Phân tích con người Nguyễn Khuyến qua Câu cá mùa thu (5 mẫu)

Phân tích con người Nguyễn Khuyến qua Câu cá mùa thu 1

“Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ

Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa

Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm

Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.”

     Có thể nói thu là bức ảnh thiên nhiên đặc sắc trong bức tranh bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Cũng vì lẽ đó mà từ bao đời nay, mùa thu luôn là đề tài muôn thuở của biết bao thi nhân, là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm của họ. Trong văn học trung đại cũng thế, bên cạnh các tác phẩm có đề tài mùa thu như “Thu dạ” của Nguyễn Du hay “Ngẫu hứng” của Nguyễn Bỉnh Khiêm thì sẽ là một thiếu sót nếu không nhắc đến chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến mà nổi bật là bài “Thu điếu”. Qua bài thơ ta thấy được tâm trạng thời thế và tấm lòng sâu nặng của Nguyễn Khuyến đối với đất nước.

     Xưa nay, khi nói đến mùa thu, các thi nhân thường sử dụng những hình ảnh đẹp tráng lệ như sen tàn, từng phong lá đỏ, lá ngô đồng rụng… nhưng đối với “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến thì hoàn toàn khác, ông đưa vào thơ những khung cảnh quen thuộc như ao thu, ngõ trúc, lá vàng… những cảnh vật tuy giản dị nhưng lại phản ánh rất thực mùa thu của làng quê Việt Nam, toát lên được cái hồn dân tộc. Cảnh thu trong thơ Tam Nguyên hiện lên với cái vẻ đẹp thanh sơ, dịu nhẹ nhưng vẫn có nét hấp dẫn riêng, đầy vẻ thuần Việt chứ không phải mùa thu mượn ở nơi khác.

     Con người yêu thiên nhiên của Nguyễn Khuyến được thể hiện qua những vần thơ miêu tả cảnh vật rất thực của ông. Trong “Thu điếu” tác giả đã đặt điểm nhìn của mình từ ao thu lên bầu trời xanh ngắt rồi từ vùng trời ấy trở lại ao, trở lại với chiếc thuyền câu. Nguyễn Khuyến cảm nhận mùa thu từ gần ra xa rồi từ xa trở lại gần nhằm khái quát cảnh vật nhưng vẫn không làm mất đi vẻ yên ắng của mùa thu.

     Đầu bài thơ ông viết:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

     Điểm sơ qua ta nhận ra hình ảnh ngư ông ngồi câu cá trong khí thu lạnh lẽo giữa chiếc ao thu nhỏ hẹp nhưng ẩn chứa trong hai câu thơ vốn là bối cảnh đất nước đương thời. Người xưa có câu: “Thủy chí thanh tắc vô ngư” nghĩa là nước trong thì không có cá. Dù vậy, trong “Thu điếu”, tuy là “nước trong veo” nhưng ngư ông vẫn ôm cần, đó là một việc không thể, tác giả đang làm một việc vô thưởng, vô phạt, đang đối mặt với một tình cảnh đau xót đó là tuy ông là người học rộng tài cao nhưng phải bó tay trước cảnh nước mất mà về dạy học, không mang tài năng ra phụ dân, làm quan vì thời này làm quan chỉ để trở thành con rối cho kẻ khác giật dây. Nguyễn Khuyến luôn mang trong mình mong ước có thể giúp nước nhưng hoài bão ấy không thể cất cánh trong xã hội nhiễu nhương bấy giờ, tất cả đều vô vọng như việc câu cá nước trong.

     Đúng như ván cờ đang vào hồi bế tắc trong bài “tự trào” của ông “cờ đương dở cuộc không còn nước” – “ Bạc chửa thâu canh đã chạy làng”. Trong mạch cảm xúc ấy, tác giả viết tiếp:

“Sóng nước theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

     “Sóng nước theo làn” dùng để tả cảnh mặt nước gợn sóng theo làn gió thu, tưởng chừng như tác giả muốn nói đến cái chuyển động khe khẽ của mặt hồ gợn sóng nhưng thực ra đó chính là thái độ sống mà Nguyễn Khuyến muốn người đời thông cảm, cảm thông cho hành động cáo quan về quê thay thái độ “bình chân như vại” trước cảnh đất nước rơi vào tay giặc, thậm chí có lúc ông phải dạy học trong dinh của ông quan theo Pháp nhưng tất cả những điều đó chỉ là vài làn sóng gợn trong cuộc đời trong sạch như ao thu của Nguyễn Khuyến, ông vẫn thanh khiết như làn nước kia, vẫn một lòng hướng về Tổ quốc và giữ vững hào khí của người quân tử.

     Gam màu lạnh lúc này bị đâm ngang bởi màu vàng của chiếc lá. Nhiều người cho rằng chiếc lá đã khẽ đưa thì không thể có độ “vèo” nhưng thực chất chi tiết này lại rất hợp lí, chữ “vèo” vốn được dùng để gợi tả vẻ thanh mảnh của chiếc lá khi bay hay cũng chính là hiện thực đất nước rơi vào tay giặc quá nhanh, thời thế thay đổi trong chớp mắt, khiến tác giả không khỏi bàng hoàng xót xa trước tình cảnh đất nước đầy đau thương. Nguyễn Khuyến e rằng rồi đất nước này sẽ như chiếc lá vàng kia, mục nát trên nền đất thu.

     Cùng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, cảnh thu được tác giả miêu tả qua hai câu thơ tiếp:

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

     Trong cái vận nước điên đảo đương thời, ông quan thanh liêm về hưu liệu có giúp gì cho nước, ông đau xót, tủi hổ và muốn gửi gắm tâm sự vào khung cảnh thu như bầu trời xanh ngắt hay ngõ trúc kia để làm vơi đi phần nào nỗi buồn vì bất lực. Song những hình ảnh mộc mạc của làng quê lại càng làm ông day dứt vì trách nhiệm của bản thân. Hình ảnh ngõ trúc lúc này gợi lên một sự cô đơn, trống vắng khôn cùng, vắng khách hay ý Nguyễn Khuyến muốn nói tới sự vắng mặt của nhân tài, vắng đi những tâm huyết của nho sĩ lúc bấy giờ.

