có lẽ dấu ấn của ông được khẳng định rõ nhất qua kịch. Kịch của Lưu Quang Vũ giàu tính triết lí mang đậm ý nghĩa nhân văn. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” cũng là một tác phẩm như thế. Đăc biệt đoạn trích cảnh VII của vở kịch thể hiện sáng rõ giá trị nhân văn của toàn vở kịch khi diễn ra xung đột gay gắt giữa hồn và xác và được đẩy lên tới đỉnh điểm.

    Trước hết, giá trị nhân văn của một tác phẩm có thể được hiểu là vẻ đẹp, phần sáng trong một con người song phần đẹp đẽ của một con người chỉ thực sự được bộc lộ khi được đặt vào các mâu thuẫn, sự đấu tranh trong hoàn cảnh cụ thể. Ở đó nhân vật luôn cố gắng thoát ra khỏi những bóng tối, những cái xấu xa để khẳng định bản thân mình, vươn tới những giá trị đẹp nhất trong xã hội. Nói như thế, phần nổi bật của giá trị nhân văn là giá trị về tinh thần của con người như: trí tuệ, phẩm giá, nhân cách, tâm hồn… Giá trị nhân văn được xem như là thước đo giá trị văn học của mọi thời đại.

    Hiểu như thế, ta nhận thấy giá trị nhân văn của cảnh VII của vở kịch được khắc họa rõ nét qua nhân vật Trương Ba. Trương Ba là hiện thân của một con người tốt bụng, sống thanh tao và đặc biệt có biệt tài là chơi cờ rất giỏi. Ông là người thường chơi cờ với Đế Thích và hai người trở thành bạn của nhau. Tuy nhiên, do thiếu tinh thần trách nhiệm, tắc trách trong công việc của mình, các quan nhà trời đã gạch tên Trương Ba ở hạ giới khiến ông Trương Ba bị chết oan. Để sửa sai, Đế Thích cũng là một quan nhà trời đã cho hồn Trương Ba sống lại bằng cách nhập vào xác anh hàng thịt mới chết được một ngày. Từ đây, xung đột mâu thuẫn ở trong nhân vật hồn Trương Ba nảy sinh một cách gay gắt. Nhưng chính mâu thuẫn, sự đấu tranh ấy lại làm ngời sáng giá trị nhân văn của tác phẩm.

    Hình ảnh một ông Trương Ba ngồi một mình ôm đầu hồi lâu đã cho chúng ta sự chán nản, tuyệt vọng trong tâm hồn. Hồn Trương Ba cảm thấy nỗi đau đớn của chính mình khi con người thật của mình đã bị đánh mất. Về hành động, Trương Ba không còn thường hay đánh cờ nữa, trí tuệ không còn được minh mẫn, sáng suốt. Là một người làm vườn, cây cối vốn là một thứ mà trước đây ông hết sức yêu quý và nâng niu, nay ông còn phá hoại cả chúng trên thân xác xù xì, thô kệch và nặng nề của anh hàng thịt : “ông làm gãy tiệt cái chồi non… chân ông giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong vườn, còn “làm hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tị rất quý”, “lãm gãy cả nan rách giấy” thậm chí “Trương Ba tát người con trai toét máu mồm, máu mũi”. Về cách sống, dường như tính cách Trương Ba thay đổi hẳn, không còn hiền hậu, vui vẻ, tốt bụng với những người trong gia đình và cả với mọi người xung quanh. Ông trở nên cọc cằn, thô lỗ, lại còn bị thân xác lấn át khi ham muốn vợ anh hàng thịt, đứng cạnh vợ anh hàng thịt, ông cảm thấy “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực”. Như vậy từ hành động tới cách sống của Hồn Trương Ba hoàn toàn biến mất, tha hóa chính là nỗi đau đớn của Hồn Trương Ba. Bởi vì ông hiểu rằng cái tôi của mình trước đây, của một người làm vườn vốn là biểu tượng của cái đẹp song giờ đây, con người ấy lại hòa vào xác anh hàng thịt lại là biểu tượng của sự thô lỗ, cộc cằn, hung bạo, ham dục vọng thì thử hỏi làm sao mà không tha hóa, biến chất sao được. Giá trị nhân văn của tác phẩm lại nằm ở chỗ nhà viết kịch không để Hồn Trương Ba trượt dài trên sự tha hóa, biến chất của thân xác vốn không thuộc về mình, không phải là của mình. Một Trương Ba bị gia đình nghi ngờ, cảm thấy xa lạ, xa lánh nên nhân vật nhận thức rõ điều ấy và không muốn sống một cuộc sống lay lắt, sống dở, chết dở. Hồn Trương Ba quyết tìm gặp Đế Thích để nói lên khát vọng sống đích thực của mình là đòi lại quyền làm người, quyền sống thích đáng của con người. Trong cuộc nói chuyện, Hồn Trương Ba đã lên tiếng phê phán thói ích kỉ của Đế Thích : “ Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!” và bày tỏ ước vọng của mình là muốn được chết vì chỉ có cái chết mới trả lại con người đích thực của Hồn Trương Ba, mới có thể tìm lại một Trương Ba tốt đẹp trong mắt mọi người xung quanh như xưa. Đối với Trương Ba, cái chết là một sự giải thoát thể hiện tinh thần phản kháng, đấu tranh đòi lại quyền làm người, đòi lại một người yêu thiên nhiên, yêu gia đình, yêu mọi người. Với khát vọng “ Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” thì đó lại là một cái chết đẹp. Tiếng nói ấy là một tiếng nói hết sức chính đáng, sống đúng với tư cách của một con người là một phẩm chất đẹp. Hồn Trương Ba quyết liệt tìm đến cái chết : “Tôi không nhập vào hình thù của ai nữa. Tôi đã chết rồi hãy để tôi chết hẳn”. Và ông còn quả quyết khi đưa ra lời đe dọa với Đế Thích “ Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông, hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất…”. Những lời nói phản kháng quyết liệt của Hồn Trương Ba khi đối diện với Đế Thích càng thấy rõ sức sống tiềm tàng trong con người Hồn Trương Ba thật mãnh liệt để tìm lại chính mình, đòi lại quyền làm người thích đáng của mình khi đã bị các quan nhà trời tước đoạt là phẩm chất tốt đẹp ở nhân vật này.

Một phẩm chất tốt đẹp nữa của Hồn Trương Ba cũng được bộc lộ ở ông đó là tình yêu thương con người. Khi Đế Thích vẫn muốn níu kéo sự sống của Hồn Trương Ba bằng cách đưa ra lời gợi ý, lời khẩn cầu sống trên thân xác của cu Tị hàng xóm trong cơn thập tử nhất sinh, Hồn Trương Ba đã không đồng ý và cùng lúc ấy ông đã xin trả lại sự sống cho anh hàng thịt và cu Tị. Dù Hồn Trương Ba nhận thấy thân xác của anh hàng thịt đã từng cười cợt, ngạo mạn, xem thường, miệt thị Hồn Trương Ba. Nếu không có hắn, Hồn Trương Ba có lẽ sẽ không bị rơi vào tình trạng đau đớn, day dứt, giày vò. Nhưng nguyện vọng của Hồn Trương Ba vẫn xin cho anh hàng thịt được sống, được trở về với gia đình, vợ con đã thể hiện một tấm lòng bao dung, nhân hậu, yêu thương con người của Hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba đã lấy ân báo oán, xóa bỏ thù hận trước kia bởi ông hiểu rõ nỗi đau của người vợ khi mất chồng và nỗi đau của người mẹ khi mất con từ đó yêu cầu tha thiết Đế Thích trả lại sự sống cho anh hàng thịt và cu Tị là một phẩm chất đáng quý.

    Để khắc họa lên bản chất tốt đẹp trong sâu thẳm con người của Hồn Trương Ba khiến cho vở kịch mang đậm giá trị nhân văn, Lưu Quang Vũ đã xây dựng được tình huống đầy kịch tính, lời thoại của nhân vật chân thật, sinh động, lôi cuốn, đi sâu vào nội tâm nhân vật với sự đấu tranh mâu thuẫn phức tạp, giằng xé. Kịch bản đã nêu lên được thông điệp: Phải tôn trọng quyền làm người, quyền sống của con người và không có sự áp đặt tùy tiện làm cho con người tha hóa, đánh mất chính mình cũng là ý nghĩa nhân văn của vở kịch.

Phân tích vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt 18

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một trong những kết quả sáng tạo đầy hấp dẫn và bất ngờ của Lưu Quang Vũ. Sự sáng tạo của Lưu Quang Vũ cũng muốn truyền tải thông điệp ý nghĩa về nhân văn, nhân sinh của con người.

Đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch. Đây cũng là đoạn xung đột kịch được đẩy lên tới cao trào và được giải quyết. Từ đó, cũng giúp tác giả thể hiện được tư tưởng và chủ đề của tác phẩm.

Trong vở kịch, nhân vật Trương ba là người mang đầy bi kịch. Bi kịch trước hết là bi kịch bị tha hóa khi hồn Trương Ba và xác hàng thịt đối thoại cả nhau. Nếu như Trương ba khẳng định linh hồn là phần trong sạch, cao khiết cũng là phần quan trọng nhất của con người thì xác hàng thịt lại khẳng định phần xác có sức mạnh ghê gớm và có thể sai khiến, chi phối lấn át linh hồn nên nó nghiễm nhiên trở thành phần quan trọng nhất của con người. Qua cuộc đối thoại của nhân vật Trương Ba và xác hàng thịt có thể thấy rằng mỗi người đều có cái đúng, đều đề cao linh hồn và thể xác nhưng lại chưa đúng và có cái nhìn còn phiến diện khi tuyệt đối hóa vai trò của một người. Cuộc đối thoại diễn ra đầy kịch tính và căng thẳng trong đó xác hàng thịt tỏ ra chủ động tự tin mạnh ạo bao nhiêu thì hồn Trương Ba lại bị động và yếu thế. Sau cuộc tranh luận đầy kịch tính ấy, mặc dù xác và hồn lại nhập vào nhau nhưng có vẻ như xác hàng thịt là người thắng thế và nhân vật hồn Trương Ba rơi vào trạng thái đau khổ và bế tắc. Bên cạnh cuộc đối thoại này, người đọc có thể nhìn nhận ra được sự ẩn dụ thông qua hai nhân vật. Lưu Quang Vũ cho thấy được mối quan hệ biện chứng giữa linh hồn và thể xác. Hai yếu tố này phải hòa vào nhau và không thể tách rời. Dù linh hồn có là phần cao khiết nhưng cũng không thể tồn tại độc lập mà phải có sự xuất hiện của cả thể xác. Chính vì thế mà tác giả cũng đặt ra cuộc tranh luận giữa cái trong sạch, cao cả của con người phải đấu tranh với phần con là những ích kỉ, xấu xa. Từ đó mà mỗi cá nhân cần phải biết kiềm chế phần bản năng và chiến thắng cái thấp hèn. Bên cạnh đó, tác giả cũng phê phán lối sống sai lệch trong xã hội đó là hoặc quá theo đuổi cuộc sống vật chất mà quên đi đời sống tinh thần, hoặc chỉ biết bồi đắp cho đời sống tinh thần mà quên đi đời sống vật chất.

Ở nhân vật hồn Trương ba còn là bi kịch không được thừa nhận khi phần linh hồn của mình phải nhập vào một xác anh hàng thịt thô lỗ, không hiền lành như bản tính của Trương Ba. Chính vì vậy mà trong cuộc đối thoại giữa Trương Ba và vợ mình, Trương ba và Cái Gái mà Trương Ba bị đẩy vào bi kịch và sống đau khổ, sống cuộc sống không được là chính mình. Đối với con dâu, mặc dù là người tỏ ra hiểu chuyện và thông cảm nhưng người con dâu ấy cũng nhận ra những thay đỏi, mất mát của gia đình trước đây và nhận thấy sự thật thì không thể thay đổi được. Từ đó mà xung đột kịch cũng bị đẩy lên cao trào và bi kịch của Trương Ba chồng chất những đau thương. Từ đó, Lưu Quang Vũ cũng muốn gửi gắm ý nghĩa rằng sống đã là một hạnh phúc nhưng quan trọng hơn là phải sống như thế nào?

Quá đau khổ và không còn biết làm thế nào, Trương Ba lại lâm vào bi kịch không được sống là chính mình tỏng cuộc đối thoại với Đế Thích. Khi phải sống nhờ vào trong xác anh hàng thịt Trương ba phải sống một cuộc sống bị lấn át, bị sai khiến Trương Ba dần đánh mất chính mình, Trương ba phải sống lệch lạc, giả tạo. Và chính cuộc sống ấy làm Trương Ba mang đau khổ cho mọi người. Cũng từ đó mà Trương Ba muốn được giải thoát cho chính mình và mọi người xung quanh.

Cho đến khi bi kịch được giải quyết đó chính là khi một tình huống tạo ra một sự thử thách Trương Ba khi xuất hiện cái chết của cu Tị. Tuy nhiên Trương ba không đồng ý với lời đề nghị của Đế Thích. Và cuối cùng kết thúc vở kịch là niềm hạnh phúc trong gia đình của cu Tị và Trương ba được tái sinh trong những hình ảnh vật dụng gần gũi với gia đình.

Tác phẩm để lại nhiều gợi mở trong lòng người đọc mà qua đó, người ta còn thấy được nhiều nét đẹp về nhân văn và nhân sinh con người.

Tóm tắt Hồn Trương Ba da hàng thịt 19

Trương Ba, gần 60 tuổi - là một người làm vườn tốt bụng, đặc biệt rất cao cờ. Do tắc trách, Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba, khiến ông phải chết oan. Vợ Trương Ba lên Thiên đình kiện. Theo gợi ý của Đế Thích, để sửa sai, Nam Tào cho hồn Trương Ba nhập vào thể xác hàng thịt ở làng bên vừa mới chết, mới ngoài 30 tuổi, để được sống lại

Trú nhờ thể xác hàng thịt, hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng; gia đình Trương Ba ngày càng lủng củng. Đặc biệt, sống bằng thân xác hàng thịt, Trương Ba dần dà tiêm nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn xa lạ với ông. Gay nhất là chị hàng thịt đòi hỏi Trương Ba phải là người đàn ông thực sự của chị. Lí trưởng nhân đấy sách nhiễu vòi tiền; con trai Trương Ba ngày càng đắc ý, lấn lướt, coi thường bố. Ngược lại, vợ, con dâu, cháu nội Trương Ba không thể chịu nổi và dần dần xa lánh. Trương Ba vô đau khổ.

Tóm tắt Hồn Trương Ba da hàng thịt 20

"Hồn Trương Ba da hàng thịt" được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, ra mắt lần đầu năm 1984. Đây là tác phẩm Lưu Quang Vũ dựa vào cốt truyện dân gian để viết và đã rất thành công.

Tác phẩm xoay quanh một tình huống kịch khá đặc biệt: do sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu (hai vị quan trên thiên đình) mà Trương Ba - một người làm vườn tốt bụng, hiền lành, khỏe mạnh, giỏi đánh cờ bỗng dưng bị chết đột ngột. Vì thương quý Trương Ba mà tiên cờ Đế Thích đã hóa phép cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt mới chết. Từ đó Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái, rắc rối: lí trưởng sách nhiễu, con trai hư hỏng, vợ đòi bỏ đi, cháu gái không nhận ông. Còn tính nết Trương Ba thay đổi, trở nên phũ phàng, thô lỗ, bị mọi người xa lánh. Cuối cùng Trương Ba chọn cái chết, không nhập vào xác ai nữa. Đây là cách ông thấy mình được sống toàn vẹn bên cạnh những người thân yêu.

Tóm tắt Hồn Trương Ba da hàng thịt 21

Trương Ba bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai, nên Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết. Trú nhờ linh hồn trong thể xác anh hàng thịt Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đinh Trương Ba cũng thấy anh xa lạ...; bản thân Trương Ba thì khổ vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo.

Đặc biệt thân xác hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu, một số nhu cầu vốn không phải của chính bản thân mình. Trước nguy cơ tha hoá về nhân cách và sự phiền toái do mượn thân của kẻ khác. Trương Ba quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp nhận chết, để "không còn cái vật quái gở mang tên: Hồn Trương Ba da hàng thịt nữa''.

Tóm tắt Hồn Trương Ba da hàng thịt 22

Hồn Trương Ba da hàng thịt được sáng tác năm 1981 và ra mắt vào năm 1984. Đoạn trích là cuộc đối thoại giữa hồn và xác, phản ánh mâu thuẫn giữa việc được sống với việc sống là chính mình của nhân vật Trương Ba. Trương Ba vốn là một người làm vườn giỏi, lại còn tốt bụng, yêu thương vợ con nhưng sự tắc trách của Nam Tào và Bắc Đẩu trên thiên đình đã khiến cho Trương Ba phải chết đột ngột. Để sửa sai, hai vị quan ấy đã cho hồn của Trương Ba được nhập vào xác của anh hàng thịt vừa mới chết. Cũng từ đây, tình huống truyện được đẩy lên cao trào khi hồn và xác có những mâu thuẫn, không thể hòa hợp. Hồn Trương Ba thì luôn cho rằng mình có một đời sống riêng trong sạch, thẳng thắn, còn thân xác của anh hàng thịt thì lại vũ phu, thô kệch. Khi hồn Trương Ba đối thoại với thân xác của anh hàng thịt thì bị rơi vào hoàn cảnh đuối lí, hồn Trương Ba cảm thấy thật xấu hổ và ti tiện cho những hành động "tay chân run rẩy", "hơi thở nóng rực", "cố nghẹn lại" khi đứng cạnh vợ anh hàng thịt trong thân xác là của người chồng. Hơn thế nữa, hồn Trương Ba không chấp nhận việc thân xác ấy đã tát đứa con trai "tóe máu mồm máu mũi". Trương Ba còn gặp rất nhiều phiền toái khi nhập vào xác anh hàng thịt: lí trưởng sách nhiễu, vợ anh hàng thịt đòi chồng và đến cả gia đình của Trương Ba cũng không thừa nhận ông. Cuối cùng, Trương Ba đã chọn cái chết, không phải sống nhờ trong thân xác ai cả, không muốn phải sống khi không được là chính mình. Tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt của nhà văn Lưu Quang Vũ đã gửi gắm một ý nghĩa sâu xa. Đó là con người phải luôn sống là chính mình, không ngừng hoàn thiện thể xác và tâm hồn, đấu tranh với cái ác để giữ được đúng bản chất và lương tâm trong sạch của mỗi cá nhân.

Tóm tắt Hồn Trương Ba da hàng thịt 23

Trương Ba bị sự tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu mà chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Bắc Đẩu cho hồn của Trương Ba nhập vào da hàng thịt. Từ đây, hồn Trương Ba da hàng thịt bắt đầu có những mâu thuẫn. Trương Ba còn phải chịu sự xa lánh của con dâu và cháu trai, bị con trai lên mặt. Trương Ba vô cùng đau khổ. Hơn thế nữa, Trương Ba cảm thấy tâm hồn trong sạch của mình không hề hòa hợp với những hành động vụng về, thô lỗ của anh hàng thịt kia. Trước cuộc đấu lí với thân xác, hồn của Trương Ba bị đuối lí, cảm thấy những hành động của thể xác thật ti tiện, không đúng với cái tâm lương thiện vốn có của ông. Được sống nhưng không phải là chính mình, cuối cùng Trương Ba đã lựa chọn cái chết, ông không nhập vào xác anh hàng thịt nữa, cùng không nhập vào xác cu Tị mà chọn cách ra đi để bảo toàn cái tâm mà ông vẫn luôn giữ. Chính sự đối lập giữa thể xác và tâm hồn đã khiến cho tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt mang đến một giá trị nội dung cho bạn đọc, rằng: Con người phải biết đấu tranh chống lại nghịch cảnh, với chính bản thân mình, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

Tóm tắt Hồn Trương Ba da hàng thịt 24

Nhà văn Lưu Quang Vũ đã sáng tác Hồn Trương Ba da hàng thịt với một tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó là sự sống của một con người đã chết trong thân xác của kẻ khác. Trương Ba năm nay 60 tuổi, bị Nam Tào và Bắc Đẩu bắt chết nhầm. Để sửa lỗi nên Nam Tào, Bắc Đẩu đã hồi sinh hồn Trương Ba vào thể xác của anh hàng thịt, năm nay 30 tuổi.

Khi nhập vào thân xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, vợ anh hàng thịt đòi chồng, con trai Trương Ba thì lên mặt, lấn lướt. Đến người con dâu và đứa cháu nội mà Trương Ba yêu quý là cu Tị cũng xa lánh ông.

Tâm hồn trong sạch, thanh khiết của Trương Ba bị nhiễm phải những thói xấu của thân xác anh hàng thịt cộc cằn, thô lỗ. Hồn và xác đối thoại với nhau, hồn Trương Ba không thể cãi lại những hành động ti tiện của thân xác đối với vợ anh hàng thịt và sự thô bạo khi đánh con trai - cái chứng cứ mà thân xác đã nêu ra. Cuối cùng, vì quá đau khổ nên Trương Ba đã gọi Nam Tào, Bắc Đẩu xuống để xin được chết, Trương Ba muốn được sống là chính mình chứ không phải là đi vay mượn thân xác của người khác.

Tóm tắt Hồn Trương Ba da hàng thịt 25

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch xoay quanh một tình huống kịch khá đặc biệt: Trương Ba, gần 60 tuổi – một người làm vườn chất phác, cần cù, yêu vợ, quý cháu và giỏi đánh cờ bỗng nhiên lăn ra chết do sự tắc trách nhầm lẫn của Nam Tào, Bắc Đẩu trên thiên đình. Đế Thích – một ông Tiên quý trọng tài cờ của Trương Ba đã hóa phép làm cho ông sống lại bằng cách để hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt mới chết.

Sống nhờ trong thân xác của một người khác khiến hồn Trương Ba gặp nhiều rắc rối, phiền toái. Ông ngày càng trở nên xa lạ, đáng sợ trong mắt vợ, con dâu và cháu nội. Ba tháng sống trong thân xác anh hàng thịt hồn Trương Ba có nguy cơ bị thân xác lấn át. Ông phải đấu tranh chật vật với những ham muốn bản năng, dục vọng thấp hèn của anh hàng thịt. Bản thân Trương Ba rất đau khổ vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo và không được làm chính mình. Cuối cùng Trương Ba quyết định trả lại thân xác cho hàng thịt và không chấp nhận nhập vào xác cu Tị để bảo toàn sự trong sạch của mình. Ông kiên quyết tìm đến cái chết và khước từ sự sống không phải của mình cho dù sự sống là muôn phần đáng quý.

Tóm tắt Hồn Trương Ba da hàng thịt 26

Hồn Trương Ba da hàng thịt là truyện kể về Trương Ba, một người làm vườn sáu mươi tuổi tốt bụng và đặc biệt ông chơi cờ rất giỏi. Trương Ba bị chết oan do sự tắc trách của Nam Tào, vì muốn sửa sai, Nam Tào đã để Trương Ba nhập vào xác của một anh hàng thịt vừa mới chết ở làng bên.

Sau khi sống lại trong thân xác của hàng thịt, Trương Ba gặp không ít phiền toái như lí trưởng sách nhiễu anh, vợ của anh hàng thịt thì ra sức đòi chồng khiến gia đình Trương Ba gặp nhiều cảnh khốn đốn. Sống ở thân xác cảu hàng thịt, Trương Ba không giữ được nét thanh tao ngày xưa, ông bị tiêm nhiễm nhiều thói hư tật xấu, cùng với nhu cầu vốn trước kia rất xa lạ đối với ông. Khó khăn như ập đến với ông, phiền toái nhất có thể là việc vợ của da hàng thịt đòi hỏi ông phải là người đàn ông thật sự, con trai của Trương Ba ngày càng coi thường bố, gia đình ông thì ngày càng xa cách. Trương Ba đau khổ vô cùng trước nghịch cảnh sống nhờ thể xác này.

Cuối cùng,không thể chịu nổi nữa,không muốn tâm hồn vốn cao khiết của ông bị thay đổi nữa, Trương Ba yêu cầu trả thân xác lại cho hàng thịt cũng không chịu sống trong thân xác cu Ti. Ông chết để bảo vệ lấy linh hồn thanh cao giản dị của mình.

Tóm Tắt Đoạn Trích Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt 27

Lưu Quang Vũ - Một hiện tượng đặc biệt trong sân khấu kịch những năm 80 của thế kỷ 20, một trong những nhà soạn kịch tài ba của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" là một trong những vở kịch xuất sắc nhất của ông đã được công diễn trên nhiều sân khấu cả trong và ngoài nước. Đoạn trích trong chương trình Ngữ văn được học trích từ cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, dưới đây là phần tóm tắt nội dung đoạn trích.

Vở kịch kể về chuyện ông Trương Ba - một người làm vườn tốt bụng, thanh cao và chơi cờ giỏi, hồn Trương Ba xuất hiện vì Trương Ba đã chết, cái chết của ông là cái chết oan, do sự tắc trách của quan trên thiên đình, vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích đã cho hồn Trương Ba được sống lại nhập vào xác anh hàng thịt ở làng bên vừa mới chết. Từ đó, hồn Trương Ba ở trong xác hàng thịt, xác hàng thịt chứa hồn Trương Ba, biết bao nhiêu rắc rối bắt nguồn từ đây. Đầu tiên là lý trưởng sách nhiễu với ông, vợ con của tên hàng thịt thì đòi cha, đòi chồng, hơn thế, ở trong thân thể của một kẻ to xác thô kệch khiến ông trở nên vụng về và cục cằn không thể như trước. Bản thân ông bị nhiễm nhiều thói xấu và phải làm theo, phục tùng những ý muốn dung tục của da hàng thịt, những thứ mà trước kia rất xa lạ với ông.

Cuộc cãi nhau giữa hồn Trương Ba và da hàng thịt nhiều lần diễn ra, ông không thể nào chấp nhận và chán ghét, khinh thường cái thân thể của da hàng thịt. Rồi dù ông còn sống nhưng vợ, con, cháu của Trương Ba đều không còn gần gũi, kính trọng ông nữa, vợ thì muốn bỏ đi, cái Gái và Cu Tị đều ghét bỏ ông, người con dâu thì than vãn về sự đổ vỡ của gia đình. Hồn Trương Ba cảm thấy mình sống mà không được làm chính mình thì chẳng có gì đáng để sống nữa, ông thắp hương gọi Đế Thích xuống để thỉnh cầu. Ông nói ra nỗi khổ tâm khi phải sống nhờ thân xác của kẻ khác, nỗi nhục khi phải làm theo ý người khác và mong muốn được thoát ra khỏi thân xác của da hàng thịt, không chung sống với nó nữa, ông xin chết cho thảnh thơi. Nhưng Đế Thích một mực khuyên can, cho rằng cái chết của ông là do quan làm sai, sai thì phải sửa, phải cho ông sống lại. Trương Ba nhận ra rằng có những cái sai không thể sửa được nữa và dù Đế Thích có ngỏ ý cho ông nhập vào xác Cu Tị vừa mới chết ông cũng không cần, đổi lại ông nhờ Đế Thích trả hồn cho da hàng thịt, cho Cu Tị được sống lại, còn ông đã chết thì hãy cho ông chết hẳn. Đế Thích cuối cùng cũng chấp thuận lời thỉnh cầu của ông, cho hồn ông được gặp lại vợ con dặn dò rồi qua đời.

Qua đoạn trích, ta thấy được bi kịch của một con người khi rơi vào nghịch cảnh sống nhờ, sống tạm khiến cho tâm hồn thanh cao bị tha hóa, nhiễm độc. Tác giả đã nhắn nhủ tới mọi người, chẳng có gì đáng quý hơn khi được sống là chính mình, sống với những giá trị đích thực của mình. Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi có được sự hài hòa giữa tâm hồn và thể xác.

Bài tóm tắt: Hồn Trương Ba, da hàng thịt 28

    Câu chuyện kể về nhân vật ông Trương Ba - một người làm vườn hiền lành yêu thương vợ con và gia đình đặc biệt là đứa cháu nội duy nhất. Ông chăm chỉ làm vườn, chăm chút cho cây cối khi thoảng thì chơi cờ cùng Đế Thích. Cứ tưởng cuộc sống bình yên tiếp diễn nhưng do sự tắc trách khi làm việc của Nam Tào và Bắc Đẩu đã gạch nhầm tên ông trong sổ tử vô tình buộc Trương Ba phải chết. Để sửa chữa lỗi lầm hai vị đã nghe theo hướng giải quyết tốt nhất của Đế Thích là cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt mới chết để ông được sống lại với gia đình. Rắc rối từ đây cũng bắt đầu, cao trào trong câu chuyện đã được đẩy lên.

    Đoạn trích trong sách giáo khoa là cảnh VII đây cũng là đoạn kết của vở kịch với cuộc tranh đấu giữa hồn và xác cùng những đau khổ, giày vò của Trương Ba khi nhập hồn vào xác anh hàng thịt thì bắt đầu có những rắc rối xảy ra: lí trưởng sách nhiễu, con trai hư hỏng, cháu gái không nhận ông, gia đình bất hòa, vợ anh hàng thịt một mực đòi chồng. Khó khăn nhất là Trương Ba có những thay đổi: hay ăn thịt, uống rượu và thô lỗ, phũ phàng không còn vẻ điềm đạm như trước. Cuộc tranh đấu đã diễn ra quyết liệt xác có lí của xác, hồn có lí của hồn. Cuối cùng Trương Ba quyết định trả lại xác cho anh hàng thịt, ông bằng lòng với cái chết để được toàn vẹn hơn là sống nhục nhã gửi hồn vào thân xác người khác. Ông cũng không đồng ý nhập vào xác cu Tị. Đây là đoạn trích hay nhất trong toàn bộ vở kịch, ẩn chứa giá trị nhân văn sâu sắc về cách sống toàn vẹn, sống là chính mình sẽ còn mãi với thời gian.

Tóm tắt tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt 29

Trương Ba rất giỏi đánh cờ. Nam Tào đã xoá tên ông trong sổ Trời. Sau đó, Nam Tào và Đế Thích đã cho hồn Trương Ba tái sinh nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết. Từ đó, hồn Trương Ba trú ngụ trong xác hàng thịt, xác hàng thịt mang hồn Trương Ba. Cũng từ đó xảy ra bao chuyện lộn xộn. Lí trưởng sách nhiễu. Vợ hàng thịt đòi chồng. Vợ, con, cháu của Trương Ba cảm thấy chồng, cha, ông của mình sao mà xa lạ, vụng về và cục cằn. Bản thân Trương Ba có quá nhiều thay đổi: Nhiễm nhiều thói xấu, trở nên tha hoá, sống lạc lõng. Có nhiều lúc hồn Trương Ba và xác hàng thịt cãi nhau, nặng lời với nhau. Vợ Trương Ba chán ngán đòi bỏ đi. Cái Gái, cu Tị, hai đứa cháu đều ghét ông. Chị con dâu đau khổ nói với hồn Trương Ba về sự tan hoang, đổ vỡ của gia đình, "đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần...". Hồn Trương Ba bải hoải bài hoài, thắp hương xin gặp Đế Thích. Gặp Đế Thích, hồn Trương Ba nói về thân phận cay đắng "sống nhờ" của mình và xin được chết cho thảnh thơi. Đế Thích hết lời khuyên giải, nhưng hồn Trương Ba vẫn không nghe. Vừa lúc đó, cái Gái chạy đến oà khóc, báo tin cu Tị con chị Lụa đã chết. Nam Tào, Bắc Đẩu báo tin Ngọc Hoàng đã tha cho Đế Thích cái tội nhập hồn Trương Ba vào xác hàng thịt và cho phép hồn Trương Ba được sống trong xác hàng thịt. Nhưng hồn Trương Ba xin được chết để cu Tị sống lại. Hồn Trương Ba an ủi, dặn dò vợ con rồi nhắm mắt qua đời.

Tóm tắt Hồn Trương Ba, da hàng thịt 30

    Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ sáng tác theo hướng khai thác cốt truyện dân gian để gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống hiện thời. Đoạn trích trong sách giáo khoa là một phần của cảnh 7, cảnh cuối cùng của vở kịch. Chúng ta có thể tóm tắt tình huống kịch trong đoạn trích này như sau:

    Đây là cảnh cuối của vờ kịch, nghĩa là lúc kịch tính của vở kịch đã lên tới đỉnh điểm, nghĩa là lúc xung đột giữa linh hồn và thân xác của Trương Ba đã đến hồi quyết liệt nhất. Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với những bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán chính mình. Tâm trạng ấy của Hồn Trương Ba đã được thể hiện ngay đầu đoạn trích: “không, tôi không muốn sống như thế này mãi. Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lần!”.

    Hồn Trương Ba cảm thấy không thể sống như thế này mãi được. Hồn muốn tách ra khỏi cái thân xác kềnh càng, thô lỗ. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác với sự giễu cợt, tự đắc của Xác khiến Hồn càng khổ đau, cảm thấy bế tắc.

    Thái độ cư xử của những người thân trong gia đình (người vợ, đứa cháu và nhất là chị con dâu mà Trương Ba hằng yêu thương, tin cậy) khiến ông càng đau khổ, tuyệt vọng để đi đến quyết định giải thoát.

    Cuộc gặp gỡ đối thoại cuối cùng của Hồn Trương Ba với tiên Đế Thích và quyết định dứt khoát của Hồn Trương Ba.

    Quyết định dứt khoát của Hồn Trương Ba thể hiện qua chi tiết nhân vật độc thoại nội tâm, quyết không chịu khuất phục thân xác và tự đánh mất mình, sau đó lấy nén hương châm lửa thắp lên để gọi tiên Đế Thích. Bước ngoặt này chuẩn bị cho việc giải quyết xung đột kịch về sau.

Tóm tắt Hồn Trương Ba, da hàng thịt 31


“Hồn Trương Ba da hàng thịt” kể về câu chuyện của Trương Ba, một người làm vườn gần 60 tuổi. Ông là người hiền lành, khỏe mạnh, tốt bụng, được rất nhiều người yêu quý. Trái ngược hoàn toàn với nhà Trương Ba, gia đình hàng thịt suốt ngày to tiếng chỉ vì vợ hàng thịt sinh con gái nên ông thường xuyên đánh vợ mình.

    Trương Ba còn nổi tiếng với tài năng đánh cờ rất hay nên nhiều lần Đế Thích đã hạ giới để chơi cùng với ông. Vì một lần, Nam Tào tắc trách đã gạch nhầm tên Trương Ba làm ông bị chết. Để sửa lại, Nam Tào đã theo gợi ý của Đế Thích cho hồn Trương Ba nhập vào xác của hàng thịt ở làng bên vừa mới chết để tiếp tục sống lại.

    Sau khi trú nhờ thể xác của hàng thịt, hồn Trương Ba sống dậy vui mừng trở về gặp vợ. Ban đầu thay vì mừng thì vợ ông lại bất ngờ, sợ hãi, bà không nghĩ đó là Trương Ba. Nhưng sau khi nghe ông kể lại thì bà đành tin lời, hạnh phúc biết bao. Tuy nhiên, đây cũng là lúc Trương Ba gặp rất nhiều rắc rối.

    Khi ở trong thân xác hàng thịt, Trương Ba dần bị tiêm nhiễm một số thói hư tật xấu và bắt đầu có những nhu cầu mà trước đây nó vốn xa lạ với ông. Nhất là chị hàng thịt cứ đòi lại chồng, luôn yêu cầu ông phải làm người đàn ông thực sự của chị. Tên lý trưởng cũng nhân đấy mà sách nhiễu vòi tiền ông. Gia đình ông trở nên xào xáo, người con trai Trương Ba ngày càng lấn át, không coi bố ra gì. Vợ và con dâu, cháu nội ông thì không thể nào chịu nổi cảnh này nên dần dần tránh xa ông.

    Trương Ba cảm thấy vô cùng đau khổ trước nghịch cảnh ông đang phải sống. Nên đã quyết định trả lại thân xác cho anh hàng thịt. Đế Thích bảo sẽ nhập ông vào xác cu Tị nhưng Trương Ba kiên quyết xin cho mình chết.

     “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, nội dung truyện đề cao giá trị con người, về sự hòa hợp giữa tâm hồn và thể xác. Lưu Quang Vũ muốn đưa đến một thông điệp cuộc sống con người quý giá nhất khi được sống đúng là mình, với những giá trị mình muốn, mình theo đuổi. Và con người cần phải đấu tranh trước chính bản thân mình, trước những nghịch cảnh éo le, sự dung tục để ngày càng hoàn thiện hơn nhân cách, vươn tới các giá trị cao quý.

Phân tích nhân vật Trương Ba trong Hồn Trương Ba - da hàng thịt 32


Lưu Quang Vũ là người nghệ sĩ đa tài. Ông sinh năm 1948, mất năm 1988, lần đầu tiên bén duyên với nghệ thuật từ những năm 1960 của thế kỷ trước bằng con đường thi ca. Nếu ai đã từng đọc thơ Lưu Quang Vũ ta thấy hiện lên một tình yêu quê hương đất nước nồng nàn với hồn thơ trong sáng. Toàn bộ điều này được kết tinh trong trường ca "Khúc đàn bầu". Từ năm 1978, Lưu Quang Vũ chuyển từ thơ ca sang lĩnh vực sân khấu. Có thể khẳng định sân khấu là mảnh đất nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Ông đến với sân khấu như duyên trời định. Chỉ đến khi gặp mảnh đất này, ông thực sự thăng hoa. Những năm gắn kết với sự nghiệp sân khấu, Lưu Quang Vũ đã để lại một sự nghiệp đồ sộ đánh dấu bằng 51 vở kịch nổi tiếng. Nhắc đến sự nghiệp kịch của Lưu Quang Vũ mỗi người yêu văn không thể không nhắc đến vở kịch "Tôi và chúng ta", "Bệnh sĩ", "Nếu anh không đốt lửa", "Lời nói dối cuối cùng", "Nàng Xi-ta", "15 ngày kháng án",... Nhưng sẽ thật là thiếu sót nếu nhắc đến sự nghiệp kịch của Lưu Quang Vũ lại không nhắc đến "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Vở kịch này đã làm nên tên tuổi Lưu Quang Vũ không chỉ ở sân khấu Việt Nam mà còn dư vang ra cả nước ngoài. Nó tạo nên một hiện tượng của Lưu Quang Vũ. Đó là hiện tượng chưa từng xảy ra trong lịch sử sân khấu Việt Nam.

    Tác phẩm được đưa vào chương trình giảng dạy như một kiệt tác của Lưu Quang Vũ nói riêng, của thể loại rất hiếm trong chương trình giảng dạy đó là thể loại kịch. Thành công của Lưu Quang Vũ trong vở kịch này đó là ông đã đưa ra được tình huống kịch vô cùng xuất sắc. Tình huống kịch này đã tạo ra được những xung đột kịch để từ đó người yêu văn tự rút ra cho mình nhiều bài học nhân sinh, nhiều ý nghĩa triết lí thông qua vỏ bề ngoài của xung đột đó là vỏ ngôn ngữ kịch.

    Cần phải khẳng định Lưu Quang Vũ là người nghệ sĩ vô cùng trung thực, thẳng thắn, dũng cảm. Ông thường lách sâu ngòi bút của mình vào những "mảng tối" của xã hội Việt Nam thời kì hậu chiến để từ đó nhà văn lên án, phơi bày, phê phán cái lối tư duy xưa cũ, lạc hậu, bảo thủ, cổ hủ, với đạo đức rởm đời để đưa ra những triết lí nhân sinh của cuộc sống. Một trong những vở kịch tiêu biểu nhất thể hiện rõ điều này đó là "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Như đã nói ở trên, thành công đầu tiên của Lưu Quang Vũ trong tác phẩm là ông đã xây dựng được tình huống kịch đặc sắc. 

    Như ta đã biết, tình huống là khoảnh khắc về thế giới, là một lát cắt của câu truyện mà ở đó hoàn cảnh truyện, mâu thuẫn truyện, tính cách nhân vật đều được bộc lộ một cách sắc nét. Nó vừa giúp cho nhà văn tổ chức được mạch truyện – kết cấu của tác phẩm. Tuy nhiên sự đặc sắc của tình huống kịch đó là nó thường được bộc lộ thông qua xung đột kịch. Có lẽ chính xung đột kịch mới tạo ra được mâu thuẫn của tác phẩm, tính cách của nhân vật cũng như ý nghĩa của vở kịch được bộc lộ thông qua xung đột kịch mà cái lớp vỏ bề ngoài để đến với độc giả bạn đọc chính là ngôn ngữ. Thế nên người viết kịch thường quan tâm đến ngôn ngữ kịch hơn nhiều so với hành động kịch. 
Đầu tiên ta cần khẳng định "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" là vở kịch được Lưu Quang Vũ lấy từ tích truyện trong dân gian. Có thể nói không quá lời rằng nếu "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" chưa đến tay Lưu Quang Vũ gia công thì tích truyện dân gian này đặt bên cạnh những tích truyện dân gian khác "Tấm Cám", "Cây tre trăm đốt" khá nhạt nhòa. Nếu trong Tấm Cám có Bụt giáng trần để cứu thế thì "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" có tiên Đế Thích giáng trần để cứu thế. Tuy nhiên người yêu kịch nhận ra ngay tích truyện dân gian này là sản phẩm tâm hồn của một thế hệ nho sĩ. Nó được biểu hiện thông qua nhân vật chính trong tích truyện này là Trương Ba có tài chơi cờ.

