Bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo 1
Nam Cao viết văn từ những năm 30 của thế kỉ XX nhưng đến năm 1941 ông mới khẳng định vị trí của mình trong nền văn học nước nhà bằng truyện ngắn Chí Phèo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Chí Phèolà kiệt tác của Nam Cao, thuộc đề tài người nông dân nghèo. Tác phẩm viết về tấm bi kịch của nhân vật Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo gồm hai bi kịch nối tiếp nhau. Trước hết là bi kịch tha hóa từ một người lương thiện trở thành kẻ bất lương, thậm chí thành quỷ dữ. Tiếp nối là bi kịch bị từ chối làm người lương thiện. Đoạn mô tả từ buổi tối sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời thuộc bi kịch từ chối quyền làm người.
Chí Phèo nguyên là một đứa trẻ khốn khổ, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ bỏ không. Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho nhà lí Kiến. Đây là một canh điền khỏe mạnh, nhưng hiền lành như đất, không những hiền lành anh ta còn nhút nhát, chính Bá Kiến khi đó là lí Kiến đã tận mắt chứng kiến cảnh Chí Phèo vừa bóp đùi cho bà Ba vừa run run. Anh ta cũng có những ước mơ rất giản dị và lương thiện như trăm ngàn người nông dân khác là có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua thì mua dăm ba sào ruộng làm. Ở một xã hội bình thường, những con người như thế hoàn toàn có thể sống một cách lương thiện và yên ổn. Nhưng chỉ vì ghen tuông vu vơ, bá Kiến đã nhẫn tâm đẩy người thanh niên hiền lành, chất phác ấy vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào, sau 7- 8 năm đã biến một nông dân hiền lành, khỏe mạnh, lương thiện và tự trọng thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Từ đây, Chí Phèo bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Chí Phèo đã bị cướp mất hình hài của con người: Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm… Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ… Không những thế tính cách Chí cũng khác hẳn khi xưa. Chí không còn là một anh canh điền ngày xưa mà bây giờ Chí là một thằng liều mạng. Hắn có thể làm tất cả mọi việc như một thằng đầu bò chính cống: kêu làng, rạch mặt ăn vạ, đập phá, đâm chém…
Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Dưới ngòi bút sắc sảo của chủ nghĩa hiện thực, quá trình thức tỉnh lương tâm, nhân tính của một con người bị tha hóa, lầm lạc đã diễn ra không hề đơn giản, một chiều, dễ dãi mà do hoàn cảnh khá đặt biệt. Trong một lần say rượu không bình thường đã vô tình đưa Chí Phèo đến gặp thị Nở – một người đàn bà xấu xí và quá lứa lỡ thì. Lần say rượu đặc biệt ấy cùng với trận ốm thập tử nhất sinh đã khiến Chí Phèo có những biến đổi mạnh mẽ về cả tâm lí lẫn sinh lí. Thêm nữa, chút tình thương yêu mộc mạc, cử chỉ giản dị chân thành của thị Nở đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn sót lại nơi đáy sâu tâm hồn Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có bên trong con người lầm lạc. Lúc đầu, thị chỉ hấp dẫn Chí vì đơn giản thị là đàn bà, còn Chí là thằng đàn ông say rượu. Hai người ân ái với nhau thế rồi nửa đêm Chí Phèo đau bụng nôn mửa. Thị Nở dìu Chí Phèo vào nhà và đi nhặt nhạnh tất cả những manh chiếu rách đắp cho hắn. Sáng hôm sau, Chí Phèo tỉnh dậy khi trời đã sáng từ lâu. Và kể từ khi mãn hạn tù trở về đây là lần đầu tiên con quỷ dữ của làng Vũ Đại hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Chí thấy miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn. Lâu lắm hắn mới cảm nhận cuộc sống đời thường với những cảnh sắc, âm thanh bình dị: tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót...Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy, vì chỉ đến hôm nay hắn mới hoàn toàn tỉnh táo, các giác quan mới hoạt động bình thường. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo... Khi tỉnh táo, Chí Phèo nhìn lại cuộc đời của mình cả trong quá khứ, hiện tại, tương lai. Trước hết, hắn nhớ lại những ngày rất xa xôi hắn mơ ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua năm sào ruộng làm. Mơ ước của Hắn thật nhỏ bé và giản dị nhưng suốt ba năm qua nó vẫn chưa trở thành hiện thực. Thì ra, những ước mơ tốt đẹp của Chí Phèo không hề bị mất đi mà nó chỉ chìm sâu vào một góc tăm tối nào đó của tâm hồn Chí. Hiện tại của hắn thật đáng buồn. Buồn vì Chí Phèo thấy mình đã già đã sang cái dốc bên kia cuộc đời, có thể đã hư hỏng nhiều thế mà hắn vẫn đang cô độc. Tương lai của hắn lại đáng buồn hơn, bởi hắn có quá nhiều sự bất hạnh đói rét ốm đau và cô độc. Đối với Chí, cô độc còn đáng sợ hơn nhiều đói rét và ốm đau. Từ khi đi tù về, Chí bao giờ cũng say, say vô tận. Giờ đây lần đầu tiên hắn tỉnh táo suy nghĩ nhận thấy tình trạng bi đát, tuyệt vọng của cuộc đời mình.
Đúng lúc Chí đang vẩn vơ nghĩ mãi thì Thị Nở mang một nồi cháo hành còn nóng nguyên vào. Việc làm này của Thị Nở đã khiến Chí rất ngạc nhiên và xúc động đến mức trào nước mắt bởi vì đây là lần đầu tên trong đời hắn được một người đàn bà cho. Hắn thấy cháo hành của thị Nở không như bát cháo hành bình thường mà trong đó còn hàm chứa tình yêu thương chân thành của thị dành cho hắn. Và như vậy, cũng có nghĩa hàm chứa cả hạnh phúc lứa đôi mà lần đầu tiên Chí cảm nhận được. Còn đối với Thị Nở, đây là bát cháo hành tình nguyện, bát cháo hành đem cho, đem tặng, bát cháo hành tình yêu, mở đầu cho hạnh phúc gia đình. Một mặt, bát cháo hành thể hiện tình cảm chan chứa nhân đạo của nhà văn. Mặt khác, nó cũng thể hiện tài năng nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao. Nếu như ban đầu, người đàn bà xấu xí, quá lứa lỡ thì, lại dở hơi ấy chỉ khơi lại cái bản năng ở Chí Phèo thì sau đó điều kì diệu đã xảy ra, sự săn sóc đầy ân tình và yêu thương mộc mạc của Thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện tiềm ẩn trong con người Chí Phèo. Bát cháo hành của Thị Nở là món quà quý giá nhất mà lần đầu tiên Chí cảm hận được trong đời mình. Hắn ăn và nhận thấy rằng cháo hành rất ngon. Hương vị cháo hành hay hương vị của tình yêu thương chân thành cảm động, của hạnh phúc giản dị mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo?
Khi ăn bát cháo hành, Chí Phèo trở lại là anh canh điền ngày xưa và thấm thía nỗi đau của con người biết tự trọng khi bị vợ Bá Kiến sai làm những việc nhục nhã. Điều này chứng tỏ một lần nữa Chí Phèo có bản tính tốt lành, nhưng cái bản tính này trước đây bị lấp đi đến nay mới có cơ hội được thể hiện, bởi vì Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện có bản tính tốt đẹp. Mặc dù bị xã hội tàn ác – đại diện là bá Kiến và nhà tù thực dân dẫu có ra sức hủy diệt bản tính ấy nhưng nó vẫn âm thầm sống trong đáy sâu tâm hồn Chí Phèo, ngay cả khi nhân vật này tưởng chừng đã biến thành quỷ dữ. Khi gặp Thị Nở và cảm nhận được tình yêu mộc mạc chân thành của thị trong lúc yếu đuối và cô đơn, lại trong hoàn cảnh vừa qua một trận ốm thì bản chất ấy có cơ hội hồi sinh và nó đã hồi sinh. Từ đây, Chí sống đúng với con người thật của mình: khao khát tình thương và muốn trở thành những người lương thiện.
