Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 1
“Thi dĩ ngôn chí” - thơ để nói chí, tỏ lòng. Cho nên tầm vóc của loại thơ này rốt cuộc, phụ thuộc vào tầm vóc của chí. Mà chí khí không phải là những bột phát nhất thời, càng không thể là những chí hướng vay mượn. Chí cần phải được đảm bảo bằng nghiệp. Có thể có những sự nghiệp không thành, nhưng sự dang dở ấy cũng chứng tỏ về một chí lớn đã dấn thân, không phải thứ chí suông. Chính nó là sự đảm bảo cho thơ. Vì thế. thơ sẽ chỉ còn là những lời lẽ khoa trương sáo rỗng, là sự cường điệu đao to búa lớn rẻ tiền, nếu như không có một chí lớn, hơn thế nếu như chí lớn ấy không gắn với một cốt cách lớn, một cuộc đời lớn.
Tiếng thơ bộc lộ trực tiếp các chí lớn xưa nay thường gắn với những bậc hào kiệt, những đấng trượng phu. Thơ của họ là lời tuyên ngôn của cuộc đời họ. Trước khi họ tạc con người mình vào trong thơ, thì họ đã tạc con người mình vào sông núi. Người đời thường ví họ như chim hồng, chim hộc và đối lập với những chim sẻ, chim ri. Và trong thơ của mình, họ hiện ra đúng như những cánh đại bàng vẫy vùng trong mênh mông trời biển. Tư thế của họ là tư thế kì vĩ, tư thế vũ trụ, chẳng “Hoành sóc giang san cáp kỉ thu’ (Cấp ngang ngọn giáo bảo vệ giang sơn đã mấy. thu - Phạm Ngũ Lão), thì cũng “Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma” (Bao phen mang gươm báu mài dưới trăng - Đặng Dung), chẳng "Trường khiếu nhắt thanh hàn thái hư” (Kêu to một tiếng làm lạnh cả hư không - Không Lộ thiền sư) thì cũng “Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán, Phá vòng vây bạn với Kim ô” (Nguyễn Hữu cầu)... như thế dã chứa đựng trong đó hào khí của cả giống nòi.
Nằm trong mạch ngôn chí trực tiếp ấy, Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu là hùng tâm tráng chí của một trong những người con ưu tú nhất của nòi giống Việt Nam.
Thực ra cái quan niệm làm trai ở trong bài thơ này không phú cua riêng Phan Bội Châu. Nó là quan niệm chung về chí làm trai của nhà Nho thuở trước. Và ít nhất ta cũng thấy nó từng vang lên rất mãnh liệt trong thơ văn Nguyễn Công Trứ. Song, điều đáng nói chính là ở chỗ, không phải Phan Bội Châu đang ném ra cuộc đời một quan niệm lí thuyết như một người có ý đồ lập thuyết, mà ông là người đã sống cái quan niệm ấy một cách đủ đây trước khi viết thành thơ. Có lẽ vì thế mồ Xuất dương lưu biệt không chỉ chứa đựng một lẽ sống mà trước hết là chứa đựng chân dung một con người - một con người lỗi lạc, kiệt xuất:
Hai câu đề:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Tôi không nghĩ chữ “lạ” trong bản dịch này đã thể hiện được hết cái tinh thần của chữ “kì”. Bởi chữ “kì” muốn nói đến cái điều: làm trai phải làm được những điều kì lạ, kiệt xuất, phi thường. Một mình chữ “lạ” không tải hết ý của Phan tiên sinh. Tôi cũng không nghĩ rằng người dịch dùng ba chữ "ở trên đời” là đã diễn được thực ýcủa nguyên tác. “Đời” là một không gian tưởng là rộng nhưng hóa ra lại hẹp, bởi nó có xu hướng co vào cái phạm vi của thế giới người thôi. Trong nguyên văn, Phan Bội Châu không dùng những chữ ấy. Chỉ đến câu thứ hai ta mới thấy yêu tố không gian xuất hiện. Và lập tức bậc tu mi nam tử theo quan niệm của Phan Sào Nam đã hiện ra trong tương quan kì vĩ nhất: không gian vũ trụ. Đấng nam nhi sinh ra ở trong vũ trụ này là đối mặt với càn khôn (trời đất), nghĩa là với tất cá những gì lớn lao nhất trong vũ trụ này, chứ không riêng gì thế giới người. Vậy là ngay từ hai câu đề, hình ánh khái quát về một bậc hào kiệt đã hiện lên đầy ấn tượng: Đó không phải là kẻ sống thụ động phó mặc đường đời mình cho trời đất, và cũng không phó mặc cõi đời này cho sự xoay vần của trời đất. Đấng nam tử phải là người chủ động đổi thay cả càn khôn. Cái chí dọc ngang trời đất, chọc trời khuấy nước, cải tạo vũ trụ đó mới là điều xứng với một đời làm nam nhi. Quan niệm con người của Phan Bội Châu ở đây là quan niệm con người vũ trụ rất quen thuộc của văn chương Nho giáo trung đại.
Nếu hai câu đề gợi ra hình ảnh nam tử trong không gian kì vĩ, thì hai câu thực đã phát triển hình ảnh ấy trong một chiều kích khác: thời gian. Thời gian ở đây cũng là thời gian thuộc tầm cỡ vĩ mô:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai?
Ở câu đề tuy khẩu khí cá nhân đã rõ, nhưng quan niệm vẫn là quan niệm chung. Đến đây thì con người cá nhân Phan Bội Châu đã xuất hiện ngay trên bề mặt câu chữ. Ông đã ý thức về vai trò lịch sử của mình thật kiêu hùng đầy tự tôn, tự tin. Mình phải trở thành một nhân vật không thể thiếu trong cái khoảng thời gian một trăm năm nay. Nói một cách khác, ông tự lĩnh nhận sứ mạng của mình: một con người cần thiết của thế kỉ. Đối diện với càn khôn, đối diện với cả thế kỉ, tầm vóc của bậc nam tử này thật là tầm vóc vũ trụ. Không phải ông muốn chiếm lấy một chỗ đứng trong thời gian như một kẻ vĩ cuồng háo danh. Mà chính là làm nên cái việc trọng đại, kiệt xuất là xoay chuyển càn khôn để làm đổi thay bộ mặt của thế kỉ. Chữ “tớ” là cách dịch thoát của chữ “ngã“ (tôi). Dù dịch là tôi, là ta, là “tớ” thì ngã vẫn cứ là cái ý thức mãnh liệt về cá nhân mình trên cõi thế gian này. Hình ảnh tác giả hiện ra trong mênh mông thời gian, lồng lộng không gian như thế là một vẻ đẹp cá nhân thật nguy nga tráng lệ. Phải thấy rằng, ít có ai đã tự họa mình trong một không gian và thời gian hoành tráng như vậy!
Dầu sao trong bốn câu đầu này mới nói đến điều phải “lạ”, mà chưa nói rõ “việc lạ” cần làm là gì! Bốn câu tiếp theo sẽ dần dần làm sáng lên điều đó. Hai câu luận là một sự nhìn nhận phi thường:
Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
Câu trên khẳng định: Non sông đã chết! Khi chủ quyền đã về tay kẻ ngoại bang, thì non sông đã chết. Sống mà không có quyền làm chủ là sống nhục. Bốn chữ “Giang sơn tử hĩ” chất đầy đau đớn và phẫn uất. Câu dưới tiếp tục Hiền thánh đã vắng bóng thì có đọc sách cũng ngu thôi! Tất cả là những lời phủ định dứt khoát, quyết liệt rằng: Còn theo đòi sách vở, còn sống ở trong nước thời buổi này là điều nhục nhã đối với một trang nam nhi. Bởi đó là đã nhắm mắt quay lưng cho “càn khôn tự chuyển đi”, là phó mặc mình cho đời xoay vần. Tất cả những gì thiêng liêng xứng đáng với một bậc nam tử coi như đã chết. Vì thế mà cần phải có hành động xứng đáng. Hành động xứng đáng, hành động kiệt xuất phi thường ấy bây giờ chính là: Xuất dương.
Những câu trên ta thấy cái tôi (ngã) hiện ra trước “càn khôn”, trước “ Bách niên trung”, “Thiên tải hậu” những chiều kích vĩ của không gian và thời gian, ở đây, nó tiếp tục được tô đậm bằng: “Giang sơn” và “Thánh hiền". Con người ấy đối mặt với giang sơn đất nước, đối mặt với toàn bộ nền học vấn. Cho nên, càng về sau chân dung của con người ấy, cái tôi ấy càng sắc nét với tất cả những gì lớn lao nhất. Cái không gian duy nhất có thể chứa đựng được con người ấy là vũ trụ.
Đến hai câu kết thì những nét bút kì vĩ cuối cùng đã hoàn thiện hành động kiệt xuất của một cuộc đời kiệt xuất:
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Sáu câu trên gợi ra những nghĩ suy, những lựa chọn, những chuẩn bị trong tâm lí, trong tư tưởng của một con đại bàng. Ở hai câu này, chúng ta thấy con đại bàng ấy đang tung đôi cánh mênh mông của mình bay thẳng ra trùng dương, đối mặt với hết thảy những giông tố bão bùng. Câu thơ gợi ta nhớ đến tư thế của con chim lớn trong thư Quận He: “Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán, Phá vòng vây bạn với Kim ô”. Nhưng câu thơ của Phan Bội Châu không còn là một hình ảnh ước lệ nữa. Bởi phong trào Đông du mà ông là người chủ trương, bởi việc xuất dương mà ông là người khởi sự chính là những hành động phi thường của những bậc trượng phu sẵn sàng ném đời mình vào muôn trùng sóng bạc ra khơi tìm đường làm sống lại “giang sơn đã chết”, tìm cách xoay chuyển càn khôn.
Bài thơ kết bằng câu thơ đầy hùng tâm tráng chí mà câu thơ dịch chưa thể chuyền tải hết được:
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Như vậy, làm trang nam nhi không phải là bằng mọi cách để lưu danh sử sách, khẳng định cá nhân. Mà cá nhân ấy phải làm nên việc phi thường, ấy là việc kinh bang, tế thế, cứu dân cứu nước. Khát vọng sống cao cả của Phan Bội Châu ở đây, một lần nữa, giúp ta hiểu được cái cốt cách vĩ đại của con người kiệt xuất này.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 2
“Chúng ta có thề nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại (Tôn Quang Phiệt), Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm dầu thế kỉ XX. Tên tuổi ông bất tử với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục hội... Tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tinh thần yêu nước. “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng” (Tố Hữu).
Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ. Năm 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tố chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông Du. Trước lúc lên đường Đông du, qua Trung Hoa, Nhật Bàn đế cầu nguyện viện với bao hoài bão tung hoành, ông đã để lại đồng chí bài thơ Lưu biệt khi xuất dương (Xuất dương lưu biệt.) được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc tráng ca biểu lộ tư thế. quyết tám hăm hở, và những ý nghĩa cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.
Hai câu đề là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:
Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càng khôn tự chuyển di.
Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống mong muốn làm nên điều lạ (yếu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tẩm thường. Không thé sống một cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ và tài năng của mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoa chuyển trời đất, như ông đã nói rõ trong một bài thơ khác:
Dang tay ôm chặt bổ kình tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khí anh hùng cùa nhà thi sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cố:
Mỗi phạn bất vong guy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương.
(Tùy viễn thi thoại - Viên Mai)
(Bữa bữa những mong ghi sử sách,
Lập thân xoàng nhất ây văn chương).
Đấng nam nhi muôn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sùi sục: “Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi it, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nơi người xưa chịu chết dể thành đạo nhân, nước mắt lại đầm đìa nhỏ xuống ướt dẫm cả giấy...” (Ngục trung thư).
Phần thực, ý thơ mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xà hội và trong lịch sử:
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cách vô thủy.
Ngã là ta, tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đô'i nhau, lấy cái phủ định đế làm nổi bật điều khẳng định. Đó là một ý thơ sâu sắc thế hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”. (Trần Quốc Tuấn).
Nhân vinh tự cổ thủy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
(Văn Thiên Tường)
Lấy cái hữu hạn - bách niên - của một đời người đối với cái vô hạn - thiên tài - của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc. hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế. trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và hiểm nguy, ông vẫn bất khuất, lạc quan:
Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!
Phần luận tác giả nói về sống và chết, nói về công danh.
Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm đen tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xé thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử nghiền kinh, có chúi đầu vào con đường khoa cử cũng vô nghĩa. Sách vở của thánh hiền liệu còn có ích gì trong sự nghiệp cứu nước nhà.
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học của hoài.
Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước hết. Ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành. Ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lôi học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong bài Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927. Cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:
Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần
Đừng ham chơi, dừng ham mặc, ham ăn
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rủa vết nhơ nô lệ...
Sống như thế là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: Trong khoảng trăm năm cần có tớ.
Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc lãng mạn:
Nguyệt trục trường phong Đông hải khử,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, khơi gợi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bác ái quốc vì thâm đượm cảm xúc, sôi sục nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết là một ví dụ hùng hồn: Trường phong - Ngọn gió dài. Thiên trùng bạch lãng - ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sĩ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ nguyện trục (mong đuổi theo) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Hai thanh trắc cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng bổng trầm ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của Phan Bội Châu. Ớ đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí của người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thông nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đã nói ở hai câu kết.
Lưu biệt khi xuất dương là bài thơ tuyệt tác đầy tầm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng. Tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tường anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 3
Phan Bội Châu (1867 – 1940) tên thật là Phan Văn San, hiệu là Sào Nam, người làng Đan Nhiệm, nay là xã Nam Hoà, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự thất bại của phong trào cần Vương chống Pháp. Chế độ phong kiến suy tàn kéo theo sự sụp đổ của cả một hệ thống tư tưởng phong kiến già cỗi, lỗi thời. Tình hình đó đặt ra cho các chí sĩ yêu nước một câu hỏi lớn: Phải cứu nước bằng con đường nào? Trong không khí u ám bao trùm khắp đất nước thời đó, những tia sáng hi vọng hé rạng qua nguồn sách Tân thư truyền bá tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản của phương Tây với nội dung khác hẳn với các sách thánh hiền thuở trước. Người ta có thể tìm thấy ở đó những gợi ý hấp dẫn về một con đường cứu nước mới, những viễn cảnh đầy hứa hẹn cho tương lai. Vì thế, các nhà Nho tiên tiến của thời đại như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã tiên phong dấn bước, bất chấp nguy hiểm, gian lao.
Phan Bội Châu là một trong những chí sĩ yêu nước đầu tiên mở ra con đường cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Mặc dù sự nghiệp không thành, nhưng ông mãi mãi là tấm gương sáng chói về lòng yêu nước thiết tha và ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất.
Sinh thời, Phan Bội Châu không coi văn chương là mục đích của cuộc đời mình nhưng trong quá trình hoạt động cách mạng, ông đã chủ động nắm lấy thứ vũ khí tinh thần sắc bén ấy để tuyên truyền, cổ động, khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào ta. Năng khiếu văn chương, bầu nhiệt huyết sôi sục cùng sự từng trải trong bước đường cách mạng là cơ sở để Phan Bội Châu trở thành một nhà văn, nhà thơ lớn với những tác phẩm xuất sắc như: Việt Nam vong quốc sử (1905), Hải ngoại huyết thư (1906), Ngục trung thư (1914), Trùng Quang tâm sử (1913 -1917), Phan Bội Châu niên biểu (1929)…
Năm 1904, ông cùng các đồng, chí của mình lập ra Duy Tân hội. Năm 1905, hội chủ trương phong trào Đông Du, đưa thanh niên ưu tú sang Nhật Bản học tập để chuẩn bị lực lượng nòng cốt cho cách mạng và tranh thủ sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài. Trước lúc lên đường, Phan Bội Châu làm bài thơ Xuất dương lưu biệt để từ giã bạn bè, đồng chí:
Phiên âm chữ Hán:
Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cảnh vô thùy.
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Dịch thơ:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Bằng giọng thơ tâm huyết có sức lay động mạnh mẽ, Lưu biệt khi xuất dương đã khắc họa vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu, với tư tưởng mới mẻ, táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước
Bài thơ mở đầu bằng việc khẳng định chí làm trai:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Câu thơ chữ Hán: Sinh vi nam tử yếu hi kì. Hai từ hi kì có nghĩa là hiếm, lạ, khác thường cần được hiểu như những từ nói về tính chất lớn lao, trọng đại, kì vĩ của công việc mà kẻ làm trai phải gánh vác. Đây cũng là lí tưởng nhân sinh của các nhà Nho thời phong kiến. Trước Phan Bội Châu, nhiều người đã đề cập đến chí làm trai trong thơ ca. Phạm Ngũ Lão đời Trần từng băn khoăn: Công danh nam tử còn vương nợ, Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu (Tỏ lòng). Trong bài Đi thi tự vịnh, Nguyễn Công Trứ khẳng định: Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông… và nhấn mạnh: Chí làm trai nam, bắc, tây, đông, Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể (Chí khí anh hùng).