    Theo tích truyện dân gian, Trương Ba là người làm vườn rất chăm chỉ, hiền hậu nho nhã. Nhưng cái hay ở đây đó là Trương Ba có tài cờ tướng. Chỉ vì tắc trách, sơ suất, cẩu thả, vội đi ăn tiệc nên Nam Tào – vị quan trên thiên đình có chức năng trông coi việc sinh tử ở dưới hạ giới – gạch nhầm tên Trương Ba khiến Trương Ba bị chết oan. Để sửa sai, Nam Tào cùng tên Đế Thích đã để hồn ông sống nhập vào thân xác anh hàng thịt vừa chết. Nếu theo tích truyện cổ xưa thì từ ngày hồn Trương Ba nhập vào thân xác anh hàng thịt, Trương Ba được sống một cuộc đời hạnh phúc, êm ấm bên gia đình vợ con.

    Nhưng không, là một nhà viết kịch của giai đoạn mới, Lưu Quang Vũ đã không kết vở kịch của mình theo lối này. Ngược lại, ông lấy điểm kết thúc của câu chuyện dân gian làm điểm khởi đầu cho vở kich của mình, nghĩa là kể từ ngày nhập vào thân xác cồng kềnh, thô lỗ của anh hàng thịt, hồn Trương Ba bị sa vào lối sống quẩn quanh, bế tắc, tiêu điều. Đó chính là bi kịch trong tâm hồn của Trương Ba. Nhân nay ta nói qua khái niệm bi kịch. Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính mãnh liệt của con người nhưng không có điều kiện thực hiện trên thực tế. Cuối cùng, người mang khát vọng rơi vào kết cục của thảm kịch. Bi kịch là cuộc đấu tranh dai dẳng không khoan nhượng giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cao thượng và thấp hèn, giữa hiện tượng và bản chất, nội dung và hình thức, bên trong một đằng bên ngoài một nẻo... Tất cả những mâu thuẫn này diễn ra trong đời sống tâm hồn của hồn Trương Ba kể từ ngày nhập vào than xác cồng kềnh, thô lỗ của anh hàng thịt.

    Bi kịch đầu tiên của hồn Trương Ba đó là không được sống với cái "Tôi" toàn vẹn. Ở đây, hồn Trương Ba phải sống nhờ sống gửi, sống gá vào thân xác cồng kềnh của người khác, trái hoàn toàn với qui luật tự nhiên của cuộc sống con người. Cái tài của nhà văn Lưu Quang Vũ là miêu tả cái bi kịch của hồn Trương Ba dù bất cứ ở nơi đâu đều lạc lõng, khổ đau, thấy mình như bị xúc phạm. Trước hết, tác giả để Trương Ba ở tạm nhà anh hàng thịt. Hồn Trương Ba xuất hiện ở gia đình anh hàng thịt không chấp nhận được lối sống của gia đình với những con người sống với cái vật chất tầm thường. Cái tâm hồn thanh cao của Trương Ba không thể chấp nhận những đòi hỏi, những nhu cầu, những dục vọng rất tầm thường của vợ anh hàng thịt. Mỗi lần thấy những đòi hỏi ấy, hồn Trương Ba hoàn toàn bị xúc phạm.

    Tuy nhiên, bi kịch đẩy đến đỉnh điểm khi hồn Trương Ba xuất hiện ngay tại gia đình mình. Cuộc đời con người khổ đau nhất khi bị người thân gia đình ruồng bỏ, xa lánh. Con người ta có thể bị xã hội ruồng bỏ nhưng gia đình là nơi an tâm nhất thì ở đây, Trương Ba lại bị thành viên trong gia đình từ chối, không chấp nhận. Người vợ hiền hậu là thế giờ đây cũng không thể chấp nhận được Trương Ba và đã có ý định bỏ đi. Trương Ba nhận thức được rất rõ điều này. Khi tâm sự với con dâu về vợ, Trương Ba đau đớn vô cùng. Có lẽ vợ Trương Ba thực sự rất đau khổ khi phải chôn chồng mình lúc Trương Ba chết. Có lẽ cái nỗi đau ấy cùng với năm tháng, thế giới nó sẽ làm nguội đi vết thương lòng. Nhưng giờ đây hồn Trương Ba nhập vào thân xác anh hàng thịt. Cùng với thế giới, vợ Trương Ba không thể chấp nhận được. Người con trai không chấp nhận, không nhận bố bởi bố anh không bao giờ vũ phu, đánh anh như vậy. Đứa cháu cũng xua đuổi bóng dáng của ông đồ tể, không chấp nhận hồn Trương Ba, da hàng thịt. Ngay cả người con dâu vị tha là thế nhưng cũng hoài nghi.

    Còn trong con mắt của người bạn cờ đó là Triệu Hỏa thì có lẽ Trương Ba không còn chơi nước cờ cao thượng nữa. Khi bắt đầu vào cờ, đó là lối đi cờ của Trương Ba. Nhưng chỉ cần đi thêm hai nước cờ thì không còn nước cờ của Trương Ba ngày xưa nữa, không hề khoáng đạt, phóng khoáng nữa. Nước cờ của Trương Ba khi nhập vào thân xác anh hàng thịt vụn vặt, tủn mủn, chỉ có thể có ở hạng người tiểu nhân mà thôi. Đây chính là hậu quả của hồn Trương Ba nhập vào thân xác anh hàng thịt. Giờ đây Trương Ba chiết cây thì cây gãy, làm diều cho cu Tị thì diều hỏng. Ở đâu, Trương Ba cũng thấy mình bị lạc lõng như vậy. Toàn bộ bi kịch này, toàn bộ cảnh tượng này được kết tinh lại trong cảnh bảy của vở kịch. Trong cảnh bảy của "Hồn Trương Ba, da hàng thịt", Lưu Quang Vũ đã đẩy vở kịch len đến đỉnh điểm để thắt nút vở kịch rồi cũng chính ở phần cuối cảnh người nghệ sĩ đã cởi trói vở kịch vô cùng nhân văn, vô cùng sáng tạo. Điều này chỉ có thể có ở nhà viết kich tài ba Lưu Quang Vũ.

    Nếu ai đã đọc toàn bộ vở kịch này hẳn sẽ nhận thấy không phải chỉ đến cảnh bảy Trương Ba mới gặp bi kịch. Những ngày trước hồn Trương Ba vừa nhập vào thân xác anh hàng thịt đã bộc lộ bi kịch này. Ta thấy rất rõ ở xung đột kịch đầu tiên giữa hồn Trương Ba với thân xác cồng kềnh của anh hàng thịt. Cần phải khẳng định trong vở kịch này, hồn Trương Ba tượng trưng cho phần tinh túy của con người, tượng trưng cho thế giới tâm hồn. Nó thuộc vào phạm trù ý thức của con người. Nó là phần "Người" trong hai chữ "Con Người". Còn xác ở đây nó thuộc vào thế giới vật chất, là phần "Con" trong hai chữ "Con Người" mà Maxim Gorky đã trân trọng viết hoa nó. Như vậy, hai chữ "Con Người" cần phải cân đối với nhau. Ở trong cái "Tôi" toàn vẹn, một cái "Tôi" thống nhất thì hai chữ "Con" và "Người" được tôn trọng như nhau.

    Tuy nhiên ở đây nó lại là nghịch cảnh. Hồn của Trương Ba lại ở trong da của anh hàng thịt, nghĩa là bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo không thống nhất nhau, hồn và xác không nằm trong cái "Tôi" thống nhất cho nên hồn và xác đầy mâu thuẫn với nhau. Thông qua xung đột đầu tiên giữa hồn và xác, tác giả đã đưa ra rất nhiều ý nghĩa. Hồn lúc đầu coi thường xác, gọi xác là "mày" xưng "ta". Đối với hồn xác chỉ là xác thịt thâm u, đui mù, không biết gì cả. Hồn khinh bỉ xác suốt ngày rượu thịt, tiết canh, lòng lợn, khấu đuôi, ngày ăn tám, chín bát cơm,... Chính vì vậy, khi vở kịch mới mở ra Trương Ba đã nói ngay là không thể trú ngụ vào cáy thân xác thô lỗ này.

    Mặt khác, xác cũng có cái lí rất riêng. Xác cũng rất cao ngạo, thậm chí như trêu ngươi hồn: "Cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân xác." Xác lí luận rằng ngày ăn 8, 9 bát cơm không phải lỗi của xác, vấn đề là có đủ 8,9 bát cơm cho xác ăn hay không. Bên cạnh đó, mỗi lần uống rượu thịt thì hồn cũng được thưởng thức. Hồn muốn nhìn ngắm được trời đất cũng là do mắt của xác. Hồn làm được cây cũng là do tay của xác thịt. Ngay cả hồn chơi cừ được cũng là do xác thịt. Như vậy rõ ràng hồn không thể thoát được xác, buôc phải tồn tại trong một thể xác. Muốn có ý thức phải có vật chất bởi vật chất quyết định ý thức, bởi "có thực mới vực được đạo". Trước cái lí trần trụi của xác, hồn bắt đầu đuối lí. Dù hồn có nhắm mắt lại, bịt tai không muốn nghe nhưng đó là những lời lẽ rất thành thực, Vì đuối lí nên hồn đã đổi cách xưng hô từ "ta" – "mày" sang thành "anh" và "ta".

    Với xung đột đầu tiên này, Lưu Quang Vũ một mặt tố cáo tầng lớp những con người Việt Nam rút ra khỏi bom đạn chiến tranh nhưng chạy theo lối sống vật chất, đồng tiền. Nếu theo giọng điệu của vở kịch này, ai đó chạy theo vật chất, đề cao vật chất, đề cao đồng tiền thì giá trị tốt đẹp chân chính của con người bị đảo lộn ngay bởi Balzac nói đồng tiền là con đĩ của xã hội. Nơi nào đề cao vật chất, đồng tiền thì nơi ấy người ta có thể tìm thấy hạnh phúc ngay ở người thân khi người thân chết mà Vũ Trọng Phụng có lần đã thể hiện trong "Hạnh phúc của một tang gia".
Không chỉ tố cáo những người chạy the vật chất, Lưu Quang Vũ còn tập trung vào tố cáo những con người cũng thuộc một bộ phận rất lớn trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ rút ra khỏi cuộc chiến tranh nhưng cũng giữ nguyên cái lối sống thanh cao của mình của một thời trên chiến trường. Đó là những con người đẹp như chân lí sinh ra, coi thường vật chất, coi khinh đồng tiền nhưng không thoát qua được nó. Điều này đã từng được Lưu Quang Vũ tố cáo rất mạnh trong vở kịch "Bệnh sĩ".

    Ngoài ra, Lưu Quang Vũ còn khẳng định rằng nếu sống quá lâu trong thế giới vật chất tầm thường này thì ít nhiều cái đẹp sẽ bị hòa tan, bị ảnh hưởng. Ý nghĩa này gợi cho ta nhớ tới câu nói "Gần mực thì đen". Điều này được thể hiện rất rõ ở hồn Trương Ba. Từ ngày hồn cao đẹp nhập vào thân xác cồng kềnh của anh hàng thịt, hồn đã bị ảnh hưởng. Trong con mắt của con, Trương Ba giờ đây là một người vũ phu. Đối với cháu, chắt, bóng dáng Trương Ba là bóng dáng ông đồ tể. Đến cả cách chơi cờ của ông cũng tủn mủn. Nước chơi cờ giờ đây toàn nước của tiểu nhân bởi con người đang thanh cao giờ ngày nào cũng rượu thịt, tiết canh, lòng lợn,... Rõ ràng đây là hậu quả của hồn Trương Ba sống vào trong thân xác của anh hàng thịt bởi bản chất con người bên cạnh việc gieo giống, bên cạnh cái tôi của mình nó còn là do hoàn cảnh, do môt trường tạo nên. Gặp được mảnh đất tốt, con người dễ phát triển cái "Tôi" của mình. Nhưng cái "tôi" ấy, cái hạt giống tốt ấy được đặt vào mảnh đất khô cằn, môi trường tệ thì ngay lập tức nó bị ảnh hưởng.

    Khi một người đang gặp bi kịch mà không nhận thức được điều này thì không còn gì để mà nói. Ở đây hồn Trương Ba đã nhận ra được điều này và cảm thấy đau đớn vô cùng. Nếu cứ phải sống nhờ thế này thì thà chết một lần để được làm người còn hơn phải chết dần chết mòn. Thế là hồn Trương Ba quyết định chết ngay lần hai và đã thắp hương gọi Đế Thích xuống. Chính điều này đã dẫn đến xung đột hai của vở kịch: xung đột giữa Trương Ba và tiên Đế Thích.

    Giờ đây Trương Ba gọi Đế Thích xuống để xin chết lần hai và trả lại thân xác anh hàng thịt. Là một vị "tiên trên trời", Đế Thích không hiểu gì cả. Đế Thích cứ tưởng rằng từ ngày hồn Trương Ba nhập vào thân xác anh hàng thịt thì phải hạnh phúc sao giờ lại đòi chết? Nhưng Trương Ba đã nói rất rõ rằng Đế Thích giữ Trương Ba chẳng qua chỉ vì sự ích kỉ cá nhân để có một người hầu cờ. Trương Ba khẳng định: "Nếu còn tiếp tục sống tôi cũng chẳng thích đánh cờ với ông nữa! Đánh cờ với ông chán lắm!". Lí do của Trương Ba muốn chết là để trở về với cái "tôi" toàn vẹn chứ không thể sống nhờ như thế này. Sống như thế này không những chính Trương Ba khổ mà còn gây khổ cho cả gia đình. Trương Ba đã nói:

    – Từ lúc tôi đi đến quyết định này, tôi mới thấy tôi thanh thản, tôi bỗng cảm thấy mình là Trương Ba của ngày xưa.

Nói đến cái "Tôi", Đế Thích đã nói rằng:

    – Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ý? Ngay cả tôi ðây cũng đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Ngay cả Ngọc Hoàng cũng có được sống với cái "Tôi" toàn thể đâu.

    Như vậy qua câu nói này, Lưu Quang Vũ muốn tố cáo cái xã hội dối trá bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo, sẵn sàng bệ đỡ để lên ngôi, để được thăng quan tiến chức.

    Nhưng đọc kịch của Lưu Quang Vũ, người yêu kịch vẫn nhận thấy, vẫn tự tin trong đống của những con người lố nhố đang thăng quan tiến chức, đang bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo thì bỗng thấy có Lưu Quang Vũ sống thẳng thắn, trung thực hóa thân thành Trương Ba để bộc lộ quan điểm của mình. Mặc dù vậy, quan điểm của Lưu Quang Vũ, vở kịch của Lưu Quang Vũ, văn chương của Lưu Quang Vũ không hề bơi ngược dòng với luận điệu của Đảng, không hề bơi ngược dòng với văn chương Việt Nam. Thế nên những tác phẩm của Lưu Quang Vũ cứ như con thuyền xuôi mái nhưng vẫn thể hiện được ý tưởng, chính kiến của mình. Đó là những đạo đức của cuộc sống, là giá trị nhân văn của cuộc sống. Lưu Quang Vũ xứng đáng là một nhà văn lớn trên thi đàn văn chương Việt Nam.

Phân tích nhân vật Trương Ba trong Hồn Trương Ba - da hàng thịt 33


Nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ nổi tiếng với những tác phẩm có nội dung giàu tính hiện thực, có tính đả kích sâu sắc và mang đậm giá trị nhân văn. Một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của ông phải nhắc đến đó chính là tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt. Trong tác phẩm này những vấn đề mấu chốt và tình huống truyện đều tập trung xoay quanh nhân vật Trương Ba, một con người phải sống nhờ ở đậu trong thân xác của người khác.

    Trước khi đột ngột qua đời, Trương Ba là một người đàn ông hiền lành đức độ trong gia đình, ông là một hình mẫu mực thước cho tất cả các thành viên noi theo. Chính vì vậy ông rất được vợ con yêu thương, con cháu kính trọng. Ông là người không những nho nhã, thanh lịch lại rất thông minh và hiểu biết, nước cờ ông đánh họa chăng chỉ có Đế Thích mới giải vây được. Có thể thấy được đây là con người tri thức, nền nã vừa đẹp ở tâm hồn nhân cách lại có những hành vi ứng xử văn minh.

    Tuy nhiên, chỉ vì một sai sót của Nam Tào, Bắc Đẩu khi vội đi chơi mà khiến cho Trương Ba phải chết oan. Cái chết của Trương Ba đột ngột và vô lí đến nỗi khi vợ Trương Ba gặp Đế Thích để đòi lại sự công bằng Đế Thích cũng phải bối rối. Công bằng ấy được sửa chữa, vá víu bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào trong thân xác của hàng thịt. Thế nhưng đây cũng là lúc bắt đầu bi kịch của Trương Ba.

    Trương Ba dần trở nên thô thiển hơn, có những hành động lỗ mãng, không còn giống với con người của ông trước kia. Ông trở nên tham ăn tục uống, ăn uống phàm phu tục tử, nói năng thì bỗ bã, thô thiển, hành vi thì lố bịch. Trương Ba đã làm những việc trước đây ông chưa từng làm: tát con trai, làm “gãy tiệt cái chồi non” của cây cam, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm, đã “làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cả cái diều đẹp” của cu Tị. Không chỉ vậy, trong một lần vợ hàng thịt nằng nặc đòi chồng ở lại với mình, Trương Ba đã suýt chút nữa mà nghe theo.

    Sự thay đổi của Trương Ba khiến cho chính gia đình ông cũng không chấp nhận được, vợ Trương Ba chấp nhận bỏ đi để ông về sống với vợ hàng thịt. Cái Gái cháu ông thì không nhận ông, cô con dâu ngoan hiền hiểu chuyện nhất cuối cùng cũng trách cứ cha mình. Trương Ba đau khổ lắm. Không phải ông không biết những sự thay đổi đã diễn ra với mình chỉ là ông không thể làm được gì để thay đổi thực tại. Hoàn cảnh của ông đích thực là lực bất tòng tâm. Dù linh hồn của ông muốn nhưng thân xác không chịu nghe theo thì ông cũng không thể điều khiển được. Huống hồ việc ban ngày ở trong thân xác hàng thịt lâu dần khiến cho ông bị tha hóa, trở nên thô thiển, cục mịch, ngày càng giống với con người hàng thịt.

    Trương Ba vô cùng đau khổ và day dứt về sự thật này nên đã gặp Đế Thích và trình bày nỗi lòng của bản thân. Có thể thấy ông là một người rất có nhân cách, lòng tự trọng. Ông đã thẳng thừng nói với Đế Thích chỉ quan tâm cho người ta sống còn sống thế nào thì Đế Thích không quan tâm. Những lời phê phán của Trương Ba rất gay gắt nhưng cũng vô cùng chính xác về Đế Thích và cách làm của ông. Trương Ba cuối cùng đau khổ lựa chọn cái chết còn hơn chấp nhận hoán đổi linh hồn mình vào một thể xác mới. Đây là một sự lựa chọn cao cả và thể hiện đúng tính cách con người ông. Ông không thể chấp nhận sự giả dối, hoán đổi, không thể sống mà trong một đằng ngoài một nẻo. Dù cho ông có được đổi sang một thân xác nào đi nữa thì đó cũng là thân xác đi mượn và rồi ông sẽ lại gặp rất nhiều rắc rối khi không được là chính mình. Cách lựa chọn này đã đưa Trương Ba trở về là chính ông dù điều đó đồng nghĩa với việc ông phải vĩnh viễn rời xa vợ con của mình.

    Bi kịch của Trương Ba đã nói lên một vấn đề đó là sống nương nhờ trong thân xác của người khác. Con người phải sống là chính mình, nhất quán, đồng điệu giữa tâm hồn và thể xác không thể có chuyện linh hồn người này nhưng lại sống trong thân xác của người khác.

    Cách lựa chọn giải quyết vấn đề cũng cho thấy được nhân cách cao đẹp trong con người Trương Ba, ông đã lựa chọn cái chết để được làm chính mình còn hơn cố gắng níu giữ sự sống trong khi mình dần bị tha hóa, biến đổi. Cuối cùng thì Trương Ba vẫn trở về là người chồng yêu thương vợ con, là người cha mẫu mực, người ông đáng kính trọng của tất cả con cháu trong nhà.

Phân tích nhân vật Trương Ba trong Hồn Trương Ba - da hàng thịt 34

    Lưu Quang Vũ là một trong những nhà soạn kịch tài năng bậc nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biểu nhất trong số đó có thể kể đến vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Thông qua câu chuyện về bi kịch của Trương Ba, tác giả Lưu Quang Vũ đã thể hiện được nhiều quan niệm nhân sinh sâu sắc về cuộc đời, con người.

    “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được sáng tác dựa trên một câu chuyện dân gian cổ, tuy nhiên nếu như truyện dân gian chỉ kết thúc ở chi tiết hồn Trương Ba trở về với xác của mình thì vở kịch của Lưu Quang Vũ lại được phát triển từ phần kết của câu chuyện đó để truyền tải những quan niệm nhân sinh sâu sắc.

    Câu chuyện xoay quanh bi kịch của Trương Ba khi bị chết oan, để tiếp tục sống thì buộc ông phải sống trong thân xác của người hàng thịt. Điều đáng nói là xác người hàng thịt tuy chỉ là thể xác âm u đui mù nhưng lại có những nhu cầu riêng, tính cách riêng và có sức mạnh để thực hiện những nhu cầu của mình, từ khi sống trong thân xác của người hàng thịt, Trương Ba dần thay đổi trong mắt của mọi người.

    Trương Ba phải sống nương nhờ vào xác của người hàng thịt, vốn là người làm vườn chăm chỉ, giàu tình yêu thương, một người trí thức am hiểu, sống có trách nhiệm nhưng khi khi sống trong xác người hàng thịt, Trương Ba đã bị cái xác chi phối, dần trở thành con người vụng về, thô tục với những ham muốn tầm thường, dần trở nên thô lỗ khi dùng bàn tay và sức mạnh của người hàng thịt để đánh anh con trai đến bật máu. Cũng từ khi sống trong thân xác của người hàng thịt, Trương Ba không còn quan tâm đến hàng xóm láng giềng.

    Những thay đổi của Trương Ba đã khiến cho người thân thất vọng, bản thân Trương Ba cũng nhận thấy sự đổi khác của mình nhưng lại không thể kiểm soát được thể xác tưởng chừng âm u đui mù. Trương Ba hoàn toàn bất lực trong việc kiểm soát hành động và những suy nghĩ không đúng đắn của bản thân, dù cố gắng giải quyết nhưng ông vẫn đau khổ vì không thể phủ nhận rằng mình đang dần đánh mất chính mình. Câu nói của Trương Ba với xác người hàng thịt trong sự tuyệt vọng đã thể hiện nỗi đau khổ, bất lực đến cùng cực của ông “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta”.

    Không chỉ đau khổ với bi kịch không được sống là chính mình, sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo mà Trương Ba còn phải đối mặt với bi kịch bị từ chối. Trước những sự thay đổi của Trương Ba, những người thân và hàng xóm láng giềng đều không sao hiểu được, càng yêu quý, kính trọng con người trước kia của ông bao nhiêu thì họ càng không thể chấp nhận con người hiện tại của Trương Ba.

    Người vợ vì hờn ghen với mối quan hệ không rõ ràng giữa Trương ba và vợ người hàng thịt mà muốn bỏ đi. Cháu gái khóc lóc và kiên quyết không chịu thừa nhận Trương ba của hiện tại là người ông hiền từ, giàu yêu thương trước đây. Chị con dâu, người thương và hiểu Trương ba nhất cũng không giấu nổi sự thất vọng khi thấy bố ngày càng đổi khác “ mỗi ngày…một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi”.

    Chính bản thân của Trương ba cũng không thể chấp nhận được sự thay đổi của bản thân, để chấm dứt bi kịch sống không phải là mình, bảo vệ những giá trị tốt đẹp của bản thân, Trương Ba đã quyết định lựa chọn cái chết để trả lại xác người hàng thịt cho người hàng thịt, để bản thân được sống trọn vẹn , thống nhất.

    Thông qua nhân vật Trương ba cùng bi kịch sống bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo, tác giả Lưu Quang Vũ đã thể hiện sự trăn trở về mối quan hệ giữa thể xác và tâm hồn, giữa nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Để sống hạnh phúc, con người cần dung hòa được các nhu cầu ấy.

Phân tích nhân vật Trương Ba 35

         Vở kịch hiện lên có nhân vật Trương Ba, anh là một người nông dân chân chất, bản tính hiền lành, chăm chỉ làm ăn và lối sống trong sạch. Ông được trời ban cho linh hồn được tái sinh và trú ngụ ngay trong xác của anh hàng thịt sau một tháng rời khỏi trần đời. Khoảng thời gian sống nhờ đó, hồn Trương Ba thấm thía vô cùng cái cảnh ngộ trớ trêu, ông đau đớn thấu tâm can khi nhân cách ngày càng lệch lạc, mai một.

         Anh không còn sống là chính mình nữa rồi, mọi giá trị anh trước đây dần biến mất đi thay vào đó là một linh hồn nhiễm độc rồi mờ dần. Không muốn kéo dài điều tồi tệ này nên gặp Đế Thích, hồn Trương Ba đã xin được thoát khỏi thể xác kia, được chết với lí do là anh không thích sống một cuộc đời giả dối, vô nghĩa. Hồn Trương Ba một chút trách móc với Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!... Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được… sống như thế này còn khổ hơn là cái chết”. Lời tâm sự với một chút nhẹ nhàng trách móc này cho thấy triết lí sống của Trương Ba, đây mới là con người thật sự của anh, từng lời nói anh phân biệt rõ rệt giữa sống và tồn tại. Tiếp tục sự sống mà phải sống một cách vô nghĩa, không có ích như thế thì thà đừng sống thì thà không tiếp tục sự sống còn hơn. Sống bên trong thân xác của anh hàng thịt chính là sự tồn tại, sống mà cứ luôn đau đáu, Đế Thích cứu Trương Ba thoát khỏi cái chết nhưng trở lại cuộc sống cũng chỉ là tồn tại một cách vô nghĩa. Trương Ba không chấp nhận “bên trong một đằng bên ngoài một nẻo”, đó là khi hồn đi theo một hướng nhưng xác lại muốn làm theo một nẻo, con người sống luôn bị chi phối bởi sự không hài hòa, tự nhiên đó, tiêu hủy nhau rất mệt mỏi, không đúng với quy luật cuộc sống.

        Sự sống được duy trì rất máy móc, lạnh lẽo, vô cảm là khi hồn Trương Ba tồn tại trong xác anh hàng thịt. Một đời sống chỉ nhằm để thỏa mãn những dục vọng, mong ước xấu của bản thân, không tha thiết, rung cảm gì trước bao điều đẹp đẽ trên đời, giá trị tinh thần lại càng không có. Đó là khi sống trong cái xác, còn tâm hồn thực ra đã không còn. Trương Ba mong muốn nếu được sống thì là sống một cuộc đời có giá trị, có ích cho bản thân, gia đình, xã hội, từng ngày không ngừng học hỏi, đổi mới bản thân để hoàn thiện chính mình cả về nhân cách và tài năng. Một tâm hồn biết cảm động trước những điều đẹp đẽ, biết lên án, đẩy lùi những điều xấu xa, tìm thấy được niềm vui, hạnh phúc, đích đến trong cuộc sống. Khi mà hồn Trương Ba nhập vào xác, mọi hoạt động bị sai khiến bởi thân xác, nuông theo những khát vọng tầm thường, sống phàm phu tục tử như thế Trương Ba thà không được sống còn hơn, anh quyết định chết là một quyết định đúng đắn, sâu sắc. Nhà thơ đặt Trương Ba vào hoàn cảnh này để thấy rằng điều muốn gửi đến tất cả chúng ta đó là sống trong đời cần biết phân biệt đúng sai mà nương theo cái tốt, sống hết mình, không ngại lên án cái xấu xa, không ngừng hoàn thiện nhân cách của mình từ đó mới nhận thức rõ về một cuộc đời có nghĩa.

        Nghe những lời từ hồn Trương Ba, Đế Thích buông lời an ủi: “Cả Ngọc Hoàng cũng không sống trọn vẹn mà phải khuôn ép cho xứng danh, không ai được sống theo những điều mình muốn, mà thường bị ràng buộc theo câu thúc”. Câu nói này có bởi vì cuộc sống chẳng lúc nào theo ý mình muốn, nhu cầu mong được sống theo ý muôn sẽ luôn có những điều cản trở, ràng buộc. Do đó cần đến một khả năng thích nghi mềm dẻo, linh hoạt của con người. Nỗi khổ mà Trương Ba gặp phải ở đây xuất phát từ sự thiếu thận trọng, tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu. Bởi thế mới thấy cả Thánh còn có sai lầm huống chi con người sao thoát khỏi những khuyết điểm, lỗi lầm. Thông qua đó sẽ có thể chỉ trích, không đồng tình với việc làm của bộ phận quan liêu chức cao cẩu thả khiến dân vô tội chịu oan ức.

        Lưu Quang Vũ xây dựng vở kịch với nhân vật hồn Trương Ba nổi bật đã truyền tải được triết lí nhân văn, có tính thời sự đến cho người đọc.

Phân tích nhân vật Trương Ba 36

Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) sinh tại Phú Thọ, quê gốc ở Đà Nẵng. Ông là một trong những nhà viết kịch xuất sắc nhất của nước ta sau năm 1975. Kịch của ông phản ánh nhiều vấn đề nóng bỏng của đời sống, đóng góp thiết thực vào công cuộc đổi mới của đất nước và góp phần đem đến cho sân khấu Việt Nam đương đại một sức sống mới. Những vở kịch của ông hấp dẫn chủ yếu không phải bằng xung đột gay gắt mà bằng xung đột trong cách sống và quan niệm sống, qua đó khẳng định khát vọng hoàn thiện nhân cách sống, hoàn thiện con người. Trong hơn 50 kịch bản đã được đàn dựng, một số đã được in thành sách thì vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt đã gây tiếng vang hơn cả. Tác phẩm được viết từ năm 1981 đến năm 1984 mới ra mắt công chúng và đã được biểu diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Từ cốt truyện dân gian quen thuộc, tác giả đã xây dựng được một vở kịch dài, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc. Đoạn trích trong Sách giáo khoa là cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, khi mâu thuẫn đã được đẩy lên cao trào để giải quyết, ở phần cuối này, hồn Trương Ba đã bị những người thân chê trách xa lánh, tự ý thức được sự tha hóa của mình, bị thân xác anh hàng thịt sỉ nhục,... Tất cả những cái đó làm cho hồn Trương Ba vốn cao khiết không thể chịu đựng được nữa để rồi cuối cùng ông quyết định trả lại thân xác cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết vĩnh viễn. Trương Ba chết do sự tắc trách của Nam Tào nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn. Xác hàng thịt tỏ ra lấn lướt hồn Trương Ba, sỉ nhục hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba thấy đau khổ đến cực độ và thấy không thể chịu dựng được hơn nữa. Xác hàng thịt muốn khẳng định, vị trí, vai trò và tầm quan trọng của mình: Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, người thân... Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thể giới này qua những giác quan của tôi... Còn hồn Trương Ba lại phủ nhận vai trò của thể xác mà khẳng định sự thanh sạch của tâm hồn khác xa với những thú tục thấp hèn khác: Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc [...] Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt; Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn... Lí lẽ của đôi bên đưa ra có những điểm đúng đắn khó bề bác bỏ khiến việc thắng bại không thể nào giải quyết được một cách nhanh chóng, đơn giản. Đây thực ra là một ẩn dụ, xác anh hàng thịt ẩn dụ về thể xác con người, còn hồn Trương Ba ẩn dụ về linh hồn của con người. Tác giả đã sáng tạo ra một tình huống ẩn dụ có sức lôi cuốn, gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc: con người không thể sống không là mình, không thể sống giả dối hay vay mượn cuộc sống của người khác. Con người không chỉ sống bằng thể xác và còn phải sống bằng linh hồn, tình cảm,... Do phải sống nhờ thể xác của anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của thể xác. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần bị nhiễm những thứ tầm thường của xác anh hàng thịt. Ý thức được điều đó, linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích nên đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ve vãn hồn Trương Ba thỏa hiệp với mình vì theo xác hàng thịt thì chằng còn cách nào khác, cả hai đã hòa vào nhau làm một rồi.

Những lí lẽ của xác hàng thịt mà hồn Trương Ba cho là thật ti tiện, trớ trêu thay, hồn Trương Ba lại đang gặp và đang lâm vào. Điều này thể hiện qua thái độ của những người thân của Trương Ba. Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà, đi đâu cũng được [...] Còn hơn là thế này. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận: Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa. Cái Gái - cháu nội ông thì giờ đây đã không cần phải giữa ý. Nó một mực không nhận ông: Tôi không phải là cháu ông và ông nội tôi chết rồi. Trước đây, cái Gái yêu quý ông biết bao nhiêu thì giờ đây nó không thế chấp nhận cái con người có bàn tay giết lợn, bàn chân to bè như cái xẻng đã làm gãy tiệt cái chồi non và giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm trong mảnh vườn của ông nội nó. Với nó, ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi ! Lão đồ tể, cút đì ! Còn chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, khổ hơn xưa nhiều lắm. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình như Sắp tan hoang ra cả khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy.., mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa... Tất cả những người thân yêu của Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ, cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất là ngày đau khổ nhưng cũng không khổ bằng bây giờ. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần, muốn đứt tung, muốn dâng trào. Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ đó, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình Trương Ba với lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ [...] Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần! Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát sau này.

Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ cương quyết, từ chối chấp nhận cảnh sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Trương Ba nhận thức rất rõ về cuộc sống hiện tại của chính mình: Ông tưởng tôi ham sống lắm hay sao ? Nhưng sống thế này, còn khổ hơn là chết. Mà không phải chỉ là một mình tôi khổ! Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi! Còn lấy lí lẽ gì khuyên thằng con tôi đi vào con đường ngay thẳng được ? Cuộc sống giả tạo này có lợi cho ai ? Họa chăng chỉ có lão lí trưởng và đám trương tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ bọn khốn khiếp là lợi lộc. Qua lời thoại này, ta thấy lối sống của Trương Ba vốn rất cao khiết và biết giữ nhân cách, sống là phải vì những người xung quanh,-không a dua theo những thứ giả tạo, lợi lộc nên ông không thể chịu đựng được hơn nữa, không thể khuất phục trước thể xác, trước những cái xấu xa và tự đánh mất mình. Trước lời thuyết phục của Đế Thích nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối: ở đâu cũng được, chứ không ở đây nữa. Nếu ông không giúp, tôi sẽ... tôi sẽ... nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất. Từ đây, Trương Ba đi tới một quyết định sáng suốt, đúng đắn, dũng cảm và rất đạo đức khi quyết định sẽ trả lại thân xác cho anh hàng thịt còn mình chấp nhận cái chết để hình ảnh Trương Ba được sống trong mọi người mãi mãi như bản chất vốn có của Trương Ba: Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Trương Ba là một con người giàu tình thương yêu và nhân ái khi đứng trước cuộc thử thách cuối cùng, lúc đối mặt với cái chết, trước sự lựa chọn nhập vào xác cu Tị - một em bé hàng xóm vừa chết. Hồn Trương Ba rất thương cu Tị, đó là một đứa bé ngoan, bạn thân của cái Gái, cháu nội yêu quý của ông. Đầu tiên, Trương Ba nhận thức sâu sắc rằng không thể hòa nhập giữa xác của một em bé mới mười tuổi với một ông già gần sáu mươi tuổi: Nhập vào cu Tị... Tôi, một ông già gần 60, cu Tị thì chưa bắt đầu cuộc đời, còn đang tuổi ăn, tuổi lớn, chạy nhảy vô tư,... có ổn không nhỉ ? Rồi Trương Ba nghĩ về người thân và những người hàng xóm cũng gặp nhiều rắc rối: Tôi không phải là con chị, chị ấy sẽ không nguôi thương nhớ con... Có khi tôi còn phải sang nhà chị Lụa ở... Rồi còn hàng xóm, lí trưởng, trương tuần... Bao nhiêu sự rắc rối. Bà vợ tôi, các con tôi sẽ nghĩ ngợi, xử sự thế nào khi chồng mình, bố mình mang thân một thằng bé lên 10 ? Làm trẻ con không phải dễ! Mà cái Gái nhà tôi, nó sẽ nghĩ thế nào nhỉ ? Tiếp theo, hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn mình lại nhập vào xác cu Tị để sóng và thấy rõ bao nhiêu rắc rối xảy ra: Chẳng bao lâu nữa, bà nhà tôi, bạn bè cùng lứa với tôi như bác Trưởng Hoạt lần lượt nằm xuống, mình tôi vẫn phải sống suốt bao năm tháng dài dằng dặc. Mình tôi giữa đám người hậu sinh. Những gì chúng thích thì thôi ghét, những gì tôi thích thì chúng chẳng ưa. Tôi sẽ như ông khách ngồi dai ở nhà người ta, mọi khách khứa đã về cả rồi, mình vẫn dầm dề nán lại. Tôi sẽ bơ vơ, lạc lõng hoặc sẽ trở nên thảm hại đáng ghét như kẻ tham lam, một kẻ lí ra phải chết từ lâu mà vẫn cứ sống, cứ trẻ khỏe, cứ ngang nhiên hưởng thụ mọi thứ lộc trời! Vô lí lấm! Không! Và chính tình cảm thương yêu với một em bé chưa bắt đầu cuộc đời và sự cảm thông sâu sắc với một bà mẹ mất con nên Trương Ba đã cầu xin Đế Thích cho cu Tị được sống lại: Tôi không thể cướp cái thân thể mon nớt của cu Tị. Tiếng chị Lụa gào khóc nghe đứt ruột! Mất đứa con, chị ấy làm sao sống được? [...] Ông hãy đưa hồn cu Tị về nhập lại vào xác nó, cho nó được sống lại [...] Ông hãy cứu nó! Ông phải cứu nó! [...] Ông giúp tôi lần cuối. Tôi sẽ không hao giờ làm phiền ông nữa, không đòi ông điều gì nữa! Sau khi nghe những lời thống thiết của Trương Ba thì Đế Thích đã vì lòng quý mến ông, tôi sẽ làm cu Tị sống lại, dù có bị phạt nặng. Hành động này thể hiện rõ nét nhất quan niệm sống của Trương Ba, đồng thời cũng khẳng định nhân cách cao thượng của ông và tư tưởng nhân văn cao cả của tác phẩm. Khi Trương Ba đã lựa chọn đúng đắn là trả lại thân xác cho anh hàng thịt và mình sẽ chấp nhận cái chết vĩnh viễn thì Trương Ba lại trở về với con người trước kia: Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa. Qua chi tiết này, tác giả như muốn gửi gắm tới người đọc một thông điệp đó là nếu không được sống và hành động đúng là mình thì con người sẽ bị rơi vào bi kịch, sẽ phải đau khổ, dằn vặt và đó chính là điều đau khổ nhất của một con người. Trương Ba ra đi với mong ước mọi người sẽ nhớ tới mình đúng như Trương Ba của ngày xưa, với niềm tin sự sống vẫn tiếp tục và những điều tốt đẹp sẽ nảy mầm, sinh sôi, đâm hoa kết trái trên cõi đời này. Và đúng là Trương Ba đã ra đi nhưng cái chết ấy lại là bắt đầu của sự bất tử hình ảnh Trương Ba, lẽ sống cao đẹp của Trương Ba: Tôi đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà rẫy cỏ... Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu... Đoạn kết đầy chất thơ và có dư ba với hình ảnh của sự sống vẫn nảy nở và sự bất tử của linh hồn trong sự sống, trong lòng người. Hành động chấp nhận cái chết, trả lại xác cho anh hàng thịt của hồn Trương Ba là một hành động đúng đắn, dũng cảm và đạo đức. Từ tư tưởng triết lí về quan hệ giữa thể xác và linh hồn của truyện cổ dân gian, Lưu Quang Vũ đã đi đến một quan niệm đúng đắn về cách sống: hãy sống chân thật là mình, không giả dối hay vay mượn kiểu sống của ai, hãy sống vì mọi người, vì hạnh phúc tôt đẹp của con người. Trương Ba chết nhưng hồn Trương Ba vẫn sống, sống trong tình cảm của mọi người, sống trong sự sống mà không cần mượn đến thân xác của người khác.

Ở phần cuối của vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, người đọc nhận thấy hành động của nhân vật Trương Ba hết sức phù hợp với hoàn cảnh trớ trêu mà ông ta đang lâm vào một cách bi kịch. Lời nói của Trương Ba vói những độc thoại nội tâm rất phù hợp với tính cách của nhân vật khi đã bị nhiễm những thói hư tật xấu sau một thời gian trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt, đồng thời nó góp phần thúc đẩy bước phát triển của xung đột kịch đến chỗ cần giải quyết.

Phân tích bi kịch của Trương Ba 37

Hồn Trương Ba,da hàng thịt là một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch đặt ra nhiều vấn đề nóng bỏng của xã hội lúc đó-thời điểm những năm tám mươi của thế kỉ XX. Lưu Quang Vũ đã khéo léo mượn lại một tích truyện dân gian cũ để đan cài vào đó những suy nghĩ,quan niệm,triết lí nhân văn mới mẻ và sâu sắc.

Câu chuyện bắt đầu từ khi cuộc sống của Trương Ba bắt đầu tái sinh dưới thân xác anh hàng thịt. Với truyện cổ tích, đó là một kết thúc có hậu và Trương Ba tiếp tục hạnh phúc với hình hài và thân xác mới. Tuy vậy, dưới con mắt của Lưu Quang Vũ,hiện thực cuộc đời được tái hiện theo đúng cách mà nó tồn tại. Vì thế mới nảy sinh một bi kịch mới, đó là bi kịch của một tâm hồn thanh cao,trong sáng lại phải sống chật chội trong thân xác của một anh chàng thịt phàm phu tục tử,thô lỗ,bản năng. Tuy vậy, sau ba tháng trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt, với những lí lẽ đầy cám dỗ của thân xác,tâm hồn thanh cao của Trương Ba cũng có lúc bị tha hóa,phải làm những điều trái với tư tưởng, đạo lí của mình để thỏa mãn thân xác. Đó chính là bi kịch nội tại của nhân vật.