Con đường trở lại làm người lương thiện vừa mở ra trước mắt Chí Phèo đã bị đóng sầm lại. Sự mong ước được sống hiền lương của Chí Phèo một lần nữa lại không thành sự thật. Thị Nở không thể giúp gì thêm cho hắn, bởi lẽ bà cô thị kiên quyết ngăn cản mối tình này. Bà không thể đồng ý cho cháu bà đâm đầu đi lấy thằng Chí Phèo – con quỷ dữ của làng Vũ Đại, bấy lâu nay chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ, hắn mãi mãi chỉ là con quỷ dữ, không bao giờ có thể làm người. Cách nhìn nhận của bà cô thị cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí. Tất cả quen coi anh là quỷ dữ mất rồi. Nên hôm nay lương tri anh thức tỉnh, linh hồn người của anh đã trở về nhưng nào có ai nhận ra? Cho nên Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần vô cùng đau đớn – bi kịch bị cự tuyệt làm người lương thiện. Các hy vọng được sống với Thị Nở, sâu xa hơn là hy vọng được quay về với cuộc đời lương thiện như một đóm lửa vừa mới được nhóm lên thì đã bị ngay một gáo nước lạnh dội vào cho tắt ngấm. Mặc dù, khi nghe những lời bà cô mắng thì thị Nở thấy lộn rột nhưng cũng phải nghe theo. Và thị đã giận dữ nói lại với Chí Phèo tất cả những lời của bà cô. Điều này khiến Chí ngẩn người vì thất vọng nhưng nhưng này có lẽ hắn chưa tuyệt vọng vì lúc đó hắn lại như hít thấy hơi cháo hành. Chí ngẩn người ra vì cay đắng, chua xót trước một sự thật phũ phàng: mọi người đã cự tuyệt, không chấp nhận, dứt khoát không con hắn là một con người. Mùi cháo hành vẫn thoang thoảng đâu đây khiến hắn lại càng thêm đau xót, thấm thía. Hắn thấy rõ mọi con đường đều đang đóng chặt trước mặt hắn. Khi thị ra về, hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay nhưng thị gạt ra. Điều đó chứng tỏ Chí luôn luôn khao khát tình yêu, thiết tha đến với Thị Nở, đến với cuộc đời lương thiện. Từ đây, Chí đã thấm thía sâu sắc bi kịch của con người sinh ra làm người nhưng không được làm người. Chí vật vả, đau đớn và tuyệt vọng. Thật là lạ khi thấy Chí ôm mặt khóc rưng rức. Những giọt nước mắt đau đớn, hối hận nhưng đã quá muộn màng. Không còn cách nào khác, Chí lại tìm đến rượu. Nhưng vì ý thức đã trở về, lần uống rượu này của Chí khác biết bao nhiêu lần uống rượu trước. Hắn càng uống lại càng tỉnh ra, hắn không ngửi thấy mùi rượu mà chỉ nghe thoang thoảng mùi cháo hành, càng uống càng thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận.
