Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận chi tiết nhất (21 mẫu)

Dàn ý Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận chi tiết nhất 1

1. Nhan đề, lời tựa

- Gợi cảm giác con sông kéo dài mênh mông, gợi mạch cảm xúc của bài thơ.

- Lời tựa: thâu tóm được tất cả tình và cảnh trong bài thơ.

2. Khổ 1

- Hình ảnh quan sát trên dòng sông rất chân thực nhưng giàu sức gợi.

+ sóng gợn nhẹ nhàng lan tỏa đến vô cùng, gợi nỗi buồn miên man.

+ con thuyền buông mái chèo một cách thụ động, mặc cho nước đưa đẩy, gợi sự lênh đênh. So với dòng sông con thuyền hết sức nhỏ bé.

+ hình ảnh nước song song, thuyền về nước lại không hứa hẹn sự gặp gỡ mà chỉ là chia lìa, xa cách.

+ câu thơ: Củi một cành khô lạc mấy dòng đặc biệt gợi cảm. Nó gợi nghĩ tới thân phận cá thể nhỏ nhoi, bơ vơ giữa dòng đời.

- Sử dụng hiệu quả phép đối (buồn điệp điệp- nước song song, sầu trăm ngả - lạc mấy dòng), từ láy âm (điệp điệp, song song), tương phản giữa cá thể và vũ trụ.

Kh thơ gi ni bun v s chia li, tách bit thiếu giao cm gia cá th vi nhau, đặc bit là ni bun v kiếp người nhỏ bé vô định.

3. Khổ 2

- Hai câu đầu nổi bật sự đìu hiu, vắng lặng của cảnh chiều:

+ đứng trước không gian ấy con người càng cô đơn, khao khát được nghe thấy âm thanh của cuộc sống con người.

+ nhưng chợ chiều đã vãn, không gian càng vắng lặng u tịch.

- Hai câu cuối không gian được mở ra chiều chiều: cao, sâu, rộng, dài. Trong cái vũ trụ vô cùng, thăm thẳm không chỉ cảnh vắng cô liêu mà lòng người cũng như rợn ngợp bởi sự nhỏ bé, lạc loài.

- Nghệ thuật sử dụng từ ngữ chọn lọc đắt giá, giàu giá trị gợi hình biểu cảm: liu điu, lơ thơ, sâu chót vót,.... Ngắt nhịp thơ hiệu quả.

4. Khổ 3

- Cái hiện hữu trước mắt là những hình ảnh gợi sự lênh đênh vô định (bèo dạt về đâu) và tĩnh lặng, cô liêu (bờ xanh tiếp bãi vàng).

- Hình ảnh mà thi sĩ khao khát tìm kiếm là chuyến đò ngang là cây cầu như sự phủ định đã nằm ngay trong từ điệp từ không.

- Cảm thức cô đơn về sự lạc loài trước cảnh sông dài trời rộng đã khiến nhà thơ mong được đón nhận tiếng nói con người, mong được nhìn thấy sự giao lưu gần gũi giữa con người với con người nhưng tất cả vẫn bị ngăn cách (hình ảnh con đò, chiếc cầu tượng trưng cho sự giao lưu đôi bờ nhưng không có) nỗi buồn về cuộc đời, về nhân thế.

5. Khổ 4

- Mang màu sắc Đường thi khá rõ từ những hình ảnh ước lệ đến cách dùng các thi liệu thơ Đường.

+ hình ảnh Lớp lớp mây cao đùn núi bạc lấy ý từ câu thơ của Đỗ Phủ chỉ sự hùng vĩ của thiên nhiên nhưng câu thơ của Huy Cận miêu tả thiên nhiên lấp lánh, tráng lệ mang nét độc đáo riêng.

+ hai câu thơ cuối phảng phất ý vị thơ Thôi Hiệu.

- Hình thức ngôn ngữ mang màu sắc cổ điển nhưng cảm xúc lại mang tính hiện đại: cái tôi cô đơn, bơ vơ, rợn ngợp trước cuộc đời.

+ hình ảnh Chim nghiêng cánh nhỏ gợi cảm giác chấp chới, rợn ngợp.

+ nỗi nhớ nhà dợn dợn trong lòng, đó là nỗi khao khát tìm đến chỗ dựa cho tâm hồn cô đơn, trống vắng của tác giả.

6. Nghệ thuật

- Vẻ đẹp cổ điển thể hiện trên nhiều phương diện:

+ mỗi dòng 7 chữ ngắt nhịp đều đặn, mỗi khổ 4 dòng, tách ra như bài thơ tứ tuyệt.

+ cách thức miêu tả thiên nhiên theo bút pháp hội họa cổ điển: một vài nét đơn sơ nhưng ghi được hồn tạo vật.

+ tả cảnh ngụ tình.

+ sự trang nhã, thanh thoát từ hình ảnh, ngôn từ.

- Chất hiện đại thể hiện trong cách cảm nhận sự việc, tâm trạng bơ vơ, buồn bã phổ biến của cái tôi lãng mạn đương thời.

Dàn ý Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 1

1.Mởbài:Trong phần mởđề, cần khẳng định Huy Cận (1919-2005) là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào “Thơ Mới” (1932-1945), bài thơ Tràng giang trong  tập  Lửa  thiêng  là  một  trong  những  bài  thơ  nổi  tiếng  nhất  của  Huy  Cận.

- Bài  thơ mang vẻ đẹp vừa cổđiển vừa hiện đại.

2.Thân bài: Phân tích bài thơ đểlàm rõ vẻđẹp vừa cổ điển vừa hiện đại

a)Trước hết, nhan đềbài thơ Tràng giang gợi lên không khí những bài thơ cổ: một dòng sông dài rộng, những khoảng cách xa xôi, những chia li cách trở(chàng ởđầu sông Tương,  thiếp ởcuối  sông  Tương.  .  .).  Tràng  giang  còn  gợi  tên  con  sông  Trường  giang, nơi Thôi Hiệu viết Hoàng Hạc lâu, Liù Bạch viết Hoàng Hạc lâu, tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng. . .

+ Huy Cận có thểviết Trường giang nhưng phải viết Tràng giang vì vần “ang” liên tiếp hai lần nghe buồn và mênh mang hơn.

+ Trước khi vào phần chính, Huy Cận còn viết một câu “đềtừ”:Bâng khuâng trời rộng nhớsông dàiKhông chỉcó trời rộng và sông dài của thơ cổ, Huy Cận còn đưa vào đó nổi bâng khuâng của thời đại :trời rộng nhớsông dài.

+  Thật  ra  thì  con  sông  trong  bài  thơ  Huy  Cận  không  phải  là  Trường  Giang  của Trung Quốc trong thơ xưa, mà chính là con sông Hồng của Việt Nam. Bên dòng sông ấy, nơi  một bến  đò có  tên  là  bến Chèm, Huy  Cận đã  cảm xúc  mà  viết  nên  bài  Tràng  giang của mình.

b)Phân tích bài thơ  qua từng khổthơ đểlàm rõ  vẻđẹp vừa cổđiển vừa hiện đại. Bốn  khổthơ  như  bốn  bức  tranh  cổ,  nhưng ẩn  chứa  trong  đó  nỗi  cô  đơn  của  con  người hiện đại.Bức tranh thứnhất:

 -Những hình ảnh cổđiển: một dòng tràng giang phẳng lặng, một con thuyền lặng lẽtrôi, một cành củi khô nhỏbé.

-Cảm giác buồn của con người hiện đại:

+ Sóng gợn tràng giang nhưng lại buồn điệp điệp (điệp từđiệp điệp –từcái hữu hình của sóng trên tràng giang mà nhận ra cái vô hình là nỗi buồncủa con người).

+  Thuyền  và  nước  bên  nhau  nhưng  giữa  thuyền  và  nước  là  sựxa  cách  hững  hờ. Thuyền và nước theo hai chiều đối nghịch (về–lại), nổi lên giữa cuộc chia li là sầu trăm ngả.

+ Cành củi bé nhỏgiữa tràng giang mênh mông, nhà thơ còn cốtình làm rõ: củi –một cành –khô. Đã thế, như có điều vô lí: một cành củi –lạc mấy dòng. Cành củi ởđây không chỉlà cành củi mà còn là cảm nhận vềthận phận bé nhỏcủa con người.

Bức tranh thứ hai:

-Bức tranh phía bên kia tràng giang với những nét đơn sơ: mấy cồn đất nhỏthưa thớt, những làn gió nhẹthổi qua.

-Bức tranh vẫn tiếp tục gợi lên nỗi buồn và cô đơn, bởi vì những cồn đất chỉlà lơ thơ cồn nhỏ, gió chỉlà gió đìu hiu. Câu thơ gợi một hình ảnh trong Chinh phụngâm :

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò

-Một chút âm thanh mơ hồ: từđâu gợi cảm giác mơ hồ, âm thanh lại rất nhỏ: làng xa –vãn chợchiều.

-Cảm nhận vềnỗi buồn không chỉtrong không gian mà cảtrong thời gian. Đây là cảm nhận chỉcon người thời hiện đại mới có. Thời gian ngảsang chiều, giữa tràng giang và  bầu  trời  càng  cách  xa,  theo  hai  chiều  đối  nghịch:  nắng  xuống –trời  lên.  Khoảng  xa cách càng trởnên đặc biệt với cái nhìn của nhà thơ: trời lên sâu chót vót. Trời không chỉtrên đầu mà còn là trời soi bóng xuống trường giang, vũ trụmởravô tận.

-Thân phận bé nhỏvà cô đơn của con người càng thấm thía trong sựso sánh: sông dài, trời rộng –bến cô liêu. Sông dài trời rộng là không gian ba chiều, bến cô liêu là cái bến Chèm, nơi nhà thơ đang ngồi, như cũng chính là thân phận con người.

Bức tranh thứba:

-Những hình ảnh quen thuộc: những cánh bèo mặt nước, những bãi bờvới những cây cỏtiếp nối bên tràng giang đến tận chân trời.

-Hình ảnh của thân phận con người: bèo dạt vềđâu (lạc loài, trôi nổi). Cảm giác cô đơn khiến nhà thơ muốn tìmđến một sựgần gũi, một sựkết nối, rồi đểthấm thía một sựđơn độc trọn vẹn. Hai từ“không” trong hai câu thơ như hai cái lắc đầu buồn bã. Chỉcó con người đơn độc giữa không gian vô tình, vô cảm.

Bức tranh thứ tư khép lại bộtranh cổ:

-Một không gian quen thuộc, đúng là hình ảnh trong một bức tranh cổ: một rặng núi xa, những đám mây bạc từmặt đất chầm chậm dâng cao.

-Giữa bầu trời có  một cánh  chim nhỏnghiêng xuống,  tạo nên  một bức tranh lạ. Đây không còn là bức tranh cổ: chỉcó một cánh chim đơn độc, không phải một đàn chim vẫn  bay  trong  những  bức  tranh  chiều  quen  thuộc.  Đặc  biệt  cảm  giác  của  nhà  thơ:  chim nghiêng cánh nhỏ–bóng chiều sa. Bóng chiều như đổsập xuống theo cánh chim nhỏ.

-Không nhìn vào không gian nữa, nhà thơ nhìn vào chính tâm hồnmình. Nhà thơ gọi tâm hồn mình là lòng quê, gợi nhớđến “hồn quê”â của Thúy Kiều nơi đất khách :

Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa

Nhà  thơ  còn cảm nhận lòng quê  dợn dợn.  Dùng điệp từdợn dợn đểnói  vềsóng trên  tràng  giang  mà nói  vềtâm trạng của chính  mình :  một cảm  giác ngất ngây  choáng váng.

-Cuối cùng đọng lại từtràng  giang là: nhớnhà. Nói không  khói hoàng hôn, nhà thơ muốn nhắc đến hai câu kết trong bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

(Bản dịch của Tản Đà)

Nhắc đến nỗi nhớnhà của nhà thơ xưa, ý Huy Cận muốn nhấn mạnh : so với nhà thơ  xưa,  Huy  Cận  bây  giờnhớnhà  hơn  nhiều,  Huy  Cận  buồn  hơn  nhiều,  cô  đơn  hơn nhiều.3.

Phần kết luận, ý cần làm rõ:

-Tràng giang của Huy Cận đẹp vìnhững hình ảnh, những từngữđẹp như thơ cổ, cho người đọc thưởng thức những bức tranh quen thuộc của phong cảnh sông nước quê hương.-Tràng  giang  của  Huy  Cận  thực  sự là  một  bài  thơ  của  thơ  hiện  đại,  mang  cảm nhận vềnỗi buồn và nỗi cô đơn của con người hiện đại, nhất là con người trong khoảng những năm ba mươi của thếkỉtrước.

Dàn ý Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận hay nhất 2

I. Mở bài: giới thiệu về bài thơ Tràng giang và Huy Cận

Ví dụ:

- Mở bài gián tiếp Tràng giang

  Có lẽ thiên nhiên đẹp và bao la đại ngàn luôn làm khuấy động nỗi lòng và tâm thức con người, nó khuấy sâu thẳm vào lòng người khiến nỗi sầu càng sầu hơn, vì vậy việc dùng vẻ đẹp bao la của thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng đã được rất nhiều thi sỹ sử dụng trong thơ trung đại. Nhưng Huy Cận đã tiếp thu phong vị đó vào tác phẩm “Tràng Giang” của mình, phổ thêm những nét mới lạ của thơ hiện đại; qua đó, Huy Cận đã tạo nên cho người đọc những ấn tượng về không gian của tác phẩm

- Mở bài trực tiếp phân tích Tràng giang

  Huy Cận có những tác phẩm thơ nổi tiếng, mỗi bài thơ mang một phong cách rất riêng. Thơ của Huy Cận mang phong cách thơ hàm súc, triết lí và phục vụ cho cách mạng của nước ta. Một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng là Tràng giang, bài thơ nằm trong tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ thể hiện cảnh thu 1939, bài thơ được sáng tác khi tác giả nhìn bên bờ sông Hồng dưới dòng nước mênh mông sóng nước. Chúng ta cùng đi tìm hiểu bài thơ để biết rõ về phong cách thơ của Huy Cận.

II. Thân bài: Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận

1. Phân tích khổ 1: bức tranh thiên nhiên mênh mang, bất tận

·       Những vòng nước xô đuổi nhau đến tận chân trời

·       Qua khổ thơ còn thể hiện nổi buồn miên man của tác giả

·       Sự trôi nổi, phó mặc của tác giả trên dòng sông hữu tình

·       Tâm trạng chia li, tán tác

2. Phân tích khổ 2: không gian và thời gian qua bài thơ

·       Không gian hoang vắng, đìu hiu

·       Không gian vắng lặng, tĩnh mịch

·       Không gian được đẩy vô tận

·       Cảnh vật khiến con người trở nên nhỏ bé

3. Phân tích khổ 3: Nỗi buồn da diết của nhà thơ

·       Không có sự giao hòa, liên quan giữa con người với con người

·       Cái tôi cô đơn, trống vắng, khát khao sự hòa hợp, đồng điệu giữa con người

·       Bức tranh thiên nhiên hiện lên một sự kì vĩ và tráng lệ

·       Nỗi buồn quê hương, đất nước, nỗi buồn da diết của tác giả

III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Ví dụ:

Bài thơ Tràng giang của Huy Cận thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người và thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của tác giả. Qua bài thơ ta cảm nhận được tình yêu của tác giả đối với thiên nhiên.

Dàn ý Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận chi tiết nhất 3

1. Mở bài

- Giới thiệu những nét chính về tác giả Huy Cận (đặc điểm tiểu sử, con người, các sáng tác tiêu biểu, đặc điểm sáng tác,...)
- Giới thiệu khái quát về bài thơ “Tràng giang” (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát những nét cơ bản về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,...)

2. Thân bài

a. Nhan đề và câu thơ đề từ

- Nhan đề:
+ Một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, với nghĩa là sông dài.
+ Sử dụng hai vần vần mở, có độ vang, độ ngân xa liên tiếp nhau, gợi lên  hình ảnh một con sông vừa dài vừa rộng.
- Câu thơ đề từ: Khái quát một cách ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ

b. Khổ 1

- Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sông nước mênh mang.
T “đip đip gi lên hình nh nhng đợt sóng c ni đuôi nhau v vào b không ngng ngh, không dt, tô đậm thêm không gian rng ln, bao la.
- H
ình nh: con thuyn xuôi mái nước gi lên s nh nhoi
Hình nh đối lp gia không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi lên trong chúng ta sự cô đơn, le loi.

- Hai câu cuối:
+ Thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi, cho lòng “sầu trăm ngả”. Đặc biệt, giữa cảnh sông nước mênh mông ấy,
+ Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu
Trong kh thơ th nht, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tn thì hình nh con thuyn, cành ci khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định, đồng thời gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.

c. Khổ 2

- Hai câu thơ đầu đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh:
+ Nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm đã gợi lên sự thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo
+ Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” là câu thơ có nhiều cách hiểu nhưng dẫu hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người
- Hai câu sau, không gian như được mở rộng cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn, từ đó gợi lên cả nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của lòng người 

d. Khổ 3

- Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”:  gợi lên hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu.
- Nghệ thuật phủ định được lặp lại: “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”.
nơi đây không có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với nhau

e. Khổ 4

- Hai câu thơ đầu khổ thơ: Vẽ nên một bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ.
+ Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác nối tiếp nhau “đùn” lên dưới ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát bạc.
+ Hình ảnh cánh chim xuất hiện như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn của nhà thơ.
- Hai câu thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả
+ Hình ảnh “dờn dợn vời con nước” không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế nó còn gợi lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ - nỗi buồn của người xa xứ đang nhớ quê hương da diết.
+ Câu thơ cuối đậm chất cổ điển khép lại bài thơ đã diễn tả một cách chân thực và rõ nét niềm thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơ

3. Kết bài

Khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ và những cảm nhận của bản thân.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận hay nhất 1

Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", "Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên, nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, ám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp
....
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy Cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.

Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.

Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng:

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngợp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.

Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".

Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.

Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:

Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không... không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.

Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là tứ thơ cổ điển được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.

Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.

Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.

Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 2

Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới (1930-1945) với những tác phẩm có sự kết hợp giữ yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm: trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Có thể nói đó là sự chuyển biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thế trước cách mạng cho đến không khí hào hứng vui tươi sau cách mạng gắn với công cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Bài thơ để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả.

Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát được tư tưởng và cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Hai chữ “Tràng giang” có thể nói là một con sông dài, mênh mông và bát ngát. Từ Hán việt này khiến người ta liên tưởng đến những bài thơ Đường của Trung Quốc. Nhưng chính tràng giang này cũng gợi lên được tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc tới những thân phận nổi trôi, bé nhỏ sống lênh đênh trên con sông dài tâm tưởng và sông của nỗi u uất như thế.

Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa khái quát nên chủ đề của bài thơ chính là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa trời đất mênh mông và bao la. Cả bài thơ toát lên được vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, cũng là đặc trưng trong thơ của Huy Cận.

Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên đã khiến người đọc liên tưởng đến một con sông chất chứa bao nỗi buồn sâu thẳm:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu tram ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Với một loạt từ ngữ gợi buồn thê lương “buồn”, “xuôi mái”, “sầu tram ngả”, lạc mấy dòng” kết hợp với từ láy “điệp điệp”, “song song” dường như đã lột tả hết thần thái và nỗi buồn vô biên, vô tận của tác giả trong thời thế nhiều bất công như thế này. Ngay khổ thơ đầu, nét chấm phá của cổ điển đã hòa lẫn với nét hiện đại. Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và hơn hết là hình ảnh “củi khô” trôi một mình, đơn lẻ trên dòng nước mênh mông, vô tận, vô đinh. Sức gợi tả của câu thơ thực sự đầy ám ảnh, một con sông dài, một con sông mang nét đẹp u buồn, trầm tĩnh càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Vốn dĩ thuyền và nước là hai thứ không thể tách rời nhau nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, liệu rằng có uẩn khúc gì chăng, hay là sự chia lìa không báo trước, nghe xót xa và nghe quạnh long hiu hắt quá. Một nỗi buồn đến tận cùng, mênh mang cùng sông nước dập dềnh. Điểm nhấn của khổ thơ chính là ở câu thơ cuối với hình ảnh “củi” gợi lên sự đơn chiếc, bé nhỏ, mỏng manh, trôi dạt khắp nơi. Có thể nói câu thơ đã nói lên được tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật chội như thế này.

Đến khổ thơ thứ hai dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bội:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Hai câu thơ đầu phảng phất một khung cành buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng của một làng quê thiếu sức sống. Đó có phải là quê hương của tác giả hay không. Hình ảnh “cồn nhỏ” nghe rất rõ tiếng gió đìu hiu đến tái lòng ở ven dòng sông dường như khoác lên mình một nỗi buồn mặc định. Ngay cả một tiếng ồn ào của phiên chợ chiều ở nơi xa cũng không thể nghe thấy, hay có chăng phiên chợ ấy cũng buồn đến hiu quạnh như thế này. Một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa, hỏi người hay là tác giả đang tự hỏi bản thân mình. Từ “đâu” cất lên thật thê lương và không điểm tựa để bấu víu. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không có một bóng người, không có một tiếng động thật chua xót. Hai câu thơ cuối tác giả mượn hình ảnh trời và sông để đặc tả sự mênh mông vô định. Không phải trời “cao” mà là trời “sâu”, lấy chiều cao để đo chiều sâu thực sự là nét tài tình, tinh tế và độc đáo của Huy Cận. Hình ảnh sông nước mênh mông và một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn dường như đã lột tả hết nỗi buồn sâu thẳm không biết ngỏ cùng ai ấy.

Ở khổ thơ thứ ba, tác giả muốn tìm thấy sự ấm áp nơi thiên nhiên hiu quạnh này nhưng dường như thiên nhiêu không như lòng người mong ngóng:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thương nhớ

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Sang khổ thơ thứ 3 dường như người đọc nhận ra một sự chuyển biến, sự vận động của thiên nhiên, không còn u buồn và tĩnh lặng đến thê lương như ở khổ thơ thứ hai nữa. Từ “dạt” đã diễn tả thật tinh tế sự chuyển biến của vạn vật này. Tuy nhiên từ ngữ này gắn liền với hình ảnh “bèo” lại khiến cho tác giả thất vọng vì “bèo” vốn vô định, trôi nổi khắp nơi, không có nơi bấu víu cứ lặng lẽ dạt “về đâu”, chẳng biết dạt về đâu, cũng chẳng biết dạt được bao nhiêu lâu nữa. Mặt nước mênh mông không có một chuyến đò. Tác giả chỉ đợi chờ một chuyến đò để thấy được rằng sự sống đang tồn tại nhưng dường như điều này là không thể.

Mong ngóng gửi niềm thương nỗi nhớ về quê hương nhưng tác giả nhận lại là sự im lặng của vạn vật quanh đây qua từ láy “lặng lẽ” đến thê lương và đìu hiu.

Ở khổ thơ cuối dường như bút pháp của tác giả được đẩy lên cao nhất, nét vẽ chấm phá dùng rất đắc điệu:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Có thể nói tư tưởng cũng như tâm tình của nhà thơ được gửi gắm qua khổ thơ này. Nét chấm phá “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng thêm sầu, thêm buồn hơn. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều sa” là sự hữu hình hóa cái vô hình của tác giả. Bóng chiều làm sao có thể nhìn thấy được nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã hình dung ra được trời chiều đang dần buông xuống.

Hai câu thơ cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả chẳng biết gửi vào đâu, chỉ biết chất chứa đong đầy trong trái tim. Câu thơ của Huy Cận khiến chúng ta liên tưởng đến tứ thơ của Thôi Hiệu:

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

Là sóng của sông hay là sóng trong lòng người

Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Qua đó khắc họa được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 3

Tràng Giang là một bài thơ hay của Huy Cận và là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Tràng Giang in trong tập Lửa thiêng, xuất bản năm 1940. Bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra, nên như kéo dài triền miên.