Sống trong xác anh hàng thịt, Trương Ba nhận thấy mình ngày càng bị tha hóa và đau khổ hơn là hồn Trương Ba không thể giải quyết được mâu thuẫn đó. Bi kịch được đào sâu,tạo xung đột qua các đoạn đối thoại.

Đầu tiên là cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác. Xác-bằng những lí lẽ đầy cám dỗ và những chứng cứ xác thực đã làm cho hồn thấy rằng sự tồn tại của nó cũng có cái thú vị. Đó là cảm giác khát thèm xác thịt, cảm giác khát thèm miếng ăn, sự đắc thắng trước bạo lực. Xác anh hàng thịt cũng sắc sảo không kém khi chỉ ra: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người sống phải vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác”. Những câu cảm thán ngắn, dồn dập:” Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch,thẳng thắn! ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo; Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không cs ý nghĩa gì hết,không có tư tưởng,không có cảm xúc…!

Bi kịch ấy vẫn chưa dừng lại. Tuy nhiên, qua lí lẽ của anh chàng hàng thịt, tác giả cũng hàm ý rằng, thể xác cũng có tiếng nói riêng. Đó là tiếng nói của bản năng, của đam mê, dục vọng đời thường. Vì thế, con người phải có khát vọng sống thanh cao nhưng cũng không thể tách hồn khỏi xác vật chất đời thường. Đó cũng là sự mâu thuẫn giữa khát vọng và bản năng con người.

Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riền của mình đã khiến Hồn Trương Ba đã cảm thấy không thể chịu nổi. Và hồn đã quyết không thể khuất phục xác được nữa. Hồn Trương Ba đã phản kháng quyết liệt:” Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!. Đây là lời đối thoại có tính chất quyết định dẫn đến hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

Qua bi kịch của hồn Trương Ba, nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến những thông điệp đến người đọc. Đó là con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra rằng, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.

Màn kết, Trương Ba trở lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch, hóa thân vào các sự vật thân thương và tồn tại vĩnh cửu bên người thân. Cuộc sống trở lại quy luật tuần hoàn của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan, đồng thời gửi đến cho người đọc thông điệp và sự chiến thắng của cái Thiện cái Đẹp và sự sống đích thực.

Từ tích truyện cổ dân gian, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một vở kịch có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc một thông điệp sâu sắc về triết lí sống. Tính đa tầng, đa nghĩa, đã thanh trong vở kịch này là một sáng tạo mới của Lưu Quang Vũ. Chính sự đa hiệu ấy đã làm nên sức hấp dẫn và nguồn sống dạt dào cho vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt!

Phân tích bi kịch Trương Ba 38

Lưu Quang Vũ là người nghệ sĩ đa tài, không chỉ viết văn, làm thơ mà Lưu Quang Vũ còn là nhà soạn kịch tài năng bậc nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam. Trong những tác phẩm kịch của mình, Lưu Quang Vũ thường hướng đến những vấn đề xã hội nóng bỏng, qua đó thể hiện những quan niệm sâu sắc về đời người, kiếp người.Trong đó tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch nổi tiếng nhất khi bàn đến bi kịch của con người khi phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.

Vở kịch xoay quanh nhân vật trung tâm là Trương Ba, vì sự tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu nên Trương Ba bị chết oan, để sửa sai Nam Tào đã nghe theo lời khuyên của Đế Thích, để cho hồn Trương ba nhập vào xác người hàng thịt. Tuy nhiên, từ lúc sống nương nhờ trong thân xác của người hàng thịt, Trương Ba phải đối mặt với bao bi kịch cay đắng.

Trước hết, bi kịch của Trương Ba là bi kịch bị tha hóa. Trương Ba vốn là người làm vườn hiền lành, tốt bụng có lối sống trong sạch nhưng từ khi sống trong xác của anh hàng thịt Trương Ba dần thay đổi, dần trở nên bạo lực, ham vật chất và có những cảm xúc không đúng đắn khi ở bên vợ người hàng thịt “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại”… Cũng có lúc vì quá tức giận mà Trương Ba đã mượn sức của người hàng thịt để đánh con trai đến “tóe máu mồm máu mũi”.

Trương Ba cảm thấy đau khổ hơn khi ông tự ý thức được sự thay đổi của bản thân và tự cảm thấy xấu hổ. Trương Ba dần trở nên tha hóa vì phải sống trong môi trường xô bồ, bát nháo, nhiều thị phi của người hàng thịt, mặt khác tuy chỉ là thể xác âm u đui mù nhưng xác người hàng thịt lại có tính cách, nhu cầu riêng và có sức mạnh để chi phối Trương Ba thực hiện những nhu cầu đó cho mình.

Trong cuộc đối thoại với xác người hàng thịt, Trương Ba đã vô cùng đau đớn khi phải sống cuộc sống không phải của mình “ Không. Không! Tôi không muốn sống như thế nào mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải cho tôi lắm rồi”. Đó là sự day dứt, đau khổ của một con người bị tha hóa và nhận thức được sự tha hóa của chính mình.

Bi kịch của Hồn Trương Ba được đẩy lên đỉnh điểm trong cuộc đối thoại với xác người hàng thịt và với những người thân. Đó là bi kịch của con người bị từ chối. Trước những thay đổi nhanh của Trương Ba, người vợ của ông đã vô cùng buồn bã và muốn bỏ đi để mặc Trương Ba với mối quan hệ không rõ ràng với vợ người hàng thịt “ông đâu còn là ông đâu, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.

Cái Gái, người cháu luôn yêu thương Trương Ba cũng kiên quyết chối bỏ người ông hiện giờ xuất hiện trước mặt nó, tâm hồn giản đơn của đứa trẻ cũng nhận biết những sự thay đổi từ Trương Ba, bởi người ông hiền dịu, quan tâm trước đây của nó không có đôi bàn tay giết lợn, bàn chân to bè như cái xẻng cùng những hành động vụng về làm gãy chồi non của cây sâm quý mới ươm hay làm gãy chiếc diều của cu Tị. Thậm chí cái Tị còn gọi Trương Ba là lão đồ tể, xua đuổi Trương Ba với thái độ quyết liệt “ Ông xấu lắm, ác lắm. Cút đi! Lão đồ tể, cút đi”.

Chị con dâu là người hiểu và kính trọng Trương Ba nhất cũng không tránh khỏi những thất vọng khi thấy thầy mỗi ngày một khác đi, dù biết thầy của bây giờ khổ hơn xưa nhiều lắm nhưng trước cảnh gia đình sắp tan hoang chị con dâu đã không giấu được sự thất vọng khi … mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”

Bác Trưởng Hoạt cũng không muốn chơi cờ với Trương Ba nữa vì nếu trước đây nước cờ của Trương ba thoáng đạt, linh hoạt thì giờ đây nước cờ của Trương Ba cũng ti tiện như chính con người của anh hàng thịt. Trước sự thất vọng, từ chối của người thân, Trương Ba vô cùng đau khổ và mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh chớ trêu của thực tại vì không muốn sống bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo.

Bi kịch của Trương Ba còn là bi kịch của con người không được sống là mình, phải sống bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo. Được tiếp tục sống bên cạnh những người thương yêu nhưng Trương Ba phải thực hiện trách nhiệm của người hàng thịt với công việc giết lợn, bán thịt hàng ngày. Không những thế, xác người hàng thịt có sức mạnh có thể chi phối hành động, suy nghĩ của Trương Ba khiến cho ông sống không được là mình, dần đánh mất đi những phẩm chất tốt đẹp và làm cho những người thân xung quanh thất vọng, buồn bã.

Đến cuối cùng, Trương Ba đã lựa chọn cái chết để được sống là mình toàn vẹn, nhường cơ hội sống của mình cho xác người hàng thịt, trả lại cho vợ của anh ta người hàng thịt hoàn chỉnh, mang cơ hội sống đến cho cu Tị còn bản thân tạm biệt người thân, gia đình để được là mình, bảo vệ được những giá trị tốt đẹp.

Thông qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác người hàng thịt tác giả Lưu Quang Vũ đã đặt ra mối trăn trờ về quan hệ giữa thể xác và linh hồn, giữa nhu cầu vật chất và tinh thần bên trong một con người. Sự sống rất quý giá nhưng sống là mình, sống theo những giá trị tốt đẹp mà mình theo đuổi còn quý giá hơn. Để hạnh phúc con người cần dung hòa được những nhu cầu về vật chất và tinh thần.

Phân tích bi kịch Trương Ba 39

Nói đến bi kịch, đây là vấn đề nhân sinh muôn thuở trong cuộc sống của con người.
Đã có biết bao nhiêu tác phẩm chất chứa bi kịch của con người, và trong số đó không thể không kể đến “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ, một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Từ cốt truyện dân gian, một thể loại bao giờ cũng viên mãn với những cái kết có hậu, Lưu Quang Vũ đã lật ngược lại vấn đề trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” và mang đến những tư tưởng mới mẻ với triết lí nhân sinh sâu sắc.

Bi kịch là một trạng thái tiêu cực, tuyệt vọng, lâm vào đường cùng, là nỗi đau đớn tủi cực đến tột cùng nhưng không sao thoát khỏi được, nó xuất phát từ xung đột gay gắt giữa khát vọng của con người với thực tại. Thực tại chưa đủ điều kiện cho cá nhân thực hiện khát vọng, lý tưởng của mình nên rơi vào thất bại, thậm chí dẫn đến cái chết thảm thương. Trương Ba là nhân vật của bi kịch như thế. Ngay từ nhan đề của vở kịch đã ngầm chứa đựng một nghịch cảnh trớ trêu, một nghịch lý mang ý vị nhân sinh sâu sắc mà càng khám phá ta càng không khỏi rùng mình trước vấn đề tha hóa của con người đang gặm nhấm và bào mòn nhân cách.

Xung đột  kịch của “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là sự đối chọi gay gắt giữa thể xác và linh hồn mà đã đáng lẽ ra phải là một thể thống nhất trong mỗi con người . Nhưng ở đây linh hồn thanh cao của Trương Ba đang phải trú ngụ trong thân xác của anh hàng thịt mà đau đớn hơn nữa chính là hồn Trương Ba đang ngày càng bị xác lấn áp và sai khiến. Để rồi khi nhận ra mình đang dần bị tha hóa, Trương Ba đau khổ và thấy chán ghét chính bản thân mình. Nguyên nhân dẫn đến bi kịch này là bắt nguồn từ sự vô tâm và tắc trách của người nhà trời đã khiến Trương Ba chết một cách vô lý. Nhưng sự sửa sai oái ăm của Nam Tào và Bắc Đẩu khi nghe theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh trớ trêu vô lý hơn. Trương Ba trước đây là một người làm vườn “nhân hậu, trong sạch, thẳng thắn, có thú vui tao nhã trí tuệ là chơi cờ”  phải  sống nhờ trong thân xác của hàng thịt vốn “thô lỗ, phũ phàng, dung tục, thèm ăn ngon, thèm rượu thịt”.  Ý thức được xung đột, hồn Trương Ba dằn vặt đau khổ và mong muốn được tồn tại độc lập, thoát khỏi cái thân xác này. Xác hàng thịt được miêu tả như một biểu tượng đáng sợ của hoàn cảnh sống dung tục : hình dáng kềnh càng thô lỗ, cái dạ dày đòi hỏi “mỗi bữa ăn 8 – 9 bát cơm”, những ham muốn thấp kém mà bất cứ con thú nào cũng có được và cả những dục vọng xấu xa. Hồn Trương Ba luôn phủ nhận sự lệ thuộc của linh hồn vào xác thịt và coi xác thịt là vẻ bề ngoài không có ý nghĩa, “không có tiếng nói, không có tư tưởng, không có cảm xúc”, chỉ là “xác thịt âm u đui mù”. Nhưng xác thịt âm u đui mù ấy lại có sức mạnh ghê gớm, có khả năng điều khiển, sai khiến linh hồn thanh cao của Trương Ba. Lời lẽ ti tiện, trân tráo nhưng đầy sức thuyết phục của xác hàng thịt đã ngày một lấn át hồn Trương Ba, khiến hồn trở nên đuối lí, bế tắc và đành nhập trở lại xác hàng thịt trong tuyệt vọng.

Không dừng lại ở đấy, cao trào của bi kịch là khi Trương Ba bị cự tuyệt bởi những người thân. Đầu tiên là người vợ đã hơn mấy chục năm gắn bó. Với một trái tim vị tha nhân hậu, bà thấu hiểu và sót thương với hoàn cảnh bế tắc của chồng mình nhưng vẫn khó có thể đối diện với người chồng đang ngày càng trở thành một người khác, một nhân bản của thân xác đồ tể kia. Tiếp đến là người con dâu sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt nhưng cũng đã hiểu được hiện thực, “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần… có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”. Cái Gái cháu ông cũng đã phản ứng dữ dội quyết liệt nhất. Tâm hồn trong sáng ngây thơ của một đứa trẻ không chấp nhận những dàn xếp trái tự nhiên của thế giới thần tiên, không chấp nhận những thỏa hiệp của thế giới người lớn, không chấp nhận sự giả dối dung tục quái gở của cái gọi là “hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Sau đó, Lưu Quang Vũ đã để lại Hồn Trương Ba trơ trọi một mình tự độc thoại với nỗi đau khổ tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta”. Từ một người làm vườn khéo léo ngày xưa nay trở nên vụng về, thô lỗ, ham muốn những món như tiết canh, cổ hũ, khẩu đuôi theo khẩu vị của xác thịt, “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại” khi đứng cạnh vợ hàng thịt. Có thể nói thân xác dung tục của hàng thịt đã thực sự lấn át sự cao khiết của hồn Trương Ba. Một khi đã chấp nhận được  sống vay mượn, cuộc sống không phải của chính mình, vì sự đánh đổi cho một mưu cầu nào đó, con người rất khó thoát khỏi cái sự chi phối của hoàn cảnh sống ấy. Đi từ sự tuyệt vọng khi  đắng cay thừa nhận sự thất bại của linh hồn trước sự đồng hóa của thân xác đến sự phản kháng và thách thức: “Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày mà tự đánh mất mình? … Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!” Giọng điệu quyết liệt đã thể hiện sự vực dậy tinh thần, phản kháng và khao khát được tìm lại chính mình. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát. Lưu Quang Vũ đã thể hiện được nỗi đau khổ và giằng xé trong nội tâm nhân vật Trương Ba qua ngôn ngữ độc thoại với sự kết hợp giữa hình thức câu khẳng định, phủ định và nghi vấn. Lời thoại qua chát nhưng cũng đầy quyết liệt đã thể hiện sự đấu tranh trước bi kịch của bản thân, nó như một cách tự phản tỉnh trong nội tâm của Trương Ba mong muốn giữ lại được phẩm chất tốt đẹp của mình.

Vì không chấp nhận bi kịch “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, hồn Trương Ba đã quyết định châm hương gọi Đế Thích. Đứng trước bi kịch phải lựa chọn giữa từ sống và cái chết, Trương Ba đã chấp nhận được chết để trả lại xác cho anh hàng thịt. Bất chấp sự thuyết phục của Đế Thích, sự thật đau đớn của cái chết, Trương Ba kiên quyết không chấp nhận tấm bi kịch của một cuộc sống giả dối đáng xấu hổ. Cái chết của ông là do sự nhầm lẫn tai hại của người nhà trời, ông được hoàn hồn trong một thân xác khác cũng là xuất phát từ thiện ý sửa sai của họ. Nhưng theo ông, “Có những cái sai không thể sửa được. Chấp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm”. Từ đấy sự do dự bị đẩy lùi, bị xua tan. Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba tuy muộn màng nhưng thật có nhiều ý nghĩa. Con đường tự giải thoát, linh hồn đã nhìn thấy ánh sáng.Sự sống chỉ có ý nghĩa khi hồn được sống trong chính thân xác đích thực của mình. Nên Trương Ba đã chấp nhận cái chết vĩnh viễn để được sống là mình toàn vẹn, sống mãi trong lòng những người thân. Một cái chết làm sáng lên nhân cách cao đẹp của Trương Ba, thể hiện sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và sự sống đích thực.

Tác phẩm không chỉ khiến người đọc ngậm ngùi về bi kịch và khát vọng của nhân vật Trương Ba mà còn là thông điệp tư tưởng Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm. Được sống làm người thì quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Con người ta luôn đang trên đà chạy theo những giá trị bên ngoài, vật chất để rồi tự rơi vào chính cái bi kịch của bản thân. Sự sống chỉ thực sự sự có ý nghĩa khi con người người có sự thống nhất hài hòa giữa thể xác và linh hồn, giữa bản chất và biểu hiện, giữa bên trong và bên ngoài. Không thể có một tâm hồn thanh quýbên trong một thân xác thô phàm. Vì vậy con người phải luôn biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

Nhà phê bình Ngô Thảo đã từng nhận xét rằng: “Bóng ma của tài năng Lưu Quang Vũ đã trùm lên che mát cho cả một vùng sân khấu rộng lớn trải dài theo chiều dài đất nước trong một thập niên”

Phân tích bi kịch Trương Ba 40

Ai khi sinh ra được làm con người cũng mang sẵn trong mình cả phần linh hồn và thể xác, nhưng có khi sống đến trọn cuộc đời mình đã mấy ai đặt ra câu hỏi liệu ta đã được sống là chính mình hay chưa? Hay đang cố sống cho vừa lòng người khác? Làm thế nào để dung hòa hai phần thể xác và linh hồn ấy? Vươn tới sự cao khiết về linh hồn và khỏe mạnh về thể xác. Vấn đề này đã được Lưu Quang Vũ đặt ra từ những thập niên 80 của thế kỉ XX. Nhưng có lẽ đến khi nhắm mắt xuôi tay, ta vẫn chưa có câu trả lời thỏa mãn. Chính vị vậy “Hồn Trương Ba da hàng thịt” vẫn còn là vở kịch trăn trở lòng người. Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật hồn Trương Ba.

Tài năng kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện trên nhiều phương diện, tiêu biểu nhất là tài dựng cảnh và dựng đối thoại. Kịch tính căng ra trong những xung đột, những mâu thuẫn bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ hành động và ngôn ngữ nội tâm được diễn tả sống động, lời thoại thấm đẫm triết lí nhân sinh.

Đoạn trích có thể gọi là “thoát ra nghịch cảnh” là cảnh cuối, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm, đòi hỏi phải được giải quyết dứt khoát. Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, cả những người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Hồn Trương Ba cảm thấy không thể sống trong thân xác anh hàng thịt, không thế kéo dài “nghịch cảnh” này mãi được. Hồn muốn tách ra khỏi cái thân xác kềnh càng, thô lỗ. Nhà văn đã sáng tạo khi dựng lên đoạn đối thoại giữa hồn và xác để rồi trước sự giễu cợt, mỉa mai của xác, hồn Trương Ba càng trở nên đau khổ, bế tắc. Tấn bi kịch của Trương Ba bị đưa vào tình thế khó lựa chọn, có tính chất thách thức ghê gớm.

Đúng là “nghịch cảnh” trớ trêu. Lưu Quang Vũ đã dựng lên hai cuộc đối thoại đặc sắc (đối thoại giữa hồn và xác và đối thoại giữa hồn và Đế Thích) cùng những đối thoại hỗ trợ khác (hồn với người vợ, với cái Gái, với chị con dâu) để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba lên đến tận cùng từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh được phát biểu một cách sâu sắc, thấm thía, lầm nổi bậc tấn bi kịch tinh thần của hồn Trương Ba

Trước khi diễn ra cuộc đổì thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết. “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”.

Rõ ràng, hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với cái ước nguyện khắc khoải của hồn đã nói lên điều đó. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ đâu còn là một người làm vườn chăm chỉ, hết lòng thương yêu vợ con, quan tâm tới hàng xóm láng giềng như ngày trước. Ông Trương Ba được mọi người kính trọng đã chết rồi. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Người đọc, người xem càng lúc càng được thấy rõ điều đó qua các đối thoại và hồn Trương Ba càng lúc rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.

Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn hồn vẫn phải thừa nhận. Cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì…”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn cho là “phàm tục”. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”, …

Tất cả đều là sự thật. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. Không chỉ đau khổ, hồn còn xấu hổ trước những lời nói công khai của xác mà trước đó hồn đã cảm thấy mà không muốn nói ra, không muốn thừa nhận. Những đối thoại ngắn và dần dần là những lời thoại bỏ lửng cho thấy sự đuối lí của hồn trong cuộc đối thoại cùng xác.

Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ: Một bên đại điện cho sự trong sạch, nhân hậu và khát vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh nghĩa con người và một bên là sự tầm thường, dung tục. Lưu Quang Vũ đã đưa ra một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người. Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý thức, tự chiến thắng bản thân. Màn đối thoại này cho thấy: Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục ấy đồng hoá. Không chỉ đừng lại ở đó, tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người. Điều này làm ta nhớ đến một câu nói “Những thói xấu ban đầu là người khách lạ qua đường, sau đó là người bạn thân ở chung nhà và kết cục trở thành ông chủ khó tính”. Đó là chân lí giản đơn của cuộc sống mà Lưu Quang Vũ đã gửi đến bạn đọc trong màn đối thoại này.

Nỗi đau khổ của Hồn Trương Ba khi tìm về những người thân trong gia đình cũng được dàn dựng công phu hết sức bi đát. Gia đình luôn là mái ấm, là nơi nâng đỡ con người sau những mỏi mệt và vấp ngã của cuộc sống. Là nơi dang rộng vòng tay đón ta trở về dù cho ngay khi mọi cánh cửa của cuộc đời đã đóng, khép. Trương Ba cũng tìm về với những người thân yêu sau cuộc đối thoại đầy đau khổ, bế tắc với xác hàng thịt. Nhưng càng tìm về lại càng thấy mình đi xa hơn, càng tìm về lại càng đau khổ, tuyệt vọng. Đó là tâm trạng của hồn Trương Ba khi đối thoại với những người thân.

Người vợ mà ông rất mực vêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được… còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Còn gì đau đớn hơn khi người vợ, người gần gũi nhất với ông cũng đã chán. Bởi chính ông đã mang đến cho bà những đớn đau, buồn tủi. Và vì hiểu ông, thương ông nên bà đã nhường ông cho cô vợ hàng thịt nhưng những mâu thuẫn cứ ngày một nhiều để rồi bà nản lòng muốn bỏ đi. Điều đó càng làm Trương Ba thấy đau khổ hơn.

Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó phản ứng quyết liệt và dữ dội. Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Nó một mực khước từ tình cảm của ông: Tôi không phải là cháu ông. Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cụ Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó “ông nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.

Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông ‘khổ lắm, khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… Mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”.

Không phải ngẫu nhiên mà tác giả không cho anh con trai thực dụng của Trương Ba vào trong màn đối thoại với người thân. Bởi tất cả những người thân yêu đối thoại cùng hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu, nhận ra sự đổi thay của Trương Ba mà họ đành bất lực. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng “cũng không khổ bằng bây giờ”.

Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Mỗi lời nói của người thân trong gia đình như mũi dao găm vào trái tim đang đau đớn bế tắc của Trương Ba, để giờ đây còn đẩy Trương Ba vào sự tuyệt vọng khôn cùng. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào. Đặc biệt sau hàng loạt câu hỏi có vẻ tuyệt vọng của chị con dâu: “Thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”. Khi nghe hết những lời nói tự đáy lòng của chị con dâu, đương nhiên hồn không thể chịu đựng thêm được nữa. Màn đối thoại với người thân của Trương Ba khiến mâu thuẫn bị đẩy lên đỉnh điểm đòi hỏi phải được giải quyết. Đó là lần cuối cùng hồn Trương Ba độc thoại nội tâm để tự mình cứu mình, quyết định tìm đường thoát khỏi tấn bi kịch cuộc đời.

Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ. Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

Hồn trương Ba luôn khát khoa được giải thoát khỏi thân xác người khác. Khi gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái cảnh phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” nữa và muốn được là mình một cách toàn vẹn “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Qua lời thoại này của nhân vật Trương Ba, Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm vào đó thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi. Và ngược lại, khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đỗ lỗi cho thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn vì thể xác chính là cái bình chứa đựng linh hồn.

Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên hồn Trương Ba nên chấp nhận vì “thế giới vốn không toàn vẹn, dưới đất, trên trời đều thế cả”. Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên nay đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”. Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.

Lòng tốt hời hợt thì chẳng đem lại điều gì thực sự có ý nghĩa cho ai mà có khi đó còn là sự vô tâm, tệ hại hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, vào bi kịch! Đế Thích đã một lần sai khi giúp Nam Tào, Bắc Đẩu sửa lỗi mà cho hồn Trương Ba sống trong xác anh hàng thịt. Bi kịch lại nối tiếp bi kịch khi Đế Thích định tiếp tục sửa cái sai của mình và Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác, tệ hại ít hơn(theo suy nghĩ của Đế Thích) là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, mà theo ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc, tức lão lí trưởng và đám trương tuần, không chấp nhận cái cuộc sống mà theo ông là còn khổ hơn là cái chết. “Đâu phải cái sai nào cũng sửa được” nên Trương Ba kêu gọi Đế Thích hãy sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị.

Đế Thích cuối cùng cũng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: “Con người hạ giới các ông thật kì lạ”, thậm chí Đế Thích còn cho Trương Ba hiểu “Ngọc Hoàng còn không được sống là chính mình”, thì Trương Ba có gì phải băn khoăn về cuộc sống hiện tại. Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người, được sống đúng với mình quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước khi đi đến quyết định.

Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Tuy vậy, chỉ cần nhấn mạnh ở đây vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cũng là sự hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.

Cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết, về cả những triết lí nhân sinh. Hai lời thoại của hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí.

Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc rối”, vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.

Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Dựng tả quá trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm. Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ.

Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hường thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cánh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn”.

Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán.

Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi. Vở kịch không chỉ nói đến sự hoà hợp và ý thức đạo lý về phần hồn và phần xác con ngời mà còn đề cao cuộc đấu tranh cho sự hoàn thiện nhân cách con ngời. Qua những lời đối thoại ngắn gọn, súc tích, các nhân vật trong thế giới dân gian xa cũ trở nên gần gũi, quen thuộc, nh đang cùng tham dự với cuộc sống đương đại của chúng ta. Vở kịch không chỉ đề cập đến chuyện của một thời mà còn đề cập đến chuyện của muôn đời. Đó là triết lý nhân sinh về lẽ sống, lẽ làm ngời.

 Lưu Quang Vũ đã mãi mãi ra đi trong một tai nạn giao thông đầy thương tâm. Khoảng trống mà nhà viết kịch tài ba ấy để lại trong nền sân khấu kịch trường Việt Nam là không thế lấp đầy. Vở kịch cuối cùng được Lưu Quang Vũ đặt tên là Chim sâm cầm không chết. Với tất cả những gì để lại cho đời thì mãi mãi Lưu Quang Vũ không chết. Từ bấy đến nay, “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” và gần 50 vở kịch khác của Lưu Quang Vũ vẫn được dàn dựng và công diễn. Những triết lí về cuộc đời, về con người, về xã hội… đặt ra trong các vở kịch luôn có ý nghĩa với mọi người, mọi thời.

Màn đối thoại giữa Trương Ba và xác Hàng Thịt 41

Sinh ra trong thời kỳ lịch sử nhiều biến động, động lực xui khiến Lưu Quang Vũ làm thơ, sáng tác kịch chính là “muốn được tham dự và dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến”. Với bản lĩnh của một người cầm bút luôn khao khát được là mình, viết những gì trái tim mình đau nhói, Lưu Quang Vũ không ngần ngại lách sâu ngòi bút vào hiện thực để phản ánh những vấn đề thời sự mang ý nghĩa triết lí và có tầm phổ quát. Qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, tác giả đã ngầm gửi gắm những thông điệp hết sức sâu sắc về mối quan hệ giữa hồn và xác.

Do sự tắc trách của Nam Tào và Bắc Đẩu mà Trương Ba phải chết oan, Đế Thích đã giúp Trương Ba sống lại bằng cách nhập hồn ông vào xác hàng thịt. Thế nhưng, điều đó lại vô tình đưa Trương Ba vào một nghịch cảnh khác khi linh hồn mình phải trú nhờ thân xác người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác hàng thịt: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!”. Lời thoại của hồn là các câu cảm thán ngắn, lời văn dồn dập, hối thúc thể hiện tâm trạng căng thẳng, bức bách đau khổ, dằn vặt đến cùng cực, không thể chịu đựng sự dày vò hơn được nữa. Nghe hồn tự độc thoại, xác lên tiếng ngay: “Ông không tách ra khỏi tôi được đâu”. Trong khi hồn vừa phủ định vừa khinh miệt, cho rằng xác thịt “không có tiếng nói” mà chỉ là “cái vỏ bên ngoài” không có tư tưởng, không có cảm xúc, xác khẳng định lại vị trí và tác động của mình: “Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy”. Sau những lời khinh miệt của xác, hồn lại tiếp tục châm chọc: “Khi ông ở bên nhà tôi... Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại”. Với bằng chứng cụ thể, hồn xấu hổ và kiên quyết phủ định: “là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày”. Nếu như hồn liên tục chối bỏ thì xác lại ngang nhiên thừa nhận Trương Ba cũng đầy thú tính, có những nhu cầu thân xác và hưởng lạc. Từng bước, xác dẫn dắt hòn vào sự thật không thể phủ nhận: hồn ít nhiều đã bị vấy bẩn, tha hóa bởi dục vọng của thân xác. Lúc này, lời thoại của hồn ngập ngừng như bị hụt hơi: “Ta... ta đã bảo mày im đi”. Hồn bị dồn vào chân tường để buộc phải công nhận sự chế ngự của thân xác. Xác nhấn mạnh vào sự thật mà hồn đang muốn trốn chạy, muốn phủ nhận, đẩy tình huống kịch lên đến cao trào. Hồn chỉ còn cố gắng biện minh, chống chế cứu vãn: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Xác còn dừng những lời lẽ sắc lẹm để vạch trần nỗi đau đang tấy mủ trong hồn. Đó là nhờ sức mạnh của xác mà hồn có thể “tát thằng con tóe máu mồm máu mũi”. Biết hồn đã bị dồn vào thế bí, xác ra giao kèo thỏa hiệp để chung sống, dụ hồn vào “trò chơi tâm hồn”. Đến lúc này, hồn tuyệt vọng chỉ còn biết than trời bất lực.

Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ: một bên đại diện cho sự trong sạch, khát vọng sống thanh cao và một bên là sự tầm thường, dung tục. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt đang tồn tại trong một con người, từ đó nói lên khát vọng hướng thiện và tầm quan trọng của việc tự ý thức, chiến thắng bản thân. Không chỉ thế, tác giả còn cảnh báo: khi con người phải sống trong sự dung tục, tầm thường thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, thắng thế và lấn át, tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ bên trong con người.

Qua màn đối thoại giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ cũng gửi gắm những quan niệm mới mẻ về con người: con người là một thể thống nhất giữa hồn và xác, bên ngoài và bên trong, cái cao cả và cái trần thế. Vì thế, cuộc sống con người chỉ có ý nghĩa nếu dung hòa được giữa đời sống vật chất và tinh thần. Nếu đề cao tinh thần mà phủ định những nhu cầu bản năng là phi nhân bản, phản nhân văn. Còn khi chỉ chạy theo những dung vọng tầm thường, con người sẽ tự hạ thấp mình xuống lối sống dung tục, bản năng.

Màn đối thoại giữa Trương Ba và xác Hàng Thịt 42

Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ. Từ năm 1978 cho đến khi mất, ông là biên tập viên tạp chí Sân khấu. Lưu Quang Vũ qua đời cùng vợ con trong một tai nạn giao thông thảm khốc, giữa lúc tài năng đang chín rộ. ông được đánh giá là một trong những nhà viết kịch tài năng nhất của văn nghệ Việt Nam hiện đại, là người có công lớn góp phần vực dậy cả một nền sân khấu lúc đó đang có nguy cơ tụt hậu. Kịch của Lưu Quang Vũ hấp dẫn chủ yếu bằng xung đột trong cách sống và quan niệm sống, qua đó khẳng định khát vọng hoàn thiện nhân cách con người. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt là tác phẩm gây tiếng vang nhất của Lưu Quang Vũ, được tác giả hoàn thành năm 1984, công diễn lần đầu năm 1987. Đoạn trích thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, đặt vấn đề về lẽ sống con người qua nỗi khổ bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo, qua mâu thuẫn cực độ giữa hồn và xác, vở kịch chứa đựng những vấn đề triết lí nhân sinh: sống nhờ, sống giả, sống không phải là mình, đó là bi kịch lớn nhất của một con người. Để chuyển tải triết lý nhân sinh cao cả ấy, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lên cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt mang đầy tính ẩn dụ sâu sắc.

Ông Trương Ba là một người làm vườn, khoảng 50 tuổi, sống trung thực, ngay thẳng và giỏi đánh cờ. Tính tình ông nhân hậu, sống chan hòa với mọi người. Chỉ vì do sự cẩu thả và tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu trên thiên đình mà ông Trương Ba phải chết oan. Tiên cờ Đế Thích bực bội và vì tiếc một người có tài chơi cờ nên đã hóa phép cho hồn Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt vừa mới chết một ngày. Hồn Trương Ba từ đó sống trong thân xác của anh hàng thịt. Ai cũng ngỡ đó là cách giải quyết thuận lợi cho Trương Ba, để cho con người hiền lành này tiếp tục sống êm ấm trong gia đình mình. Nhưng trớ trêu thay, chính sự tái sinh trong xác người khác lại là điều bất hạnh của Trương Ba. Trong chính gia đình mình, ông bị người thân chê trách, xa lánh và coi thường. Hồn Trương Ba bị dồn vào sự đau khổ nhất: tự mình ý thức được sự tha hóa của mình, bị cường hào nhũng nhiễu, nhìn thấy con trai hư hỏng mà không dạy dỗ được,... Tất cả những điều đó đã khiến ông không thể chịu đựng được nữa, không thể khuất phục trước thể xác, trước những cái xấu xa và tự đánh mất mình. Hồn Trương Ba không thể sống chung với xác anh hàng thịt, tách ra khỏi thân xác để tranh luận.

Cuộc tranh luận giữa một bên là hồn, một bên là xác diễn ra rất dữ dội và không có sự thỏa hiệp. Xác hàng thịt tỏ ra lấn lướt hồn Trương Ba, sỉ nhục hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba thấy đau khổ đến cực độ và thấy không thể chịu đựng được hơn nữa. Xác hàng thịt muốn khẳng định, vị trí, vai trò và tầm quan trọng của mình: Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, người thân... Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi... Xác tìm cách thỏa hiệp bằng cách nêu cụ thể những nhu cầu tự nhiên mang tính bản năng của con người: Khi ông ở bên nhà tôi... Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng nực, cổ nghẹn lại... Đêm hôm đó, suýt nữa thì... [...] Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì ? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao ? ... Còn hồn Trương Ba lại phủ nhận vai trò của thể xác mà khẳng định sự thanh sạch của tâm hồn khác xa với những thủ tục thấp hèn khác: Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc {. .] Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt; Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn... Lí lẽ của đôi bên đưa ra có những điểm đúng đắn khó bề bác bỏ khiến việc thắng bại không thể nào giải quyết được một cách nhanh chóng, đơn giản.

Do phải sống nhờ thể xác của anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của thể xác. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần bị nhiễm những thứ tầm thường của xác anh hàng thịt. Ý thức được điều đó, linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích nên đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ve vãn hồn Trương Ba thỏa hiệp với mình vì theo xác hàng thịt thì chẳng còn cách nào khác, cả hai đã hòa vào nhau làm một rồi. Trước những lí lẽ ti tiện của xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, mắng mỏ xác hèn hạ nhưng đồng thời cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch cảnh mà mình đang lâm vào, đành nhập trở lại xác thịt trong tuyệt vọng.

Xây dựng hai nhân vật đặc biệt này, Lưu Quang Vũ đã sử dụng biện pháp đối lập để tô đậm sự khác nhau cơ bản giữa hồn người này và xác người kia. Ông Trương Ba vốn là một người làm vườn chất phác, hiền lành, nho nhã. Hồn của Trương Ba biểu tượng cho sự thanh nhã, cao khiết, trong sạch, đạo đức. Hồn là phần chân chính của mỗi con người. Ngược lại, anh hàng thịt với thân xác vạm vỡ, kềnh càng, thô lỗ,... biểu tượng cho bản năng, cho những ham muốn trần tục. Đây thực ra là một ẩn dụ, xác anh hàng thịt ẩn dụ về thể xác con người, còn hồn Trương Ba ẩn dụ về linh hồn của con người. Tác giả đã sáng tạo ra một tình huống ẩn dụ có sức lôi cuốn, gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc: con người không thể sống không là mình, không thể sống giả dối hay vay mượn cuộc sống của người khác. Con người không chỉ sống bằng thể xác và còn phải sống bằng linh hồn, tình cảm,... Độ vênh của linh hồn và thể xác sẽ là bi kịch.

Cuộc đối thoại giữa hồn và xác chính là xung đột diễn ra trong bản thân nhân vật, hai phần trong một con người. Giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba có sự đối lập giữa nhiều yếu tố như tốt – xấu, thanh cao - phàm tục, bản năng - lý trí,... Qua đây, Lưu Quang Vũ muốn khẳng định: không gì hạnh phúc bằng khi được sống đúng là mình, sống với những gì mình đã có. Như thế cuộc đời sẽ thanh thản, nhẹ nhàng và ý nghĩa biết bao. Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được. Cuộc sống chỉ có giá trị khi con người được trở về đúng bản chất của mình, được sống trong một cơ thể thống nhất.

Màn đối thoại giữa Trương Ba và xác Hàng Thịt 43

“Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim mọi người” Nếu mỗi con người sinh ra để làm tròn nghĩa vụ ấy cho đến suốt cuộc đời thì Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) nhà biên kịch lớn của nền văn học Việt Nam đã làm lên điều ấy bằng tác phẩm “Hồn Trương Ba da hàng thịt “chỉ trong vòng một thời gian ngắn ngủi của đời người từ năm 1981 đến 1983 đặc biệt là với việc trả lời cho câu thơ mình dường như đã bỏ ngỏ “Có những lúc tâm hồn tôi rách nát /… Tôi biết làm gì, tôi biết đi đâu?” qua việc xây dựng cuộc đối thoại của Hồn Trương Ba với xác và người thân tạo nên một xung đột kích mang thước đo chuẩn mực của kịch nói Việt Nam sau này:

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một câu chuyện không mấy tiêu biểu cho thi pháp cổ tích nếu đặt bên cạnh những Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Thạch Sanh... ta đã đọc.Tuy nhiên, nhìn từ góc nhìn tự sự, người ta cũng dễ dàng nhận diện những yếu tố cơ bản tạo nên sắc thái cổ tích cho tác phẩm: Đó là nhân vật, tình huống, diễn biến cốt truyện, phép màu mang đến may mắn cho con người... Và mặc dù câu chuyện dân gian này còn phảng phất dấu ấn sáng tác bởi các cụ đồ Nho, nhân vật vua cờ Đế Thích vẫn có thể được coi là một kiểu “Bụt”, “Tiên” giáng thế để cứu vớt, bù đắp cho những mất mát, đau thương cho trần giới. Và với một kiểu nhân vật của mô-típ những con người hiền lành, Trương Ba vốn là một người làm vườn, một kỳ thủ nhưng lại lâm vào tình huống éo le và kì lạ: đang sống hạnh phúc với gia đình bỗng dưng chết oan rồi được sống lại nhưng phải sống nhờ một thân xác khác, xác người hàng thịt với một bản tính hoàn toàn đối lập. Sự chắp vá này mở đầu cho quá trình xung đột gay gắt giữa hồn và xác. Trương Ba vô cùng đau khổ vì linh hồn thanh cao của ông phải sống lệ thuộc vào cái xác mà ông xem là âm u đui mù, không có tư tưởng, không có cảm xúc. Sự lệ thuộc này làm cho ông dần dần trở thành con người khác, đánh mất những phẩm chất vốn có. Sự thay đổi đó đúng như Huấn Cao đã từng nói với quản Ngục khi cái tốt cái đẹp khải tồn tại sống cùng với cái xấu. “... khó giữ thiên lương cho lành vững, rồi cũng đến nhem nhuốc cả đời lương thiện”

Trọng tâm của lớp kịch là cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác Trương Ba. Do đó lời thoại ở đây vừa có thể coi là độc thoại vừa có thể coi là đối thoại. Nó là một lời thoại đặc biệt, vừa chứa đựng mâu thuẫn vừa mang tính hành động, thúc đẩy tình huống kịch phát triển đến mức cao nhất. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là đỉnh cao tư tưởng triết lý của vở kịch. Cuộc đối thoại đó cùng với thái độ và những lời đối thoại của những người ruột thịt thân yêu nhất đã dẫn đến hành động quyết liệt - kiên quyết chối từ một cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia của Trương Ba. Lưu Quang Vũ đã để cho nhân vật của mình chọn một con đường tưởng như tiêu cực nhưng hết sức cần thiết và đúng đắn: Rời bỏ cõi đời này để được đúng là mình, để giữ trong ký ức những người thân kỷ niệm tốt đẹp về mình. Có nhà nghiên cứu cho rằng “cuộc vật lộn giữa “Hồn Trương Ba” và “Da Hàng thịt” thực chất là cuộc giao tranh giữa hai linh hồn trong một thân xác”.