     Tâm trạng thời thế của Nguyễn Khuyến được thể hiện rõ nhất qua hai câu cuối:

“Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

     Qua hai câu thơ, ta thấy được tâm thế nhàn “tựa gối buông cần” song song với tư thế chờ đợi “lâu chẳng được”, khát vọng phục vụ quê hương của Nguyễn Khuyến luôn dâng trào khiến ông không thể kiên nhẫn ngồi chờ thời. Cõi lòng tác giả bấy giờ như đắm vào dòng suy tư trong khí thu yên ắng, tịch mịch đến nỗi chỉ một tiếng cá đớp động cũng đủ làm ông thản thốt. Tiếng cá ở đây cũng có thể xem là tia hy vọng sáng lên giữ bầu không gian có phần yên ắng, ảm đạm, một niềm tin khách quan đưa người đọc đến với bầu không khí đầy hy vọng, một tín hiệu chuyển biến của thời cuộc, một phép màu xuất hiện ngay lúc canh lạc đang bế tắc và thay đổi tất cả.

     Qua bài thơ, ta thấy được tài năng của Nguyễn Khuyến trong phần gieo vần “eo” vốn là từ vận oái ăm nhưng phù hợp với tâm trạng hẹp dần, đầy uẩn khúc của tác giả. Cạnh đó, thủ pháp lấy động tả tĩnh cũng được ông vận dụng một cách tài tình.

     Bài “Câu cá mùa thu” đã vẽ nên nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, bộc lộ một mối tình thu đẹp mà tràn đầy uẩn khúc của một nhà nho yêu thiên nhiên, một lòng vì nước vì dân.

Phân tích con người Nguyễn Khuyến qua Câu cá mùa thu ngắn gọn 2

Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, ông nổi tiếng với chùm thơ thu, ông đặc danh và mang trong mình một tâm hồn trong sáng và một tình yêu với quê hương đất nước, con người đó thể hiện qua phong cách nghệ thuật sáng tác thơ ca của ông.

     Nguyễn Khuyến là một con người tài hoa, với một phong cách nghệ thuật cũng vô cùng độc đáo, ông tài hoa trong việc cảm thụ để sáng tác lên những tác phẩm nghệ thuật gần gũi và tạo cho con người có một cảm giác rất nhẹ nhàng và vô cùng tinh tế, đó đều là những hình ảnh thể hiện một thái độ rất say mê với nghệ thuật. Trong tác phẩm câu cá mùa thu, ông đã thể hiện được phong cách nghệ thuật của mình, qua cách sử dụng ngôn ngữ, và qua đó người đọc cũng đánh giá được một con người có tầm quan sát tinh tế và một thái độ ung dung:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

     Tác giả đang cảm thụ từng khoảng không gian của thiên nhiên, nó đang trôi chảy nhẹ nhàng qua từng con chữ, với hình ảnh của ao thu lạnh lẽo, ở đây tác giả đang thể hiện tâm hồn của mình, với một cảm xúc có chút cô đơn, và tâm trạng của thi sĩ cũng đang hòa nhập với không khí chung của không gian, tất cả đang tạo nên một cảm giác mới mẻ, và cũng vô cùng hấp dẫn người đọc, người thi sĩ đi câu cá, nhưng mang trong mình nhiều cảm xúc, ở đây có thể hiểu đó là cảm xúc của những con người trước hoàn cảnh của thời cuộc, tác giả đang hình dung ra những điều mới mẻ, trong thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên để nói lên cảm xúc của chính mình. Đúng như thi sĩ cổ đã từng nói: “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

     Đúng như vậy thi sĩ cũng đang mang trong mình những suy tư và biết bao nhiêu cảm xúc đang xen lẫn vào dòng tâm trạng và cảm xúc của chính tác giả, tác giả đang thể hiện những nỗi lòng sâu lắng nhất đối với dân tộc và đối với khung cảnh nơi đây:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Tựa gối ôm cần lâu chẳng đặng,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

     Trong những câu thơ trên tác giả vừa thể hiện được vùng cảnh của thiên nhiên vùng nông thôn Bắc Bộ, và còn tiếp tục thể hiện nỗi lòng của những người thi sĩ trước những cảnh sắc thiên nhiên, đang mang đậm những dòng cảm xúc và biết bao nhiêu sự cô đơn, và hiu quạnh trong lòng người, có thể thấy được những điều đó qua biết bao nhiêu những cảm xúc sâu sắc và mang lại nhiều cái nhìn mới mẻ riêng của chính tác giả và không gian thanh bình nơi đây.

     Những cảm xúc cô đơn đang xen lẫn là những hoài niệm xa xôi, những cảm xúc của thời cuộc, mặc dù viết về vùng nông thôn vùng Bắc Bộ nhưng tâm trạng của thi sĩ nơi đây cũng mang một nỗi lòng nặng gánh với biết bao nhiêu lo toan, và những cái nhìn mới mẻ nhất, đọc thơ của Nguyễn Khuyến, chúng ta vừa thấy cảnh sắc thiên nhiên đang hiện ra và nó còn mang nhiều cảnh sắc của tâm hồn đang mang nặng những dòng cảm xúc riêng, đó là những cảm xúc của những con người với thời cuộc.

     Khung cảnh nơi đây thơ mộng, nhưng khách lại vắng teo, nó cũng để chứng tỏ một điều đó là nơi đây đất nước đang rơi vào những khó khăn, nhưng những người hiền tài, chưa thấy có, chính vì vậy, tâm hồn của tác giả đang mang nặng những mối lo và suy tư về cuộc đời, cuộc đời của tác giả đang ngập tràn trong những cảm xúc riêng, và nó thể hiện một tâm trạng thời thế của chính tác giả.