Chí làm trai của Phan Bội Châu thuyết phục thế hệ trẻ thời bấy giờ ở sự táo bạo, quyết liệt và cảm hứng lãng mạn nhiệt thành bay bổng. Với ông, làm trai là phải làm được những điều lạ, tức những việc hiển hách phi thường. Câu thơ thứ nhất khẳng định điều đó. Câu thơ thứ hai mang ngữ điệu cảm thán bổ sung cho ý của câu thứ nhất: Kẻ làm trai phải can dự vào việc xoay chuyển càn khôn, biến đổi thời thế chứ không phải chỉ giương mắt ngồi nhìn thời cuộc đổi thay, an phận thủ thường, chấp nhận mình là kẻ đứng ngoài. Thực ra, đây là sự tiếp nối khát vọng của nhân vật trữ tình trong bài Chơi xuân: Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi, Sinh thời thế phải xoay nên thời thế. Chân dung nhân vật trữ tình trong bài Lưu biệt khi xuất dương hiện lên khá rõ qua hai câu đề. Đó là một con người mang tầm vóc vũ trụ, tự ý thức rằng mình phải có trách nhiệm gánh vác những trọng trách lớn lao. Con người ấy dám đối mặt với cả càn khôn, vũ trụ để tự khẳng định mình. Chí làm trai của Phan Bội Châu đã vượt hẳn lên trên cái mộng công danh xưa nay thường gắn liền với tam cương, ngũ thường của Nho giáo để vươn tới lí tưởng xã hội rộng lớn và cao cả hơn nhiều.
Cảm hứng và ý tưởng đó phần nào xuất phát từ lí tưởng trí quân, trạch dân của các nhà Nho thuở trước nhưng tiến bộ hơn vì mang tính chất cách mạng. Theo quy luật, con tạo xoay vần vốn là lẽ thường tình, nhưng Phan Bội Châu ôm ấp khát vọng chủ động xoay chuyển càn khôn, chứ không để cho nó tự chuyển vần. Cũng có nghĩa là ông không chịu khuất phục trước số phận, trước hoàn cảnh. Lí tưởng tiến bộ ấy đã tạo cho nhân vật trữ tình trong bài thơ một tầm vóc lớn lao, một tư thế hiên ngang, ngạo nghễ thách thức với càn khôn.
Hai câu thực thể hiện ý thức về trách nhiệm cá nhân của nhà thơ, cũng là nhà cách mạng tiên phong trước cuộc đời:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
Câu thứ ba không chỉ đơn giản xác nhận sự có mặt của nhân vật trữ tình ở trên đời mà còn hàm chứa một tâm niệm: Sự hiện diện của ta không phải là một sự kiện ngẫu nhiên, vô ích; vì vậy, ta phải làm một việc gì đó lớn lao, hữu ích cho đời. Câu thứ tư có nghĩa là ngàn năm sau, lẽ nào, chẳng có người nối tiếp công việc của người đi trước. “Cái tôi công dân” của tác giả đã được đặt ra giữa giới hạn trăm năm của đời người và ngàn năm của lịch sử. Sự khẳng định cần có tớ không phải với mục đích hưởng lạc mà là để cống hiến cho đáng mặt nam nhi và lưu danh hậu thế. Câu hỏi tu từ cũng là một cách khẳng định mãnh liệt hơn khát khao cống hiến và nhận thức đúng đắn của tác giả: Lịch sử là một dòng chảy liên tục, cần có sự góp mặt và gánh vác của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Trong bốn câu thơ đầu, những hình ảnh kì vĩ của thiên nhiên như càn khôn, trăm năm, muôn thuở đã thể hiện cảm hứng lãng mạn bay bổng, chính là cội nguồn sức mạnh niềm tin của nhân vật trữ tình.
Ở những năm đầu thế kỉ XX, sau thất bại liên tiếp của các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp, một nỗi bi quan, thất vọng đè nặng lên tâm hồn những người Việt Nam yêu nước. Tâm lí an phận thủ thường lan rộng. Trước tình hình đó, bài thơ Lưu biệt khi xuất dương có ý nghĩa như một hồi chuông thức tỉnh lòng yêu nước, động viên mọi người đứng lên chống giặc ngoại xâm.
Trong hai câu luận, Phan Bội Châu đặt chí làm trai vào hoàn cảnh thực tế của lịch sử đương thời:
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
Lẽ nhục – vinh mà tác giả đặt ra gắn liền với sự tồn vong của đất nước và dân tộc: Non sông đã chết, sống thêm nhục. Ý nghĩa của nó đồng nhất với quan điểm : Chết vinh còn hơn sống nhục trong thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cuối thế kỉ XIX.
Câu thơ thứ 5 bày tỏ một thái độ dứt khoát, được thể hiện bằng ngôn ngữ đậm khẩu khí anh hùng, bằng sự đối lập giữa sống và chết. Đó là khí tiết cương cường, bất khuất của những con người không cam chịu cuộc đời nô lệ tủi nhục. Ý thơ mới mẻ mang tính chất cách mạng. Ở câu thứ 6, Phan Bội Châu đã thẳng thắn bày tỏ ý kiến trước một thực tế chua xót là ảnh hưởng của nền giáo dục Nho giáo đối với tình cảnh nước nhà lúc bấy giờ. Sách vở thánh hiền chẳng giúp ích được gì trong buổi nước mất nhà tan. Cho nên nếu cứ khư khư theo đuổi thì chỉ hoài công vô ích mà thôi. Tất nhiên, Phan Bội Châu chưa hoàn toàn phủ nhận cả nền học vấn Nho giáo, nhưng đưa ra một nhận định như thế thì quả là táo bạo đối với một người từng là đệ tử của chốn cửa Khổng sân Trình. Dũng khí và nhận thức sáng suốt đó trước hết bắt nguồn từ lòng yêu nước thiết tha và khát vọng cháy bỏng muốn tìm ra con đường đi mới để đưa nước nhà thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than. Phan Bội Châu cho rằng nhiệm vụ thiết thực trước mắt là cứu nước cứu dân, là Duy tân, tức là học hỏi những tư tưởng cách mạng mới mẻ và tiến bộ. Bài thơ không đơn thuần là chỉ để bày tỏ ý chí mà thực sự là một cuộc lên đường của nhân vật trữ tình:
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Các hình ảnh kì vĩ trong hai câu kết mang tầm vũ trụ: bể Đông, cánh gió, muôn trùng sóng bạc. Tất cả như hòa nhập làm một với con người trong tư thế bay lên.
Trong nguyên tác, hai câu 7 và 8 liên kết với nhau để hoàn chỉnh một tứ thơ đẹp: Con người đuổi theo ngọn gió lớn qua biển Đông, cả vũ trụ bao la Muôn lớp sóng bạc cùng bay lên (Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi). Tất cả tạo thành một bức tranh hoành tráng mà con người là trung tâm được chắp cánh bởi khát vọng lớn lao, bay bổng lên trên thực tại tối tăm khắc nghiệt, lồng lộng giữa trời biển mênh mông. Bên dưới đôi cánh đại bàng đó là muôn trùng sóng bạc dâng cao, bọt tung trắng xóa, dường như muốn tiếp sức cho con người bay thẳng tới chân trời mơ ước. Hình ảnh đậm chất sử thi này đã thắp sáng niềm tin và hi vọng cho một thế hệ mới trong thời đại mới.
Thực tế thì cuộc ra đi của Phan Bội Châu là một cuộc ra đi bí mật, tiễn đưa chỉ có vài ba đồng chí thân thiết nhất. Dù phía trước chì mới le lói vài tia sáng của ước mơ, nhưng người ra đi tìm đường cứu nước vẫn hăm hở và đầy tin tưởng.
Sức thuyết phục, lôi cuốn của bài thơ chính là ở ngọn lửa nhiệt tình đang bừng cháy trong lòng nhân vật trữ tình. Bài thơ đã thể hiện hình tượng người anh hùng trong buổi lên đường xuất dương lưu biệt với tư thế kì vĩ, sống ngang tầm vũ trụ. Người anh hùng ấy ý thức rất rõ ràng về “cái tôi công dân” và luôn khắc khoải, day dứt trước sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được viết theo bút pháp ước lệ và cường điệu, rất phù hợp với mục đích cổ vũ, động viên. Giọng thơ vừa sâu lắng, da diết, vừa sôi sục, hào hùng, mang âm hưởng tráng ca. Nỗi đau đớn, niềm lạc quan, nhiệt tình hành động cùng tư tưởng cách mạng đã thổi hồn vào từng câu, từng chữ, từng hình ảnh trong bài thơ. Âm hưởng hào hùng của bài thơ có sức lay động, thức tỉnh rất lớn đối với mọi người. Đây là bài thơ từ biệt mà cũng là lời kêu gọi, thúc giục lên đường. Tầm vóc bài thơ hoàn toàn tương xứng với tầm vóc của một con người được cả dân tộc ngưỡng mộ và tin tưởng. Trong tác phẩm Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925) tác giả Nguyễn Ái Quốc đã suy tôn Phan Bội Châu là: bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập được hai mươi triệu đồng bào trong vòng nô lệ tôn sùng.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 4
Phan Bội Châu được nhắc đến là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có ý thức dùng văn chương để vận động, tuyên truyền cách mạng. Ông cũng chính là người khơi dòng cho loại văn chương trữ tình chính trị. Trong đó, bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" là một tác phẩm tiêu biểu.
Đây là bài thơ được viết trong bữa cơm ngày Tết mà Phan Bội Châu đã tổ chức ở nhà mình để chia tay với các bạn bè, đồng chí trước lúc lên đường sang Nhật Bản năm 1905. "Lưu biệt khi xuất dương" đã thể hiện ý tưởng lớn lao, mới mẻ đầy trách nhiệm của tác giả, thể hiện niềm hăm hở, quyết tâm cao độ trong buổi đầu vượt biển đi ra nước ngoài để "mưu sự phục quốc".
Chí làm trai đã được nhắc đến trong văn học từ thời xa xưa nhưng đặc biệt được đề cao ở thời kì chế độ phong kiến, thời kì đạo Nho phát triển mạnh mẽ. Nam nhi phải có công danh, sự nghiệp thì mới đáng làm trai. Chẳng vậy mà trong bài thơ "Tỏ lòng", Phạm Ngũ Lão đã viết:
"Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu"
Hay Nguyễn Công Trứ cũng từng viết:
"Chí làm trai nam, bắc, tây, đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể".
Muốn trở thành bậc nam nhi được mọi người công nhận thì phải biết phấn đấu, lập được công trạng, có được danh vọng, có sức vóc "vẫy vùng" khắp bốn bể để chứng minh tài năng, bản lĩnh của bản thân. Kế thừa tư tưởng ấy của Nho giáo, Phan Bội Châu đã đưa ra một quan điểm về chí làm trai như một tuyên ngôn đầy khí thế:
"Sinh vi nam tử yếu hi kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di".
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)
Trước hết, ông cho rằng, làm trai phải "lạ", có nghĩa là phải sống khác mọi người, không được giống với bất kì ai để tạo nên điểm riêng biệt. "Lạ" cũng có nghĩa là điều phi thường, hiển hách, xoay chuyển cả trời đất. Đó là lối sống chủ động, không chùn bước, nản chí để mặc cho hoàn cảnh chi phối mà phải có bản lĩnh để chi phối hoàn cảnh. Nhân vật trữ tình dám đối mặt với càn khôn, đất trời, vũ trụ để tự khẳng định bản thân, phấn đấu đạt được giấc mộng công danh. Phan Bội Châu ôm ấp khát vọng xoay chuyển được càn khôn chứ không để "càn khôn tự chuyển dời". Ông không đầu hàng, khuất phục trước số phận, hoàn cảnh mà dùng chính khả năng của mình để thay đổi hoàn cảnh. Có thể nói, chí làm trai của ông là chí làm trai của một đấng nam nhi hiên ngang trong vũ trụ, dám ngạo nghễ và thách thức với trời đất.
Con người mang tầm vóc lớn lao, tầm vóc vũ trụ ấy luôn mang trong mình ý thức, trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc:
"Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy"
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?)
Trong cuộc đời trăm năm hữu hạn, Phan Bội Châu muốn cống hiến sức mình cho đất nước, làm nên những công trạng phi thường, lớn lao để xứng đáng làm một nam nhi lưu danh vào thiên cổ ngàn năm. Tác giả đã tự khẳng định bản thân mình, đây là cái tôi mang đầy trách nhiệm, chủ động tích cực chứ không phải cái tôi vị kỉ, chỉ biết lo nghĩ cho lợi ích của cá nhân. Ở hai câu thực có sự đối nhau hài hòa giữa sự vô hạn của thời gian và sự hữu hạn của đời người, Phan Bội Châu dùng cái phủ định để làm nền, làm nổi bật lên điều ông khẳng định. Ông muốn làm những điều phi thường, lưu lại tên tuổi của mình trong sử sách để không hổ thẹn với chí làm trai mà mình đã lấy làm lí tưởng sống. Cống hiến cho đời vừa là nghĩa vụ vừa là trách nhiệm của bậc trượng phu. Trong một trăm năm hữu hạn ấy, người nam nhi phải thực hiện được chí làm trai và cũng trong ngàn năm sau đó phải để lại được tiếng thơm cho đời. Hai câu thơ như lời thúc giục khơi dậy tinh thần xả thân vì nghĩa lớn của con người, đặc biệt là những thanh niên trai tráng phải góp hết sức mình vào công cuộc cứu nước, tìm ra hướng đi mới cho dân tộc.
Gắn với hoàn cảnh thực tại của đất nước, Phan Bội Châu đã nêu lên trách nhiệm mà người nam nhi cần có đối với vận mệnh dân tộc:
"Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si"!
(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài !)
Đất nước bị xâm lược, non sông cũng không còn nữa thì ta có sống cũng chỉ chuốc lấy sự nhục nhã, ê chề. Sách vở, người có học thức cũng trở thành vô nghĩa khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được ông đặt lên hàng đầu bởi ông ý thức được thời cuộc. Sách vở cũng không có ý nghĩa gì khi nước mất nhà tan. Việc làm quan trọng và thiết thực nhất lúc bấy giờ là tìm được con đường, hướng đi cho đất nước để thoát khỏi sự xâm lược, bóc lột của thực dân Pháp. Phan Bội Châu là một người yêu nước và ông cũng mong rằng phong trào Đông du do mình lãnh đạo sẽ gặt hái được nhiều thành quả giúp ích cho nước nhà. Bên cạnh đó, hai câu luận cũng có ý nghĩa thức tỉnh những con người có tấm lòng yêu nước. Đây cũng là lúc để họ xoay chuyển càn khôn, xoay chuyển cục diện, tình hình của dân tộc.
Hai câu kết của bài thơ đã thể hiện khí thế, sự quyết tâm cao độ trên con đường cứu nước mà mình đã chọn của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu:
"Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi".
(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)
Ông có khát vọng lớn lao muốn đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông. Khát khao đó thể hiện ý chí, khát vọng hành động và tư thế của nhân vật trữ tình. Con người muốn bay lên cùng cơn gió để bắt kịp thời đại. "Bể đông", "cánh gió", "sóng bạc" là những hình ảnh thơ kì vĩ, hào hùng ẩn dụ cho khát vọng vượt lên hiện thực tăm tối để tìm đường cứu nước của Phan Bội Châu. Tác giả "nguyện" vì lí tưởng cao đẹp mà vượt qua tất cả những gian khó, thử thách để chạm được đích đến, hoàn thành chí làm trai của bậc nam nhi ở đời. Bản dịch thơ của Tôn Quang Phiệt tuy chưa dịch sát nghĩa của từ "nhất tề phi" nhưng cũng đã phần nào thể hiện sức mạnh, lòng yêu nước tràn đầy nhiệt huyết và tinh thần chiến đấu sục sôi của tác giả. Trong bối cảnh của thời đại mới, con người cần phải có những tư tưởng hành động bắt kịp thời đại, có như vậy mới tìm ra được con đường cứu nước đúng đắn, mang lại sự tự do cho dân tộc. Và với Phan Bội Châu, con đường mới của ông là con đường sang Nhật Bản để học tập, chuẩn bị lực lượng hùng mạnh để nắm bắt thời cơ giành lại nền độc lập cho nước nhà.
