Dàn ý Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du hay nhất (6 mẫu)

Dàn ý Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du chi tiết nhất 1

I. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều

- Giới thiệu khái quát về đoạn trích

II. Thân bài

1. Tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều ở lầu xanh (4 câu đầu)

- Bút pháp ước lệ, tượng trưng: bướm, ong, cuộc vui, trận cười

→ Cảnh sinh hoạt xô bồ, tấp nập ở chốn lầu xanh

- Sử dụng điển cố, điển tích: lá gió, cành chim, Tống Ngọc, Trường Khanh

- Nghệ thuật tiểu đối, gợi nên sự bẽ bàng, xấu hổ của Thúy Kiều: bướm lả - ong lơi, cuộc vui…- trận cười…., sớm – tối

- Từ ngữ chỉ mức độ: biết bao, đầy tháng, suốt đêm

⇒ Cuộc sống xô bồ ở lầu xanh, Kiều phải tiếp khách làng chơi suốt ngày đêm. Đây là một tình cảnh trớ trêu của cuộc đời Kiều khi bị vùi dập, chà đạp cả thể xác và nhân phẩm

2. Niềm thương xót cho thân phận của Kiều

- Không gian: lầu xanh

- Thời gian: tàn canh, ban đêm

→ Thời gian, không gian nghệ thuật thích hợp để Kiều soi thấu tâm trạng của mình

- Tâm trạng của Thúy Kiều:

+ Giật mình: bàng hoàng, thảng thốt, không tin vào cảnh sống ở thực tại của bản thân mình

+ Thương mình xót xa

→ Cái giật mình trân quý, làm nên nhân cách cao đẹp của Thúy kiều

- Nghệ thuật:

+ Cặp từ đối lập “ khi sao” và “ giờ sao” với nghệ thuật đối giữa hai câu lục/ bát ⇒ nhấn mạnh sự khác biệt: quá khứ thì êm đềm, hạnh phúc còn hiện tại thì đau đớn, phũ phàng, bị vùi dập

+ Ngữ điệu hỏi: “mặt sao”, “ thân sao”

+ sử dụng thành ngữ chéo:“dày gió dạn sương” (dày dạn gió sương), “bướm chán ong chường” (ong bướm chán chường) ⇒ nhấn mạnh sự ngỡ ngàng, bàng hoàng

+ Đối lập giữa khách và Kiều

⇒ Khi sống thật với chính mình, Kiều bàng hoàng , xót xa cho thân phận của mình và phải chăng đó cũng chính là tiếng nói đòi quyền sống cá nhân của con người trong xã hội phong kiến của Nguyễn Du- con người biết nhận thức và ý thức về hạnh phúc của mình

3. Tâm trạng cô đơn, đau khổ của Thúy Kiều (phần còn lại)

- Cuộc sống chốn thanh lâu: có phong, hoa, tuyết, nguyệt (cảnh đẹp bốn mùa), thú vui cầm, kì, thi, họa

→ Cảnh vật đối với Thúy Kiều là sự giả tạo, Kiều không tìm được tri âm, tri kỉ, nàng thờ ơ với tất cả mọi thứ xung quanh

- Qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh: sông nơi lầu xanh dập dìu, Thúy Kiều tự thương, tự đau, tự xót xa cho thân phận của mình

- Điệp từ vui, ai…và câu hỏi tu từ là tiếng kêu đến xé lòng của con người tài hoa bạc mệnh

⇒ Trong chốn lầu xanh nơi mà tất cả đều phù phiếm, đồng tiền lên ngôi, Kiều vẫn cố gắng tách mình ra, tìm một tâm hồn tri âm, thể hiện khát vọng sống trong sạch của Kiều mà ta thật sự đáng trân trọng.

⇒ Nguyễn Du đề cao giá trị nhân văn, cảm thông sâu sắc với số phận của Kiều và lên án xã hội gay gắt

III. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

Dàn ý Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du 2

a) Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều.

+ Nguyễn Du (1766 - 1820) là nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam, được tôn xưng là Đại thi hào dân tộc.

+ Truyện Kiều là một kiệt tác văn học mà Nguyễn Du đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam, khắc họa rõ nét thân phận nhỏ bé, đáng thương của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

- Giới thiệu đoạn trích Nỗi thương mình:

+ Đoạn trích "Nỗi thương mình" là một trong những phân đoạn thể hiện sâu sắc nhất cuộc đời đau khổ của nàng Kiều tài hoa bạc mệnh, miêu tả nỗi niềm tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu xanh lần thứ nhất với giọng điệu xót xa, đau đớn.

b) Thân bài

* Luận điểm 1: Tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều ở lầu xanh.

- "bướm, ong, cuộc vui, trận cười" -> Cảnh sinh hoạt xô bồ, tấp nập ở chốn lầu xanh.

- "lá gió cành chim": hình ảnh người kĩ nữ mời chào khách làng chơi

- "Tống Ngọc, Trường Khanh" : các điển tích chỉ khách đến lầu xanh với đủ mọi loại người.

- Tiểu đối, đảo trật tự từ : bướm lả - ong lơi, cuộc vui…- trận cười…, sớm – tối

-> gợi sự bẽ bàng, xấu hổ của Thúy Kiều.

- "biết bao, đầy tháng, suốt đêm" -> Những tính từ chỉ mức độ tuyệt đối

-> Cuộc sống xô bồ ở lầu xanh, Kiều phải tiếp khách làng chơi triền miên, chìm đắm ngày qua đêm.