     Với những dòng cảm xúc riêng tác giả đang thể hiện những cảm xúc của mình qua khung cảnh thiên nhiên, viết về đề tài thiên nhiên nhưng khung cảnh thiên nhiên, và cảm xúc của con người vẫn đang rất thấm đẫm trong đó, nó thể hiện những cảm xúc riêng và đặc biệt, tâm hồn của tác giả đang lạc vào một thế giới cảm xúc lẫn lộn, giữa đời người và thiên nhiên vô hạn. Tâm trạng thời thế của Nguyễn Khuyến như chúng ta thấy nó hiện rõ lên ở hai câu cuối:

Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

     Hai câu cuối đã mang đậm tâm trạng để nói về một tình yêu đất nước không bao giờ nguôi ngoai của tác giả, dù cho thi sĩ của ngắm cảnh vãng lai, nhưng lúc nào cũng luôn nghĩ về đất nước, muốn phục vụ cho đất nước. Ngồi thẫn thờ và suy ngẫm về đất nước điều đó làm cho tác giả bỗng giật mình khi thấy tiếng cá, đớp chân bèo, đây là cảm xúc và một tâm hồn yêu cái đẹp, nhưng tâm hồn luôn nghĩ về quê hương, biết lo cho quê hương, đó là tất cả những gì mà tác giả đã thể hiện trong tác phẩm của mình.

     Tác giả đã thể hiện nỗi lòng của mình qua tác phẩm, đó là những tâm trạng thời thế, và biết bao nhiêu cảm xúc, và dòng tâm trạng đang thấm đẫm trong dòng cảm xúc của từng lời thơ, cảm xúc đó đã tạo nên những khung cảnh riêng và đậm giá trị nhân văn sâu sắc trong từng giai điệu của tác phẩm.

Phân tích con người Nguyễn Khuyến qua Câu cá mùa thu 3

Mùa thu là cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Riêng Nguyễn Khuyến đã có một chùm thơ thu vô cùng đặc sắc: Thu vịnh, Thu điểu, Thu ẩm. Nhà thơ lấy cảnh thu, tình thu mà nói lòng mình vậy. Và cùng qua thơ thu ta thấy hiện lên một phần đáng trân trọng trong con người Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ Thu điếu – Câu cá mùa thu, Nguyễn Khuyến hiện lên với tấm lòng sâu nặng nghĩa tình đối với đất nước.

     Thơ thu xưa chẳng khi nào vui cả. Nhắc đến thơ thu là nhắc đến những tâm trạng u hoài, man mác. Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy.

     Thơ gợi tình người mà người buồn thì thơ vui sao được? Bài thơ ra đời khi Nguyễn Khuyến đã quá bất mãn với xã hội mà lui về ở ẩn ở quê nhà. Xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến cướp đi quyền tự chủ của nước nhà, gieo rắc bao đau thương mất mát cho đất nước, con người Việt Nam. Buồn vì thảm cảnh”, bất hợp tác với thực dân Pháp, Nguyễn Khuyến thể hiện khí tiết học ông ngư về quê câu cá. Bài thơ Câu cà mùa thu bước ra từ một tâm sự, một nỗi niềm như thế để giãi bày với hồn thiêng sông núi quê hương một tấm lòng yêu nước thiết tha, day dứt.

     Điều dễ thấy trong Câu cá mùa thu là cảnh tuy buồn nhưng vô cùng đẹp đẽ. Điều đó thể hiện tấm lòng yêu nước ưu ái với thiên nhiên của thi nhân.

     Bức tranh mùa thu hiện lên trong trẻo, xinh xắn làm sao.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
...

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

     Cái se lạnh của mùa thu làm làn nước ao “lạnh lẽo” “trong veo”. Câu thơ không chỉ nói đến cái lạnh mà còn nhắc đến cái tĩnh lặng, cái vắng vẻ, cái buồn buồn của khí trời, của cảnh vật. Phải rồi, “ao thu lạnh lẽo” thì mọi loài cũng chỉ muốn lặn mình xuống đáy, đâu muốn tung tăng bơi lội nô đùa? Vì thế, làn nước “trong veo” – trong trẻo, tĩnh lặng, cái trong có hình có khối. Tưởng đôi mắt Thúy Kiều – “làn thu thủy” – cũng chỉ trong đến thế.

     Mở đầu bài thơ là hình ảnh cái ao làng mùa thu – một hình ảnh hết sức quen thuộc ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Và từ đây, mọi cảnh vật trong bài thơ đều xoay quanh cái ao ấy, lấy cái ao làm điểm nhìn nghệ thuật. Hơi thu man mác, lạnh lẽo, trầm buồn từ làn nước mùa thu “trong veo” đang lan tỏa thấm dần vào từng hơi gió.

     Trên nền ao thu vốn đã rất nhỏ là “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Chỉ là “một chiếc” thôi không hơn. số từ “một” khiến chiếc thuyền câu bơ vơ đơn độc. Mà “một chiếc thuyền câu” lại “bé tẻo teo” nên càng mong manh tội nghiệp.

     Điểm xuyết cho bức tranh thu xinh xắn là gợn “sóng biếc” là chiếc lá vàng. Tưởng rằng thêm vào sẽ bớt vắng vẻ đìu hiu nhưng ở đây, làn sóng biếc, chiếc lá vàng càng gợi cái nhỏ bé mong manh của sự vật. Bởi “sóng biếc” thì “theo làn hơi gợn tí”, chỉ “hơi” gợn, chăm chú lắm mới thấy, mà còn là “gợn tí” một chút cỏn con… Còn lá vàng thì “đưa vèo” như chỉ tạo ra một vệt sáng vàng rồi nhanh chóng nằm lặng im nơi nào đó.

     Chiếc “lá vàng” ấy là lá gì? Là lá trúc, lá tre chăng? Có thể lắm bởi bờ ao đồng bằng Bắc Bộ thường có những lũy tre xanh tỏa bóng êm dịu. Càng có thể bởi ở hai câu sau nhà thơ đã viết:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

     Không gian được mở rộng lên chiều cao, sang bề rộng. Vậy nhưng cũng không bớt vắng vẻ cô đơn. Mây trắng “lơ lửng” giữa không trung không về với trời; chẳng sà xuống thấp, lẻ loi trôi dạt trong bao la. Sắc trời “xanh ngắt” – xanh rất đậm, xanh như có hình khối, sắc xanh tuyệt đối ấy càng khẳng định cái đơn côi lẻ loi của sự vật.

     Trời xanh cao mà buồn quá. Hạ tầm nhìn xuống thấp mong chờ sự giao hòa đồng cảm nhưng nhà thơ chỉ thấy “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.
 