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật có giọng điệu hào hùng, tràn đầy tâm huyết có sức mạnh lay động mạnh mẽ đến các thanh niên yêu nước. "Lưu biệt khi xuất dương" đã khắc họa tâm thế, khát khao ra đi tìm đường cứu nước của một nhà cách mạng đầu thế kỉ XX. Nhân vật trữ tình mang một vẻ đẹp mới mẻ, tràn đầy khí thế của thời đại.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 5
Phan Bội Châu là một nhà văn hóa lớn, một nhà chính trị, “một nhân vật vĩ đại”, có nhiều hoạt động tiến bộ đầu thế kỷ XX, ông được biết đến với vai trò là vị lãnh tụ tiêu biểu nhất trong các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ trước. Đặc biệt nổi bật với tư tưởng giải phóng dân tộc theo con đường của các nước tư bản chủ nghĩa, mặc dù sau đó thất bại nhưng cũng đã mở ra một cách nhìn mới về việc làm cách mạng cho thế hệ đi sau trong đó có Hồ Chí Minh. Nhìn chung ở đời cách mạng, cũng như quá trình hoạt động cách mạng ở Phan Bội Châu có sự kết hợp độc đáo và vẻ vang giữa hai phương diện chính trị và văn hóa, điều đó tương tự như Nguyễn Trãi hơn 400 năm về trước và Hồ Chí Minh của vài năm sau đó. Ngoài sự nghiệp chính trị nổi bật, thì Phan bội Châu cũng có một sự nghiệp văn chương khá đồ sộ, ông có thể được xem là người đã mở đường cho nền văn học cách mạng Việt Nam với chất chính trị và trữ tình kết hợp chặt chẽ ăn ý trong nhiều tác phẩm. Lưu biệt khi xuất dương chính là một tác phẩm mang đầy đủ phong cách sáng tác ấy của Phan Bội Châu, cùng với hoàn cảnh ra đời đặc biệt gắn liền với sự chuyển biến trong tư tưởng cách mạng của Phan Bội Châu.
Sở dĩ nói Lưu biệt khi xuất dương là bài thơ gắn liền với sự chuyển biến trong tư tưởng cách mạng của Phan Bội Châu, bởi bài thơ được sáng tác vào năm 1905, trước ngày ông lên tàu cùng một số thanh niên ưu tú khác sang Nhật tìm đường cứu nước. Bài thơ là sự cổ vũ, động viên khích lệ tinh thần đầy hào khí dành cho những con người mang tư tưởng, tráng chí tốt đẹp ra đi vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, dẫu biết có nhiều gian nan trắc trở. Cũng lại là một tác phẩm gợi mở, hướng những con người ở lại, hướng nhân dân ta về một niềm tin rằng mai đây đất nước sẽ tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn, bộc lộ nhưng ý chí, quyết tâm, tư tưởng tiến bộ của một nhà nho yêu nước, một vị lãnh tụ hết lòng vì dân tộc.
Như Nguyễn Ái Quốc đã viết trong tác phẩm chính luận Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu của những lời tán dương dành cho cụ Phan đầy sâu sắc và trân trọng rằng: “một bậc anh hùng, một vị thiên sứ được hai mươi triệu đồng bào trong vòng nô lệ tôn kính”. Điều đó đủ để thấy rằng ở Phan Bội Châu là hội tụ những vẻ đẹp quý giá của một nhân cách lớn, một tư tưởng lớn hòa quyện giữa tinh thần của một nhà nho và một chí sĩ cách mạng theo khuynh hướng tư bản (thậm chí còn có đôi chút khuynh hướng chủ nghĩa xã hội). Trong Lưu biệt khi xuất dương, vẻ đẹp nhân cách, tư tưởng của Phan Bội Châu bộc lộ từ hai câu thơ đầu, mà có thể đặt cho nó cái tên là chí làm trai trong thời đại mới.
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX trong lịch sử nước nhà là một giai đoạn đầy biến động dữ dội, tháng 1/8/1958, Pháp nổ phát súng đầu tiên chính thức xâm lược nước ta lần thứ nhất, trong khi đó triều đình nhà Nguyễn yếu hèn, chế độ phong kiến thối nát, có nguy cơ sụp đổ, không đủ sức để đứng lên lãnh đạo nhân dân chống giặc ngoại xâm như các thế hệ cha ông đi trước. Các nhà nho yêu nước, thương dân nhưng đa số bất lực trước thời cuộc, bế tắc nên tìm cách thoái ẩn, trốn tránh cuộc đời. Chỉ riêng Phan Bội Châu, là một trong số ít các nhà nho có nhiều hoạt động sôi nổi trong các phong trào nổi dậy chống ngoại xâm. Bởi cụ Phan có một nhân cách văn hóa lớn, người tiếp nhận các khuynh hướng chính trị một cách đa dạng, nhiều chiều, là người trực tiếp tham gia các phong trào Cần Vương và một số phong trào khởi nghĩa truyền thống, Phan Bội Châu tuy là một nhà nho chính thống, nhưng lại sớm nhận ra những yếu điểm và sự lỗi thời của các phong trào này. Phan Bội Châu nhận thấy cần phải có một sự cải cách mới, một con đường mới cho cách mạng Việt Nam, người xem xét chế độ quân chủ lập hiến, rồi cuối cùng quyết định giải phóng dân tộc theo con đường mà các nước tư bản chủ nghĩa đã làm và rất thành công tiêu biểu đó là Nhật Bản. Từ đó phong trào Đông Du ra đời, với một hy vọng cải biến được tình hình hỗn loạn như rắn mất đầu của các phong trào khởi nghĩa lẻ tẻ trong nước. Phan Bội Châu có thể xem là một vị anh hùng biết thời biết thế, với ông trong một bối cảnh mới thì nhân cách của nhà nho vẫn phải giữ, nhưng phải cải biến làm sao cho không bị lạc hậu, mà phải tương đồng, đuổi kịp với thời cuộc. Trong đó chí nam nhi là điều cốt yếu của một nhà nho yêu nước. Phan Bội Châu quan niệm “Làm trai phải lạ ở trên đời”, chữ “lạ” ở đây tức là thân nam nhi chí ở bốn phương, phải tạo cho mình sự khác biệt, nổi bật hẳn lên ở các phương diện sự nghiệp, tư tưởng, mang trong mình những khát khao, hoài bão cao đẹp và nỗ lực hết mình thực hiện chúng. Đã là nam nhân thì không cam chịu một cuộc sống bình thường, an ổn, quanh quẩn bên cái ao, nắm thóc, con gà, vừa lòng với cuộc sống điền viên nhi nữ thường tình mà phải phấn đấu gây dựng sự nghiệp lớn, công danh lớn. Ví như thuở trước người trai miệt mài đèn sách, quyết thi cử lấy công danh làm rạng rỡ tổ tông hoặc là tòng quân chinh chiến sa trường, bảo vệ biên cương, để trả mối nợ nước. Thì nay trong thời đại đầy biến động, người nam nhi lại cần phải có ý chí, thay đổi tư tưởng của bản thân để trả món nợ công danh cho đất nước, chứ không phải bất lực, trốn tránh như nhiều nhà nho đương thời, vì sự cố chấp, bảo thủ lạc hậu ôm khư khư quan niệm Nho học đã lỗi thời để than khóc, xót thương. Quan niệm chí làm trai ấy của Phan Bội Châu lại càng được bộc lộ rõ trong câu thơ tiếp theo “Há để càn khôn tự chuyển dời”. Câu thơ ấy đã bộc lộ sự mạnh mẽ, ý chí quyết đoán, thách thức cả vũ trụ, thể hiện tầm vóc to lớn của nhà thơ trước cán cân tạo hóa, Phan Bội Châu khẳng định vận mệnh của bản thân phải do chính bản thân mình nắm giữ, đồng thời ý thơ còn chỉ ra tráng chí, lý tưởng thay đổi “càn khôn” của tác giả. Mà thực tế “càn khôn” ở đây chung quy vẫn là chỉ đến sự biến động của thời cuộc, giặc Pháp xâm lược và chế độ phong kiến đổ nát, khiến đất nước lầm than, nhiễu loạn. Phan Bội Châu không can tâm, không đành lòng nhìn thấy cảnh đau thương ấy, người phải làm gì đó cho Tổ quốc, cho dân tộc chứ không phải là đứng yên bất lực hay rơi lệ xót thương.
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai”
Đến hai câu thơ tiếp theo chính là ý thức của tác giả về vai trò của bản thân khi đứng trước thời cuộc, trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. “Khoảng trăm năm” là một cụm từ rất hay mang nhiều lớp nghĩa khác nhau, trước là để ám chỉ về khoảng thời gian đầy biến động của đất nước giai đoạn cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khi giặc Pháp xâm lược, triều đình bất lực, cùng với sự nổ ra lẻ tẻ và sự thất bại của các phong trào khởi nghĩa truyền thống. Đó là khoảng thời gian khủng hoảng nhất trong lịch sử dân tộc kể từ khi đất nước giành được quyền độc lập tự chủ từ tay giặc phương Bắc năm 938. Bản thân Phan Bội Châu sinh ra đúng lúc đất nước đầy đau thương, thế nên với tư cách là một bậc đại trượng phu, ông tự ý thức được trách nhiệm của mình dành cho đất nước. Tạo hóa đã đặt con người ta vào nghịch cảnh, cuộc đời vốn chỉ có trăm năm thì cần sống sao cho ra dáng “nam nhi” để không uổng công sắp đặt của tạo hóa. Ý của Phan Bội Châu chính là như vậy. Và cụ Phan cũng không chỉ nói riêng hay đặt ra kỳ vọng, lý tưởng cứu quốc, tạo lập công danh cho chính bản thân mình, mà với ông “khoảng trăm năm” này nó vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức cho tất cả những đấng nam nhi trong thiên hạ. Ông có một niềm hy vọng rất lớn vào các thế hệ mai sau, câu hỏi ngỏ ấy chính là lời khích lệ, động viên sâu sắc đến nhiều thế hệ thanh niên trong nước, khuyến khích họ tự tạo dựng một lý tưởng cao đẹp, mạnh mẽ xông pha để trả mối nợ công danh cho nước non, cho dân tộc. Phan Bội Châu đã bước những bước đi đầu tiên đầy khó khăn, nhưng tràn đầy tráng chí quyết tâm và hy vọng về một tương lai khởi sắc, vực dậy đất nước, nhưng sau trăm năm của ông, ai sẽ là người tiếp tục con đường ấy, Phan Bội Châu cần những người cộng sự, những người tiếp nối, để biến lý tưởng cách mạng ấy thành sự thật.
“Non sông đã mất sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”
Đến hai câu thơ luận, người ta mới lại càng thấy được nhân cách văn hóa cao đẹp của Phan Bội Châu, chứng minh cho nhận định rằng cụ Phan là một nhà nho tiến bộ, một nhà văn hóa có tiếp cận đa chiều, đa diện, sự cách tân và bắt kịp xu thế của thời đại đầu thế kỷ XX. Như đã nói qua, các phong trào yêu nước truyền thống thất bại thảm hại mà đặc biệt là phong trào Cần Vương khiến các nhà nho yêu nước nhụt chí và thất vọng, thì trái lại Phan Bội Châu lại bước ra từ chính đống đổ nát ấy, rút kinh nghiệm tiếp thu nền văn hóa tư bản và trở thành người tiên phong cứu nước theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đó là một bứt phá lớn. Cụ nhận thức rất rõ tình trạng của đất nước “non sông đã chết” đó là cái chết của một chế độ, một triều đại phong kiến vốn dĩ đã suy sụp từ hàng trăm năm nay, khi mà cả vua lẫn quan ai nấy đều hèn nhát, sợ sệt chỉ ham vinh hoa phú quý mà chấp nhận để kẻ thù chà đạp đất nước. Một đất nước không có chủ quyền, không có tự do, và một bộ máy bù nhìn thì chẳng phải đã “chết” hay sao. Và với một nhà nho yêu nước, một con người ngay thẳng sự khom mình ấy của triều đình, sự đớn đau của dân tộc, sự ngang tàn của bọn thực dân quả thực là một nỗi nhục nhã khôn cùng. “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”, chính là nhận thức của Phan Bội Châu về sự lỗi thời và lạc hậu của nền Nho học. Bằng tư duy phóng khoáng, sự lỗi lạc của mình, ông nhận ra trong giờ phút này Tam tự kinh, Luận ngữ hay các triết lý Nho học không thể đấu lại với súng đạn của kẻ thù, không thể vực dậy đất nước bằng lối tư duy cứng nhắc, thiếu linh hoạt ấy nữa. Với tư cách là một nhà nho chính thống, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, đó là một nhận thức vô cùng phũ phàng và đau đớn. Nhưng không chìm đắm trong bất lực, bế tắc như nhiều nhà nho đương thời, Phan Bội Châu đã sẵn sàng từ bỏ những gì mình gắn bó bao nhiêu năm trời để tiến đến với một tư tưởng mới, đặt những bước đi đầu tiên trên con đường cứu nước theo khuynh hướng tư bản. Thậm chí về sau này, Phan Bội Châu sau khi bị giam lỏng ở Huế, sau thất bại với phong trào Đông Du, cụ lại cũng nhận thức và có những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội qua tư tưởng Mác Lê-nin.
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”
Sau những câu thơ mang đậm tính chất chính trị, lý tưởng cao đẹp thì đến hai câu thơ cuối chất trữ tình lãng mạn cách mạng trong thơ của tác giả được thể hiện khá rõ. “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió” chính là thể hiện khát vọng lý tưởng của tác giả khi đến một vùng đất mới với hy vọng học hỏi được những kiến thức bổ ích mang về phụng sự cho đất nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ, lầm than. Ở đó tầm vóc, tráng chí của người anh hùng được thể hiện một cách bay bổng và phóng khoáng, bộc lộ sự tự do, niềm vui sướng, hoài bão to lớn mà Phan Bội Châu ôm ấp khi lên đường sang Nhật. Cảnh tượng “Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”, mang đến cho người đọc khung cảnh kỳ vĩ của thiên nhiên trong ngày người chí sĩ ra đi, thể hiện tầm vóc lớn lao, tâm hồn cao đẹp, kiêu hãnh, hùng tráng của người ra đi nổi bật hẳn lên trên cái nền sóng nước, mây trời.
Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ hay và đặc sắc của Phan Bội Châu thể hiện rõ khuynh hướng trữ tình chính trị trong thi ca của một nhà nho tiên tiến, người mở đường cho cách mạng Việt Nam theo khuynh hướng mới, dù không thành công, nhưng nó đã trở thành tiền đề, bài học kinh nghiệm sâu sắc cho lớp người đi sau, tiêu biểu là Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã bộc lộ nhân cách cũng như lý tưởng cao đẹp của Phan Bội Châu trong thời kỳ đất nước có nhiều biến động, đồng thời cũng là lời động viên sâu sắc, sự khích lệ đối với nhiều tầng lớp thanh niên Việt Nam đứng dậy đấu tranh và hành động vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, đánh đuổi ngoại xâm.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 6
Phan Bội Châu (1867-1940), quê tại Làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, ngay từ nhỏ ông đã thể hiện là mình là một người tài hoa xuất chúng, lại sớm có lòng yêu nước và ý thức về việc giải phóng dân tộc. Phan Bội Châu cũng là một người mang quan niệm nhập thế tích cực vô cùng sâu sắc, nặng lòng với nghiệp công danh cùng món nợ của phận nam nhi. Ông tham gia tích cực vào nhiều phong trào chống Pháp và sau nhiều lần thất bại cuối cùng ông đã nhận thức được sự sai lầm, yếu kém trong phong cách tổ chức của các phong trào yêu nước thời bấy giờ, từ đó đề ra chủ trương cứu nước theo con đường tư sản. Ông nung nấu ý định cho các thanh niên ưu tú của nước nhà sang các nước như Nhật Bản, Trung Quốc để học hỏi rồi trở về giúp đỡ đất nước, còn gọi là phong trào Đông Du, với tên gọi tổ chức là Duy Tân hội. Sự tiến bộ trong tư tưởng cứu quốc của Phan Bội Châu dường như đã mở ra một con đường sáng cho cách mạng Việt Nam thời kỳ đầu, vào những năm cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, dẫu rằng kết quả không như mong đợi. Bên cạnh vai trò là một nhà hoạt động cách mạng xuất sắc, có nhiều đóng góp to lớn trong công cuộc giải phóng đất nước thì Phan Bội Châu còn được biết đến với tư cách là một nhà thơ, nhà văn lớn trong nửa đầu thế kỷ 20, với số lượng tác phẩm lớn, được xem là người mở đầu cho nền văn học cách mạng Việt Nam, mà sau Tố Hữu chính là người đưa nó bước tới đỉnh cao. Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Phan Bội Châu, nó không chỉ đơn thuần là một bài thơ thể hiện lý tưởng cách mạng của chí sĩ yêu nước, mà còn đánh dấu mốc quan trọng mở đầu công cuộc tìm đường cứu nước theo chủ nghĩa tư bản của nhà thơ.