Phân tích 4 câu thơ trong đoạn đầu

Hiện lên đầu tiên tác phẩm là bức tranh sông nước vắng vẻ và tĩnh lặng.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Câu thơ đầu mở ra là bức tranh sông nước “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” có hai hình ảnh được tái hiện đó là thiên nhiên và tâm trạng của con người. Từ “ tràng giang” không chỉ gợi ra độ dài mà còn là độ rộng. Dòng sông ấy có từ “gợn” chỉ là gợn hơi, lăn tăn theo chiều gió nhẹ. Gợi không khí tĩnh lặng ôm trùm khắp không gian. Từ tâm trạng của thiên nhiên tác giả nói đến tâm trạng của con người, có thể nói có bao nhiêu song gợn ấy là bấy nhiêu nỗi buồn “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Điệp từ “điệp điệp” diễn tả nỗi niềm trong lòng tuy nhẹ thôi nhưng dai dẳng triền miên. “Con thuyền xuôi mái nước song song” Hình ảnh con thuyền xuôi mái nổi bật giữa dòng sông, trở nên nhỏ bé, đơn độc. “Xuôi mái” ở trạng thái bị động mặc cho dòng nước trôi. Từ láy “song song” “Thuyền về nước lại sầu trăm ngã” tác giả đã sử dụng cặp từ ngược hướng phải chăng đây là sự chia lìa, để khởi nguồn cho nỗi sầu trăm ngã.

Ở câu cuối của khổ một, hình ảnh đơn sơ bình dị, hiện thực đó là “cành củi khô”. Nghệ thuật đảo ngữ như nhấn mạnh vào sự tầm thường nhỏ bé và vô giá trị, không chỉ và vật rơi khô gãy. Lại một cành còn khô quá tầm thường nhỏ bé và đơn độc cạn kiệt sức sống. Trôi dạt vô hướng giữa không gian lớn rộng, ẩn chứa sau đó là những kiếp người và cái tôi lạc loài trong phong trào thơ mới của Huy Cận.

Phân tích 4 câu thơ đoạn 2

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Bức pháp chung trong miêu tả thiên nhiên trong thơ Huy Cận đó là gợi hơn tả.” Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”. Từ láy “lơ thơ” gợi lên sự ít ỏi nhấn mạnh cái sự vắng vẻ nhỏ nhoi, sự cô quạnh giữa không gian mênh mông chỉ có một cồn nhỏ điều hiu vắng vẻ. Tác giả cố gắng lắng nghe tìm tiếng con người. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, đây là câu hỏi tu từ, phủ nhận sự hiện diện của cuộc sống con người.

Hai câu thơ cuối của khổ thơ thứ hai, tác giả đã sử dụng biện pháp đối ”nắng xuống đối với trời lên”, “sông dài đối với trời rộng”, “sâu chót vót với bến cô liêu”. Động từ ngược hướng lên xuống gợi nên cảm giác chuyển động rõ rệt. Gợi nên chiều cao và sâu không gian được mở vô biên. Nỗi buồn thấm vào tạo vật con người hiện lên với một trạng thái cô đơn.

Phân tích 4 câu thơ trong khổ thơ thứ 3

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Khổ thơ tiếp theo gợi nên sự vô định “cánh bèo” không phải đơn thuần là cánh bèo không tìm thấy hướng đi của thiên nhiên. Mà đó là cả một thế hệ thanh niên Việt Nam không tìm thấy hướng đi.

“Mênh mông không một chuyến đò ngang” trong toàn cảnh vũ trụ này tuyệt nhiên không có bóng dáng của con người. Bởi chuyến đò, cây cầu thì phải có con người nhưng tác giả đã nói là “không”. Dùng cách nói phủ định để khẳng định ở đây chỉ có một cái có đó là “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” chỉ là thiên nhiên. Đó là sự cô đơn, cảm giác bất an của một cái tôi thơ mới. Chính nỗi niềm này đã được tác giả nói rất nhiều như ở lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” tạo nên một điểm riêng cho nhà thơ Huy Cận con người ở đây cô đơn bất an, gợn người.

Phân tích 4 câu thơ trong khổ thơ cuối

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Khổ thơ cuối dường như mờ ảo dần, hình ảnh “đùn núi bạc” là không gian hùng vĩ, tráng lệ, từ láy lớp lớp. Đối lập với không gian hùng vĩ tráng lệ đó là “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Nếu như dòng thơ trên ta thấy được dấu ấn cổ điển thì ở đây là yếu tố hiện đại, cánh chim bé nhỏ đang cố vươn cao lên trong buổi chiều tà ấy. Cái tôi thơ mới ấy mang một nỗi buồn tự thân, sự thức tỉnh. Cánh chim không chỉ chở nặng hoàng hôn mà còn trĩu nặng nỗi buồn của các nhà thơ mới.

Đến với hai câu cuối của bài thơ “lòng quê dợn dợn vời con nước, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Đây là nỗi lòng hoài hương, cái hiện đại ở đây là sự phủ định sự tác động của ngoại cảnh đến tâm trạng. Nỗi nhớ nhà da diết hơn, cháy bổng hơn, đi trên quê hương mà thấy thiếu và nhớ quê hương. Từ láy “dợn dợn” như những cơn sóng lòng đang dồn nén trong Huy Cận.

Kết bài

Nhìn chung toàn bộ bài thơ là nỗi buồn, đây là tâm trạng của các nhà thơ lãn mạng lúc bấy giờ, nỗi buồn của cả thế hệ thanh niên lúc bấy giờ chưa giác ngộ được lý tưởng cách mạng, bài thơ này tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận “sầu ảo não”. Bài thơ “Tràng Giang” được đánh giá là bài thơ dọn đường cho thơ về quê hương đất nước. Cách sử dụng ngôn từ thơ cũng như biện pháp tu từ là tạo nên một tác phẩm hay và đặc sắc.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận chi tiết nhất4

Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau cách mạng tháng 8. Thơ Huy Cận những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước thời cuộc. Chẳng thế mà "Tràng giang" ra đời lại khắc họa nét cô đơn của cá thể trước không gian bao la của thiên nhiên. Cùng với nét u buồn khắc khoải trước không gian mênh mông, bài thơ còn là nỗi nhớ quê hương, thương đất nước đang chìm trong tang thương của thi sĩ.

Bài thơ được sáng tác vào năm 1939 in lần đầu tiên trên báo "Ngày nay" sau đó in trong tập "Lửa thiêng" - tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào "Thơ mới" thời kì đầu.

Ngay khi đọc tên bài thơ "Tràng giang" người ta có thể hình dung được tư tưởng và tâm tư mà tác giả gửi trong đó. Tiêu đề gợi ra một con sông dài, mênh mông, bát ngát. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh sông dài còn là những mảnh đời bấp bênh, trôi nổi, u sầu. Câu đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" tiếp tục khẳng định nỗi niềm u uất, không biết tỏ cùng ai của nhân vật trữ tình trước không gian bao la của dòng sông.

Khổ đầu tiên đến với người đọc bằng hình ảnh con sông buồn, chất chứa những nỗi niềm khó tả

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng."

Vừa mới đọc khổ đầu tiên, người đọc thấy được không khí u sầu, buồn bã thông qua các từ "buồn", "sầu", "lạc cành khô". Câu thứ nhất miêu tả sóng, câu thứ hai tả những dòng trôi, những luồng nước trên mặt sông. Nếu như câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang loang ra, lan xa, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước cứ song song, rong đuổi mãi về cuối trời. Trong câu thứ nhất "sóng gợn" là những vòng sóng nhỏ, lăn tăn. Nhưng chỉ cần một gợn sóng ấy thì Tràng giang đã "buồn điệp điệp". Từ láy hoàn toàn "điệp điệp" như diễn tả nỗi buồn chồng chất lên nhau, hết lớp này đến lớp khác. Hình ảnh con thuyền "xuôi mái nước song song" lại gợi về cảm giác đơn độc trên dòng nước mênh mông vô tận.

Hai câu thơ kết hợp làm cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn theo chiều dài. Tác giả tiếp tục khắc họa nỗi chia li qua câu thơ thứ ba. "Thuyền" và "nước" vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó, khăng khít với nhau nhưng qua con mắt của nhân vật trữ tình thì lúc này hai hình ảnh ấy không còn song hành với nhau nữa. "Sầu trăm ngả", nỗi buồn, sự u hoài, buồn bã càng ngày càng dâng lên. Với câu thơ thứ tư tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ "củi một cành khô" để nói về sự cô đơn, trơ trọi của "củi". Số từ "một" chỉ một mình, cô đơn cùng với tính từ "khô" - hết nhựa sống, càng làm cho hình ảnh khô héo hơn. Tác giả thật tài tình khi đã sử dụng nghệ thuật đối "một" - "mấy" như nhấn mạnh hơn sự cô độc của củi trên dòng sông. "Lạc mấy dòng" không chỉ diễn tả nỗi niềm cô đơn của củi mà còn nói đến sự bấp bênh, trôi nổi khi "lạc" hết dòng sông này đến dòng sông khác. Nét độc đáo của câu thơ không chỉ là phép đối mà còn ở cách ngắt nhịp 1/3/3. Với cách ngắt nhịp ấy "củi" xuất hiện "độc lập" và điều đó càng làm rõ hơn tình cảnh lẻ loi của sự vật này. Có thể nói, hình ảnh " củi một cành khô" đã phần nào nói lên tâm trạng thi sĩ - một con người tài hoa nhưng vẫn đang loay hoay giữa cuộc sống bộn bề. Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu tiên bức tranh thiên nhiên buồn, sầu thảm đã hiện rõ. Nét bút kết hợp giữa cổ điển và hiện đại cũng phần nào giúp người đọc rõ hơn về tâm trạng của thi sĩ.

Khổ thơ thứ hai tiếp tục là khung cảnh buồn nhưng mang nét đìu hiu, thiếu sức sống.

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

Huy Cận thật khéo léo khi sử dụng hai từ láy trong cùng một câu thơ để miêu tả cảnh hoang vu, vắng vẻ hai bên bờ sông: "Lơ thơ" - thưa thớt, ít ỏi, " đìu hiu" - vắng lặng, ít người. Trên "cồn nhỏ" làn gió phảng phất không khí buồn, ảm đạm của chốn ít người, thiếu sức sống. Nó u sầu đến nỗi không nghe thấy tiếng ồn ào của phiên chợ chiều. "Đâu" diễn tả cảm giác mơ hồ, không xác định được điểm tựa để bám víu. Như vậy, chỉ qua vài nét chấm phá của nhà thơ đã hiện lên bức tranh quê thê lương, thiếu sức sống. Đến với hai câu thơ tiếp, dường như tác giả mở rộng tầm nhìn ra qua biện pháp đối "nắng xuống" - "trời lên" đã làm không gian mở rộng về chiều cao, có một khoảng không gian đang giãn nở ra ở giữa. Hai động từ ngược hướng "lên" và "xuống" mang lại cảm giác chuyển động. Nắng càng xuống thì bầu trời càng được kéo cao hơn. Và điểm nhấn chính là "sâu chót vót" - không gian mở rộng cả về chiều sâu. "Chót vót" vốn là từ láy độc quyền khi nhắc đến chiều cao. Còn đã nói tới sâu thì người ta hay dùng "sâu hun hút" hoặc " sâu thăm thẳm",...Chính cách dùng từ ngữ đặc sắc của Huy Cận đã gợi ra khoảng không vũ trụ sâu thăm thẳm, đó cũng là lúc nỗi buồn, cô đơn của nhà thơ dâng lên cao, trở nên vô cùng vô tận. Một góc nhìn đầy thú vị, mới mẻ. Câu thơ cuối cùng thi sĩ dùng không gian rộng để nói về nỗi cô đơn, vắng vẻ. "Bến cô liêu" - buồn, thưa thớt trơ trọi giữa không gian rộng lớn của sông, trời. Toàn cảnh khổ hai là một màu cô đơn, vắng vẻ, đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt là không gian mênh mông, nhấn mạnh hơn nỗi u sầu vạn cổ.

"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

Hình ảnh trong khổ thơ thứ ba đã bước đầu có chuyển động với động từ "dạt", nhưng sự vật đi kèm với động từ này là "bèo". "Bèo" vốn là hình ảnh tượng trưng cho sự bấp bênh, chìm nổi, không có nơi ở ổn định. Đã thế cụm từ "hàng nối hàng" càng diễn tả sự vô định, chông chênh khi hàng này đến hàng khác "nối đuôi" nhau. Không gian đối lập với thực tại của cảnh vật. Tác giả mong ngóng có thể nhìn thấy chuyến đò để cảm nhận được sự sống. Nhưng đáp lại sự mong chờ ấy là "không một chuyến đò ngang". Ở khổ thơ này, thi sĩ sử dụng nhiều từ phủ định: "không đò" và giờ tiếp đến là "không cầu". Hình ảnh chiếc cầu gợi lên dáng vẻ miền quê, mang nỗi niềm "thân mật". Nhưng vì hình ảnh này không có nên thành ra cảm giác xa lạ, cô đơn được cảm nhận rõ. Với câu thơ cuối của khổ tác giả sử dụng nhiều màu sắc để chấm phá cho bức tranh. "Bờ xanh tiếp bãi vàng" - sắc tranh tươi sáng, nổi bật nhưng đi kèm với từ láy "lặng lẽ" làm chìm màu sắc này xuống. Giờ đây hai hình ảnh này không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy này cũng làm cho không khí đìu hiu "lây lan" từ vật này sang vật khác. Tất cả sự vật đều nhấn chìm trong cô độc.

Nếu như ba khổ thơ đầu tiên là bức tranh thiên nhiên buồn, vắng lặng thì khổ thơ cuối cùng chính là tâm tư, tấm lòng của thi sĩ

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

Xuyên suốt bài thơ tác giả liên tục sử dụng thủ pháp nghệ thuật là từ láy. "Lớp lớp" - chồng chất lên nhau, "đùn" là đè lên làm cho một vật gì đó hạ thấp xuống. Như vậy, với câu thơ đầu khổ bốn tác giả lại vẽ tiếp bức tranh quê hương với hình ảnh rộng lớn nhiều lớp mây đè lên núi bạc. Hình ảnh "chim nghiêng cánh nhỏ" gợi cảm giác nhỏ bé, bơ vơ. "Nghiêng" - không vững vàng. Hình ảnh này đối lập với vế ở sau "bóng chiều sa". Trên nền bóng chiều rộng lớn là hình ảnh cánh chim nhỏ lo âu, còn đang mơ hồ cho con đường tìm nơi trú của mình. Hình ảnh cánh chim này đã từng bắt gặp trong "Quyện điểu quy lân tầm túc thụ" (Mộ - Hồ Chí Minh), tạm dịch "Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ". Đến với câu thơ thứ ba tác giả đã nói lên nỗi lòng nhớ quê của mình. "Dợn dợn" là gợi lên, dấy lên, có nỗi niềm khó nói. Cứ mỗi khi nhìn thấy "con nước" là lòng yêu quê hương của tác giả lại dâng lên. Tuy nhiên, nét đặc sắc lại nằm ở câu thơ cuối cùng: "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". Hơn nghìn năm trước Thôi Hiệu cũng từng chạnh lòng nhớ quê mà thốt lên rằng:

"Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu."

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)

Nỗi buồn của hai thi sĩ có một số điểm khác nhau. Ở Thôi Hiệu do nhìn thấy khói sóng trên dòng sông nên buồn và nhớ về quê nhà, còn ở Huy Cận không nhìn thấy khói nhưng nỗi nhớ nhà vẫn dâng lên da diết. Nếu như Thôi Hiệu nhớ nhà là do đang xa xứ, đang ở xứ người còn nỗi nhớ của Huy Cận xuất phát từ một người đang đứng trên mảnh đất của mình nhưng bơ vơ, lạc lõng. Nỗi nhớ thương cũng xuất phát từ sự bất lực, ngán ngẩm của bản thân thi sĩ trước thời cuộc.

Đặc sắc nghệ thuật trong "Tràng giang" trước hết phải nói tới sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố Cổ điển (thơ Đường thi) và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ tác giả sử dụng nhiều từ Hán Việt như tràng giang, bến cô liêu,...cùng với đó là đề tài thiên nhiên cổ kính, hoang sơ, cái tôi bé nhỏ trước thiên nhiên mênh mông mang đậm yếu tố Đường thi. Yếu tố thơ mới được thể hiện thông qua cái tôi giàu cảm xúc, hình ảnh sinh động giàu sức gợi. Bên cạnh đó việc sử dụng các từ láy, phép đối cũng góp phần làm rõ hơn sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ rộng lớn.

Với "Tràng giang", Huy Cận không chỉ mang đến bức tranh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông mà qua đó tác giả còn nhấn mạnh sự cô đơn của "cái tôi" trước ngân hà rộng lớn. Sự đối lập này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, sự trôi nổi của những kiếp người. Đồng thời tác giả bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước của mình.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 5

Đến với phong trào Thơ Mới, ta được hòa mình trong vườn thơ đầy hương sắc tuyệt diệu của các thi nhân. Ta không khỏi rạo rực, hứng khởi trước những vần thơ táo bạo, tràn đầy năng lượng mê hoặc của Xuân Diệu, không khỏi buồn man mác trước hồn thơ sáng trong của Thế Lữ, thổn thức trước hình ảnh thơ đầy kì dị của Chế Lan Viên, hay say sưa trước hồn thơ quê bình dị mà thân thương của Nguyễn Bính. Và đặc biệt, đến với thơ Huy Cận, ta bắt gặp nét buồn riêng biệt, độc đáo đó là một nỗi sầu rợn ngợp, u hoài, trước vũ trụ mênh mang, dường như chân trời của những nỗi buồn của nhà thơ cứ thế dài vô tận. Bài thơ “Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu cho nét phong cách đó của Huy Cận.

Bài thơ được in trong tập thơ Lửa thiêng viết vào năm 1940, tác phẩm bộc lộ tâm trạng u buồn của con người trước cảnh vật rộng lớn bao la, khắc hoạ sự cô đơn buồn thương đến tuyệt đối.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.”

Từng cơn sóng mệt mỏi gợn lăn tăn giữa dòng sông sâu rộng. Con thuyền nhỏ cô độc giữa dòng sông càng làm nổi bật sự nhỏ bé, cô đơn, thuyền mặc trôi vô định xuôi theo dòng giang bao la. Sóng gợn "điệp điệp", nước “song song", cảnh vật tuy có sự vận động nhưng sao vẫn thấy tĩnh lặng lạ lùng. Dòng sông thì bao la vô tận, thiên nhiên vẫn tuyệt đẹp đấy thôi mà sao vẫn mang nỗi sầu buồn khó tả:

" Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng"

Thuyền và nước gắn bó chặt chẽ và song hành cùng nhau "thuyền về", " nước lại" - dường như hai vật thể lại đang trong thế đối nghịch nhau gợi sự chia lìa, xa cách, cũng như nỗi sầu của người thi nhân vậy. Càng cố tìm đến thiên nhiên để thoát li nỗi sầu muộn trước nhân thế, trước thực tại đảo điên, thi nhân lại càng thấy mình cô độc, buồn thương, càng nhỏ bé trước vũ trụ vô tận. Những dòng nước cứ thế lặng lờ trôi, cành củi khô một mình lạc giữa mênh mang sóng nước. Dường như chẳng thể điều khiển được dòng nước mình đi, trôi dạt vô định giữa sông nước. Cảnh nhẹ nhàng, yên bình, đẹp nhưng đượm nỗi buồn lớn. Phải chăng cảnh cũng chất chứa tâm trạng hay chính lòng người buồn khiến cảnh cũng mang nỗi sầu tư, bởi vốn "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".

Nỗi lòng ấy lại càng sâu hơn, thê lương và cô đơn hơn, ngấm chìm vào từng cảnh vật:

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều"

Bãi cồn nhỏ nhoi, ít ỏi lại càng tô đậm thêm vẻ đìu hiu quạnh vắng của không gian. Nét cảnh vật có phần hoang sơ, tiêu điều, đơn độc. Tiếng chợ chiều xa vẳng lại chẳng rõ ràng. Có âm thanh, có hoạt động của con người đấy thôi, mà sao vẫn không vơi đi nỗi lặng lẽ của thời gian, của thiên nhiên và của lòng người. Chút âm thanh tiếng nói nơi chợ xa ấy chẳng đủ để xua tan đi cái buồn, cái tịch liêu rợn ngợp nơi đây. Càng hướng về thiên nhiên chốn quê nhà, càng mong mỏi chút gì đó sưởi ấm cõi hồn lạnh giá nhưng lại càng thấy cô đơn trên chính quê hương mình.

Thiên nhiên đáp trả lại người thì nhân ấy một khung cảnh đầy buồn vắng, quạnh hiu:

"Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Cánh bèo trôi dạt giữa dòng sông, không mục đích, không chốn đến nơi về, cứ thế xuôi theo dòng nước. Đưa mắt nhìn về bến đò, lại chỉ thấy hiu hắt, quanh vắng, chuyến đò ngang cũng chẳng thấy đâu, chẳng ai khiến ta thôi u sầu, chẳng ai cùng người thì sĩ san bớt nỗi sầu tư lúc này. Mong mỏi chút gì đấy sinh hoạt của con người cũng không thấy, bao quanh chỉ là những bờ xanh, bãi vàng tiếp nối nhau, nỗi buồn cứ thế cũng chất chồng lên nhau, thật xót xa, đau đớn biết nhường nào.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.”

Nhà thơ có cái nhìn rất tinh tế khi miêu tả thiên nhiên đầy tráng lệ, hùng vĩ, vận động rất đẹp và thơ. Từng lớp mây vốn nhẹ nhàng trôi giờ tiếp nhau tạo thành những hình núi đẹp đẽ, lớn lao, từng áng mây mang nội lực, mang sức sống bất diệt, trường tồn. Cánh chim nhỏ nghiêng mình cũng là lúc bóng chiều dần buông xuống. Khi ấy, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, tình cảm sâu nặng với quê hương lại càng trỗi dậy, dạt dào đến khó tả:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Trong trái tim nhân vật trữ tình lúc này đong đầy biết bao tình cảm tốt đẹp chốn quê nhà. Dù buồn đấy, sầu đấy, nhưng nghĩ về quê hương lại càng xúc động, không nói nên lời. “Lòng quê dợn dợn" phải chăng là những đợt sóng lòng đang dâng trào mãnh liệt nơi tâm hồn thi nhân đã dồn nén bấy lâu, càng thương nhớ lại càng da diết khôn nguôi. Đứng trên quê hương mà lại nhớ quê hương khôn cùng.

Bằng các hình ảnh giàu sức gợi, mang đậm phong vị Đường thi, với những hình ảnh cổ điển tiêu biểu, sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, Huy Cận đã thể hiện được cái tôi độc đáo của mình trong thơ. Bài thơ bồi đắp, nuôi dưỡng cho tâm hồn mỗi người về tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng sâu nặng với quê hương dân tộc.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 6

Thời đại Thơ mới của Việt Nam ghi dấu sự thành danh của nhiều bậc thi nhân đại tài. Đó là một Xuân Diệu khao khát tình đến cháy bỏng, mãnh liệt. Một Chế Lan Viên trăn trở đi tìm cái tôi cá nhân. Một Hàn Mặc Tử chìm trong thực và mộng. Và có cả một nhà thơ – một con người mang tâm hồn của một kẻ ảo não, chênh vênh giữa cõi đời rộng lớn. Thơ ông hàm súc nhưng lại ẩn chứa biết bao triết lý cùng những dòng suy tưởng miên man. Không ai khác ngoài Huy Cận – chàng thi sĩ đã để lại cho đời biết bao tác phẩm xuất sắc tuyệt thế mà đặc sắc nhất phải kể đến thi phẩm “Tràng giang”.