     Đường làng vốn đã rất nhỏ nay lại quanh co khúc khuỷu, tưởng như một dải lụa cố xoắn mình tự thu nhỏ lại. Đường vắng vẻ, vắng lắm, “vắng teo” Nếu chẳng “vắng teo”, dẫu có bóng người có lẽ củng nhỏ bé, đơn độc lắm.

     Một bức tranh thu xinh xắn hài hòa. Sự vật gì cùng thu mình lại để nhỏ hơn, để hoà hợp hơn với khuôn hình của sự vật khác. Đặc biệt, cách dùng vần “eo” rất tinh tế: “lạnh lẽo” “trong veo” “tẻo teo” “đưa vèo”… , ở đây có sự thống nhất giữa nội dung và hình thức: vần “eo” khiến cảnh vật càng bé nhỏ, mong manh đơn côi hơn. Bức tranh thiên nhiên xinh xắn, đẹp đẽ thể hiện một tâm hồn thi nhân tinh tế, nhạy cảm. Hơn thế còn bộc lộ một con người đồng cảm với thiên nhiên, yêu thiên nhiên tha thiết.

     So sánh thiên nhiên trong Câu cá mùa thu với những bài thơ thu khác ta còn trân trọng hơn tấm lòng Nguyễn Khuyến. Thơ xưa tả mùa thu thường mượn lá ngô đồng, rừng phong đỏ để gợi tứ gợi tình “Một chiếc lá ngô đồng rụng/ Ai cũng biết là mùa thu đã về” “Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san”. Bích Khề của “thơ mới” cũng vần gò thơ theo khuôn như vậy.

Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông.

     Ai cũng biết “lá ngô đồng” “rừng phong đó” là hình ảnh ước lệ tả mùa thu, hai hình ảnh ấy tượng trưng cho mùa thu Trung Quốc. Các nhà thơ trung đại Việt Nam theo lối “tập cổ” mà vẫn ưu ái những hình ảnh ấy. Thiên nhiên trong bài thơ của Nguyễn Khuyến thì khác. Không một chút vay mượn, chỉ có cái thuần cảnh vật quê hương. Ao làng, bụi trúc, lá vàng rơi… những hình ảnh ấy giản dị, quen thuộc với người dân đồng bằng Bắc Bộ lắm. Đưa chúng vào thơ, Nguyễn Khuyến đã thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên quê nhà tha thiết, lòng tự hào về cảnh sắc quê hương. Tình yêu ấy cảm động ở việc đã phá bỏ những lề lối ước lệ bền chắc xưa cũ.

     Chưa hết, một bài thơ Đường luật năm mươi sáu chữ không một chữ nào không thuần Việt. Chẳng ai -tìm được một từ Hán Việt nào, nhà thơ hoàn toàn dùng ngôn ngữ của đất nước để vẽ nên bức tranh tuyệt mĩ về quê hương. Chẳng những vậy, nhà thơ còn vận dụng rất tài tình vần “eo” – vần thơ rất đặc biệt, nó nôm na xa lạ với thơ cổ nhưng lại đạt hiệu quả nghệ thuật rất cao. Sự tài tình trên chỉ có thể có ở một nhà thơ yêu tiếng mẹ đẻ, trân trọng dân tộc, tự hào về đất nước mình.

     Thiên nhiên, đẹp đẽ nhưng tầng sâu của nó là một nỗi buồn, một tâm sự của thi nhân. Cảnh đẹp nhưng sao buồn thế! Mọi vật đều hững hờ, đơn côi đến vô tình. Nguyễn Du đã có một câu thơ thật hay “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ở đây, cảnh thu cũng vậy. Nguyễn Khuyến buồn thì có cớ gì đế cảnh vui? Cảnh buồn, cảnh cô đơn bởi nhà thơ cũng đang mang nặng cảm giác ấy giữa cuộc đời biến động. Bất mãn với xã hội, khinh bạc chốn quan trường nhưng vẫn nậng lòng lo cho an nguy của Tổ quốc. Vậy nên, dầu lui về ở ẩn tâm hồn nhà thơ vẫn canh cánh một niềm riêng.

     Có lẽ vì nỗi buồn lớn quá, nhà thơ không thể gửi gắm mãi vào thiên nhiên. Hai câu cuối bài thơ hạ xuống cùng là lúc bài thơ vén lên bức màn để lộ một con người với niềm ưu tư day dứt:

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

     Tư thế “tựa gối ôm cần” là tư thế mang nặng tâm trạng. Chờ hoài không có cá nên buồn bã, thất vọng “tựa gối” nhưng còn mong mỏi đợi chờ nên vẫn “ôm cần”. Nhưng có phải thi nhân đang câu cá? Nếu phải, tại sao lại có cảm nhận mơ hồ “cá đâu đớp động dưới chân bèo?”. Thực ra, Nguyễn Khuyến câu cá đâu phải vì muốn câu cá. (Thế nên mới có cái ngơ ngác nhìn quanh: cá ở đâu đớp động dưới chân bèo vậy? – Chăm chú câu cá sẽ không có chi tiết này). Nhà thơ làm ông ngư chỉ vì muốn lánh đời. Nhưng cuộc đời ở ẩn không làm tan đi nỗi ưu tư với đời. Câu cá mà không tập trung câu cá, tâm hồn vẫn chơi vơi nơi đâu không ở lại nơi cái ao làng nhỏ bé này.

     Thi nhân ưu tư điều gì? Ưu tư về vận nước, ưu tư về lẽ đời. Niềm ưu tư dai dẳng, khắc khoải dứt áo ở ẩn vẫn không nguôi trăn trở. Nguyễn Khuyến, một con người có tấm lòng yêu nước sâu nặng.

     Con người Nguyễn Khuyến qua Câu cả mùa thu hiện lên ở nhiều góc cạnh: yêu thiên nhiên đất nước, yêu tiếng mẹ đẻ, trân trọng và tự hào về dân tộc, luồn trăn trở băn khoăn với vận nước, với cuộc đời… Tựu trung lại, bài thơ đã thể hiện một tâm hồn yêu nước khắc khoải, trăn trở đầy xúc động.