=> Tâm trạng chua xót của Kiều về thân phận của chính mình, bị vùi dập, chà đạp cả thể xác và nhân phẩm.

* Luận điểm 2: Tâm trạng, nỗi niềm của Kiều khi sống trong tình cảnh trớ trêu ấy.

- Không gian: lầu xanh

- Thời gian: tàn canh, ban đêm

-> Thời gian, không gian nghệ thuật thích hợp để Kiều soi thấu tâm trạng của mình.

- Tâm trạng của Thúy Kiều:

+ Điệp từ "mình" -> Nỗi dằn vặt trong đêm khuya, tỉnh dậy nhìn bốn bể chỉ trơ trọi một mình nên càng thấm thía nỗi cô đơn.

+ Giật mình: bàng hoàng, thảng thốt, không tin vào cảnh sống ở thực tại của bản thân mình.

+ Thương mình xót xa

-> Cái giật mình trân quý, làm nên nhân cách cao đẹp của Thúy kiều

+ “khi sao” và “giờ sao” : Cặp từ đối lập với nghệ thuật đối giữa hai câu lục/ bát -> Nhấn mạnh sự khác biệt: quá khứ thì êm đềm, hạnh phúc còn hiện tại thì đau đớn, phũ phàng, bị vùi dập

+ Ngữ điệu hỏi: “mặt sao”, “thân sao”

+ Sử dụng thành ngữ chéo: “dày gió dạn sương” (dày dạn gió sương), “bướm chán ong chường” (ong bướm chán chường) -> nhấn mạnh sự ngỡ ngàng, bàng hoàng, bộc lộ nỗi đau xót đến cùng cực trong nỗi ê chề.

+ Hình ảnh so sánh "tan tác như hoa giữa đường" -> Thân phận nàng như cánh hoa bị giày xéo, tấm thân nhơ nhớp, khuôn mặt bẽ bàng.

=> Khi sống thật với chính mình, Kiều bàng hoàng, xót xa, thương thân trách phận và phải chăng đó cũng chính là tiếng nói đòi quyền sống cá nhân của con người trong xã hội phong kiến của Nguyễn Du - con người biết nhận thức và ý thức về hạnh phúc của mình.

* Luận điểm 3: Cảnh đẹp, thú vui diễn tả sự cô đơn, đau khổ của Kiều

- "phong, hoa, tuyết, nguyệt" (cảnh đẹp bốn mùa), thú vui "cầm, kì, thi, họa" : Cảnh đẹp, thú vui chốn thanh lâu.

-> Dù sống ở lầu xanh có đủ phong hoa tuyết nguyệt, có đủ các thứ vui tao nhã nhưng thái độ của Kiều là sự vô cảm, thờ ơ, hờ hững. Đối với Thúy Kiều, cảnh vật là sự giả tạo, Kiều không tìm được tri âm, tri kỉ, nàng thờ ơ với tất cả mọi thứ xung quanh.

=> Thúy Kiều tự thương, tự đau, tự xót xa cho thân phận của mình khi sống ở nơi lầu xanh "dập dìu".

"Vui là vui gượng kẻo là,

Ai tri âm đó mặn mà với ai?"

+ Điệp từ vui, ai… và câu hỏi tu từ là tiếng kêu đến xé lòng của con người tài hoa bạc mệnh.

-> Kiều luôn cố gắng tách mình ra khỏi cuộc sống chốn lầu xanh. Đó là sự phản kháng, chống đối vì nàng muốn đòi quyền sống, sống trong sạch - khát khao hướng thiện khi đã ý thức được giá trị nhân phẩm của Kiều.

=> Nguyễn Du đề cao giá trị nhân văn, cảm thông sâu sắc với số phận của Kiều và lên án xã hội gay gắt.

* Đặc sắc nghệ thuật

- Hình thức độc thoại nội tâm tinh tế, sâu sắc

- Kết hợp khéo léo lời kể của tác giả và lời của nhân vật

- Vận dụng sáng tạo các thành ngữ, điển tích, điển cố

- Bút pháp tương phản đối lập giữa quá khứ và hiện tại

c) Kết bài

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

- Cảm nhận của em về đoạn trích.

Dàn ý Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du hay nhất 3

 1. Mở bài

Giới thiệu bối cảnh của đoạn trích Nỗi thương mình.

2. Thân bài:

a. Khung cảnh lầu xanh trụy lạc, phóng túng:

- “bướm lả ong lơi” gợi ra viễn cảnh vô cùng dung tục, ví kỹ nữ như là những bông hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi lại tựa như loài ong loài bướm, lả lơi, ngả nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại chạm đến bông hoa kia, hết sức tạp nham, lẫn lộn và hoang đường.

- Hương rượu nồng quyện với mùi hương phấn dung tục với “cuộc say đầy tháng”, với sự khoái lạc của “trận cười suốt đêm”, nam nữ thâu hoan không kể ngày đêm, ồn ào, náo nhiệt và trụy lạc.

- Hình ảnh “dập dìu” nam nữ cười đùa, ngả ngớn, đầu sát bên đầu, má ấp bên má tựa như lá với gió, cành với chim.

- Khắc họa hình ảnh khách làng chơi bằng các điển tích, điển cố, nhân vật trong lịch sử như Tống Ngọc, Tư Mã Tương Như.

b. Nỗi đau và tâm trạng của Thúy Kiều:

- “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh/Giật mình lại thấy thương mình xót xa”: Ý thức về thân phận bọt bèo, giật mình, bàng hoàng  nhìn lại tấm thân tàn, mà tự thấy xót xa, thương cảm.