Sau mấy tháng sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với những người thân trong gia đình và tự xung đột với bản thân mình. Hồn ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy trào ra thành dòng độc thoại đầy nước mắt: “không, không, tôi không muốn sống như thế này nữa. Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi lắm rồi. Ta bắt đầu sợ mi, muốn rời xa cái thân thể kềnh càng thô lỗ ngay tức khắc”.

Bước vào đến cảnh 7 hình ảnh Trương Ba hiện lên của một con người đang ngồi “ôm đầu” đã cho người đọc thấy hình ảnh của một con người cô độc hiện lên trước màn ảnh đầy sự đau khổ xâm lấn lại kết hợp cùng lúc của 3 phủ định từ liên tiếp “không…không…không” bằng một giọng điệu dứt khoát một lời độc thoại đầy khẩn thiết khẳng định việc muốn rời bỏ thân xác anh hàng thịt. “Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi lắm rồi” đầy chán nản, ngán ngẩm Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Lời thoại của Hồn là các câu cảm thán, ngắn, lời văn dồn dập, hối thúc. Thể hiện tâm trạng căng thẳng, bức bách đau khổ, dằn vặt, quẫn bách đến cùng cực, không thể chịu đựng dày vò hơn được nữa nên vụt đứng dậy. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng Nghe Hồn tự độc thoại nói, và đang tự dày vò mình Xác lên tiếng ngay: “Vô ích” chính xác đã chủ động khiêu chiến chiến nhằm dập tắt hoàn toàn khát khao của Trương Ba: “ông không tách ra khỏi tôi được đâu”.

Đang trong sự bế tắc vô vọng ấy Trương ba chợt nghe thấy những lời nói từ xác chỉ biết đáp lại bằng chính sự kinh ngạc vốn có của mình: “A, mày cũng biết nói kia à?” Trương Ba ngạc nhiên, trả lời lại bằng cách đưa ra một câu hỏi sau đó liên tục phản đối xác giọng vẫn còn khinh bỉ. Cách xưng hô mày ta thể hiện rõ sự khinh bỉ, miệt thị đối với xác “Vô lý! Mày không thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù..” Ban đầu buông ra những lời nói mạt xác.Thấy Hồn vừa phủ định vừa khinh miệt mình, Xác khẳng định lại vị trí và tác động, suy nghĩ của mình: “Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến”,và “sức mạnh ghê gớm, lấn át cả linh hồn cao khiết”. Hồn tiếp tục phủ định tiếng nói của Xác: “Mày chỉ là vỏ bề ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc”.

Nghe thấy Hồn đánh giá mình thấp kém, Xác hỏi lại đầy thách thức, giọng thay đổi linh hoạt đầy châm chọc “Có thật thế không?”. Câu hỏi của Xác khiến cho Hồn chùn bước và đuối lý, buộc phải dần nhượng bộ, xác nhận sự ảnh hưởng của Xác: “nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…”

Lại bị Hồn tiếp tục khinh miệt, Xác nhận thức sự lợi lí của mình, nên chuyển sang châm chọc, mỉa mai: “Tất nhiên, tất nhiên.”đầy mỉa mai:” Khi ông ở bên nhà tôi… Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại… “Đêm hôm đó, suýt nữa thì…” Đó là cảm giác “xao xuyến” “lâng lâng cảm xúc” mà trước đây Hồn cho là “phàm”. Với bằng chứng cụ thể, Hồn xấu hổ và kiên quyết phủ định: “là mày chứ, chân tay mày, hơi thở mày”. Xác vừa khẳng định vừa hỏi xoáy lại để tấn công tiếp: “Thì tôi có ghen đâu! Ai lại đi ghen với chính thân thể mình…nhưng ta nên thành thực: Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Để thỏa mãn tôi, chẳng nhẽ ông không tham dự chút đỉnh gì?” Như vậy Xác dẫn dắt Hồn vào sự thật không thể phủ nhận – Hồn ít nhiều đã bị vấy bẩn, tha hóa bởi dục vọng của thân xác. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện.Lí lẽ của Xác khơi trúng điểm đen mà lâu nay vì trú ngụ trong Xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba trong khiết đã bị hóa màu. Hồn đuối lý bất lực bèn la to, ra lệnh áp chế thể xác để che giấu sự lúng túng, bối rối, do dự, yếu thế của mình “Ta…ta… đã bảo là mày im đi!” Lời thoại của Hồn ngập ngừng lí lẽ như bị hụt hơi. Hồn bị dồn vào chân tường để buộc phải công nhận sự chế ngự của Xác. Xác khẳng định một lần nữa: “Hai ta đã hòa làm một rồi”. Xác nhấn vào sự thật đau đớn mà Hồn đang muốn trốn chạy, muốn phủ nhận, đẩy tình huống kịch lên cao trào. Hồn chỉ còn Cố gắng biện minh chống chế cứu vãn: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”. Xác vẫn không buông tha, tấn công bằng sự mỉa mai “Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!”. Trước sự thực không sao chối cãi, Hồn phản ứng tiêu cự bằng cách “bịt tai lại”. Đó là nỗ lực chối bỏ trong tuyệt vọng hoàn toàn bế tắc. Xác tiếp tục dùng lời lẽ hiểm hóc sắc lẹm như dao mổ, phanh trần nỗi đau đang tấy mủ trong Hồn. Đó là nhờ sức mạnh của Xác mà Hồn có thể: “tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi”. Mặc dù cố bịt tai, nhưng khi nghe Xác nói như vậy Hồn phải lên tiếng chối bỏ “sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo”. Xác khôn ngoan biết là lỡ lời nên biện minh cho mình bằng những lí lẽ: “là hoàn cảnh” “cũng đáng được quý trọng”, không có tội. Hồn chỉ còn phản ứng yếu ớt: “Nhưng...Nhưng”Nhận biết Hồn bị dồn vào thế bí, Xác đưa ra giao kèo thỏa hiệp để chung sống, giọng ve vuốt mơn trớn xác chủ động đưa trò chơi tâm hồn: “Những lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều xấu ông cứ việc đổ tội cho tôi, để cho ông được thanh thản …miễn là…ông vẫn làm đủ mọi việc thỏa mãn những thèm khát của tôi: Xác sẽ “ve vuốt” Hồn bằng cách thông cảm với “những trò chơi tâm hồn”, nhận hết mọi điều xấu miễn là Hồn vẫn “làm đủ mọi việc để thỏa mãn thèm khát” của Xác. Nhận thức “lí lẽ ti tiện” của Xác, Hồn than như là tuyệt vọng, bất lực: Trời! đã là một sự chấp nhận số phận trong nỗi đau đớn khôn cùng muốn tìm đường thoát nhưng hoàn toàn vô vọng.

Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.

Quan cuộc đối thoại giữa hồn và xác, xác rõ ràng hiện lên với ưu thế của kẻ nắm giữ sự thắng thế, chứng tỏ được uy quyền chi phối khủng khiếp của nó với linh hồn, nó cũng cho thấy sự ngộ nhận về chính mình khi hồn cho rằng “Ta vẫn có một đời sống riêng trong sạch, nguyên vặn, thẳng thắn…” Linh hồn và thể xác vốn không tách rời được nhau, cuộc tranh đấu giữ hồn và xác là cuộc đấu tranh giữ cao cả và dục vọng, thấp hèn; giữa phần con và phần người. Đó chính là lời cảnh cáo sâu xa của Lưu Quang Vũ: Khi con người sống quá lâu trong môi trường dung tục ắt sẽ bị cái dung tục chi phối, không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng thì đừng đổ tội cho thân xác. Không thể tự an ủi mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn, do đó phải bảo vệ, hoàn thiện nhân cách con người đó là một vấn đề lớn đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội. Đố sẽ là cuộc đấu tranh dai dẳng khi mà con người vẫn còn tồn tại trong xã hội này.

Nếu Lưu Quang Vũ cho Trương Ba kết thúc cuộc đời mình trong sự bế tắc ở đó ta sẽ liên tưởng đến những cái kết trong thời đại của văn học Hiện thực phê phán mà Nam Cao đã viết lên:”Mồn hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không nói ra tiếng “, hay cái cảnh Chị Dậu chạy ra ngoài trời “tối đen như mực như cái tiền đồ của chị”..vv…. Nhưng bước sang một thời đại mới, và vốn dĩ Lưu Quang Vũ cũng không thuộc lớp nhà văn của Hiện thực phê phán của thời đại mặt trận dân chủ Hiện thực phê phán 30 – 45…… Nên cuộc đời Trương Ba tiếp tục được vẽ ra:

Không dừng lại chỉ là đoạn đối thoại ấy bi kịch nối tiếp bi kịch. Bi kịch thứ hai của Hồn Trương Ba là bi kịch không được người thân thừa nhân. Trương Ba không còn là mình nữa nên bị người thân xa lánh đẩy lên cao nỗi đau khổ vốn có của Trương Ba. Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba được đẩy lên khi đối thoại với những người thân:

Vừa dứt cuộc đối thoại, Hồn Trương Ba đang ngồi lặng lẽ bên cái chõng, thì vợ bước vào hỏi: “Cái Gái chưa về hả ông?” Hồn Trương Ba thẫn thờ trả lời: “Chưa” Vợ Trương Ba tiếp tục giải thích: “Nó sang nhà cu Tị từ sớm. Cu Tị bị ốm nặng”. Hồn Trương Ba không giấu sự ngạc nhiên nói: “Ốm Nặng? Vậy mà tôi không biết”. Hai lời thoại đầu chỉ mang tính giao tiếp thông thường chẳng một dấu hiện gì mang đến cơn sóng gió tiếp theo cho Trương Ba lúc này thì từ lời thoại thứ ba: “Ông bây giờ con biết đến ai nữa Cu Tị ốm thập tử nhất sinh… Khổ thằng bé ngoan là thế…Cái thân tôi thì sao trời lại không bắt đi cho rảnh “đã là sự thay đổi hoàn toàn cảm xúc của cái hờn trách, giận dỗi và càng chua xót của cái tủi thân tủi phận mà bất lực. Không để vợ nói tiếp nữa, Hồn Trương Ba cắt ngang: Sao bà lại nói thế. Nghe chồng nói, người vợ đi thẳng vào vấn đề mà bà đang ấm ức: “Tôi nói thật đấy …Ông Trương Ba ạ, tôi đã nghĩ kĩ …Có lẽ tôi phải đi”. Hồn Trương Ba hỏi lại: “Đi đâu?”. Người vợ tiếp tục nói thực lòng với bao hờn dỗi: “Chưa biết! Đi cấy thuê làm mướn…đi biệt để ông được thảnh thơi…với cô vợ người hàng thịt.. Còn hơn là thế này?”. Nghe vợ nói, Hồn Trương Ba chỉ còn biết kêu gào: “Bà! Sao lại đến nông nỗi này?” Vợ: “Chỉ tại bây giờ.. ông đâu còn là ông Trương Ba nữa….Thằng Cả đã quyết định bán khu vườn để có tiền mở thêm vốn liếng cửa hàng thịt. Hồn Trương Ba quá ngạc nhiên nói: “Thật sao? Không được!”. Nghe chồng phản đối bà vợ: “Ông bảo không được nhưng tôi biết sự thể sẽ dẫn đến như vậy. Ông sẽ đành ưng chịu như vậy” Người vợ của Trương Ba dù rất mực yêu thương chồng, giàu lòng vị tha nhưng cuối cùng vẫn rơi vào sự bế tắc. Những dấu ba chấm kết hợp với câu cảm thán và các từ rưng rưng …khóc… diễn tả đầy đủ sự buồn bã, bất lực. Trong cuộc đối thoại với vợ Trương Ba chỉ sử dụng câu ngắn, câu hỏi liên tiếp cùng với đó là các câu cảm thán đã cho thấy sự thảng thốt, ngỡ ngãng tê sót của ông. Cuối đoạn hội thoại với vợ tiếng gọi “Bà!” nấc lên uất nghẹn bởi đó là sự bất lực, đau khổ nghẹn ngào không thể thốt ra thành lời. Kết thúc đợt thoại này Hồn Trương Ba chỉ còn biết ngồi xuống tay ôm đầu.

Khi Hồn Trương Ba ngẩng lên thì thấy Gái đứng trước mặt, Hồn Trương Ba kêu đứa cháu như là cầu cứu: “Gái, cháu!” Đó đã không còn chỉ là lời gọi thông thường nữa mà là tiếng kêu của một trái tim được phát ra từ miệng khát khao có một điểm tựa, sự đồng cảm cầu cứu. Có lẽ lúc ấy Trương ba nhưỡng tưởng đứa cháu gái bé bỏng sẻ xà vào lòng thì trái lại, cái Gái, cháu Trương Ba thì phản ứng quyết liệt và dữ dội: Nó lùi lại nói đã tạo nên một khoảng cách không chỉ về mặt không gian mà còn cả về tâm hồn giữ ông và cháu sau đó lại nói: “Tôi không phải là cháu của ông”. Câu nói như là gáo nước lạnh phũ phàng tạt thẳng vào mặt Hồn Trương Ba. Nhưng Hồn Trương Ba vẫn giữ bình tĩnh dịu giọng nhẫn nhục giải thích, khẳng định: “Ông đúng là ông nội cháu. Nếu ông nội tôi hiện về được sẽ bóp cổ ông”. Hồn Trương Ba vẫn cố ra sức thuyết phục bằng những chứng cứ mặc cho sự đe dọa từ đứa cháu gái: “Sáng nào ông cũng ra cuốc xới chăm chút cây cối ngoài vườn …chỉ có ông nội cháu mới biết quý cây như thế” Cố giải thích cho đứa cháu giải thích thì Trương Ba càng về sau giọng nói càng ngập ngừng ; những dấu ba chấm xuất hiện liên tục đã là sự ngập ngừng bế tắc không giải thích được.Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân.Chính vì quá yêu thương, tôn thơ thì giờ đây nó không thể chấp nhận, cũng không thể nào mở lòng mình đớn nhận con người trước mặt mình cái con người có "bàn tay giết lợn", bàn chân "to bè như cái xẻng" đã khiến cho cái gái không buông tha, tiếp tục kể tội "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, "Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy". Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự kết tội, ruồng bỏ xua đuổi người thân yêu: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!".

Như vậy cái Gái là người yêu thương gắn bó với ông hết mực. Ông chết, đêm nào cũng khóc, nâng niu từng chút kỉ niệm của ông. Bây giờ lại phản ứng dữ dội. Lời lẽ tàn nhẫn, phũ phàng. Chối bỏ, xua đuổi Hồn Trương Ba. Những dấu chấm than liên tiếp với giọt nước mắt vừa khóc vừa chạy Phản ứng quyết liệt của một đứa trẻ vốn tâm hồn trẻ thơ trong trẻo, chỉ có hai màu sáng tối, kiên quyết không chấp nhận cái xấu, cái ác đã khiến Hồn Trương Ba run rẩy, tự nhìn lại mình một lần nữa. Những lời nói của đứa cháu nhỏ, thêm một lần nữa xoáy khoét vào nỗi đau sâu thẳm của ông, để ông cảm nhận thấm thía bi kịch bị chính những người thân yêu chối bỏ.

Chị con dâu ở trong nhà bước ra nghe thấy những lời cuối cùng của Gái. Một mặt chị gọi theo con gái: “Gái, quay lại đây, Gái”. Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt Một mặt chị quay sang nói với Hồn Trương Ba: “Thầy, thầy đừng giận con trẻ …Chỉ tại nó nghĩ thầy không phải là ông nội nó, con dỗ dành thế nào nó cũng không nghe (rưng rưng) khổ thân thầy”. Hồn Trương Ba cảm thấy ấm lòng: “Đến lúc này, cả nhà chỉ một mình con vẫn thương thầy như xưa”. Người con dâu khẳng định thêm: “Hơn xưa nữa…nhưng thầy ơi con sợ lắm…mỗi ngày thầy một đổi khác dần… có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…làm sao giữ được thầy ở lại hiền hậu vui vẻ tốt lành như thầy của chúng con xưa kia”? Hồn Trương Ba lại thất vọng buồn rầu nói: “Giờ thì con cũng…”? Người đâu vội chữa lại nói: “Thầy đừng giận nếu con đã nói điều gì không phải”. “Không ta không giận. Cảm ơn con đã nói thật. Bây giờ thì đi đi, cho ta được ngồi yên một lát”.

Màn đối thoại giữa Trương Ba và xác Hàng Thịt 44

Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một trong những nhà viết kịch tài năng nhất của văn nghệ Việt Nam hiện đại, là người có công lớn góp phần vực dậy cả một nền sân khấu lúc đó đang có nguy cơ tụt hậu. Kịch của Lưu Quang Vũ hấp dần chủ yếu bằng xung đột trong cách sống và quan niệm sống, qua đó khẳng định khát vọng hoàn thiện nhân cách con người. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt là tác phẩm gây tiếng vang nhất của Lưu Quang Vũ, được tác giả hoàn thành năm 1984, công diễn lần đầu năm 1987. Đoạn trích thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, đặt vấn đề về lẽ sống con người qua nỗi khổ bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo và chữa đựng những vấn đề triết lí nhân sinh. Qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích, Lưu Quang Vũ đã làm rõ khát vọng được sống là chính mình của Hồn Trương Ba

Sự đối nghịch giữa các nhân vật xuất hiện trong tác phẩm ngày càng được biểu hiện chi tiết, cuộc đối thoại giữa các nhân vậy xuất hiện trong tác phẩm đã biểu hiện chi tiết những điều đó. Sự khác nhau đến rõ nét đã biểu hiện chi tiết những điều đó, Trương Ba thấy hiểu được giá trị to lớn, khao khát được quay trở về xác thịt của mình: “Tôi muốn được là tôi trọn vẹn”, “Là tôi trọn vẹn”, ông thấu hiểu được mối quan hệ giữa thể xác và tâm hồn của mình, sự dằng xé giữa thể xác và tâm hồn của ông đã làm cho ông đau khổ, dằn vặt, ông muốn quay trở về đúng xác thịt của mình, sống cuộc đời của mình, ông thấu hiểu được giá trị của cuộc sống mà mình đang trải qua.

Điều ước mà Trương Ba đang mong muốn dù nhỏ bé nhưng cũng không phải dễ dàng, Trương ba dường như đang truyền tải được triết lý mà tác giả muốn thể hiện trong tác phẩm của mình, ông thể hiện được những khao khát, mong muốn ước vọng của mình với thân xác, ông khao khát quay trở về là chính mình.

Ông dám nhận toàn bộ trách nhiệm về mình, không muốn sống nhờ, không muốn sống cuộc sống trên thân thể của người khác, qua trích đoạn này, tác giả muốn khẳng định khao khát mà tác giả đang thể hiện, mong ước được trở thành chính mình, khao khát nhận được những gì của mình, chấp nhận hiện thực, Ai cũng khao khát được sống, nhưng sống là chính mình là cuộc sống đáng quý nhất, chính vì thế ông muốn “là tôi trọn vẹn”, sống cuộc đời của mình, trên thân xác của mình, chịu trách nhiệm trước hành động của mình.

Hồn Trương Ba khao khát muốn quay trở về cuộc sống của mình, khi được cho một phép thử nhập vào xác của cu tỵ, thì hình hài và tâm hồn dường như đang thể hiện sâu sắc những mâu thuẫn, cạnh tranh giữa tâm hồn, với tâm hồn của người 60 tuổi, khi nhập vào em bé 10 tuổi, điều này, sự mâu thuẫn ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

Những mâu thuẫn đó thể hiện sâu sắc qua từng chi tiết, hành động của nhân vật, ông không chấp nhận cuộc sống này, cuộc sống đó vốn dĩ có nhiều mâu thuẫn, nhưng sống sang thân thể người khác là điều cực kì khó hơn, ông không thể chấp nhận được, lựa chọn của Trương Ba lúc này là muốn quay trở lại là chính mình, ông không muốn sống lương nhờ vào người khác, không muốn sống trên thân thể của người khác. Đó là sự đấu tranh rất lớn khi ông đang dần phải đối mặt với những mâu thuẫn gây gắt của thể xác và tâm hồn xuất hiện trong tác phẩm.

Sự mâu thuẫn giữa hai con người làm cho mâu thuẫn của tác phẩm ngày càng nâng cao, Đế thích quan niệm sống chỉ là sống, nhưng Hồn Trương Ba lại quan niệm nên sống là chính mình, làm tôi chọn vẹn, được hòa hợp cả về thể xác, lẫn tinh thần.

Con người tồn tại gồm phần con và phần người. Phần con thuộc về bản năng. Phần người thuộc về nhân cách, sự cao thượng đẹp đẽ của tâm hồn. Phần con và phần người đã tạo ra con người đúng nghĩa. Ở đây hai hình tượng hồn và xác cũng là ẩn dụ cho phần con và phần người. Một bên đại diện cho những gì đẹp đẽ, thanh cao; một bên đại diện cho sự thô tục, thô phàm. Tác giả Lưu Quang Vũ nhấn mạnh không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, được hoà hợp xác và hồn, trong và ngoài, nội dung và hình thức trong một thể thống nhất toàn vẹn chứ không phải là cuộc sống chắp vá, bất nhất: “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.

Muốn sống đúng là chính mình thì mỗi chúng ta cần phải biết hài hòa giữa việc chăm lo cho linh hồn cũng như biết quý trọng và chăm sóc cho những nhu cầu thiết yếu của thể xác. Thông qua đó Lưu Quang Vũ cũng góp phần phê phán hai hạng người: một loại chỉ biết trau chuốt vẻ ngoài và chạy theo những ham muốn vật chất mà không chăm lo cho đời sống tâm hồn. Loại khác thì luôn coi thường những giá trị vật chất, bỏ bê sự chăm sóc bản thân chỉ khư khư giữ cho linh hồn được cao đẹp. Thông qua xác và hồn Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng phải sống là chính mình đó mới chính là hạnh phúc thật sự của con người. Bởi vậy trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến thắng nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Có như vậy chúng ta mới được là mình – được là chính mình toàn vẹn.

Màn đối thoại giữa Trương Ba và xác Hàng Thịt 45

Lưu Quang Vũ là một nhà thơ khá nổi tiếng trong những năm sáu mươi của thế kỉ XX, được nhiều bạn đọc yêu mến. Đến đầu những năm tám mươi thì Lưu Quang Vũ chuyển hẳn sang lĩnh vực sân khấu. Chỉ trong bảy, tám năm, ông đã sáng tác khoảng năm mươi kịch bản và hầu hết đều được dàn dựng. Kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện, về sự hoàn thiện nhân cách con người, đấu tranh khá quyết liệt với cái ác, cái xấu, nhất là đấu tranh chống tiêu cực để làm cho cuộc sống sạch hơn, tốt đẹp hơn. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, mà đặc biệt là trong lời thoại sau đây giữa Hồn Trương Ba với tiên Đế Thích đã cho ta thấy cái khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp của Lưu Quang Vũ: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn…. sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn gian là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!.

Lời thoại này chính là những lời Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Như chúng ta đã biết Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ sáng tác theo hướng khai thác, cốt truyện dân gian để gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, thể hiện một triết lí sâu sắc về lẽ sống, lẽ làm người, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống hiện thời. Tuy khai thác đề tài từ cốt truyện dân gian, nhưng trong vở kịch này Lư Quang Vũ có một sự sáng tạo rất độc đáo: trong truyện dân gian thì khi Hồn Trương Ba được tiên Đế Thích cho nhập vào xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba vẫn sống bình thản, còn trong vở kịch này thì Hồn Trương Ba sống rất quay quắt, luôn có những xung đột nội tâm rất căng thẳng. Hồn Trương Ba đã phải trải qua những cuộc đấu tranh gay gắt với chính thể xác mà mình trú ngụ – thể xác đầy ham muốn bản năng của anh hàng thịt. Và Lưu Quang Vũ đã đẩy kịch tính lên tới điểm đỉnh là khi Hồn Trướng Ba sắp ngã vào tay chị vợ anh hàng thịt, suýt chút nữa sự thanh sạch của Hồn Trương Ba bị thân xác lấn át, cộng với sự xa lánh của những người thân trong gia đình khiến Hồn Trương Ba càng đau đớn, xót xa. Để gỡ nút thắt của tình huống kịch này, Lưu Quang Vũ đã để cho Hồn Trương Ba đi đến một quyết định dứt khoát là không thể kéo dài mãi cuộc sống như thế nữa: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Lời thoại này đã nói lên tấn bi kịch, sự trớ trêu trong Hồn Trương Ba, đó là sự mâu thuẫn giữa một tâm hồn đẹp với một thân xác thỗ lỗ, phàm phu tục tử. Lời thoại này đã cho ta thấy rõ quan điểm, triết lí về nhân sinh của Lưu Quang Vũ. Lưu Quang Vũ cho rằng: cuộc sống của con người là một thể thống nhất giữa hồn và xác. Hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối hoàn toàn bởi những nhu cầu bản năng của thân xác, nghĩa là những nhu cầu vật chất chi phối hoàn toàn đời sổng tinh thần thì không thể có một tâm hồn thanh cao trong sáng được. Nói như thế, ở đây Lưu Quang Vũ không phải phủ nhận hoàn toàn nhu cầu về đời sống vật chất, mà chỉ muốn trong cuộc sống chúng ta phải biết kết hợp hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Nếu chúng ta chỉ quan tâm đến đời sống tinh thần mà không lo đến đời sống vật chất thì cuộc sống của chúng ta cũng chẳng mấy tốt đẹp, chúng ta sẽ sống trong ảo tưởng bằng vỏ đẹp siêu hình của tâm hồn. Vì vậy chúng ta đừng bao giờ để đời sống vật chất làm sa ngã đời sống tinh thần.

Và trong lời thoại tiếp theo, Lưu Quang Vũ lại tiếp tục trình bày quan điểm của mình về cuộc sống: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời thoại này chứng tỏ Hồn Trương Ba đã ý thức rõ về hoàn cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình. Hồn Trương Ba đã thâm thía nỗi đau khổ vì nhận ra tình trạng ngày càng chênh lệch giữa hồn và xác. Sự chênh lệch này đã được thể hiện ngay từ khi Hồn Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt, hình dạng biến đổi, hành động biến đổi và những người thân trong gia đình ngày càng xa lánh, Trương Ba bây giờ đâu còn là Trương Ba như ngày trước nữa.- “đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa” (lời vợ Trương Ba), “Tôi không phải là cháu của ông”, “ông nội tôi chết rồi”, “bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm! Ông nội tôi đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy! ”, “Ông xấu lắm, ác lắm! cút đi! Lão đồ tể, cút đi” (lời của Cái Gái)… Hồn Trương Ba không thể sống mãi trong sự đau khổ, dằn vặt như thế nữa; nên đã phản kháng, không chấp nhận việc tiên Đế Thích cho mình sống nhờ vào thân xác anh hàng thịt. Lời phản kháng này chuẩn bị cho hành động quyết liệt, dứt khoát của Hồn Trương Ba là chọn cái chết, trả xác cho anh hàng thịt, để tâm hồn thanh thoát, không còn dằn vặt khổ đau.

Màn đối thoại giữa Trương Ba và xác Hàng Thịt 46

“Được sống làm người là vô cùng quý giá. Nhưng được sống là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình có, sống trong sự hài hòa tự nhiên còn quý giá hơn”. Bằng trái tim nhạy cảm của một thi sĩ, bằng trí tuệ sắc sảo của một triết gia, Lưu Quang Vũ qua đoạn trích trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã làm nổi bật được một triết lý nhân sinh rất giàu ý nghĩa nhân bản “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”

Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) quê gốc Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một gia đình trí thức (bố là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận) nên thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của Lưu Quang Vũ đã bộc lộ ngay từ nhỏ. Ông đã từng làm thơ và viết truyện ngắn. Từ năm 1978 đến 1988, ông là biên tập viên Tạp chí “Sân khấu” và bắt đầu sáng tác kịch nói - Vở kịch đầu tay là “Sáng mãi tuổi 17”. Và sau đó, một nguồn lực sáng tạo đột khởi, mạnh mẽ, phong phú đã bùng cháy dưới ngòi bút Lưu Quang Vũ. Với những vở kịch chấn động dư luận như: “Nàng Si - ta”, “Lời nói dối cuối cùng”, “Lời thề thứ 9”, “Tôi và chúng ta”…, Lưu Quang Vũ không chỉ trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch những năm 80 của thế kỉ 20, mà còn được coi là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Ông qua đời trong một tai nạn ô tô thảm khốc (1988), giữa khi tài năng đang nổ.

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Viết năm 1981, nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công chúng), là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ đã công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa triết lý và nhân văn sâu sắc.

Trương Ba bị đẩy vào một nghịch lý đầy trớ trêu, éo le: linh hồn mình phải trú ngụ nhờ trong thể xác anh hàng thịt, “một thể xác kềnh càng thô lỗ”. Từ đây tâm hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu tự nhiên của xác anh hàng thịt.

Linh hồn vốn nhân hậu, trong sạch và bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay vì sống mượn, gá lắp và lệ thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác anh hàng thịt thô phàm, mà trái lại, còn bị cái xác thịt ấy điều khiển, dần dần bị nhiễm độc, bị tha hóa bởi những cái tầm thường đầy ham muốn vật chất thấp kém của xác thịt anh đồ tể như “thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…”

Ý thức được điều đó, hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác anh hàng thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác anh hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích, nên đã cười mỉa mai, nhạo báng hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, hơn nữa còn ve vãn hồn Trương Ba thỏa hiệp, vì “cả hai đã hòa vào nhau làm một rồi!”

Trước những lý lẽ “ti tiện ” và đớn hèn không thể chấp nhận được của xác hàng thịt, Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, đã mắng mỏ xác hàng thịt là hèn hạ, nhưng đồng thời cũng ngậm ngùi chua chát, thấm thía cái nghịch cảnh đầy bi kịch mà mình đã lâm vào và đành nhập trở lại xác hàng thịt trong nỗi tuyệt vọng. Từ đó đi đến giải pháp “chung sống hòa bình” mang tên “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” bằng “trò chơi tâm hồn”. Luật chơi là hồn cứ việc nghĩ mình cao khiết, thánh thiện, thẳng thắn, làm điều gì xấu, thì cứ việc đổ tội cho xác để được thanh thản. Bù lại hồn sẽ làm đủ mọi việc để thỏa mãn những thèm khát tầm thường của thể xác.

Tuy Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là cuộc sống đáng hổ thẹn, vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục tầm thường đồng hóa, ngự trị, lấn át và dần dần sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ cao quý trong con người.

Đời sống con người đâu chỉ gói gọn trong những nhu cầu bản năng thuần túy? Và cũng đừng bỏ bê thể xác để chỉ biết đến một thứ linh hồn chung chung trừu tượng, không thuộc về một ai cả trên cõi đời này. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và xác thịt là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng, hoài bão cao cả với dục vọng, ham muốn tầm thường, giữa phần “người” và phần “con” luôn diễn ra hàng ngày, hàng giờ trong mỗi con người. “Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác thịt ở đây, do đó mang ý nghĩa ẩn dụ: một bên đại diện cho sự trong sạch, nhân hậu, thẳng thắn và khát vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh nghĩa con người và một bên là sự tầm thường, dung tục”. Từ đó khẳng định: giữa linh hồn và thể xác, giữa tính cách và ngoại hình là sự thống nhất, toàn vẹn.

Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và người thân (vợ, con dâu, cháu gái) càng làm cho ông đau khổ hơn.

Trước sự thực phũ phàng, đau lòng: Trương Ba không còn giữ được đời sống riêng nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn mà đang bị cái thể xác ấy lấn lướt, làm tha hóa, dần dần trở nên xa lạ với mọi người, từ người vợ giàu yêu thương, đến người con dâu hiếu thảo đầy cảm thông thương xót Trương Ba, đến đứa cháu gái hồn nhiên, ngay thẳng, trong trắng đều không thừa nhận Trương Ba và đã trả lời Trương Ba bằng những câu nói thấm đẫm nước mắt xót đau, bế tắc.

Biết mình như vậy trong con mắt người thân, Trương Ba đã đi đến một phản kháng quyết liệt: “Không cần cái đời sống do mày mang lại!”

Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh trớ trêu đầy tính bi hài của mình : “ Bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích bằng những lời trách cứ, phê phán gay gắt: “Sống nhờ… đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào, thì ông chẳng cần biết. Không thể sống với bất cứ giá nào…” Đây quả là một sự “bừng ngộ” một cuộc cách mạng lớn lao trong nhận thức của Trương Ba về sự sống và hạnh phúc .

Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch, thanh cao. Là con người, Trương Ba “vẫn rất ham sống” nhưng kiên quyết “Không nhập vào hình thù ai nữa… Hãy để cho tôi được chết hẳn”. Hồn Trương Ba hóa thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thương yêu mình như màu xanh bất tử của cây cối.

Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích 47

Lưu Quang Vũ là nhà soạn kịch tài năng của nền nghệ thuật hiện đại Việt Nam. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một trong những tác phẩm tạo được tiếng vang lớn nhất của Lưu Quang Vũ. Tác phẩm đã tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn người lao động trong cuộc đấu tranh với những cám dỗ, khát vọng được sống là chính mình. Ý nghĩa ấy được thể hiện chân thực và sống động qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích.

Lưu Quang Vũ là người nghệ sĩ đa tài. Ông đã từng sáng tác thơ nhưng được biết đến nhiều hơn với tư cách là nhà soạn kịch. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch được viết từ năm 1981, đến năm 1984 thì ra mắt công chúng. Vở kịch này được viết dựa trên một câu chuyện dân gian, song đã có những thay đổi, thêm những tình tiết phát triển làm cho tầng ý nghĩa của câu chuyện càng sâu hơn. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích thuộc ảnh VII và Đoạn kết của vở kịch.

Khi gặp được Đế Thích, Trương Ba đã bày tỏ nguyện vọng: “Tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!”. Chữ “không thể” được lặp lại hai lần thể hiện quyết tâm, ý chí sắt đá của Trương ba khi quyết định rời khỏi thân xác của anh hàng thịt. Trước thái độ ngạc nhiên, bất ngờ của Đế Thích, Trương Ba tiếp tục nói lên quan điểm sống cao đẹp: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”. Câu giải thích là sự thú nhận nghịch cảnh mà Trương Ba đã phải chịu đựng: trong ngoài bất nhất. Bên trong là tâm hồn cao khiết, nhân cách cao đẹp; bên ngoài lại là xác thịt thô tục, là những dục vọng, bản năng. Sự bất nhất là do linh hồn của Trương Ba đã nhiều lần thỏa hiệp với bản năng. Đây chính là điều đã đè nặng lên tâm hồn Trương Ba, khiến ông trăn trở, đau khổ và dằn vặt. Từ đó, Trương Ba đã nêu lên khát vọng chính đáng của mình: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. “Toàn vẹn” là sự hài hòa của bên trong và bên ngoài, giữa tâm hồn và thể xác. Trương Ba muốn hồn mình phải được hợp nhất với xác của mình để được sống cho đúng nghĩa. Đối với Trương Ba, sống không chỉ là tồn tại, mà sống phải là chính mình, làm những điều mình mong muốn, trở lại là mình toàn vẹn khi xưa.

Trước những yêu cầu, lập luận của Trương Ba, Đế Thích vẫn tỏ thái độ ngạc nhiên, cảm thấy khó hiểu trước suy nghĩ kì lạ ấy: “Có gì không ổn đâu !”, “Nhưng mà ông muốn gì ?”. Đế Thích còn khuyên Trương Ba nên chấp nhận cuộc sống hiện tại bởi: “Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư ? [...] Dưới đấtt, trên trời đều thế cả, nữa là ông.” Đế Thích cho rằng tất cả mọi người đều đang sống trong hoàn cảnh trong ngoài bất nhất, nên hãy chấp nhận, học cách thỏa hiệp với hiện tại. Những dẫn chứng mà Đế Thích đưa ra thể hiện một quan điểm: sống là tồn tại, còn tồn tại như thế nào thì là do hoàn cảnh, điều kiện xung quanh; con người không thể thay đổi hoàn cảnh mà chỉ có thể quy thuận dù là điều mình không mong muốn. Xét vào thực tại cuộc sống, đây là quan điểm được nhiều người chia sẻ dù nó mang hơi hướng tiêu cực.

Không chấp nhận lời giải thích, lập luận của Đế Thích, Trương Ba đã thẳng thừng lên án thái độ sống ấy: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời thoại đã thẳng thừng lên án hành động và suy nghĩ sai trái của Đế Thích. Sống không chỉ là tồn tại đơn thuần, là thuận theo bản năng và hoàn cảnh mà đó phải là cuộc sống có nghĩa, sống là mình, là sự vượt lên những vui thích tầm thường để bảo vệ những giá trị cốt lõi của linh hồn cao đẹp.

Đoạn đối thoại phía sau là sự đấu tranh giữa “tồn tại hay không tồn tại”. Đáp trả lại câu hỏi của Đế Thích, Trương Ba bày tỏ nguyện vọng: “Thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với thân xác này”. Đế Thích lại cho rằng như thế là không thích hợp: “Sao có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần hồn tầm thường của anh hàng thịt ?”. Trương Ba lại bác bỏ: “Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta… chúng sinh ra là để sống với nhau”. Quyết tâm lên cao có thể đẩy lời nói thành những hành động quyết liệt hơn: “Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất”. Sự mạnh mẽ, lời nói đầy táo bạo ấy không ai dễ gì mà nói ra được, nhưng với Trương Ba, khát vọng “được sống là chính mình” đã thôi thúc tâm hồn cần một sự thay đổi để xóa bỏ nghịch cảnh một cách triệt để: cái chết. Chỉ khi chết đi, Trương Ba mới có thể là Trương Ba, tâm hồn cao khiết được bảo toàn trọn vẹn, chính mình được thanh thản và để đổi lấy sự hồi sinh của một người chồng, một người cha, một người ông trong trái tim những người ông yêu quý.

Xen vào giữa cuộc đối thoại là tiếng khóc của cái Gái và sự ra đi của thằng cu Tị. Đế Thích muốn Trương Ba nhập hồn vào xác cu Tị: “Ông sống trong thân xác thằng bé chắc sẽ ổn”. Câu nói này lại một lần nữa thể hiện lối suy nghĩ hời hợt, thiếu chín chắn của Đế Thích. Thực chất, Đế Thích lại một lần nữa đồng hóa định nghĩa của “sống” và “tồn tại”. Trước đề nghị ấy, Trương Ba đã có một hồi phân vân. Với Trương Ba, sống vẫn đáng quý, Trương Ba vẫn muốn được tiếp tục sống. Nhưng những suy nghĩ quẩn quanh về những ngày sống dưới xác hàng thịt, những mường tượng tương lai khi trú ngụ trong xác cu Tị, Trương Ba đã đi đến quyết định: “Tôi không thể cướp cái thân thể non nớt của cu Tị”, “Ông hãy cứu nó! Ông phải cứu nó!… vì con trẻ… Ông hãy giúp tôi lần cuối cùng”. Quan niệm sống cao đẹp càng sáng ngời thông qua lời đối thoại: “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù bằng một việc đúng khác”. Đoạn đối thoại không chỉ làm sáng lên một tư tưởng sống mang tính vĩnh hằng: “sống là chính mình” mà còn phê phán lối sống: “sống là tồn tại” và lên án sự làm việc tắc trách của những bậc làm quan.

Đoạn đối thoại chính là phân đoạn phát triển thêm so với cốt truyện gốc. Bằng tài năng dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm, Lưu Quang Vũ đã cho người đọc những chân lý sống vô cùng quý giá. Chân lý sống ấy không chỉ đúng với thời đại đó, với những con người trong hoàn cảnh đó mà nó có ý nghĩa với tất cả mọi người, ở mọi thời đại, trên khắp nẻo đường ngõ xóm. Chính điều này đã nâng tầm giá trị cho tác phẩm của Lưu Quang Vũ, để đến sau này, vở kịch vẫn sẽ được dựng lại như sự lưu danh một nhà soạn kịch tài năng và là lời nhắn nhủ đến những thế hệ sau về một quan niệm sống tốt đẹp.

Phân Tích Đối Thoại Giữa Hồn Trương Ba Và Đế Thích Trong Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt 48

Lưu Quang Vũ là một nhà viết kịch tài năng của văn học Việt Nam. Những tác phẩm của ông không chỉ mang tính thời sự mà còn mang giá trị nhân văn vô cùng lớn. Tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt là tác phẩm thành công cả về mặt nội dung và nghệ thuật. Các màn đối thoại trong vở kịch không chỉ khắc hoạ được hình tượng nhân vật mà còn thể hiện được thái độ, cách nhìn nhận của tác giả về cách sống, về lẽ sống và giá trị đích thực của con người. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt và Đế Thích là những màn đối thoại có giá trị như thế.

Nhân vật Trương Ba là một hình tượng tiêu biểu đại diện cho vẻ đẹp của một tâm hồn thiện lương và trong trắng, không mang những ham muốn, dục vọng tầm thường. Khi ông bị chết oan do Nam Tào gạch sai tên họ, được nhập vào xác hàng thịt để sống lại cuộc đời mới cũng là lúc bi kịch xảy ra. Từ hôm đó, ông trở nên như một con người khác, mọi sự vụng về, cẩu thả, những sự thô tục trong xác anh hàng thịt đã khiến cho mọi người thân trong gia đình buồn bã, thất vọng, xa lánh ông. Người vợ đầu ấp tay kề buồn khổ, đứa con dâu vốn hiểu chuyện cũng thấy đau đớn khi gia đình dần đổi khác, những đứa cháu vốn rất mực yêu quý và kính trọng cũng nhất quyết không nhận ông. Tất cả những điều đó khiến Trương Ba vô cùng đau khổ, không thể chịu nổi khi phải sống trong cảnh ngộ bi hài mà bất hạnh ấy, một tâm hồn thanh khiết không thể sống trong một thể xác xấu xa rồi dần đánh mất mình như thế được, Trương Ba đã tranh luận dữ dội với xác anh hàng thịt.