     Thơ Nguyễn Khuyến đa dạng về nội dung, nhiều màu vệ trong cách thể hiện nhưng sẽ còn mãi với thời gian.

     Và do đó, Câu cá mùa thu cũng luôn là một trong những “kiệt tác xinh xắn” của thơ ca Việt Nam.

Phân tích con người Nguyễn Khuyến qua Câu cá mùa thu 4

Nhắc đến Nguyễn Khuyến người ta nhớ ngay đến một nhà thơ được mệnh danh là "nhà thơ của làng cảnh Việt Nam" của miền quê Bắc Bộ. Và cũng khi nhắc đến ông, người ta nhớ ngay đến chùm thơ thu gồm ba bài: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Ba bài thơ được coi là "nức danh nhất" trong các sáng tác của ông. Mỗi bài thơ miêu tả bức tranh làng cảnh ở một góc nhìn, một khía cạnh khác nhau nhưng đều gặp nhau ở hình ảnh một Nguyễn Khuyến có tình yêu thiên nhiên tha thiết, một Nguyễn Khuyến với những nỗi niềm tâm sự riêng, nặng lòng vì nước. Đến với "Thu điếu" (Câu cá mùa thu) ta sẽ càng hiểu rõ hơn về con người ấy.

"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo".

Bài thơ dựng lên một bức tranh thiên nhiên ở vùng đồng bằng Bắc Bộ trong một không gian rất đặc trưng là ao thu. Cái nhìn của bài thơ cũng được đặt từ đây để hướng ra xa rồi lên cao rồi lại quay trở lại điểm nhìn thật gần. Trung tâm của bức tranh mùa thu là hình ảnh "một chiếc thuyền câu bé tẻo teo", một ngư ông ngồi "tựa gối buông cần". Từ một cái thuyền con giữa lòng ao, cái nhìn của nhà thơ bao quát ra xung quanh: mặt nước ao thu lạnh lẽo, trong veo đến hết độ sắc trong, sóng biếc chỉ hơi khẽ gợn, ngang tầm mắt người là "thu rứt lá gọi mùa đi", hướng lên trên cao để thu vào một khoảng trời trong xanh vời vợi, lơ lửng như yên tĩnh tự muôn đời; bao quát để nhìn thấy cái quanh co của những ngõ trúc uốn lượn. Và tầm nhìn cuối cùng quay về thu lại ở chiếc thuyền câu cá bởi tiếng "đớp động dưới chân bèo". Bằng ngòi bút tinh tế cùng cách sử dụng ngôn từ, cách gieo vần tài tình nhà thơ đã đưa những thi liệu vốn quen thuộc trong thơ ca cổ (thu thuỷ, thu thiên, thu diệp, ngư ông) để tạo nên những vần thơ vừa cổ điển lại vừa hiện đại. Bút pháp lấy điểm tả diện, lấy động tả tĩnh được sử dụng một cách đắc địa. Bức tranh thiên nhiên hiện lên tĩnh lặng gần như tuyệt đối. Phải tĩnh lặng mới thấy rõ cái "hơi gợn tí" của mặt ao và chút "khẽ đưa vèo" của lá vàng. Tĩnh đến độ con người và thiên nhiên nghe thấy tiếng đớp động của chân bèo để mà giật mình sực tỉnh. Người đọc ấn tượng về một cảnh thu thanh vắng, quạnh hiu, dường như chỉ có một thi nhân trong vai ông già ngồi câu cá đối diện trước cảnh thiên nhiên thu nhỏ để lắng vào cõi suy tư. Phải có một tâm hồn tinh tế và yêu thiên nhiên sâu sắc, Nguyễn Khuyến mới có thể khám phá những đường nét trong bức tranh thiên nhiên hài hoà đến vậy. Hồn quê xứ sở đã thấm vào hồn thơ để tạo nên một ấn tượng đặc biệt. "Cái thú vị của bài "Thu điếu" là ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đám ngang của chiếc lá thu rơi" (Lê Trí Viễn). "Diệp lạc tri thu". Chỉ thoáng một chiếc lá vàng gọi hồn thu vĩnh cửu trong thơ thu sách vở, và các gam màu xanh thì thật dân dã, đồng quê, gần gũi.

Bài thơ thiên về gợi nhiều. Không chỉ bức tranh thiên nhiên từ điểm gợi ra được hiện mà từ bức tranh thiên nhiên ấy, hình ảnh thi nhân cũng được gợi ra một cách rất cụ thể, chân thực và sinh động. Phải đến hai câu thơ cuối cùng hình ảnh nhà thơ trong vai trò của một ngư ông mới được miêu tả trực tiếp nhưng người ta đã bắt gặp bóng hình của ông thấp thoáng hiện hữu trước đó. Đó là ánh mắt chăm chú dõi theo mọi chuyển động tinh vi của thiên nhiên, sự sống từ đầu đến cuối bài thơ. Và còn là hình ảnh của một thi nhân trầm ngâm, tư lự. Người ngồi trên thuyền trầm ngâm tĩnh lặng đến mức không làm cho chiếc thuyền động đậy. Cái chuyển động của sóng nước mặt ao chỉ là hơi gợn tí, nhưng cũng là do gió mà thôi. Nhà thơ cùng với con thuyền câu như hóa thành một bức tượng mà chỉ có sự sống xung quanh là vận động, tuy buồn, tuy quạnh hiu, vắng vẻ nhưng vẫn cứ gợi nhiều cảm xúc. Hẳn phải có cái gì đó lôi cuốn thi nhân ghê gớm lắm mới có thể khiến ông bị cuốn toàn bộ tâm trí vào như vậy. Đến đây, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ hình ảnh của một con người "đau" đang có rất nhiều tâm trạng. Dường như có gì đó tương đồng giữa cảnh "Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo" của nhà thơ với tâm trạng của Tản Đà trước sự biến ảo, đổi thay của thời thế trong câu thơ "Vèo trông lá rụng ngoài sân". Có cái gì đó như buồn, như nuối tiếc trước cái đổi thay, rối ren của thời thế. Hình ảnh "bầu trời xanh ngắt" không chỉ xuất hiện trong bài "Câu cá mùa thu". Đó là màu đặc trưng rất thu trong một không gian thu thoáng đãng. Nhưng trước suy tư miên man của người trong cuộc, dường như trời xanh ấy, và cả đám mây lững lờ trôi cũng chứa đầy tâm trạng. Thơ Nguyễn Khuyến đã xuất hiện không ít lần câu thơ bày tỏ nỗi day dứt, "vò đầu mấy bạn làm thơ đi về". Và phải chăng cái "lửng lơ", "quanh co", "vắng teo" chính là tâm trạng cô quạnh, cô đơn của nhà thơ, là nỗi niềm, là tâm trạng thời thế được gửi gắm kín đáo và sâu xa? Chút "khẽ đưa vèo" của lá vàng