Hoàn cảnh sáng tác chính xác của Tràng giang là vào tháng 9 năm 1939, khi ấy Huy Cận mới chỉ vừa bước vào độ tuổi 20, đang theo học tại Trường cao đẳng Canh Nông. Bài thơ là một phút ngẫu hứng của thi sĩ trong buổi chiều đạp xe ra bến Chèm ngắm nhìn dòng sông Hồng đang cuộn chảy. Bao nỗi nhớ, bao cảnh sầu, sự cô đơn của một cái “tôi” trước thiên nhiên cứ thế tuôn trào để trở thành vần thơ còn lưu truyền hậu thế đến tận ngày nay.

Ban đầu, bài thơ có tên là “Chiều bên sông” sau đó tác giả đổi thành “Tràng giang”. So với nhan đề cũ, Tràng giang mang âm hưởng Hán – Việt trang trọng, cổ kính hơn. Sự lan tỏa của vần “ang” không chỉ vẽ ra cái mênh mông bát ngát rợn ngợp của không gian thiên nhiên sông nước mà còn ngầm gợi ra nỗi buồn trải dài không dứt. Sau nhan đề là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Chính lời đề từ này đã thâu tóm cả cảnh và tình của bài thơ. Ta thấy đâu thiên nhiên sao bao la chẳng thấy điểm cuối, còn nỗi buồn, nỗi bâng khuâng lại cứ rộng dài mãi không nguôi .

Trong bài thơ Tràng giang, có thể thấy 2 bức tranh tả cảnh và tả tâm trạng của người thi sĩ rất rõ nét. Về cảnh vật, tất cả đều nhuốm một màu hiu quạnh, vắng vẻ, cô liêu. Nhà thơ mở đầu bằng 4 câu:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Từ láy “điệp điệp” kết hợp cùng trạng thái buồn đã mở tạo ra nốt trầm trong cung bậc cảm xúc khi vừa đọc những vần thơ đầu tiên. Ta không chỉ thấy sóng tràng giang đang cuồn cuộn mà còn thấy những đợt sóng lòng của người thi nhân dường như cũng đang mênh mang lan tỏa hòa cùng trời đất. Con thuyền trên trên sóng nước cũng chẳng mảy may chèo lái để mặc “xuôi mái nước song song”. Rồi đến cuối cùng “Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả” nhuốm màu chia ly buồn bã. Những vần thơ cứ thế mà đậm chất cổ điển, ngỡ như một bậc thi nhân xứ Trung Hoa sáng tác, cho đến khi tác giả nhắc đến hình ảnh củi. Không phải bèo cũng chẳng phải hoa trôi trên sông, mà đây là cành củi lạc dòng vô định. Thân phận củi khô héo, lênh đênh trên sông nước càng thêm phần lay động.

Hai câu đầu của khổ thơ thứ hai của bài thơ tiếp nỗi buồn len lỏi vào từng không gian:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Nỗi buồn giăng mắc, mơ hồ hòa quyện với cái vẻ hiu hắt, quạnh quẽ đôi bờ sông. Nhà thơ muốn nghe lắm, muốn được thấy lắm tiếng người nói cười nhưng “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. “Đâu” ở đây là diễn tả “đâu đó” hay “đâu có” - tác giả cũng không nói rõ với người đọc. Từ “vãn” càng tạo ra cảm giác xa xôi, tẻ nhạt, quạnh vắng. Vậy là muốn nghe âm thanh của cuộc sống nhưng cuối cùng đáp trả lại nỗi lòng người thi nhân chỉ là cảnh vật hoang vu, nỗi buồn man mác.

Rồi bỗng nhiên, điểm nhìn từ dưới thấp đột ngột được đẩy lên cao.

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Ngòi bút của Huy Cận vẽ lên “nắng”, “trời”, “sông”, “bến”. Những cảnh vật vốn quen thuộc trong thơ ca nay lại nằm trong một tâm thế khác bởi một lối dùng từ ngữ chắt lọc đến tinh tế. Tác giả miêu tả “trời lên sâu chót vót” thay vì “trời lên cao chót vót”. Bởi cái “sâu” ở đây không chỉ là chiều kích không gian cảnh vật mà nó còn gợi lên một nỗi buồn không đáy, nỗi buồn trải dài đến vô cùng tận của lòng người. Người buồn cảnh có vui bao giờ, để cuối cùng những gì đọng lại chỉ còn là “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.

Đến khổ thơ thứ ba, dường như tác giả đã hoàn toàn bất lực để kéo bản thân ra khỏi nỗi buồn rợn ngợp.

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Huy Cận sử dụng hình ảnh “bèo” – sự vật nhỏ bé, tầm thường thay cho lời diễn tả đến những kiếp người mang số phận bấp bênh, trôi nổi, vô định giữa dòng đời. Cả khổ thơ 4 câu đều không thấy sự xuất hiện của bóng dáng con người. Tất cả chỉ có thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, nỗi buồn tiếp nối nỗi buồn. Cấu trúc phủ định “không một chuyến đò ngang” – “không cầu gợi chút niềm thân mật” đã xóa sạch sự kết nối của con người. Thật khó để nhìn thấy trong “Tràng giang” một chút dấu vết của sự vội vã, ồn ào, bon chen đời thường. Thứ khiến độc giả đắm chìm chỉ là một nỗi buồn hiu hắt khó tả.

Khổ cuối cùng, sự cô đơn đến đây được đẩy lên như một nốt thanh cao vút trong bản giao hưởng nỗi buồn

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Những câu thơ mang đầy màu sắc cổ điển. Huy Cận đã sử dụng bút pháp chấm phá để vẽ lên bức tranh thủy mặc có núi, có mây, có cánh chim nghiêng, bóng chiều, khói hoàng hôn. Trời đổ bóng hoàng hôn, nỗi cô đơn càng thêm phần thấm thía. Cánh chim cô đơn xuất hiện chơ vơ lẻ loi khiến người đọc đặt ra hai giả thiết. Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bay liệng bóng chiều sa xuống tràng giang hay chính bóng chiều buông dần rồi đè nặng lên cánh chim đang nghiêng lệch. Nhưng dù thế nào thì cảnh vật lúc này cũng nặng trĩu nỗi tâm tình của kẻ thi nhân đa sầu đa cảm. Từ láy “dợn dợn” thể hiện nỗi bâng khuâng cô đơn trào dâng trong lòng. Tất cả cảm xúc dồn lại đem đến nỗi “nhớ nhà”. Câu cuối của “Tràng giang” khiến ta liên tưởng đến đôi ba câu thơ cũ của Thôi Hiệu:

"Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu."

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)

Nghìn năm trước, thi nhân Trung Quốc thấy khói sóng trên sông mà buồn, còn Huy Cận, nỗi buồn cứ thế đến một cách tự nhiên. Chẳng cần một ngoại cảnh nào tác động. Tất cả trào dâng trong lòng nỗi bơ vơ, khắc khoải, cô đơn, da diết với cuộc đời.

Bằng những từ ngữ giàu sức gợi tả, bút pháp cổ điển mang đậm nét Đường thi, Huy Cận đã tạo ra một Tràng Giang nhuốm màu nỗi buồn, nỗi cô đơn. Một cái “tôi” lẻ loi giữa vũ trụ vô thường bao la đã được bộc lộ rất rõ nét. Đồng thời, cho ta thấy rõ nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết sầu bi trong tâm hồn người thi sĩ đa cảm.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận hay nhất 7

Huy Cận là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới với một “hồn thơ ảo não”. Thơ của Huy Cận luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi những khung cảnh thiên nhiên hoang vắng, mênh mang và luôn thấm đẫm một nỗi buồn. Bài thơ “Tràng giang” in trong tập “Lửa thiêng” là một trong số những sáng tác tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.

“Tràng giang” để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ của tác phẩm. Nhan đề bài thơ là một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, với nghĩa là sông dài. Nhưng đặc biệt ở chỗ, tác giả không sử dụng “trường giang” là dùng là “tràng giang” với hai vần “ang’ - hai vần vần mở, có độ vang, độ ngân xa liên tiếp nhau, điều đó đã gợi lên trong cảm nhận của người đọc hình ảnh một con sông vừa dài vừa rộng. Thêm vào đó, câu thơ đề từ của tác phẩm “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” cũng đã khái quát một cách ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ đó chính là bức tranh thiên nhiên với trời rộng, sông dài và cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ đó chính là nỗi nhớ, niềm bâng khuâng cùng nỗi buồn như lan tỏa vào trong mọi cảnh vật.

Từ nhan đề và câu thơ đề từ của bài thơ, khổ thơ thứ nhất đã mở ra một không gian sông nước sông nước rộng lớn. Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sông nước mênh mang.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Dường như, dòng sông “tràng giang” đã dài nay lại như trải dài ra hơn với từng đợt sóng “điệp điệp” cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt. Những đợt sóng ấy như trải dài đến vô tận càng tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao la của sông nước. Và để rồi, trên cái nền sông nước mênh mông ấy, hình ảnh con thuyền hiện lên thật nhỏ nhoi, cứ thế “xuôi mái nước song song”. Hình ảnh đối lập giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi lên trong chúng ta sự cô đơn, le loi. Đặc biệt, khổ thơ thứ nhất còn để lại ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc bởi hai câu thơ cuối của khổ thơ.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Từ xưa cho đến nay, thuyền và nước là hai hình ảnh luôn đi liền với nhau, ấy vậy mà ở đây dường như thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi. Có lẽ bởi thế mà cảnh vật ấy càng khiến cho lòng “sầu trăm ngả”. Đặc biệt, giữa cảnh sông nước mênh mông ấy, hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu bởi trăm dòng mênh mông vô định. Như vậy, trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định. Đồng thời, khổ thơ cũng gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.

Nếu trong khổ thơ mở đầu của bài thơ, tác giả vẽ nên không gian sông nước mênh mông thì trong khổ thơ thứ hai, tác giả lại mở ra không gian nơi cồn nhỏ. Hai câu thơ mở đầu khổ thơ thứ hai đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Với việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm tác giả đã vẽ nên một bức tranh nơi cồn nhỏ vừa thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo vừa gợi nên một nỗi buồn mênh mang. Thêm vào đó, sự hoang vắng, tĩnh mịch của không gian như càng được tô đậm thêm qua câu thơ “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Có thể nói, đây là một câu thơ có nhiều cách hiểu, “đâu” là đâu có, là phủ nhận âm thanh của tiếng chợ chiều hay là đâu đó, gợi lên âm thanh yếu ớt của tiếng chợ. Nhưng có lẽ dẫu hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người. Nếu hai câu thơ đầu khổ hai gợi lên không gian cồn nhỏ vắng vẻ, hiu quạnh thì dường như trong câu ba và câu bốn, không gian ấy như được mở rộng cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Trong hai câu thơ, tác giả dùng “sâu chót vót” thay vì “cao chót vót” bởi lẽ chữ “sâu” không chỉ tả cảnh mà còn tả tình, nó không chỉ gợi lên một khoảng không gian rộng lớn, thẳm thẳm mà còn gợi lên cả nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của lòng người trước cái mênh mông, hoang vắng của cảnh vật.

Như vậy, trong hai khổ thơ đầu của bài thơ, nỗi buồn của nhà thơ như bao phủ lên mọi cảnh vật, lên không gian rộng lớn và mênh mông. Và để rồi, trong khổ thơ thứ ba của bài thơ, tác giả lên trở về với không gian sông nước với khung cảnh mênh mang, đìu hiu, thiếu vắng đi sự sống của con người.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bài vàng

Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” một lần nữa gợi lên trong người đọc hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu. Thêm vào đó, khổ thơ với việc sử dụng nghệ thuật phủ định lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh sự hiu quạnh, thiếu sự sống của cảnh vật. Lẽ thường, chúng ta vẫn thường thấy rằng, thuyền và cầu là những phương tiện, những hình ảnh thể hiện sự giao lưu, kết nối giữa con người với con người, giữa miền đất này với miền đất khác nhưng ở đây “không một chuyến đò”, “không một cây cầu”. Dường như, ở nơi đây chẳng có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với nhau. Có lẽ bởi thế mà hai bờ của dòng sông cứ thể chạy dài, chạy dài mãi mà chẳng bao giờ gặp nhau, chỉ còn lại ở nơi đây những bờ xanh, những bãi vàng nối tiếp nhau - một bức tranh đẹp nhưng tĩnh lặng và thật buồn.

Nếu trong ba khổ thơ trên, tác giả vẽ nên một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, hoang vắng với nỗi buồn, cô đơn thì trong khổ thơ cuối cùng, tác giả đã thêm vào cho bức họa thiên nhiên ấy một gam màu mới và ẩn sau đó là nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiểu sa

Lòng quê dờn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Hai câu thơ đầu khổ thơ cuối đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ. Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác nối tiếp nhau “đùn” lên dưới ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát bạc. Dường như chỉ với một câu thơ thôi nhưng tác giả đã tạo nên một bức tranh thật đẹp. Và để rồi, trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ ấy, hình ảnh cánh chim xuất hiện như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn của nhà thơ. Dường như, sự đối lập giữa cái nhỏ bé của cánh chim chiều với sự rộng lớn, hùng vĩ của “lớp lớp mây cao” càng làm không gian như rộng hơn và nỗi buồn, sự cô đơn của nhà thơ cũng thế tăng lên. Và để rồi, trước không gian ấy, trong lòng nhà thơ hiện lên nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng. Hình ảnh “dờn dợn vời con nước” không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế nó còn gợi lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ - nỗi buồn của người xa xứ đang nhớ quê hương da diết. Đặc biệt, câu thơ đậm chất cổ điển khép lại bài thơ đã diễn tả một cách chân thực và rõ nét niềm thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơ và tâm trạng ấy cũng chính là tâm trạng thường gặp ở tầng lớp tiểu tư sản thời bấy giờ.

Tóm lại, “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và màu sắc hiện đại cùng những hình ảnh thơ độc đáo đã gợi lên trong chúng ta nỗi buồn, sự cô đơn của một cái tôi trước khung cảnh thiên nhiên bao la, rộng lớn và đặc biệt đó chính là tấm lòng tha thiết với quê hương, với đất nước. Đọc bài thơ, giúp chúng ta hiểu vì sao Xuân Diệu từng đánh giá “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông, đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quốc”.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 8

Mỗi ai khi đi xa đều mang trong mình chút hình chút bóng thân thương của dòng sông quê hương. Đặc biệt đối với các nhà thơ, nhà văn, dòng sông quê luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn, thôi thúc các nhà thơ không thể kìm lòng mà phải viết. Một dòng sông “nước gương trong soi tóc những hàng tre” trong thơ Tế Hanh, một con sông Đà trong tùy bút Nguyễn Tuân, một dòng sông Hương êm đềm trong văn Hoàng Phủ…. Và chỉ khi đến với “Tràng Giang” của Huy Cận, ta mới thấy hết được những gì đẹp nhất, thơ nhất nhưng cũng chứa chan tình quê trong cảm thức của tác giả.

Mang trong mình cả cái tài, cái tâm lẫn cái tầm, Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Suối nguồn thơ ca truyền thống đã rót vào tâm hồn Huy Cận những giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ – những khi đạt đến độ thuần thục – rất dễ đi vào lòng người. Thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh – trong tay Huy Cận – vừa mộc mạc chân tình vừa lắng đọng, hàm súc; sắc thái biểu hiện được phát huy rõ rệt. Chất suy nghĩ bàng bạc khắp các tứ thơ. Hình ảnh thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh mà thâm trầm, khơi gợi; như len nhẹ, như ngấm sâu vào tâm hồn và trí tuệ người đọc. Những bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường rất ít đường nét, giản ước theo bút pháp cổ điển, gợi nhiều hơn tả. Do đó, có thể nói: ấn tượng không gian có được – trước hết – nhờ phong vị Ðường thi. Nhà thơ Xuân Diệu có lần từng nhận xét: “Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm mạnh của Huy Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình”. Và “Tràng Giang” đã thể hiện sâu sắc điều đó.

“Tràng giang” là bài thơ tuyệt bút in trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Theo tác giả cho biết, vào một buổi chiều thu 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chèm, ngắm dòng sông Hồng mênh mông, lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận về tràng giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trước cảnh: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Có thể nói nhan đề của một bài thơ chính là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc có thể lần mò theo đó khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Và bài thơ “Tràng giang” cũng vậy, ý nghĩ, nỗi niềm thầm kín được gửi trọn trong nhan đề vẻn vẹn hai từ “Tràng giang”. “Tràng giang” hay còn gọi là “trường giang” là một từ hán việt ý chỉ con sông dài. Nhưng tác giả lại lấy tên “Tràng giang” chứ không phải “Trường giang”. Bởi vốn dĩ “Trường giang” chỉ có ý nghĩa chỉ con sông dài đơn thuần như thế; nhưng ngược lại “Tràng giang” vừa nói con sông dài mênh mông, vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của chính tác giả. Vần “ang” kéo dài ra như nỗi niềm của Huy Cận chưa bao giờ vơi khi đứng trước con sông rộng lớn mênh mông này.

Bước vào thế giới của Tràng Giang, ta như lạc vào một miền sông dài trời rộng đầy cuốn hút:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Câu thơ đầu mở ra với sóng. Không ồn ào, mạnh mẽ mà là “sóng gợn”. Động từ “gợn” vừa miêu tả tư thế, vừa miêu tả tâm thế. Bởi lẽ, “gợn” trước hết gợi đến những chuyển động vô cùng nhỏ, chậm rãi của sóng. Tuy là một động từ nhưng thực chất “gợn” gợi ra cái không khi tĩnh lặng, im ắng của thiên nhiên sông nước. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh của nhà thơ sao thật tài tình. Chi tiết hé mở hoàn cảnh thiên nhiên, nhưng cũng mở ra không gian tâm trạng của nhà thơ. Ta thấy ở đó tâm thế của một con người mang trong mình sự sâu lắng, mà cũng đượm buồn. Sóng không chỉ là sóng sông mà còn là sóng lòng, sóng tâm đang nhẹ nhàng từng gợn nhỏ, thấm cái “buồn điệp điệp” toát ra từ cảnh và dội vào lòng thi nhân. Từ láy ‘điệp điệp” không chỉ vẽ lên những đợt sóng gợn liên hồi của sông nước mà còn là dòng sông tâm trạng của nhà thơ, sóng lòng từng đợt từng đợt cuộn vào nhau. Đặc biệt hơn, ngay ở câu đầu, tác giả đã nhắc lại nhan đề bài thơ không phải không có dụng ý. “Tràng Giang” là con sông vừa dài vừa rộng, gợi ra không gian rộng lớn, choáng ngợp. Đặt giữa cái nền ấy là một con người lẻ bóng, nhỏ nhoi đang đưa cặp mắt buồn theo mấy con sóng lăn tăn tít tắp đến tận chân trời.

Điều này càng tô đậm thêm nỗi lòng của Huy Cận, một thi sĩ sẵn sàng buồn mọi lúc mọi nơi. Nỗi buồn của người lữ thứ dừng chân trên quán chật đèo cao, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn, buồn khi nắng xuống, khi chiều lên, thậm chí là buồn khi không còn thấy những dấu chân trên đường.

Nếu như câu thơ đầu chập chùng sóng vỗ thì đến những câu tiếp theo đã thấp thoáng bóng dáng của con thuyền. “Con thuyền xuôi mái nước song song” hay cũng chính là con thuyền trôi vô định, trôi song song dòng nước, cho con sóng đưa đi. Hình ảnh đó gợi cho tôi một tâm thế buông xuôi, phó mặc cho dòng đời, sự đời đưa đẩy của thi nhân. Cùng với nỗi “buồn điệp điệp” trên, câu thơ càng làm sáng tầng ý nghĩa sâu sắc này.

Có thể nói, câu thơ thứ ba là một sáng tạo tài tình của tác giả. Theo lẽ thường, nước đẩy, thuyền trôi. Thuyền trôi theo dòng nước. Nói cách khác, thuyền và nước không bao giờ tách rời nhau, ngược chiều nhau. Nhưng với Huy Cận thì “thuyền về, nước lại”. Hai thế đối lập gợi ra cái vô lí trong logic nhưng thực chất, xét ở bề sâu, bề sau, bề xa, ta càng hiểu được hơn nỗi lòng của người lữ khách miền sông nước. Phải chăng đó là mặc cảm chia lìa trong cảm nhận của Huy Cận khi đứng trước sông dài trời rộng? Cũng như Hàn Mặc Tử khi còn nằm trên giường bệnh, nhìn ra xa mà thấy “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Đó là nỗi buồn đầy ám ảnh trong mặc cảm chia li. Thế nên Huy Cận “sầu trăm ngả”. Nỗi sầu to lớn mà không gì có thể bù đắp được.

Toàn bộ nỗi lòng của nhà thơ cuối cùng được kết đọng cả trong hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Thơ ca từ cổ chí kim, nỗi buồn được cắt nghĩa dưới vô vàn hình hài góc cạnh khác nhau. Có cái nỗi buồn khi thấy “cây ngô đồng, vàng rơi vàng rơi thu mênh mông” (Bích Khê), có cái nỗi buồn trước “rặng liễu đìu hiu” (Xuân Diệu), lại có cái buồn khi nghe thấy tiếng gà gáy não nùng trong thơ Lưu Trọng Lư. Nhưng có lẽ, buồn trước một cành củi khô thì chưa bao giờ xuất hiện trong kho tàng văn học Việt Nam. Củi chỉ những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh, cũng trôi lênh đênh vô định trong dòng chảy của cuộc đời. Vậy nên, “củi một cành khô lạc mấy dòng” là điều không thể tránh khỏi.

Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ của khổ đầu:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Điều đầu tiên gây ấn tượng trong lòng độc giả là phép đảo ngữ. Từ láy “lơ thơ” được đặt lên đầu câu, nối tiếp sau đó là “cồn nhỏ gió đìu hiu”. Một câu mà xuất hiện liên tiếp ba tính từ chỉ sự xơ xác, nhỏ bé, lẻ loi của tạo vật. Đìu hiu, hay cũng chính là cái buồn không ai chia sẻ đang dậy sóng trong tác giả. Thay vì là bức tranh thiên nhiên như khổ một, khỏ thơ thứ hai lại tái hiện cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà tiêu biểu nhất là hình ảnh chợ chiều thời điểm vãn. Chợ vốn dĩ miêu tả cảm giác đông đúc, ấm no, tràn đầy sức sống, đúng như Nguyễn Trãi từng miêu tả: “Lao xao chợ cá làng Ngư Phủ”. Đủ để thấy cái vui tươi nhộn nhịp của một phiên chợ. Huy Cận không như thế, ông chọn cho mình thời điểm vãn chợ như một tín hiệu nghệ thuật đặc sắc. Chợ vãn là khi “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía…” (Thạch Lam). Chi tiết gợi ra cái hoang tàn, xơ xác, hiu quạnh, heo hút của làng quê miền sông nước, cũng là gợi mở cái buồn vô hạn trong lòng thi nhân.

Hai câu cuối là một sáng tạo nghệ thuật tiêu biểu cho cái hồn thơ đậm phong vị Đường thi của Huy Cận. Câu trước, câu sau đối nhau, niêm luật sử dụng chặt chẽ cùng các động từ, tính từ đối nhau từng cặp: lên – xuống, dài – rộng như mở thêm cho không gian. Sông nước đã rợn ngợp nay càng rộng lớn hơn nhiều lần. Sông nước mở ra theo chiều cao, chiều sâu, chiều dài, chiều rộng. Không gian như đang giãn nở từ từ theo mọi chiều kích. Đọc câu thơ ta thấy như mọi vật đang chuyển động r xa hơn, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn. Và ở chính giữa bức tranh ấy, ta thấy tâm điểm vẫn là bóng dáng nhỏ bé tưởng chừng đơn độc, hiu quạnh giữa vũ trụ.