Trong cơn khủng hoảng và bế tắc, Chí Phèo lại càng thấm thía hơn tội ác của kẻ đã cướp đi của mình cả bộ mặt và linh hồn con người. Chí đã xách dao ra đi. Hành động muốn đi trả thù của Chí rất dữ dội, quyết liệt khiến Chí đi đến một hành động đâm chết cả nhà nó. Nhưng nó là ai? Tiềm thức mách bảo Chí đó là Bá Kiến. Trước đó, Chí không định đến nhà bá Kiến mà định đến nhà Thị Nở để đâm chết thị và bà cô thị cho hả giận nhưng cuối cùng Chí lại quên đến nhà Thị Nở mà đến nhà bá Kiến. Khi đến nhà bá kiến, Chí trợn mắt chỉ tay vào mặt lão, đanh thép kết tội tên cáo già này đòi làm người lương thiện, đòi một bộ mặt lành lặn. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? là câu hỏi chất chứa niềm phẫn uất, đau đớn, còn làn day dứt người đọc: làm thế nào để con người sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo, ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Thế rồi, Chí đâm chết kẻ thù. Hành động của Chí đã vượt khỏi suy nghĩ của tên địa chủ nổi tiếng khôn ngoan, gian hùng. Đây là cách hành động của người say không theo dự kiến ban đầu, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, Chí lờ mờ hiểu ra nguyên nhân sâu xa đâu phải vì Thị Nở hay bà cô thị mà cái kẻ làm ra Chí như thế này chính là Bá Kiến. Đến đòi quyền làm người lương thiện là phải đòi nơi lão bá, không đòi được thì phải trả thù. Tuy làm tay sai cho Bá Kiến nhưng ngọn lửa căm hờn vẫn âm ỉ cháy trong con người Chí Phèo. Khi Chí Phèo đã thức tỉnh thì hắn hiểu ra nguồn gốc bi kịch của mình nên ngọn lửa căm hờn càng bùng lên dữ dội. Do vây, Chí Phèo đâm chết bá Kiến không hẳn vì say rượu mà chính vì mối thù đã bừng cháy. Cái chết của Chí chứng tỏ Chí khao khát trở về cuộc sống lương thiện. Vì vậy cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ cái xã hội thực dân nửa phong kiến không những đẩy người dân lương thiện vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy họ vào cái chết.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Đồng thời qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã hai lần tố cáo cái xã hội thực dân phong kiến: xã hội đó cướp đi những gì Chí Phèo có và đã cướp những gì Chí Phèo muốn. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Ngoài ra, tác phẩm còn đặt ra một vấn đề nhân sinh mang tính triết lí sâu sắc: làm thế nào để con người sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo phi nhân tính đương thời. Với thành công của truyện ngắn này, Nam Cao đã trở thành cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiên thực 1930 – 1945.
Bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo 2
Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Trong đó nổi bật hơn cả phải nhắc đến tác phẩm "Chí Phèo". Tác phẩm là sự kết tinh của tài năng nghệ thuật, là cái nhìn hiện thực sắc sảo và tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn. Đặc biệt, diễn biến tâm trạng và hành động của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở đến lúc tự tay cầm dao kết liễu đời mình là một thành công lớn trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao. Ngay từ thuở ấu thơ, Chí Phèo đã có hoàn cảnh vô cùng đáng thương. Sinh ra trong một lò gạch, nơi không được coi là ngôi nhà, Chí thậm chí còn không biết cha mẹ mình là ai, chỉ cô độc lớn lên như thế dưới bàn tay chăm sóc mà thiếu tình thương của mọi người trong làng. Tuy vậy, ông trời vẫn cho Chí bản chất lương thiện, giàu lòng tự trọng cùng ước mơ mái ấm gia đình thật bình dị. Nhưng rồi, nhà tù thực dân đã biến một người