Mải mê với suy tư đến mức thi nhân phải giật mình bởi một thứ âm thanh gần như rất mơ hồ:

"Cá đâu đớp động dưới chân bèo"

Bài thơ viết về câu cá mùa thu mà đến tận hai câu thơ cuối cùng mới đề cập đến chuyện câu cá. Mà đề cập đến thì cũng chỉ là cái giật mình sửng sốt của người đi câu trước tiếng đớp động. Thì ra là vậy! Người đi câu nhưng đâu có để ý đến việc câu cá, bởi tâm hồn đang nặng trĩu suy tư. Đi câu chỉ là một cái cớ để nhà thơ có thời gian yên tĩnh một mình, chiêm nghiệm về cuộc đời, về những nỗi niềm tâm sự thầm kín. "Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả và đa cảm" (Vôn-te). Bài thơ là tiếng lòng của một người thơ lúc nào cũng luôn nặng trĩu suy tư.

Phải hiểu được hoàn cảnh riêng của nhà thơ và bối cảnh thời đại bấy giờ mới thấy hết được tâm sự cũng như cái thanh cao trong tâm hồn Nguyễn Khuyến. Là một nhà thơ có khí tiết thanh cao nhưng lại sinh ra vào thời buổi: "Vua chèo còn chẳng ăn ai/ Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề" ông chọn con đường cáo quan về ở ẩn để, giữ nguyên khí tiết. Nhưng nhàn thân mà chẳng nhàn tâm. Ý thức của một nhà nho và một tâm hồn yêu nước, luôn nặng suy tư đã khiến ông luôn mang mặc cảm của người: "Cờ đang dở cuộc không còn nước/ Bạc chửa thâu canh đã chạy làng". Trở về vườn Bùi chốn cũ, tâm hồn ấy vẫn còn nặng lòng với thời cuộc: "Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn/ Tình thương hải tang điền qua mấy lớp?". Là một người tài năng, một nhà nho yêu nước có cốt cách thâm trầm, khí phách thanh cao, ông gửi gắm tất cả nỗi niềm của mình vào trong cảnh vật. "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Thế nên bức tranh thiên nhiên mới có độ thanh vắng, quạnh hiu, gợi nỗi buồn sâu đến vậy. Thế nên đi câu là đi câu lấy cái tĩnh, cái thanh, cái trong, cái lắng, cái nhàn trong tâm hồn nhưng tiếng "cá đâu đớp động" đã phá vỡ không gian im vắng. Cậu cá để câu nhàn mà dường như không thể, bởi nhàn trước hoàn cảnh hiện tại, đối với một nhà thơ như Nguyễn Khuyến là một điều không thể thực hiện được.

"Câu cá mùa thu" cho ta biết thêm về Nguyễn khuyến, một tâm hồn thiết tha với quê hương, đất nước.

Phân tích con người Nguyễn Khuyến qua Câu cá mùa thu 5

Từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, mùa thu đã làm hao tốn giấy mực của biết bao văn nhân, thi sĩ: Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Jacques Delille, Charles Baudelaire, Guillaume Apolinaire… ơ Việt Nam, chỉ với Nguyên Khuyến, lần đầu tiên mùa thu nông thôn mới thật sự đi vào văn học. Cụ Tam nguyên Yên Đổ đã để lại cho đời nhiều bài thơ nhưng chùm thơ thu gồm ba bài: Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm, luôn bất tử với thời gian. Chúng ta hãy thưởng thức vẻ đẹp của cảnh sắc mùa thu và tìm hiểu tâm trạng của nhà thơ qua bài Thu điếu:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo,

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Tựa gối ôm cẩn lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Cảnh sắc ở Thu diếu không phải là mùa thu phương Bắc:

Lác dác rừng phong hạt móc sa Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.

(Đỗ Phủ)

Càng không hay:

Phải mùa thu phương Tây:

Gió bấc thổi cành cây khô héo

Rơi đó đây khắp nẻo lòng thung

Từng hồi lá rụng mặt đường.

(Jacques Delille – Phạm Nguyên Phẩm dịch)

Xa tận bìa rừng

Nai kêu văng vẳng

Thu ơi ta yêu sao tiếng em xào xạc

Những quả rơi không cần hái nhặt

Gió và rừng khóc than

Tất cả lệ thu rơi từng lá một.

(Guillaume Apolinaire)

mà đích thị là mùa thu đẹp tuyệt vời của vùng chiêm trũng Bắc Bộ Việt Nam.

Sáu câu thơ đầu đã vẽ nên bức tranh ấy:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo,

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngất,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Nếu như ở bài Thu ẩm, Thu vịnh, Nguyễn Khuyên lần lượt miêu tả cảnh từ gần đến xa, từ xa đến gần, thì ở bài Thu điếu, nhà thơ vẫn theo luật gần xa của hội họa nhưng kết hợp được hai chiều. Ngồi trên “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”, thi nhân đưa điểm nhìn bao quát toàn cảnh. Điểm nhìn đầu tiên là cảnh ao thu. Thật vậy, nơi “vườn Bùi, chôn cũ” có rất nhiều ao vì đó là vùng đồng bằng. Màu nước ao “trong veo” như một tấm gương xinh xắn soi bóng mây trời. Sự cảm nhận ở đây không chỉ bằng xúc giác mà còn bằng linh giác. Cái lạnh lẽo của khí thu thấm dần vào tâm hồn dạt dào xúc cảm của thi nhân. Trên cái ao vốn đã nhỏ, nhưng chiếc thuyền nan hiện trên cái ao lại càng nhỏ hơn: “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Từ “một” rất có sức gợi: gợi cảnh câu cá và cảnh người câu cá đơn độc, cô lẻ. Câu thơ cũng gợi ta nhung nhớ cánh buồm cô đơn trong thơ Lí Bạch cách đây hơn 1200 năm:

Cô phàm viễn ảnh bích không tận.