Thấy hồn Trương Ba tách ra khỏi thể xác mình, xác anh hàng thịt lên tiếng mỉa mai: " Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt khốn khổ kia....". Hồn Trương Ba cũng không chịu khuất phục những lời nói cay nghiệt và tàn nhẫn kia của anh hàng thịt. Hồn vẫn một mực cho rằng không thể sống với một thể xác dung tục và đồi bại kia, một thể xác mà chỉ biết đến những ham muốn tầm thường, một thể xác xấu xa đáng ghê tởm. Trương Ba khẳng định rằng: "Ta vẫn có một đời sống của riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,...". Xác anh hàng thịt cười nhạo, tỏ ra hả hê, mỉa mai trước những lý lẽ mà hồn Trương Ba đưa ra, hắn cho thấy tất cả những điều khiến cho Hồn Trương Ba cảm thấy xấu hổ với chính mình để bảo vệ lời nói của hắn. Trong cuộc tranh cãi này, dường như, hồn dần trở nên đuối lý, chấp nhận sự đắng cay bởi những gì mà xác hàng thịt nói ra đều đúng như vậy, tâm hồn thanh sạch đang bị thể xác điều khiển mà không làm gì được. Những lời nói thốt ra của xác anh hàng thịt đều mang nét châm chọc, chỉ trích linh hồn Trương Ba, càng khiến Trương Ba đau lòng, hắn càng thắng thế, tỏ ra hài lòng, hả hê. Bất lực trước mọi lý lẽ xác hàng thịt đưa ra, hồn chấp nhận, chịu đựng, dằn vặt, dường như chính Trương Ba cũng đã bị đẩy vào đường cùng, không lý lẽ, không lối thoát, nỗi đau trong hồn Trương Ba cứ một lớn dần thêm, cứa nát vào bức tường thanh cao, đẹp đẽ của tinh thần mà bấy lâu ông vẫn giữ gìn, xây đắp.

Nội dung của cuộc thoại không chỉ đơn thuần là một cuộc giao tiếp, tranh cãi diễn ra bình thường mà nó còn mang tầng ý nghĩa sâu sắc. Trương Ba được Đế Thích trả về với sự sống bên người thân và gia đình nhưng đó lại là cuộc sống xấu xa, đáng hổ thẹn. Những gì ti tiện, bần hàn, dụng tục đang dần lấn át, ngự trị và tàn phá, gặm nhấm những gì cao quý, trong sạch bên trong tâm hồn. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác để bảo vệ chính mình và bảo vệ những suy nghĩ, quan điểm của bản thân chính là cuộc đấu tranh giữa tinh thần và vật chất, giữa đạo đức và tội lỗi, giữa phần "con" và phần "người" trong một bản thể. Những giá trị của sự nhân hậu, lòng vị tha, những khát vọng cao cả, mãnh liệt luôn đối lập với những sự giả dối, ích kỷ, những khát vọng tầm thường.

Qua những trải nghiệm đầy đau khổ khi sống trong thân xác người hàng thịt, Trương Ba khi gặp Đế Thích đã thẳng thắn bày tỏ mong muốn "Tôi muốn là tôi toàn vẹn", ông cũng cay đắng thừa nhận "Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được". Trước sự cứng rắn của Trương Ba, Đế Thích đã hết lời can ngăn, ông cho rằng được sống đã là niềm hạnh phúc và sống ở đời không phải lúc nào cũng như ta mong muốn. Đế Thích khuyên Trương Ba nhập hồn vào xác người hàng thịt nhưng Trương Ba đã từ chối. Để được trở về là chính mình, Trương Ba chấp nhận ra đi để trả lại xác người hàng thịt cho hồn người hàng thịt, trả lại một anh hàng thịt nguyên vẹn cho vợ của anh ta, nhờ Đế Thích mang hồn của cu Tị trở lại.

Từ hai màn đối thoại đó ta thêm hiểu được rằng, con người chính là sự kết tinh hài hoà giữa hình thức và nội dung. Để sống có giá trị, sống đúng nghĩa với đời sống phải được là chính mình một cách toàn vẹn, không thể " sống nhờ, sống gửi" vào kẻ khác. Cuộc sống xã hội ngày nay cũng vậy, không chỉ cần có một ngoại hình xinh đẹp, một hình thức mãn nhãn mà cần phải có sự thông tuệ về học thức, sự nhạy bén và một tâm hồn phong phú. Đánh giá một con người không thể chỉ đánh về về hình thức mà còn cả cốt cách, nhân cách của họ. Con người muốn trở nên có giá trị, cần phải dung hoà được hai thứ đó.

Ta vẫn thấy đau đây những kẻ chỉ vì mặt nổi, vì chức quyền, tham vọng mà tự bán đứng lương tâm nghề nghiệp của mình, họ chạy chức chạy quyền chỉ để có cái danh trong khi không đủ năng lực để đảm đương nhiệm vụ. Những kẻ vì muốn được ưu ái mà nịnh bợ, a dua. Những kẻ vì những ham muốn tiền bạc, của cải , thể hiện bản thân mà sẵn sàng vi phạm pháp luật buôn bán chất cấm, trộm cắp, cướp bóc tài sản người khác. Điều đó, thật đáng phê bình và lên án.

Những ham muốn về tiền bạc và danh vọng, quyền lực và sự nổi tiếng khiến con người dần trở nên đánh mất mình, họ tự dẫm đạp lên danh dự và nhân phẩm của chính mình để có được. Sau cùng, họ lại không thể hạnh phúc, cũng không thể mang lại hạnh phúc cho mọi người. Vì vậy, đã sống là phải biết dành trọn tâm hồn mình cho đời sống, biết giữ mình không để vấy bẩn khi trong hoàn cảnh xấu xa. Không ai có thể sống họ cảm xúc của của bản thân mình, cũng không ai có thể sống thay cuộc đời mình cả. Phải nỗ lực, cố gắng, hoàn thiện bản thân cả về hình thức và tâm hồn, phải chinh phục được nấc thang của những giá trị cao đẹp bằng chính con người mình. Bởi mỗi người sẽ có một giá trị riêng và hạnh phúc nhất của đời người là khi được là chính mình.

Bằng ngôn ngữ đối thoại giàu tính triết lý, tình huống kịch hấp dẫn, lôi cuốn người xem, Nguyễn Quang Vũ đã tạo nên một màn đối thoại đặc sắc, mang đến cho người đọc những suy ngẫm, dư âm khó phai.

Phân Tích Đối Thoại Giữa Hồn Trương Ba Và Đế Thích Trong Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt 49

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” có bảy hồi, phần trích học sách giáo khoa là hồi kết. Thông qua bi kịch của Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho người đọc, người xem vẻ đẹp tâm hồn người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã chuyển thể thành vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lý và nhân văn sâu sắc.

Do phải sống nhờ thể xác của hàng thịt, hồn Trương Ba phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay phải sống mượn, lệ thuộc nên bị nhiễm độc bởi sự tầm thường, dung tục của xác thịt thô phàm. Thấm thía nghịch cảnh của bi kịch sống không được là chính mình và bi kịch bị chính những người thân yêu cự tuyệt – Trương Ba đã quyết định châm nhang gọi Đế Thích để quyết chết trả lại sự trong sạch, vẹn nguyên của linh hồn.

“Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?”. Lời độc thoại cho thấy cuộc đấu tranh nội tâm vô cùng dữ dội ở Trương Ba. Thực ra cuộc đấu tranh đó đã được tác giả Lưu Quang Vũ gửi gắm qua màn đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt. Đó là cuộc đấu tranh giữa xác và hồn; giữa cao cả và đê hèn; giữa tốt và xấu; giữa cao thượng và dung tục; giữa khát vọng và dục vọng. Đó cũng là cuộc đấu tranh để hoàn thiện nhân cách.

Cuộc đấu tranh này phần thắng nghiêng về xác nhưng bản thân hồn Trương Ba đã không chịu lép vế, không khuất phục mà đã tìm mọi cách để được sống là chính mình – đây chính là nhân cách cao đẹp của Trương Ba. “Tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!”. Lời thoại có tới hai lần phủ định “tôi không thể”; “không thể được” cho thấy quyết tâm rời bỏ xác hàng thịt là ý chí sắt đá của Trương Ba khi thấm thía nghịch cảnh trớ trêu của mình.

“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Câu nói thể hiện nghịch cảnh của Trương Ba, sự bất nhất của cái bên trong và cái bên ngoài: “bên trong” chính là linh hồn, cảm xúc, tư tưởng, nhân cách cao đẹp của Trương Ba. Hồn là sự tinh anh chi phối điều khiển thể xác. Đối lập bên trong là “bên ngoài” – xác thịt thô phàm của anh hàng thịt. Nhưng “cái bên ngoài” cần hiểu theo nghĩa rộng là hoàn cảnh sống, là bản năng, là nhu cầu tự nhiên, là dục vọng bản năng. Sự tha hóa của linh hồn Trương Ba chính là do linh hồn đã nhượng bộ, đã tự bán mình, tự thỏa hiệp với nhu cầu bản năng. Đây chính là sự dằn vặt, đau khổ, trăn trở của Trương Ba. Cả hai không thể hoà hợp bởi không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi.

“Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Đây là khát vọng mãnh liệt của Trương Ba, khát vọng được sống hòa hợp. “Toàn vẹn” nghĩa là phải có sự hòa hợp giữa bên trong và bên ngoài, giữa nội dung và hình thức, giữa thể xác và linh hồn. Không thể có cuộc sống nào mà “hồn này xác kia” được. Cuộc sống không thuận theo lẽ tự nhiên, không thuận theo tạo hóa, sống mà không được là chính mình thì đó là một bi kịch nghiệt ngã.

Trương Ba nên chấp nhận cuộc sống ấy vì “dưới đất trên trời đều thế cả”. Đế Thích chỉ ra rằng không chỉ Trương Ba đang sống trong cảnh trong ngoài bất nhất, mà mọi người đều như thế cả. Vì vậy Đế Thích khuyên Trương Ba đừng cố gắng làm viên bi lăn ngược vòng mà hãy chấp nhận, hãy biết cách thỏa hiệp, học cách chấp nhận.

Đế Thích đã lấy tâm lý đám đông để áp đặt lên quan điểm sống của mình. Đế Thích lấy dẫn chứng về chính ông ta và Ngọc Hoàng cũng không thể sống là chính mình: “Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo như những gì tôi nghĩ ở bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa. Chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng”. Như vậy, theo Đế Thích thì: “không ai được sống là chính mình”. Tài liệu của thầy Phan Danh Hiếu. Bởi sống có nghĩa là tồn tại, còn tồn tại như thế nào thì còn do hoàn cảnh, điều kiện mà con người buộc phải quy thuận. Đây là quan niệm sống sai lầm đáng lên án.

Trương Ba đưa ra sự so sánh đồ đạc, vật chất và bản thân. “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện không nên, đằng này cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt”. Đồ đạc, của cải vật chất mượn của người khác đã là chuyện không nên; còn sống nhờ, sống gửi, sống ký sinh vào thân xác của kẻ khác là điều xấu hổ đáng lên án. Trương Ba thẳng thắn: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời thoại đã chỉ trích quan niệm sai lầm của Đế Thích bởi suy nghĩ đơn giản về cuộc sống. Với Đế Thích, sống là tồn tại còn tồn tại như thế nào thì không cần biết. Với Trương Ba, sống không chỉ là sự tồn tại sinh học mà sự tồn tại ấy còn phải là sự tồn tại có ý nghĩa.

Những lời thoại của Trương Ba và Đế Thích ở phần này chủ yếu thiên về cuộc đấu tranh của Trương Ba – đó là cuộc đấu tranh vượt lên nghịch cảnh để chiến thắng bản thân bảo vệ linh hồn cao đẹp. “Thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với thân xác này”. Nhưng Đế Thích bác bỏ vì Đế Thích cho rằng tâm hồn đáng quý của Trương Ba không thể thay thế cho phần hồn tầm thường của anh hàng thịt. Trương Ba lập luận rằng: “Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta… chúng sinh ra là để sống với nhau”. Để khẳng định với quyết tâm của mình Trương Ba trở nên mạnh mẽ: “Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất”.

Ý chí mạnh mẽ của Trương Ba xuất phát từ khát vọng “được sống là chính mình”, và để “được sống là chính mình” lúc này, Trương Ba không có con đường nào khác là cái chết. Vì chỉ khi chết đi, ông mới thực sự là chính mình, mới hoàn nguyên được vẻ đẹp cao khiết của linh hồn mình. Với Trương Ba, thiên đường đẹp nhất để linh hồn có thể trú ngụ sau khi chết chính là phục sinh trong trái tim của những người yêu quý ông.

Đế Thích muốn Trương Ba nhập hồn vào xác cu Tị: “Ông sống trong thân xác thằng bé chắc sẽ ổn”. Câu nói này của Đế Thích một lần nữa cho thấy lối suy nghĩ đơn giản, phiến diện – sống là sự tồn tại. Thực chất của lối suy nghĩ này là xuất phát  từ chính cuộc sống của Đế Thích. Tiên phật thánh thần chẳng bao giờ chết cho nên sống là để hưởng thụ. Lối sống này ảnh hưởng trực tiếp lên tư tưởng ấy dẫn đến những sai lầm của Đế Thích.

Trước yêu cầu của Đế Thích, Trương Ba ngập ngừng: “Ông cho tôi suy nghĩ một lát đã”. Sự phân vân của Trương Ba cho thấy: sống là đáng quý thật, được tồn tại mãi mãi là điều còn quý giá hơn. Sự phân vân này cũng cho thấy Trương Ba rất ham sống, vẫn muốn được sống. Trương Ba lại tiếp tục trải qua cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội. Ông hình dung thấy trước mắt là cuộc sống tương lai của mình trong cơ thể của một thằng bé lên mười: “Có khi tôi còn phải sang nhà chị Lụa ở… Bà vợ tôi, các con tôi sẽ nghĩ ngợi, xử sự thế nào, khi chồng mình, bố mình mang thân một thằng bé lên mười…”.

Trương Ba thấy mọi sự vô lí nhất là khi ông nhìn thấy được sự cô đơn của bản thân khi: “Vẫn phải sống suốt bao năm tháng dằng dặc. Mình tôi giữa đám người hậu sinh… Tôi sẽ như ông khách ngồi ở nhà người ta… Tôi sẽ bơ vơ lạc lõng”. Điều khiến chúng ta trân trọng ở Trương Ba đó chính là tâm hồn ông cao thượng: “Tôi không thể cướp cái thân thể non nớt của cu Tị” và cũng chính cái chết của cu Tị cùng với khát vọng được cứu sống thằng bé đã khiến Trương Ba trở nên mạnh mẽ. Trương Ba lên tiếng khẩn khoản cầu cứu Đế Thích “Ông hãy cứu nó! Ông phải cứu nó!… vì con trẻ… Ông hãy giúp tôi lần cuối cùng”.

Đế Thích vẫn muốn Trương Ba tiếp tục tồn tại nhưng Trương Ba đã thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù bằng một việc đúng khác”. Ông cũng khuyên nhủ Đế Thích phải làm cho bằng được việc đúng, đó chính là làm cho cu Tị được sống lại. Những suy nghĩ tốt đẹp của Trương Ba và đức hi sinh cao thượng của ông cuối cùng cũng thay đổi được tư duy của Đế Thích. Cu Tị được sống còn Trương Ba trở về với chính mình chứ không còn là “cái vật quái gở mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt nữa”.

Hồn Trương Ba nhập vào cảnh vật quen thuộc trong gia đình và gắn bó trong trái tim những người yêu thương ông. Trương Ba đã phục sinh linh hồn mình trong trái tim của những người yêu thương. Linh hồn ông mãi mãi bất tử trong màu xanh cây vườn và bất tử trong những người yêu mến ông.

Con người tồn tại gồm phần con và phần người. Phần con thuộc về bản năng. Phần người thuộc về nhân cách, sự cao thượng đẹp đẽ của tâm hồn. Phần con và phần người đã tạo ra con người đúng nghĩa. Ở đây hai hình tượng hồn và xác cũng là ẩn dụ cho phần con và phần người. Một bên đại diện cho những gì đẹp đẽ, thanh cao; một bên đại diện cho sự thô tục, thô phàm. Tác giả Lưu Quang Vũ nhấn mạnh không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, được hoà hợp xác và hồn, trong và ngoài, nội dung và hình thức trong một thể thống nhất toàn vẹn chứ không phải là cuộc sống chắp vá, bất nhất: “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.

Muốn sống đúng là chính mình thì mỗi chúng ta cần phải biết hài hoà giữa việc chăm lo cho linh hồn cũng như biết quý trọng và chăm sóc cho những nhu cầu thiết yếu của thể xác. Thông qua đó Lưu Quang Vũ cũng góp phần phê phán hai hạng người: một loại chỉ biết trau chuốt vẻ ngoài và chạy theo những ham muốn vật chất mà không chăm lo cho đời sống tâm hồn. Loại khác thì luôn coi thường những giá trị vật chất, bỏ bê sự chăm sóc bản thân chỉ khư khư giữ cho linh hồn được cao đẹp.

Thông qua màn đối thoại giữa hai nhân vật Trương Ba và Đế Thích trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng phải sống là chính mình đó mới chính là hạnh phúc thật sự của con người. Bởi vậy trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến thắng nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Có như vậy chúng ta mới được là mình – được là chính mình toàn vẹn. Làm nên thành công của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung, Lưu Quang Vũ đã sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật: Sáng tạo lại cốt truyện dân gian. Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm. Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống truyện. Có chiều sâu triết lý khách quan.

Phân tích triết lý sống trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt 50

Từ sự so sánh về quan điểm triết lý giữa truyện cổ dân gian “Hồn Trương Ba, da Hàng thịt” và vở kịch cùng tên của Lưu Quang Vũ, bài viết đã nêu lên những nét mới, rất có ý nghĩa trong tác phẩm của nhà soạn kịch nổi tiếng này. Nếu cốt truyện dân gian chỉ đơn giản đề cao, tuyệt đối hoá vai trò của linh hồn đối với thể xác, thì đến vở kịch của Lưu Quang Vũ, vấn đề đã được ông đào sâu, mở rộng và phát triển hơn rất nhiều. Ông có quan niệm khác về mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác – đó là mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau. Hơn nữa, ông còn mở rộng tầm triết lý sang cả những vấn đề nhân sinh khác, như vấn đề xung đột giữa nhu cầu tự nhiên và nhân cách, vấn đề đấu tranh trong bản thân mỗi con người để hoàn thiện nhân cách làm người, v.v.. Vở kịch của Lưu Quang Vũ, vì thế, không chỉ là thành quả to lớn của nền kịch nói hiện đại Việt Nam, mà còn là một đóng góp đặc sắc của ông vào quan niệm triết lý nhân sinh nói chung.

Trong bài viết này, chúng tôi không so sánh một cách toàn diện giữa một truyện cổ dân gian và một vở kịch dài hiện đại, cũng không so sánh về toàn bộ nội dung tư tưởng, mà chỉ so sánh về tư tưởng triết học – phần cốt lõi của cả hai tác phẩm.

Truyện cổ dân gian: Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, người còn trẻ tuổi nhưng đánh cờ tướng rất giỏi. Nước cờ của anh dễ thường thiên hạ không có người nào địch nổi. Bao nhiêu giải cờ trong những hội hè mùa xuân đều về tay anh. Tiếng đồn vang khắp nước, sang đến tận Giang Nam. Buổi ấy, ở Trung Quốc, có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ. Khi nghe tiếng Trương Ba, Kỵ Như liền khăn gói sang Nam tìm đến nhà địch thủ. Hai người đọ tài nhau trong mấy ván vẫn không phân thua được. Nhưng đến ván thứ ba, Trương Ba dồn Kỵ Như vào thế bí. Thấy đối phương vò đầu suy nghĩ, Trương Ba kiêu hãnh bảo:

- Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng không thể gỡ nổi.

Bấy giờ Đế Thích là thần cờ ở thiên đình, bỗng nghe câu nói hỗn xược của Trương Ba xúc phạm đến mình, liền cưỡi mây xuống trần định cho y biết tay. Trương Ba và Kỵ Như đang đánh, chợt có một ông cụ già đến ngồi bên cạnh bàn cờ. Ông cụ thủng thỉnh mách cho Kỵ Như mấy nước. Tự nhiên, bên Kỵ Như cờ bại thành thắng. Trương Ba cau có, trong bụng tức giận ông già ở đâu đến làm cho mình lâm vào thế bí. Nhưng nhìn thấy ông cụ râu tóc trắng xóa, mặt mũi không có vẻ là người trần tục, chợt hiểu, liền sụp xuống lạy mà rằng: “Ngài hẳn là thần Đế Thích đây rồi, tôi người trần mắt thịt không biết, xin thứ lỗi”. Đế Thích cười bảo: “Ta nghe như nhà ngươi tự phụ là cao cờ nên xuống xem cho biết”. Trương Ba liền giữ Đế Thích lại mua rượu, giết gà, khoản đãi rất chu tất. Đế Thích tuy mới gặp cũng rất yêu mến Trương Ba. Thấy anh khẩn khoản muốn học nước cờ của mình, Đế Thích bảo anh: “Ta thấy nhà ngươi có bụng chân thành, vậy ta cho một bó hương này, mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống”. Nói đoạn, cưỡi mây bay lên trời.

Từ đó, Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cờ mời thầy Đế Thích xuống chơi. Hai bên rất tương đắc. Nhưng một hôm, Trương Ba bị cái chết mang đi một cách đột ngột. Sau khi chôn cất chồng, người vợ dọn dẹp nhà cửa, thấy có nén hương giắt ở mái nhà, chị ta vô tình lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng. Ở thiên đình, thần Đế Thích nhận được tin bằng mùi hương liền xuống ngay. Thấy vắng mặt Trương Ba, Đế Thích ngạc nhiên:

“Trương Ba đâu?”. Vợ Trương Ba sụt sịt:

“Nhà tôi chết đã gần một tháng nay rồi!”

– “Chết rồi! Sao lúc mới tắt thở không gọi ta xuống ngay, để đến bây giờ còn làm thế nào được nữa?”.

Suy nghĩ một chút, Đế Thích lại hỏi thêm: “Trong xóm hiện nay có ai mới chết không?”.

Vợ Trương Ba đáp:

“Có một người Hàng thịt mới chết tối hôm qua”.

Thần Đế Thích bảo chị ta dẫn mình đến nhà người Hàng thịt mà bảo:

“Ta sẽ kiếm cách làm cho chồng nhà ngươi sống lại”.

Nói xong, thần hóa phép rồi trở về trời.

Nói chuyện trong nhà người Hàng thịt lúc đó, mọi người đang xúm quanh linh sàng khóc lóc kể lể thì tự nhiên thấy người chết ngồi nhỏm dậy. Hắn ta vứt tất cả mọi đồ khâm liệm rồi chẳng nói chẳng rằng đi thẳng một mạch về nhà Trương Ba. Vợ Trương Ba thấy người Hàng thịt, biết là thần Đế Thích đã làm cho chồng mình sống lại, mừng rỡ đón vào. Giữa lúc đó, thì vợ con người Hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng nhưng không những bị vợ Trương Ba giằng lại, mà ngay chính chồng mình cũng nhất định không chịu về. Đôi bên cãi cọ nhau, cuối cùng biến thành cuộc đấu khẩu rất kịch liệt. Xóm làng không biết phân xử ra sao, đành đem việc đó lên quan.

Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo người sống lại đó là anh Hàng thịt. Nhưng chỉ có vợ Trương Ba thì nhất định nhận ra là chồng mình. Quan hỏi rằng:

“Chồng chị ngày thường hay làm gì?”.

Đáp: “Chồng tôi chỉ thạo đánh cờ mà thôi”.

Quan lại hỏi vợ người Hàng thịt:

“Chồng chị ngày thường hay làm nghề gì?”.

Đáp: “Chồng tôi chỉ thạo nghề mổ lợn”.

Nghe đoạn, quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh Hàng thịt mổ, nhưng anh ta lúng túng không biết làm thế nào cả. Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỉ thí với người Hàng thịt thì không ngờ, con người đó đi những nước cờ rất cao không ai địch nổi. Quan bèn phán cho về nhà Trương Ba. Vì thế mới có câu “Hồn Trương Ba, da Hàng thịt”.

Như vậy, truyện cổ dân gian Hồn Trương Ba, da Hàng thịt cũng quan niệm linh hồn phải có thể xác mới có chỗ trú ngụ và thể xác phải có linh hồn mới sống được, mới không rữa nát. Nhưng truyện cổ dân gian tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn, coi nhẹ thể xác, nên khi Trương Ba mượn được thể xác của người Hàng thịt thì Trương Ba coi mình là Trương Ba 100% trong ý thức, trong tình cảm, trong tính cách, tuyệt nhiên không băn khoăn gì về hình dạng của mình. Vợ Trương Ba cũng vậy, khi thấy chồng là thân xác anh Hàng thịt nhưng tâm trí là Trương Ba – chồng mình – thì cũng không băn khoăn gì, nhận ngay và vui vẻ chung sống. Vợ anh Hàng thịt chỉ thấy đơn giản là hình dạng chồng mình sống lại nên đấu tranh khiếu kiện giành giật về cho mình, mặc dù anh ta đã nói anh ta là Trương Ba và chạy về nhà Trương Ba. Quan phủ sau khi kiểm tra kỹ năng mổ thịt lợn và nhất là kỹ năng chơi cờ thì quyết định xử ngay cho anh – Hàng – thịt – mang – hồn Trương Ba về với vợ Trương Ba. Phép thử mổ thịt có thể không chính xác, vì anh Hàng thịt nếu thích vợ Trương Ba có thể giả vờ mổ vụng; nhưng phép thử chơi cờ thì không thể sai được, vì nó thuộc về trí tuệ, về năng khiếu tính toán trong loại hình thể thao trí tuệ đặc biệt, cũng chính là một biểu hiện, một phương diện đặc sắc của linh hồn. Nó xác định,
khẳng định linh hồn đó chỉ có thể là Trương Ba – người sinh thời chơi cờ rất giỏi.

Với cốt truyện ngắn gọn, mang một tư tưởng triết học có phần hơi đơn giản – đề cao, tuyệt đối hóa linh hồn, không để ý đến mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn, tách rời linh ồn và thể xác, coi thể xác chỉ như cái túi đựng linh hồn – truyện cổ dân gian Hồn Trương Ba, da Hàng thịt phù hợp với quan niệm xưa, qua bao thế kỷ vẫn được kể, được yêu thích và không hề gây tranh cãi.

Nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, của con người và khoa học (sinh lý học và tâm lý học), tư tưởng triết học về con người cũng trở nên phong phú hơn, sâu sắc hơn và toàn diện hơn. Từ đó, tư tưởng triết học trong truyện cổ dân gian đã được Lưu Quang Vũ, nhà viết kịch tài năng của thời hiện đại, nhìn nhận lại và phát triển theo trình độ nhận thức của thời đại, theo yêu cầu nhân sinh và thẩm mỹ của thời hiện đại.

Tóm tắt vở kịch của Lưu Quang Vũ. “Nam Tào, Bắc Đẩu đang ngồi chấm người phải chết trong ngày. Đế Thích đến tỏ ý muốn xuống hạ giới để tìm người cao cờ đánh cho vui. Vì vội đi dự tiệc ở bên dinh Thái thượng nên Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba. Trương Ba đang chăm vườn và trò chuyện cùng vợ, cháu gái nội, con trai, con dâu thì Trưởng Hoạt đến chơi cờ. Đế Thích xuất hiện, giúp Trưởng Hoạt gỡ thế cờ. Đế Thích cho Trương Ba mấy nén hương và bảo nếu cần thì thắp một nén là Đế Thích xuống, thắp ba nén thì có thể lên thiên đình gặp Đế Thích. Sau đó, Trương Ba thấy trong người khó chịu và chết. Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích đang trò chuyện thì vợ Trương Ba lên (bà ta vô tình thắp ba nén hương cho chồng). Bà đòi trả mạng sống cho chồng. Nhân có anh Hàng thịt mới chết, thân xác chưa tan rữa, Nam Tào, Bắc Đẩu cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh Hàng thịt để sống lại.

Gia đình người Hàng thịt đang ngồi bên quan tài thì người Hàng thịt đội nắp quan tài lên, đòi về nhà Trương Ba, không chịu ở lại nhà Hàng thịt. Vợ Trương Ba đến xem phép mầu nghiệm ứng để đón chồng. Lúc đầu, mọi người đều ngỡ ngàng nhưng hồn Trương Ba đã nói được những điều chỉ có Trương Ba xưa mới biết, nên vợ Trương Ba nhận chồng, Trưởng Hoạt nhận bạn. Hồn Trương Ba (trong xác anh Hàng thịt) về nhà Trương Ba. Nhưng bà vợ băn khoăn vì thân xác chồng khác xưa nhiều quá. Bà cũng thắc mắc về việc chồng phải sang giúp chị Hàng thịt mổ lợn mặc dù vụng về. Anh con trai thì hy vọng với sức vóc mới, bố có thể cùng đi buôn lậu với mình. Hồn Trương Ba đã tát con với sức mạnh của cánh tay anh Hàng thịt. Lý trưởng vào bắt hồn Trương Ba phải về nhà Hàng thịt. Anh con trai hối lộ, Lý trưởng xử: ban ngày ở nhà Trương Ba, đêm về nhà Hàng thịt. Anh con trai lại có lời, Lý trưởng cho phép Trương Ba chỉ phải ở nhà Hàng thịt đến nửa đêm thì được về.

Trời đã khuya, hồn Trương Ba giúp chị Hàng thịt mổ lợn, pha thịt xong, chuẩn bị về thì chị ta giữ lại mời rượu rồi mời ở lại. Hồn Trương Ba lúc đầu định xuôi theo nhưng đã đấu tranh tư tưởng, gỡ tay chị ta, về nhà. Trưởng Hoạt sang phê phán Trương Ba bắt đầu đổi tính: uống rượu, đòi ăn ngon, nước cờ đi cũng khác. Lý trưởng lại đến sách nhiễu. Cháu gái không nhận ông, người con dâu cũng than phiền bố chồng thay đổi.

Một cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác người Hàng thịt diễn ra; qua đó, xác người Hàng thịt khẳng định thế lấn tới của y đối với hồn Trương Ba.

Hồn Trương Ba đốt một nén hương gọi Đế Thích xuống giải thoát cho mình. Lúc đó, cu Tỵ nhà hàng xóm bị ốm nặng, sắp chết. Đế Thích bảo hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tỵ. Trương Ba từ chối, xin cho cu Tỵ sống, còn mình xin trả lại xác cho người Hàng thịt và chấp nhận cái chết.
Hồn Trương Ba nhập vào màu xanh cây vườn trò chuyện với vợ”.

Trước hết, Lưu Quang Vũ có kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian. Ông cũng nhấn mạnh vai trò cao hơn của linh hồn so với thể xác. Trương Ba khi sống lại trong thân xác anh Hàng thịt thì nhận biết mình là Trương Ba (dựa vào ký ức, tình cảm và ý thức của hồn Trương Ba) và về ngay nhà mình (nhà Trương Ba). Vợ Trương Ba, sau khi kiểm tra ký ức của Trương Ba (mới), cũng nhận là chồng mình và giữ lại. Trưởng Hoạt, bạn của Trương Ba, khi kiểm tra ký ức của Trương Ba (mới) về tình bạn giữa hai người, cũng xúc động ôm hôn ngay bạn mình, mặc dù anh ta lúc này đã mang thân xác xa lạ. Cô con dâu thì lại càng thương cha chồng, mặc dù cha lúc này mang vóc hình ông Hàng thịt, vì điều chị ta tìm thấy ở ông là đức tính nhân hậu hệt như cha chồng xưa. Chị ta nói khá đúng, khá đủ, khá cơ bản về linh hồn: “Đã gọi là hồn làm sao có hình thù, bởi nó không là vuông hay tròn, mà là vui buồn, mừng giận, yêu ghét. Thầy vẫn dạy chúng con: Cái bề ngoài có quan trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của
đáng kể”.

Tuy nhiên, Lưu Quang Vũ không dừng lại ở đó. Đầu tiên, hồn Trương Ba tỏ ra lạ lẫm, khó chịu với sự khác lạ của thân xác mình. Rồi anh ta cảm thấy thân xác đó bắt đầu chi phối anh: cũng thích ăn tiết canh, uống rượu, nói to và có sức khỏe (không đau lưng, không hen nữa, tát con chảy máu mồm). Khi ông Lý xử anh phải sang nhà chị Hàng thịt một số giờ trong ngày thì anh cũng tấm tắc khen ngon mấy món ăn của chị ta. Chị Hàng thịt thì biết linh hồn trong thể xác chồng mình không phải là của chồng mình mà là của Trương Ba, nhưng chị ta càng quý hơn vì
nó tốt đẹp và dịu dàng, điều mà chị ta không thấy ở người chồng thô bạo đã khuất. Sự cô đơn về thân xác và linh hồn khiến chị càng khao khát hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba cũng bị rung động trước sự gần gũi với vợ người Hàng thịt và phải tự đấu tranh để thoát ra khỏi vòng tay âu yếm của thị. Vợ Trương Ba cũng dần cảm thấy chồng khác trước và nảy sinh mặc cảm, tự ti về sức khỏe và nhan sắc trước hình vóc trẻ khỏe của hồn Trương Ba. Đến đây, ta đã thấy sự tồn tại độc lập của thân xác đối với linh hồn, sự chi phối của thân xác đối với linh hồn cùng những phiền toái do sự không hòa hợp, không thống nhất giữa linh hồn và thân xác.

Đỉnh cao của tư tưởng triết lý trong vở kịch là sự đối thoại giữa linh hồn và thân xác. Cuộc đối thoại này cho thấy con người ta có hai phần là linh hồn và thể xác. Hai phần đó có quan hệ hữu cơ với nhau. Linh hồn có cơ sở vật chất là thể xác, cũng như nhận thức lý tính phải bắt đầu từ cảm tính; tình cảm hình thành từ những quan hệ cụ thể trong đời thường; cảm xúc thẩm mỹ phải dựa trên các cảm quan thị giác, thính giác… Thể xác cũng có tính độc lập tương đối, có tiếng nói riêng, có nhu cầu tự nhiên hợp lý, không thể bỏ qua. Nhưng, linh hồn phải kiểm soát những nhu cầu đó, phải điều chỉnh, thăng hoa, “Người” hóa, văn hóa hóa những nhu cầu ấy. Con người nói chung phải biết kìm hãm, tiết chế những nhu cầu bản năng và nếu cần, biết đè nén, biết hy sinh nó. Linh hồn và thể xác là một thể thống nhất; trong đó, linh hồn giữ vị trí chủ đạo, nên linh hồn phải chịu trách nhiệm cuối cùng về hành động của thể xác, không thể thỏa mãn mọi nhu cầu ở mọi mức độ, mọi nơi, mọi lúc rồi đổ trách nhiệm cho thể xác. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác thực sự là cuộc đấu tranh trong bản thân con người để làm chủ những nhu cầu và ham muốn, nhất là khi bị hoàn cảnh tác động. Đó là cuộc đấu tranh để làm chủ bản thân và hoàn thiện nhân cách. Ở đây, cuộc đấu tranh này cũng cảnh báo khả năng lấn át của thể xác – tức của những nhu cầu tầm thường – đối với linh hồn – tức là đối với khát vọng sống cao khiết.

Hành động chấp nhận cái chết, trả lại xác cho anh hàng thịt của Trương Ba là một hành động đúng đắn, một hành động dũng cảm và đạo đức. Từ sự lý giải lại một cách biện chứng về quan hệ giữa thể xác và linh hồn trên triết lý nhân sinh của thời đại, Lưu Quang Vũ đã đi đến một quan niệm sống đẹp: sống chân thật, mình phải chính là mình, cả linh hồn và thể xác, sống vì mọi người, vì hạnh phúc và sự tốt đẹp của con người. Trương Ba chết, nhưng hồn Trương Ba vẫn sống – sống trong tình cảm của mọi người, sống mà không cần mượn đến thân xác của ai hết.

Trước khi kết thúc, tác giả còn đưa nhân vật vào cuộc thử thách cuối cùng, đặt nhân vật trước một sự lựa chọn: chấp nhận cái chết hoặc nhập vào xác cu Tỵ – một em bé hàng xóm vừa chết. Trương Ba không thể tái diễn bi kịch sống trong thân xác mượn của người khác: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Vì thế, ông đã xin cho cu Tỵ được sống lại, còn mình thì xin được chết. Thực chất, đó là lời tái khẳng định của tác giả đối với quan niệm sống đẹp mà ta nhắc đến ở trên. Bi kịch xung đột giữa linh hồn và thể xác không thể được giải quyết theo đúng cái cách đã tạo ra bi kịch. Đến đây, cái “chết hẳn” của Trương Ba lại thể hiện một chiến thắng thuyết phục của “tồn tại – người”, của nhân cách, của khát vọng hoàn thiện nhân cách của con người.

Không phải chờ đến khi các nhà ngoại cảm và lý thuyết trường sinh học xuất hiện, Lưu Quang Vũ đã khẳng định, theo cách của ông, thân xác của từng cá thể người tồn tại hữu hạn, nhưng sự sống và linh hồn của con người là bất tử. Tư tưởng triết lý của Lưu Quang Vũ về con người vừa biện chứng, vừa lạc quan và cao thượng. Điều này, cùng với tài năng sáng tạo nghệ thuật tác giả, đã làm cho vở kịch có giá trị nhân văn cao, vươn tới tầm nhân loại.

Vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong Hồn Trương Ba, da Hàng thịt còn có thể làm ta liên tưởng đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong mỗi sự vật. Đương nhiên, mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, giữa nội dung và hình thức là hai cặp phạm trù không đồng nhất, không thể suy cái này ra cái kia một cách tịnh tiến. Tuy vậy, từ sự không đồng nhất, thậm chí đối lập giữa linh hồn và thể xác trong vở kịch, ta có thể liên tưởng tới sự thống nhất cần có giữa nội dung và hình thức là hai mặt của thực tại tự nhiên và xã hội. Khi nội dung và hình thức phù hợp với nhau thì sự vật tồn tại và phát triển. Khi nội dung và hình thức không phù hợp với nhau thì sự phát triển bị kìm hãm và thậm chí, sự tồn tại của sự vật bị đe dọa.

Liên tưởng trên không hề có khi đọc truyện cổ dân gian, mà nếu có, thì đó chỉ là sự tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức và tách rời nội dung khỏi hình thức, một tư duy siêu hình mang tính tiên nghiệm.

Từ triết lý đơn giản trong truyện cổ dân gian về vai trò quan trọng thứ nhất của linh hồn, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một vở kịch có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc một thông điệp sâu sắc về triết lý sống: thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau; con người không thể chỉ sống bằng thể xác, mà phải luôn luôn đấu tranh với bản thân để có sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác, hướng tới một lối sống cao thượng, vươn tới một nhân cách hoàn thiện.

Phân tích triết lý sống trong “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ. 51

Đã ai đó đã từng nói “nhà văn nào không biết đến văn học dân gian là 1 nhà văn tồi”. Và ta như đã biết đến câu chuyện dân gian Trương Ba giỏi đánh cờ nên quen thân với Đế Thích. Nam Tào đã gạch nhầm tên làm Trương Ba chết, Đế Thích đã cho hồn Trương Ba sống lại bằng cách nhập vào thân xác anh hàng thịt gần nhà mới chết. Hồn Trương Ba đã được sống lại và đoàn tụ với vợ con. Nhưng dường như nhận ra những điều khác thì Lưu Quang Vũ đã khai thác cũng như sáng tạo thêm phần kết của truyện, và có thể nói rằng chính phần kết này đã làm cho câu truyện dân gian kia thực sự có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.

Lưu Quang Vũ dường như đã tập trung khai thác bi kịch hồn Trương Ba không thể dung hòa với xác hàng thịt như truyện dân gian trước đây. Hồn là phần tượng trưng cho thế giới tinh thần cao khiết, kết tinh văn hóa của con người. Còn với xác thì lại là đại diện để tượng trưng cho những nhu cầu, bản năng của con người. Có thể nói bi kịch xảy ra là hồn không thể nào tìm thấy sự bình yên trong chính cái xác ấy, trong chính gia đình mình và cả trong gia đình hàng thịt, cuối cùng đã chọn giải pháp là cái chết.

Có thể thấ tài năng của Lưu Quang Vũ, từ một cốt truyện dân gian đơn giản nhưng ông đã nhìn thấy được sự phức tạp khó đoán của sự việc, và qua đó ông đã gửi gắm một triết lý nhấn sinh và chính Lưu Quang Vũ đã làm cho câu truyện dân gian kia thực sự đến được với bạn đọc.

Thật dễ nhận thấy rằng bi kịch đã xảy ra khi hồn Trương Ba sống lại trong xác hàng thịt. Và đây được nhận xét là bi kịch chính, bi kịch nội tại của nhân vật trong thể xác thô phàm đầy bản năng, đầy sự nhục dục của anh hàng thịt. Hồn Trương Ba được biết đến là từ trước nay vốn nhân hậu, nay dần dần đổi khác đi đó là thích uống rượu, thích bán thịt, không còn mặn mà với trò chơi thanh cao trí tuệ. Cũng như đã ý thức được điều đó, hồn Trương Ba vô cùng đau khổ. Và có thể nhận ra rằng càng đau khổ khi không giải quyết được mâu thuẫn. Hồn Trương Ba như đã vùng vẫy càng cố gắng thoát khỏi sự chi phối của thân xác thô phàm thì càng bị thân xác ép buộc.