tốt thành một tên lưu manh, rồi lại bị Bá Kiến, tên địa chủ cường hào già đời đục khoét biến tiếp thành con quỷ dữ. Bị tước mất quyền làm người, đời Chí tàn rồi trượt dài qua những cơn say rượu triền miên. Duy chỉ khi gặp được Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thật sự tỉnh rượu, tỉnh cả tâm tính của một con người với bản chất lương thiện dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Lúc đầu, cuộc gặp gỡ của Chí Phèo với thị Nở chỉ là sự chung chạ do cái bản năng của người đàn ông bị rượu đánh thức. Đến sáng hôm sau, cũng như bao người say tỉnh rượu khác, hắn cảm nhận chính xác được cảm giác miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn. Nhưng với Chí, đây là cảm giác, cảm xúc khi vừa được đánh thức không chỉ mỗi cơn say. Có lẽ lâu lắm rồi hắn mới cảm nhận được cuộc sống đời thường với những cảnh sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót, ánh nắng rọi vào cái lều nát... Tất cả những hình ảnh, âm thanh ấy khi nào mà chả có, nhưng đây là lần đầu tiên Chí có thể cảm nhận được, bởi rước giờ hắn chưa từng hết say. Nhịp sống trở lại đưa Chí Phèo nhớ lại quá khứ xa xôi với những ước mơ bình dị như biết bao người dân quê khác. Chí mơ ước có một gia đình nhỏ, một cuộc sống gia đình hạnh phúc được tạo dựng từ bàn tay lao động cần cù của chính mình. Rồi Chí nghĩ đến hiện tại, nghĩ về tương lai cô độc với tuổi già đau ốm... hắn càng và càng lo hơn, bởi nửa cuộc đời từng trải đủ để hắn hiểu được cô độc còn đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau. Đó lần đầu tiên hắn trở lại làm người, suy nghĩ, lo lắng như một người nông dân nghèo bản chất lương thiện. Một cách tự nhiên, mọi suy nghĩ của Chí Phèo lại hướng về thị Nở, khi Thị bước vào lều với bát cháo hành. Không ngoa khi nói rằng, thị xấu, xấu lắm, thị xấu đến ma chê quỷ hờn. Vậy mà sự chăm sóc của thị dành cho Chí sao mà ân cần, chân thành, mộc mạc đến thế. Ấy nên khi nhận bát cháo hành xoàng xĩnh đó, Chí phèo vừa húp vừa khóc: "thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt". Đúng thế, trong Chí giờ đây tồn tại rất nhiều tâm trạng khác nhau, trước hết là ngạc nhiên, đến vô cùng. Hắn thật không thể nghĩ đến, không thể ngờ. Một người như Chí, nỗi sợ hãi và căm ghét của cả dân làng, là con quỷ làng Vũ Đại trước giờ muốn ăn thì chỉ có giành lấy cướp lấy của người khác. Vậy mà giờ đây, có người đem đến cho hắn, đến gần hắn mà không sợ hãi hay căm ghét và còn mang lại đời sống mới cho hắn. Sau đó, sự cảm động đến mức không thể kìm nén dâng trào: hình như hắn khóc. Đây là lần đầu tiên Chí được người ta chăm sóc, lại bởi bàn tay của một người đàn bà. Có thể sự chăm sóc của Thị là một cử chỉ bình thường của một con người dành cho một con người. Thế nhưng đối với Chí phèo, đây là lòng tốt hiếm hoi, duy nhất mà Chí được hưởng từ ngày về làng. Chí cũng cảm thấy thật bâng khuâng, vừa vui vừa buồn, như là ăn năn, hối hận vì những việc ác mà mình đã làm. Nhưng với hiện tại như bây giờ, Chí tràn ngập niềm vui mới mẻ. Hắn thấy lòng như trẻ con, muốn làm nũng thị như bao đứa trẻ làm nũng mẹ. Rồi như một lẽ tự nhiên bất chợt, Chí thấy "thèm lương thiện, muốn làm hoà với mọi người biết bao! Mong muốn thị Nở sống chung..." Vậy là hương vị bát cháo hành, nụ cười tin cẩn cùng với tình người mộc mạc đơn sơ đã đánh thức bản chất trong trắng, lương thiện của anh canh điền năm xưa. Khi tỉnh rượu cũng chính là lúc Chí Phèo bắt đầu tỉnh ngộ, lại khao khát một gia đình hạnh phúc, một cuộc sống thiện lương sẽ được thực hiện