Lưu biệt khi xuất dương được viết vào năm 1905, trước khi Phan Bội Châu cùng một số thanh niên ưu tú khác lên tàu vượt biển sang Nhật Bản học tập. Tác phẩm có ý nghĩa động viên, cổ vũ tinh thần cho người ra đi, đồng thời cũng có tác dụng củng cố tinh thần, niềm tin, hướng người ở lại về một tương lai tốt đẹp hơn, sáng lạn hơn của đất nước. Thể hiện được rõ chí khí làm trai của một nhà nho, với tinh thần yêu nước sâu sắc, quyết tâm trả món nợ công danh cho đời khi Tổ quốc lâm nguy, lịch sử có nhiều biến động.
Trong hai câu thơ đầu tác giả đã thể hiện rất rõ quan điểm của mình về chí làm nam nhi trong thời đại mới, một thời đại đầy biến động, buộc con người ta phải có những biến đổi về ý chí để tạo lập một con đường riêng cho bản thân và cho dân tộc, đất nước mà vẫn giữ được khí tiết của một nhà nho chân chính, trong vai trò một nhà cách mạng sôi nổi.
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Phan Bội Châu quan niệm rằng thân nam nhi “vai năm tấc rộng, thân mười tấc cao” sống ở trên đời phải tạo ra được chữ “lạ” cho riêng mình, tức là không cam chịu cuộc sống bình thường mờ nhạt, quanh quẩn bên chốn “ao tù nước đọng”, mà phải tự làm cho mình có điểm nhấn, nổi bật thông qua những lý tưởng cao đẹp, những ước mơ và kỳ vọng lớn, tráng chí ở bốn phương. Người nam nhi phải dám tự thách thức bản thân mình vượt ra khỏi cái vòng an toàn, vượt qua được chướng ngại chi ly, được mất, vượt ra khỏi mọi giới hạn khuôn phép một cách mạnh mẽ và dũng cảm, để đạt được những thành công lớn, làm nên sự nghiệp hiển hách, phi thường, khác lạ mà hiếm kẻ làm được. Để “thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt/Còn hơn le lói suốt trăm năm”, để cuộc đời nam nhi sống sao cho xứng với hai chữ “nam nhi”, có cống hiến cho cuộc đời, trả cho kỳ được món nợ công danh, chớ để hoài phí một cuộc đời mờ nhạt vô nghĩa. Cái quan niệm về chí làm trai trong thời đại mới của Phan Bội Châu tiếp tục được làm rõ thông qua câu “Há để càn khôn tự chuyển dời”. Thể hiện ý chí mạnh mẽ, thái độ hiên ngang, ý muốn thách thức, ngang tầm với vũ trụ, rằng thân trai tráng cần phải nắm chắc và tự quyết định lấy vận mệnh cuộc đời một cách quyết liệt và mạnh mẽ. Chứ không phải là ý muốn cuộc sống an nhàn, chấp nhận sự sắp đặt của tạo hóa, bộc lộ khẩu khí mạnh mẽ, ngang tàn của bậc đại trượng phu, mang khí thế tự tin, táo bạo và hiên ngang vô cùng. Ý thơ của Phan Bội Châu không chỉ nằm ở việc thể hiện tráng chí của bản thân mà bên cạnh đó còn mang ý nghĩa khích lệ các thanh niên trong thời đại mới, biết đứng lên tự lực, tự cường, theo đuổi lý tưởng cao đẹp, phụng sự cho Tổ quốc, nâng tầm vóc của bản thân mình ngang tầm vũ trụ, tạo hóa, rũ bỏ cuộc đời tầm thường, quanh quẩn ao vườn, ruộng cá, để kiến thân lập nghiệp.
Trong hai câu thơ tiếp “Trong khoảng trăm năm cần có tớ/Sau này muôn thuở há không ai” chính là nhận thức của tác giả về trách nhiệm của người làm trai với đất nước, dân tộc, là món nợ công danh cần phải đáp đền. Đặc biệt là trong thời buổi lịch sử dân. tộc có nhiều biến đổi, giặc dữ lăm le xâm phạm chủ quyền thì thanh niên lại càng phải biết đứng ra phụng sự cho Tổ quốc. Tác giả đã vẽ ra khoảng thời gian “trăm năm”, trước là ngụ ý chỉ về một kiếp người như quan niệm của ông cha ta từ bao đời nay, một đời tức chỉ trăm năm. Thứ hai nữa khoảng thời gian trăm năm còn là để gợi nhắc về một thế kỷ biến động của dân tộc, thế sự đã biết bao lần đổi thay, sự suy tàn của chế độ phong kiến, sự xâm lược của đế quốc phương Tây khiến nhân dân biết bao phen lầm than. “Trong khoảng trăm năm cần có tớ” là ngụ ý của tác giả về tầm quan trọng của bản thân trong công cuộc phục hưng, bảo vệ đất nước. Mà người làm trai, sức dài vai rộng trong giữa sự sắp đặt của tạo hóa, đã ban cho ta một khoảng thời gian đầy biến động, thì bản thân người chí sĩ phải làm sao cho xứng với sự kỳ vọng của tạo hóa, cũng như xứng đáng với cái danh nam nhi của mình. Nếu như câu trước là khẳng định tầm quan trọng của đấng nam nhi trước thời cuộc, là sự nhận thức về lý tưởng cũng như vai trò của bản thân với đất nước thì câu thơ “Sau này muôn thuở há không ai?” lại là một câu hỏi ngỏ, thể hiện sự kỳ vọng, cũng như sự khích lệ của tác giả đối với tầng tầng lớp lớp các thế hệ thanh niên và mai sau nữa. Phan Bội Châu đã dùng chính tráng chí, lý tưởng cao đẹp của mình làm tấm gương sáng, cũng như đặt những bước chân đầu tiên cho con đường cách mạng tiên tiến của dân tộc, của thanh niên Việt Nam. Thức tỉnh trong họ những nhận thức về tinh thần cách mạng, lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm của người thanh niên, và sự tự tin sẵn sàng đối mặt với sóng gió của bậc đại trượng phu.
Đến hai câu thơ luận, Phan Bội Châu lại cho chúng ta thấy tầm nhận thức tân tiến của một nhà nho yêu nước, một nhà cách mạng kiểu mới trước tình hình dân tộc, trước sự suy thoái của chế độ phong kiến và nền nho học đang dần mất đi vị thế vốn có của mình.
“Non sông đã mất sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”
“Non sông đã chết” đó là cái chết của chủ quyền dân tộc, chủ quyền lãnh thổ và sự suy tàn của chế độ phong kiến, đất nước lầm than thế nhưng bọn đầu sỏ cầm quyền, những con người đứng đầu một đất nước lại sợ sệt, chỉ dám luồn cúi, nịnh bợ đám giặc Tây để níu kéo những ngày tháng gấm vóc lụa, là hữu danh vô thực, còn mặc kệ số phận dân tộc và đất nước. Một đất nước nhưng không có chủ quyền, không có tự do, triều đình phong kiến chỉ là một mớ bù nhìn, thối nát tận xương thì còn cách bên bờ diệt vong là mấy bước chân nữa đâu. Thế nên tác giả nói “non sông đã chết” cũng chẳng có gì là không đúng, đặc biệt một người với tráng chí, với tinh thần yêu nước mạnh mẽ như Phan Bội Châu thì đứng trước viễn cảnh ấy thì quả thật là nhục nhã khôn cùng. Đến câu thơ sau “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”, người ta lại càng khâm phục cái nhân cách và nhận thức của Phan Bội Châu. Bởi vốn dĩ Phan Bội Châu là một nhà nho chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ từ nền giáo dục phong kiến từ thuở thiếu thời, thế nhưng ông không như một số những nhà nho cố chấp ôm khư khư giấc mộng hão huyền về việc phục hưng những thứ vốn đã cũ kỹ, lạc hậu mà trái lại ông lại chính là một trong những người đầu tiên nhìn thẳng vào vấn đề, bóc trần sự tụt hậu của nho học, vạch rõ nguyên nhân khiến đất nước lâm vào tình trạng yếu hèn. Không phủ nhận rằng Nho học quả thực là một kho tàng rộng lớn, mang đến cho con người sự giáo dục tốt đẹp, thế nhưng nhìn vào bối cảnh hiện tại nó chỉ đem đến những sự ảo vọng không có thực, không có ích trong việc diệt giặc thù, giành lại chủ quyền dân tộc. Việc phủ nhận nền Nho học vốn đã gắn bó với mình bao nhiêu lâu ấy quả thực là nỗi đau xót vô cùng lớn của tác giả, nhưng với nhân cách cũng như lý tưởng cao đẹp và lòng quyết tâm của một chí sĩ yêu nước, thì không nỗi đau nào vượt qua được nỗi đau mất nước. Mà với tư cách người làm trai, ông lại càng phải thể hiện vai trò phục hưng Tổ quốc bằng con đường tiên tiến chứ không phải là ôm mãi giấc mộng huy hoàng đã qua. Từ đó ta thấy được tâm hồn phóng khoáng, mạnh mẽ và tự do của một chí sĩ yêu nước chân chính, sẵn sàng hy sinh tất cả, nén nhịn nỗi đau cá nhân vì lợi ích của dân tộc, của đất nước, để hoàn trả món nợ công danh.
Cuối cùng ở hai câu thơ kết “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” chính là hình ảnh người chí sĩ yêu nước lên đường vượt biển xa quê hương để tìm tới chân trời mới, học hỏi những kiến thức mới để quay về phụng sự cho Tổ quốc, dân tộc với phong thái hiên ngang và tự tin vô cùng. Những hình ảnh “bể Đông”, “muôn trùng sóng bạc” đã gợi ra một bối cảnh không gian rộng lớn, khoáng đạt, thể hiện tâm hồn yêu đời, cùng những khát vọng, lý tưởng cao lớn muốn vươn ra biển lớn của người chí sĩ. Tầm vóc con người trở nên kì vĩ, lớn lao nổi bật hẳn trên cái nền của thiên nhiên bởi sự kiêu hãnh, tráng chí hùng mạnh bên trong tâm hồn nhân vật trữ tình.
Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ hay, có nội dung và ý nghĩa lớn, không chỉ bộc lộ những khát vọng, lý tưởng cao đẹp của một nhà hoạt động cách mạng thời đại mới, mà còn là lời động viên khích lệ, khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, cũng như thức tỉnh sự tự tin, lý tưởng và khát vọng cao đẹp của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh đất nước có nhiều biến động. Có thể nói rằng Lưu biệt khi xuất dương là một trong những bài thơ mang khuynh hướng trữ tình cách mạng đầu tiên, khơi nguồn cho nền văn học cách mạng của dân tộc đạt đến đỉnh cao về sau này.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 7
Phan Bội Châu (1867-1940), ôi cái tên đẹp một thời. “Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại” (Tôn Quang Phiệt). Phan Bội Cháu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quôc khoảng 25 năm đầu thế kỉ XX.
Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tình yêu nước. "Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng" (Tố Hữu).
Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ Năm 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tố chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông du. Theo chủ trương của Duy Tân hôi do chính ông sáng lập, ông bắt đầu sang Nhật để tìm đường cứu nước.
Bài thơ “Xuất dương lưu biệt” ông làm tặng các đồng chí trong buổi đầu lên đường. Có thể nói bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sư nghiệp giải phóng dân tộc của nhà chí sĩ Phan Bội Châu. “Xuất dương lưu biệt” được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước. Hai câu để là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sông cao cả:
“Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”
Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên “điều lạ” (yêu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường. Không thể sống một cách thụ động cho trời đất (càn khôn) “tự chuyển dời” một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi, tự tin ở mức độ, tài năng của mình muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyến trời đất, như ông đã nói rõ trong một bài thơ khác:
“Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù”.
Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạnh vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu, ta mới cảm nhận được cái khẩu khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cổ:
“Mỗi phận bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương”
(“Tùy viên thi thoại" - Viên Mai)
(Bữa bữa những mong ghi sử sách,
Lập thân xoàng nhất ấy văn chương).
Đấng nam nhi muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời ấy có một “bầu máu nóng" sôi sục: “Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đèn những chỗ nói người xưa chịu thuế để thành dạo nhân, nước mắt lại đầm đìa nhỏ xuống ướt đẫm cả giấy...” (Ngục trung thư). Phần thực, ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:
“Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
“Ngã” là ta: “tu hữu ngã” nghĩa là phải có ta trong cuộc đời “một trăm năm ” (bách niên trung). Câu thơ khẳng định, biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. “Thiên tải hậu” nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không cố ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định.
Đó là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử: "... Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”. ("Hịch tướng sĩ' - Trấn Quốc Tuấn).
"... Nhân sinh tự cổ thày vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.
(Văn Thiên Tường)
Lấy cái hữu hạn “bách niên” của một đời người đối với cái vô hạn “thiên tải" của lịch sử dân tộc. Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và nguy hiểm, ông vẫn bất khuất, lạc quan:
“Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiềm sợ gi đâu!”
(“Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông")
Phần luận, tác giả nói về sống và chết, nói về công danh. Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm dài đen tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại xâm chiếm, giày xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử xôi kinh, có chúi đầu vào con đường khoa cử cũng vô nghĩa. Sách vở của “thánh hiền” liệu còn có ích gì trong sự nghiệp cứu nước cứu nhà:
“Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài”.
Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước hết. Ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành, ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong bài “Bài ca chúc tết thanh niên” viết vào dịp Tết năm 1927, Cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:
“Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ...”
Sống như thế là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên “điều lạ' ở trên đời, mới tự khẳng định được: “Trong khoảng trăm năm cần có tớ”. Phần luận là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm màu sắc lãng mạn:
“Nguyện trục đường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”.
Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, khêu gợi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bài ca ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sôi sục nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết là một ví dụ hùng hồn: "Trường phong” (ngọn gió dài), “thiên trùng bạch lãng” (ngàn lớp sóng bạc), là hai hình tượng kì vĩ.
Chí khí của người chiến sĩ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ “nguyện trục” (mong đuổi theo) và “nhất tề phi” (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là “Đông hải”. Nếu hai thanh trắc cuối câu 7 (Đông hải khứ) làm cho ám điệu thắt lại thì hai thanh bằng cuối câu 8 (nhất tề phi) lại làm cho âm điệu cất lên, bay lên.
Âm hưởng bổng trầm ấy cũng góp phần thề hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của Phan Bội Châu, ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí của người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đã nói ở hai câu kết.
“Xuất dương lưu biệt” là bài thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng. Tráng lệ nhất là hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 8
Phan Bội Châu (1867 – 1940), ôi chiếc tên đẹp 1 thời. “Chúng ta có thể kể rằng trong lịch sử phóng thích dân tộc của quần chúng. # Việt Nam, trước chủ toạ Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là 1 nhân vật vĩ đại" (Tôn quang quẻ Phiệt). Phan Bội Châu là vong hồn của các phong trào di chuyển giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỉ XX. tiếng tăm ông gắn liền với các công ty yêu nước như Hội Duy tân, phong trào Đông du, Việt Nam quang quẻ phục hội,… tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền có hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan ái tình nước. “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng” (Tố Hữu).
Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ. Năm 1904, ông sáng lập ra Hội Duy tân, 1 doanh nghiệp yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông du. Trước lúc xuất hành Đông du, qua Trung Hoa, Nhật Bản để cầu ngoại viện có bao hoài bão tung hoành, ông để lại đồng chí bài thơ "Xuất dương lưu biệt ". sở hữu thể kể bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp phóng thích dân tộc của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.