(Bóng cánh buồm lẻ loi xa xà mất hút vào khoảng không xanh biếc).

Qua đó, hình ảnh nhân vật trữ tình như đắm chìm trong cảnh sắc mùa thu. Có thể nói, bằng cách chọn lọc ngôn từ tinh vi, ăn ý: lạnh lẽo, trong veo, tẻo teo, Nguyễn Khuyên đã gọi được cái hồn thu, tiếng thu của làng quê thôn đã Việt Nam vọng về.

Ớ hai câu thực, nhà thơ tiếp tục chấm phá một cách tài hoa cái hồn thu ấy:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Mặt nước thu không phẳng lặng do có cơn gió thu se sẽ lướt qua. Cơn gió heo may hiu hắt vừa trở về ấy đã kích thích con sóng gợn lăn tăn, phản chiếu sắc trời xanh biêng biếc. Và mây trăm, mấy nghìn năm nay, thu nào đến mà không có sắc vàng của cỏ cây, cũng như không thiểu lá vàng rơi:

Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu

… Sương giày giậu cúc đóa hoa vàng.

(Nguyễn Công Trứ)

Mùa thu tràn về đất trời mơn man

Lá vàng rụng em ơi lá vàng rụng

Ngập lối đi bao nhiêu chiếc lá vàng

Và cùng nữa chiếc lá vàng trong gió

Đang xoay xoay bay trong nắng thu vàng…

Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi. Thu mênh mông.

(Bích Khê)

Sắc dâu nhuộm ố quan hà

Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương.

(Tản Đà)

Đây mùa thu tới, mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng.

(Xuân Diệu)

Nhưng hình ảnh chiếc lá vàng trong thơ Nguyễn Khuyến vẫn mang nét đẹp riêng và đầy ấn tượng:

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Cơn gió mùa thu đã tiếp tục bứt đi chiếc lá vàng thon thon hình thuyền, nhẹ nhõm rồi liệng đi trong không gian êm đềm, khẽ khàng. Xuân Diệu cho rằng cụ Tam nguyên Yên Đổ thật tài tình khi tìm được cái tốc độ bay của lá: “vèo” để tương xứng với cái mức độ gợn của sóng: “tí”.

Nhà thơ Tản Đà cũng hết lời khen tặng từ “vèo” trong câu thơ này. Thi sĩ bộc bạch rằng cả một đời thơ của mình may ra mới có được câu thơ đắc ý trong thi phẩm Cảm thu, tiễn thu:

Vèo trông lá rụng đầy sân.

Sau này, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng một lần có cái “nghiêng tai kì diệu” để cảm nhận tiếng rơi đó:

Ngoài thềm rơi cái lá đa

Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.

Mặt khác, ở hai câu luận, nghệ thuật đôi ngữ rất chỉnh: đối ý: sóng biếc >< lá vàng; theo làn >< trước gió; đôi từ: sóng >< lá (danh từ đôi với danh từ), biếc >< vàng (tính từ đôi với tính từ), gợn >< đưa kết hợp với phép đổi trật tự cú pháp vừa có sức gợi tả, vừa thể hiện sự cảm nhận vô cùng tinh tế, sắc sảo của thi nhân.

Đến hai câu luận, Nguyễn Khuyến khéo léo mở không gian lên tầng cao:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Bầu trời xanh ngắt muôn thuở vẫn là biểu tượng cho vẻ đẹp của mùa thu.

Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du cũng đã vẽ lên một bức tranh thu tuyệt đẹp trong một tác phẩm bất tử với thời gian:

Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.

(Truyện Kiều)

Trong thơ hiện đại, Nguyễn Đình Thi cũng có những câu thơ miêu tả bám rễ sâu vào lòng người:

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha.

(Đất nước)

Trong cả ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyên đều xuất hiện hình ảnh hữutình này:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao.

(Thu vịnh)

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt.

(Thu ẩm)

“Xanh ngắt” cũng thuộc nhóm màu xanh nhưng là xanh thuần một màu trên diện rộng. “Xanh ngắt” còn gợi ra “cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá”. Điểm thêm trên bầu trời “xanh ngắt” ấy là một “tầng mây lơ lửng” trông rất thú vị, tình tứ và càng tôn thêm vẻ đẹp yên ả của mùa thu. Nhờ điểm nhìn từ tầng cao mênh mông, thoáng đãng, thi nhân thả hồn về xóm làng quen thuộc:

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Cái ngõ vào nhà không thẳng tắp mà “quanh co”, xấp xõa tre trúc mộc mạc, bình dị. Từ “quanh co” gợi cảm giác sâu hun hút, vòng lượn, uốn khúc mãi đến vô cực. Dường như những người dân quê bây giờ đang chân lấm tay bùn, một nắng hai sương trên đồng ruộng. Họ đang chăm sóc những cây lúa xanh uốn mình trong gió nhẹ hay đang gặt hái và đang ngồi bên đông thóc mẩy vàng. Do đó, trên đường quê thiếu vắng những bước chân thân thương: “khách vắng teo”. Vậy nên, câu thơ: “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” chuyên chở vẻ đẹp tích tụ. Đồng thời nghệ thuật đối chữ ở cặp câu luận này đã làm nổi bật lên cái thần thái của mùa thu nơi làng quê Bắc Bộ.

Nhìn chung, toàn bộ cảnh sắc mùa thu ở sáu câu thơ đầu tiên được cảm nhận bằng nhiều giác quan tinh tế của thi nhân và được vẽ lại bằng ngòi bút tài hoa của một hoạ sĩ. Bức tranh thơ chất chứa một giai điệu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá rơi” (Xuân Diệu). Vả lại, “bức tranh thơ vừa có chiều cao, vừa có chiều rộng, chiều sâu, vừa có những hình ảnh được đặc tả nổi bật, vừa có sự kết hợp hài hoà giữa cận cảnh và viễn cảnh” (Vũ Nho). Đặc biệt, các vần eo: trong veo, tẻo teo, đưa vèo, vắng teo được Nguyễn Khuyến phối hợp rất điêu luyện đã góp phần tạo nên một bức tranh tĩnh vật sắc sảo, duyên dáng.