Chính vì vậy, hồn Trương Ba mới có được những khát vọng mãnh liệt và Trương Ba như muốn thoát ra khỏi thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn càng đau khổ vì mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ không còn là người làm vườn chăm chỉ, hết lòng yêu thương vợ con mà biến thành một người thô lỗ vụng về. Trong cuộc đối thoại với xác hàng thịt, dường như ta dẫ thấy hồn Trương Ba bị đẩy vào thế yếu, đuối lí còn xác hàng thịt ngày càng thắng thế bởi xác có sức mạnh riêng của nó. Xác lúc này đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể để thấy sự chi phối của mình. Đó là cảm giác xao xuyến không thể khướt từ trước món ăn như tiết canh, cổ hũ…, đó là cảm giác: “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực” khi đứng bên cạnh người vợ hàng thịt…Đó còn chính là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”. Dường như những dẫn chứng đó là sự thật khiến hồn Trương Ba cảm thấy xấu hổ, ti tiện, xác còn chế nhạo với cái lí lẽ mà hồn Trương Ba bao lâu nay chỉ đưa ra để ngụy biện: “ta vẫn có một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Xác đồ tể lúc này cũng đã nhận thấy những lí lẽ của hồn Trương Ba ngày càng đuối dần nên đã ép hồn thỏa hiệp với mình. Có thể thấy những lí lẽ mà xác đưa ra là cả 2 đã hòa làm một mà không thể tách rời. Và câu nói đầy suy nghĩ “Hồn cứ thỏa mãn nhu cầu của xác rồi làm điều xấu lại đổ cho xác”.

Có thể thấy rằng trong cuộc đối thoại này xác dường như đã thắng thế nên rất hả hê. Lúc thì mỉa mai, khi thì châm chọc. Còn hồn thì lại trở lên vô cùng đau khổ, xấu hổ vì những điều xác nói ra mà mình thì không muốn thừa nhận. Quả thực hồn đã bị xác chi phối toàn bộ.

Có thể thấy xung đột kịch lúc này như chưa được giải quyết, chưa dừng lại. Tuy nhiên, thật không khó có thể nhận thấy qua cuộc đối thoại giữa hồn và xác, người đọc nhận ra những hàm ý sâu xa mà tác giả Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm trong đó. Thể xác được nhìn nhận là một tiếng nói bản năng của con người, trong con người có phần tự nhiên và phần xã hội. Con người tự nhiên thì cũng đã có tiếng nói riêng, nhu cầu riêng, bản thân nhu cầu đó ta phả khẳng điịnh nó không xấu, con người cũng phải đáp ứng được những nhu cầu tự nhiên đó. Thể xác dường như lại có những tác động ghê gớm đối với tâm hồn. Chính vì vậy, con người luôn luôn phải đấu tranh và tự đấu tranh mạnh mẽ với chính mình để vượt lên những đòi hỏi sai lạc của thể xác, để có thể vượt lên những dung tục của đời thường. Trương Ba đã được sống trở lại nhưng lại sống với một cuộc đời không máy suôn sẻ, hồn Trương Ba như cảm thấy mình càng ngày càng bị biệt lập và cô lập hơn. Qua đó tác giả như muốn nhắn nhủ phải hoàn thiện môi trường cũng như hoàn cảnh sống thì lúc đó con người mới có thể sống và để hoàn thiện nhân cách cũng như bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc.

Có thể nói cuộc đối thoại của Trương Ba với người thân như càng cắt cứa thêm những sự buồn tủi và tuyệt vọng biết bao nhiêu.

Cuộc đối thoại với người vợ thì ông lúc này đã không còn nhận ra mình nữa. Người vợ tảo tần sơm hôm mà ông vô cùng yêu thương giờ đây cũng không nhận ra ông nữa, câu nói dầy buồn thương đó là “Ông có còn là ông nữa đâu” như đã gợi lại trong ta biết bao nhiêu suy nghĩ và buồn thương cho ông. Và ông như bị khước từ trước người thân của mình. Không chỉ dường lại ở đó ngay cả đứa cháu gái ông, nó như càng yêu quý ông nó bao nhiêu thì nó lại không thể chấp nhận được người ông mang thể xác thô kệch, vụng về đã làm nát những cây sâm quý hay cả làm hỏng cánh diều mà cu Tị nhờ Trương Ba sửa giúp. Bé Gái nó như thật giận dữ và không chấp nhận Trương Ba “Cút đi, lão đồ tể cút đi”.

Ngay cả chị con dâu, một người rất mực sâu sắc và hiểu lẽ đời nhưng trước hoàn cảnh thực tại phũ phàng chị như thấm và hiểu nỗi đau đó của cha mình nhưng chị cũng đã phải cắm răng nghẹn lời mà nói thật lòng mình “”nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy…mỗi ngày thầy 1 đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, …đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”

Có thể thấy tất cả những thành viên trong gia đình Trương Ba như đã nhận ra một sự trái lệch với một Trương Ba thanh cao trước đây và Trương Ba hiện tại. Trương Ba lúc này như đã rơi vào trạng thái cực kỳ cô đơn và lạc long đến tột độ. Có thể thấy đỉnh điểm xung đột xuất hiện khi mà hồn Trương Ba đã quyết định thắp hương để gọi Đế Thích

Thông qua cuộc đối thoại với Đế Thích, người đọc như đã nhận ra quan niệm về hạnh phúc, về cái chết. Hồn Trương Ba lúc này đã dứt khoát thể hiện niềm khát khao qua lời thoại: “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”; “sống nhờ vào đồ đạc, của cải đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết!”

Những lời thoại chân thật và thể hiện sự quyết đoán của hồn Trương Ba chính là cốt lõi tư tưởng mà Lưu Quang Vũ gửi gắm. Con người được biết đến là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Con người chỉ thực sự hạnh phúc và nhận được hạnh phúc khi con người được là chính mình. Và có thể nói sự sống của con người là rất đáng quý nhưng để sống thực sự cho ra cuộc sống của con người mới là điều quan trọng. Sống là không được chắp vá, và cũng không được vay mượn. Ý nghĩa đích thực của cuộc sống chính là việc con người được sống trung thực với vạn vật và với chính bản thân mình.

Hồn Trương Ba lúc này đã thật dứt khoát xin Đế Thích cho mình được chết. Ông không nghe theo giải pháp nhập vào hồn cu Tị, và ông cũng không thỏa hiệp với Đế Thích rằng thế giới này không trọn vẹn. Một vị thần tiên lại có thể đi chấp nhận một cuộc sống giả tạo nhưng một con người thì không. Qua đây ta cũng như đã thấy Trương Ba là con người sáng suốt, giàu lòng tự trọng, ý thức sâu sắc về cuộc sống đích thực.

Lẽ ra vở kịch nên kết thúc ở chỗ khi mà hồn Trương Ba chết, anh hàng thịt chết, cu Tị chết, nhưng Lưu Quang Vũ đã chắc chắn như không rơi vào tâm trạng hoài nghi, bi quan bởi vì hồn Trương Ba đã thuyết phục Đế Thích để cu Tị sống lại, còn hồn Trương Ba- là một người làm vườn nhân hậu, người đánh cờ thanh tao vẫn sống trong ánh lửa nấu cơm, trong vườn cây, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây…

Lưu Quang Vũ dường như cũng đã gửi gắm vào sự lựa chọn của hồn Trương Ba những trăn trở, và cũng có cả những day dứt và cả niềm tin mãnh liệt vào con người. Bằng cái chết của mình, dường như Trương Ba đã gìn giữ được những kỉ niệm tốt lành, đã giữ cho các thế hệ sau niềm tin vào con người, cuộc sống. Hình ảnh hai đứa trẻ như gắn bó, yêu thương và hạt na cái Gái vùi vào đất: ” Cho cây xanh nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…” Lời dạy của ông nội chính là niềm hi vọng, niềm tin mãnh liệt của tác giả vào “những điều không thể mất” trong mỗi con người

Qua vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lưu Quang Vũ cũng như đã góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Con người ngày càng đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường, và họ như muốn thỏa mãn những nhu cầu của bản năng, đến nỗi trở nên phàm phu, tục tử không hề tốt.

Nhưng lại có một xu hướng ngược lại đó là việc lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống linh hồn là cái cao nhất, không chăm lo gì đến đời sống vật chất, không chịu phấn đấu vì hạnh phúc trọn vẹn

Vở kịch còn phê phán tình trạng con người sống giả dối, không dám sống là mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người vào chõ tha hóa do danh và lợi. Nhưng kịch của Lưu Quang Vũ có được sức sống lâu dài là bởi những triết lý sâu sắc thực sự có ý nghĩa đối với muôn đời. Vở kịch cũng đã cho ta những bài học về lẽ sống, chết, về hạnh phúc. Cuộc sống thật đáng quý biết bao nhiêu nhưng không phải sống thế nào cũng được. Hạnh phúc chân chính của con người chính là việc được sống trọn vẹn, sống thật với chính mình, với mọi người.

Qua vở kịch, người đọc dường như cũng cảm nhận được tài năng của Lưu Quang Vũ. Vở kịch là sự kết hợp hoàn hảo giữa tính hiện đại và giá trị truyền thống, giữa những sự phê phán mạnh mẽ, quyết liệt và đậm chất trữ tình đằm thắm, giữa triết lý sâu sắc và lời văn bay bổng, lãng mạn.

Phân tích triết lý sống trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt 52

Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một vở kịch nổi tiếng được Lưu Quang Vũ xây dựng dựa trên một câu chuyện dân gian về nhân vật Trương Ba giỏi chơi cờ và cái chết oan ức của ông. Thế nhưng điểm mới của vở kịch này chính là một kết thúc hoàn toàn khác với kết thúc truyện dân gian. Thông qua vở kịch, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, đồng thời kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống đương thời.

Dựa trên cốt truyện dân gian, vở kịch cũng xây dựng nhân vật Trương Ba là một lão nông làm vườn hiền lành, được mọi người yêu quý và rất giỏi chơi cờ. Nam Tào vì tắc trách trong công việc cho nên bắt chết nhầm Trương Ba. Đế Thích – một vị tiên cờ và cũng là bạn của Trương Ba – đã giúp hồn Trường Ba nhập vào xác anh hàng thịt cũng vừa mới chết. Trong truyện dân gian, kịch tính được xây dựng là cảnh hai bà vợ cùng tranh chồng trên quan nha. Và sau thì vợ Trương Ba thắng kiện và đưa chồng mình về nhà.

Không dừng lại ở một kết thúc đẹp như vậy, Lưu Quang Vũ đã tiếp tục khai thác kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương Ba được sống trong xác anh hàng thịt thì cuộc sống của ông lại trở nên éo le, khập khiễng. Quá đau khổ và tuyệt vọng, cuối cùng Trương Ba đã xin Đế Thích cho mình được chết hẳn, vì “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”. Xây dựng tình huống đầy kịch tính và cách giải quyết tình huống như vậy, Lưu Quang Vũ muốn thể hiện một triết lý về lẽ sống: cuộc sống thật đáng quý, nhưng không phải sống thế nào cũng được. Nếu sống vay mượn, chắp vá, không có sự hòa hợp về tâm hồn và thể xác thì con người chỉ gặp những bi kịch mà thôi. Cuộc sống chỉ thực sự hạnh phúc khi chúng ta được sống là chính mình, được hài hòa cả về thể chất lẫn tinh thần. Đây cũng chính là nội dung tư tưởng chủ đạo mà tác phẩm muốn hướng đến.

Để làm nổi bật tư tưởng này, Lưu Quang Vũ đã xây dựng những xung đột xung quanh nhân vật Trương Ba để cho người đọc người xem thấy được sự khập khiễng giữa “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Trước hết là xung đột thể hiện qua màn đối thoại giữa hồn và xác. Đây cũng là xung đột chính, xung đột có tính quan trọng nhất trong vở kịch.

Trương Ba trước kia vốn nhân hậu, nhưng từ khi nhập vào xác anh hàng thịt bỗng dần đổi khác: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt, không còn mặn mà với thú vui thanh cao trí tuệ. Điều ấy làm cho hồn Trương Ba vô cùng đau khổ và ghê tởm thân xác kềnh càng, thô lỗ mà mình đang mang. Chính vì thế mà hồn Trương Ba muốn được sống là một ông Trương Ba chăm chỉ hiền lành nhưng lại bị cái xác chế giễu, bị ép phải thoải mãn những yêu cầu phàm tục. Những lý lẽ mà hồn Trương Ba đưa ra dần đuối lý và ngày càng nhận trở nên bất lực, chỉ biết thở dài buông ra những lời tuyệt vọng bởi hồn đang ngày càng bị xác chi phối mạnh mẽ.

Cuộc xung đột này đã cho thấy, thể xác cũng có tiếng nói bản năng, cũng có những nhu cầu đòi hỏi phải được đáp ứng. Chính vì thế, ý thức của con người cũng chịu một phần sự chi phối của thể xác. Nhưng con người, cần phải biết hòa hợp, luôn phải đấu tranh và tự đấu tranh với chính mình để vượt lên những đòi hỏi sai lệch của thể xác và những dung tục đời thường.

Sự khập khiễng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” không chỉ khiến cho bản thân Trương Ba cảm thấy khổ đâu mà còn gây nỗi muộn phiền cho người thân. Những lời đối thoại của hồn Trương Ba với những người thân trong gia đình đã cho thấy một Trương Ba rất khác. Vợ ông cảm thấy đau khổ và buồn bã hơn cả khi ông mất. Cháu gái của ông còn xua đuổi ông vì bàn tay to bè, chân như cái xẻng đã thô lô giẫm chết mấy chồi non mà ông nội Trương Ba của nó trồng. Chị con dâu vốn là người hiểu biết và rất mực thông cảm cho ông cũng phải thừa nhận: “có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”.

Có thể thấy rằng trong mắt những người thân của mình, Trương Ba đã biến thành một con người khác. Dù ông có cố gắng thế nào thì cũng không thể trở lại hình ảnh một ông lão làm vườn chăm chỉ, hiền lành được mọi người yêu quý. Dù Trương Ba có sống lại nhưng trong xác anh hàng thịt, mọi người thân đều không thể cảm thấy được đây là chồng, là cha, là ông của mình. Bi kịch ấy chính là bi kịch sống mà không được thừa nhận. của hồn Trương Ba lúc này là bi kịch không được thừa nhận.

Bản thân mình không chấp nhận được mình và gia đình cũng không thể chấp nhận được con người mình, hồn Trương Ba trở nên vô cùng đau khổ và tuyệt vọng. Chính vì thế mà Trương Ba đã có một quyết định dứt khoát: “Tôi không muốn nhập vào hình thù của ai hết. Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!”. Ngay cả khi Đế Thích thuyết phục hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tỵ nhưng ông vẫn quả quyết: “cứ để cho tôi được chết hẳn”. Bởi lẽ, “không thể bên trong 1 đằng, bên ngoài 1 nẻo được” và sống nhờ vào thân xác của người khác thì không còn là chính mình, như thế thì cuộc sống không phải là sống mà chỉ là một chuỗi bi kịch mà thôi. Đây có thể nói là một tư tưởng, một lẽ sống hết sức lớn lao. Vì ý nghĩa đích thực của cuộc sống là con người được sống với chính mình. Mọi sự giả tạo, chắp vá đều không thể đem lại sự thoải mái và hạnh phúc.

Kết thúc vở kịch, hồn Trương Ba đã rời khỏi xác anh hàng thịt tưởng chừng như là một cái kết không có hậu nhưng đó lại là cái kết đẹp nhất. Lưu Quang Vũ đã để một cái kết khiến người đọc vừa thở phào vừa phải trăn trở suy nghĩ. Cu Tỵ sống lại, còn hồn Trương Ba vẫn sống trong ánh lửa nấu cơm, trong vườn cây, trong những điều tốt lành xung quanh mọi người. Đó chính là một cái kết viên mãn nhất, trong đó con người cần phải sống cho ra sống, sống là đích thực chính mình.

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã cho chúng ta thấy những bài học về lẽ sống, về cái chết và về hạnh phúc của con người. Qua vở kịch, Lưu Quang Vũ cũng thể hiện sự phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Con người sống mà chỉ biết đến thỏa mãn những đòi hỏi tầm thường mà dần đánh mất mình. Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi mà được sống là chính mình, được hòa nhập với cộng đồng, với xã hội.

Phân tích triết lý sống trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt 53

Vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một tác phẩm kinh điển nổi tiếng của tác giả Lưu Quang Vũ được xây dựng trên câu chuyện truyền miệng trong dân gian về một nhân vật có học nho nhã có tài chơi cờ nhưng bị chết một cách oan ức.

Trong vở kịch của Lưu Quang Vũ có kết thúc khác với lại câu chuyện dân gian. Nếu như triết lý sống của câu chuyện gốc trong dân gian chỉ đơn giản nói về sự quan trọng của linh con người. Thi trong vở kịch của tác giả Lưu Quang Vũ triết lý sống của ông thể hiện sự hòa hợp giữa tâm hồn và thể xác chúng có mối quan hệ tương tác với nhau. Cũng như những nhu cầu tự nhiên và nhân cách. Con người ta có thể cố gắng hoàn thiện mình để có thể sống tốt hơn.

Nội dung của vở kịch nói lên nhân vật Trương Ba một lão nông hiền lành, được mọi người xung quanh yêu quý và có tài chơi cờ giỏi nổi tiếng. Nam Tào một người phụ trách công việc “Sổ đen” ông này nắm sinh tử trong tay. Nếu ông ta chấm ai người ấy sẽ hết thời gian sống tại trần gian. Do tắc trách nên Nam Tào đã chấm nhầm Trương Ba khiến ông phải chết oan, Đế Thích một nhân vật thích chơi cờ vốn là bạn của

Trương Ba giúp cho Trương Ba lấy xác hoàn hồn bằng cách lấy hồn của Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết chưa kịp đem đi chôn. Từ nay câu chuyện bắt đầu những bi kịch tình huống gây cấn, thu hút người xem.

Cốt truyện trong dân gian thì bi kịch chỉ xảy ra khi hai bà vợ là vợ Trương Ba và vợ của anh hàng thịt xảy ra tranh chấp về người chồng của mình ai cũng cho rằng đây là chồng mình. Sau cùng tòa xử cho vợ Trương Ba thắng kiện đưa được chồng về nhà chung sống.

Tuy nhiên, trong vở kịch của tác giả Lưu Quang Vũ không chỉ dừng lại như vậy tác giả khai thác sâu hơn đi vào tính cách nhân vật. Khi hồn Trương Ba được sống trong cơ thể anh hàng bán thịt cuộc sống của ông thật sự rất bi đát, éo le vô cùng. Bởi những nhu cầu thể xác đòi hỏi, nhưng nếp sống trần tục khiến cho linh hồn của Trương Ba vô cùng đau khổ, bởi Trương Ba vốn là người nho nhã, được mọi người yêu quý thì nay ông trở thành kẻ phàm phu tục tử…

Nên ông đã gặp Đế Thích xin cho mình chết thật, không cần phải hoàn hồn. Tác giả muốn gửi gắm tới người xem một triết lý sống cao đẹp, của con người có tâm hồn thanh cao, muốn giữ danh dự trong sạch chứ không cần sống mà làm cho hình ảnh của mình trong mắt mọi người trở nên hoen ố, dung tục.

Cuộc sống sẽ chỉ thật sự có được hạnh phúc nếu con người được sống đúng là mình mà thôi. Nếu sống mà phải vay mượn thân xác người khác thì cuộc sống sẽ chỉ toàn bi kịch.

Nếu sống vay mượn, chắp vá, không có sự hòa hợp về tâm hồn và thể xác thì con người chỉ gặp những bi kịch mà thôi. Cuộc sống chỉ thực sự hạnh phúc khi chúng ta được sống là chính mình, được hài hòa cả về thể chất lẫn tinh thần. Đây cũng chính là nội dung tư tưởng chủ đạo mà tác phẩm muốn hướng đến.

Tác giả Lưu Quang Vũ đã xây dựng nhiều tình huống dở khóc dở cười khi hồn Trương Ba nhập vào anh hàng thịt. Trương Ba vốn là người thanh cao, nho nhã nhưng từ khi ở trong thân xác của anh hàng thịt ông bỗng thèm ăn ngon, vì anh hàng thịt ngày nào cũng ăn ngon quen miệng. Thèm rượu thịt không còn thích những thú vui thanh cao trước đây ông vẫn thích. Nên Trương Ba vô cùng buồn bã. Một nhân vật
Trương Ba chăm chỉ, hiền lành được mọi người yêu mến kính nể nay vì các xác to kềnh càng ham muốn nhiều nên trở thành kẻ phàm phu tục tử. Sức mạnh của những ham muốn trong thể xác kia của cái phần con kia càng ngày càng lớn nó chiến thắng ý chí của tâm hồn, kiến cho Trương Ba ước gì mình chết hẳn đi có lẽ sẽ tốt hơn.

Cuộc đấu tranh này thực chất là cuộc đấu tranh giữa tâm hồn và thể xác, giữa phần nhu cầu bản năng và sự khống chế bản năng của con người. Nó thực chất là cuộc chiến đấu giữa phần con và phần người trong mỗi chúng ta. Phần con luôn là những đòi hỏi để phục vụ sự sống, duy trì những điều khiến con người có thể tồn tại được. Còn phần người chính là linh hồn, là sự thanh cao trong suy nghĩ hướng con người ta tới những điều chân- thiện- mỹ.

Chính sự lệch chuẩn, khập khiễng giữa tâm hồn và thể xác khiến cho bản thân nhân vật Trương Ba cảm thấy mình sống mà như đã chết cảm thấy buồn phiền, ảo não. Những lời đối thoại của linh hồn Trương Ba với những thành viên trong gia đình của mình cho ta thấy một ông Trương Ba hoàn toàn khác. Chính vợ của Trương Ba còn cảm thấy đau khổ, buồn bã hơn cả khi ông chết thật.

Cô cháu gái thì xua đuổi không cho ông bé mình vuốt ve mình vì bàn tay to bè, thô lỗ, chân thì to như cái xẻng, bàn chân ông dẫm xuống đất làm chết mấy cây xanh mà ông nội Trương Ba của cô bé đã trồng trước kia. Cô con dâu của ông vốn là người thương yêu quý trọng bố chồng mình thì nay cũng phải thốt lên rằng “chính con cũng có lúc không nhận ra thầy nữa…”

Đến người thân yêu nhất trong gia đình mà còn không thể chấp nhận ông trong thân xác của anh hàng thịt, thì ông còn sống trên đời này để làm gì nữa. Tâm hồn Trương Ba vô cùng tuyệt vọng nên ông đã có một quyết định liều lĩnh và dứt khoát “Tôi không muốn nhập và hình của ai hết. Tôi đã chết , hãy để tôi chết hẳn”

Vở kịch kết thúc khi linh hồn của nhân vật Trương Ba đã hoàn toàn rời khỏi xác anh hàng thịt và ra đi vĩnh viễn. Nhiều người xem cho rằng kết thúc như thế thì Trương Ba không phải chết nhưng rồi vẫn chết thật, oan uổng cho ông ta quá. Nhưng thực ra đây là cái kết vô cùng viên mãn bởi vì khi Trương Ba quyết định ra đi vào cõi vĩnh hằng ông đã nhường cơ hội sống lại cho một cậu bé tên là cu Tý . Còn Trương Ba ông tuy đã chết nhưng vẫn sống trong lòng những người thân yêu của mình là một Trương Ba nhân hậu, hiền lành nho nhã.

Vở kịch này đã cho chúng ta một triết lý sống mới đó là hãy sống sao cho đáng sống, sống là chính mình như thế ý nghĩa hơn là sống mà vay mượn, phải làm những điều không còn giống mình, đánh mất tâm hồn thanh cao. Sống như phần con mà thôi.

Phân tích triết lý sống trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt 54

Lưu Quang Vũ đến với thể loại kịch nói và thực sự tìm thấy sở trường của mình sau khi đã tham gia sáng tác ở nhiều mảng cả thơ, truyện ngắn mà vẫn chưa để lại nhiều dấu ấn trên văn đàn Việt Nam. Với cái nhìn thấu đáo, mới mẻ và thực tế của một người lính từng trải qua chiến trường và đi qua những năm tháng đất nước đang chuyển mình đổi mới với nền kinh tế bao cấp lạc hậu, nhiều khó Lưu Quang Vũ đã cho ra đời đến gần 50 vở kịch lớn nhỏ, phản ánh nhiều khía cạnh của xã hội lúc bấy giờ. Kịch của ông thời điểm đó rất được người dân ưa chuộng bởi lối viết rất tinh tế, rất đời, lại đậm tính triết lý nhân văn sâu sắc. Trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến vở Hồn Trương Ba da hàng thịt được tác giả dựng lại từ một câu chuyện dân gian cùng tên, nói về bi kịch của một người là Trương Ba chết oan vì sự tắc trách của các quan trên thiên đình, cuối cùng được cho sống lại dưới xác của anh hàng thịt. Sự sống lại kỳ dị ấy của Trương Ba đã khiến cuộc sống của hai gia đình đảo lộn, đồng thời gây nên đau khổ cho chính bản thân ông, vì sống mà trong ngoài bất nhất, không thể sống theo ý mình. Việc biến một câu chuyện dân gian thành một vở bi kịch đã mang đến cho người đọc nhiều triết lý sống sâu sắc, thông qua suy nghĩ, lời thoại của hồn Trương Ba.

Trương Ba vốn là một người làm vườn khéo léo, chăm chỉ, giỏi đánh cờ, lại hiền lành, có lối sống thanh cao, trong sạch nên được mọi người yêu mến kính trọng. Bi kịch bắt đầu khi Nam Tào cai quản sổ sinh tử trên thiên đình vì vội đi dự tiệc mà gạch nhầm tên của Trương Ba, khiến ông chết bất ngờ và đầy oan ức. Chuyện ông chết đến tận gần một tháng sau thì Đế Thích vốn là tiên, đồng thời là bạn cờ tri kỷ của ông, mới biết chuyện. Vì thương cho Trương Ba chết oan uổng, lại tiếc vì mất đi một tay đấu cờ giỏi, thế nên Trương Ba đã khuyên Nam Tào, Bắc Đẩu nên "sửa sai" bằng cách cho hồn Trương Ba được sống lại vào xác anh hàng thịt vừa mới chết hôm qua, bởi lẽ xác của Trương Ba đã bị mục rữa, không thể chứa hồn được nữa. Câu chuyện sống lại kỳ dị của Trương Ba đã đem đến cho cả hai gia đình một phen rối bời, nhưng vì Trương Ba trong xác hàng thịt đã chứng minh được mình là Trương Ba nên quay trở về nhà mình và bắt đầu cuộc sống với thân xác mới. Những tưởng mọi chuyện sẽ êm đẹp, nhưng hàng loạt bi kịch đã xảy đến, khiến Trương Ba vô cùng đau khổ. Nếu như theo cốt truyện dân gian cũ, thì sau khi Trương Ba về nhà với thân xác mới thì ông tiếp tục an hưởng cuộc sống với vợ con mình, mang đến một triết lý rất đơn giản: Đề cao sự quan trọng, tuyệt đối của phần hồn, đem tách rời giữa linh hồn và thể xác làm hai khía cạnh, trong khi hồn nắm giữ mọi tư tưởng, quyết định, còn xác chỉ đơn giản là cái xác, không có hồn thì xác chỉ là một cái túi thịt không hơn không kém, không có suy nghĩ, tư tưởng. Tuy nhiên đến với ngòi bút của Lưu Quang Vũ, mối quan hệ giữa hồn và xác được nhìn nhận một cách sâu sắc và đậm tính triết lý. Tác giả vẫn đi vào khẳng định vai trò cao hơn của linh hồn, thông qua các sự kiện Trương Ba nhớ ký ức của mình, cũng như tình cảm dành cho gia đình và dẫn theo xác anh hàng thịt về nhà sinh sống, cùng với việc các thành viên trong gia đình qua những cử chỉ, thói quen và ký ức chính xác của Trương Ba cũng nhanh chóng chấp nhận Trương Ba dưới xác anh hàng thịt, mặc dù điều đó là rất khó khăn. Tuy nhiên Lưu Quang Vũ không chỉ đơn giản là khẳng định vai trò của linh hồn so với thể xác, mà còn đưa ra mối quan hệ mật thiết gắn bó hữu cơ giữa phần xác và phần hồn. Linh hồn Trương Ba sau một thời gian sống trong xác anh hàng thịt thì dần nhận ra sự thay đổi của bản thân, mà chúng ta gọi đó là sự tha hóa. Ông bắt đầu thích uống rượu, ăn tiết canh, thích ăn ngon, nước cờ đi cũng khác xưa, thậm chí ông còn ham bán thịt lợn hơn cả chơi cờ. Trước sự thay đổi đến mức bị người hàng xóm phê bình rằng ông đổi tính, đổi nết Trương Ba đã rất đau khổ, ông cảm thấy căm ghét và ghê tởm cái thể xác âm u, đui mù này ghê gớm, ông ước mình có thể thoát khỏi nó dù một chút thôi. Như vậy ta có thể nhận thấy rằng bản thân Trương Ba bắt đầu chán ghét cuộc sống hồn một đằng, xác một nẻo và ông bắt đầu nhận thức được sự không thích hợp của cả hai, thế nên ông mới cảm thấy ngột ngạt và muốn thoát khỏi nó để dễ thở hơn. Sự không hòa hợp giữa hồn và xác càng được làm rõ thông qua cuộc tranh luận giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt. Hồn Trương Ba luôn tự tin vì mình có một tâm hồn trong sạch, thanh cao, khác hẳn với cái xác tầm thường chỉ toàn những ham muốn phàm tục. Thế nhưng những tưởng hồn sẽ thắng thế, nhưng cái xác với giọng điệu mỉa mai, lý lẽ sắc bén đã liên tục phản biện lại, nó chỉ ra bản thân hồn Trương Ba đã thay đổi ra sao, thích ăn ngon, thích uống rượu, hơn thế nữa còn chút nữa thì không kiềm lòng được trước người vợ trẻ trung của anh hàng thịt trong một đêm nọ, chỉ ra việc ông đã tát thằng con trai đến hộc cả máu mồm việc mà trước đây ông chẳng bao giờ làm thế,... Những biểu hiện tha hóa ấy đã giáng một cái tát thật mạnh vào hồn Trương Ba khiến ông thấy xấu hổ vô cùng vì sự đổ đốn kỳ lạ của bản thân. Thế nhưng Trương Ba vẫn không chấp nhận sự thật rằng bản thân đã thay đổi, ông cố chấp cho rằng chính những cái ham muốn tầm thường, nhục dục của cái xác "âm u, đui mù" đã làm vấy bẩn linh hồn ông, khiến ông thay đổi mặc dù bản thân ông không muốn. Nhưng xác lập tức vạch trần sự hoang mang của hồn bằng việc chỉ trích ông là kẻ ưa sĩ diện, hay tự ái, mỗi khi tham gia vào việc gì xấu xa thì lại muốn đẩy hết trách nhiệm cho cái xác, để bản thân mình được thanh thản và tâm hồn vẫn luôn cao khiết, thánh thiện. Như thế có thể thấy tuy phần hồn Trương Ba vẫn luôn muốn điều khiển sự ham muốn cái xác, tuy nhiên vì sự không phù hợp về bản chất thế nên ngược lại ông bị cái xác người hàng thịt chi phối lại, và thường làm ra những chuyện khác xa với bản tính trong vô thức, đến khi nhận ra thì lại hối hận không kịp. Từ đó ta rút ra một triết lý rằng giữa phần hồn và phần xác phải có một sự thống nhất hữu cơ chặt chẽ, xác nắm giữ vai trò nhận thức lý tính, là cơ sở để chứa đựng linh hồn, đồng thời cho linh hồn nhận thức cảm tính, xây dựng nên vẻ đẹp của tâm hồn, cả hai phải phối hợp chặt chẽ ăn ý với nhau, thì mới có thể trở thành một con người toàn vẹn và sống đúng với bản thân mình được. Bản thân xác thịt cũng có những như cầu nhất định, được ăn uống chăm sóc, mà các nhu cầu sinh lý khác cần được thỏa mãn, nhưng phần hồn phải khống chế và điều khiển được những nhu cầu ấy sao cho hợp lý, chứ không thể bị xác thịt điều khiển. Bởi vì là một thực thể thống nhất, trong đó linh hồn là nắm giữ vai trò trọng yếu hình thành nên nhân cách, tư tưởng, chính vì vậy nó phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với những gì xác thịt đã tạo nên, chứ không thể giống như hồn Trương Ba, rõ ràng đã "dung túng" cho thể xác, rồi cuối cùng lại đổ hết tội lỗi cho nó để bảo vệ sĩ diện của mình. Có thể thấy rằng cuộc tranh luận gay gắt giữa hồn và xác chính là cuộc đấu tranh liên tục trong mỗi cá nhân, là sự đấu tranh tư tưởng giữa linh hồn và thể xác trong cuộc sống để hoàn thiện nhân cách đạo đức, và rèn luyện được khả năng làm chủ bản thân, giữ cho phần "người" ưu thế hơn phần "con" của chính chúng ta trong xã hội.

Triết lý thứ hai nữa của tác phẩm nằm ở việc hồn Trương Ba quyết định trả lại xác cho anh hàng thịt, còn mình thì chấp nhận chết đi thật sự. Hồn Trương Ba đã khẳng định với Đế Thích "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn". Nhân vật này đã nhận ra sự chắp vá kệch cỡm kỳ dị này là vô cùng vô lý, nó đã khiến cho ông và cả những người xung quanh ông phải chịu đau khổ, giày vò, thà rằng ông thật sự chết hẳn thì có lẽ giờ đây gia đình ông đã yên ổn trở lại, và mọi người vẫn nhớ về ông với tấm lòng thương yêu, kính trọng chứ không phải là sự lạ lẫm, ghê sợ, và xa lánh như ngày hôm nay. Thế nên ông quyết trả lại xác cho anh hàng thịt, để bảo vệ cho phần hồn của mình được những giá trị cao khiết, trong sáng chứ không phải sự đổ đốn vì sự chi phối của xác thịt. Đó chính là một lựa chọn đúng đắn, sáng suốt và đầy đạo đức, người ta không thể vì ham sống mà làm hại những người xung quanh mình phải khổ sở được. Hơn thế nữa người ta cũng không thể sống mà hồn một đằng xác một nẻo, không thống nhất biện chứng với nhau được, điều ấy được chỉ ra trong vở kịch, người ta đã nhìn nhận rất rõ sự sai lệch giữa linh hồn và thể xác, khiến nó trở thành một sự chắp vá kệch cỡm vô cùng. Linh hồn Trương Ba thích làm vườn, lại chăm chỉ, khéo léo và rất yêu cây, khi sống trong xác hàng thịt ông vẫn giữ thói quen ấy, thế nhưng sự thô lỗ, vụng về của cái xác đã làm gãy tiệt cái chồi non, bàn chân to như cái xẻng đã xéo nát hết cả mấy cây sâm quý, rồi đôi tay giết heo đã làm hỏng luôn cả cái diều mà cu Tị hằng yêu quý,... Sự không thống nhất, đã khiến cho mọi việc trở nên bung bét cả ra, bởi những công việc khéo léo, tỉ mẩn ấy không dành cho người vai u thịt bắp quen việc giết mổ, mà là để dành cho người có đôi bàn tay cẩn thận, gầy guộc giống như cái xác cũ của Trương Ba thì mới phù hợp. Cuối cùng người đọc rút ra một chân lý rằng người ta chỉ có thể sống một cách toàn vẹn và chân thực khi có sự thống nhất ăn ý giữa hồn và xác, chứ không phải kiểu chắp vá hồn một đằng xác lại một nẻo được.

Một chi tiết khác cũng đậm tính triết lý trong truyện ấy là việc Đế Thích gợi ý cho hồn Trương Ba ngụ vào xác của cu Tị, nhưng Trương Ba từ chối. Đó lại cũng là một thử thách lớn đối với hồn Trương Ba, bởi Đế Thích cho rằng ông không thích cái xác thô lỗ của anh hàng thịt, có lẽ ông sẽ thích xác của cu Tị hơn. Thế nhưng Trương Ba đã từ chối, ông chấp nhận cái chết, chứ không giẫm vào vết xe đổ ấy lần nữa bởi bi kịch không thể tiếp tục tái diễn bằng một bi kịch tương tự nữa. Từ đó ta hiểu ra rằng trong cuộc chiến đấu gay gắt giữa phần hồn (phần người) - tượng trưng cho sự cao khiết, thanh sạch và phần xác (phần con) - tượng trưng cho những khao khát, nhục dục tầm thường, thì phần người, phần nhân cách cuối cùng cũng chiến thắng, thoát khỏi sự quyến rũ của việc được tiếp tục sống, được tận hưởng. Đó là minh chứng rõ nét nhất cho sự cao thượng, vẻ đẹp của đạo đức và khát khao hoàn thiện nhân cách từ bao đời nay của con người. Có lẽ câu "chết vinh còn hơn sống nhục" nó lại khá đúng trong trường hợp này.

Đọc hết vở kịch của Lưu Quang Vũ ta phát hiện ra rằng ngoài cốt truyện đầy bi kịch và những triết lý chủ đề của tác phẩm , thì bản thân tác giả thông qua lời nhân vật cũng thường xuyên đưa vào những lời thoại mang tính chất triết lý nhân văn sâu sắc, khiến người đọc không chỉ nhìn nhận những nội dung chính như việc sống toàn vẹn thống nhất giữa thể xác và tâm hồn hay việc đấu tranh để hoàn thiện nhân cách cao thượng của con người, mà còn học thêm được nhiều điều khác. Khiến độc giả được mở rộng được tầm nhìn của mình với cuộc sống ví như trích lời Trương Ba: "Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm", nhằm khuyên nhủ con người không nên vì lòng ích kỷ của cá nhân mà gượng ép sửa chữa để rồi cuối cùng mọi chuyện càng trở nên không thể cứu vãn được, đồng thời lại còn khiến những người khác phải chịu tổn thương. Như bản thân Nam Tào thì vì tắc trách lại muốn bưng bít tội trạng của mình, còn Đế Thích thì cứ tiếc mãi một người bạn chơi cờ hay, thành thử đã gây nên cho Trương Ba và những người bên cạnh ông ta một loạt các bi kịch. Hoặc khi Trương Ba nói với Đế Thích "ông phải tồn tại lấy chứ", lúc nhân vật này bảo rằng Trương Ba là lẽ sống của mình. Điều đó đã ngầm nhắc nhở mỗi chúng ta rằng bản thân sống không phải là dựa dẫm vào người khác, mà phải có mục tiêu lý tưởng riêng cho bản thân mình, chứ không thể cứ mãi bám theo cái bóng của người khác để tìm kiếm giá trị của bản thân được (bởi Đế Thích đánh cờ với Trương Ba thì luôn thắng).

Hồn Trương Ba da hàng thịt là một vở kịch hay mang đậm giá trị nhân văn và các triết lý nhân sinh sâu sắc, khuyên nhủ con người ta phải biết đấu tranh để hoàn thiện nhân cách của mình, phải sống được là chính mình, không thể sống mà trong ngoài bất nhất rồi cuối cùng phải chịu đau khổ, bi kịch. Bên cạnh đó cũng giáo dục con người không thể vì lòng ích kỷ riêng mà làm những chuyện ảnh hưởng đến người khác. Dẫu kết thúc câu chuyện là bi kịch thế nhưng đó lại là cái kết hợp lý nhất, làm thỏa mãn độc giả hiện đại.

Phân tích nhan đề vở kịch Hồn Trương Ba - da hàng thịt hay nhất 55

    Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ là một trong những vở kịch nổi tiếng đã và đang được nhiều khán giả đón nhận. Qua nhiều tác phẩm để đời, ông đã trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỷ XX, đồng thời được coi là nhà soạn kịch tài năng của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Hồn Trương Ba da hàng thịt được tác giả lấy ý tưởng từ một cốt truyện dân gian, sau đó viết thành vở kịch nói hiện đại. Tác phẩm kể về cuộc hoán đổi thân xác của hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt. Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết. Trú nhờ linh hồn trong xác hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái : lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ… mà bản thân Trương Ba thì đau khổ vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo. Đặc biệt thân xác hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn không phải của chính bản thân ông. Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự phiền toái do mượn thể xác của kẻ khác, Trương Ba quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết.

    Tên vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt đã nói lên phần nhiều cốt lõi chính của câu chuyện. Theo quan niệm dân gian, khi còn sống, con người có hai phần là phần hồn và phần xác. Khi chết đi, hồn lìa khỏi xác. Chỉ có thể xác tan giữa trong đất, còn linh hồn vẫn còn tồn tại mãi. Nhưng để sống được, bắt buộc phải có cả hồn cả xác. Khi Trương Ba bị bắt chết nhầm, thể xác ông đã tan vào trong đất, chỉ còn lại linh hồn. Muốn làm cho Trương Ba sống lại, phải cho hồn ông nhập vào một cái xác khác còn nguyên vẹn. May thay có anh hàng thịt ngay cạnh nhà vừa mới chết. Đế Thích nhân cơ hội cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh ta. Những tưởng sự sống hồi sinh, Trương Ba sẽ vui mừng đón chào cuộc sống mới. Nhưng mọi thứ đều đảo lộn, biết bao nhiêu vấn đề rắc rối, phiền toái xảy ra khiến Trương Ba khó chịu, gia đình ông cũng ngỡ ngàng không biết chấp nhận sự thật này ra sao.