Nỗi buồn, nỗi sầu của thi nhân vì thế mà nhân lên gấp bội lần.

Khổ thơ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên lạc giữa các sự vật. Con mắt nhà thơ nhìn vào bèo, những sinh thể nhỏ nhoi, yếu đuối giữa mặt nước mênh mông.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Cảnh mênh mang, buồn bã, trống vắng của Tràng Giang được nhân lên mấy lần phủ định. Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ, là biểu hiện của sự giao nối của con người và cuộc sống, thường gợi lên không khí tấp nập, thân tình, gợi nhớ quê hương: “Chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta – Đêm trăng sáng trên cầu anh thổi sáo – Đêm trăng sáng chân cầu em giặt áo – Nhịp cầu nối những bờ vui.” (Nhịp cầu nối những bờ vui). Nhưng ở đây, không một chiếc cầu bắc nối đôi bờ, nghĩa là tuyệt nhiên không một dấu vết của sự sống hay một cái gì gợi đến tình người, lòng người muốn gặp gỡ lại qua đôi bờ hoang vắng. Hai bờ sông cứ thế chạy dài về phía chân trời như hai thế giới cô đơn, xa lạ, không bao giờ gặp nhau, không chút niềm thân mật của những tâm hồn đồng điệu. Cảnh Tràng Giang nay chỉ còn “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Bức tranh thật đẹp nhưng tĩnh lặng và buồn đến nao lòng.

Trên mặt nước ấy xuất hiện hình ảnh cánh bèo lẻ loi, đơn độc, gợi đến thân phận “cánh bèo mặt nước” (Nguyễn Du), sự tan tác, chia lìa, phiêu bạt:

Phận bèo bao quản nước sa

Lênh đênh đâu cũng nữa là lênh đênh

Nguyễn Du

Câu thơ cho ta thấy: Bèo dạt hoa trôi trên dòng Tràng Giang hay cũng chính là kiếp trôi nổi của con người trong dòng thời gian. Cả bốn câu, mỗi câu một nỗi buồn riêng, kéo nhau như sóng gợn trong lòng Huy Cận.

Không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn, nhưng từng lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng nên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ trơi giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này.

Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian:

Lòng quê dờn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

“Lòng quê” hay cũng chính là hồn quê, tình quê trong lòng thi nhân, sự hướng tâm chứ không chỉ đơn thuần là tấm lòng chất phác, quê mùa. Hai từ “dờn dợn” cho ta cảm nhận sóng biển đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay tác giả đang nhớ thương vậy? Hai từ “dờn dợn “còn gợi cho ta thấy được sự lên xuống uốn lươn của sóng biển hay nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng của một buổi chiêu tà.và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà là liên tục, nhiểu lần nhưng nỗi ấy mới chỉ là “dờn dợn” mà chưa phải là cuồng nhiệt. Câu thơ muốn nói lên lòng nhớ quê hương khi tác giả đứng trước sông nước rợn ngợp.

Câu thơ cuối cùng kết lại toàn bài. Đó chính là điểm nhấn sâu sắc nhất, đóng lại tư tưởng, tình cảm của bài thơ. “Không khói hoàng hôn” nghĩa là không một yếu tố ngoại cảnh nào tác động trực tiếp đến thi nhân nhưng tại sao nhà thơ vẫn nhớ nhà? Đặt trong thơ ca từ cổ chí kim, Thôi Hiệu đã từng bày tỏ nỗi hoài hương của mình thế này: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” (Hoàng Hạc Lâu). Trước cảnh mà dâng trào nên tình nhớ. Còn ở Huy Cận, ta lại thấy không một chút gợi nhớ nhưng tấm lòng nhà thơ vẫn hướng về quê cha đất tổ. Đủ để thấy cái tình quê ấy nó đậm đà biết nhường nào. Đặt trong hoàn cảnh ra đời bài thơ, Huy Cận đứng trước dòng sông quê hương mà vẫn nhớ quê hương, thâm trầm nhưng sâu sắc. Tình cảm ấy, tấm lòng ấy, mấy ai sánh kịp?

Dưới hình thức một bài thơ đậm phong vị Đường thi, kết cấu mạch lạc và cái tài sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh của tác giả, bài thơ hiện lên như một bản hòa ca mà ở đó, các nốt nhạc đều hợp sức tấu lên khúc ca yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà phê bình Phan Cự Đệ có lần từng nhận xét: “Các nhà lãng mạn gửi gắm vào trong thơ một tấm lòng tha thiết yêu thiên nhiên đất nước và một sự nâng niu đối với tiếng Việt, lúc bấy giờ bị xem như tiếng mẹ ghẻ, tiếng con đòi… Tiếng nói trong Thơ mới là tiếng mẹ đẻ yêu thương, phong cảnh trong Thơ mới chính là đất nước Việt Nam mĩ lệ với những vẻ đẹp riêng của từng vùng quê hương (“Quê hương” của Tế Hanh, “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, “Đà Lạt đêm sương” của Quách Tấn, “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp, “Chiều xuân” của Anh Thơ…). Cho nên ta có thể dễ dàng thống nhất với Xuân Diệu khi anh viết: “Tràng giang” là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.

Thời gian có thể phủ bụi một số thứ. Nhưng có những thứ càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp. “Tràng Giang” của Huy Cận là một bài như thế. Cùng với tấm lòng chan chứa tình yêu quê hương đất nước của nhà thơ, thi phẩm sẽ còn sống mãi với chúng ta cho đến tận muôn đời.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 9

Lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài", là cảm hứng chủ đạo của Huy Cận trong bài thơ "Tràng giang" đã khắc chạm vào thời gian và hồn người trong hơn nửa thế kỉ qua. "Tràng giang" là bài thơ tuyệt bút in trong tập "Lửa thiêng" xuất bản năm 1940.

Theo tác giả cho biết, vào một buổi chiều thu 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm, ngắm dòng sông Hồng mênh mông, lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận vể tràng giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trước cảnh "Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".

Khổ thơ đầu nói về "sóng gợn", con thuyền và cành củi khô trôi trên dòng sông:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song".

Tràng giang - sông dài và lớn, như Hoàng Hà, Trường Giang,... ở đây là sông Hồng thân yêu, dòng sông "đỏ nặng phù sa". Sóng gợn lăn tăn, lớp lớp "buồn điệp điệp", như vỗ vào, thấm sâu vào lòng người bao ám ảnh. Con thuyền nhỏ bé, trôi xuôi dòng, buông mái chèo "nước song song".

Cặp từ láy: "điệp điệp" và "song song" gợi tả một nỗi buồn thấm thía, xa vắng và mơ hồ. Hình ảnh cành củi khô vừa hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. "Củi một cành khô" nhỏ bé, tầm thường từ rừng xa trôi về đã được đem vào thơ, tạo nên "cái vị ý mới mẻ" của Thơ mới. Nó còn biểu tượng cho một kiếp người phù du, bé nhỏ trôi nổi trên dòng đời vô định. Buồn thương thế, biết đi đâu về đâu?

"Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng".

Phép đối được sử dụng sáng tạo, chỉ đối ý, đối hình mà vần thơ vẫn cân xứng hài hoà. Con thuyền và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên tràng giang. Huy Cận đã nói nhiều đến "vạn cổ sầu", "buồn thiên thu", ở đây ông lại viết "sầu trâm ngả". Cả cõi dương và cõi âm? "Sầu trăm ngả" như toả rộng và phủ lên những kiếp người đau thương. Các số từ trong ba vần thơ "sầu trăm ngả", "củi một cành khô", "lạc mấy dòng" đã làm thấu rõ cái ám ảnh về kiếp người thì nhỏ bé, hữu hạn, sự đau khổ, sầu thương thì to lớn, vô hạn.

Nỗi buồn vô hạn ấy lại được miêu tả qua một không gian bao la. Cái bé nhỏ tương phản với cái mênh mông, vô cùng. Cồn thì nhỏ bé thưa thớt, buồn bã: "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu". Vần lưng: "nhỏ - gió", kết hợp với láy âm: "lơ thơ" và "đìu hiu", âm hưởng câu thơ như trĩu lòng người về một nỗi buồn hiu hắt, cô quạnh. Nghệ thuật sử dụng từ láy tài ba, gợi lên màu sắc cổ kính, dẫn hồn người đọc trở về với cổ thi: "Non Kì quạnh quẽ trăng treo - Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò" (Chinh phụ ngâm), "Lơ thơ tơ liễu buông mành..." (Truyện Kiều).

Chợ chiều vốn đã buồn xao xác, vãn chợ chiều thì cái buồn xao xác xa vắng lại nhiều lần nhân lên. Thế mà giờ đây cái âm thanh xao xác "vãn chợ chiều" từ một làng xa cũng không còn nữa. Từ "đâu" biểu lộ cái ngơ ngác của thi nhân với một nỗi buồn cô quạnh chứa chất trong lòng: "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều".

Bầu trời và lòng sông là không gian hai chiều. Trời cao thăm thẳm in xuống lòng sông. Người ta thường nói: "cao chót vót", "sâu thăm thẳm", nhưng Huy Cận lại viết: "sâu chót vót" để làm nổi bật hai tiểu đối: "nắng xuống" và "trời lên" kia, cái bao la, mênh mông đều rợn ngợp của dòng sông, bầu trời và bến đò xa vắng:

"Nắng xuống trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".

"Tràng giang" là thi phẩm đại diện sáng chói, lung linh nhất của "Lửa thiêng". Nói đến "Tràng giang" là nói đến "Lửa thiêng". Nói đến "Lửa thiêng" là nói đến nỗi buồn mênh mang, bao trùm không gian và thời gian, dường như ngầm chất chứa "cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế!" (Xuân Diệu).

Câu hát "bèo dạt mây trôi" trong dân ca quan họ từng gợi lên trong hồn ta nhiều cảm xúc mơ hồ. Khổ thứ ba, Huy Cận lấy cánh bèo trôi dạt trên tràng giang làm biểu tượng cho sự hợp tan, chia lìa trên dòng đời của những kiếp người truân chuyên lưu lạc:

"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng".

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng".

Giữa cái bao la trời đất, sông nước hầu như không có bóng dáng con người. Câu thơ phủ định bằng điệp từ "không" liên tiếp: "không một chuyến đò ngang", "không cầu gợi chút niềm thân mật" và chỉ có một màu vàng của bãi tiếp nối với màu xanh của bờ vô tận. Cái buồn và cô đom của một tâm trạng được diễn tả trong một không gian "mênh mông" và "lặng lẽ'. Khổ thơ cuối nói về khoảnh khắc hoàng hôn. Hoàng hôn trong thơ cổ thường gắn liền với tình quê, cố hương

"Dừng chân đứng lại: trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta".

(Qua Đèo Ngang)

Thôi Hiệu, nhà thơ lỗi lạc đời Đường, đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn khói sóng phủ mờ trên sông buổi hoàng hôn mà lòng thổn thức:

"Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?".

(Tản Đà dịch)

Huy Cận lựa chọn một số thi liệu đầy chất thơ để diễn tả một tình quê vơi đầy: một cánh chim chiều, lớp lớp núi mây bạc. Không có khói sóng mà vẫn thương nhớ quê nhà da diết:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà".

Câu thơ nên họa, đầy hình tượng và dạt dào cảm xúc. Hồn thơ Đường như thấm vào câu chữ. Ai đã từng xa quê, trong khoảnh khắc hoàng hôn mới thấy hết cái hay (đẹp mà buồn) trong những bài thơ nói về tình quê, lòng quê. "Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng" (Truyện Kiều),..: "Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ - Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn" (Chiều hôm nhớ nhà). - Từ cảm nhận ấy, ta như bâng khuâng nhập hồn mình vào "Tràng giang", lặng lẽ trầm ngâm nhìn theo "vời con nước" mà "nhớ nhà", nhớ quê hương.

Huy Cận không cần có khói sóng mà lòng quê vẫn "dợn dợn", vẫn "nhớ nhà". Rõ ràng tình quê trong Huy Cận cháy bỏng và da diết vô cùng. Đúng là thơ đích thực nâng đỡ lòng người, khơi dậy những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn người để vươn tới cái cao cả. Đọc "Tràng giang" ta cảm nhận sâu thêm chân lí ấy.

"Tràng giang" là một trong những bài thơ hay nhất của Huy Cận trong tập "Lửa thiêng", ngọn lửa vĩnh cửu toả sáng một hồn thơ đẹp. Thi sĩ đã chọn thể thơ thất ngôn với bốn khổ thơ, như một bức hoạ tứ bình tuyệt tác. Một nỗi buồn thấm thía được diễn tả lớp lớp tầng tầng qua những vần thơ mĩ lệ, hàm súc.

"Tràng giang" là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng người mới có "Đất nở hoa" và những "Bài thơ cuộc đời" đằm thắm, nồng hậu... sau này. Đọc "Tràng giang" để ta thêm yêu thêm nhớ đất trời sông núi quê hương.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 10

Trước Cách mạng tháng Tám, thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn - nỗi buồn tiêu biểu cho cả một thế hệ Thơ mới. Bài thơ Tràng giang (1939 - trích từ tập Lửa thiêng) thể hiện cái tôi buồn miên man của nhà thơ trước cảnh trời rộng, sông dài; nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Bài thơ còn thể hiện tình yêu đất nước thầm kín của nhà thơ

Tràng giang nghĩa là sông dài, từ tràng cũng đọc là trường. Nhưng từ tràng giang với âm hưởng mênh mang của nó, gợi cảnh bao la, bát ngát hơn (tràng giang đại hải). Tác giả dùng từ Hán - Việt đã tạo ra vẻ cổ kính, vĩnh viễn của dòng sông. Mở đầu bài thơ là cảnh sông nước:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Câu thơ đầu gợi tả cảnh dòng sông mênh mang, những con sóng gợn lô nhô gối nhau tới chân trời tạo cảm giác êm ả trong không gian quạnh vắng như chứa đựng sẵn nỗi buồn: buồn điệp điệp. Nỗi buồn lớp lớp nối nhau tỏa theo con nước đi về trăm ngả: sầu trăm ngả. Cảnh tràng giang trong bài thơ mang một màu cổ kính;

Xanh om cổ thụ tròn xoe tán.

Trắng xóa tràng giang phẳng lặng lờ.

(Thuyền đi)

Hình ảnh bổ sung cho con thuyền là cành củi khô chìm nổi lênh đênh giữa cảnh bát ngát của dòng sông: Củi một cành khô lạc mấy dòng. Từ rừng thẳm, cành củi qua bao sông suối mà trôi về đây, dập dờn giữa chốn sông nước bao la, gợi liên tưởng đến cảnh đời lạc loài, bơ vơ. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng bị dòng đời cuốn trôi không biết về đâu.

Khổ thơ gợi tả cảnh với không gian sông nước mênh mông với những đường nét: song song, điệp điệp, nhưng lại: sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nên không hứa hẹn gì hội tụ, gặp gỡ mà chia tan, xa rời. Thủ pháp tương phản giữa hình ảnh dòng sông rộng lớn với cảnh củi khô và chiếc thuyền nhỏ bé, càng làm nổi bật cảnh bát ngát, vô tận của dòng sông và thân phận lẻ loi, bé nhỏ của con người.

Âm điệu chung cho cả bài thơ, buồn vì thân phận con người cô đơn, lạc loài trong cuộc đời cũ. Khổ thơ thứ hai tiếp tục mạch thơ khổ đầu nhưng không gian được mở rộng ra và đẩy lên cao hơn.

Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Cồn nhỏ đơn côi giữa dòng sông, lại thêm ngọn gió đìu hiu làm cho cảnh càng hoang vu, hiu hắt, chìm khuất. Dòng nước lũ trên thượng nguồn đổ về nhấn chìm cồn nhỏ giữa sông chỉ còn nhô lên vài ngọn cỏ lưa thưa gợi liên tưởng đến những thân phận bị dòng đời nhấn chìm xô dạt.

Không gian mở rộng sang bên bờ: cảnh chợ chiều đã vãn càng tô đậm cái vắng vẻ, xa lìa.. Cảnh chợ chiều có gợi đến cuộc sống, quê nhà nhưng chỉ là âm thanh xao xác rồi mất hút dần trong cảnh mênh mang vắng lặng của dòng sông. Dòng sông và. nhà thơ như bị tách ra khỏi cuộc đời nên đứng trong cảnh ấy lòng người càng thêm thương nhớ cuộc sống quê hương.

Bầu trời hiện ra cũng làm tăng thêm vẻ lạc lõng: Nắng xuống trời lên sâu chót vót. Câu thơ giàu hình tượng, gợi tả không gian có hình khối đường nét và màu sắc: từng vạt nắng trên cao rơi xuống tạo nên khoảng không sâu thẳm trên bầu trời, độ sâu của bầu trời như ở ngọn cót vót. Cách dùng từ sâu gợi không gian bầu trời như mở rộng và đẩy lên cao hơn, sâu hơn, tạo ra không gian thăm thẳm, khôn cùng vô biên của vũ trụ và nỗi buồn của nhà thơ dường như vô tận, mênh mông:

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Dòng sông, bến bãi, đến bầu trời đều rời rạc và được khỏa lấp nỗi buồn của nhà thơ, buồn vì thiếu vắng cuộc sống nên mong tìm về với cuộc sống. Nhưng cảnh càng xuất hiện càng lạc lõng, hờ hững:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu một chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Các sự vật được bên nhau: bèo dạt nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng nhưng tạo ra một thế giới không liên hệ, chia lìa. Trong khung cảnh ấy hồn thơ muốn tìm đến dấu vết của cuộc sống nhưng tất cả đều mênh mông xa vắng được nhấn mạnh bởi hai lần phủ định:

Mênh mông không một chuyển dò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Không một con đò, không một chiếc cầu tri âm, không có bóng người hay cái gì gợi đến tình người để mà gặp gỡ giao tiếp. Chỉ có mặt nước mênh mông vắng lặng.

Tới ngã ba sóng nước bốn bề,

Nửa chiều gà lạ gáy bên đê

(Em về nhà)

Trong cảnh ấy, tình người càng buồn hơn, buồn vì sự thiếu vắng cuộc sống. Nhà thơ đứng ngay giữa quê hương mình mà cảm thấy bơ vơ, trơ trọi nên càng khao khát gắn bó với con người, cuộc sống, với quê hương:

Thuyền không giao nối đây qua đó

Vạn thuở chờ mong một cánh buồm

(Đảo)

Bài thơ khép lại với cảnh hoàng hôn kì vĩ nơi chân trời xa:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Khung cảnh mở ra với hình ảnh núi bạc được kết tạo bằng mây trắng lấp lánh ánh nắng trời. Tác giả bình: “Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao. Ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp”. Một vẻ đẹp kì thú, ngời sáng, hùng vĩ.

Hình ảnh này gợi nhớ đến một ý thơ dịch từ thơ Đường: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa” (Đỗ Phủ) nhưng lại có vẻ đẹp rạng rỡ hơn. Một cánh chim chiều xuất hiện làm cho bức tranh thêm sinh động, thơ mộng, đẹp đẽ nhưng nhỏ bé, mông lung. Cánh chim nhỏ như bị nắng chiều đè xuống, chỉ nghiêng cánh lá bóng chiều đổ xuống làm cho không gian như có hình khối, trọng lượng và thiên nhiên có vẻ như trĩu nặng nỗi buồn của thi nhân. Cảnh mông lung xa vắng ấy càng gợi thêm lòng thương nhớ quê hương:

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Con sóng lòng nhớ quê của nhà thơ đã tỏa ra nhập vào con sóng nước. Con nước cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi sóng nước. Con nước cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi về mọi nẻo. Ý thơ cuối mượn từ tứ thơ của Thôi Hiệu đời Đường:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

(Hoàng Hạc Lâu)

Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà, còn Huy Cận không cần khói sóng vẫn nhớ quê hương. Vì mối tình ấy luôn khắc khoải trong lòng. Đó là nguyên nhân chính của nỗi buồn trải dài suốt bài thơ. Một con người buồn nhớ quê hương khi đúng ngay giữa quê hương mình càng thấy bơ vơ tội nghiệp làm sao! Bài thơ kết thúc là cảnh hoàng hôn trên sông nước và mở ra một tình quê bát ngát.

Tóm lại, nỗi buồn sông nước, trời mây trong Tràng giang của Huy Cận cũng là nỗi đau cuộc đời, nỗi sầu nhân thế. Nhà thơ gởi gắm vào đó một tấm lòng tha thiết yêu quê hương đất nước, sự nâng niu đối với tiếng Việt. Vì vậy, Xuân Diệu đánh giá: “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang san, Tổ quốc”.

Bài thơ thể hiện cái buồn chung của một thời đại trong Thơ mới. Nhưng nỗi buồn toát ra từ cái đẹp của thiên nhiên thiếu liên lạc thiếu tình người chứ không phải cái buồn vì cảnh tù túng ngột ngạt trong Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài thơ mang phong vị cổ điển ở hình ảnh, giọng điệu nhưng vẫn mang nét đặc sắc của thơ hiện đại ở không gian sắc màu, từ ngữ đến tứ thơ.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 11

Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ Mới, thơ ông có một bản sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội cũng như triết lí. Thơ Huy Cận mang một nỗi buồn sâu lắng, miên man, ảo não và thảm đạm; nỗi buồn của "đêm mưa", của "người lữ thứ", nỗi buồn của "quán chật đèo cao", của "trời rộng sông dài". Tràng Giang là một bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, sáng tác vào năm 1939, đăng lần đầu trên báo Ngày nay, sau đó in vào tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ mang phong vị Đường thi khá rõ. Đây là bài thơ được cảnh sông nước mênh mông của sông Hồng gợi tứ. Huy Cận đã có lần tâm sự: Tôi có thú vui thường chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng và Hồ Tây. Phong cảnh sông nước đẹp, gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ không chỉ so sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương".

Lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" khái quát chủ đề của cả bài thơ là một nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa đất trời mênh mông, rộng lớn và bao la. Bài thơ toát lên vẻ đẹp vừa hiện đại, vừa cổ điển, cũng là một nét đặc trưng trong thơ của Huy Cận.

Mở đầu bài thơ là cảnh sông nước, khổ thơ đầu làm người đọc liên tưởng đến con sông thăm thẳm chứa đựng biết bao nỗi buồn miên man

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Với một loạt những từ ngữ gợi nỗi buồn thê lương "buồn", "sầu trăm ngả", "lạc mấy dòng" kết hợp với từ láy "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái của thơ Đường thi dường như đã lột tả được hết thần thái và nỗi buồn vô biên, vô tận của nhà thơ. Trên dòng sông gợi sóng ấy là hình ảnh một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi thể hiện trong tĩnh có động nhưng sao người đọc vẫn cảm thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài và rộng mênh mang, vô tận biết bao. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận và lòng người cũng đầy ắp những nỗi buồn khó tả. Hình ảnh "thuyền", "nước" vốn đi liền với nhau, thế mà Huy Cận lại để chúng xa cách nhau "thuyền về nước lại" sao nghe mà xót xa thế. Chính vì thế mà gợi lên trong lòng người một nỗi "sầu trăm ngả". Lượng từ "trăm" kết hợp cùng chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ một nỗi buồn dài vô tận, không có điểm dừng.