- “Khi sao phong gấm rủ là”, là nhắc về cuộc sống êm đềm trướng rủ màn che thuở trước. Còn Kiều bây giờ buộc phải đối mặt với một cuộc sống cũng trướng rủ màn che đấy, nhưng lại chìm trong những ngày tháng sắc dục, buôn phấn bán hương.

- Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”, vốn là đóa mẫu đơn cao quý, trong sạch, cuối cùng lại bị chà đạp không thương tiếc, chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc.

- Khuôn mặt phải ngày ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình phẩm, phải “dày gió dạn sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả ngớn, chiều lòng.

- Lời thở than chua xót “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”, là ý thức của nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của mình.

=> Cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng về cả thể xác và tinh thần của nàng Kiều.

c. Vẻ đẹp tâm hồn Thúy Kiều:

- Thế nhưng dẫu cuộc đời có chà đạp, vùi dập phận liễu yếu đào tơ, thì Kiều vẫn mạnh mẽ kiên cường, giữ vững cho mình cốt cách thanh cao, tinh khiết. Dẫu bốn bề chốn lầu xanh nơi nào cũng “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm đến, những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy

- “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ?”, để diễn tả đúng cái hoàn cảnh éo le, buồn tủi của Thúy Kiều.

- “Đòi phen nét vẽ câu thơ/Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”, thể hiện hoàn cảnh trêu ngươi của Thúy Kiều, nàng vốn là người thông minh, sắc sảo ca từ thi phú âm luật có cái nào mà không thông, nhưng nhìn viễn cảnh trước mắt, lại nhìn tới số phận bọt bèo của mình thì những thứ mà nàng yêu thích trước đây cũng trở nên tẻ nhạt, chán chường.

- “Ai tri âm đó mặn mà với ai” nỗi trăn trở về một người có thể thiếu hiểu, xót thương, mong mỏi thoát khỏi chốn phong trần. Điều đó càng làm cho Kiều trở nên chán nản, xót xa đến tột cùng.

3. Kết bài:

Nêu cảm nghĩ.

Dàn ý Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du 4

Mở bài:

Giới thiệu “Truyện Kiều” và đoạn trích “Nỗi thương mình”.

Thân bài:

- Vị trí đoạn trích

- Đoạn 1 (từ đầu đến "Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh"): giới thiệu khái quát cuộc sống ở lầu xanh và tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều.

  • Sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với thủ pháp đối xứng, đan chéo để vừa thể hiện được một thực tế xót xa, thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ, vừa giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật Thuý Kiều

- Đoạn 2 (tiếp theo đến "Những mình nào biết có xuân là gì"): tâm trạng cô đơn, chán ngán của Thúy Kiều khi phải sống trong lầu xanh.

  • Sau những cuộc chơi thâu đêm suốt sáng, Kiều bỗng “giật mình”, xót xa khi nghĩ đến thân phận của chính mình.
  • Thời gian: “lúc tàn canh”- đêm khuya, thời khắc hiếm hoi, quí giá để con người mình được đối diện với lòng mình, trở về với con người thật của mình.
  • Bốn từ “sao” lặp lại: “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” là những câu hỏi mang sắc thái cảm thán mạnh bộc lộ nỗi đau xót đến cùng cực trong nỗi ê chề.

- Đoạn 3 (còn lại): Nguyễn Du dùng cảnh vật để diễn tả tâm trạng cô đơn, đau khổ của Thúy Kiều.

  • Chạy trốn hiện thực không được Kiều đành lòng quay về với thực tại. Nguyễn Du miêu tả khung cảnh nơi Kiều sống như chốn Bồng Lai, nhưng vì người buồn nên cảnh cũng u sầu, héo úa.

Kết bài:

Giá trị của đoạn trích.

Dàn ý Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du 5

Mở bài: Nhắc đến Nguyễn Du, ta không thể không nhắc đến Truyện Kiều – một kiệt tác giàu giá trị nội dung cũng như thẩm mỹ và nghệ thuật, đồng thời thể hiện rõ tấm lòng nhân đạo thâm thúy của đại thi hào. Trong suốt cả chiều dài lịch sử dân tộc, không phải người đọc nào thì cũng đồng cảm và thương xót nàng Kiều của Nguyễn Du, nhất là trong quan niệm phong kiến. Vẫn có người thương Kiều cũng như có những người dân không thích Kiều. Nguyễn Công Trứ từng lên án “Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm!”. Chu Mạnh Trinh lại đồng cảm, bênh vực “Cánh hoa rụng chọn gì đất sạch”. Viết về đoạn đời làm kỹ nữ của nàng ở lầu xanh, nhưng cái hay của Nguyễn Du nằm tại phần khắc họa được một nàng Kiều “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Đoạn đời lắm ê chề, tủi nhục ấy của Kiều càng khiến ta xót thương hơn cho số phận của nàng. Điều này đã được thể hiện rất rõ ràng trong đoạn trích “Nỗi thương mình”.

Thân bài 

Để cảm nhận Nỗi thương mình đầy đủ và rõ ràng, người đọc cần nắm được những nét chính về vị trí của trích đoạn cũng như hoàn cảnh đáng thương của nàng Kiều khi rơi vào chốn lầu xanh.

Vị trí đoạn trích Nỗi thương mình

Khi cảm nhận Nỗi thương mình, ta thấy trích đoạn này thuộc phần: Gia biến và lưu lạc, nằm từ câu 1229 đến câu 1248 trong kiệt tác của Nguyễn Du. Từ diễn biến của Thanh Tâm tài nhân, đại thi hào đã sáng tạo nên một tác phẩm mới với cái nhìn đầy mới mẻ về con người và xã hội trong thời điểm lúc bấy giờ.