Đúng như lời Trương Ba đã nói: Tôi muốn được là tôi vẹn toàn, không thể nào có sự hoàn hảo trong một cơ thể mà Hồn Trương Ba da hàng thịt, bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Linh hồn Trương Ba khiết tịnh, trong sạch, cao quý, còn anh hàng thịt vốn là người vũ phu, tục tĩu. Làm sao có thể dung hòa được hai khí chất hoàn toàn trái ngược nhau trong cùng một cơ thể ? Ý chí muốn làm việc tốt, nhưng thể xác lại ham mê những thú vui tầm thường. Có khi thể xác còn lấn át ý chí, khiến linh hồn Trương Ba chẳng còn vẹn nguyên như ban đầu. Ông buồn rầu, bực bội. Ông muốn chăm chút cho những mầm non trong vườn, nhưng bàn tay to bè, thô lỗ của xác hàng thịt chẳng thể làm theo ý ông muốn. Thậm chí ông còn làm gãy cái chồi non, cái Gái trông thấy càng thêm ghét ông. Không phải nó ghét Trương Ba, mà nó ghét con người hiện tại của Trương Ba là xác anh hàng thịt. Nó không nhìn thấy sự khiết tịnh của hồn Trương Ba bên trong thân xác kềnh càng, thô lỗ của anh hàng thịt. Còn rất nhiều vấn đề bị đảo lộn trong cuộc sống cũng như trong gia đình Trương Ba. 

    Nhan đề của tác phẩm đã gợi lên một lời khẳng định mang ý nghĩa rất sâu sắc : Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Không thể nào có một tâm hồn cao quý, tốt đẹp khi bên ngoài có những việc làm, hành động xấu xa. Đồng thời đây là bản án vạch tội những kẻ đang sống như Hồn Trương Ba da hàng thịt. Sống nhưng không thật lòng. Hành động và suy nghĩ không thống nhất với nhau. Hồn Trương Ba chỉ ý chí, suy nghĩ, tư tưởng, tâm hồn, còn da hàng thịt chính là phần thể xác, phần thể hiện ra bên ngoài của một con người. Trong xã hội hiện nay, có nhiều kẻ trong đầu đang ủ rất nhiều âm mưu hiểm độc, nhưng bên ngoài lại tỏ vẻ hiền lành đạo đức. Dân gian có câu “miệng nam mô bụng một bồ dao găm” có lẽ rất đúng trong trường hợp này. Miệng nói lời hay nhưng trong lòng thực chất có nhiều dã tâm.

    Một mặt khác, Hồn Trương Ba da hàng thịt còn là lời nhắc khéo cho những ai đang sống nương nhờ vào kẻ khác, vào những thứ không phải là của mình. Như Trương Ba đã nói: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết. Sự sống là món quà quý giá mà tạo hóa ban tặng cho mỗi người. Nhưng phải sống như thế nào cho ý nghĩa mới là điều quan trọng. Sống phải được làm chính bản thân mình, tự làm chủ mọi việc trong đời sống. Đồng thời, nhan đề tác phẩm là lời thức tỉnh cho những kẻ đang lầm đường lạc lối, đang để phần con lên ngôi lấn át phần người. Trên thực tế có không ít kẻ đang ngập ngụa trong con đường tội lỗi, trong những thú vui vô bổ, thậm chí là thác loạn như nghiện hút, trộm cắp…


Tất cả chỉ nhằm mục đích thỏa mãn thể xác. Rồi đến một ngày nào đó thân xác hoang tàn, sức khỏe tiều tụy, họ mới khóc lóc trong sự hối hận muộn màng. Mỗi người hãy tự nhìn nhận lại bản thân mình. Đừng để mình tự rơi vào hoàn cảnh như Hồn Trương Ba da hàng thịt. Sự sống quý giá. Nhưng sống làm chính bản thân mình lại càng quý giá hơn. Hãy để mỗi ngày được sống là một ngày ý nghĩa đáng tự hào. Đó cũng chính là thông điệp sâu sắc nhất mà Lưu Quang Vũ đã muốn gửi gắm vào tác phẩm. Cho tới nay, dù đã nhiều lần công diễn trên sân khấu, nhưng khán giả vẫn luôn đón nhận và tự kiểm điểm bản thân sau mỗi lần xem. 

Phân tích nhan đề Hồn Trương Ba, da hàng thịt 56

Lưu Quang Vũ ( 1948-1988) là một nhà soạn kịch, nhà thơ và nhà văn hiện đại của Việt Nam. Bằng tài năng thiên phú của mình, ông đã để lại rất nhiều các tác phẩm nổi bật trong lòng công chúng Việt nam. Tiêu biểu trong hàng loạt tác phẩm đã làm sôi động sân khấu Việt nam thời kỳ đó là vở kịch” Hồn trương ba da hàng thịt”. Đây là một tác phẩm đặc sắc không chỉ về nội dung mà ngay nhan đề của nó đã khơi gợi lên được sự tò mò về ý nghĩa của câu chuyện.”

    Nhan đề Hồn trương ba, da hàng thịt gợi ngay cho độc giả về hai hình ảnh của “ hồn” và “ da” , cũng như đó chính là hai yếu tố quan trọng của một con người.Trong khi da thịt là phần thân xác cụ thể, là những điều có thực thì hồn là điều rất trừu tượng. Chẳng ai nhìn thấy linh hồn bao giờ, nhưng người ta tin rằng thân xác có chứa đựng linh hồn. Hồn nào thân xác đó, nhưng mâu thuẫn trong vở kịch này lại là hồn một nơi người một nẻo.

    Nếu như da hàng thịt là biểu tượng cho vẻ bề ngoài, thì hồn trương ba là đại điện cho thế giới tâm hồn. Người xưa đã hay nói rằng: “ đừng trông mặt mà bắt hình dong” vì chẳng thể nhìn vẻ bề ngoài mà đánh giá được phẩm chất, nhân cách của một người nào đó. Trong khi hồn trương ba là biểu tượng cho vẻ đẹp thanh tao, thì trái ngược với nó là bộ mặt bặm trợn, xấu xa của thân xác anh hàng thịt. Hai thứ tưởng chừng như chẳng thể hòa hợp nào với nhau lại đang phải bắt cặp, sánh đôi cùng nhau. 

    Tên gọi của vở kịch đã đẩy cao những mâu thuẫn, xung đột bên trong mỗi con người. Nó phản ánh cuộc sống của những con người khi phải rơi vào hoàn cảnh xấu xa, họ có thể có những hành động lời nói thô tục, giả tạo nhưng ẩn sâu vào những tâm hồn ấy là những điều đẹp đẽ. Tác giả lên án xã hội không để cho con người ta được sống với chính mình. Hơn thế nữa, ông còn muốn gửi gắm tới độc giả một thông điệp rằng: dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần cố gắng làm chủ được bản thân, tránh xa những lối sống thô tục bạo trần mà giữ cho bản thân thanh cao, trong sáng. Hãy cố gắng gạt bỏ những ham muốn thấp kém của cá nhân để vươn tới những điều lương thiện trong cuộc sống. Tâm có sáng thì làm việc gì cũng sáng như gương. Điều này cũng sẽ giúp cho tâm hồn và thể xác của ta luôn hòa làm một. Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi ta được sống đúng với những tâm tư, ước mong của bản thân.

    Đọc “ Hồn trương ba, da hàng thịt”, người đọc có thể soi thấy bản thân mình ở trong đó. Đặc biệt thông qua ý nghĩa nhan đề và cái chết của nhân vật Trương ba, người ta càng thấy được khao khát được sống với chính mình của con người càng trở nên mãnh liệt dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. ChẾT không hẳn là kết thúc, mà nó là một cách để ta được thoải mái, thảnh thơi tìm thấy đúng linh hồn của minh.

Phân tích nhan đề Hồn Trương Ba, da hàng thịt 57

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch nổi tiếng của Lưu Quang Vũ, cũng là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của kịch hiện đại Việt Nam. Nhan đề Hồn Trương ba, da hàng thịt là một nhan đề giàu ý nghĩa, không chỉ dẫn dắt người đọc đến với câu chuyện mà còn khơi dậy được trí tò mò, khám phá của tác giả đối với vở kịch.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt được xây dựng dựa trên một câu chuyện dân gian cổ kể về Trương Ba, một người trồng vườn có tài đánh cờ, tuy nhiên vì sự tắc trách của Nam Tào mà bị chết oan, để sửa sai Trương Ba đã được sống lại nhưng không phải trong thân xác của mình mà trong xác của người hàng thịt mới chết trước đó.

Từ khi sống trong thân xác của người hàng thịt, Trương Ba đã trải qua rất nhiều đau khổ, bi kịch khi dần thay đổi theo những thói quen, nhu cầu của người hàng thịt. Câu chuyện dân gian kết thúc ở chi tiết Trương Ba được trở về với thân xác của mình, sống cuộc sống hạnh phúc bên người thân. Vở kịch của Lưu Quang Vũ lại được phát triển từ chính phần kết thúc của câu chuyện để truyền tải những thông điệp sâu sắc về nhân sinh, về mối quan hệ giữa phần hồn và phần xác bên trong con người.

Nhan đề Hồn Trương Ba, da hàng thịt trước hết thể hiện tình trạng của Trương Ba khi được sống lại trong thân xác người hàng thịt, thể hiện sự tương phản, khác biệt giữa phần thể xác bên ngoài và linh hồn bên trong con người. Hồn Trương Ba, da hàng thịt không chỉ là những nhân vật trong câu chuyện, phản ánh bi kịch được đề cập đến trong vở kịch mà còn mang những ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.

Hồn Trương Ba biểu tượng cho tâm hồn trong sạch, đẹp đẽ còn xác người hàng thịt lại là biểu tượng cho phần thể xác với những nhu cầu về vật chất thiết thực của con người. Trong vở kịch, hồn Trương Ba biểu tượng cho vẻ đẹp trong sáng, thanh cao còn da hàng thịt lại là biểu tượng cho cái xấu xa, dung tục, tầm thường. Tuy mang tính đối lập nhưng lại là những phần cùng tồn tại bên trong con người.

Nhan đề “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một đặc sắc nghệ thuật khi phản ánh được thực trạng cuộc sống của con người với mâu thuẫn giữa nhu cầu về vật chất và tinh thần. Nhan đề còn phản ánh được bi kịch của con người khi phải sống bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo, khi những lí tưởng sống đẹp đẽ bị chi phối bởi những nhu cầu vật chất tầm thường nhưng thiết thực.

Thông qua nhan đề “Hồn Trương ba, da hàng thịt” còn thể hiện được những thông điệp sâu sắc của nhà văn Lưu Quang Vũ, đó là sự cảnh tỉnh con người khi không làm chủ được hoàn cảnh, làm chủ bản thân mà bị hoàn cảnh ấy chi phối dẫn đến sự tha hóa, biến đổi bản chất bên trong. Nhu cầu vật chất không xấu, nó là những nhu cầu thành thực, cần thiết nhất của con người nhưng không được để những bản năng xấu xa, tầm thường làm cho nhân cách tốt đẹp trở nên lệch lạc, nhòa mờ.

Được sống và làm người là cơ hội quý giá nhưng được sống với những lí tưởng của bản thân còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa nghi con người sống tự nhiên với sự hài hòa giữa các nhu cầu vật chất, tinh thần, giữa bên trong và bên ngoài của con người.

Nhan đề Hồn Trương Ba, da hàng thịt là nhan đề ý nghĩa vừa góp phần định hướng nội dung vừa chứa đựng những nội dung sâu sắc mà tác giả muốn truyền tải.

Phân tích nhan đề Hồn Trương Ba da hàng thịt 58

Lưu Quang Vũ được xem là một hiện tượng đặc biệt của kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX với nhiều vở kịch đặc sắc như: Hồn Trương Ba, Da hàng thịt,..Một trong những vở kịch in đậm dấu ấn đọc giả nhất là tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Nhan đề vở kịch gợi ra nhiều ý nghĩa sâu sắc, gửi đến độc giả nhiều thông điệp ý nghĩa. Hãy cùng phân tích ý nghĩa nhan đề Hồn Trương Ba, da hàng thịt để thấy rõ thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm nhé

Ngay nhan đề tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt, hai hình ảnh “hồn” và “da” gợi cho người đọc nhiều ấn tượng. “Da” là một bộ phận trên cơ thể con người, có ý nghĩa cụ thể. Còn “hồn” trong từ linh hồn, có ý nghĩa trừu tượng. Hồn và thân xác luôn gắn kết với nhau, hồn nào thì thân xác đó.

Tuy nhiên một mâu thuẫn xảy ra trong vở kịch này là hồn một nơi và người một nơi. Chính nghịch lý đó đã tạo nên sự hấp dẫn cho tác phẩm, chính nghịch lý đã nảy sinh nhiều vấn đề, trong đó có nhiều bài học mà Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm tới tất cả mọi người. Trong vở kịch, Trương Ba bị bắt chết nhầm.

Và khi đó Trương Ba được lấy lại sự sống tưởng chừng ông sẽ rất hạnh phúc, ai ngờ đây chính là một bi kịch của cuộc đời ông. Thân xác Trương Ba đã không còn nguyên vẹn mà tan vào trong đất. Muốn ông sống lại chỉ còn cách cho hồn ông nhập vào một thân xác khác còn nguyên vẹn.

Đúng lúc cạnh nhà có anh hàng thịt mới mất, Đế Thích đã cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt. Từ một ông lão có dáng người thanh mảnh, có cốt cách thanh cao, cao quý phải ở trong thân xác một người vũ phu, tục tĩu, thô lỗ. Chính sự đối nghịch giữa hồn và xác đã đảo lộn cuộc sống của Trương Ba và gia đình.

Nhan đề tác phẩm đã khẳng định ý nghĩa sâu sắc về vấn đề : Không thể sống trong cơ thể, thể xác của người không phải mình. Một tâm hồn cao quý không thể sống với thân xác của một kẻ xấu xa, tục tĩu. Qua đây, tác giả muốn gửi gắm đến mọi người một thông điệp là hãy sống là chính mình.

Đồng thời, tác giả phê phán, vạch trần bộ mặt những kẻ sống giả dối, sống vụ lợi, “khẩu phật tâm xà”, miệng nói toàn lời hay ý đẹp nhưng trong tâm rất hiểm ác. Trong xã hội có rất nhiều con người như vậy, họ lợi dụng lòng tin, sự tin tưởng để lừa gạt người khác, miệng dùng những lời lẽ đẹp nhưng bản chất lại rất xấu xa.

Đồng thời, nhan đề tác phẩm còn nhắc nhở khéo những ai có thói ỉ lại, thích sống nương nhờ vào người khác, vào những thứ của người khác mà mình không có. Một câu nói của Trương Ba làm nhiều người phải suy nghĩ: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt”. Câu nói của Trương Ba cho thấy ông cảm thấy rất tuyệt vọng, bế tắc khi mình phải sống dựa vào thân xác của một người khác với tính cách hoàn toàn trái ngược mình.

Hơn nữa, nhan đề tác phẩm là lời cảnh tỉnh cho những con người mu muội, chọn sai hướng đi của bản thân, bị những thú vui vô bổ lôi kéo. Những thanh niên bị bạn bè lôi kéo, dụ dỗ vào con đường nghiện ngập. Những cậu học trò ngây thơ, trong sáng lại bị game làm mờ mắt dẫn đến nghiện game rồi đi giết người, ăn trộm, ăn cắp. Tất cả chỉ để thân xác mình được thỏa mãn, rồi một ngày họ nhận ra thì tất cả đã quá muộn, không thể cứu chữa.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một vở kịch đặc sắc, in đậm trong lòng độc giả mỗi khi xem. qua bài viết Phân tích ý nghĩa nhan đề Hồn Trương Ba, da hàng thịt trên đây thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm tới tất cả mọi người chính là: Sống chỉ thật có ý nghĩa khi mình được sống là chính mình, sống có ích cho gia đình và xã hội.

Dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng phải cố gắng làm chủ bản thân để không bị dính vào các thói hư tật xấu. Mỗi cá nhân cố gắng sẽ giúp đất nước phát triển, xã hội phồn vinh, gia đình hạnh phúc.

Thông Điệp Lưu Quang Vũ Gửi Đến Người Đọc Qua Đoạn Trích Hồn Trương Ba- Da Hàng Thịt 59

Lưu Quang Vũ là một nhà viết kịch tài ba của văn học Việt Nam. Ông để lại cho thế hệ sau nhiều tác phẩm có giá trị như Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ hay Nàng Sita. Người nghệ sĩ đa tài Lưu Quang Vũ trong những vở kịch của mình không chỉ khắc hoạ được những nhân vật điển hình với ngôn ngữ đối thoại đặc sắc, tình huống cao trào độc đáo mà còn truyền tải những giá trị lớn về tư tưởng. "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" là một tuyệt phẩm như thế, bằng sự phát triển từ một câu chuyện dân gian" Hồn Trương Ba, da hàng thịt", tác giả đã mang đến những thông điệp lớn cho người đọc về cuộc sống, về lẽ nhân sinh trong đời.

Vở kịch thể hiện mối xung đột giữa phần hồn của một người nông dân nghèo khổ, cần mẫn, chịu khó, giàu lòng yêu thương Trương Ba và xác ông hàng thịt to lớn, thô tục, lười nhác. Vì bị Nam Tào lỡ tay gạch nhầm tên mà Trương Ba phải nhập hồn của mình vào xác anh hàng thịt để sống nhờ. Từ đó, cuộc sống của ông trở nên khó khăn hơn bởi sự khác biệt giữa phần hồn và phần xác. Nếu Trương Ba nhẹ nhàng, cẩn thận, thanh cao bao nhiêu thì xác anh hàng thịt lại thô bạo, tham lam bấy nhiêu. Sự thay đổi của Trương Ba khiến cho mọi thành viên trong gia đình Trương Ba đều cảm thấy lạ lẫm, dù đã cố gắng nhưng vẫn không thể chấp nhận được sự đổi tính của con người trong cái thể xác thô tục kia. Đến cả đứa cháu xưa kia cũng yêu thương ông biết bao nhiêu giờ cũng xa lánh, xua đuổi ông. Điều đó khiến Trương Ba đau lòng vô cùng, cuối cùng ông đã quyết định từ bỏ để giải thoát cho mọi người cũng chính là giải thoát cho chính mình bằng việc đánh đổi mình để mang lại sự sống cu Tý.

Trong tác phẩm, Lưu Quang Vũ đã cho thấy được tấm lòng thương cảm của mình trước những bi kịch của con người, ở đây chính là bi kịch không được sống với chính mình của Trương Ba. Qua đó, tác giả đã lên tiếng vạch trần lối sống giả tạo, sống chạy theo hình thức mà quên đi chính mình, quên đi những giá trị tốt đẹp của bản thân, tự đánh mất bản ngã của mình mà trở nên xấu xa, tồi tệ giữa cuộc sống. Trương Ba lựa chọn cái chết là để bảo vệ cho chính mình, bảo vệ con người mình khỏi những dục vọng, xấu xa tầm thường nhất. Lựa chọn ấy như một sự nhắn nhủ tới người đọc về giá trị đích thực của cuộc sống, ta không thể nào sống hạnh phúc khi phải sống nhờ, sống gửi vào thân xác kẻ khác, không thể nào có được tự do nếu bị chi phối bởi bàn tay điều khiển của người khác. Con người muốn hạnh phúc thì trước hết phải được là chính mình.

Thứ hai, với mỗi người ai cũng có sai lầm, song có khi sai lầm dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng, đặc biệt với những người giữ cương vị khi sai lầm sẽ dẫn đến những đau đớn, bị kịch cho người khác, thậm chí giết chết cả tính mạng của họ. Bởi vậy, trong bất kì mọi việc phải cẩn thận, rõ ràng, tránh gây những hệ lụy thương tâm như ngòi bút "lỡ tay" của Nam Tào.

Thứ ba, sự sống là điều quý giá, sống hạnh phúc và ý nghĩa càng quý giá hơn bao giờ hết. Bởi vậy, sống không chỉ là tồn tại mà sống là phải mang đến những điều tích cực, tốt đẹp cho mình và mọi người. Để sống tốt, con người phải dung hoà được bản thân về lý trí, tâm hồn và cả hình thức bên ngoài, không thể là "bên trong một đàng, bên ngoài một nẻo được". Ai cũng có những nhu cầu về vật chất, cũng có những mong muốn được đẹp đẽ, giàu sang, thoả mãn bản thân nhưng không vì những tham vọng ấy mà đánh mất cả nhân cách của mình.

Cuối cùng, trên đường đời có đầy rẫy những chông gai, có những thử thách, nghịch lý bất ngờ xảy đến mà ta không thể nào đoán trước được. Điều đầu tiên phải bình tĩnh, thay đổi tốt để thích nghi. Đặc biệt, trước những cái xấu xa, ích kỷ phải biết đấu tranh để tồn tại, để giữ vững niềm tin, lý tưởng và cốt cách của mình. Từ đó, vươn tới những chân giá trị cao đẹp để có được cuộc sống trọn vẹn cho mình và cả những người thân yêu của mình.

"Hồn Trương Ba , da hàng thịt" được sân khấu hoá trên nhiều trường học và các sân khấu kịch, phim đã cho thấy độ phổ biến của nó. Những thông điệp sống tích cực được Lưu Quang Vũ tinh tế gửi đến bao thế hệ như một sự nhắn nhủ đến mọi người về lẽ sống, về giá trị sống đích thực, thức tỉnh mỗi chúng ta hãy nhìn nhận và sửa đổi chính mình để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Tác phẩm mãi mãi như một vì sao sáng, qua bao năm tháng vẫn vẹn nguyên những giá trị lớn lao.

Thông Điệp Lưu Quang Vũ Gửi Đến Người Đọc Qua Đoạn Trích Hồn Trương Ba- Da Hàng Thịt 60

Trong truyện cổ dân gian nước ta có truyện Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Từ cốt truyện của truyện cổ dân gian đó, Lưu Quang Vũ đã phát huy năng lực sáng tạo nghệ thuật, sáng tác một vở kịch lớn gửi đến người đọc những thông điệp về bản thể và cách sống của con người, cụ thể là quan hệ giữa thể xác linh hồn và cách sống chân thực, lẽ sống vì mọi người.

        Về quan hệ giữa thể xác và linh hồn, truyện cổ dân gian cũng quan niệm linh hồn phải có thể xác thì mới có chỗ trú ngụ và thể xác phải có linh hồn thì mới sống được nhưng truvện cổ dân gian tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn, coi nhẹ thế xác quá nên khi Trương Ba mượn được thể xác của người bán thịt thì Trương Ba coi mình là Trương Ba 100% và không băn khoăn gì về hình dạng của mình, cũng không có biến đổi gì trong tính cách...

        Lưu Quang Vũ có kế thừa truyện cổ dân gian, ông cũng nhấn mạnh vai trò cao hơn của linh hồn so với thể xác. Trương Ba khi sống lại trong thân xác anh hàng thịt thì nhận biết mình là Trương Ba (dựa váo kí ức, tình cảm và ý thức tức là dựa vào phần hồn của mình). Vợ Trương Ba sau khi kiểm tra kí ức của Trương Ba cũng nhận chồng; Trương Hoạt, bạn của Trương Ba cũng vậy. Chị con dâu thì càng thương cha chồng hơn, mặc dù lúc này ông mang vóc hình khác chị thấy ở ông đức tính nhân hậu hệt như cha chồng xưa.

        Tuy nhiên, Lưu Quang Vũ không dừng lại ở đó, ông thấy linh hồn không hoàn toàn độc lập với thể xác, ông nhìn thấy sự chi phối của thân xác đối với linh hồn. Trương Ba trong xác anh hàng thịt, bắt đầu thích ăn tiết canh, uống rượu, nói to, tay chân trở nên thô vụng: động vào cây làm gãy chồi non, chân giẫm lên cả cây sâm quý. Bị Lí trưởng xử ban ngày phải sang nhà vợ anh hàng thịt, Trương Ba cũng có lúc bị xao động (ít ra là ở cảm giác) trước cử chỉ thân mật của chị vợ anh a và phải tự đấu tranh để thoát ra. Chính xác anh đã nói với hồn Trương Ba: ‘Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy”. Cuộc tranh cãi giữa xác anh hàng thịt và hồn Trương Ba nảy ra cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác, cuộc đấu tranh trong bản thân con người để chống lại tác động xấu của thể xác làm tha hóa linh hồn.

        Bản thân Trương Ba cũng tự thấy nhiều điều phiền toái và có nguy cơ tự đánh mất mình. Ông cảm thấy vướng víu xa lạ trong thân xác khác, cháu gái nội ông không nhận ông. vợ ông muốn bỏ đi, con dâu thấy ông không chỉ khác lạ về thân xác  mà bắt đầu khác cả về tính tình. Trương Ba cũng đã phải tự nói: “Mày (thân xác) đã thắng rồi đấy, cái thân xác không phải của ta, mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta”. Trương Ba đã phải tiến hành một cuộc đấu tranh với xác anh hàng thịt, đây là cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác trong một con người Thể xác cũng có tiếng nói riêng của nó, nhu cầu riêng của nó, những nhu cầu này có cái chính đáng, có cái không chính đáng, Con người phải biết tiết chế, biết đè nén nhu cầu thể xác, thậm chí phải hi sinh một số nhu cầu...

        Trước những phiền toái và nguy cơ tha hóa do sống trong thân xác mượn của ké khác, Trương Ba muốn trả lại thân xác cho anh hàng thịt. Nhưng như có nghĩa là Trương ba lại phái chết. Trương Ba sẵn sàng chết vì nếu sống ông không là mình, mà mất dần nhân cách, mà nhìn thấy những người khác đau khổ (ví dụ chị vợ anh Hàng thịt, “chị ta thật đáng thương”, rồi vợ, rồi con, : cháu, như đã nói trên), thì thà chết, còn hơn.


Lúc đó có cháu Tị chẳng may ốm chết, Đế Thích định cho hồn Trương Ba nhập vào thân xác cháu, thì cháu Tị được sống lại với hồn Trương Ba, còn hồn Trương Ba được sống trong thân xác bé bỏng của cháu. Trương Ba cũng từ chối vì nếu thế, bi kịch sống không là mình lại tiếp diễn sống gây phiền toái, đau khổ cho những người khác (trước nhất là cho mẹ cháu Tị rồi đến vợ mình...). Trương Ba đề nghị Đế Thích dùng phép thiêng cứu sống cho cháu Tị còn mình chấp nhận cái chết. Đó là cách duy nhất đế hồn Trương Ba có thể thanh thản ở thế giới bên kia. ‘Từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình là Trương Ba thật, tâm hồn tôi trở lại thanh thản, trong sáng như xưa...

        Trương Ba chết nhưng linh hồn Trương Ba vẫn sống trong nỗi nhớ của mọi người, sống trong sự sống vẫn đang sinh sôi của cây cỏ, của con người... 

        Tóm lại, qua vở kịch, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một tình huống ẩn dụ có sức lôi cuốn và gợi suy nghĩ sâu sắc, gửi tới người đọc thông điệp: “Trong con người có hai thực thể là thể xác và linh hồn, hai thực thể đó có quan hệ hữu cơ với nhau nhưng cùng có tính độc lập tương đối với nhau. Con người phải luôn luôn đấu tranh với bản thân, điều chỉnh, làm chủ những nhu cầu, ham muốn để có được sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác hướng tới sự hoàn thiện nhân cách. Đó là sống thành thật, sống trong sạch, là sống vì mọi người, không thể sống giả dối, sống bằng mọi giá, sống trên sự đau khổ của người khác...”. Tư tưởng triết lí của Lưu Quang Vũ, về con người, về quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về cách sống và lẽ sống của con người vừa biện chứng, vừa lạc quan và cao thượng. Điều này cùng với tài năng sáng tạo nghệ thuật của tác giả đã làm cho vở kịch có giá trị nhân văn cao, vươn tới tầm nhân loại.

Phân tích giá trị nhân văn cao cả trong vở kịch Hồn Trương Ba - da hàng thịt hay nhất 61

    Với hàng loạt vở kịch gây chấn động mạnh mẽ trong dư luận như: Lời nói dối cuối cùng, Nàng Xi – ta, Chết cho điều chưa có, Nếu anh không đốt lửa, Lời thề thứ chín, Khoảnh khắc và vô tận, Bệnh sĩ, Tôi và chúng ta… Lưu Quang Vũ không chỉ trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của thế kỉ XX mà còn là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Hồn Trương Ba, da hàng thịt (viết năm 1981) là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trên sân khấu trong nước và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng triết lí và nhân văn sâu sắc. Kịch của Lưu Quang Vũ nói chung và Hồn Trương Ba, da hàng thịt nói riêng rất giàu giá trị nhân văn. Đoạn trích cảnh VII trong sách giáo khoa thể hiện rõ điều đó.

    Giá trị nhân văn là một nội dung lớn, xuyên suốt nền văn học Việt Nam. Chủ nghĩa nhân văn trong văn học rất phong phú, đa dạng biểu hiện ở lòng thương người, lên án, tố cáo những thế lực chà đạp lên con người, khẳng định, đề cao con người về các mặt phẩm chất, tài năng, những khát vọng chân chính như khát vọng về quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền tự do, khát vọng về công lí, chính nghĩa, đề cao những quan hệ đạo đức, đạo lí tốt đẹp giữa người và người. Lưu Quang Vũ đã đặt nhân vật của mình vào hoàn cảnh trớ trêu: Hồn Trương Ba phải sống nhờ thân xác anh hàng thịt. Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai, nên Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết. Trú nhờ linh hồn trong thể xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái. Hết lí trưởng sách nhiễu lại đến chị hàng thịt đòi chồng. Đặc biệt, thân xác hàng thì làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và một số nhu cầu không phải của chính bản thân ông. Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự phiền toái do mượn thân xác của kẻ khác, Trương Ba quyết định trả lại xác cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết.

    Cảnh VII diễn ra ở nhà Trương Ba. Trưởng Hoạt sang phê phán Trương Ba đã bắt đầu đổi tính: uống rượu, thích ăn ngon nước cờ đi cũng khác. Lí tưởng lại đến gây khó dễ. Anh con trai của Trương Ba hư hỏng, chỉ nghĩ đến tiền và trục lợi “quyết định dứt khoát sẽ bán khu vườn để có tiền mở thêm vốn liếng cửa hàng thịt”. Gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ với ông. Khi phải sống với người chồng mang hình dáng của kẻ khác, vợ Trương Ba buồn khổ định bỏ đi. Cô cháu gái vốn yêu quý ông nội nhưng bây giờ quyết định không nhận ông: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi”. Con dâu xót xa vì bố chồng không còn như ngày xưa nữa: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong. Nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đỗi khác dần, mất mát dần, tất cả như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa… Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giữa được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”.

    Bản thân Trương Ba vừa đau khổ vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo vừa thấy bất lực với chính mình. Một cuộc đối thoại với giữa xác hàng thịt diễn ra. Trong đó khẳng định sức mạnh và thế lấn tới đối với hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba thắp hương gọi Đế Thích xuống giải thoát cho mình. Cùng lúc, cu Tị, con một người hàng xóm, bạn thân của cháu nội Trương Ba ốm nặng, sắp chết. Đế Thích định cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba kiên quyết từ chối xin cho cu Tị được sống đồng thời trả xác cho anh hàng thịt đồng thời chấp nhận cái chết. Khi không được là mình, hồn Trương Ba ở trong một tâm trạng đau đớn, day dứt. Lời của người dẫn kịch “ngồi ôm đầu một hồi lâu”. Sau sự suy nghĩ căng thẳng đó Trương Ba đi đến quyết định; không thể sống nhờ thân xác của anh hàng thịt được nữa. Trước lí lẽ của xác hàng thịt “nực cười thật ! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiểu theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Trương Ba không muốn nghe và bịt tai lại.

    Cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt đã khẳng định sức mạnh và thế lấn tới của hắn đối với hồn Trương Ba. Không thể nào khác Trương Ba gần như “tuyệt vọng”. Sau đó bần thần nhập vào xác anh hàng thịt. Những hành động thể hiện tâm trạng dằn vặt, ngày càng bế tắc. Trương Ba như lâm vào cảnh cùng đường, không lối thoát. Những lời thoại: “Ta,…ta đã bảo là mày im đi”, “trời” và lời thoại độc tâm: “Mày đã thắng thế cái thân xác không phải là của tao ạ…không cần đời sống do mày mang lại” để diễn tả một tâm trạng giằng xé của hồn Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt. Hồn Trương Ba muốn giải thoát khỏi lối sống giả, sống vô nghĩa trong thân xác của người khác. Ý nghĩa nhân văn cao cả của vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt là ở chỗ Lưu Quang Vũ đã khẳng định, tôn trọng cái cá thể, khẳng định vị trí, vai trò cá nhân trong xã hội. Qua lời thoại đầy triết lí nhà văn gửi thông điệp kêu gọi con người phải sống như chính mình. “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”, câu nói đơn giản của nhân vật hồn Trương Ba chính là chìa khóa mở ra giá trị nhân văn của tác phẩm.

    Tác phẩm cho ta thấy bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh phải sống nhờ, sống tại và trái tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu, thanh cao bị nhiễm độc và tha hóa trước sự lấn át của thể xác thô lỗ, phàm tục. Hạnh phúc của con người phải có sự hòa hợp giữa hồn và xác, tâm hồn trong sạch một thân thể khỏe mạnh. Ý nghĩa nhân văn của vở kịch còn là ở chỗ nhà văn đã đấu tranh cho sự hoàn thiện vẻ đẹp nhân cách con người. Để cho nhân vật Trương Ba khước từ cuộc sống vay mượn thân xác người khác, Lưu Quang Vũ đã mở hướng để nhân vật vươn tới một lễ sống đích thực, dẫu thân xác có trở về hư vô. Thể xác và linh hồn là hai phần gắn bó hữu cơ làm nên một con người. Thể xác là nơi trụ ngụ của linh hồn, linh hồn tạo nên sự sống, sự hoạt động của thể xác và điều khiển thể xác. Tuy nhiên, thể xác cũng có tính độc lập tương đối của nó. Nếu linh hồn không giữ vững ý chí, thì những nhu cầu, những đòi hỏi của thể xác có thể tác động tới linh hồn, làm thay đổi bản chất của linh hồn. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn với thể xác là để đạt tới sự hòa hợp, thống nhất, để con người làm chủ bản thân và hoàn thiện nhân cách. Hồn Trương Ba vẫn biết sống là quý thật nhưng sống như thế nào mới là vấn đề đáng suy nghĩ. Trương Ba trân trọng cuộc sống, như “không sống với bất cứ giá nào. Có những giá quá đắt, không thể trả được”. Hiểu được như vậy, hồn Trương Ba tự nguyện rời xa cõi trần, mặc dù Đế Thích định lại sửa sai một lần nữa bằng cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị. Trương Ba không muốn vay mượn thân xác người nào để phải làm những việc trái với bản chất con người mình. Ông chọn cái chết thực sự để cho mình được sống mãi trong hoài nhớ của mọi người, để một ông Trương Ba, người làm vườn, người vun trồng sự sống tươi đẹp, vẫn sống trong tâm tưởng của mọi người. Để con người được sống thực là mình, để con người thực sự là con người.

    Chỉ có kết cục trong kịch của Lưu Quang Vũ là duy nhất đúng. Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hóa thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bị kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp và sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực. Đoạn trích là vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách. Qua đoạn trích, ta thấy được kịch Lưu Quang Vũ đặc sắc trên phương diện: sự hấp dẫn của kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu, sự kết hợp giữa tính hiện đại với các giá trị truyền thống, sự phê phán mạnh mẽ quyết liệt và chất trữ tình đằm thắm, bay bổng. 

    Qua đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc thông điệp: được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên và sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

Phân tích giá trị nhân văn cao cả trong vở kịch Hồn Trương Ba - da hàng thịt hay nhất 62


 Lưu Quang Vũ là một trong số ít nhà văn vừa có tài trong viết truyện vừa có tài trong các môn nghệ thuật khác như hội họa, làm thơ…và đặc biệt nhất đó chính viết kịch. Các tác phẩm kịch của ông luôn ẩn chứa những triết lí sâu sắc cùng ý nghĩa nhân văn cao cả. Nổi bật nhất trong các tác phẩm kịch của ông đó chính là vở “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt” . Tác phẩm diễn tả cuộc xung đột nảy lửa giữa hồn và xác và được đẩy lên đỉnh điểm ở cảnh cuối.

    Trước tiên, ta hiểu giá trị nhân văn của một tác phẩm đó chính là những nét đẹp trong tính cách của con người được bộc lộ qua các cuộc mâu thuẫn: trong cái sáng có cái tối, trong cái tốt có cái xấu, con người luôn đấu tranh để hướng đến những giá trị tốt đẹp nhất. Nhân vật chính trong vở kịch này cũng vậy, đó chính là Trương Ba. Trương Ba là một người tốt bụng, sống một cuộc sống thanh tao và đặc biệt chơi cờ rất giỏi. Ông thường hay chơi cờ với Đế Thích và hai người trở thành bạn thân với nhau. Sau đó chẳng may Trương Ba mất đi, người vợ có đốt nhầm nén nhang mà trước đó Đế Thích đã cho Trương Ba để mỗi khi muốn chơi cờ hay có việc gì cần giúp thì Trương Ba đốt gọi tiên cờ lên. Vì thương bạn mình và muốn giữ lời hứa nên Đế Thích đã cho Trương Ba sống lại nhưng vì không tìm thấy xác Trương Ba nên đành ở tạm xác của anh hàng thịt mới mất bên hàng xóm. Một cuộc tranh cãi nảy lửa xảy ra giữa một tâm hồn thanh tao với một bộ xác thịt xù xì, kinh khủng.

    Hình ảnh hồn Trương Ba ngồi một mình ôm đầu hồi lâu rồi đứng vụt dậy đã cho thấy sự chán nản, tuyệt vọng của linh hồn. Giờ đây Trương Ba như đã đánh mất bản thân mình, không còn đam mê những thú vui tao nhã, trí tuệ nữa mà thay vào đó là làm những việc mà trước kia ông cho là ghê tởm. Ông trở thành một con người thô lỗ, cục cằn và vụng về. Không thể chịu cảnh cứ sống trong cái xác này mãi được nên hồn Trương Ba đã liên tục mắng chửi phần xác, cho rằng chính cái xác đui mù này đã khiến tâm hồn của Trương Ba bị vấy bẩn. Linh hồn ấy phủ nhận tất cả những việc tiêu cực của mình làm, đổ tất cả mọi chuyện lên đầu của xác từ việc làm gãy diều của cu Tý cho đến việc vả con trai mình học máu mồm. Hồn biện minh cho mình rằng dù có sống trong một cái xác u mê, đui mù đi chăng nữa thì mình vẫn có mội đời sống thanh tao, trong sạch.

    Hai bên đều đưa ra những lí do, dẫn chứng để tranh cãi quyết liệt, ấy thế nhưng hồn vẫn chẳng thể nào thắng lí được xác. Xác đã đưa ra những lời nói “ti tiện” nhưng rất đúng để phản bác lại hồn, xác cho rằng cả hồn và xác đã hòa vào làm một thì cả hai không thể tách rời trong mọi việc, khi hồn đứng cạnh vợ mình thì hơi thở cũng nóng lên hay Trương Ba đã ăn nhiều món ăn mà trước đó ông cho là tởm để thỏa mãn cái thú ăn uống của xác. Qua đây, ta đã thấy được ý nghĩa nhân văn mà Lưu Quang Vũ muốn mang lại cho người đọc đó chính là phải biết cân bằng giữa linh hồn và thể xác, giữa lí trí và tâm hồn. Cuộc đấu tranh giữa hồn và xác giống như cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, cái khát vọng thanh tao và cái dục vọng tầm thường trong một con người. Mỗi người nên sống với đúng bản thân, tính cách của mình thì cuộc sống đó mới có ý nghĩa, chứ không nên sống dựa hơi, gửi gắm người khác.

    Như chẳng thể cãi lại nổi cái xác u mê, đui mù ấy, hồn Trương Ba quay lại với vợ cùng những người thân trong gia đình của mình. Người có lẽ không ưa chuyện hồn Trương Ba ở trong xác hàng thịt nhất sau Trương Ba đó chính là vợ ông ấy. Làm sao có thể chấp nhận được người chồng của mình nhưng mỗi tối lại quay sang ngủ với vợ ông hàng thịt. Người vợ buồn bã nhận ra rằng “ ông đâu còn là ông, đâu còn là Trương Ba làm vườn ngày xưa”, thế rồi bà chán nản, dứt áo đòi ra đi, với bà “ đi đâu cũng được còn hơn là như thế này”. Rồi đến đứa cháu gái cũng một mực không nhận đấy là ông nội mình, đứa cháu ấy khẳng định ông nội mình đã chết, ông nội mình không thể có một “ bàn tay giết lợn”, một “bàn chân to như cái xẻng” làm gãy tiệt cái chồi non, hay làm hỏng cái diều của cu Tý làm cho nó dù đang ốm vẫn khóc lóc đòi bắt đền. Chỉ có người con dâu là người hiểu biết, chín chắn nhất là hiểu được tâm trạng, nỗi khổ của bố chồng mình. Nhưng vậy mà chị vẫn không khỏi hoảng hốt, sợ hãi khi thấy bố chồng mình ngày càng thay đổi, biến chất, chị đã thốt lên rằng: “ …con sợ lắm bởi con cảm thấy đau đớn, thấy mỗi ngày thầy một đổi dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi…”. Tất cả các cuộc hội thoại của Trương ba với các thành viên trong gia đình mình đã khiến ông nhận ra hoàn cảnh trớ trêu của mình đã làm ảnh hưởng đến quá nhiều người khác. Ông tự cảm thấy xấu hổ, dằn vặt với bản thân của mình, muốn dứt hẳn ra khỏi cái xác này.