Nỗi buồn ấy được trút hết vào câu thơ cuối "củi một cành khô lạc mấy dòng", Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện sự cô đơn, lạc lõng trước cảnh sắc bao la, rộng lớn. "Một" gợi lên sự cô đơn, đơn chiếc, "cành khô: gợi lên sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, còn lại thân xác trơ trụi, khô héo, "lạc"mang nỗi sầu vô đinh, trôi nổi, không có định hướng trên "mấy dòng" là thể hiện sự chảy trôi một cách hư vô. Hình ảnh cành củi khô cứ trôi mãi trong vô định khiến người đọc cảm thấy trống vắng, cô đơn đến lạ, thể hiện một kiếp người long đong, đang trôi dạt giữa cuộc sống bộn bề chật chội.

Đến khổ thơ thứ hai dường như muốn đẩy nỗi hiu quạnh tăng lên gấp bội.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Hai câu thơ đầu phảng phất một khung cảnh đìu hiu, buồn man mác của một làng quê nghèo, thiếu sức sống. Hình ảnh "cồn nhỏ" với tiếng gió thổi "đìu hiu" như phủ lên mình một nỗi buồn mặc định đến da diết. Đến nỗi nhà thơ phải đặt một câu hỏi sao ngay cả tiếng ồn ào của phiên chợ chiều cũng không nghe thấy hay phải chăng phiên chợ đó cũng buồn hiu quạnh như ở nơi đây. Từ "đâu" cất lên thật thê lương, không điểm tựa để bấu víu. "Sông dài, trời rộng, bến cô liêu" , khung cảnh hiện lên qua câu thơ của Huy Cận sao mà hoang sơ, tiêu điều thế, nơi bến nước không có một bóng người qua lại, không có một tiếng động của cỏ cây hay tiếng thở của con người xung quanh chỉ có đất trời dài rộng, cô đơn lẻ loi một mình. Hai câu thơ cuối tác gải đã mượn "trời", "sông" để tả cái mênh mang vô định của đất trời, của lòng người. Nahf tơ không dùng trời "cao" mà lại dùng trời "sâu" để đo chiều sâu thực sự là nét tunh tế, độc đáo trong thơ Huy cận. Câu cuối đoạn như nói hết, lột tả hết nỗi buồn sâu thẳm không biết ngỏ cùng ai, nhà thơ đã phải nói thẳng sự "cô liêu".

Sang khổ thơ thứ ba, tác gải muốn tìm sự ấm áp của đất trời mênh mông nhưng dường như cảnh sắc thiên nhiên lại không như lòng người mong đợi

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Đọc khổ thơ thứ 3, người đọc cảm nhận một sự chuyển biến, vận động của thiên nhiên, không còn buồn rầu, u mê như những khổ thơ đầu và khổ thơ thứ 2. Từ “dạt” đã diễn tả tinh tế sự chuyển biến của vạn vật thiên nhiên Tuy nhiên nó lại được gắn liền với hình ảnh “bèo” mà “bèo” thì vốn vô định, trôi nổi khắp nơi, không có nơi bấu víu cứ lặng lẽ dạt “về đâu”, chẳng biết dạt về đâu, cũng chẳng biết dạt được bao nhiêu lâu nữa. Mặt nước mênh mông không có một chuyến đò. Tác giả chỉ đợi chờ một chuyến đò để thấy được rằng sự sống đang tồn tại nhưng dường như điều này là không thể.

Đến khổ thơ cuối cùng, những cảm xúc, bút pháp của tác giả được đẩy lên đỉnh điểm, nét vẽ chấm phá dùng rất đắc điệu

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc...

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Nét chấm phá trong hình ảnh “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng khắc sâu sự cô đơn, buồn phiền. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều sa” là sự hữu hình hóa cái vô hình của tác giả. Bóng chiều làm sao có thể nhìn thấy được nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã hình dung ra được trời chiều đang dần buông xuống. Mây ở đây chất chồng lên nhau, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa dất trời bao la, như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa cuộc đời chông chênh vậy.

Sang hai câu thơ cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà nhớ, nhớ quê được tác giả bộc lộ một cách rõ ràng, tất cả những tình ảm ấy nhà thơ chẳng biết gửi vào đâu mà chỉ biết chất chứa đong đầy trong trái tim mình. Hai từ "dờn dợn" gợi nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng của một chiều khi hoàng hôn buông xuống. Câu thơ muốn nói lên nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ khi đứng trước sông nước rợn ngợp. “Không khói hoàng hôn” nghĩa là không một yếu tố ngoại cảnh nào tác động trực tiếp nhưng cảnh vật vẫn gợi trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ quê cha đất tổ. Câu thơ cuối như bộc lộ tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ muốn gửi gắm xuyên suốt bài thơ. Lúc nào trong lòng Huy Cận cũng mang một cái tình quê sâu đậm, một nỗi nhớ quê da diết khôn nguôi.

Tràng giang của Huy Cận là bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Qua đó khắc họa được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận. Dưới hình thức một bài thơ mang đậm phong cách thơ Đường thi, kết cấu mạch lạc và cái tài sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh của tác giả, bài thơ hiện lên như một bản hòa ca mà ở đó, các nốt nhạc đều hợp sức tấu lên khúc ca yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà thơ Xuân Diệu đã viết :Tràng giang là một bài thơ ca non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc".

Bài thơ "tràng giang" là bài thơ đặc sắc trong cuộc đời thơ ca của Huy Cận. Bài thơ là sự kết hợp bút pháp hiện thực đan xen bút pháp cổ điển đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh, qua đó bộc lộ tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ "tràng giang" của Huy Cận đã để lại rất nhiều tình cảm, ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận đặc sắc nhất 12

Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận (1919-2005), là một trong những nhà thơ lớn tiêu biểu của Văn học Việt Nam hiện đại. Huy Cận yêu thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp nên thơ Huy Cận có vẻ đẹp hài hòa của yếu tố cổ điển và hiện đại. Thơ Huy Cận hàm xúc, giàu chất suy tưởng và triết lí thâm sâu. Tràng Giang là một trong số những bài thơ tiêu biểu nhất thể hiện sắc nét bút pháp nghệ thuật độc đáo của Huy Cận. Và Tràng Giang  “Tràng giang đã nối tiếp mạch thi cảm truyền thống với sự cách tân đích thự

Mạch cảm thi cảm truyền thống là tức nguồn cảm hứng của văn học truyền thống thường thiên về những nỗi buồn. Những bài thơ ca luôn ẩn chứa nội dung tâm trạng của thi nhân. Đó là nỗi buồn thái thế nhân tình, buồn về sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên hùng vĩ rợn ngợp – “ nỗi sầu vũ trụ “, là nỗi buồn xa cách tình thân tình nhân, sự chia lìa tình cảm lứa đôi… Thi nhân xưa đã đem những nỗi sầu đó khoác áo cho cảnh vật xung quang mà đưa vào thơ ca vẻ đẹp lãng mạng mà buồn. Giống như Nguyễn Du đã từng viết rằng “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” , nỗi buồn đã lan tỏa không gian, từ đáy mắt con người mà nhìn đâu cũng thấy sự vật chung một tâm trạng, chung một nhịp đập con tim được lấp đầy bằng những sầu bi, buồn bã. Còn sự cách tân được nhắc đến trong nhận xét về bài thơ Tràng Giang chính là sự đổi mới trong nền thơ ca Việt Nam, nhất là phong trào Thơ mới 1930-1945. Sự đổi mới ấy thể hiện trong cả hồn thơ lẫn phương thức biểu đạt ý thơ. Tràng Giang là bài thơ vừa mang nét buồn truyền thống thơ ca nhưng cũng lại đầy mới mẻ cách tân dưới ngòi bút tài năng của Huy Cận.

        Tràng Giang được Huy Cận viết vào mùa thu 1939 in trong tập thơ Lửa thiêng – tập thơ đầu tay của thi nhân. Bao trùm lên bài thơ là một mạch cảm xúc buồn, từng câu từng chữ , từng khổ thơ đêu ngấm lấy cái vị buồn, cô đơn trước thiên nhiên vũ trụ rộng lớn mà con người lại nhỏ bé, lòng  ngổn ngang tâm trạng. Nhan đề bài thơ Tràng Giang gợi ra một ấn tượng khái quát và trang trọng cổ điển lại vừa thân mật, việc sử dụng từ Hán – Việt để đặt tên nhan đề đã cho ta thấy sự hài hòa cổ điển và hiện đại trong thơ mới. Bài thơ được gợi tứ từ dòng sông Hồng nhưng lại được đặt tên là Tràng Giang chắc hẳn đọc giả đã chú ý đến. Mặc dù là sông Hồng gợi tứ nhưng không gian cảnh tượng được Huy Cận miêu tả trong bài thơ lại vô cùng khái quát rộng. Bài thơ gợi lên mọi con sông khắp miền đất nước chứ không riêng gì dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa đi vào thơ ca bấy lâu. Ngoài ra có những ý kiến cho rằng sao nhà thơ lại không đặt nhan đề là Trường Giang ( con sông dài, sông lớn cũng bằng nghĩa với Tràng Giang). Đó là bởi vì nhà thơ sợ sẽ nhầm lẫn với tên của con sông nổi tiếng của Trung Quốc – sông Trường Giang. Tràng Giang  là hai từ láy vần “ ang” gợi âm hưởng dài rộng lan tỏa, ngân vang trong lòng đọc giả, nó ánh lên vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.

        Mở đầu bài thơ là câu đề tự “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” Huy Cận viết đã định hướng cảm xúc chủ đạo của bài thó. Đó là niềm bang khuâng, là nỗi buồn sầu lan tỏa không gian rộng lớn đa chiều, nhẹ nhàng mà sâu lắng trước cảnh sông dài trời rộng. Hay đây chính là nỗi buồn bang khuâng của chàng thanh niên thời thơ mới – Huy Cận.

        Đọc bài thơ, ngay từ khổ thơ đầu tiên Huy Cận đã mở ra trước mắt độc giả cảnh sông nước mênh mông bất tận:

“ Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song”

Cảnh và tình người được thể hiện một cách đăng đối nhau song song trong từng câu thơ. Con song trên mặt nước sông Tràng Giang gờn gợn nhẹ nhàng không dứt cũng như nỗi buồn của con người cứ dào dạt đến hết đợt này lại đợt khác. Một nỗi buồn “ điệp điệp “ day dứt lòng người.  Còn con thuyền trên sông, nó không phải được chèo lái mà là “ xuôi mái “ tự mình thả trôi theo dòng nước gợi lên sự lênh đênh trôi dạt phó mặc cho dòng nước chảy. Hình ảnh con thuyền đó gợi lên kiếp người nhỏ bé đơn côi với cuộc đời vô định của mình. Giữa Tràng Giang điểm nhìn của tác giả hướng vào con sóng nhỏ gợn trên mặt nước. Sóng tuy rất nhiều nhưng chúng hiện ra rồi lại tan biến vào hư vô mãi mãi như thời gian trôi qua không lấy lại được. Thuyền và nước , chúng chỉ song song nhau thôi chứ không phải gắn bó lâu dài đi cùng nhau hết đoạn đường sông dài vô tận. Bởi vì nước xuôi tram ngả thuyền biết theo lối nào. Thuyền – nước như hai đường thẳng song song phân cách nhau không bao giờ có điểm chung mà gặp gỡ, điều này dễ khiến ta liên tưởng đến cảnh chia ly , biệt ly giữa thuyền và con nước chảy bên dưới.

                                      “ Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

                                         Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

        Huy Cận đã mượn hình ảnh con thuyền cô độc một mình thả trôi trên sông để bộc lộ sự lạc lõng cô đơn, đó đã là một cách sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình sâu sắc thế nhưng đọc đến câu thơ “Củi một cành khô lạc mấy dòng “ ta mới tận hưởng rõ nét cái tài, cái hay trong thơ của ông. Như nỗi buồn sầu cô đơn ngày càng ăn sâu vào tâm trí nhà thơ mà cái đơn độc nay còn được nhấn mạnh hơn ở sự nhỏ bé giảm dần của sự vật được đưa vào bài thơ. Giữa một dòng sông rộng lớn duy chỉ có con thuyền thôi đã thấy nhỏ nhoi, lạc loài giữa chốn sông nước, nay chỉ có độc một cành củi khô thì nghe sao thật bé nhỏ đến đáng thương. Cách viết “ củi một cành khô” gây ấn tượng cho đọc giả bởi phép đảo danh từ lên trước số từ; cành củi ở đây là hình ảnh chân thực vô cùng, nó bập bềnh nương theo dòng nước trôi và nó cũng là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng cô đơn , vô định. Qua đây ta thấy rõ sự sáng tạo hiện đại trong câu thơ có cành củi khô của Huy Cận. Chẳng phải chỉ tùng, cúc, trúc, mai – những loài cây , loài hoa tượng trưng cho phẩm chất khí khái anh hùng mới xứng đáng được đi vào thơ ca mà ngay ở đây cành củi khô thôi trong Thơ mới đã gợi lên bao ý tứ đẹp dưới ngòi thơ tài hoa của Huy Cận. Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ là nỗi sầu thấm đẫm không gian, còn vẻ đẹp hiện đạu là ở những chi tiết thật : cành củi khô quen thuộc, là sự thiếu gắn bó, chia lìa của tâm hồn nhà thơ khi ngắm cảnh sông Hồng.

“ Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. “

        Khổ thơ II lại tiếp tục mạch tình và ý của khổ I . Mặt khác khổ thơ II có thêm những nét sáng tạo mới. Câu thơ đầu là một nét vẽ mền mại, uốn lượn, nhịp nhàng bởi các vần lưng liên tiếp “ lơ thơ” , “ nhỏ”, “đìu hiu”. Vẫn tiếp tục khung cảnh rộng lớn còn sự vật nhỏ bé, đơn cô, cồn nhỏ thấp thoáng lơ thơ ấy, Huy Cận càng ngày càng dẫn dắt ta vào hoài niệm nỗi buồn khi ấy của nhà thơ. Từ “ đìu hiu” gợi sự cô đơn, lạnh vắng và hiu hắt. Từ này theo nhà thơ Huy Cận thì ông đã “ học” từ trong “ Chinh phụ ngâm khúc” : “ Bến phì gió thổi đìu hiu mấy đò”. Huy Cận đã biết học hỏi những giá trị thơ ca nhân văn từ những tác giả đi trước để góp phần tô điểm thêm cho đứa con tinh thần của mình ngày càng xinh đẹp, thu hút đọc giả yêu thích thơ ông. Từ “ đâu “ trong câu thơ “ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều “ có hai nét nghĩa hiểu. Có thể hiểu theo nét nghĩa thứ nhất là ở đâu, đâu đó quanh đây vùng sông nước rộng lớn này vọng đến tai nhà thơ tiếng người buôn bán, cười đùa khi vãn chợ. Hay nét nghĩa thứ hai là từ “đâu” mang hàm ý phủ định sự tồn tại của con người nơi đây hoang mắng đìu hiu gió thổi như thế này. Nhưng dù hiểu theo nét nghĩa nào thì cảnh vật cùng chỉ tang thêm sự vắng lặng , tĩnh mịch. Bởi nếu có tiếng người thật thì nó lại là “làng xa” vọng tới, cách xa nơi chỉ có sông nước mênh mông bát ngát- nơi tác giả đang đứng ngắm nhìn dòng sông Hồng. Còn không có con người sinh sống tức càng làm tăng thêm sự thiếu thốn sự sống nơi đây. Tóm lại tồn tại trong mắt nhà thơ lúc này chỉ có cảnh và cảnh vật.  Đồng thời câu thơ còn ngầm biểu thị ý mong mỏi của nhà thơ đang kiếm tìm dấu hiệu sự sống, hơi ấm tình người. Thế nhưng càng tìm, tìm mãi nhà thơ chỉ càng thấy cô đơn, buồn sầu. Câu thơ 3, 4 của khổ II đã mở ra không gian đa chiều được nối bằng các động từ, tính từ đầy sáng tạo và ngược hướng : “xuống” , “lên”, “sâu chót vót”, “dài”, “rộng”. Ánh nắng mặt trời từ trên cao rọi xuống mặt nước, tác giả đứng trên đê , lưng chừng giữa trời – sông. Ở vị trí quan sát như thế nhà thơ nhìn từ cao xuống dưới sông đang phản chiếu lại một bầu trời bản sao y hệt nền trời trên đỉnh đầu. Không gian được rộng mở ra từ đó. Đặc biệt cụm từ “sâu chót vót” là một cách viết đầy nghệ thuật mới lạ không chỉ vì nó ngược với lẽ thường tình là “cao chót vót” mà còn xuất phát từ thực tế điểm nhìn của nhà thơ. Kết thúc khổ thơ II là câu thơ “Sông dài trời rộng bến cô liêu”, câu thơ không tả cụ thể bến nào , chỉ thấy rằng nó cũng mang trạng thái đơn độc một mình. Bến vắng khách không một ai qua cả. Trên trời thì gió đìu hiu, bên dưới lại bến cô liêu nỗi buồn thêm lan tỏa sâu sắc trong từng cách gieo vần thơ, ghép cặp hô ứng đầu cuối khổ thơ.

       Sang tiếp khổ thơ III của bài thơ không chỉ đơn thuần là cái buồn tẻ của cảnh vật bao trùm nữa mà sâu sắc hơn ả chính là buồn về kiếp người được bộc lộ rõ nét. Hình ảnh bèo trôi dạt vốn là chi tiết lấy từ cảnh thật trên dòng sông Hồng nhưng khi đặt thành câu hỏi  “dạt về đâu” thì lại có ý biểu tượng cho những kiếp người trôi nổi, bấp bênh, vô định. Đọc đến đây, phát hiện ra hình ảnh bèo thân thuộc ta nhớ đến câu hát quan họ cổ truyền cứ ngân vang trong lòng “ Bèo dạt mây trôi chốn xa xôi…” . Lại một lần nữa nhà thơ lại nhắc đến quang cảnh trời nước mênh mông mà vắng vẻ, buồn hiu hắt không một chuyến đò ngang – “ Mênh mông không một chuyến đò ngang” . Trong thơ thường tả đến những sự vật hiện tượng có nhưng Huy Cận lại phá cách tả cái không có, đó là không một chuyến đò thực xuất hiện bên dòng sông rộng lớn. Tả cái không có là ngụ ý của nhà thơ rằng muốn nhấn mạnh cái không có, như vậy làm rõ thêm tâm tình khao khát tìm kiếm tình người, sự thân mật thân tình yêu giữa người với người. Có lẽ nhà thơ vẫn đang không ngừng đưa mắt kiếm tìm bóng hình con người hay chỉ chút âm thanh quen thuộc người nói chuyện qua thôi chắc cũng đủ làm Huy Cận thấy ấm lòng biết bao khi ở giữa chốn thiên nhiên hùng vĩ lấn át làm con người choáng ngợp, thu mình lại. Thế nhưng điều nhà thơ mong mỏi lại không thành hiện thực khi ông nhận thấy rằng đò thuyền không có mà hóa ra nhịp cầu bắc ngang nối giữa hai bờ sông cũng chẳng thấy đâu. Như một rào càng vô hình mà xa cách khiến lòng nhà thơ càng thêm trống trải cũng lại càng thêm chờ đợi trông mong, liệu phép màu có xảy ra đưa tình người thân mật đến với nhau một cách tự nhiên chân thành nhất? Đồng thời ta cũng nhận thấy nỗi sầu của nhà thơ lại gắn liền với nỗi buồn nhân thế, buồn quê hương đất nước được thể hiện vô cùng kín đáo.

        Tràng Giang  là một bài thơ tuyệt bút của Huy Cận có nhận xét rằng mỗi khổ thơ đều có thể tách riêng thành một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt. Đúng như vậy bởi bao trùm bài thơ là nỗi sầu cô đơn trước vũ trụ rộng lớn bao la và niềm khao khát kiếm tìm yêu thương, tình người cùng với những hình ảnh thơ giản dị quen thuộc mang nét truyền thống nhân dân người Việt. Và khổ thơ IV – tức khổ cuối, chính là phần đặc sắc nhất của cả bài thơ, là bài thơ tứ tuyệt nhỏ mang sự hài hòa cổ điển và hiện đại sâu sắc nhất.

“ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dờn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Hai câu thơ đầu của khổ thơ là miêu tả cảnh trời cao cùng lớp lớp mây trắng đùn ra như những núi bạc thật đẹp và hùng vĩ. Chữ “đùn” trong câu thơ gợi nhớ đến một câu thơ khác của Nguyễn Trãi cũng sử dụng rất thành công từ đó  “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”. Và không chỉ đây là lần đầu tiên Huy Cận sử dụng từ “đùn”  trong các sáng tác của mình, trong một bài thơ khác hiệu ứng của từ “đùn” cũng đã được nhà thơ sử dung một cách sáng tạo” Bóng tối đùn ra trận gió đen”. Hình ảnh cánh chim nhỏ choa nghiêng mình hết sức sinh động và đẹp lạ kì. Cánh chim bé nhỏ ấy được miêu tả như đang gánh vác trên lưng mình cả một “bóng chiều sa”. Bởi cánh chim rất nhỏ mà lại nghiêng nên ta có cảm giác nó thật sự rất nhỏ bé đối lập hoàn toàn vơi cảnh thiên nhiên rộng lớn hùng vĩ, choáng ngợp nên đã tôn lên vẻ đẹp cho cả hai. Hai cuối là tác giả đã diễn tả trực tiếp bộc bạch tâm trạng của mình. Đó là nỗi nhớ quê cứ dâng lên theo từng con sóng. Điệp từ “dờn dợn” là sự tăng tiến cấp độ ý nghĩa nhịp nhanh, tăng cao của sóng lòng. Nếu ở khổ thơ đầu là “sóng gợn”-nghiêng về tả cảnh thật  thì nay khổ cuối ý thơ lại là như một phép nhân hóa giữa sóng sông và con sóng lòng trào dâng của Huy Cận. Câu thơ cuối cũng chính là câu thơ then chốt bày rõ ràng ý thơ gửi gắm trong bài, đó là nỗi nhớ thương quê nhà da diết, nồng thắm. Và nó gợi ta nhớ đến một câu thơ khác của nhà thơ Thôi Hiệu:

“ Nhật mợ hương quan hà xứ thị    

Yên ba giang thượng sứ nhân sầu?”

Nhà thơ Thôi Hiệu khi xưa đi xứ xa quê nhìn thấy khói bếp tỏa lên, sóng trên sông mà nhớ nhà. Còn Huy Cận chẳng cần phải có khói mới nhớ đến quê hương mà ngay trong tiềm thức của nhà thơ quê hương đã luôn thường trực nay gặp cảnh buồn thì niềm nhung nhớ ấy càng thêm sâu đậm. Hai nhà thơ ,, hai thế hệ khác nhau, hai thời đại nhưng cùng có một điểm chung là nỗi nhớ quê hòa quyện  cùng yêu thiên nhiên , đất nước thắm thiết nồng nàn.