Với Nguyễn Du, đây dường như không còn là một câu truyện tài mệnh, mà còn là một câu truyện giữa tâm và tài. Điều này đã mang đến cho tác phẩm một sức sống mới, một linh hồn mới, một giá trị mới phù phù hợp với tâm hồn của người Việt Nam. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa truyền thống dân tộc bản địa, cũng như trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của nhân dân Việt Nam. Nhân vật trung tâm của tác phẩm đây chính là Thúy Kiều – một cô gái tài sắc vẹn toàn, nhưng cũng không tránh khỏi thảm kịch của cuộc đời.

Hoàn cảnh số nhọ của nàng Kiều

Trước lúc cảm nhận Nỗi thương mình, tìm hiểu về số phận của Kiều, ta thấy nàng là một cô gái có tài sắc. Kiều gặp và yêu Kim Trọng – một mối lương duyên đẹp. Những tưởng sau đêm thề nguyền, niềm hạnh phúc sẽ tới với nàng. Nhưng không, đoạn trường bắt đầu mở ra. nhà Kiều bị thằng bán tơ vu oan. Để cứu cha, nàng đành bán mình cho Mã Giám Sinh. Đêm trước thời gian ngày lên đường theo họ Mã, Kiều vẫn còn đau đáu nỗi niềm với Kim Trọng và nàng đã đưa ra một quyết định đầy đau đớn – trao duyên tình của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân.

Trước tình yêu tan vỡ, nàng có thể làm tất cả những gì có thể được cho niềm hạnh phúc của người mình yêu, đồng thời nói lên nỗi đau đớn cực độ khi đành phải tự nguyện từ bỏ tình yêu sâu đậm. Sau thời điểm bán mình cho Mã Giám Sinh, Thúy Kiều rơi vào lầu xanh của mụ Tú Bà. Phẫn uất vì bị lừa gạt và làm nhục, nàng rút dao tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, nàng lại mắc lừa Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời, đến mức phải đau đớn mà rằng

“Thân lươn bao quản lấm đầu

Tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa”.

Nàng buộc phải đồng ý chấp thuận làm kĩ nữ… Trong những tháng ngày ấy, Kiều không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn về tinh thần.

Khi cảm nhận nỗi thương mình, ở ngay đầu đoạn trích là khung cảnh chốn lầu xanh hiện lên:

“Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”

Miêu tả khung cảnh trác táng chốn làng chơi, Nguyễn Du đã sử dụng những hình ảnh giàu sức gợi. Cảnh sinh hoạt ở chốn lầu xanh hiện lên với không khí rất đặc trưng, luôn ồn ào, nhộn nhịp. Những hình ảnh ẩn dụ tượng trưng ước lệ như bướm lả ong lơi, lá gió cành chim, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.

Tống Ngọc, Trường Khanh, đã được Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình để diễn tả cảnh sống thực của Thúy Kiều với thân phận một kĩ nữ lầu xanh. Khi cảm nhận Nỗi thương mình, ta thấy bọn khách làng chơi ra vào tấp nập. Họ chỉ biết hưởng thủ thỏa mãn dục vọng của mình. Các hình ảnh đối xứng lần lượt hiện ra. Đó là “ Cuộc say đầy tháng – Trận cười suốt đêm.”, “Sớm đưa Tống Ngọc – Tối tìm Trường Khanh”.

Cuộc sống tủi nhục của Kiều cứ vậy mà lê dài tiếp nối hết sớm rồi lại khuya. Trong khung cảnh nhộn nhịp đó, Kiều như lạc lõng bơ vơ. Nguyễn Du đã tách hai từ ghép (ong bướm, lả lơi) tạo thành cặp tiểu đối: “bướm lả/ ong lơi”. Khi cảm nhận nỗi thương mình, người đọc sẽ thấy chính điều này đã phần nào cụ thể hóa cũng như nhấn mạnh vấn đề hiện thực trớ trêu của Kiều nơi lầu xanh bọn khách làng chơi ra vào dập dìu, tấp nập.

Dù không mô tả trực tiếp bất kỳ gương mặt của khách làng chơi nào, nhưng ta vẫn tiếp tục cảm nhận những khuôn mặt ấy cứ hiện ra. Có cái niềm nở, tươi cười, những lời chào mời đưa lời của cô gái làng chơi. Cũng có thể có cả cái cười thỏa mãn, hả hê của những kẻ tìm tới chốn truy hoan hưởng lạc này. Khi cảm nhận Nỗi thương mình, lời thơ khiến ta phần nào nhớ đến những lời dạy của Tú Bà:

“Cởi xiêm lột áo chán chường

Trước thần sẽ nguyên mảnh hương lầm rầm

Đổi hoa lót chiếu xuống nằm

Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi”

Hay những lời thơ:

“Chơi cho liễu chán hoa chê

Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời”

Cuộc sống chốn lầu xanh vui vẻ truy hoan nhưng sau khoản thời gian tiếng cười kết thúc thì để lại biết bao ê chề nhục nhã…

Cái giật mình đầy thảng thốt của nàng Kiều

Cảm nhận Nỗi thương mình, ta thấy trong đoạn trích này, âm hưởng chủ đạo không phải là tả cảnh mà là tâm trạng:

“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Nếu ở 4 câu trên là lời miêu tả hoàn cảnh khách quan thì những dòng thơ này, lại là những lời tâm sự đầy xót xa, bẽ bàng của người con gái ý thức được bản thân cũng như hoàn cảnh thực tại. Con người chỉ buồn khi họ có ý thức về nỗi buồn của mình. Nhân vật tự bộc bạch trực tiếp về tâm trạng của mình.