Đến hai câu cuối cùng của bài thơ (câu 7-8) là bức tranh tâm trạng của Nguyễn Khuyến:

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Như chúng ta đã biết, tháng 8 năm 1858 thực dân Pháp đã nã đại bác vào Đà Nẵng, chính thức xâm lược đất nước ta. Triều đình nhà Nguyễn bạc nhược, cõng rắn cắn gà nhà rồi lần lượt đầu hàng giặc một cách nhục nhã. Bản thân Nguyễn Khuyên là một vị quan dưới triều Nguyên. Việc đỗ đạt làm quan để “thờ vua, giúp nước”, thự3 hiện nghĩa vụ “trí quân trạch dân” (vừa giúp vua, vừa làm cho dân được nhờ) là một nhân sinh quan của ông rất hợp với đạo đức, chuẩn mực Nho giáo quy định. Tuy nhiên, sống trong hoàn cảnh đất nước như vậy, nếu cụ Tam nguyên cứ làm quan thì chẳng khác nào tiếp tay cho giặc, đó cũng là điều mà các nhà nho chân chính nơm nớp sợ hãi. Ban đầu còn lúng túng, nhưng sau đó, ông quyết định từ quan về nhà, vui thú đồng nội. Khi viết bài thơ này thì Nguyễn Khuyến đã cáo quan từ lâu: Rằng: quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu (Di chúc).

Nhà thơ “tựa gối ôm cần”, nhưng trong lòng không muôn cá cắn câu. Vậy thi nhân muôn gì? Trong thơ văn cổ, các bậc hiền triết thường mượn việc ngồi câu cá để chờ đợi thời, chờ đợi người có tài đức song toàn vời ra giúp việc quốc gia. Đời nhà Chu, Trung Quốc có Lã Vọng, ngồi buông câu mải miết bên dòng sông Vị Thuỷ. Đến năm bảy mươi tuổi mới gặp Văn Vương mời ra tham gia việc triều chính, đại sự:

Điếu nhân bất điếu ngư,

Thất thập dắc Văn Vương.

(Câu người không câu cá Bảy mươi gặp Văn Vương).

(Bạch Cư Dị)

Về sau, tại Trung Quốc cũng có Trang Tử ôm cần ngồi câu cá ớ Phúc Thuỷ. Vua nước Sớ là Sở Vương rất tin dùng nên sai hai đại thần đến tận nơi tha thiết mời gọi Trang Tử ra nhận quan to, chức trọng, quyền cao nhưng ông không thèm quay đầu lại. Nguyễn Khuyên cũng thế. Bọn cộng tác với thực dân Pháp là Hoàng Cao Khải, Lê Hoan không buông tha việc quan trường đôi với ông. Ông phải làm quan hơn 10 năm mới lui về được chôn vườn Bùi. Như vậy, bây giờ “tựa gối ôm cần”, cụ Tam nguyên rất khao khát được an nhàn, được chìm vào giấc mộng thu êm ái.

Bỗng một âm thanh quen thuộc của đồng nội vọng vào thính giác của thi nhân:

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Trong thơ Đường, thơ Tông, thơ Việt Nam thời trung đại (trước Nguyễn Khuyến) tiếng thu là tiếng chày đập vải, tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng, tiếng dế than ri ri giữa đêm thanh vắng, tiếng lòng rạo rực, nhớ nhung của người cô phụ… Còn trong thơ Nguyễn Khuyến, tiêng thu chính là tiếng “đớp động dưới chân bèo” của một chú cá dưới cái “ao thu lạnh lẽo”. Tiếng “động” trong câu thơ cuối cùng này không chỉ chứa đựng được sự sông của mùa thu mà còn nói lên được tâm sự u hoài của nhà thơ trước tình thế hiểm nghèo của đất nước. Nhà thơ lấy “động” để tả tĩnh bởi lẽ hiện tại chưa có người tài tập hợp nhân dân đứng lên kháng chiến chống Pháp, cứu nước thoát khỏi đêm tối mênh mông của kiếp nô lệ lầm than. Dường như nhà thơ tự trách mình làm quan mà vô tích sự, lúc nhân dân cần mà mình đành bất lực, sống cảnh ẩn dật, an nhàn, co mình trong cái thế giới riêng. Có thế nói rằng, nỗi buồn đau đáu của thi nhân toả khắp nét thu, sắc thu, cảnh thu, tiếng thu trong bức tranh thơ Thu điếu.

Tóm lại, Thu điếu là một bài thơ tả cảnh, tả tình tuyệt bút. Cảnh thu trong bức tranh thơ không có gì tân kỳ, lạ lẫm nhưng lại chuyên chở vẻ đẹp của phạm trù mỹ học và rất có hồn, rất Việt Nam. Tình thu vừa kín đáo, vừa sâu lắng: tình yêu thiên nhiên tha thiết, tình yêu nước thương dân cháy bỏng. Xét ớ tầm vĩ mô, bài thơ như một bài tuyệt tình ca về cảnh đẹp của đất nước, về tình yêu đất nước. Thơ của Nguyễn Khuyến qua bài này cũng như nhiều bài khác, có đặc điểm là giản dị mà sông động. Lời thơ cô đúc, hàm súc, “ý tại ngôn ngoại”. Nghệ thuật chọn lọc ngôn từ, vần điệu hết sức khéo léo, tinh vi, nhất là các từ láy và vần “eo” trong trẻo, vang ngân. Tứ thơ lan toả. Hai câu thơ cuối vừa khép lại bài thơ, vừa bộc bạch được nỗi lòng của thi nhân.

Thu điếu xứng đáng là một trong ba bài thơ nối tiếng nhất về đề tài mùa thu trong lịch sử thơ ca Việt Nam từ cồ chí kim. Thật đáng tiếc cho những ai yêu thơ, say thơ mà không đến được với Thu điếu.