"Xuất dương lưu biệt" được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú đường luật, là khúc ca biểu thị tư thế, cố gắng hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.
– hai câu đề là 1 tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:
“Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”.
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời).
kiêu hãnh mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn khiến cho nên "điều lạ" (yếu hi kì). Suy rộng ra, là chẳng thể sống tầm thường. không thể sống 1 cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) "tựchuyển dời" 1 phương pháp vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ miêu tả một tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ, hào kiệt của mình, muốn làm nên sự nghiệp to to, xoay chuyển trời đất, như ông đã đề cập rõ trong một bài thơ khác:
"Dang tay ôm chật bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù ".
Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng khôn xiết sôi nổi của Phan Bội Châu, ta mới cảm nhận được dòng khẩu khí anh hùng cửa nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm cho nên "điều lạ" ở trên đời, từng nấu nung và tâm niệm theo một vần thơ cổ:
"Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương".
("Tuỳ viên thi thoại” – Viên Mai)
(Bữa ăn những mong ghi sử sách,
Lập thân xoàng nhất ấy văn chương).
Đấng nam nhi muốn khiến nên "điều lạ" ở trên đời đó sở hữu 1 "bầu máu nóng" sôi sục: "Tôi đựơc trời phú cho bầu nhiệt huyết cũng ko đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi lúc đến các chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt lại giàn giụa nhỏ xuống ướt sũng cả giấy,… ” (Ngục trung thư)
– Hai câu trong phần thực, ý thơ được mở mang, tác giã tự khẳng định vai trò của mình trong thị trấn hội và trong lịch sử:
"Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khẩn thiên tải hậu cánh vỏ thuỳ”.
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?)
"Ngã” là ta; “tu hữu ngã nghĩa là phải mang ta trong cuộc thế “một trăm năm” (bách niên trung). Câu thơ khẳng định và biểu đạt niềm kiêu hãnh lớm lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. ‘‘Thiên vận chuyển hậu” ngàn năm sau, là lịch sử của quốc gia và dân tộc há lại không mang người nào (để lại tên tuổi) ư? hai câu 3, 4 đối nhau, lấy loại phủ định để làm cho vượt bậc điều khẳng định. Đó là 1 ý thơ sâu sắc diễn tả vai trò cá nhân trong lịch sử: sãn sàng đảm nhận mọi nghĩa vụ mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tường vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử: "… "Dẫu cho thoa thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xúc này
Gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”
("Hịch tưởng sĩ" -Trần Quốc Tuấn)
-… "Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử,
Lưm thủ đan tâm chiếu hãn thanh ”.
(Văn Thiên Tường)
Lấy mẫu hữu hạn "bách niên" của 1 đời người đối với loại vô biên "thiên tải" của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu dà tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu đạt 1 nỗ lực và khát vọng trong buổi xuất hành. vì vậy, trên bước trục đường cách mạng phóng thích dân tộc, trải qua muôn ngàn thử thách và hiểm nguy, ông vẫn bất khuất, lạc quan:
"Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!"
("Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông")
– Phần luận, tác nhái kể về sống và chết, nhắc về công danh. Đây là 1 ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc các năm dài khuất tất dưới ách thống trị của thực dân Pháp. khi sông núi đã chết, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu, sở hữu sống cũng nhơ nhuốc điếm nhục. Trong tình cảnh ấy sở hữu nấu sử sôi kinh, với chúi đầu vào đường khoa cử cũng vô nghĩa. Sách vở của "Thánh hiền" liệu còn bổ ích gì trong sự nghiệp cứu nước, cứu nhà:
"Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cùng hoài".
Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ phóng thích dân tộc lên trước tiên. Ông đề cập bằng đa số máu nóng và tình thật, ông kể nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phái hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong "Bài ca chúc Tết thanh niên" viết vào dịp Tết năm 1927, Cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:
"Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…"
Sống như thế là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm cho nên "điều lạ" ở trên đời, mới tự khẳng định được: "Trong khoảng thoa năm cần với tớ".
– Phần kết là sự kết tinh của 1 hồn thơ bay bổng đượm màu sắc lãng mạn: "
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi".
(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)
Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, khích lệ lòng yêu nước, khêu gợi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành các bài ca ái quốc vì thấm đượm xúc cảm, sôi sục máu nóng, mang đa dạng hình tượng đẹp nhắc về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. hai câu kết là một tỉ dụ hùng hồn: "trường phong’ngọn gió dài), "thiên trùng bạch lãng" (ngàn lớp sóng bạc), là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sĩ cách mạng được thể hiện qua những vị ngữ "nguyện trục" (mong đuổi theo) và "nhất tề phi" (cùng bay lên). dòng ko gian mông mênh mà nhà chí sĩ mong vượt qua là "Đông hải". nếu như 2 thanh trắc cuối câu 7 (Đông hải khứ) khiến âm điệu thắt lại, nén lại thì 2 thanh bằng cuối câu 8 (nhất tề phi) lại làm âm điệu đựng lên, bay lên. Âm hưởng bổng trầm đấy cũng góp phần biểu hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của Phan Bội Châu. Ở đây nội lực, bản lĩnh đương đầu và khẩu khí của người đội viên có sự hoà hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mệnh của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đã kể ở 2 câu kết bài thơ này.
"Xuất dương lưu biệt" là bài thơ kiệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là ngôn ngữ tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng. hoa lệ nhất là 2 câu kết. Bài thơ mô tả một cách thức sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vì đại Phan Bội Châu.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 9
Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” chính là lời từ biệt ra đi tìm đường cứu nước của người cách mạng Phan Bội Châu. Nó đã thể hiện chí khí của thời đại những năm đầu thế kỉ XX, khí phách của người anh hùng. Cả bài thơ đã khắc họa nét đẹp lãng mạn của người anh hùng với khí phách thời đại: có chí khí lớn lao và táo bạo, dám đối đầu với đất trời, vũ trụ để khẳng định bản thân. Ngoài ra Phan Bội Châu còn đặt đến vấn đề của thực tại lúc bấy giờ. Khi đất nước lâm nguy, thì mỗi người công dân phải có trách nhiệm và thái độ không cam chịu, dám ra đi để tìm chân lý mới.
“Lưu biệt khi xuất dương” của Phan Bội Châu được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Vốn dĩ là một thể thơ cổ điển nhưng vẫn có những nét mới mẻ thể hiện cái đặc sắc trong nghệ thuật của Phan Bội Châu. Điều đó được thể hiện qua âm hưởng và giọng điệu của bài thơ. Nếu cảnh chia ly thường mang âm hưởng buồn, thì với bài thơ này, giọng điệu lại mang vẻ hào hùng lãng mạn và hăm hở trào dâng. Ngoài ra tác giả còn sử dụng những hình ảnh mang ý nghĩa kì vĩ, lớn lao. Những câu thơ mang đậm nét lãng mạn, sử thi với cảm hứng dạt dào, trở thành mạch cảm xúc xuyên suốt của bài thơ.
Phan Bội Châu nhà yêu nước, anh hùng giải phóng dân tộc nổi tiếng trong lịch sử hiện đại Việt Nam, Phan Bội Châu chính là người khởi xướng các phong trào giải phóng Tổ quốc trong những năm đầu thế kỉ XX như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tên tuổi của ông cũng nổi tiếng với nhiều bài thơ, cuốn sách, bài văn tế…Phan Bội Châu luôn mang trong mình lý tưởng, khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước dân chủ tiến bộ.
“Lưu biệt khi xuất dương” được viết bằng chữ Hán, thể thất ngôn bát cú Đường luật, bài thơ thể hiện vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng trong đầu thế kỉ XX : táo bạo, nhiệt huyết lý tưởng giải phóng dân tộc luôn dâng cao. Ông đã cho người đọc thấy được không khí cách mạng sục sôi giai đoạn đầu thế kỉ XX của những con người yêu nước và tiến bộ của nước nhà.
Mở đầu bài thơ như là một tuyên ngon lí tưởng:
“Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.”
Làm trai trong trời đất không thể sống tầm thường, không được sống thụ động cho trời đất “tự chuyển dời”. Câu thơ mở đầu đã thể hiện tư thế, ý chí nam nhi, tài năng của người cách mạng mong muốn làm nên sự nghiệp lớn, xoay chuyến trời đất.
Tiếp tục bài thơ tác giả khẳng định:
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai ?)
Tác giả đã khẳng định mạnh mẽ và đầy khí phách về sức mạnh con người trước càn khôn. Sự đề cao cái Tôi của nhà thơ chính là khẳng định trách nhiệm của người thanh niên yêu nước đối với vận mệnh dân tộc. Câu thơ cũng làm cho nhiều người tỉnh ngộ và khơi gợi sự tinh thần đấu tranh. Tác giả Phan Bội Châu như muốn ra sức kêu gọi sự tranh đấu của những con người yêu nước.
Những đoạn thơ đầu tiên tác giả đã khẳng định chí nam nhi, đoạn sau nói về trách nhiệm của nam nhi:
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si
(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài !)
Khi đất nước đang bị xâm lăng, non sông đã chết, ta sống chỉ thêm sự nhục nhã, đau đớn. Trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, người học có vùi mài kinh sử cũng trở nên vô nghĩa. Vào thời điểm đó, ý muốn ra đi tìm đường cứu nước là lí tưởng của thời đại. Câu thơ trên không có ý chê bai việc học mà chỉ có ý khuyên con người ta phải sống với thời cuộc trước mắt. Câu thơ trên còn thể hiện nỗi đau của tác giả khi mà đất nước suy tàn, dân chúng lầm than, đạo đức xã hội xuống cấp đã khiến con người có trách nhiệm với dân tộc nhìn thấy mà lòng quặn đau.
Đoạn kết của bài thơ Lưu biệt khi xuất dương đã thể hiện quyết tâm, ý chí , hi vọng lớn của tác giả trên con đường mình đã chọn:
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)
Giọng thơ sục sôi, tràn đầy hi vọng và quyết tâm đi đến nước Nhật để tìm con đường cứu nước. Hình ảnh kết thúc bài thơ vô cùng mạnh mẽ, hào hùng, đó là sự khí phách của con người bắt kịp với thời đại mới. Với hi vọng về ngay mai tươi sáng hơn.
Bài thơ giọng điệu hào hùng, từ ngữ hấp dẫn là một bài ca hào hùng về chí làm trai nguyện dấn thân mình vào sự nghiệp cứu nước của dân tộc. Bài thơ mãi là tấm gương mà người đời luôn noi theo.
Với phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương sẽ là các gợi ý quan trọng giúp các bạn viết văn điểm cao. Chúc các bạn có kết quả cao.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 10
Những năm đầu thế kỉ XX, trong lúc đất nước Việt Nam mất đi chủ quyền, phong trào Cần Vương thất bại thì tư tưởng dân chủ tư sản đã thổi một luồng gió mới đến các thanh niên yêu nước. Họ tìm thấy những lí tưởng mới mẻ và ra đi với một niềm tin mạnh mẽ vào dân tộc. Một trong những nhà cách mạng đã có cuộc ra đi hào hùng như vậy là Phan Bội Châu. Trước khi lên đường sang Nhật Bản, ông đã viết bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” như một lời từ biệt. Đây là một bài thơ đặc sắc trong kho tàng văn thơ của Phan Bội Châu.
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Hai câu đầu mở ra một quan niệm mới về chí làm trai và vị thế của con người trong xã hội. Đã làm nam nhi thì phải sống thật phi thường, hiển hách, dám mưu đồ sự nghiệp, dám xoay chuyển “càn khôn”, dám chủ động đương đầu với thử thách chứ không sống thụ động, tẻ nhạt và tầm thường. Con người phải khẳng định được vị trí của mình trong cuộc đời chứ không đầu hàng trước số phận. Cũng giống như Nguyễn Công Trứ từng dõng dạc: “Làm trai đứng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Như vậy, Phan Bội Châu đã bộc lộ một tư tưởng, một lẽ sống cao đẹp và tiến bộ. Từ đó tác giả ý thức:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?”
Quan niệm mới đã hình thành nên ý thức cá nhân gắn với một “cái tôi” đầy trách nhiệm trước thời thế. Nhà thơ khẳng định về sứ mệnh cao cả, thiêng liêng của mình giữa cuộc đời, ý thức sâu sắc và trách nhiệm lớn lao của bản thân. Không phải chỉ sống một cuộc sống nhạt nhòa, bình lặng mà phải sống cống hiến, hiên ngang, hiển hách để ghi lại tên tuổi với hậu thế. Câu thơ thứ tư phủ định chính là để khẳng định dứt khoát hơn về lẽ sống của mình. Những hình ảnh thơ to lớn, kỳ vĩ như “càn khôn”, “trăm năm”, “muôn thuở” đã góp phần làm nổi bật lên khát khao sống, cống hiến của tác giả.
Không chỉ ý thức được trách nhiệm của mình, Phan Bội Châu còn bộc lộ thái độ kiên quyết của mình trước thời cuộc:
“Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài”
Bằng tình yêu nước cháy bỏng và đôi mắt tinh tế của mình, Phan Bội Châu đã nhận thức rõ hơn về tình hình đất nước lúc bấy giờ. Lẽ vinh – nhục được đặt ra như một nỗi đau đáu của người nam nhi trước tình cảnh nước mất, nhà tan. Cũng như những nhà cách mạng khác, ông cũng trăn trở về con đường tương lai của dân tộc, phải làm sao để cứu được đất nước. Ông đã tỉnh táo nhận ra thực tế: đất nước mất đi chủ quyền, “hiền thánh” cũng không thể làm gì được. Ở câu này, bản dịch thơ chưa sát lắm so với nguyên tác. Bản nguyên tác đã nói lên thái độ dứt khoát, mạnh mẽ của Phan Bội Châu: “Thánh hiền đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi!”. Không phải ông hoàn toàn mất niềm tin ở học vấn Nho giáo nhưng ông đã sáng suốt nhìn nhận được những hạn chế của nó. Đó một phần là nhờ vào sự ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản được truyền vào nước ta. Đứng trước tình hình đó, Phan Bội Châu đã dấy lên những khát vọng cuồng nhiệt, quyết liệt:
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”
Hai câu thơ cuối đã vẽ ra tư thế hiên ngang, hào hùng và không kém phần lãng mạn của người ra đi tìm đường cứu nước. Những hình ảnh thơ lớn lao, kì vĩ liên tục xuất hiện: “bể Đông”, “cánh gió”, “muôn trùng sóng bạc”,… đã góp phần tô đẹp tư thế và khát vọng của con người buổi lên đường. Tuy nhiên, ở bản dịch thơ vẫn chưa làm nổi bật được hết vẻ đẹp của bức tranh này. “Tiễn ra khơi” chỉ là một cuộc đưa tiễn bình thường như bao cuộc đưa tiễn khác, “Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên” mới thể hiện đầy đủ và trọn vẹn một bức tranh hoành tráng với hình tượng trung tâm là con người, xung quanh là vũ trụ rộng lớn cùng chắp cánh cho ước mơ của con người. Trên thực tế, đây là cuộc ra đi khá lặng lẽ, bí mật, nhưng qua bài thơ, tác giả đã thể hiện một tư thế hết sức hiên ngang, tự tin vào tiền đồ của đất nước. Đó được xem là một hình ảnh đẹp trong văn học, một hình ảnh vừa giàu chất sử thi lại vừa hòa quyện với cảm hứng lãng mạn.
Bài thơ được đánh giá là một trong những thi phẩm có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Không chỉ với tư tưởng và quan niệm mới mẻ mà còn những nét nghệ thuật đặc sắc. Thi phẩm được viết với thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật phù hợp với việc “nói chí” của Phan Bội Châu. Hình ảnh thơ kỳ vĩ, lớn lao góp phần lột tả trọn vẹn những khát vọng hành động và ý thức trách nhiệm của tác giả. Giọng thơ linh hoạt, sôi nổi và mạnh mẽ.