Với những cảm nhận Nỗi thương mình, ta thấy câu thơ “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh.” với cách ngắt nhịp 3/3 đã diễn tả thời gian từ từ trôi trong lặng lẽ đến ghê sợ. Những thời điểm lần lượt được điểm qua. Đó là Khi tỉnh r­ượu – Hết khách và Lúc tàn canh – Gần sáng. Chỉ có những khoảnh khắc ấy, Kiều mới có thể đối diện với lòng mình, sống thực với nỗi lòng đang tê tái của nàng. Đó cũng là lúc nàng mới giật mình xót xa về việc thay đổi thảm hại của thân phận mình

Câu thơ “Giật mình mình lại thương mình xót xa” thể hiện rõ nỗi thương mình của nhân vật chính. Ở câu lục bát có tính chất mở đầu lời tâm sự này, ta nhận thấy đây đây chính là khoảnh khắc của riêng cõi lòng Kiều. Đây là những giây phút hiếm hoi của Kiều, phút giây tĩnh lặng của tâm hồn. Khi nhân vật biết “Giật mình mình lại thương mình xót xa”, điều đó mang ý nghĩa “cách mệnh” là một sự biến đổi lớn trong sự tự ý thức.

Kiều là con người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà đã có ý thức về phẩm giá, nhân cách bản thân – ý thức về quyền sống của họ. Chính vì điều đó, ta thấy Kiều rất thật khi đi vào khuôn khổ phong kiến với những nếp sống nếp nghĩ sáo rỗng. Cụ thể là bởi rất lâu rồi trong quan niệm phong kiến người phụ nữ không có quyền làm chủ cũng như họ can tâm đồng ý chấp thuận điều đó. Cuộc đời người phụ nữ do người khác định liệu và họ cũng không sống cho chính bản thân mình.

Nhịp 2/4/2 là cách ngắt nhịp bất bình thường của thơ lục bát nhưng góp phần diễn tả tâm trạng của Kiều vào thời khắc này. Cái giật mình ở nhịp 2. Tiếp đó, nhịp 4 để ở giữa làm cho câu thơ giãn ra, diễn tả sự mệt mỏi, chán chường. Và cuối cùng kết lại bằng tiếng thơ dài “xót xa” ở nhịp 2. Cảm nhận Nỗi thương mình sẽ thấy chỉ một dòng thơ nhiều hơn thế 3 từ “mình” đã cực tả nỗi cô đơn của Thuý Kiều

Từ sự tự ý thức, Kiều bắt đầu nhớ lại quá khứ của mình.

“Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.”

Khi cảm nhận Nỗi thương mình, ta thấy quá khứ đối lập với hiện tại một cách khốc liệt. Quá khứ càng niềm hạnh phúc bao nhiêu thì hiện tại càng đau xót bấy nhiêu. Quá khứ niềm hạnh phúc chỉ ùa về “Êm đềm trướng rủ màn che” thì hiện tại khốc liệt đã che lấp đi quá khứ. Đó là một thực tại “tan tác như hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường”. Những thắc mắc tu từ hiện ra vang vọng vào không gian nhưng rồi cũng chìm vào im lặng không có lời giải đáp.

Điệp từ “sao” càng nhấn mạnh vấn đề thêm nỗi niềm của Kiều. Quá khứ niềm hạnh phúc ấy ngỡ chỉ là chuyện mới hôm qua nhưng sao giờ lại xa xăm quá. Hiện thực phũ phàng khiến cho Kiều phải thốt lên

“Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”

Kiều tự cảm thấy tủi nhục cho số phận mình hiện tại. Nàng không thể nào ngờ mình lại trở thành một con người như vậy. Còn gì đau đớn hơn đây chính là mình lại chán ghét bản thân mình. Nếu trước đó Kiều “Ngại ngùng dày gió dạn sương” khi gặp Mã Giám Sinh thì giờ đây cái ngại ngùng ấy dường như không còn. Tấm thân này cũng không còn trinh nguyên và cõi lòng nàng đã và đang tan nát. Kiều không sót lại gì nhưng cũng không thể làm được gì để thay đổi hiện thực ấy. Cảm nhận Nỗi thương mình, người đọc sẽ thương cảm biết mấy cho thân phận tủi nhục cùng số phận số nhọ của Kiều.

Nỗi thương mình trong sự lẻ bóng cô đơn của Kiều

Nỗi thương mình thứ hai là thương cho việc lẻ bóng, cô đơn không có ai bầu bạn

“Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì”

Kiều như một chiếc xác không hồn vật vờ tạm bợ chốn lầu xanh. Thể xác nàng ở đó chỉ chứng minh cho việc tồn tại của người con gái nàng nhưng Kiều lại không nhập cuộc về tinh thần. Mặc cho cuộc sống xô đẩy, mặc cho những lời đường mật của đám khách làng chơi Kiều vẫn tiếp tục thế – chết lặng về tâm hồn.