        Tràng Giang-một bài thơ mới mang vẻ đẹp cổ điển. Sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại là đặc sắc nghệ thuật bao trùm bài thơ, nỗi sầu cô đơn của cái tôi cá nhân trước cảnh thiên nhiên, vũ trụ thấm đượm tình người, tình đời và lòng yêu quê hương đất nước tha thiết thầm kín là chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Đúng như Xuân Diệu nhận xét về “Tràng Giang” : “Bài thơ dọn đường cho tình yêu quê hương đất nước”. Một lần nữa ta lại phải phục cái tài thơ văn của Huy Cận, ông khéo léo dùng thể thơ thất ngôn khiến cho bốn khổ thơ như bốn bức tứ bình tròn vẹn, hoàn hảo, sử dụng rất nhiều từ Hán – Việt, nhiều thi liệu truyền thống và phong thơ mang dáng dấp Đường thi ở sự hàm súc, cô đọng , tao nhã. Và không thể không nhắc đến yếu tố hiện đại sáng tạo trong bài thơ, đó là nỗi buồn sầu nhưng lại bang khuâng , mang mác-nỗi sầu của thời đại, cảnh vật thơ giản dị, thân quen. Qua bài thơ “ Tràng Giang” Huy Cận còn muốn thể hiện cái tôi cô đơn trước vũ trụ, kín đáo bày tỏ lòng yêu quê hương đất nồng thắm.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 13

Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước thời cuộc. Chẳng thế mà "Tràng giang" ra đời lại khắc họa nét cô đơn của cá thể trước không gian bao la của thiên nhiên. Cùng với nét u buồn khắc khoải trước không gian mênh mông, bài thơ còn là nỗi nhớ quê hương, thương đất nước đang chìm trong tang thương của thi sĩ.

    Bài thơ được sáng tác vào năm 1939 in lần đầu tiên trên báo "Ngày nay" sau đó in trong tập "Lửa thiêng" - tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào "Thơ mới" thời kì đầu.

    Ngay khi đọc tên bài thơ "Tràng giang" người ta có thể hình dung được tư tưởng và tâm tư mà tác giả gửi trong đó. Tiêu đề gợi ra một con sông dài, mênh mông, bát ngát. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh sông dài còn là những mảnh đời bấp bênh, trôi nổi, u sầu. Câu đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" tiếp tục khẳng định nỗi niềm u uất, không biết tỏ cùng ai của nhân vật trữ tình trước không gian bao la của dòng sông.

    Phân tích bài thơ Tràng giang ngay trong khổ đầu tiên đến với người đọc bằng hình ảnh con sông buồn, chất chứa những nỗi niềm khó tả:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng."

    Vừa mới đọc khổ đầu tiên, người đọc thấy được không khí u sầu, buồn bã thông qua các từ "buồn", "sầu", "lạc cành khô". Câu thứ nhất miêu tả sóng, câu thứ hai tả những dòng trôi, những luồng nước trên mặt sông. Nếu như câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang loang ra, lan xa, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước cứ song song, rong đuổi mãi về cuối trời. Trong câu thứ nhất "sóng gợn" là những vòng sóng nhỏ, lăn tăn. Nhưng chỉ cần một gợn sóng ấy thì Tràng giang đã "buồn điệp điệp". Từ láy hoàn toàn "điệp điệp" như diễn tả nỗi buồn chồng chất lên nhau, hết lớp này đến lớp khác. Hình ảnh con thuyền "xuôi mái nước song song" lại gợi về cảm giác đơn độc trên dòng nước mênh mông vô tận.

    Hai câu thơ kết hợp làm cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn theo chiều dài. Tác giả tiếp tục khắc họa nỗi chia li qua câu thơ thứ ba. "Thuyền" và "nước" vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó, khăng khít với nhau nhưng qua con mắt của nhân vật trữ tình thì lúc này hai hình ảnh ấy không còn song hành với nhau nữa. "Sầu trăm ngả", nỗi buồn, sự u hoài, buồn bã càng ngày càng dâng lên. Với câu thơ thứ tư tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ "củi một cành khô" để nói về sự cô đơn, trơ trọi của "củi". Số từ "một" chỉ một mình, cô đơn cùng với tính từ "khô" - hết nhựa sống, càng làm cho hình ảnh khô héo hơn.

    Tác giả thật tài tình khi đã sử dụng nghệ thuật đối "một" - "mấy" như nhấn mạnh hơn sự cô độc của củi trên dòng sông. "Lạc mấy dòng" không chỉ diễn tả nỗi niềm cô đơn của củi mà còn nói đến sự bấp bênh, trôi nổi khi "lạc" hết dòng sông này đến dòng sông khác. Nét độc đáo của câu thơ không chỉ là phép đối mà còn ở cách ngắt nhịp 1/3/3. Với cách ngắt nhịp ấy "củi" xuất hiện "độc lập" và điều đó càng làm rõ hơn tình cảnh lẻ loi của sự vật này. Có thể nói, hình ảnh "củi một cành khô" đã phần nào nói lên tâm trạng thi sĩ - một con người tài hoa nhưng vẫn đang loay hoay giữa cuộc sống bộn bề. Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu tiên bức tranh thiên nhiên buồn, sầu thảm đã hiện rõ. Nét bút kết hợp giữa cổ điển và hiện đại cũng phần nào giúp người đọc rõ hơn về tâm trạng của thi sĩ.

     Khổ thơ thứ hai tiếp tục là khung cảnh buồn nhưng mang nét đìu hiu, thiếu sức sống.

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

     Huy Cận thật khéo léo khi sử dụng hai từ láy trong cùng một câu thơ để miêu tả cảnh hoang vu, vắng vẻ hai bên bờ sông: "Lơ thơ" - thưa thớt, ít ỏi, "đìu hiu" - vắng lặng, ít người. Trên "cồn nhỏ" làn gió phảng phất không khí buồn, ảm đạm của chốn ít người, thiếu sức sống. Nó u sầu đến nỗi không nghe thấy tiếng ồn ào của phiên chợ chiều. "Đâu" diễn tả cảm giác mơ hồ, không xác định được điểm tựa để bám víu. Như vậy, chỉ qua vài nét chấm phá của nhà thơ đã hiện lên bức tranh quê thê lương, thiếu sức sống. Đến với hai câu thơ tiếp, dường như tác giả mở rộng tầm nhìn ra qua biện pháp đối "nắng xuống" - "trời lên" đã làm không gian mở rộng về chiều cao, có một khoảng không gian đang giãn nở ra ở giữa.

    Hai động từ ngược hướng "lên" và "xuống" mang lại cảm giác chuyển động. Nắng càng xuống thì bầu trời càng được kéo cao hơn. Và điểm nhấn chính là "sâu chót vót" - không gian mở rộng cả về chiều sâu. "Chót vót" vốn là từ láy độc quyền khi nhắc đến chiều cao. Còn đã nói tới sâu thì người ta hay dùng "sâu hun hút" hoặc "sâu thăm thẳm",... Chính cách dùng từ ngữ đặc sắc của Huy Cận đã gợi ra khoảng không vũ trụ sâu thăm thẳm, đó cũng là lúc nỗi buồn, cô đơn của nhà thơ dâng lên cao, trở nên vô cùng vô tận. Một góc nhìn đầy thú vị, mới mẻ. Câu thơ cuối cùng thi sĩ dùng không gian rộng để nói về nỗi cô đơn, vắng vẻ. "Bến cô liêu" - buồn, thưa thớt trơ trọi giữa không gian rộng lớn của sông, trời. Toàn cảnh khổ hai là một màu cô đơn, vắng vẻ, đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt là không gian mênh mông, nhấn mạnh hơn nỗi u sầu vạn cổ.

"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

    Hình ảnh trong khổ thơ thứ ba đã bước đầu có chuyển động với động từ "dạt", nhưng sự vật đi kèm với động từ này là "bèo". "Bèo" vốn là hình ảnh tượng trưng cho sự bấp bênh, chìm nổi, không có nơi ở ổn định. Đã thế cụm từ "hàng nối hàng" càng diễn tả sự vô định, chông chênh khi hàng này đến hàng khác "nối đuôi" nhau. Không gian đối lập với thực tại của cảnh vật. Tác giả mong ngóng có thể nhìn thấy chuyến đò để cảm nhận được sự sống. Nhưng đáp lại sự mong chờ ấy là "không một chuyến đò ngang".

    Ở khổ thơ này, thi sĩ sử dụng nhiều từ phủ định: "không đò" và giờ tiếp đến là "không cầu". Hình ảnh chiếc cầu gợi lên dáng vẻ miền quê, mang nỗi niềm "thân mật". Nhưng vì hình ảnh này không có nên thành ra cảm giác xa lạ, cô đơn được cảm nhận rõ. Với câu thơ cuối của khổ tác giả sử dụng nhiều màu sắc để chấm phá cho bức tranh. "Bờ xanh tiếp bãi vàng" - sắc tranh tươi sáng, nổi bật nhưng đi kèm với từ láy "lặng lẽ" làm chìm màu sắc này xuống. Giờ đây hai hình ảnh này không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy này cũng làm cho không khí đìu hiu "lây lan" từ vật này sang vật khác. Tất cả sự vật đều nhấn chìm trong cô độc.

    Nếu như ba khổ thơ đầu tiên là bức tranh thiên nhiên buồn, vắng lặng thì khổ thơ cuối cùng chính là tâm tư, tấm lòng của thi sĩ:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

    Xuyên suốt bài thơ tác giả liên tục sử dụng thủ pháp nghệ thuật là từ láy. "Lớp lớp" - chồng chất lên nhau, "đùn" là đè lên làm cho một vật gì đó hạ thấp xuống. Như vậy, với câu thơ đầu khổ bốn tác giả lại vẽ tiếp bức tranh quê hương với hình ảnh rộng lớn nhiều lớp mây đè lên núi bạc. Hình ảnh "chim nghiêng cánh nhỏ" gợi cảm giác nhỏ bé, bơ vơ. "Nghiêng" - không vững vàng. Hình ảnh này đối lập với vế ở sau "bóng chiều sa".

    Trên nền bóng chiều rộng lớn là hình ảnh cánh chim nhỏ lo âu, còn đang mơ hồ cho con đường tìm nơi trú của mình. Hình ảnh cánh chim này đã từng bắt gặp trong "Quyện điểu quy lân tầm túc thụ" (Mộ - Hồ Chí Minh), tạm dịch "Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ". Đến với câu thơ thứ ba tác giả đã nói lên nỗi lòng nhớ quê của mình. "Dợn dợn" là gợi lên, dấy lên, có nỗi niềm khó nói. Cứ mỗi khi nhìn thấy "con nước" là lòng yêu quê hương của tác giả lại dâng lên. Tuy nhiên, nét đặc sắc lại nằm ở câu thơ cuối cùng: "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". Hơn nghìn năm trước Thôi Hiệu cũng từng chạnh lòng nhớ quê mà thốt lên rằng:

"Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu."

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)

    Nỗi buồn của hai thi sĩ có một số điểm khác nhau. Ở Thôi Hiệu do nhìn thấy khói sóng trên dòng sông nên buồn và nhớ về quê nhà, còn ở Huy Cận không nhìn thấy khói nhưng nỗi nhớ nhà vẫn dâng lên da diết. Nếu như Thôi Hiệu nhớ nhà là do đang xa xứ, đang ở xứ người còn nỗi nhớ của Huy Cận xuất phát từ một người đang đứng trên mảnh đất của mình nhưng bơ vơ, lạc lõng. Nỗi nhớ thương cũng xuất phát từ sự bất lực, ngán ngẩm của bản thân thi sĩ trước thời cuộc.

     Đặc sắc nghệ thuật trong "Tràng giang" trước hết phải nói tới sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố Cổ điển (thơ Đường thi) và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ tác giả sử dụng nhiều từ Hán Việt như tràng giang, bến cô liêu,...cùng với đó là đề tài thiên nhiên cổ kính, hoang sơ, cái tôi bé nhỏ trước thiên nhiên mênh mông mang đậm yếu tố Đường thi. Yếu tố thơ mới được thể hiện thông qua cái tôi giàu cảm xúc, hình ảnh sinh động giàu sức gợi. Bên cạnh đó việc sử dụng các từ láy, phép đối cũng góp phần làm rõ hơn sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ rộng lớn.

    Sau khi phân tích bài thơ Tràng giang, chúng ta thấy Huy Cận không chỉ mang đến bức tranh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông mà qua đó tác giả còn nhấn mạnh sự cô đơn của "cái tôi" trước ngân hà rộng lớn. Sự đối lập này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, sự trôi nổi của những kiếp người. Đồng thời tác giả bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước của mình.


Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 14

Tác giả Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu, nổi tiếng trong phong trào thơ mới của nước ta với những tác phẩm kế hợp giữa phong cách truyền thống cổ điển và hiện đại. Phong cách thơ của ông đều thể hiện những đột phá trong sáng tác của mình.

Bài thơ “Tràng giang” là một bài thơ viết trong thời kỳ cách mạng thể hiện nỗi buồn u uất, gợn lên sự bế tắc trong cuộc sống của tác giả và người dân lúc bấy giờ. Những kiếp người lênh đênh như phận bèo trôi, chưa tìm ra ánh sáng chân lý của đời mình. Bài thơ thể hiện nỗi buồn mênh mang, man mác trong lòng tác giả những nỗi buồn không thể gọi thành tên.

Ngày trong nhan đề và lời tựa của bài thơ, tác giả Huy Cận đã khái quát được nội dung ý tưởng của bài thơ với hai chữ “Tràng giang” thể hiện một dòng sông mênh mông, bát ngát, vô tận.

Trong cảnh sông nước mênh mông vô tận đó lại gợi lên tình cảm tâm tư của tác giả khi muốn nhắc tới những thân phận bèo trôi, nhỏ bé lênh đênh trong cuộc đời chìm nổi không tìm ra lối thoát của cuộc đời mình.

Lời đề tựa của bài thơ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã khái quát lên toàn bộ chủ để tư tưởng chủ đạo của tác giả trong bài thơ. Nó thể hiện nỗi niềm của tác giả những nỗi buồn nhân tình thế sự không biết giãi bày cùng ai,

Trước cảnh đất trời bao la càng làm cho người ta trở nên cô đơn, cảm thấy mình thật là bé nhỏ, mong manh đơn độc. Bước vào khổ thơ đầu tiên của bài thơ, tác giả Huy Cận đã liên tưởng đến một con sông mênh mông, bát khát chứa chất biết bao nỗi niềm sầu thảm của đời người

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Khổ thơ, được sử dụng với những từ ngữ vô cùng buồn thảm, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng,.. khiến cho bài thơ trở nên buồn vô cùng. Tác giả Huy Cận sử dụng điệp từ ” Điệp điệp” “Song song” dường như đã diễn tả hết những nỗi buồn mênh mang vô biên, không có điểm kết trong lòng tác giả.

Ngay trong khổ thơ đầu, đường nét chấm phá cổ điển của thơ xưa được tác giả kết với phong cách thơ hiện đại. Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền trôi theo dòng đời, và một cành củi khô một mình trôi trên sông bơ vơ lạc loài để thể hiện nỗi buồn vô tận của mình.

Sức gợi tả của câu thơ thể hiện khiến người đọc vô cùng ám ảnh, một con sông dài một con sông gợi nét u buồn, trầm lặng khiến người đọc vô cùng thê lương, đau khổ.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Hai câu thơ đầu trong khổ thơ thứ hai này thể hiện cảnh buồn thê lương, cảnh chợ đã tan thiếu đi sức sống, những cồn cỏ lơ thơ khiến cho con người càng cảm thấy mình cô đơn lẻ bóng.

Hình ảnh cồn cỏ một mình chống chọi với những trận gió, thể hiện sự đìu hiu tê tái trong lòng của con người trước cảnh hoàng hôn chợ đã tan. Một câu hỏi tu từ gợi lên những nỗi niềm chất chứa, tác giả đang tự hỏi bản thân hay hỏi cuộc đời tạo nên những câu thơ vô cùng độc đáo thể hiện tâm trạng của một con người bế tắc trước cuộc sống.

Hai câu sau của khổ thơ tác giả mượn hình ảnh trời đất, dòng sông để miêu tả lên sự mênh mang, vô định thể hiện nỗi buồn ngút trời trong lòng tác giả.  Những từ đối lập giữ “lên” và ” xuống” thể hiện sự bao la mênh mông của không gian và thời gian, khiến cho con người càng cảm thấy mình thật nhỏ bé.

Hai từ “cô liêu” thể hiện sự quạnh quẽ, hiu hắt trong tâm trạng của tác giả giữa cảnh mênh mông sông nước này.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thương nhớ

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Trong khổ thơ thứ ba này tác giả muốn gửi tới người đọc sự chuyển biến, vận động của thiên nhiên không còn là cảnh u buồn yên lặng của không gian và thời gian nữa. Mà đã có sự vận động, bèo dạt, hàng nối hàng, thể hiện sự vận động, nhưng cũng thể hiện sự lênh đênh của những thân phận tựa như cánh bèo trôi kia.

Những cánh bèo trôi dạt không bờ bến không biết trước điểm dừng chân, bến neo đậu của cuộc đời mình. Nó tựa như những kiếp người không tìm thấy ánh sáng của tương lai, không biết cuộc đời mình sẽ đi đâu về đâu trước cảnh nhân tình thế thái.

Trong hai câu thơ cuối của khổ ba này tác giả muốn thể hiện tâm trạng nhớ nhà nhớ quê hương của mình, dù không cần cầu nhưng vẫn nhớ thương da diết.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Trong khổ thơ cuối này tâm tư tình cảm của nhà thơ Huy Cận đều được gửi gắm trong này. Với những nét chấm phá “mây cao” “núi bạc” càng làm cho bài thơ trở nên u sầu hơn bao giờ hết.

Hình ảnh cánh chim nghiên trong buổi chiều hoàng hôn bóng xa mờ là hình ảnh vô cùng đẹp thể hiện được nghệ thuật tài tình trong cách sử dụng từ ngữ của Huy Cận.

Một cánh chim nhỏ nhoi cô đơn trong bầu trời ba la, thể hiện sự hiu quạnh, cô đơn của lòng người.Trong hai câu cuối cùng của bài thơ thể hiện nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà của tác giả “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Người xưa thường dùng khói chiều, để cảm thấy nhớ quê hương, nhớ mùi khói bếp thân thương

Nhưng tác giả Huy Cận không nhìn thấy khói hoàng hôn cũng vẫn nhớ nhà thể hiện tình cảm yêu quê hương tha thiết của tác giả.

Bài thơ “Tràng giang” là một sự kết hợp tuyệt vời giữa bút pháp tả thực và cổ điển của thơ Đường tác giả Huy Cận đã phác họa lên một bức tranh vô cùng đẹp nhưng cũng rất buồn và hiu quạnh.

Qua bài thơ, thể hiện nỗi buồn của tác giả trước việc không tìm ra chân lý soi sáng cho cuộc đời mình, chưa tìm ra lối đi cho quê hương đất nước những kiếp người chịu số phận lênh đênh bèo trôi, không biết đi đâu, về đâu.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận chi tiết nhất 15

Từ năm 1930, văn học Việt Nam bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ với sự xuất hiện của làn sóng thơ mới cùng những cá tính sáng tác độc đáo. Các nhà thơ say sưa thể hiện cái tôi cá nhân và không còn bị gò bó trong khuôn sáo cũ kĩ của văn thơ trung đại. Nếu Xuân Diệu luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về thời gian thì người bạn tri kỉ của ông, Huy Cận lại luôn chìm đắm trong cảm thức về không gian vũ trụ. Huy Cận tỏ ra rất nhạy cảm với không gian rộng lớn và thời gian vĩnh hằng. Những điều ấy được thể hiện rõ nét trong “Tràng giang”, một trong những bài thơ xuất sắc nhất của ông.

    Vào khoảng những năm 1939, Huy Cận theo học tại một trường ở Hà Nội. Ông có thói quen đạp xe dọc đê vào mỗi buổi chiều thứ bảy để hóng gió và ngắm cảnh sông Hồng. Bài “Tràng giang” ra đời trong một buổi chiều như thế. Đứng ở bãi Chèm, nhìn cảnh sông nước mênh mông, nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu lo, thương cảm về đất nước về kiếp người cuộn tràn trong tâm trí nhà thơ. Ngay hôm ấy ông đã cho ra đời một bài thơ lục bát, lấy tiêu đề là “Chiều trên sông”. Sau này, Huy Cận đổi tên thành “Tràng giang” và viết lại theo thể thất ngôn tự do, in trong tập Lửa thiêng.

    Nhan đề “Tràng giang” là từ Hán – Việt gợi lên sắc thái trang trọng và cổ kính. Điệp vần “ang” tạo ấn tượng về một dòng sông rộng lớn, mênh mang, vô tận. Chỉ qua nhan đề, tác giả không chỉ gợi được chiều dài mà còn cả chiều rộng và chiều sâu của dòng sông.

Sang đến câu thơ đề từ:

“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”

    Câu đề từ này được Huy Cận lấy từ bài “Nhớ hờ” do chính ông sáng tác:

“Lâng lâng chiều nhẹ ghé muôn tai 

Trong bóng chiều như mờ tiếng ai 

Thổi lạc hương rừng cơn gió đến 

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. 

    Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ: có chiều rộng bát ngát của bầu trời, chiều dài vô tận của dòng chảy, chiều cao giữa trời và nước. Chính giữa không gian rợn ngợp như thế làm con người ta cảm thấy cô đơn, nhỏ nhoi, nhung nhớ một điều gì đó xa xôi.

    Khổ thơ thứ nhất là nét bút chấm phá vẽ lên bức tranh sông nước rộng mênh mang nhưng buồn vắng:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả, 

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

    “Sóng và thuyền” không có gì đáng buồn nhưng chính cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng. Từ “điệp điệp” từ xưa đến nay thường dùng để hình dung, miêu tả những hình ảnh thiên nhiên như sóng, núi giờ đây được Huy Cận dùng để nói về nỗi buồn. Điều này làm cho nỗi buồn không còn vô hình mà trở nên hữu hình, cụ thể. Đó là nỗi buồn dai dẳng, triền miên, thường trực trong tâm trí. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đứng trước cảnh trời rộng sông dài. Câu thơ mang âm hưởng cổ kính của thơ Đường với nghệ thuật đối từ, đối ý: sóng – thuyền; điệp điệp – song song. Tuy vậy, xét đến cùng, sức mạnh của hai câu thơ đầu tiên không phải ở nghệ thuật miêu tả mà ở nghệ thuật khơi gợi – khơi gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và thời gian (điệp điệp).

    Nếu như các phép đối ý, đối xứng cùng với các thi liệu, hình ảnh quen thuộc như con thuyền, sóng nước làm cho khổ thơ phảng phất hương vị cổ điển của Đường thi thì việc xuất hiện hình ảnh một cành củi khô nhỏ nhoi, tầm thường ở câu thứ tư đã thổi vào làn gió mới, khẳng định rằng đây là một bài thơ Mới. Bởi ở văn thơ trung đại, khi sáng tác, người ta chỉ tập trung nói đến những hình ảnh trang nhã, đẹp đẽ như tùng, cúc, trúc, mai, trăng, gió... chứ không đề cập tới những hình ảnh dân dã, tầm thường như cành củi khô. Sự đối lập giữa cành củi khô và dòng sông làm người đọc liên tưởng đến thân phận con người trong xã hội đương thời. Có thể thấy nỗi buồn của Huy Cận ở đây không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà đó là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên không tìm ra lối thoát cho đời mình. Đồng thời, chỉ thông qua khổ thơ thứ nhất, chúng ta cũng đã thấy được phần nào nét cổ điển cũng như hiện đại trong thơ Huy Cận.

    Đến khổ thơ thứ hai, dường như nỗi buồn vắng, đìu hiu càng lan tỏa và thấm sâu:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Huy Cận đã lấy ý chữ “đìu hiu” từ một câu thơ trong bài “Chinh phụ ngâm”:

“Non Kì quạnh quẽ trăng treo

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.”