Như vậy, cả bài thơ đã xây dựng được hình tượng người chí sĩ cách mạng với vẻ đẹp hào hùng lãng mạn. Bằng nhiệt huyết và tình yêu nước sâu nặng của mình, Phan Bội Châu đã không chỉ trở thành một nhà cách mạng mà còn trở thành một văn sĩ lớn của dân tộc, đáng được người đời sau tôn kính.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 11
Phan Bội Châu vốn được biết đến là một chí sĩ yêu nước, là một người lãnh đạo nhiều phong trào yêu nước. Tuy con đường mà Phan Bội Châu đang đi gặp nhiều chông gai và đến cuối cùng ông phải chịu thất bại nhưng ông vẫn là tấm gương sáng của thế hệ mai sau. Không chỉ là một người chí sĩ, Phan Bội Châu còn là một người nghệ sĩ với nhiều tác phẩm hay. Năm 1905, Hội Duy Tân của có chủ trương phong trào Đông Du, và đưa thanh niên ưu tú sang Nhật. Việc này vừa nhằm mục đích chuẩn bị lực lượng nòng cốt cho cách mạng, vừa nhằm mục đích tranh thủ sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài. Ngày trước khi lên đường, Phan Bội Châu đã làm bài thơ Lưu biệt khi xuất dương để bày tỏ quan điểm và cảm xúc của mình đối với những người đồng chí, đồng đội.
Trong bài thơ Xuất dương khi lưu biệt, Phan Bội Châu đã sử dụng ngôn ngữ thơ giàu sức lay động. Người chí sĩ cách mạng hiện lên trong thơ mang một vẻ đẹp vừa lãng mạn, vừa hào hùng. Trong buổi ra đi tìm đường cứu nước, những tư tưởng mới mẻ, táo bạo của nhà chí sĩ cách mạng được thể hiện một cách cháy bỏng. Mở đầu bài thơ, Phan Bội Châu đã khẳng định chí làm trai ở trong trời đất:
Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời
Trước đây, Nguyễn Công Trứ cũng đã từng nói về chí làm trai rằng đã làm trai ở trong trời đất thì phải có danh gì với núi sông. Giờ đây, Phan Bội Châu cũng nói về chí làm trai nhưng viết theo một cách khác mới mẻ hơn. Đó chính là làm trai thì phải làm nên được điều lạ ở trên đời. Điều lạ ở đây có thể hiểu là đứng lên chống lại kẻ thù. Làm trai thì phải chủ động chứ không nên bị động để số phận cuộc đời mình cho trời đất xoay chuyển. Đó là một lời thuyết phục thế hệ trẻ phải biết táo bạo và quyết liệt hơn nữa. Chí làm trai của Phan Bội Châu đã vượt qua cái mộng công danh xưa nay là gắn với tam cương, ngũ thường của Nho giáo. Chí làm trai của Phan Bội Châu vươn tới lí tưởng xã hội rộng lớn và cao cả.
Một phần cảm hứng ấy có lẽ cũng xuất phát từ lý tưởng trí quân, trạch dân của nhà Nho thuở trước nhưng vì mang tính chất cách mạng nên tư tưởng trở nên tiến bộ hơn. Đúng như tự nhiên, con tạo xoay vần là lẽ tự nhiên nhưng Phan Bội Châu không chấp nhận điều đó. Ông muốn xoay chuyển cả càn khôn chứ không để nó tự chuyển vần. Điều này đồng nghĩa với việc Phan Bội Châu không chấp nhận khuất phục số phận hay hoàn cảnh.
Sang đến hai câu thực, nhà thơ ý thức rõ về trách nhiệm của mình trước lịch sử, trước vận mệnh của đất nước:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai
Không chỉ đơn giản là xác nhận sự có mặt của nhân vật trữ tình ở trên đời mà câu thơ thứ ba còn hàm chứa một tâm niệm đó là sự hiện diện của tác giả trên đời không phải điều ngẫu nhiên. Chính từ ý thức đó, nhà thơ tự thấy bản thân cần phải làm những điều có ích bởi vì sau này, chắc cũng sẽ có người nối tiếp con đường mà mình đã đi.
Cái chí làm trai không chỉ là cái lý tưởng suy nghĩ ở trong lòng tác giả mà nó được tác giả đặt vào trong hoàn cảnh thực tế của lịch sử:
Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
Ở mỗi thời, có lẽ chí làm trai mỗi khác. Nếu như ở thời bình, chí làm trai là thi đỗ, làm quan thì thời chiến, sự nghiệp học hành, theo đuổi hiền thánh không còn đúng nữa. Nếu đất nước lâm nguy, rơi vào tay giặc thì việc học hành nào có ích gì. Non sông mà không còn thì sống chỉ thêm nhục. Đó là lý tưởng của con người thời đại. Đối với Phan Bội Châu, việc bây giờ là phải đánh đuổi được giặc thù. Hai câu thơ cuối đã thể hiện được khát vọng muốn vươn ra biển lớn của nhà thơ:
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi
Hình ảnh trong hai câu thơ mang tầm vũ trụ, nó khiến cho ý chí của tác giả trở nên lớn lao hơn, kì vĩ hơn. Tất cả mọi thứ cứ như hòa nhập lại và cùng nhau thăng hoa.
Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương đã có sức lay động lòng người, khích lệ tinh thần tướng sĩ lúc bấy giờ. Đây xứng đáng là một kiệt tác mà không chỉ thế hệ trước, cả thế hệ chúng ta, thế hệ sau này cũng đều rút ra được bài học cho riêng mình.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 12
Phan Bội Châu được đánh giá chính là một trong những văn sĩ đã khơi dòng chảy cho loại văn chương trữ tình – chính trị. Có thể nhận thấy được ở thơ Phan Bội Châu luôn luôn thể hiện một bầu nhiệt huyết, thơ ông luôn sục sôi của một người mà có được lí tưởng duy nhất cao đẹp. Đó chính là giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Nhắc đến Phan Bội Châu người ta không quên tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương.
Hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” đó là vào năm1904, khi mà người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đã cùng các đồng chí của mình lập ra Duy Tân hội. Thế rồi cũng sau đó một năm vào năm 1905 lúc này thì hội chủ trương phong trào Đông Du để có thể đưa thanh niên ưu tú nhất sang Nhật Bản học tập để có thể học hỏi cũng như chuẩn bị lực lượng nòng cốt cho chính nền cách mạng nước ta lúc này đây đồng thời cũng tranh thủ sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài. Thế rồi cũng chính trước lúc lên đường thì Phan Bội Châu đã sáng tác bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” để từ giã bạn bè.
Đọc tác phẩm người đọc thấy được sáng tác chất chứa một giọng thơ đầy sôi nổi, đầy hào khí. Hơn hết Lưu biệt khi xuất dương được sáng tác ra như đã thể hiện được tinh thần chung của thời đại. Và chính tinh thần này cũng đã thổi vào không khí cách mạng đầu thế kỉ XX của nước nhà một luồng sinh khí mới. Chính điều này có ý nghĩa rất lớn lao vào thời buổi nước nhà lúc đó:
Làm trai thì phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Không thể phủ nhận được với hai câu thơ trên như đã thể hiện một lí tưởng đẹp của con người và tác giả như muốn nhấn mạnh ở đây đó là một trang nam nhi. Con người chúng ta cũng phải làm chủ bước đi của lịch sử mỗi người như cũng lại phải tích cực tham gia vào sự vận động của thế sự. Từ xưa cho đến nay thì chí “Làm trai” luôn được coi trọng, nó cũng chính là sự khẳng định chí khí của thanh niên nói chung. Cũng chính từ chân dung nhân vật trữ tình trong bài Lưu biệt khi xuất dương đã như hiện lên khá rõ qua hai câu đề đầu tiên thôi. Phan Bội Châu cũng đã xây dựng lên nhân vật trữ tình luôn ý thức được tránh nhiệm của chính mình để có thể gánh vác trọng trách như thật lớn lao. Con người mà Phan Bội Châu xây dựng lên, muốn nhắc đến chính là việc phải đối mặt với càn khôn cũng như vũ trụ rộng lớn để có thể khẳng định:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
Đây cũng chính là một lời khẳng định dứt khoát, đầy khí phách về chính sức mạnh của con người trước càn khôn của thiên nhiên. Dường như cũng chính cái ý thức về cái “Tôi” ở đây cũng đã được tác giả tận dụng triệt đó chính là bằng cách tạo cho nhân vật có thế đứng như thật đặc biệt. Ở đây hoàn toàn không phải là cái “tôi” bi quan hay cực đoan như ở một số nhà thơ mới xuất hiện sau này mà nó còn chính là một sự khẳng định về trách nhiệm của mỗi người và nhất là một trang nam nhi. Câu thơ như một lời giục giã đanh thép như thách thức về tinh thần đấu tranh của con người. Thông qua đó thì thấy được hình ảnh một người lãnh tụ đầy hiệt huyết – Phan Bội hâu cũng đã có ý thức kêu gọi mọi người để cùng góp sức tranh đấu để bảo vệ đất nước. Sau khi đã khẳng định được chí nam nhi thì cũng nói đến trách nhiệm của mỗi người với nhân cách thật cao đẹp của những nhà Nho:
Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài
Chúng ta đọc đến hai câu luận vẫn tiếp tục được viết dưới hình thức đối ngẫu thực sự quen thuộc của thơ cổ điển. Với thể thơ nó cũng vừa khẳng định khí tiết vừa là quyết tâm của người chiến sĩ. Thực sự có thể nói rằng ngay trong thời buổi đó của đất nước thì việc ra đi tìm đường cứu nước là lí tưởng đúng đắn. Bởi khi dân tộc đã mất tự do, cũng như bị xâm chiếm thì sự ra đi tìm đường cứu nước là một lý tưởng của thời đại. Câu thơ không hề có ý chê bao chuyện đọc sách thánh hiền mà lại có ý như khuyên con người phải có nhận định thật đúng đắn về đạo sách thánh hiền ở đời chứ không phải cứ đọc sách thánh hiền mà bỏ mặc mọi thứ. Không chỉ vậy mà câu thơ lại như nói lên được cả nỗi xót xa của nhà thơ khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược. Thực dân Pháp mang đến nước ta nền văn hóa phương Tây theo rất nhiều xu hướng mới mẻ như cũng lại có những rác rưởi cần phải bài trừ. Tất cả những điều đó cũng đã gây lên sự xáo trộn thật ghê gớm về đạo đức cũng như luân lý xã hội.
Muốn vượt bể đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Hai câu thơ trên với khí thế ra đi lúc nào cũng phải thật hùng dũng và đầy quyết tâm đồng thời cũng thật tràn trề sức mạnh. Dễ dàng có thể nhận thấy được câu thơ cuối cùng của bài “Lưu biệt khi xuất dương” dường như đã khẳng định bầu nhiệt huyết đang sục sôi của người ra đi. Người ra đi luôn luôn hướng về phía (nước Nhật) người ra đi cũng chính với một quyết tâm thật cao. Tinh thần chí làm trai như thể hiện rõ ràng nhất chính là “nhất tề phi”. Thực sự bài thơ hào hùng, lãng mạn nó dường như cũng lại đã thể hiện được tư thế ra đi đầy khí phách của con người trong thời đại mới. Hơn hết chính người ra đi đã gửi gắm vào đó biết bao nhiêu hi vọng vào chính con đường mà mình đã chọn.
“Lưu biệt khi xuất dương” cũng chính là khúc tráng ca của một thời đại đau thương nhưng đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Đồng thời cũng chính là tấm gương sáng ngời muôn thủa để người đời sau soi mình. Hơn hết đó là khẳng định tình yêu đất nước tha thiết và thôi thúc tinh thần chiến đấu và bảo vệ non sông đất nước.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 13
Trong giai đoạn những năm đầu thế kỉ XX, phong trào giải phóng dân tộc được dấy lên mạnh mẽ với những tên tuổi nổi bật như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh.. Họ là những trí thức tiến bộ với lòng yêu nước thiết tha. Phan Bội Châu không chỉ là một nhà yêu nước mà còn là một nhà thơ nổi tiếng. Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” là một sáng tác hay thể hiện tinh thần và khí thế sục sôi trên con đường tìm ra hướng đi mới cho dân tộc.
Khi cả nước đang dấy lên phong trào Đông du thì “Lưu biệt khi xuất dương” không chỉ góp phần cổ vũ, khích lệ tinh thần của các du học sinh mà còn thể hiện ý chí cao độ của những người yêu nước đang cố gắng vươn lên để đưa đất nước thoát khỏi sự cai trị của thực dân phong kiến. Bài thơ là khúc ca hào hùng của những nhà tri thức tri thức tiến bộ.
Mở đầu tác phẩm là một tuyên ngôn đanh thép về “chí làm trai”.
Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di
Dịch thơ:
Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời
Trong tuyên ngôn ấy đã khẳng định rõ lẽ sống và lí tưởng làm người, đặc biệt là một đấng nam nhi, đã là nam nhi thì phải đầu đội trời, chân đạp đất, tự chủ trong bước đi của mình và tự quyết định tương lai của chính mình. Điều đó cũng có nghĩa rằng, một đấng nam nhi phải bước vươn lên, kiên cường để đưa dân tộc, đất nước mình đứng lên, vượt lên trên cả sự xâm lược, bạo hành mà trở thành một đất nước tự do, tự quyết. Người nam nhi trong cuộc sống phải dám làm những điều “kì lạ”, dám bước đi trên những con đường mới với những hy vọng và ước mơ lớn lao. Chí làm trai là phải mang trong mình cái “nợ công danh” như Phạm Ngũ Lão đã thể hiện qua “Tỏ lòng”. Khi mà đất nước vẫn chưa được thái bình, nhân dân vẫn phải sống trong cảnh lầm than, áp bức thì người nam nhi vẫn chưa xứng đáng với lý tưởng sống, vẫn mang cái nợ với đời. Họ phải tự mình bước đi, phải thay đổi cuộc sống, không được phó thác vào số phận. Muốn được như vậy, đấng nam nhi phải có cái nhìn xa rộng và có những hoài bão lớn lao, sống một cuộc đời không mang hai chữ “tầm thường”.
Tiếp nối lý tưởng ấy, là sự tự khẳng định mình.
U bách niên trung tu hữa ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy
Dịch thơ:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?
Một lời khẳng định có phần tự cao nhưng nó lại là tiếng nói đầy quyết liệt và oai hùng về vai trò của cá nhân đối với cuộc sống nhất là khi đất nước đang phải sống trong cảnh lầm than, loạn lạc. Trong thời điểm ấy vai trò của cá nhân ông, cũng như của những cá nhân khác rất được đề cao. Nếu mỗi cá nhân đều tự ý thức được điều này thì họ sẽ tạo nên được một sức mạnh vô cùng lớn. Mỗi một đời người được ví với trăm năm, và trong khoảng thời gian nghìn năm thì chắc chắn sẽ có những cá nhân nổi bật giữa đời. Ngoài sự khẳng định, nhà thơ qua hai câu thơ ấy muốn khích lệ ý chí và lòng yêu nước ở mỗi người đặc biệt là những nhà trí thức, những du học sinh chuẩn bị “xuất dương” để tìm hướng đi mới cho dân tộc. Nó làm cho tinh thần dân tộc ngày càng sục sôi và quyết liệt hơn.
Những triết lí về cuộc sống, về lý tưởng làm trai càng được thể hiện rõ ràng qua hai câu thơ luận.
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh lưu nhiên tụng diệc si
Dịch thơ:
Non sông đã mất sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài
Cũng giống như chí làm trai của Phạm Ngũ Lão, “Lưu biệt khi xuất dương” cũng thể hiện rõ quan niệm trung quân ái quốc. Khi đất nước vẫn đang còn phải chịu sự chèn ép, bóc lột và mất tự do thì kẻ nam nhi cũng cảm thấy nhục nhã với chính mình. Trách nhiệm của họ đối với đất nước vẫn chưa hoàn thành, họ sống cũng như không, giống như những kẻ tầm thường, vô dụng. Trong thời buổi đất nước loạn lạc, văn chương chữ nghĩa cũng đâu còn quan trọng. Không phải nhà thơ chê bai hay phủ nhận tri thức mà người muốn rằng học thức cũng nên phù hợp với thời cuộc và phải biết phục vụ nhân dân. Nước mà mất thì người tri thức cũng trở thành người thừa, cũng chẳng còn chỗ để mà thể hiện thánh hiền khi bản thân phải sống trong cảnh nô lệ. Vậy nên, điều cần lần làm trên hết là tìm ra con đường để mang tự do về cho dân tộc rồi sau đó sẽ tha hồ mà học và truyền tải kiến thức văn chương thánh hiền.
Và ở hai câu kết, chí làm trai được đặt vào hoàn cảnh cụ thể.