Cái vui chỉ có duy nhất đám khách ấy cảm nhận. Chỉ có Kiều nắm rõ bản thân mình nhất. Nàng không thể nào vui ở chốn bùn nhơ này. “Xuân” ở đây là hình ảnh ẩn dụ chỉ cuộc sống vui tươi, rộn ràng đầy sức sống. Và cuộc sống ấy với Kiều đã ngã ngũ từ lúc Kiều quyết định bán mình chuộc cha trao duyên tình cho Thúy Vân. Thử hỏi làm thế nào người con gái đa sầu đa cảm ấy có thể vui trong hoàn cảnh hiện tại?…

“Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu”

Cảnh có đủ gió, hoa, tuyết, trăng nhưng sao lại vô hồn đến thế. Phải chăng đó đây chính là sự vô cảm của người con gái đã phải trải qua những biến cố cuộc đời, những nhơ nhớp của cuộc sống chốn lầu xanh. Sự bẽ bàng trước khung cảnh này ta đã từng phát giác trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Thế nhưng, ở lầu Ngưng Bích dù có buồn bã có lo sợ cho tương lai vô định nhưng vẫn chưa hết hy vọng. Còn trong hoàn cảnh hiện tại, mọi hy vọng đã vỡ tan. Kiều đồng ý chấp thuận hiện thực giờ đây tôi đã thành một kỹ nữ. Nỗi buồn ấy còn thấm đẫm trong cả những lúc Kiều ở trong cuộc truy hoan. Cảm nhận Nỗi thương mình, ta còn thấy cầm kỳ thi họa của người con gái tài sắc này giờ đây bị đem ra thành trò mua vui tiếp khách.

“Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai?”

Những nụ cười gượng gạo giữa khung cảnh xô bồ này chỉ càng khiến Kiều thêm chua xót cho thân phận mình. Có mặt ở cuộc vui nhưng Kiều vẫn không thể nào hòa nhập. Nụ cười chỉ là lớp màn che đi tâm trạng đau đớn của Kiều. Cảm nhận Nỗi thương mình một cách thâm thúy, người đọc sẽ thấy, dù thời điểm hiện tại hay sau này, Kiều vẫn vĩnh viễn không thể hòa nhập với cảnh chơi bời trác táng nơi đây. Và đó cũng đây chính là vẻ đẹp của tâm hồn Kiều…

Kiều hiện lên như một đóa hoa sống giữa chốn bùn nhơ. Tuy không thể làm gì để thay đổi hiện thực, nhưng Kiều vẫn luôn giữ gìn tâm hồn nàng. Dù chỉ là “chút lòng trinh bạch” nhưng đặt nó trong hoàn cảnh của Kiều ta càng thêm cảm phục. Chốn lầu xanh có thể hành hạ xác thân nàng, khiến cõi lòng nàng tan nát nhưng nó không thể khiến nàng mất đi nhân phẩm của mình. Cảm nhận Nỗi thương mình sẽ thấy tâm trạng buồn đau, tủi hổ, chán chường hay sự tự thương mình đây chính là minh chứng rõ ràng nhất cho ý thức về nhân phẩm của Thúy Kiều.

Cảm nhận Nỗi thương mình, ta thấy trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã sử dụng thành công phép biện chứng của tâm hồn. Ông đã tinh tế trong việc khắc họa khung cảnh làng chơi xô bồ hỗn tạp một cách chân thực nhưng không dung tục. Để ra thông qua đó, hình ảnh Kiều hiện lên đầy tủi nhục xót xa. Sự bơ vơ, cô đơn lạc lõng đến tận cùng của Kiều mấy ai có thể hiểu thấu. Nhưng không chỉ tạm dừng ở việc khắc họa, Nguyễn Du còn thể hiện sự đồng cảm thâm thúy giành riêng cho Kiều – người con gái luôn nỗ lực giữ gìn tâm hồn của mình.

Kết bài: Tấm lòng của Nguyễn Du giành riêng cho Kiều cũng như cho những kiếp người tài hoa bạc phận vẫn sẽ mãi khắc sâu vào người đọc bao thế hệ. Nguyễn Du đã nhìn cuộc đời với cặp mắt đầy bao dung, vị tha. Ông không lên án Kiều mà lên án cái xã hội thối nát đã đẩy người con gái vào cảnh sống dung tục này. Chính điều này đã tạo nên sự sức sống và làm việc cho tác phẩm.

Dàn ý Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du 5

1. Mở bài

  • Dẫn dắt và giới thiệu đoạn trích

Khi Mã Giám Sinh đưa Kiều đến nhà chứa, không chấp nhận cảnh sống ô nhục ở lầu xanh. Trong sự đau đớn và tuyệt vọng, Kiều rơi vào cái bẫy của Tú Bà. Nàng buộc phải ra tiếp khách làng chơi. Đoạn trích "Nỗi thương mình" miêu tả nỗi niềm tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu xanh lần thứ nhất với giọng điệu xót xa, đau đớn.

2. Thân bài

a) Đoạn 1: giới thiệu tình cảnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh

  • Bốn câu thơ đầu, cuộc sống ở lầu xanh của Kiều được miêu tả bằng bút pháp ước lệ, điển tích điển cố: "bướm lả ong lơi"- sự xuồng xã, đùa cợt của khách làng chơi, "lá gió cành chim"- hình ảnh người kĩ nữ mời chào khách làng chơi, Tống Ngọc, Trường Khanh những điển tích chỉ khách đến lầu xanh với đủ mọi loại người.
  • Việc sử dụng từ ngữ hết sức sáng tạo, đảo trật tự từ, đan chéo, tạo lối đối xứng: ong bướm lả lơi thành bướm lả ong lơi, cành lá gió chim thành lá gió cành chim.
  • Âm điệu lời thơ như ngân luyến như dằn xuống và ẩn sau đó là những tâm trạng ngao ngán, ê chề của Thúy Kiều về thân phận của mình.
  • Sử dụng những từ ngữ chỉ không gian, thời gian và những tính từ chỉ mức độ tuyệt đối " biết bao, đầy tháng, suốt đêm, sớm, tối" lại kết hợp với biện pháp đối ở câu tám chữ- tiểu đối mở ra một cuộc sống triền miên, chìm đắm ngày qua đêm, tràn ngập không gian, kéo dài thời gia và ẩn sau đó là tâm trạng chua xót của Kiều về thân  phận của chính mình.