    Hơn nữa, cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” càng gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn của không gian vũ trụ. Câu “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” xưa nay vẫn tồn tại hai cách hiểu xuất phát từ cách hiểu từ “đâu” (có và không có tiếng chợ chiều). Tuy vậy, dẫu hiểu theo cách nào thì hình ảnh chợ chiều đã vãn trong câu thơ cũng gợi thêm một nét buồn vắng, thê lương cho cảnh sắc.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

    Đến hai câu thơ này, không gian như được mở rộng ra cả ba chiều. Từ “cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời, nó thuần tuý tả cảnh; còn từ “sâu” vừa tả cảnh vừa tả tình và hàm súc hơn. Huy Cận đã giải thích về cụm từ “sâu chót vót” như thế này: “Từng vạt nắng từ trên cao rơi xuống tạo nên một khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tôi dùng chữ “sâu” chứ không dùng chữ “cao”,  bởi vì “cao chót vót” thì thường quá. Ở đây không gian được mở ra ba chiều....tạo nên một vũ trụ rộng lớn và thể hiện một nỗi buồn tưởng như vô tận”.(Về bài thơ “Tràng giang” - Huy Cận)

    Tính từ “chót vót” tô đậm thêm cảm giác mênh mông của vũ trụ. Đứng trước khung cảnh ấy con người dường như nhỏ bé và cảm thấy cô liêu. Hai câu thơ thể hiện cuộc sống buồn buồn nhợt nhạt trong xã hội đương thời mà mỗi người là một ốc đảo hoang vắng cô liêu.

    Trong mạch cảm xúc gợi ra từ hai khổ đầu ấy, sang đến khổ 3, nỗi buồn càng được khắc sâu hơn. Trên khung cảnh vắng lặng một cách tuyệt đối ấy chỉ có:

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

    Ở câu thơ thứ nhất, ta thấy xuất hiện 1 hình ảnh rất quen thuộc, đó là hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Ta thấy trong ca dao, dân ca, và thơ trung đại hình ảnh cánh bèo cũng hay được sử dụng khi nói về thân phận người phụ nữ: “Thân em như lá bèo trôi”, “Nghĩ mình mặt nước cánh bèo/ Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân”,...

     Hình ảnh ẩn dụ những cánh bèo không biết trôi dạt về đâu và những bờ xanh bãi vàng nối tiếp nhau lặng lẽ gợi cho người đọc liên tưởng đến thân phận nhỏ bé của con người trong xã hội. Cùng với  hình ảnh cành củi khô lạc mấy dòng ở khổ một, nó cho thấy sự hoang mang của Huy Cận trong việc tìm ra con đường đi cho mình.

    Đứng trước cảnh vũ trụ cao rộng và hoang vắng ấy con người càng rợn ngợp trong nỗi cô đơn triền miên. 

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật 

    Toàn cảnh sông dài, trời rộng mà tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. Ngay đến những vật để nối đôi bờ như cầu, như đò cũng chẳng có (“Không một chuyến đò”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”), mà chỉ có thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên. Không có cầu, là không có sự trao đổi, không tìm thấy dù chỉ một chút niềm thân mật của tình người. Ta thấy, nhân vật trữ tình ở đây không chỉ cô đơn khi đứng trước thiên nhiên rợn ngợp, mà còn cô đơn trong chính xã hội mà ở đó, con người chán nản vì mất đi chủ quyền, tự giam hãm bản thân mà không có sự giao lưu, chia sẻ với nhau.Vì thế, nỗi buồn của bài thơ không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế. 

Sang đến khổ thơ thứ tư:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khỏi hoàng hôn cũng nhớ nhà”

    Từ “buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” ở những khổ thơ trên, đến đây nỗi sầu thi sĩ đã dâng lên trùng trùng, “lớp lớp” tràn ngập cả bầu trời. Huy Cận đã mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường để rồi từ đó sáng tạo nên ý thơ của mình. Hình ảnh ước lệ, cổ điển: mây, chim... vẽ lên bức tranh chiều tà đẹp tráng lệ và thơ mộng. “Mây”  nhiều, vô số tầng bậc, chữ “đùn” tạo cảm giác áng mây chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Và, trên cảnh mây trời, sông nước buồn vắng nhưng đẹp đẽ, hùng vĩ ấy, đột nhiên xuất hiện con chim “nghiêng cánh” bay như hút lấy nắng hoàng hôn cùng “bóng chiều”, tạo cảm giác như chỉ cần bóng chim khẽ chao nghiêng là cả bóng chiều sẽ sa xuống vậy.

    Trong văn chương Việt Nam cánh chim là một thi tứ quen thuộc để miêu tả buổi chiều. Nhưng trong “Tràng giang”, dường như cánh chim ấy có phần nhỏ bé và cô đơn hơn bởi nhà thơ đã đặt nó trong một không gian rộng lớn và bao la của vũ trụ. Cánh chim nhỏ là biểu hiện của sự sống và khát vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó vẫn không làm cho không gian vơi đi niềm quạnh vắng. Cánh chim nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la. 

    “Dợn dợn” là từ láy vô cùng sáng tạo, gợi cảm giác về một nỗi buồn miên man, vô hạn. Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Có thể thấy, nỗi nhớ dường như trở nên thường trực và cháy bỏng hơn. 

    Như vậy, đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn của bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới trong những năm thời thuộc Pháp. Về nội dung, bài thơ đem đến người đọc bức tranh thiên nhiên sông nước gần gũi quen thuộc nhưng vắng lặng và bức tranh tâm trạng mang trĩu nặng nỗi sầu. Cùng với đó là niềm khát khao giao cảm với cuộc đời, lòng yêu nước tuy thầm kín nhưng không kém phần thiết tha của nhà thơ. Về nghệ thuật, bài thơ đặc sắc ở chỗ nó có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại. Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi nhưng “Tràng giang” vẫn là bài thơ mang nét hiện đại khi sử dụng những hình ảnh gần gũi, tầm thường để qua đó bộc lộ cảm xúc, nỗi niềm của nhân vật trữ tình. Đây cũng là nét độc đáo điển hình trong phong cách thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 16

Không chỉ là một trong những bài thơ hay của Huy Cận mà “Tràng giang” còn là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới (1930-1945). Mới đọc, không ít người nhầm tưởng “Tràng giang” là một bài thơ miêu tả cảnh thiên nhiên, thể hiện tình yêu quê hương đất nước nhưng kì thực bấy nhiêu chưa đủ với “Tràng giang”. Bài thơ là lời bộc bạch của một tâm hồn cô đơn, bơ vơ ngay giữa quê hương mình. Hay nói đúng hơn thì đó là nỗi buồn của cả một thế hệ chứ không riêng gì một hồn thơ.

Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận được “thai nghén” và “sinh nở” từ những buổi chiều tác giả đứng trên bến Chèm của con sông Hồng đỏ nặng phù sa. Ban đầu bài thơ có tên “Chiều trên bến sông” nhưng sau này Huy Cận đặt lại thành “Tràng giang”. Hai chữ “Tràng giang” đã gợi lên hình ảnh một con sông dài, mênh mông và bát ngát. Dường như dòng sông ấy đã chảy từ xa xưa của lịch sử, đã đi qua bao nền văn học, đã chứng kiến biết bao nhiêu thế hệ người sinh ra và mất đi. Không những thế, điệp vần “ang” không chỉ gợi tả sự dài rộng của con sông mà còn khiến nó trở nên mênh mang hơn, âm hưởng hơn trong tâm trí người đọc.

Mở đầu bài thơ là một cảnh sông nước mênh mông bất tận:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Ngay câu đầu của bài thơ đã cho thấy hình một con sông mang nỗi buồn mênh mang, lan tỏa: “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Trên dòng sông buồn muôn con sóng ấy là một con thuyền nhỏ buông mái chèo xuôi theo dòng nước. Ở đây, hình ảnh thuyền và nước chỉ “song song” với nhau chứ không gắn bó với nhau đã gợi lên sự lạc lõng, lênh đênh của con thuyền trôi nổi giữa dòng nước trăm ngả, thuyền biết theo ngả nào. Trong khi đó, câu thơ cuối lại phắc họa rõ nét hơn sự nhỏ nhoi, lạc lõng, vô định ấy bằng hình ảnh: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Dường như cái nhìn của nhà thơ giữa “trời rộng, sông dài” chỉ tập trung vào các vật nhỏ như sóng, thuyền, củi khô đã khiến sự đối lập được đẩy cao, làm rõ không gian sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ hững.

Đến khổ thơ thứ hai dường như nỗi buồn hiu quạnh như được tăng lên gấp bội và thấm sâu vào cảnh vật:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Toàn bộ khổ thơ khiến cho người đọc cảm tưởng một nỗi buồn cuốn xiết, tê tái lấy tất cả. Một cái cồn nhỏ lơ thơ, vắng vẻ, lại thêm ngọn gió đìu hiu nên càng thêm buồn bã hơn, não nề hơn. Ngay cả những tiếng huyên náo của buổi chợ chiều mà cũng nghe không rõ. Khong biết chắc là tiếng đó phát ra từ đâu và không thể xác định được là có đúng âm thanh ấy hay không. Trong khi đó thì trời và sông lại thật sự mênh mông và vô định. Không phải trời “cao” mà là trời “sâu”. Lấy chiều sâu để gợi cái hun hút, không thấy cao sâu như thế nào của trời đất. Hình ảnh sông nước mênh mông và một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn dường như đã lột tả hết nỗi buồn sâu thẳm đã thấm vào không gian ba chiều. Con người ở đó trở nên bé nhỏ, có phần rợn ngợp trước vũ trụ rộng lớn và không khỏi cảm thấy lạc loài giữa cái mênh mông cái xa vắng của thời gian, của đất trời.

Nỗi buồn quạnh quẽ tiếp tục thấm nhuần sang khổ thứ ba. Một loạt những hình ảnh lại được hiện lên nhưng tất cả đều nhằm nói lên chỉ một tâm trạng:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Sang khổ thơ này, dường như có một sự chuyển biến, sự vận động của thiên nhiên, không còn u buồn và tĩnh lặng đến thê lươngtrước nữa qua hình ảnh “bèo dạt”. Thế nhưng “bào dạt về đâu” lại khiến cho người ta dễ thất vọng bởi cánh bèo trôi dạt vô định, không biết nơi nào để bấu víu mà cứ lặng lẽ dạt “về đâu” mặc cho số kiếp. Toàn cảnh sông dài, trời rộng tưởng như rất hùng tráng nhưng tuyệt nhiên không có lấy một bóng con người; không một chuyến đò, đồng thời cây cầu – biểu tượng gắn kết, tạo sự gần gũi giữa con người với con người – cũng không có mà chỉ có thiên nhiên (bờ xanh) nối tiếp với thiên nhiên (bãi vàng) đầy xa vắng, hoang sơ.

Và có lẽ ở khổ thơ cuối, bút pháp nghệ thuật của tác giả được đẩy lên cao nhất với nét vẽ chấm phá rất đắc điệu:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Có thể nói tư tưởng cả bài thơ cũng như tâm tình của nhà thơ được gửi gắm qua khổ thơ cuối này. Hình ảnh “mây cao đùn núi bạc” mang dáng dấp của thơ Đường đã tạo nên ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Trước cảnh sông nước, mây trời bao la ấy, bỗng thấy xuất hiện một cánh chim nhỏ bé, chao nghiêng. Hình ảnh cánh chim đơn lẻ trong một buổi chiều tà cũng để gợi lên một nỗi buồn xa vắng. Thậm chí có nhận định cho rằng, người đọc cảm tưởng như cả thiên nhiên đất trời rộng lớn đang đè nặng lên đôi cánh nhỏ bé ấy, cho nên cánh chim mới sa xuống như vậy. Thiên nhiên rộng lớn và hùng vĩ bao nhiêu thì cánh chim lại nhỏ bé, đơn độc và mệt mỏi bấy nhiêu. Nếu quan sát trong chính thời điểm ấy của cuộc đời nhà thơ thì phải chăng cánh chim ấy chính là một tâm hồn yêu nước tha thiết nhưng nhỏ nhoi, yếu ớt trước sự xâm lăng, đàn áp của giặc ngoại quốc? Buồn mà bất lực.

Rất có thể vì thế mà hai câu sau nhà thơ đã nhắc đến quê nhà:

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Giữa thiên cảnh bao la hùng vĩ nhưng thấm đẫm nỗi buồn man mác đã khiến cho tác giả nhớ đến quê hương, nhớ đến những con người thân quen một thời của mình. Nhà thơ buồn trước không gian hoang vắng, sóng gợn tràng giang hiu hắt khiến ông nhớ tới quê hương như một nguồn ấm áp. Một mình đối diện với khung cảnh vô tình, quạnh vắng thì có lẽ nơi quê nhà chính là niềm an ủi lớn nhất đối với một tâm hồn đang hết sức cô đơn, lạc lõng.

Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận không chỉ vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh mà qua đó còn khắc họa được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của nhà thơ. Nỗi buồn ấy chính là xuất phát từ thực tại lúc bấy giờ: xã hội cộng đồng truyền thống với những mối dây liên hệ đã đứt tung để thay vào đó là một xã hội đô thị với những cái tôi rời rạc, bơ vơ.

Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang của Huy Cận 17

Ở khổ thơ đầu tiên, Huy Cận vẽ ra trước mắt người đọc một không gian sóng nước bao la. Quả đúng như lời nhận xét “ Huy Cận đi lượm nhặt chút buồn rải rác để làm nên một nỗi sầu vạn kỷ”, khổ thơ mở ra hình ảnh con sông rộng lớn , mênh mông, vô tận. Với nghệ thuật sử dụng phép đối thành công, Huy Cận khắc họa rõ nét không gian bao la của dòng sông. Với luồng trôi lững lờ, dòng sông càng mênh mông hơn nhưng gợn sóng “điệp điệp”. Hình ảnh trước mắt gợi ra càng bao la, bát ngát, con thuyền càng đơn độc. Một nỗi buồn u uẩn phảng phất trong không gian. Ở hai câu thơ đầu Huy Cận đã rất thành công trong việc sử dụng phép đối, để không gian vừa có chiều rộng lại vừa dài vô định, mênh mông.

Câu thơ tiếp theo, Huy Cận tiếp tục khắc họa sầu chia ly của thuyền và nước. Hai hình ảnh này vốn là một thi liệu khá quen thuộc, nhưng ở đây, thuyền và nước không song hành với nhau như ở trong những bài thơ cổ. Nỗi sầu vạn kỷ càng được nhân lên gấp bội phần khi đọc đến câu “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Không gian vô định như nói lên hộ tâm trạng của lòng người chưa tìm được Lý tưởng cuộc sống. Hình ảnh củi khô trôi nổi trên dòng nước một lần nữa làm tăng tiến thêm mạch cảm xúc buồn thương, cô đơn trong toàn khổ thơ. Không phải hình ảnh mặt nước cánh bèo, không phải một cánh hoa trôi, thi liệu trong thơ là một hình ảnh vô cùng khô héo, cạn kiệt nhựa sống. Cành củi khô xuất hiện giữa mấy dòng nước không biết sẽ trôi dạt về đâu. Hình ảnh cành củi đã nói lên tâm trạng chung của cả một thế hệ khi đất nước vẫn trong màn đêm, chưa tìm được hướng đi riêng, và vẫn còn đang loay hoay giữa cuộc sống bộn bề. Huy Cận sử dụng rất thành công phép đối trong câu thơ đồng thời kết hợp khéo léo với nhịp thơ 3/3 tạo nên rõ sự cô đơn, lẻ chiếc của cành củi giữa bạt ngàn sóng nước. Như vậy, ở khổ thơ đầu tiên này, Huy Cận đã dựng lên một bức tranh buồn, nhuốm màu tâm trạng của cá một thế hệ. Toàn bộ bức tranh không hề có bất kỳ sự xuất hiện nào của con người, càng trở nên cô liêu, vắng vẻ, nỗi ảm đạm như xoáy sâu vào trong tâm khảm của người thi sĩ.

Phân tích khổ thơ thứ hai bài thơ Tràng giang của Huy Cận ngắn gọn nhất 18

Nối tiếp mạch cảm xúc đó, là hình ảnh cảnh vật hai bên bờ sông đìu hiu, thiếu sức sống. Hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ một lần nữa được Huy Cận sử dụng triệt để.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”

Trước đây, trong Chinh Phụ Ngâm, ta đã từng bắt gặp hình ảnh cồn cát, gò đống đìu hiu như vậy.

“ Non Kì quạnh quẽ trăng treo

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”

Ở trong thơ Huy Cận, dòng sông không rõ tên, chỉ biết cảnh vật như mang màu sắc tâm trạng, hoang sơ và thiếu sức sống. Với cách sử dụng các từ láy có sức tượng hình rất cao, “lơ thơ”, “đìu hiu”, gợi lên sự thưa vắng, ít có dấu vết của sự sống con người. Nỗi u sầu đến mức tiếng chợ chiều cũng không còn nghe rõ. Từ “đâu” có thể là đâu đó văng vẳng lại, cũng có thể mang nghĩa phủ định “đâu có”.Cảm giác như mơ, như thực, không biết có tồn tại hay không. Phiên chợ chiều vốn dĩ đã thưa vắng, nhưng đến sự tồn tại của nó cũng vẫn còn khiến thi nhân phải nghi vấn. Trước sự rợn ngợp của thiên nhiên, con người trở nên bé nhỏ quá, đơn côi quá! Với một vài nét chấm phá, dùng thủ pháp cũ “ vẽ mây nẩy trăng”, Huy Cận đã tạo nên được một bức tranh quê nghèo xác xơ, thiếu sức sống, thiếu linh hồn.

Đến hai câu thơ tiếp tầm nhìn như được mở rộng thêm ra, khoảng không như có độ giãn, được khắc họa cả ba chiều: chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Cảm giác cảnh vật như có sự chuyển động “nắng xuống- trời lên”. Buổi chiều, nắng đang xuống dần, bầu trời như được kéo lên cao hơn. Với từ ngữ tượng hình “sâu chót vót” Huy Cận đã tạo nên một điểm nhấn riêng, đưa người đọc đến với không gian hai bên bờ vào buổi xế chiều. Rất ít người dùng từ “chót vót” để miêu tả chiều sâu.Ở đây, không phải sâu hun hút, sâu thăm thẳm, sâu thật đấy, nhưng lại mở ra cả chiều cao, chiều dài, chiều rộng như một bức họa 4D, kéo không gian càng trở nên vô tận vô cùng. Không gian ấy chính là cái nền, để nỗi niềm cô liêu ngày càng lan tỏa. Câu thơ cuối cùng như là hình ảnh bến nước cô liêu, không có sự xuất hiện của con người. Vũ trụ càng bao la, dòng sông càng rộng lớn, bầu trời chiều càng rộng, càng sâu, nỗi cô liêu ấy càng được nhấn mạnh hơn. Nỗi “sầu vạn cổ” chính là mạch cảm xúc xuyên suốt toàn bài thơ của Huy Cận.

Phân tích khổ thơ thứ ba và bốn bài thơ Tràng giang của Huy Cận 19

Ở khổ thơ ba, cảnh vật vẫn tiếp tục gợi nên một không gian quạnh vắng. Đã có một chút chuyển động nhẹ của những cánh bèo trên dòng nước. Từ xưa, hình ảnh này vốn tượng trưng cho kiếp đời bấp bênh, chìm nổi, vô định. Đã vô định đến vậy, lại còn “hàng nối hàng”, từng lớp, từng lớp một không biết sẽ đi đâu, về đâu. Có lẽ chăng đây cũng chính là tâm trạng chung của một thế hệ, khi chưa được ánh sáng chỉ lối, soi đường! Trước không gian mênh mông, trôi nổi, vô định ấy, không hề có bất kỳ một dấu vết nào của sự sống, đến một con đò sang ngang cũng không có, một câu cầu bắc ngang cũng không. Từ bờ bên này đến bờ bên kia không có bất kỳ thứ gì kết nối. Hai từ không được sử dụng nối tiếp nhau, như nhấn mạnh thêm sự quạnh quẽ, không có lấy một chút “niềm thân mật”. Màu sắc được của bờ bãi khá tươi sáng nhưng lại bị án ngữ bởi cụm từ “lặng lẽ” đứng đầu câu. Hình ảnh không còn được sáng sủa như màu sắc nguyên thủy của nó nữa. Không gian đìu hiu như nhấn chìm cả sự trù phú của bờ bãi ven sông khiến tất cả  đều bị bao trùm bởi sự cô liêu.

2. 5. Phân tích bài thơ Tràng giang qua khổ thơ thứ 4

Nếu như ở các khổ thơ trên, là bức tranh thiên nhiên u sầu, thì ở khổ thơ cuối cùng chính là tâm tư, suy nghĩ của người thi nhân.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dờn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Một lần nữa, các từ láy được sử dụng một cách vô cùng điêu luyện, có sức gợi rất lớn. Hình ảnh bầu trời chiều được khắc họa một cách vô cùng huy hoàng, là một điểm sáng trong toàn bài thơ. Cảm tưởng như các lớp mây đang chồng chất lớp lớp đè lên dãy núi bạc lúc hoàng hôn. Cánh chim như bị bóng chiều đè nặng xuống, như lòng người cô đơn, đang tìm phương hướng cho mình mà vẫn chưa biết phải đi về đâu.

Hai câu thơ cuối chính là nỗi niềm bao trùm toàn bộ cảm xúc của bài thơ. “Con nước” chính là hình ảnh gợi mở, để thi nhân hướng về tình yêu quê hương đất nước. Hơn ngàn năm trước,Thôi Hiệu cũng đã từng viết trong Hoàng Hạc Lâu “Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Ở đây, không có “yên ba” ( khói sóng), chỉ có sông, trời, cảnh chiều tàn, cũng đủ khiến cho thi nhân da diết nỗi nhớ nhà. Thôi Hiệu nhớ quê khi phải đi xa, ở đây, Huy Cận nhớ quê khi đang đứng ngay trên chính quê hương mình. Khi thời buổi ngày càng rối ren, sự bế tắc của giới thi nhân đã lên tới đỉnh điểm. Không có gì cô đơn hơn việc đứng ngay trên đất mình, giữa quê hương mình nhưng lại luôn thấy thiếu, thấy nhớ quê hương, nhớ những giá trị xưa cũ đã mất đi. Mượn tứ thơ cổ, nhưng Huy Cận lại thổi vào đó cái hồn riêng, để tạo nên một màu sắc riêng biệt của Tràng Giang, gửi gắm nỗi “sầu thiên thu” của một ”chiếc linh hồn nhỏ”.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 20

Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ Mới, thơ ông có một bản sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội cũng như triết lí. Thơ Huy Cận mang một nỗi buồn sâu lắng, miên man, ảo não và thảm đạm; nỗi buồn của "đêm mưa", của "người lữ thứ", nỗi buồn của "quán chật đèo cao", của "trời rộng sông dài". Tràng Giang là một bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, sáng tác vào năm 1939, đăng lần đầu trên báo Ngày nay, sau đó in vào tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ mang phong vị Đường thi khá rõ. Đây là bài thơ được cảnh sông nước mênh mông của sông Hồng gợi tứ. Huy Cận đã có lần tâm sự: Tôi có thú vui thường chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng và Hồ Tây. Phong cảnh sông nước đẹp, gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ không chỉ so sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương".

          Lời đề từ của bài Tràng Giang là Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài, một câu thơ thẻ hiện âm điệu chủ đạo của lời đề từ là sự nhẹ nhàng, buồn man mác, buồn len lỏi vào tâm hồn của con người. Đó là nổi sầu vạn kỉ thấm sâu vào trong mạch cảm xúc của bài thơ này mà Lê Di viết: Là Tràng Giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước. Là Huy Cận khổ nào cũng lặng lẽ u sầu. Nỗi sầu buồn mênh mang bao trùm cả không gian, thời gian thấm tỏa vào cả linh hồn tạo vật. Lời đề từ còn thể hiện rõ âm điệu, xúc cảm của bài thơ. Tràng Giang là bài thơ có âm điệu buồn, có sự hài hòa giữa cảnh và tình. Đồng thời lời đề từ còn thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín trong tâm hồn Huy Cận nói riêng, của một thời đại trong thi ca nói chung.

  Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
  Con thuyền xuôi mái nước song song,
  Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
  Củi một cành khô lạc mấy dòng.

     Bài thơ mở đầu bằng một hình ảnh sông nước mênh mông " Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp". Tràng giang dài rộng dang trải ra từng đợt sóng điệp điệp không dứt. Động từ "gợn" diễn tả làn sóng nhẹ nhàng có vẻ mong manh, mơ màng nhưng lại lan mãi không thôi. Nó gợi được một nỗi buồn da diết khôn tả của thi nhân. Và để làm rõ được cảm giác ấy, tác giả lại viết "buồn điệp điệp". Điệp điệp là một từ láy gợi hình, gợi cảm, vừa là hình ảnh vừa là tâm tư. Nó vừa gợi được làn sóng chồng chất, tầng tầng lớp lớp, vừa diễn tả nỗi sầu điệp điệp. Với tấm lòng tâm tư ngắm nhìn cảnh ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình đang trải ra từng đợt điệp điệp. Nghệ thuật ẩn dụ đã khiến sóng sông hòa với sóng lòng, những gợi sóng trên sông triền miên, vô tận như hữu tình hóa những gợn buồn trong người, nhẹ nhàng mà mênh mang không dứt. Nhà thơ tìm ra cái tĩnh trong cái tưởng như rất động, thể hiện một hồn thơ hay thiên về cái tĩnh lặng. Con sóng gợn trong con mắt đầy xúc động của thi nhân dường như cứ lan toả đến vô cùng. Vì vậy, ngay từ câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã chứng tỏ mình đi theo một phong cách thơ khác so với phong cách thơ cổ điển, đó là sự xuất hiện chữ “buồn” ngay ở đầu bài – “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn mang hình ảnh của sóng gợn, mượn hình ảnh của sóng để hiện ra trước con người. Như thế, “Tràng giang” rất sớm trở thành một dòng sông tâm trạng, vừa là hình ảnh của ngoại giới, lại vừa là hình ảnh của tâm giới.

     Nhà thơ thường ẩn sau cái mênh mong của sông nước, không như các nhà thơ Mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hòa nhập, giao cảm thì Huy Cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

     Hình ảnh nước không phải thuyền trôi trên dòng nước mà là “thuyền về, nước lại”. Mỗi sự vật đi kèm với một động từ, tạo nên cảm giác về sự chuyển động trái chiều. Ta cảm tưởng rằng thuyền về, con nước lại và một khoảng trống sẽ được mở ra, một khoảng trống về một mối sầu lan toả, không chỉ được mở ra trên hai chiều trái ngược nhau mà là mọi chiều trong không gian – “ sầu trăm ngả”. Từ xưa tới nay, thuyền và nước la hai hình ảnh luôn luôn gắn bó. Vậy mà ở đây, con thuyền lênh đênh mà dòng nước mênh mông như có một nỗi buồn chia li, xa cách. Những con thuyền đã về hết, chỉ còn dòng sông mênh mang sóng nước. Vì thế, cảnh dễ gợi nỗi "sầu trăm ngả". Tuy nhiên, không có câu thơ nào trong khổ này lại khiến Huy Cận phải trăn trở nhiều hơn, tâm đắc nhiều hơn là câu thơ thứ tư:

   Củi một cành khô lạc mấy dòng.

     Giữa con sông mênh mông mang nặng dòng nước sầu buồn chia li, trăm ngả gợi lên sự chia lìa cách biệt ấy hiện lên "củi một cành khô lạc mấy dòng" trôi lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ đi về đâu trong dòng sông mông lung vô định. Điều rất lạ là câu thơ tâm huyết này của Huy Cận lại bắt đầu bằng một chữ tưởng như không hàm chứa một lượng thơ ca nào, chữ “củi”. Chữ ấy lại được nhà thơ nhấn mạnh qua một phép đảo từ “ củi một cành khô ”. Nhưng phải là chữ “củi” và phải là phép đảo từ thì nhà thơ mới có thể nói ra tận cùng một quan niệm, một triết lý nhân sinh. . Hình ảnh “củi” không chỉ nói về một thanh gỗ đã chết mà còn thực sự toát lên vẻ tầm thường. Chữ “một” gợi lên số ít, chữ “cành” làm nên cảm giác nhỏ bé. Và như thế, con người dường như đang lạc lối, ngơ ngác trước những dòng nước của con sông lớn ở trong hiện thực, cũng là trước con sông của nỗi buồn ở lòng người. Nỗi buồn về sự nhỏ nhoi, cô đơn của một kiếp người, khác hoàn toàn với nỗi buồn của Xuân Diệu trong “Đây mùa thu tới “.
     Đến khổ thơ thứ hai thì không gian đã không còn chỉ giới hạn trong phạm vi một mặt sông, tác giả đã đi sâu vào việc miêu tả chi tiết nỗi buồn, cái buồn giờ không còn lang thang vô định trên sông nữa mà đã tấp vào một cồn đất nhỏ.

   Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
   Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
   Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,
   Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

     Bức tranh “Tràng giang” giờ đây đã có thêm hình ảnh những chiếc “cồn” của những làng xóm ở bên sông. Vì thế hai câu thơ đầu phảng phất cảm giác man mác, nhẹ nhàng mà sâu kín về một quê hương. Không thể không chú ý rằng Huy Cận muốn những chiếc cồn trong thơ phải là “cồn nhỏ” và phải thưa thớt, lơ thơ. Gió thì “đìu hiu” càng làm cho dòng tràng giang thêm tĩnh lặng. Và Huy Cận cũng học được những chữ này trong thơ nổi tiếng của Đoàn Thị Điểm:

   Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
   Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.

     Một ngọn gió thổi đìu hiu ở nơi đã từng là bãi chiến trường đẫm máu, mối liên tưởng ấy làm ngọn gió trên sông của nhà thơ lại càng thêm buồn bã, hắt hiu. Câu thơ thứ ba đã vẳng lên âm thanh của sự sống, nhưng âm thanh ấy cũng nhỏ nhoi, yếu ớt, cô quạnh.

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

     Đâu đó còn âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi đâu như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một sự hoạt động, âm thanh của sự sống con người. Đó cũng có thể là đâu có, một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt đi cái tịch liêu của thiên nhiên. Cảm giác đến với nhà thơ và người đọc thơ thông qua một giác quan mơ hồ – thính giác, mà không phải qua hình ảnh. Sự mơ hồ ấy lại được nhân lên qua chữ “đâu” ở đầu câu, càng khiến cho âm thanh ấy như có như không, như hư như thực. Nhưng thực nhất vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang. Bức tranh "Tràng giang" tuy có cồn đất, có nắng, có bến, có làng, có chợ nghĩa là có hơi tiếng con người đấy nhưng vẫn không át được cái cảm giác tàn tạ, hiu hắt, quạnh vắng. Bởi không có gì buồn bằng cái chợ chiều tan tác. Đến câu thơ thứ ba thì không gian được mở ra theo một chiều khác, chiều cao qua hình ảnh của nắng và bầu trời:

   Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.

      Hai hình ảnh ấy cũng được đặt trong những chuyển động trái chiều – “lên” và “xuống”, trong cảm giác về một sự chia rẽ. Nắng xuống và trời lên, để lại một khoảng trống thăm thẳm mở ra, làm nên cảm giác mà Huy Cận đã diễn tả bằng một sự kết hợp từ độc đáo – “ sâu chót vót ”. Cụm từ này tạo cảm giác thăm thẳm về bầu trời và mặt nước. " Sâu chót vót" chứ không phải cao chót vót. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng lại bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu vào cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Và khổ thơ thứ hai của bài thơ được khép lại trong một câu thơ gần nhất với câu đề từ khi ở đây lại xuất hiện hình ảnh của “sông dài, trời rộng”.

 Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

     Nhưng bên cạnh hình ảnh ấy, Huy Cận đã đặt bên cạnh một hình ảnh “bến cô liêu”. Bến ấy cũng đại diện cho con người, cho sự sống vì sông sẽ không có nơi nào là bến nếu không có sinh hoạt của con người nơi bến ấy. Vì vậy hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vụ trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng.
     Chúng ta bắt gặp một sự biến chuyển ở đầu khổ ba:

   Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
   Mênh mông không một chuyến đò ngang.
   Không cầu gợi chút niềm thân mật,
   Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

     Hình như có cái gì đông đúc hơn lên, sự chuyển động dường như cũng đã nhanh hơn, mạnh mẽ hơn. Chúng ta nhận ra điều ấy qua từ “dạt” ngay ở câu thơ đầu tiên. Cảm giác đông đúc cũng thể hiện khá rõ trong ba chữ “hàng nối hàng”. Nhưng sự đông đúc ở đây lại chỉ là của những cánh bèo, hình ảnh từ lâu đã tượng trưng cho những kiếp phù sinh, cho cuộc sống không ý nghĩa. Hình ảnh “bèo dạt” ấy cũng đã từ lâu dùng để nói về số phận của những kiếp người không có khả năng tự làm chủ cuộc đời mình. Nhưng câu thơ thứ nhất không chỉ là hình ảnh của những kiếp người vô định mà từng hàng bèo trôi dạt ấy dường như còn để tăng thêm cảm giác trống không ở những câu sau. Bởi người đọc sẽ có cảm tưởng khi bèo đã dạt hết rồi, nhìn lại mặt tràng giang, con người sẽ cảm thấy hoàn toàn trơ trọi với những chữ “không” nối tiếp nhau cứ dội lên mãi trong câu thứ hai và thứ ba:

   Mênh mông không một chuyến đò ngang.
   Không cầu gợi chút niềm thân mật.

     Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định "không...không..." để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ là biểu tượng sự giao nối của con người với cuộc sống, thường gợi về sự tấp nập, gần gũi và gợi nhớ quê hương: Chiếc cầu là đêm trăng to hò hẹn; Quê hương là cầu tre nhỏ;...là sự sống. Nhưng ở đây "không một chuyến đò" lạc qua, không một chiếc cầu bắc nối đôi bờ, nghĩa là tuyệt nhiên không một dấu vết của sự sống hay một cái gì đó gợi về tình người, lòng nước muốn gặp gỡ lại qua đôi bờ hoang vắng. Hai bờ sông cứ thế chảy về phía chân trời xa như hai thế giới cô đơn, xa lạ không bao giờ gặp nhau, không chút niềm thân mật của những tâm hồn đồng điệu. Cảm giác của nhà thơ lại trở về với chiều dài và chiều rộng trong câu đề từ, khi nhà thơ viết câu thơ cuối: "Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng" . Cảm giác về “không” gặp lại ở “lặng lẽ”, không hình, không cả tiếng. Câu thơ gợi cho người đọc cảm nhận về dòng chảy qua hết bờ xanh lại đến bãi vàng, nhưng tuyệt đối âm thầm. Chúng ta lại nhận ra thêm ở đây một nỗi buồn sông nước.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 21

Tràng giang là một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ “Lửa thiêng”. Nó phản ánh một nỗi buồn mênh mông da diết, một thiên nhiên khoáng đạt nhưng buồn. Đó là nỗi buồn dường như vô cớ siêu hình nhưng trong tận cùng sâu xa thì đây chính là nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn về quê hương đất nước. Hai dòng thơ đầu là một cặp chứa đựng nghệ thuật đối của Đường thi. Trên cái nền mênh mông của sóng nước tràng giang, Huy Cận cho xuất hiện một hình tượng chiếc thuyền nhỏ nhoi điểm nhãn cho bức tranh ấy có thần. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song”. Câu đầu cho thấy mối quan hệ tác động giữa khách quan và chủ quan. Dòng tràng giang xuất hiện những cơn sóng rất nhẹ, thế nhưng nó có khả năng gợi lên những lớp sóng trong tâm hồn người rất dữ dội. Sóng nước tràng giang tạo nên sóng buồn “điệp điệp” trong lòng người. Tràng giang gợi cho ta vè một con sông dài thế nhưng vần “ang” đã cộng hưởng với nhau tạo ra một tiếng vang. Theo Xuân Diệu thì tràng giang không chỉ là sông dài mà còn là sông rộng, sông sâu. Nó không chỉ là con sông gợi gợi tới Hồng Hà, là con sông tạo cảm hứng cho bài thơ này – hay sông La dòng sông quê hương của tác giả, dòng sông đã thổi vào hồn cho “Tràng giang” – mà nó còn là con sông của thời thế, con sông cuộc đời. Con sông ấy bắt đầu từ một quá khứ mông lung, nó chảy lửng lờ giữa lòng vũ trụ rồi nó trôi đến tương lai cũng hết sức mông lung. Giữa những lớp sóng của nỗi buồn hiu hắt xuất hiện hình tượng một con thuyền thật cô đơn trong buổi chiều tàn. Cũng hình ảnh này, trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã cho bao thế hệ độc giả cảm nhận được dư vị bàng bạc của nỗi buồn: “Gác mái như ông về viễn phố” Còn con thuyền của Huy Cận thì không có bóng ngư ông, cũng không có ai chủ động gác mái chèo và không hề có một bến xa nào chờ đợi nó. Thơ Huy Cận chứa đựng một nỗi buồn trần thế ở bên trong, nên ta có thể hiểu con thuyền ấy là thân phận của con người. Tràng giang ấy chính là dòng đời bạc bẽo, cho nên con thuyền không thể trôi trên nước mà “song song” với nước. Trong thực tế thuyền không “song song” với nước vậy thì không có quan hệ ngược chiều “thuyền về nước lại”. Rõ ràng ở đây con thuyền ấy vẫn lầm lũi trôi về xa và dòng nước “song song” đã không còn đồng hành với thuyền. Nó quay trở lại mặc cho thuyền trôi. Đó là sự ngoảnh mặt quay lưng của cuộc đời với những cá nhân đau khô. Ở cái nơi dứng tình, đoạn tuyệt giữa thuyền và nước xuất hiện những con sóng vô hướng với sầu trăm ngã: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngã” Như vậy nỗi buồn đã chuyển hóa thành sóng. Buồn “điệp điệp” là một nỗi buồn định hương theo không gian trôi của tràng giang giờ đây đã trở thành cái sầu vô hướng lan tỏa toàn vũ trụ. Câu thơ thứ tư là một sự sáng tạo đọc đáo của Huy Cận. “Củi một cành khô lạc mấy dòng” Hình tượng cành củi khô trên dòng tràng gian gợi cho ta thân phận một kiếp người. Trong quá khứ đây là một cành cây xanh tươi, nó được sống với nhau xanh của lá, với nhựa sống của cây. Ấy vậy trong hiện tại nó đã bị khô héo, đã phải lìa cội gốc để thụ động phiêu bạt mà không hề định hướng được cho mình tương lai. Rõ ràng cành củi khô nhỏ bé trôi trên sóng nước tràng giang thì không thể hứa được điều gì tươi sáng cả. Nếu khổ thơ đầu tiên là những sự vật được nhìn trên sóng nước tràng giang, thì đến khổ thơ thứ hai ta bắt gặp một không gian ba chiều trên con sông dài, sâu, rộng ấy cùng với nỗi buồn thấm thía. Câu thơ thứ nhất cho ta thấy bờ của tràng giang cồn bãi gập ghềnh. Nó không được phẳng lì như bãi cái trên con sông Đuống trong bài thơ Hoàng Cầm: “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu” Những cồn đất ấy nó đứng im nhưng cảm giác rợn ngợp của con người lại khiến cho nó chuyển động. Cồn nhỏ thì “lơ thơ” còn ngọn gió thì đìu hiu đầy âm khí chết chóc. Gió cứ lận quất, lan thang trong không gian của nghĩa địa ấy khiến lòng người trở nên hoang vắng, rờn rợn. Vì thế mà nhà thơ muốn tìm tới một không gian xa hơn, có bóng dáng của con người hơn. Ông muốn được nghe âm thanh của sự sống dù chỉ là tiếng chợ vãn buổi chiều. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” Huy Cận giải thích: đâu đây có những tiếng thì thào nho nhỏ của một phiên chợ vãn ở làng xa nào đó. Còn Xuân Diệu thì cho rằng chẳng có tiếng chợ vãn nào ở làng xa cả, chỉ có cồn nhỏ và gió “đìu hiu” cũng khát vọng được nghe tiếng người nhưng không có. Hai câu thơ tiếp theo là không gian ba chiều của tràng giang, nó kiểm soát toàn vũ trụ. Trước hết là chiều dọc, nó được nhìn bằng một cái nhìn rất “động”. “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót” Nhà thơ đã rất tinh tế khi quan sát được cái vẻ đẹp thi vị của buổi chiều trên sông nước quê hương. Trời càng về chiều những vạt nắng như được đổ từ trên cao xuống thấp, càng về chiều càng có sự phân biệt sáng tối; dưới đất sẫm màu, trên trời vàng rực nắng. Do đó ánh sáng càng xuốn thì trời càng bị đẩy lên cao. Nhìn vào bầu trời cao vút ta có cảm giác không gian như lộn ngược, ta cứ nghĩ rằng mình đang rơi xuống một cái hang sâu thăm thẳm. Vì thế mà ba tiếng “sâu chót vót” được dùng ở đây rất hay và vô cùng độc đáo. Sau chiều dọc thì chúng ta gặp một chiều ngang, chiều rộng: “Sông dài, trời rộng bến cô liêu” Ở cái hệ tọa độ ba chiều ấy ta thấy xuất hiện một giá trị mong manh, nhỏ nhoi, cô độc là “bến cô liêu”. Tự nó mang ý nghĩa biểu tượng cho một kiếp người đáng thương trong vũ trụ bao la, mênh mông. Đến khổ thơ thứ ba đành phải quay lại với mặt nước tràng giang, vì đâu đâu cũng tràn ngập bầu không khí ảm đảm, đau thương. Giờ đây không chỉ có một con thuyền, một cành củi, một thân phận cá nhân mà là số phận nổi trôi của cả cộng đồng vì không biết sẽ về đâu. “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng” Câu thơ tiếp theo mong ước sẽ có một sự vật đâm ngang, lao vút qua dòng tràng giang để chủ động tìm một giá trị gì đó cho chính mình. Ở đây ước muốn có một chiếc đò ngang chờ người nối hai bờ vui đã đối lập chua chat với hiện thực. Tràng giang đã phủ định tuyệt đối bằng chữ “không” với cái mong ước nhỏ bé ấy. “Mênh mông không một chiếc đò ngang” Câu thơ tiếp theo là một khát vọng đã được giảm thiểu: “Không cầu gợi chút niềm thân mật”. Thôi thì không có chuyến đò ngang ta chỉ cần một chiếc cầu để nối bờ của “cồn nhỏ”, “gió đìu hiu” với bờ có cây xanh và bãi cát vàng. Vậy mà chiếc cầu ấy cũng không hề có thực. Nhà thơ cảm thấy nhận được sự cô đơn lạc loài đang vây bủa. Khát vọng không phải lênh đênh như thuyền với cành củi khô, như cánh bèo dạt trôi; kháy vọng muốn thoát khỏi bờ sông lãnh lẽo, hoang vắng đã khiến cho nhà thơ hướng tới mong muốn hòa nhập vào xã hội để tìm kiếm sự đồng cảm, giao tiếp với con người. Và thật thất vọng biết bao nhiêu với một dấu hiệu nhỏ mong “gợi chút niềm thân mật” với xã hội loài người cũng không có nốt. Không thể thực hiện được điều mình ước muốn, nhà thơ đành ngậm ngùi sống với khát vọng thầm kín bằng nỗi buồn lặng lẽ và đôi mắt mong ngóng: “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Khác với những hình tượng thơ hiu hắt trên sông nước tràng giang. Câu thơ này xuất hiện một cái nhìn thế giới rất sáng trong. Đó là màu xanh của sự sống, là màu vàng rực rỡ của niềm vui hạnh phúc. Như vậy là ước muốn sang bờ bên kia để hòa nhập với “bờ xanh tiếp bãi vàng” với “niềm thân mật” nhưng không thể thực hiện được nên nhà thơ đành phải ngắm nhìn trong rung rưng, ngậm ngùi. Khổ thơ cuối cùng là một không gian xa tít tắp phía chân trời tràng giang. Đó là một xứ sở của yên bình hạnh phúc. Nơi ấy con người tìm lại được chính mình gắn bó với gốc rễ, quê hương, xứ sở; không phải lênh đênh lạc loài: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” Đây là câu thơ tả cảnh hoàng hôn buôn xuống, mặt trời tỏa ra những tia nắng gay gắt, chói lọi. Phía chân trời tràng gian xuất hiện những nấm mây trắng nhỏ. Chỉ trong chốc lát, lớp mây này đùn lên lớp mây kia. Và rồi không gian ba chiều trống rỗng của tràng giang bị những đám mây khổng lồ chiếm lĩnh toàn bộ. Mặt trời chiếu vào những núi mây ấy khiến cho nó trắng xóa, sáng lòa như những hòn núi được đúc bằng bạc. Câu thơ này thực ra lấy ý từ hai câu nhớ nhà của Đỗ Phủ: “Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm Mặt đất mây đùn, cửa ải xa” Người trí thức Tây học Huy Cận sau bao nhiêu lần vô vọng tìm kiếm nhưng không gian “gợi chút niềm thân mật” đã phát hiện ra được không gian để mình giải tỏa niềm đau là quê hương, là xứ sở Việt Nam. Vì vậy hình tượng cánh chim bay trong hoàng hôn tràng giang không ai khác hơn là hóa thân của chính Huy Cận. “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” Cánh chim ấy cũng nho nhoi giữa đất trời vô hạn mênh mông nhưng nó khác củi kia, thuyền nọ là cái thế chủ động. Nó đã cảm nhận được cái sức nặng của hoàng hôn vô vị.  Nó nghiêng cánh trút hết những niềm đau, nỗi khổ xuống tràng giang. Lòng của nó nhẹ nhõm để bay về hòn núi bạc. “Lòng quê dợn dợn vời con nước” Câu thơ thứ hai xuất hiện hai tiếng “lòng quê” như vậy nghĩa là đã xuất hiện hình tượng con người. “Lòng quê” thể hiện một tấm lòng hướng về quê hương, về cha mẹ và những người thân yêu. Rõ ràng trở về với cội nguồn để là người Việt Nam chính là giải pháp đúng đắn nhất để giải thoát những nỗi cô đơn, những sóng gió phũ phàng của cuộc đời ở tràng giang: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Khói sóng là một yếu tố khách quan bên ngoài, nó gợi lên cho Thôi Hiệu một nỗi nhớ nhà: “Quê hương khuất  bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” (Tản Đà dịch) Nhưng đến Huy Cận thì không cần có khói sóng tức là không có sự gợi ý của khách quan mà vẫn nhớ nhà. Như vậy nhờ nhà đã có sẵn trong nhà thơ, bó bộc lộ trực tiếp mà không cần có một sự gợi ý bên ngoài. Thực ra dù không có khói sóng nhưng đọc ba câu thơ trên ta thấy có rất nhiều yếu tố khiến Huy Cận nhớ nhà. Đó là những núi bạc, là cánh chim chiều trút cô đơn để bay về nơi hạnh phúc, là một khối “lòng quê” đang “dợn dợn vời con nước”. Bao nhiêu yếu tố ấy cũng đã đủ sức gợi nhớ quê hương đâu cần gì phải có khói sóng trên sông. “Trang giang” là một trong những bài thơ rất đặc sắc, “rất Huy Cận”. Với những nét bút chấm phá thân tình về tạo vật, tâm sự nhẹ nhàng mà thâm trầm của một tâm hồn trẻ vội sớm già đã có khả năng đối thoại thấm thía với người đọc về vũ trụ trong ngọn lửa thiêng hội tụ lẽ sống nhân sinh mang tính “lương” và chất “thiện”.