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi
Dịch thơ:
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiến ra khơi
Trong hoàn cảnh thực tế của buổi lưu biệt khi xuất dương của những du học sinh yêu nước, Phan Bội Châu đã vẽ lên một bước đi đầy hào hùng và mạnh mẽ. Khí thế ấy là sức mạnh của những đấng nam nhi đang ra đi tìm đường cứu nước. Ta cảm nhận được một bầu không khí sục sôi đang dâng trào tròng lòng mỗi người. Họ ra đi cùng sự cổ vũ và tiếp sức của sóng biển. Một bước đi đầy mạnh mẽ và oai hùng cùng ý chí cao ngất ngưởng và lòng lòng quyết tâm vô hạn.
Bài thơ “Lưu biệt khi xuát dương” của Phan Bội Châu không chỉ ngợi ca tinh thần yêu nước và ý chí sục sôi của những tri thức trẻ của phong trào Đông du mà nó còn là khúc ca hào hùng cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân, đặc biệt là thế hệ tri thức trẻ. Bài thơ là khúc ca đầy khí phách và là ngọn cờ tiên phong cho phong trào yêu nước của những con người tiến bộ. Nó mãi để lại trong lòng người đọc một sự tự hào và ngưỡng mộ về tinh thần yêu nước nồng nàn của những người anh hùng trong một thời loạn lạc.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 14
Phan Bội Châu không những là một nhà yêu nước, anh hùng giải phóng dân tộc nổi tiếng trong lịch sử hiện đại Việt Nam mà ông con là một trong những trí sĩ có những áng thơ ca đặc sắc. Trong đó không thể không nhắc đến bài thơ “Lưu biệt xuất dương” một bài thơ thể hiện được sự nhiệt huyết với lý tưởng giải phóng dân tộc của thế kỷ XX năm nào.
Ngay với mở đầu bài thơ như là một tuyên ngôn lý tưởng được nêu ra rõ ràng nhất:
Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Nói về việc làm trai trong trời đất không thể sống tầm thường, đồng thời cũng không được sống thụ động cho trời đất như tự chuyển dời. Với câu thơ mở đầu đầy hấp dẫn như vậy cũng đã thể hiện tư thế, ý chí nam nhi đồng thời thể hiện được tài năng của người cách mạng mong muốn làm nên sự nghiệp lớn, như muốn tự xoay chuyến trời đất.
Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ
Tác giả Phan Bội Châu dường như cũng đã khẳng định mạnh mẽ và đầy khí phách về sức mạnh con người trước càn khôn. Ông như tự đề cao cái Tôi của nhà thơ chính là khẳng định được chính cái trách nhiệm của người thanh niên yêu nước đối với vận mệnh dân tộc. Câu thơ trên dường như cũng làm cho nhiều người tỉnh ngộ và khơi gợi sự tinh thần đấu tranh. Ta như nhận thấy được hình ảnh tác giả Phan Bội Châu lúc này đây như muốn ra sức kêu gọi sự tranh đấu của những con người yêu nước.
Ở trong những đoạn thơ đầu tiên tác giả Phan Bội Châu như đã khẳng định chí nam nhi, đoạn sau nói về trách nhiệm của nam nhi trong trời đất đó chính là câu:
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si
(Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài
Thế rồi chính khi đất nước đang bị xâm lăng, non sông đã chết, ta sống chỉ thêm sự nhục nhã, đau đớn. Ở ngay chính trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, chính những người học có vùi mài kinh sử lúc này đây như cũng trở nên vô nghĩa. Chính vào thời điểm đó, thì ta nhận thấy được chính ý muốn ra đi tìm đường cứu nước được coi là lí tưởng của thời đại. Với câu thơ trên người đọc cũng sẽ thấy được câu thơ không có ý chê bai việc học mà chỉ có ý khuyên con người ta phải sống với thời cuộc trước mắt. Chính câu thơ trên còn thể hiện nỗi đau của tác giả Phan Bội Châu khi đứng trước cảnh đât nước suy tàn và dân chúng lầm than. Khi đó đạo đức xã hội lúc này xuống cấp như đã khiến cho tác giả có trách nhiệm với dân tộc nhìn mà thấy lòng quăn đau biết bao.
Với đoạn kết của bài thơ đặc sắc “Lưu biệt khi xuất dương” dường như cũng đã thể hiện quyết tâm, ý chí cũng như bao nhiêu hi vọng lớn của tác giả trên con đường mình đã chọn thông qua câu thơ:
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi
Sử dụng giọng thơ sục sôi, luôn luôn tràn đầy hi vọng và quyết tâm đi đến nước Nhật để tìm con đường cứu nước. Thêm với đó chính là một hình ảnh kết thúc bài thơ vô cùng mạnh mẽ, lại có một sự hào hùng, đó là sự khí phách của con người bắt kịp với thời đại mới. Đó chính là một sự hi vọng về ngay mai tươi sáng hơn.
Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” với giọng điệu hào hùng, từ ngữ hấp dẫn là một bài ca hào hùng về chí làm trai như nguyện dấn thân mình vào sự nghiệp cứu nước của dân tộc. Bài thơ quả thực sẽ mãi mãi là tấm gương mà người đời luôn noi theo.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 15
Phan Bội Châu (1867-1940) là một nhà yêu nước và cách mạng lớn của dân tộc ,trong ông luôn sục sôi ý chí tìm ra con đường cứu nước mới cho dân tộc.
Tuy văn tài lỗi lạc nhưng ông không xem văn chương là con đường sự nghiệp của mình, ông chỉ muốn dùng nó để lên tiếng cho cách mạng, cho dân tộc đang sống trong đói khổ lầm than, để những người thanh niên yêu nước đứng dậy làm cách mạng cứu nước, cứu dân. Tinh thần yêu nước ấy được thể hiện rõ trong tác phẩm “Lưu biệt khi xuất dương” (1905)được ông sáng tác trước lúc lên đường sang Nhật . Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mang hình thức cổ điển, khí thơ và cảm hứng lại rất hiện đại, đó là sản phẩm tinh thần của một nhà nho tiến bộ. Bài thơ thể hiện một lí tưởng sống cao đẹp, đồng thời là một bài học về đạo làm người ,một bài ca hùng tráng về chí nam nhi của nhân vật trữ tình mang vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng .
Thật xứng đáng với vẻ đẹp ấy ,Phan Bội Châu mở đầu bài thơ không phải là những lời chia tay ,nhớ thương bịn rịn của người đi kẻ ở lại ,mà đó là những câu thơ mang lí tưởng hoài bão của con người đang sục sôi ý chí muốn làm chủ vũ trụ ,muốn xoay chuyển càn khôn đất trời :
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
(Sinh vi Nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi )
Hai câu thơ là một lí tưởng đẹp của con người. Con người phải làm chủ bước đi của lịch sử, phải chủ động trước hoàn cảnh. "Làm trai" là khẳng định chí khí của thanh niên ,sống là phải “lạ” ,làm nên sự nghiệp lớn để lại tiếng thơm muôn đời ,đem lại cho đất nước cuộc sống ấm no ,không thể sống tầm thường ích kỉ ,chỉ cảm thụ cuộc sống riêng mình.trước Phan Bội Châu đã có bao nhiêu con người ưu tú nói về chí làm trai với lòng nhiệt thành cháy bỏng - “Nam nhi vị liễu công danh trái / Tu thỉnh nhân gian thuyết Vũ hầu”(Phạm ngũ lão ) .Song,hai câu thơ của cụ Phan vừa như một câu hỏi tu từ khẳng định chí làm trai giữa trời đất vừa là lời đối thoại rằng không lẽ đấng nam nhi lại để mạc cho trời đất tự chuyển dời ,tới đâu thì tới ,còn “chúng ta” là kẻ đứng ngoài không phận sự hay sao ? Chỉ hai câu đề ta cũng thấy được một lối sống cao đẹp tiến bộ đầy bãn lĩnh ,sẵn sàng thách thức càn khôn vũ trụ mang vẻ đẹp của khí phách hào hùng người chí sĩ Phan Bội Châu . Khí phách ấy lại vang lên mạnh mẽ hơn trong hai câu thơ tiếp theo :
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai ?”
Nhân vật trữ tình ý thức dược trách nhiệm của mình trước đồng loại,trước đất trời bao la . “Trong khoảng trăm năm” này cần có một người sẵn lòng phục vụ cách mạng ,phục vụ những lí tưởng cao đẹp mang lại yên bình cho đồng loại . “Trăm năm” ẩn dụ cho một đời người ,một cuộc sống mà “tớ” có trách nhiệm gánh vác .Cái tôi của tác giả mang đầy trách nhiệm ,”tớ” đang hiện diện hôm nay phải làm được một điều j đó có ý nghĩa cho đời , “tớ” thấy việc không thể không làm ,không thể ỷ lại cho ai .Cái tôi về trách nhiệm ấy lại cho ta thấy được lịch sử là một dòng chảy liên tục ,có sự chung tay góp sức của nhiều thế hệ .”Sau này muôn thuở há không ai?” -câu thơ vừa đặt ra cho ông cũng như cho những người thanh niên yêu nước của dân tộc trước cảnh nước nhà .Song ,ông cũng đặt một niềm tin về thế hệ mai sau của dân tộc sẽ làm nên chuyện lạ ,sẽ làm nên non sông này ngàn đời tươi đẹp .Giọng thơ đĩnh đạc hào hùng mang niềm tin của nhân vật trữ tình ,đồng thời khẳng địnhvai trò của cá nhân ông ,thúc giục những chí sĩ yêu nước lên đường .
Cái chết vinh quang hay cuộc sống tủi nhục lại được nhân vật trữ tình thể hiện trong hai câu tiếp theo :
Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
Câu thơ mang nỗi đau đớn ,xót xa của tác giả . Lúc này, khi dân tộc đã mất tự do, chủ quyền đất nước bị xâm hại, thì việc đầu tiên, cần thiết nhất không phải học văn chương cử tử nữa. Câu thơ không có ý chê bai hay bài xích chuyện học đạo thánh hiền mà chỉ có ý khuyên con người ta phải sống với thời cuộc. Nước mất thì nhà tan, dân chúng lầm than, đói khổ, đạo đức xã hội suy đồi khiến những con người có trách nhiệm với dân tộc phải suy nghĩ mà đau lòng .Với nghệ thuật đối lập được ông sử dụng một cách tài tình -gắn sự sống chết công danh của bản thân với sự mất còn vinh nhục của đất nước .Hình ảnh này vừa mang vẻ đẹp lãng mạn - sự nhận thức sâu sắc về thời cuộc -lại mang khí phách hào hùng của đấng nam nhi khi lòng nhiệt huyết đưa dân tộc ra khổi kiếp sống lầm than đang len lỏi khắp da thịt ông .
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”
Việc “lạ” của nhân vật trữ tình đang nung nấu sắp khởi hành .Tư thế hăm hở ,mang long quyết tâm về cuộc xuất dương cứu nước ,nhà thơ thoát ra khỏi tủi thẹn ,day dứt của hai câu thơ trước để sang hai câu thở cuối ,rồi lên chiếc thuyền sắp ra khơi .Những “cánh gió” “sóng bạc”mang vẻ đẹp lãng mạn về những sóng gió ,thăng trâm phía trước .Nhưng những hình ảnh này lại được ông khắc họa bằng giọng thơ hào hùng ,bay bỗng .Tâm thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay vào một con đường hoạt động mới ,;bay lên quẫy sóng đại dương ,bay lên cùng những đợt sóng trào sôi thoáng hiện trong tâm trí ông .ông không xem đó là những cách trở ,những vật cản trên con đường sự nghiệp cách mạng của mình ,mà trái lại ông xem chúng như bạn đường ,là đối tượng để mình đua sức đua tài .Nhiệt huyết cứu nước cứu đồng loại đã lấn át nỗi lo âu trong ông .Khí thế ra đi thật hùng dũng và đầy quyết tâm, tràn trề sức mạnh.Hình ảnh kết thúc bài thơ hào hùng, lãng mạn, thể hiện được tư thế ra đi đầy khí phách của con người trong thời đại mới. Người ra đi đã gửi gắm bao nhiêu hi vọng vào con đường mình đã chọn.Bài thơ là cuộc chia tay từ biệt nhưng cũng là tiếng hô gọi ,là bàn tay vẫy gọi những lý tưởng cách mạng mới những con người yêu nước của thế hệ thanh niên tràn đây nhựa sống và phía xa xa kia là cánh cửa cuộc sống ấm no hạnh phúc của muôn dân .
Nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình tượng đẹp về một nhà nho tiến bộ đầu thế kỉ XX với lí tưởng cứu nước, khát vọng sống, chiến đấu vì dân tộc, lòng tin và ước mơ về một tương lai tươi sáng.Những hình ảnh kì vĩ về vũ trụ bao la càng làm rõ vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của người lên đường - chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 16
“Con người viết văn, con người làm thơ trong Phan Bội Châu nhất trí với con người chính trị. Ngòi bút Phan Bội Châu sáng ngời chủ nghĩa yêu nước, lí tưởng anh hùng”. Phan Bội Châu là người đầu tiên nuôi ý tưởng đi tìm con đường cứu nước mới, cả cuộc đời văn chương của ông chính là cả cuộc đời cách mạng sáng ngời. Và khi ý chí làm trai sôi sục trong tim ông thì cũng là lúc “Lưu biệt khi xuất dương” ra đời, đánh dấu thời điểm ông lên đường sang Nhật, từ giã bạn bè, đồng chí.
Đối với Phan Bội Châu, là đấng nam nhi là phải có chí hướng riêng cho mình, chí làm trai của đứa con đất nam, ông quan niệm:
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời. ”
Con người tuy nhỏ bé nhưng chính ý chí, tư thế đã làm con người to lớn hơn so với vũ trụ. Và với Phan Bội Châu, “chí” để xây dựng được một con người hiển hách chính là chí làm trai. Làm trai là phải “lạ”, là phải biết sống cho phi thường hiển hách. Dám mưu đồ những chuyện kinh thiên động địa, xoay chuyển càn khôn. Đây là quan niệm này gần gũi với lí tưởng nhân sinh của các nhà nho thuở trước nhưng nó táo bạo hơn, quyết liệt hơn, con người dám đối mặt với vũ trụ, với đất trời rộng lớn để tự khẳng định mình. Chính quan niệm vừa kế thừa truyền thống, vừa mới mẻ này đã tạo ra một con người, một Phan Bội Châu với tư thế khỏe khoắn, ngang tàn, ngạo nghễ, thách thức càn khôn. Đó cính là tư thế chủ động trước thời cuộc, là lí tưởng vì nước, vì dân.
Phạm Ngũ Lão đã từng bày tỏ quan niệm về chí làm trai của mình qua bốn câu thơ của “Thuật hoài”
“Múa giáo non sông trải kháp thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh quân tử còn vương nợ,
Luống hẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu. ”
Phạm Ngũ Lão như ý thức được trách nhiệm của bản thân trước thời cuộc, trước vận mệnh đất nước. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão đầy thiết thực;một ngày còn bong quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn, xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Dù ở cách nhau bảy thế kỉ nhưng quan niệm về chí làm trai của Phạm Ngũ Lão và Phan Bội Châu vẫn có nét giống nhau, nó như nền tảng của bất kì bậc nam nhi nào cũng phải có dù ở thời nào. Phan Bội Châu đã nói rằng:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?”
Chí làm trai là phải gắn liền với ý thức của bản thân, ý thức về cái tôi chứ không thể nào sống tầm thường tẻ nhạt, buông xui theo số phận. Đó là cái tôi công dân đầy trách nhiệm trước thời cuộc, trước số phận. Bằng nghệ thuật đối ý, tác giả đã khẳng định trong một khoảng trăm năm cần có sự tồn tại của mình và sau này không lẽ không có ai hiểu và tiếp bước của ông hay sao. Và quả đúng như lời ông nói khi sau đó người thanh niên Nguyễn Tất Thành – Bác Hồ vĩ đại đã ra đi tìm đường cứu nước, xây dựng nên nước Việt nam dân chủ Cộng hòa.
Câu ba vừa khẳng định dứt khoác về vai trò của cái “Tôi”, cống hiến cho đời, lưu danh thiên cổ thì câu bốn lại chuyển sang nghi vấn bằng câu hỏi tu từ nhằm khẳng định quyết liệt hơn một khát vọng sống hiển hách, phát huy hết tài năng để cống hiến cho đời. Phan Bội Châu như đã vừa khẳng định ý thức và trách nhiệm công dân của mình, của mọi người. Với cảm hứng lãng mạn, bay bổng gắn với hình tượng nghệ thuật kì vĩ đã tăng thêm khát vọng, niềm tin, lòng yêu nước sôi sục, thiết tha của dân tộc.