b) Đoạn 2: tâm trạng của Kiều trước cảnh sống như thế

  • Nơi lầu xanh, người kĩ nữ lấy đêm làm ngày, triền miên trong cơn say, khi tỉnh rượu cũng là lúc đêm tàn và lúc đó con người mới tỉnh táo hơn. Bấy giờ nàng mới "giật mình" bởi cảnh sống xô bồ kia không phải là mình. Điệp từ "mình" tạo cho câu thơ nhịp ngắt 2/4/2 khiến cho lời thơ đay đi đay lại như nỗi vần vật, như trong đêm khuya tỉnh dậy nhìn bốn bể chỉ trơ trọi một mình nên càng tấm thía nỗi cô đơn.
  • Sau đó là những câu thơ  miêu tả thực tại phũ phàng, nhơ nhớt. Và tới đây Kiều hoàn toàn tỉnh táo để nhận thức rõ về thực tại ấy. Những câu hỏi tu từ được sử dụng liên tiếp gợi sắc thái cảm thán. Mỗi câu hỏi tu từ lại được kèm theo từ sao " khi sao, giờ sao, mặt sao" như một tiếng nói dằn vặt. Nghệ thuật đối lập quá khứ với thực tại, giữa cảnh sống trong quá khứ và cảnh sống trong hiện tại. Quá khứ tươi đẹp, e ấp đối lập hoàn toàn với thực tại. Quá khứ êm đẹp ấy chỉ xuất hiện trong một câu thơ còn thực tại lại xuất hiện trong ba câu liên tiếp. Kiều ý thức được thực tại đen tối đã chùm phủ, đè nặng lên quá khứ. Hình ảnh so sánh " tan tác như hoa giữa đường" rồi việc sử dụng thành ngữ một cách sáng tạo "bướm chán ong chường" "dày gió dạn sương" cho thấy thân phận nàng như cánh hoa bị giày xéo, tấm thân nhơ nhớp, khuôn mặt bẽ bàng.
  • Nhưng thực chất đó lại là những lời thương thân trách phận, thế giới nội tâm của Kiều được miêu tả sống động. Có được những điều mới mẻ đó cũng là bởi trong thế kỉ XVIII khi ý thức cá nhân trỗi dậy như trong chùm thơ "tự tình" của Xuân Hương hay trong ca dao than thân. Nguyễn Du viết những câu thơ này là dựa vào nền tảng vững chắc xuất phát từ giá trị nhân đạo trong văn học.

c) Đoạn 3: thái độ, ý thức bảo vệ nhân phẩm của Kiều

  • Sống ở lầu xanh có đủ phong hoa tuyết nguyệt tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa, có đủ các thứ vui tao nhã cầm, kì, thi, họa nhưng thái độ của Kiều là sự vô cảm, thờ ơ, hờ hững.
  • Nỗi buồn đau nội tâm đã lan tỏa ra cảnh vật khiến Nguyễn Du viết lên hai câu thơ khái quát quy luật:

"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"

  • Nàng luôn tách mình ra khỏi cuộc sống chốn lầu xanh. Đó là sự phản kháng, chống đối vì nàng muốn đòi quyền sống, sống trong sạch - khát khao hướng thiện khi đã ý thức được giá trị nhân phẩm của Kiều.

3. Kết bài

  • Nêu cảm nghĩ của bản thân

Có lẽ sẽ không quá lời khi nói rằng Nguyễn Du đã viết những dòng thơ này không chỉ bằng ngòi bút của một nghệ sĩ tài hoa, một nhà nhân đạo lớn mà còn bằng sự quan sát tinh anh của một nhà tâm lí học bậc thầy.

Dàn ý Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du 6

1. Mở bài:

- Sau khi Thuý Kiều đánh tiếng sẽ bán mình để chuộc cha và em trai ra khỏi chốn ngục tù, gã buôn người Mã Giám Sinh giả danh đi cưới vợ lẽ để mua nàng về lầu xanh của mụ Tú Bà.

- Biết mình bị lừa, Thuý Kiều quyết liệt chống lại âm mưu nhơ bẩn và độc ác của chúng. Nàng rút dao định tự vẫn nhưng trong cơn mê, hồn ma Đạm Tiên hiện về báo cho biết rằng nàng có tên trong sổ đoạn trường. Kiều đành nghe theo lời Tú Bà, ra sống tạm ở lầu Ngưng Bích. Tên ma cô Sở Khanh tay sai của Tú Bà lập mưu và rủ Kiều đi trốn. Nàng bị bắt và bị tra tấn dã man, buộc phải tiếp khách làng chơi.

- Đoạn trích Nỗi thương mình từ câu 1229 đến câu 1248 của Truyện Kiều, miêu tả tâm trạng cô đơn, đau đớn, tủi nhục và ý thức về thân phận bất hạnh của Thuý Kiều chốn lầu xanh nhơ bẩn.