    Nút mở của vở kịch có lẽ chính là đoạn hội thoại giữa hồn Trương Ba với Đế Thích khi ông không thể chịu đựng được nữa phải gọi Đế Thích lên để giải quyết mọi thứ. Hồn Trương Ba nói với Đế Thích rằng :“ Không thể bên trong một đường, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn là tôi trọn vẹn”, “ sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt”. Qua đoạn hội thoại giữa Trương Ba và Đế Thích , Lưu Quang Vũ đã bộc lộc giá trị  nhân văn sâu sắc. Đó chính là linh hồn và thể xác phải hài hòa, khi làm những việc sai trái, phàm tục thì đừng đổ lỗi là để làm thỏa mãn nhu cầu bản thân mà hãy cho rằng đó là sai từ chính trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người. Một cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi sống đúng với bản thân mình, chứ không phải cứ nhờ gửi hay dựa dẫm người khác. Chính vì lẽ này mà Trương Ba nhất quyết nhờ Đế Thích giúp mình thoát ra khỏi thân xác của anh hàng thịt, cho mình chết hẳn đi, thay vào đó là cho thằng cu Tý sống trở lại. Việc hoàn đổi này phải nhanh chóng diễn ra vì cu Tý mới mất, không thể để lâu. Điều này đã thể hiện sự nhân đạo trong con người của Trương Ba, ông muốn kết thúc hẳn cuộc sống của mình, nhường sự sống cho một người khác.

    Kết thúc vở kịch, Trương Ba ra đi, để lại xác anh hàng thịt, đường ai lấy đi. Sự ra đi này thể hiện ước muốn được sống với chính bản thân mình, đồng thời chứa đựng nhiều giá trị nhân văn sâu sắc mà Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm.

Phân tích giá trị nhân văn cao cả trong vở kịch Hồn Trương Ba - da hàng thịt hay nhất 63

Lưu Quang Vũ là một tài năng ở nhiều mặt viết truyện ,làm thơ ,vẽ tranh nhưng sáng tác kịch là phần đóng góp nổi bật nhất .Ông được coi là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.Lưu Quang Vũ đã để lại hơn 50 tác phẩm  kịch xuất sắc trong đó có vở kịch Hồn Trương Ba,da hàng thịt.

    Kịch Hồn Trương Ba,da hàng thịt sáng tác 1981 nhưng đến 1984 mới ra mắt công chúng và đã được công diễn nhiều lần.Từ cốt truyện dân gian Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại có ý nghĩa tư tưởng và triết lí sâu sắc.Vở kịch gồm bảy cảnh và một đoạn kết.Nội dung kể về Trương Ba là người giỏi đánh cờ và thích làm vườn bị Nam Tào bắt chết nhầm.Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt kềnh càng ,thô lỗ vừa mới chết.Tuy được sống nhưng Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái và đau khổ.Vợ Trương Ba định bỏ đi  ‘cấy thuê làm mướn ở đâu cũng được”,trả Trương Ba lại cho vợ anh hành thịt .Cháu nội Trương Ba thì phản ứng gay gắt nhất quyết không nhận ông nội “Ông xấu lắm ,ác lắm! Cút đi ! Lão đồ tể,cút đi”.Người con dâu hiểu được nghịch cảnh của hồn Trương Ba và thương bố chồng nhiều hơn xưa , nhưng chị ta lại lo lắng vì sự thay đổi của ông mà “nhà ta như sắp tan hoang ra cả rồi”   Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự xa lánh của người thân,Trương Ba quyết định trả xác lại cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết. Gíá trị nhân văn của của vở kịch chính là những thộng điệp có tính triết lí  về nhân sinh mới mẻ,tích cực. được thể hiện tập trung trong cảnh 7 qua màn đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt,đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích.

    Qua màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt tác giả nêu lên quan niệm:con người luôn phải đấu tranh với bản thân để hoàn thiện nhân cách.Màn đối thoại cho thấy con người có hai phần :linh hồn và thể xác ,linh hồn có  cơ sở vật chất là thể xác.Trong con người ,biểu hiện của linh hồn là những suy nghĩ ,tư tưởng.Biểu hiện của thể xác là các nhu cầu như ăn ,uống và các hoạt động trong đời sống. Linh hồn và thể xác là một thể thống nhất ,có quan hệ hữu cơ với nhau,trong đó linh hồn giữ vị trí chủ đạo.Vậy nên linh hồn phải chịu trách nhiệm cuối cùng về hành động của thể xác,không thể thỏa mãn mọi nhu cầu ở mọi mức độ ,mọi lúc ,mọi nơi rồi đổ trách nhiệm cho thể xác. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác thực sự là cuộc đấu tranh trong bản thân con người để làm chủ những nhu cầu, ham muốn,nhất là khi con người bị hoàn cảnh tác động.Đó là cuộc đấu tranh để làm chủ bản thân và hoàn thiện nhân cách của con người.

    Trong màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với Đế Thích tác giả đã gửi gắm quan niệm có ý nghĩa nhân sinh về hạnh phúc ,về lẽ sống và về cái chết.Không được sống là chính mình ,phải trú nhờ thân xác hàng thịt,Trương Ba ý thức rất rõ về cảnh ngộ trớ trêu của mình và vô cùng đau khổ. Khi gặp Đế Thích,Trương Ba đã khẳng định “Không thể bên trong một đằng,bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.Trương Ba kiên quyết trả xác cho anh hàng thịt ,và cũng kiên quyết từ chối không sống trong thân xác cu Tị vì sống như thế “còn khổ hơn là cái chết”.Không những vậy,trước khi trở về với cái chết, Trương Ba còn yêu cầu Đế Thích làm cho anh hàng thịt sống lại vì chị vợ anh ta “thật đáng thương”.Trương Ba cũng yêu cầu Đế Thích “ vì con trẻ”,hãy hiểu nỗi đau khổ của người mẹ mất con mà làm cho cu Tị sống lại .Sự lựa chọn và ý muốn của Trương Ba là rất cao thượng.Qua đó tác giả muốn gửi tới độc giả bức thông điệp :một trong những  điều qúy giá nhất của con người là được sống trọn vẹn với những giá trị mình có và theo đuổi. Nếu không được sống là chính mình mà phải sống gửi ,sống nhờ,sống giả tạo thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa,đầy tính bi hài.

    Đoạn kết của vở kịch là khung cảnh hồn Trương Ba chập chờn trong màu xanh của cây,lá trong vườn,ở trên bậc cửa ,trong ánh lửa ,nơi cầu ao, trong cái cơi đựng trầu ,con dao giẫy cỏ…Cho dù không còn trên cõi đời nhưng Trương Ba vẫn  được người thân quý mến như xưa.Trong tâm trí mọi người Trương Ba vẫn bất tử, vẫn là con người “trong sạch thẳng thắn”.Từ đó Lưu Quang Vũ khẳng định :thân xác của từng con người tồn tại hữu hạn ,nhưng sự sống  và linh hồn con người là mãi mãi.Tư tưởng và triết lí về con người của Lưu Quang Vũ  vừa biện chứng vừa lạc quan và cao thượng.

    Vấn đề mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong vở kịch Hồn Trương Ba,da hàng thịt còn có thể giúp ta liên tưởng đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong mỗi sự vật..Khi nội dung và hình thức phù hợp thì sự vật tồn tại và phát triển .Ngược lại khi nội dung và hình thức không phù hợp với nhau thì sự phát triển bị kìm hãm ,sự tồn tại của sự vật có thể bị đe dọa. Đây cũng là một triết lí mang tính nhân văn giúp cuộc sống con người ngày càng hoàn thiện và tốt đẹp hơn.

    Qua vở kịch Hồn Trương  Ba ,da hàng thịt,nhà viết kịch tài năng Lưu Quang Vũ đã gửi tới nhiều thế hệ khán giả,độc giả những triết lí nhân sinh sâu sắc về hạnh phúc,về sự sống và cái chết ,về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức… Lưu Quang Vũ đã về với cõi vĩnh hằng nhưng  cùng với những vở kịch bất hủ có giá trị nhân văn sâu sắc, tên tuổi của ông  sẽ mãi bất tử.

Phân tích giá trị nhân văn cao cả trong vở kịch Hồn Trương Ba - da hàng thịt hay nhất 64

Lưu Quang Vũ là một trong những nhà soạn kịch hàng đầu của nền sân khấu Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm kịch của ông đề cập đến những vấn đề vừa có ý nghĩa thời sự vừa giàu tính triết lý mà còn giàu chất thơ. Đặc biệt trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” để lại trong lòng người đọc những ý nghĩa nhân văn cao đẹp.

Trước hết đó là sự cảm thông của nhà văn dành cho bi kịch của con người phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Với tấm lòng dành cho con người, với sự trăn trở, suy tư sâu sắc về số phận con người, Lưu Quang Vũ đã không đồng tình với cách kết thúc của truyện cổ tích. Trong truyện cổ, khi mà nhập vào xác anh hàng thịt hồn Trương Ba vẫn sống bình thường, hòa hợp với thể xác. Tuy nhiên, Lưu Quang Vũ nhận thấy rằng tâm hồn cao khiết của Trươg Ba khó mà hài hòa đối với thân xác anh hàng thịt, thân xác to cộng với những dục vọng tầm thường. Vì vậy mà Trương Ba ô cùng đau khổ, dằn vặt, không thể sống yên ổn. Nhà văn đã thấu hiểu và sẻ chia hoàn cảnh éo le của nhân vật.

Lưu Quang Vũ cùng đề cao, trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của Trương Ba trong cuộc đấu tranh với nghịch cảnh. Ông là người giàu lòng tự trọng, không chấp nhận sự tha há của bản thân khi trú ngụ trong xác của anh hàng thịt, không chấp nhận việc sống nhờ, sống gửi, sống giả tạo. Trương Ba cũng là người giàu lòng nhân ái và đức hi sinh, tinh thần vị tha. Ông chấp nhận chịu thiệt thòi, xin được chết hẳn để cho anh hàng thịt và cu Tị được hồi sinh. Đặc biệt, ông còn thể hiện sự dũng cảm, không sợ hãi trước cái chết. Điều này, bất cứ người bình thường nào cũng lo lắng và sợ trước tuổi già. Lưu Quang Vu đã nâng niu và trân trọng những vẻ đẹp về con người, tinh thần và giá trị tỏa sáng ở con người Trương Ba.

Nhà văn họ Lưu cũng thể hiện sự đồng cảm với khát vọng sống chính đáng của con người. Sống không chỉ là tồn tại, sống là phải sống một cuộc sống được là chính mình, có sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn, giữa cái bên trong và bên ngoài. Sống không được dựa dẫm, không được sống cuộc sống nhờ, sống gửi, sống giả tạo. Tưởng chừng những điều đơn giản hết sức bình dị ấy lại là nõi khát khao của Trương Ba. Nó tuy giản dị nhưng lại lớn lao vô cùng trong hoàn cảnh của Trương Ba nói riêng và của con người từ bao đời nay nói chung. Thực tế mặc dù những điều bình dị ấy có thể dễ dàng làm được nhưng không phải ai cũng may mắn được sống một cuộc sống là chính mình vì những lí do khác nhau. Và Lưu Quang Vũ nhận thấy rằng đấy đều là những bi kịch của con người.

Thêm nữa, trong đoạn trích, Lưu Quang Vũ cũng thể hiện gián tiếp những hi vọng vươn tới sự hoàn thiện của con người. Đó là sống đẹp, sống tốt và sống có ý nghĩa. Và để làm được điều đó, thì con người phải dung hòa được giữa tâm hồn và thể xác, phải luôn luôn gìn giữ được sữ cao khiết của tâm hồn. Và ngược lại cũng không được bỏ bê thể xác. Mở rộng ra đó là giữa tinh thần và vật chất. Cả hai đều không nên xem nhẹ, nếu trọng một trong hai thì con người ấy đều đáng bị phê phán.

Có thể thấy rằng, vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” có được thiện cảm cũng như sức sống lâu bền với thời đại là nhờ những tài năng của Lưu Quang Vũ thể hiện. Đó là nghệ thuật xây dựng nhân vật và tư tưởng nhân văn cao đẹp của tác phẩm. Những tư tưởng mà lưu Quang Vũ trực tiếp hoặc gián tiếp thể hiện gần như đề cập đến hạnh phúc của con người trong đời sống xã hội. Chính vì thế mà vở kịch không chỉ có ý nghĩa ngày nay mà còn gây được dấu ấn cả về sau này.

Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhà văn Lưu Quang Vũ có viết: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề trên. 65


Cuộc sống luôn tồn tại hai mặt: tốt và xấu. Con người cũng có mặt hoàn thiện và mặt chưa hoàn thiện. Vì thế, trong cuộc sống con người không ngừng đấu tranh vươn lên để hoàn thiện nhân cách của mình. Câu nói của Trương Ba trong vở kịch nổi tiếng “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã phần nào nói lên được nội dung ấy: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.

      “Bên trong” là tất cả những gì không thể nhìn thấy được, đó là suy nghĩ, tư tưởng, khát vọng,… “Bên ngoài” là tất cả những gì có thể thấy được, cảm nhận được, đó là hành động, cách hành xử, ứng xử… “Toàn vẹn” - con người là thể thống nhất có sự hòa hợp giữa thể xác và tâm hồn, giữa ý chí và hành động. Sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” nghĩa là sống không thực với con người của mình. Con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác, chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ biết hưởng thụ, thoả mãn nhu cầu của bản thân. Con người vốn là một thể thống nhất giữa tinh thần và thể xác, và nếu không sống thật với chính mình, con người sẽ gây ra đau khổ, tai hoạ cho gia đình, cho những người xung quanh, làm cho chính mình bị tổn thương. Như vậy thì làm sao có thể mang đến hạnh phúc cho những người thương yêu xung quanh. Ví dụ như Trương Ba, phải sống nhờ thân xác kẻ khác nên tâm hồn bị tha hóa, bị vấy bẩn phải chạy theo những dục vọng thấp hèn. Hay nhiều sinh viên nghèo tỉnh lẻ lên học đại học ở thành phố, vì sĩ diện với bạn bè nên bề ngoài thể hiện sự khá giả, ăn chơi bằng cách lừa dối bố mẹ: xin tiền học phí để lấy tiền đi chơi. Một thầy giáo ở Quảng Ngãi, ban ngày đi dạy học, ban đêm là đại ca của một băng cướp…Hiệu trưởng Sầm Đức Xương mua dâm nữ sinh…là những hiện tượng xã hội gây nhức nhối trong thời gian gần đây. Người có lối sống như vậy là người không đáng tin cậy. Bởi vì bản thân những người đó đều là những kẻ sống không thành thực, những người gian dối, cần cảnh giác!

      “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” là một người hoàn thiện, một người có suy nghĩ và hành động đồng nhất. Trong ngữ cảnh này, một người toàn vẹn là một người sống thật với bản thân mình, chấp nhận sự thật về bản thân mình. Sống mà không làm hại đến người khác, sống không lừa lọc, sống không dối trá, giả tạo, hai mặt.

      Mỗi một người khi được sinh ra trong đời đều được tạo hóa ban cho thể xác và linh hồn riêng. Thể xác và linh hồn là hai phần  tuy khác nhau nhưng hợp nhất với nhau và cùng nhau tồn tại hình thành nên con người. Vì vậy hãy sống là chính mình, đừng bao giờ lừa dối bản thân hay người khác, cũng đừng sống chia đôi mình ra để rồi lời nói, hành động không khớp với nhau. Hãy là một cái tôi toàn vẹn. Không nên sống nhờ vả vào người khác. Bởi tạo hoá sinh ra chúng ta, cuộc sống này là của chúng ta, vì vậy phải do chính ta quyết định. Không ai có thể quyết định nên số phận cho ta, chính chúng ta phải làm nên số phận của chính bản thân mình. Đúng vậy không bạn ?

      Cần làm gì để để thật sự là một con người toàn vẹn, ngay từ khi còn trên ghế nhà trường, bạn  hãy luyện tập thói quen sống có cùng một suy nghĩ và hành động, phải hài hòa giữa suy nghĩ và hành động. Hãy sống thành thật với cộng đồng sống phải thành thật với chính bản thân mình!

      Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, câu nói của Lưu Quang Vũ còn muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ: Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cách sống trên là cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra , câu nói còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.

Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhà văn Lưu Quang Vũ có viết: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề trên. 66



 Xã hội rất phức tạp và muôn màu, muôn vẻ. Bởi lẽ trong xã hội luôn tồn tại người tốt, kẻ xấu, có những người không sống thực với mình, không hành động như suy nghĩ và đôi khi làm hại đến người khác. Chính những thành phần này là nhân tố góp phần hình thành nên xã hội như hiện nay. Một xã hội với nhiều kiểu người và điển hình nhất là kiểu người “sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”

       Sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo nghĩa là sống không thực với con người của mình. Người có lối sống như vậy là người không đáng tin cậy. Bởi vì bản thân những người đó đều là những kẻ sống không thành thực, những người gian dối, hay là kẻ luôn tự lừa dối bản thân.Còn một con người toàn vẹn là một người hoàn thiện, một người có suy nghĩ và hành động đồng nhất. Trong ngữ cảnh này, một người toàn vẹn là một người sống thật với bản thân mình, chấp nhận sự thật về bản thân mình. 

       Quan niệm sống này của nhà văn Lưu Quang Vũ là rất đúng. Bởi lẽ, mỗi một người khi được sinh ra trong đời đều có thể xác và linh hồn riêng. Thể xác và linh hồn là hai phần tử tuy khác nhau nhưng hợp nhất với nhau và cùng nhau tồn tại hình thành nên con người. Sở dĩ con người khác với loài vật là vì con người có cuộc sống và cách suy nghĩ của riêng mình, biết tôn trọng cuộc sống của nhau, tôn trọng bản chất riêng của từng cá nhân. Người biết sống thành thực với bản thân và biết tôn trọng cái “tôi” cá nhân của người khác sẽ được mọi người trong xã hội tôn trọng.

       Nhờ quan niệm sống trên, mỗi người càng hiểu thêm tầm quan trọng của việc sống sao cho thực với bản thân mình, sống mà không làm hại đến người khác, sống không lừa lọc, sống không dối trá. Tuy nhiên, trong thực tế, cuộc sống không phải lúc nào cũng màu hồng, không phải ai cũng là người sống thành thật, không phải ai cũng sống mà không dối trá, lừa lọc. Bởi vì xã hội vốn phức tạp theo đúng nghĩa của nó nên con người ta đôi khi phải chuyển biến theo chiều hướng của sự phát triển của xã hội. Chính trong quá trình phát triển và đào thải đầy gay gắt của xã hội, con người lựa chọn cách sống cho riêng mình và trong số những người sống chân thật, hết mình vẫn có những người chọn đường tắt thay vì đường thẳng bằng cách sống giả dối. Điều đó liệu là có thật sự tốt đẹp không khi mà một lúc nào đó, họ sẽ nhận ra rằng xã hội cũng sẽ sớm đào thải mình. Hay nói theo một cách, khi con người lựa chọn cách sống không trọn vẹn, không thật với con người mình thì họ sẽ tự sớm đào thải mình ra khỏi xã hội. 

       Để thật sự là một con người toàn vẹn, ngay từ khi còn trong ghế nhà trường, chúng ta hãy luyện tập thói quen sống có cùng một suy nghĩ và hành động, sống thành thật không chỉ với cộng đồng mà còn phải thành thật với chính bản thân. Chúng ta hãy đừng để cho cuộc sống của chúng ta giống như nhân vật Trương Ba để rồi phải hối tiếc vì đã không thành thật với bản thân, vì dã lựa chọn lối sống hồn người này, xác kẻ kia, một cuộc sống không trọn vẹn. 

       Không ai có quyền chọn cho mình một thể xác nhưng vẫn có quyền làm cho tâm hồn mình trong sạch. Chính một tâm hồn trong sạch sẽ giúp cho suy nghĩ và hành động của ta có sự đồng nhất. Sự đồng nhất về hành động và suy nghĩ chính là minh chứng chứng tỏ bản thân là một người trọn vẹn, một cái tôi trọn vẹn. Hãy sống là chính mình, đừng bao giờ lừa dối bản thân hay người khác, cũng đừng sống chia đôi mình ra để rồi lời nói, hành động đều là của người khác trong khi tâm hồn lại là của chính mình. Hãy là một cái tôi toàn vẹn.

Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhà văn Lưu Quang Vũ có viết: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề trên 67


Giữa cuộc đời tấp nập, xô bồ và vội vã ta tự hỏi rằng phải sống sao cho đúng? Làm thế nào để có một cuộc sống tốt đẹp? Như ta biết, cuộc sống luôn tồn tại hai gam màu tối-sáng và đầy rẫy những nghịch lí. Con người cũng thế, sẽ có những mặt hoàn hiện và tồn tại những khuyết điểm. Vậy thì nên làm gì để bản thân cảm thấy thoải mái và yêu đời hơn? Hãy sống là chính mình, trung thực và giàu lòng nhân ái. Luôn nổ lực, đấu tranh không ngừng để vươn lên hoàn thiện nhân cách của mình. Trong vỡ kịch Hòn Trương Ba, da hàng thịt Lưu Quang Vũ đã để nhân vật Trương Ba bày tỏ quan niệm sống cua mình "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn".

 Lưu Quang Vũ là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch, là một nhà soạn nhạc kịch tài năng nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, chỉ trong vòng bảy đến 8 năm ông đã viết hơn 50 vỡ kịch và hầu hết được công chiếu. Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vỡ kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, viết năm 1981 và công chiếu năm 1984, từ một cốt truyện dân gian. Nhà văn đã xây dựng một vỡ kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí nhân sinh sâu sắc. Đoạn trích được rút ra từ cảnh VII, đoạn kết của vỡ kịch. 

     "Bên trong" chính là thế giới nội tâm của mỗi con người, đó là suy nghĩ, là nhận thức, cũng có thể là những tư tưởng, khát vọng. Nếu thế giới bên trong có được sự toàn vẹn, con người sẽ có được những phẩm chất tốt đẹp, quý giá. Đây là phần người ta không thể nhìn thấy được bằng mắt mà chỉ có thể cảm nhận qua tiếp xúc, tìm hiểu và gắn bó. "Bên ngoài" là tất cả những cái có thể nhìn thấy được, đó là cử chỉ, hành động, cách ứng xử. Quan hệ giữa bên trong và bên ngoài thường là quan hệ thống nhất – cái bên ngoài là biểu hiện cụ thể của cái bên trong và ngược lại.

  Sống "bên trong một đằng bên ngoài một nẻo" là không có sự hài hòa giữa bên trong và bên ngoài, không sống thực với chính mình nghĩa là hành động, lời nói không thống nhất với suy nghĩ, tình cảm. Con người bị chi phối bởi những bản năng, ham muốn của thể xác, chạy theo những thứ tầm thường về vật chất, chỉ biết hưởng thụ để thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Sự không thống nhất này khiến cho con người dễ rơi vào trạng thái mất thăng bằng, không sống thật với chính mình, gây đau khổ cho gia đình, những người xung quanh và tự làm tổn thương chính mình. Giống như Trương Ba, phải sống nhờ thân xác của người khác lâu ngày nên tâm hồn cũng bị tha hóa, vấy bẩn, chạy theo những thứ dục vọng. Trương Ba vốn là một người làm vườn chăm chỉ, cần cù, tinh tế đã nâng niu chăm sóc vườn cây. Ông là một con người mẫu mực, sống có đạo đức và giàu tình nghĩa với vợ con, với cháu nội, với láng giềng xung quanh. Chính vì những phẩm chất quý giá đó đã khiến Trương Ba được mọi người nể trọng, quý mến. Còn cái xác hàng thịt là một con người thô bạo, tham lam, chỉ biết hưởng thụ vật chất.  Vì một sự nhầm lẫn nên cả hai con người này bị đẩy vào một tình huống éo le: hồn của Trương Ba phải sống nhờ trong xác anh hàng thịt. Hồn Trương Ba vẫn có những nhu cầu về tinh thần song lại không thể điều khiển xác anh hàng thịt, tuy chỉ là "xác thịt âm u đui mù" song vẫn đòi hỏi được thỏa mãn nhu cầu về vật chất. Cả nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh thần đều tự nhiên, chính đáng song trong trường hợp này lại trở nên mâu thuẫn, không thể tồn tại.

     "Tôi muốn được là tôi toàn vẹn" là một người có suy nghĩ và hành động đồng nhất. Một người toàn vẹn là một người sống thật với chính bản thân mình, chấp nhận sự thật về bản thân mình. Sống không làm hại đến ai, sống không lừa lọc, không dối trá, giả tạo. Ý nghĩa câu nói của Trương Ba thể hiện một quan niệm sống đúng đắn, cần phấn đấu để đạt sự hài hòa, cân bằng giữa nhận thức, hành vi, giữa cái bên trong với cái bên ngoài. 

 Mỗi người từ khi được sinh ra đều được tạo hóa ban cho thể xác và tâm hồn riêng. Thể xác và tâm hồn là hai phần tuy khác nhau nhưng đồng nhất với nhau, cùng nhau tồn tại hình thành nên con người. Vì thế hãy cứ sống là chính mình, đừng bao giờ lừa dối bản thân hay người khác, cũng đừng sống chia đôi mình ra để rồi lời nói, hành động không hòa hợp. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Hồn Trương Ba đã nhận ra bi kịch của cuộc đời mình khi phải sống nhờ trong thân xác phàm tục của anh hàng thịt. Nhận ra bi kịch đó, chứng tỏ hồn Trương Ba không thể nào chấp nhận được sự thoả hiệp giữa hai cuộc sống này. Đồng thời, chứng tỏ bản lĩnh của nhân vật khi chấp nhận cái chết thực sự còn hơn là sống trong sự giày vò của lương tâm và sự ghẻ lạnh của người thân vì sự tha hoá của chính mình.

     Chúng ta cần làm gì để trở thành một con người toàn vẹn? Tự mỗi người cần trang bị cho mình nhận thức, hiểu biết để có thể phân biệt đâu là đúng đâu là sai, rèn luyện bản lĩnh để có thể tự kiểm soát mọi hành vi của mình để không không sa đà vào lối sống dung tục. Song cũng cần quan tâm đến bản thân mình, quan tâm đến những nguyện vọng chính đáng dù là bình thường nhất để được sống một cách thoải mái, tự nhiên và có được hạnh phúc. 

     Câu nói của Lưu Quang Vũ trong vỡ kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt còn góp phần phê phán những biểu hiện của lối sống tiêu cực hiện nay. Con người cứ mãi miết chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ mà không muốn làm việc. Thậm chí chà đạp lên nhau, bày đủ mưu đủ kế hại người khác chỉ để có được thứ mình muốn. Bên cạnh đó còn lấy cớ tâm hồn là quý giá nên chỉ trau chuốt cho tâm hồn mà không quan tâm gì đến bên ngoài. Biết đời sống tâm hồn là quý giá nhưng không phấn đấu để bên ngoài cân đối với bên trong thì không thể trở thành con người toàn vẹn. Ngoài ra, tác giả còn phê phán lối sống giả tạo, không phải là chính mình, không dám là chính mình. Đó cũng là nguy cơ dẫn con người đến sự tha hóa do danh lợi.

          Lưu Quang Vũ đã thể hiện được cái nhìn khá sâu sắc trong đời sống tâm hồn của con người trước hiện tượng người ta sống vội, sống gấp, sống mà quên mất cả bản thân mình...Cuộc sống đầy rẫy những hố sâu của sự cám dỗ, cũng có lúc con người ta mắc phải những sai lầm, điều quan trọng là phải biết đứng lên sau vấp ngã chứ đừng bao giờ trượt dài trên những sai lầm để rồi bản thân bị tha hóa, bị cuộc đời quật ngã. Luôn phải biết đối diện với khó khăn, với sự thật để vươn lên hoàn thiện mình hơn. Luôn trung thực, thẳng thắn, không nói một đàng làm một nẻo, không lừa dối người khác và đặc biệt đừng bao giờ lừa dối chính mình. Vượt lên bản thân để chiến thắng chính mình...

Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhà văn Lưu Quang Vũ có viết: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề trên. 68

Lưu Quang Vũ được coi là một trong những hiện tượng đáng chú ý của nền văn học dân tộc trong những năm 80 của thế kỉ XX. Không chỉ ghi dấu ấn của mình với thơ, ông còn khẳng định vị thế của mình trong thể loại kịch với số lượng vở kịch được dàn dựng hầu hết thu hút công chúng đến từ mọi miền đất nước. Kịch của Lưu Quang Vũ viết về nhiều đề tài, giàu tính triết lí và “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” cũng là một vở kịch như thế. Ở đây ta dễ dàng bắt gặp tính triết lí ấy hiển hiện ngay trên lời thoại của nhân vật trong đó câu nói “Không thể sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” đã thể hiện tình huống éo le của nhân vật Trương Ba.

    Câu nói trên là lời nói của nhân vật Hồn Trương Ba với Đế Thích,mang đậm tính triết lí, ấy là sự hài hòa, thống nhất giữa hồn và xác trong một con người. Nó thể hiện khát vọng sống khi nhân vật ý thức được bi kịch từ cuộc sống của chính mình- phải sống gán gửi, tạm bợ trên thân xác của anh hàng thịt. Nói như thế, có nghĩa là nhân vật muốn thoát ra khỏi thực tại, mong muốn được sống là chính mình mà không bị sự điều khiển, chịu sự chi phối của thân xác vốn không phải là của mình.

    Tình huống éo le của nhân vật xuất phát từ việc sai sót của Nam Tào, Bắc Đẩu khiến ông Trương Ba chết đi và Đế Thích rất có thiện ý muốn sửa sai. Đế Thích đã để ông Trương Ba sống lại trên xác anh hàng thịt vừa mới chết được một ngày. Tưởng đâu được sống lại là hạnh phúc nhưng không ông Trương Ba luôn phải sống trong đau khổ trên thân xác anh hàng thịt. Ông bị người vợ nghi ngờ vì những ham muốn, những dục vọng đối với vợ anh hàng thịt. Rồi bị cái Gái xa lánh vì cái thân xác nặng nề vốn nâng niu cây cối mà làm gãy cả chồi non, chân giẫm nát cả cây sâm mới ươm, làm hỏng cả cái diều của cu Tị. Đến người con dâu cũng nhận thấy sự xa lạ của một ông Trương Ba trước kia với bây giờ dần dà cô cũng có lúc “không nhận ra thầy nữa”.

    Nhận thấy bi kịch của mình, Hồn Trương Ba thể hiện khát vọng muốn được là mình toàn vẹn giống như trước kia. Nhân vật đã nói chuyện với Đế Thích giãi bày bi kịch sống nhờ, sống không đúng là mình : “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!” và từ chối cơ hội được sống quý giá của mình. Ngay cả khi Đế Thích đề cập tới việc sống trên thân xác cu Tị trong cơn thập tử nhất sinh, ông cũng nhất mực từ chối vì ông cho rằng một ông già nhập vào xác một đứa trẻ “chưa bắt đầu cuộc đời, còn đang tuổi ăn, tuổi lớn, chạy nhảy vô tư” là không phù hợp, không tương thích.

Có thể nói, lời thoại trên của nhân vật Hồn Trương Ba đã thể hiện quan niệm của mình về hạnh phúc, về lẽ sống : Hạnh phúc không phải chỉ đơn giản là được sống mà quan trọng hơn đó là sống như thế nào. Bức thông điệp này được nhà viết kịch Lưu Quang Vũ gửi gắm thông qua bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba : Đó là con người phải được sống là chính mình, sống hòa hợp giữa hồn và xác - tâm hồn lương thiện, trong sạch và thân xác khỏe mạnh ấy mới chính là sống hạnh phúc.

    Xây dựng được tình huống éo le của nhân vật trong vở kịch, Lưu Quang Vũ đã phát triển và sáng tạo cốt truyện dân gian. Chính tình huống éo le của nhân vật đã tạo nên nên khác biệt giữa cốt truyện dân gian và kịch bản của Lưu Quang Vũ. Nếu như cốt truyện dân gian hướng tới một kết thúc có hậu đó là khi Hồn Trương Ba sống trên xác anh hàng thịt hạnh phúc bên gia đình và người thân thì ở kịch của Lưu Quang Vũ, sự việc ấy lại làm nảy sinh bi kịch, những nỗi đau khổ của nhân vật. Bên cạnh đó, Lưu Quang Vũ còn dựng lên những kịch tích thông qua hành động, cử chỉ của nhân vật đặc biệt là lời nói của nhân vật vừa đậm triết lí vừa mang tầm khái quát cao.

    Lời thoại trên của nhân vật đã thể hiện một quan niệm sống giàu giá trị nhân văn, không chỉ phản ánh đúng qua đời sống của nhân vật Trương Ba mà còn rất đúng đắn khi mỗi con người, mỗi cá nhân soi chiếu vào đời sống cụ thể của mình. Giờ đây, ta đã hiểu vì sao mà kịch của Lưu Quang Vũ có sức sống lâu bền, thu hút công chúng đến như vậy và chắc chắn vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nói riêng và kịch Lưu Quang Vũ nói riêng sẽ vẫn sống mãi với thời gian.

Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhà văn Lưu Quang Vũ có viết: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề trên 69

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ. Mượn cốt truyện dân gian, tác giả đã khám phá, thể hiện được nhiều vấn để cấp thiết của con người trong xã hội hiện đại. Để lại ấn tượng sâu sắc nhất với tôi có lẽ là khát vọng về một cuộc sống thực sự được tác giả gửi gắm qua lời nhân vật hồn Trương Ba: "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn".

Đó là lời giải thích của hồn Trương Ba với Đế Thích khi chối từ cuộc sống vay mượn trong thân xác kẻ khác. Trước đó, vị tiên cờ đã làm phép cho hồn Trương Ba sống lại trong thân xác của anh hàng thịt. Linh hồn thanh sạch của người làm vườn, người chơi cờ đã không thể hoà hợp được với thân xác phàm tục của anh hàng thịt thô lỗ, tham lam. Sự trái ngược giữa hồn và xác không chỉ khiến hồn Trương Ba mà cả những người thân của ông phải thất vọng, đau khổ... Cuối cùng, ông đã lựa chọn cái chết để không đánh mất mình. Câu nói của hồn Trương Ba trước khi chết đã gợi nên nhiều suy ngẫm sâu xa về con nsười và cuộc sống.

Trước hết, phải nói đến sự phú định dứt khoát lối sống "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo". Bên trong là thế giới của tâm hồn với những suy nghĩ, tình cảm, tư tưởng; cũng là bản ngã riêng của mỗi con người. Bên ngoài là lời lẽ, hành động, cách ứng xử của con người với thế giới xung quanh. Bên trong - bên ngoài còn là hai phương diện linh hồn và thể xác, tinh thần và vật chất trong cuộc sống của con người. Khi bên trong và bên ngoài trái ngược nhau nghĩa là con người phải sống một cách chấp vá, mâu thuẫn với chính mình; phái giả dối, không được là mình. Cuộc sốngđó đẩy con người vào những đau khổ, day dứt, hổ thẹn triền miên. Giống như tâm hồn trong sạch, nhân hậu, bao dung của Trương Ba lại phải trú ngụ trong hình hài thô kệch, vụng về của anh hàng thịt. Linh hồn ấy ghê sợ những ham muốn dung tục và thói thô bạo của thân xác. Trong khi thân xác kia lại khinh bỉ, chế giễu, giày vò linh hồn...

Tình trạng sống chắp vá đó hiện diện trongthực tế đời sống với nhiều dạng thức và bắt nguồn từ những nguyên nhân khác nhau. Có thể do quan niệm hẹp hòi của một thời, một xã hội, do sự ràng buộc của các mối quan hệ; cũng có khi do sự yếu đuối, hèn nhátcủa bản thân mà con người không dám sống thật với bản ngã của mình. Chẳng hạn, trong thâm tâm, ta coi thường, khinh ghét một người nào đó nhưng buộc phải nói cười, vồn vã, tay bất mặt mừng. Có khi bản tính mình sôi nổi, tinh nghịch nhưng buộc phải "đóng vai" hiền hậu, nết na; mình muốn trở thành một nhiếp ảnh gia nhưng lại bị cha mẹ bắt thi vào Đại học Luật... Hoặc khi đứng trước một sự việc, một hiện tượng mình có cách nhìn nhận, đánh giá khác hẳn mọi người nhưng ngại va chạm này nọ nên đành tỏ thái độ đồng tình. Có khi cần phải lên tiếng đấu tranh với cái xấu, cái ác nhưng vì một lẽ gì đó ta lặng im để rồi mãi ân hận, hổ thẹn. Mà nói như Nam Cao, thì trên đời này "Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình?" (Đời thừa)... Cũng có những con người cố tình lựa chọn kiểu sống "hai mặt" này. Họ có thể nói rất hay về tình thương, lẽ phải, về tinh thần vị tha... nhưng bản chất lại tham lam, ích kỉ, tàn nhẫn... Dù thụ động hay chủ động thì kiểu sống "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo" ấy không thể mang đến cho con người sự bình yên, hạnh phúc. Trái lại, họ sẽ phải sống trong sự hối hận, sự day dứt, giằng xé của lương tâm hoặc trong sự khinh ghét của đồng loại. Nhà thơ Chế Lan Viên từng diễn tả bi kịch đó bằng một hình tượngthơ độc đáo: "Anh là tháp Bay-on bốn mặt - Giấu đi ba, còn lại ấy là anh - Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười, khóc - Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình" (Tháp Bay-on bốn mặt). Kết quả của lối sống vay mượn, giả dối ấy là con người sẽ đánh mất mình hoặc rơi vào cái chết tinh thần đau đớn. Sự xuất hiện và tồn tại của nhiều cá nhân như thế cũng sẽ tạo nên một xã hội không lành mạnh, làm tha hoá con người.

Bị giằng xé giữa hồn và xác, nhân vật hồn Trương Ba của Lưu Quang Vũ thấm thìa hơn ai hết nỗi thống khổ của cuộc sống chắp vá kia nên đã đánh đổi cả sinh mạng để "được là tôi toàn vẹn". Đó cũng là khát vọng sống chính đáng, đẹp đẽ của con người; là cuộc sống cần có, nên có cho con người. Con người sẽ chỉ có hạnh phúc khi được sống trong sự hài hoà giữa linh hồn và thể xác; sống bằng con người thật của chính mình. Để thực hiện được khát vọng sống ấy, cần có cả những điều kiện khách quan và chủ quan. Đó là môi trường xã hội lành mạnh, công bằng, tôn trọng sự thật, thừa nhận quyền được sống "một cách toàn vẹn" của con người. Sống trong một môi trường như thế, con người sẽ không phải sợ hãi, không phải tìm cách giấu mình. Bản thân mỗi chúng ta cũng cần có "dũng khí" để dám sốngbằng con người thực của mình. Khi nào con người biết nhận thức được về mình một cách trung thực, biết khao khát lối sống chân thật thì sẽ dám nói lên sự thật, dám bộc lộ bản thân mình.

Bản thân tôi, ở một mức độ nào đó, cũng từng nếm trải nỗi khổ khi phải sống "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo". Tôi có nãng khiếu văn nghệ, thích được khẳng định mình nhưng lại sợ bạn bè cho là "chơi trội" nên cố gắng để chìm vào số đông. Có lúc, ngồi nhìn một chương trình biểu diễn của lớp bị thất bại, trong khi mình có đủ khả năng làm tốt hơn, tôi bứt rứt, tiếc nuối, ân hận... Phải trải qua nhiều lần bị dằn vặt như thế, tôi mới dám đứng lên nói rằng tôi muốn và có thể làm tốt công việc này. Tôi đã "đạo diễn" thành công nhiều tiết mục văn nghệ cho lớp, cho trường và cảm nhận niềm hạnh phúcđược là mình, được phát huy những điều tốt đẹp trong bản thân mình. Bản tính tôi sôi nổi, thích nói cười, thích nghịch ngợm nhưng mẹ muốn tôi phải nhỏ nhẹ, dịu hiền... Tôi không muốn mẹ buồn nhưng cũng không thể "biến hoá" con người mình theo mong ước của mẹ. Mỗi lúc phải "tỏ ra" hiền lành, lặnglẽ, tôi thấy mình lúng túng, mất tự nhiên, mất luôn cả niềm vui. May mắn là cuối cùng mẹ cũng "chấp nhận" cho tôi được là tôi, tất nhiên vẫn kèm theo lời nhắc nhở: không được vui vẻ, hồn nhiên thái quá thành vô tâm, vô duyên! Khi lựa chọn nghề nghiệp, tôi cũng phải cố gắng thuyết phục gia đình để được làm công việc mình yêu thích. Tôi yêu nghề sư phạm và muốn trở thành cô giáo dạy nhạc nhưng bố mẹ tôi ngăn cản vì sợ ra trường khó có thể vào được biên chế hoặc phải đi công tác ở vùng xa. Tôi biết là có không ít khó khăn nhưng sẽ quyết tâm theo đuổi mơ ước của mình bởi "tôi muốn được là tôi toàn vẹn"... Trong các mối quan hệ xã hội, nhiều lúc tôi làm mất lòng không ít bạn bè, người thân vì lời nói thật nhưng cuối cùng hầu hết mọi người đều hiểu và không giận tôi. Và điều quan trọng là khi có thể sống thực với con người bên trong của mình, tôi thấy thật nhẹ nhõm, thanh thản. Nó cho tôi cả sức mạnh để thẳng thắn nhìn nhận và vượt qua những hạn chế của bản thân...

Không chấp nhận lối sống giả dối, vay mượn; khát khao cuộc sống hài hoà, toàn vẹn cho con người - những vấn đề mà Lưu Quang Vũ gửi gắm trong lời nhân vật hồn Trương Ba vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa thời sự. Tôi đã học được ở đó cách nhìn nhận con người và chính bản thân mình; cách lựa chọn một thái độ sống để có thể trở thành người hữu ích và hạnh phúc