Đến với hai câu thơ năm, sáu chính là nhận thức, thái độ quyết liệt của kẻ làm trai trước tình cảnh đất nước phải rơi vào tay lũ giặc, tay sai, bán nước.
“Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài!”
Non sông, đất nước là một phần tạo nên con người, cốt cách, non sông chết ta trở thành nô lệ thì sống chỉ thêm nhục. Giờ đây, sách vở thánh hiền chẳng còn ích gì nước khi nước đã mất, nhà đã tan. Phan Bội Châu đã xây dựng một tư tưởng mới mẻ đầy táo bạo, tiến bộ mang đậm tính cách mạng. Đây như lời tự bạch về nỗi đau đớn, xót xa, tủi nhục của đứa con mất nước nhưng lại hé mở con đường cách mạng rửa nhục nước nhà.
Hằng hà sa số ý nghĩ cũng chẳng bằng một hành động và khi ý chí sục sôi trong Phan Bội Châu đạt tới đỉnh điểm thì cũng là lúc ông ra đi tìm đến ánh sáng thay đổi vận mệnh đất nước. Ông ra đi với tư thế hiên ngang mang trong mình đầy khát vọng.
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi. ”
Những hình ảnh lớn lao, kì vĩ: Bể Đông cánh gió, muôn trùng sóng bạc như tạo cho Phan Bội Châu một tư thế như bay lên. Hình ảnh ấy thật hào hung, lãng mạn, con người như được chắp đôi cánh thiên thần bay lên trên thực tế tối tăm, nghiệt ngã, vươn ngang tầm vũ trụ. Đó là một tư thế hăm hở, đầy nhiệt huyết thăng hoa, một tấm lòng yêu nước của một nhà thơ, nhà cách mạng.
“Nhân sinh trăm năm như một giọt nước vươn nơi mi mắt, nhẹ như lông hồng lại nặng như thái sơn”. Một kiếp người, nếu ta chọn cuộc sống vì mình thì cuộc sống không phải lo nghĩ vì ai nhưng giương mắt nhìn đất nước lầm than thì làm sao có thể yên giấc. Phan Bội đã chọn con đường ra đi tìm đường cứu nước, ông không thể nhìn và để bản thân mình trở thành nô lệ. Bằng giọng thơ tâm huyết có sức lay động mạnh mẽ, “Lưu biệt khi xuất dương” đã khắc họa vẻ đẹp hào hung của nhà chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX, với tư tưởng mới mẻ và khát vọng cháy bỏng trong buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 17
Phan Bội Châu được coi là một trong số những anh hùng kiệt xuất có tầm ảnh hưởng lớn đối với cách mạng Việt Nam trong những năm đầu của thế kỉ XX. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình ông chưa một lần được hưởng niềm vui chiến thắng nhưng tình yêu đất nước, khát vọng hòa bình và ý chí đấu tranh của ông luôn là ngọn lửa tiếp thêm nhiệt huyết, đam mê cho nhiều thế hệ sau này. Mà trước hết, thơ ca là mặt trận để ông bộc lộ điều ấy. Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ như thế. Ra đời vào thời điểm, nhà thơ chuẩn bị lên đường sang Nhật để thực hiện chí lớn, tác phẩm đã thể hiện niềm khát khao mãnh liệt, mong chờ một sự nghiệp kinh bang tế thế thay đổi vận mệnh cho nước nhà:
Làm trai phải lạ ở trên đời
…
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi
Bài thơ mở đầu bằng một quan niệm rất quen thuộc của Nho giáo: chí làm trai.v
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Nếu đặt trong mạch nguồn của thơ ca trung đại, việc đề cập đến lý tưởng xã hội này là điều rất dễ thấy. Danh tướng đời Trần Phạm Ngũ Lão và sau này là bậc nho sĩ tài tử Nguyễn Công Trứ đã từng đề cập.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu
(Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão)
Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
(Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ)
Cái chí của đấng nam nhi ở đây là công, là danh. Họ trông vào đó mà tìm kiếm sự nghiệp, khẳng định bản thân mình trước cuộc đời, trước mọi người. Nhưng cách thể hiện của Phan tiên sinh trong bài thơ này lại gây một ấn tượng mạnh. Cái chí của kẻ làm trai lại trở nên kì vĩ, lớn lao. Bởi nó được đặt trong một không gian đặc biệt, đó là vũ trụ. Nếu nhìn từ không gian ấy, bậc nam nhi sẽ còn có nhiều khao khát hơn là công và danh. Chữ lạ trong bản dịch thơ tuy hay nhưng chưa làm toát lên được ý nghĩa từ chữ kìtrong văn bản gốc. Làm trai phải lạ cần được hiểu là làm được những việc kì lạ, kiệt xuất, phi thường. Muốn làm được điều ấy, người quân tử phải được đặt trong một không gian không thể là trên đời được, mà phải là càn khôn. Vì “đời” tưởng rộng mà hóa ra lại hẹp, mới chỉ là thế giới loài người, còn “càn khôn” là vũ trụ bao la. Cho nên cái hay trong hai câu đề là không gian ấy đến câu thứ hai mới xuất hiện, nó làm tôn lên hình ảnh một bậc nam nhi đại trượng phu, hào kiệt dõng dạc hô vang ở câu đầu rằng phải lạ. Có nghĩa là đấng nam tử đâu chỉ trông chờ, thụ động, phó mặc cho tạo hóa xoay vần, mà phải chủ động, dấn thân thay đổi cả càn khôn, trời đất, cải tạo cả vũ trụ, giang sơn. Mạnh mẽ hơn là phải biết sống hiển hách, dám mưu đồ những việc lớn, kinh thiên động địa, đất nước lâm nguy thì ra tay cứu nước, thay đổi lịch sử. Cảm hứng sử thi, lãng mạn đã nâng tầm chí làm trai lên một diện mạo mới. Đặt trong bối cảnh ra đời bài thơ, hình ảnh đấng nam nhi mang tầm vóc vũ trụ ấy đã mở đầu cho một khúc khải hoàn ca đầy hùng tráng, phi thường về ý chí và tinh thần yêu nước.
Hai câu đề đã mở ra không gian rộng lớn, đến hai câu thực lại mang tới độ tối đa trong thời gian của đời người:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
Trong quan niệm chung về đấng nam nhi ở trên, Phan Bội Châu đã nêu lên được ý thức cá nhân đầy khảng khái của bản thân mình. Đến hai câu này, ý thức cá nhân ấy càng rõ hơn. Có thể hiểu trong khoảng một trăm năm này, không thể thiếu được ta. Ta phải trở thành nhân vật lịch sử, ta có sứ mệnh xoay chuyển càn khôn để thay đổi cả bộ mặt lịch sử của thế kỉ này. Ta bỗng vút lên giữa cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian như thế, bảo sao lại không tráng lệ, lộng lẫy. Chữ tớ dịch khá thú vị, vừa có chút dí dỏm vừa vẫn khẳng định cái tôi đầy mạnh mẽ. Ý thức cá nhân được vươn cao, vươn rộng theo không gian và còn vươn dài theo cả thời gian nâng tầm nhận thức cao cả về sứ mệnh của con người trước lịch sử. Cái tôi như thế thật là vừa lãng mạn vừa kiêu hùng!
Xoay chuyển càn khôn, làm chủ lịch sử tưởng chừng như đã quá to tát, ấy vậy mà cái phải lạ của bậc anh hào còn khiến người ta bất ngờ hơn:
Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.
Trong bối cảnh của sự chuyển giao thời đại, dẫu có mới mẻ đến đâu cũng vẫn phải có sự thay đổi dần dần. Nhưng nhận thức của Phan tiên sinh lại khiến người ta thấy thật phi thường. Đúng non sông đã chết là cách nhân hóa rất chân thực cho hiện tại của nước nhà. Kẻ thù ngoại bang chiếm lấy chủ quyền thì coi như đất nước đã chết. Câu thơ uất nghẹn trước thực trạng đau thương của dân tộc. Nhưng cái mạnh mẽ của đấng nam nhi trước Tổ quốc như thế buộc phải nhận ra sống chỉ thêm nhục. Vì thế cái cần nhất, cái lý tưởng nhất của một thời hiền thánh giờ cũng chẳng còn ý nghĩa, có đọc sách cũng ngu thôi. Vậy là hai thứ quan trọng ấy mà còn tiếp tục sống, tiếp tục học thì chẳng khác nào đã để tự mình phó mặc cho số phận, để càn khôn nó tự chuyển dời, để tiếp tục sống một trăm năm đầy vô nghĩa. Có lẽ vậy mà, cuộc đời Phan Sào Nam tuy sống trọn vẹn trong cảnh đất nước lầm than, trải qua bao lần thất bại đau đớn nhưng ông vẫn cống hiến đầy hiển hách, vinh quang. Hai câu thơ đã chứng tỏ một sự chuyển mình của thời đại, nếu nói không quá lên, thật là vĩ đại. Nhận ra lẽ vinh nhục trong cảnh đất nước ấy là thường tình, nhưng dám chối bỏ, phủ định cả một nền học thức của một kẻ vốn xuất thân từ cửa Khổng, sân Trình như cụ Phan, thì đó là một điều rất phi thường.
Vậy không thể sống như thế với thực tại, muốn mưu đồ việc xoay chuyển càn khôn phải tiến đến hành động. Và hành động ấy chỉ có thể là xuất dương.
Muốn vượt bể đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Hai câu kết thật đẹp! Hình ảnh miêu tả có phần ước lệ tượng trưng tạo nên một cảnh tượng biển trời, gió bão, sóng bạc thật hùng vĩ. Nó làm toát lên cái hùng tâm tráng trí của kẻ sĩ yêu nước cháy bỏng mà ở câu thơ cuối: thiên trùng bạch lãng nhất tề phi, bản dịch chưa làm toát lên được. Đúng hơn là biển mênh mông, gió bát ngát, sóng bạc muôn trùng và ý chí, khát vọng của con người cùng nhau hòa quện làm một mà nhất tề phi (cùng bay lên). Tâm thế ra đi cũng rộng lớn, tráng lệ như biển trời vậy. Có cái hào sảng, quyết tâm, mạnh mẽ, nhiệt huyết khi lên đường. Người ở lại – bạn bè bằng hữu, chắc chắn cảm nhận được khát vọng, lý tưởng trong hành động kiệt xuất của con người kiệt xuất ấy.
Bài thơ khép lại trong một niềm hân hoan, hứng khởi trào dâng mãnh liệt của nhà chí sĩ cách mạng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước. Sự kết hợp đầy mới mẻ giữa cách thể hiện đậm chất thơ văn trung đại với những tư tưởng nội dung đậm hơi thở của nhịp sống đương thời đã hình tượng hóa một cách lãng mạn và hào hùng của người chí sĩ yêu nước những năm đầu thế kỉ XX. Giọng thơ nhiệt huyết, lay động này đã tiếp thêm sức mạnh, đã thổi bùng khát khao cho biết bao kẻ sĩ thời ấy có mong muốn thực hiện chí lớn vì sự nghiệp dân tộc của mình.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 18
Phan Bội Châu không chỉ được biết đến là nhà hoạt động chính trị cách mạng tài ba của lịch sử Việt Nam mà còn là nhà văn lớn của Việt Nam đầu thế kỉ 20. Văn chương Phan Bội Châu luôn có sức lay động quần chúng đấu tranh cách mạng lớn lao. Thi phẩm “Lưu biệt khi xuất dương” là một trong số những bài thơ tạo nên cảm hứng đó:
“Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ.
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”
Bài “Lưu biệt khi xuất dương” hay “Xuất dương lưu biệt” được Phan Bội Châu sáng tác vào 2/1/1905 khi nhà thơ xuất dương ở cảng Hải Phòng, sau này được lưu trong tập “Ngục trung thư”. Bài thơ được viết theo thể thơ chữ Hán, mang nhiều cảm hứng thời thế.
Phan Bội Châu mượn chuyện “xuất dương” để bàn bề vấn đề quen thuộc trong thi ca trung đại xưa: nam nhi – chí làm trai:
“Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ”
(“Đã sinh làm kẻ nam nhi thì cũng phải mong có điều lạ,
Há lại để trời đất tự chuyển vần lấy sao!
Giữa khoảng trăm năm này, phải có ta chứ,
Chẳng nhẽ ngàn năm sau lại không có ai (để lại tên tuổi) ư?”)
Bài về vấn đề “làm trai”, không ít cây bút ngạo nghễ:
“Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”
(“Chí làm trai” – Nguyễn Công Trứ)
Quan niệm của Phan Bội Châu cũng có điểm tương đồng với quan niệm của Cao Bá Quát. Cả hai đều khẳng định đã là phận nam nhi thì phải làm được những việc lớn lao trong “bốn bể”, trong “càn khôn”. Tuy nhiên, Việc đó không chỉ lớn lao mà với Phan Bội Châu nó còn phải “hy kỳ” – “điều lạ”. Tức là nhà thơ quan niệm, việc của nam nhi không chỉ lập công lập danh vang dội mà còn phải là công danh khác người thường.
Câu hỏi “khẳng hứa” (“há để”) cũng nhắc tới phận sự vốn dĩ của bậc nam nhi là phải làm tròn “tề gia – trị quốc – bình thiên hạ”. Theo nhà thơ, nếu bản thân làm nam nhi mà lại phó mặc cho “càn khôn tự chuyển di” thì không xứng làm kẻ nam nhi trên đời. Do đó, cách nghi vấn “khẳng hứa” lại như khẳng định hơn triết lí nhân sinh mà chính nhà thơ đưa ra.
Chưa hết, chí nam nhi còn là để lại danh tiếng muôn đời. Xét trong “trăm năm” – một đời người, nam nhi phải làm được việc lớn. Còn xét trong “ngàn năm”, nam nhi phải để lại được “tên tuổi”. Như vậy, giá trị mà đấng nam nhi làm nên phải là giá trị ngàn năm.
Sau khi nêu quan niệm của mình về chí làm trai, Phan Bội Châu nhìn nhận trong thực tế khách quan để soi xét và thể hiện mong muốn bản thân.
Trước hết, thi nhân nhìn cái nhìn toàn cục xã hội và nhận định:
“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.”
(“Non sông đã chết, sống chỉ nhục,
Thánh hiền đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi!”)
Nhà thơ nhắc đến một chuyện trọng đại trong đời nam nhi, đó là việc học hành thi cử. Tuy nhiên, thi nhân dùng nhiều tính từ tình thái mãnh liệt để bày tỏ cái nhìn khinh ghét thời cuộc. Đó là “tử hĩ” (đã chết), “đồ nhuế” (nhục) và “si” (ngu). Tác giả không nhằm phủ nhận Nho học mà muốn thức tỉnh con người, trong xã hội nhơ nhuốc, bất công này thì việc quan trọng trước mắt không phải là đọc sách thánh hiền mà phải biết đứng lên giải phóng dân tộc.
Chưa hết, Phan Bội Châu còn thể hiện khao khát cháy bỏng của bản thân để nâng cao tinh thần cổ vũ:
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”
(“Mong đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông,
Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên”)
Phan Bội Châu đã dùng hình ảnh “Đông hải” (biển Đông) để biểu tượng cho đích đến. Trái lại, nhà thơ chính là con người đang cố vượt biển để đeo đuổi mục đích. Từ “nguyện”, “nhất tề phi” kết hợp với “trường phong”, “thiên trùng” đã nói lên tinh thần không quản ngại khó khăn, gian khổ để đạt được mục tiêu cuộc đời. Khát vọng và tư thế vượt biển lớn đã khiến chân dung nhân vật trở nên lớn lao, kì vĩ hơn bao giờ hết.
Bài thơ chữ Hán “Lưu biệt khi xuất dương” mang một cái “tôi” Phan Bội Châu sôi sục, nhiệt huyết, ưa hành động đã phá vỡ hoàn toàn tính quy phạm của văn học trung đại: tính phi ngã (bản ngã của cá nhân). Người ta cho rằng tính bản ngã chỉ tồn tại sâu sắc và phong phú nhất trong thời kì văn học 1930-1945, nhưng ngay trước đó gần thế kỉ, đã có một bản ngã lớn lao tồn tại. Mặt khác, bài thơ bàn đến tư tưởng sống của đấng nam nhi thời bấy giờ. Tuy rằng trong xã hội hiện đại, tư tưởng ấy ít nhiều không còn phù hợp nữa, song giá trị về tình cảm và nhiệt huyết trong nó vẫn còn nguyên giá trị tới ngày nay.