2. Thân bài:

Đoạn trích Nỗi thương mình có thể chia làm hai phần:

- Phần 1 (từ câu 1 đến 10): Cảnh sống xô bồ ở lầu xanh và tâm trạng đau đớn, tủi nhục của Thuý Kiều.

- Phần 2 (từ câu 11 đến hết): Thái độ thờ ơ lạnh lùng của Kiều trước con người và cảnh sắc chốn lầu xanh, thể hiện ý thức về nhân phẩm của nàng.

* Nội dung đoạn trích:

+ Bức tranh sinh hoạt ở lầu Ngưng Bích và tâm trạng của Thuý Kiều.

- Bốn câu thơ đầu là cảnh Thuý Kiều ở lầu xanh. Nguyễn Du đã phát huy thế mạnh của bút pháp ước lệ, các hình thức đối xứng cùng nghệ thuật sử dụng ngôn từ phù hợp để miêu tả sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn này: Biết bao bướm lả ong lơi, Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm, Dập dìu lá gió cành chim, Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh... Nghệ thuật tách từ : bướm lả ong lơi (ong bướm lả lơi); nghệ thuật đối rất chỉnh: Cuộc vui đầy tháng / trận cười suốt đêm, lá gió / cành chim, Sớm đưa Tống Ngọc / tối tìm Trường Khanh; sử dụng điển tích điển cố phù hợp: Tống Ngọc, Trường Khanh là hai khách ăn chơi nổi tiếng... Tất cả vẽ nên toàn cảnh lầu xanh của mụ Tú Bà, nơi Thuý Kiều đang phải sống trong đoạ đày, tủi nhục.

+ Tâm trạng và nỗi niềm của Thuý Kiều ở lầu xanh:

- Tác giả xót thương cho Thuý Kiều, người con gái Mai cốt cách, tuyết tinh thần không may rơi vào chốn bùn nhơ; nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó, nhân phẩm cao quý của nàng đã được khẳng định. Nàng không bao giờ chấp nhận cảnh sống hoàn toàn trái ngược với nền nếp gia phong nghiêm cẩn trước đây. Khi tả Kiều ở lầu xanh, Nguyễn Du đã dồn hết cảm xúc xót thương, thông cảm vào ngọn bút và thể hiện thật thần tình tâm trạng cay đắng, tủi hờn của nàng: Khi tỉnh rượu lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình, xót xa!

- Nhịp thơ chậm 1/ 2/1/ 2 ở câu lục, 2 / 2 / 2 / 2 ở câu bát như gợi từng bước đi chậm chạp của thời gian và đặc tả tâm trạng thảng thốt của Thuý Kiều. Từ mình lặp lại ba lần trong một câu thơ có nhịp điệu thổn thức như một tiếng khóc nghẹn ngào... Cái giật mình bất chợt thể hiện sự ngạc nhiên và hoang mang đến sợ hãi của Thuý Kiều trước sự đổi thay ghê gớm của số phận mình. Hai câu thơ trên có thể coi là tuyệt bút.

- Thuý Kiều cay đắng và phẫn uất khi nghĩ tới sự đối lập gay gắt giữa cảnh sống xưa và nay. Những từ ngữ đan chéo, những hình ảnh tương phản đã làm nổi bật ý đó: Khi sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường. Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán ong chường bấy thân! Giọng điệu thơ như chì chiết, đay nghiến, như hờn oán một thế lực vô hình nào đó đã xô đẩy nàng. Những câu hỏi tu từ liên tiếp như những câu hỏi nhức nhối vang vọng tới trời xanh nhưng không một lời đáp lại.

+ Thái độ thờ ơ và ý thức về nhân phẩm của Kiều:

- Tuy nhiên, thái độ của Thuý Kiều là dứt khoát không buông mình theo dòng đục. Ban đầu nàng đã cảm nhận sâu sắc về phẩm giá của mình, về nỗi tủi nhục, đau đớn mà mình phải gánh chịu. Tác giả tỏ thái độ thờ ơ đến lạnh lùng của Thuý Kiều trước tình cảnh ở chốn lầu xanh: Mặc người mưa Sở mây Tần, Những mình nào biết có xuân là gì. Đòi phen gió tựa hoa kề, Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu...

- Ở lầu xanh cũng có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kì, thi, hoạ... nhưng chỉ là mượn hình thức thanh nhã để che đậy sự thật bẩn thỉu, nhờm gớm bên trong mà thôi. Tất cả cảnh đẹp và thú vui ấy đối với Kiều đều trở nên vô nghĩa: Vui là vui gượng kẻo là, Ai tri âm đó mặn mà với ai? Càng vui gượng bao nhiêu thì nỗi hờn tủi càng dâng cao trong lòng nàng bấy nhiêu.

3. Kết bài:

- Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về quá trình tự ý thức của con người cá nhân trong văn chương trung đại. Người phụ nữ xưa có tâm lí phổ biến là an phận thủ thường, nhưng một khi đã giật mình nhìn nhận lại thân phận mình thì điều đó mang ý nghĩa cách mạng bởi bước đầu họ đã có ý thức về quyền sống của bản thân.

- Nguyễn Du đã đề cao nhân cách của nàng thông qua việc miêu tả thành công tâm trạng buồn thương, tủi hổ của nàng giữa chốn bùn nhơ. Tâm trạng của Thuý Kiều chính là lời tố cáo mãnh liệt tội ác của giai cấp phong kiến thống trị đã gây ra không chỉ cho một mà muôn vàn phụ nữ trong xã hội xưa kia. Qua đoạn trích, người đọc càng thêm thương yêu cô gái tài hoa bạc mệnh Thuý Kiều.