cũng thị Nở. Thì ra, trong bản chất của con quỷ dữ làng Vũ Đại vẫn là một con người rất đáng thương luôn khao khát được làm người lương thiện, chính tình thương giữa người với người đã làm thức tỉnh điều đó. Nhưng niềm vui của Chí Phèo không kéo dài được bao lâu, sự trở về của lương tri lại nhanh chóng đẩy Chí Phèo đến đỉnh điểm của bi kịch. Chí phèo đã bán đi nhân hình lẫn nhân tính, bộ mặt người lẫn linh hồn người để rồi trở thành hiện thân của con quỷ dữ - cực điểm của sự tha hoá. Thủ phạm là Bá Kiến, nhưng tham gia vào đó còn có định kiến của xã hội - lực lượng không kém phần tàn bạo, đẩy Chí đến cùng quẫn, bế tắc. Đại diện cho định kiến xã hội ấy chính là bà cô của Thị Nở. Bà ta đã kiên quyết ngăn cản mối tình này khiến con đường trở lại làm nguời lương thiện của Chí Phèo bị chặn đứng. Đối diện với sự tàn bạo của xã hội, tình người thoáng thật mong manh và dễ bị tiêu tan. Và đúng như vậy, Chí Phèo lại bị cự tuyệt. Hắn bị một người xấu đến tột bậc cự tuyệt, bị chính hy vọng duy nhất, khát khao cháy bỏng còn sót lại cự tuyệt. Chí "ngẩn người", "sửng sốt", "gọi thị lại, nắm lấy tay"nhưng không được. Đau đớn cùng cực, Chí Phèo mang rượu ra uống nhưng "càng uống càng tỉnh ra" và "tỉnh ra, chao ôi, buồn". Rượu không thể làm tê liệt tâm trí của hắn nữa, rượu chỉ càng làm cho hắn thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. Hắn "ôm mặt khóc rưng rức và quyết định trả thù kẻ đã gây cho hắn ra nông nỗi này". Lúc đầu Chí tính giết cả nhà Thị, hay không cũng ăn vạ kêu làng cho bẽ mặt cái con đĩ thị đó. Thế nhưng trong tiềm thức từ cơn say, Chí nhận ra Bá Kiến mới chính là kẻ cướp đi quyền làm người, bộ mặt người và linh hồn của hắn. Đây có thể coi là giây phút tỉnh táo nhất của Chí từ khi ra tù về, tỉnh táo để xác định kẻ thù: "Ai cho tao lương thiện?", tỉnh táo để thể hiện mong muốn cháy bỏng của bản thân: "Tao muốn làm người lương thiện!" và tỉnh táo với sự thật phũ phàng trước mắt: "Tao không thể làm người lương thiện được nữa". Những câu nói ấy như vừa thể hiện quyết tâm trả thù, vừa bộc lộ niềm phẫn uất, bế tắc của Chí Phèo. Chí dõng dạc kết án Bá Kiến, và đâm chết hắn. Nhưng trả thù rồi thì sự thật vẫn không thể thay đổi. Cuối cùng, Chí Phèo chỉ còn con đường duy nhất là cái chết để được giải thoát, để chấm dứt cái bi kịch khốn cùng vì bị cự tuyệt quyền làm người này. Vì thế hắn tự đâm mình, chết mà vẫn uất ức, vẫn muốn nói ra điều gì đó trong khát vọng bao thuở của hắn nhưng không thể phát thành lời. Cái chết bi thảm của Chí Phèo chứng tỏ ý thức nhân phẩm của hắn đã trở về. Nếu trước đây để bám lấy sự sống, Chí phải bán rẻ linh hồn thì hiện tại, để được sống như một con người đúng nghĩa, Chí phải từ bỏ mạng sống của mình. Cái chết của Chí cũng chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc. Nó thể hiện niềm khát khao cháy bỏng được sống lương thiện của Chí Phèo và cũng là lời tố cáo mãnh liệt xã hội thực dân phong kiến không những đẩy người nông dân vào con đường cùng bần hoá, mà còn đẩy họ vào chỗ chết. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện và miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay khi họ đã bị biến thành thú dữ, và trả một cái giá đắt để quay lại làm người. Qua đó, nhà văn gởi gắm lời kêu cứu khẩn thiết: hãy cứu lấy con người, bảo vệ quyền được làm người của mỗi cá nhân trước mọi thế lực xấu xa của cuộc sống. Đây chính là chiều sâu tư tưởng và là giá trị nhân đạo của tác phẩm. Cả đoạn văn không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn cả về nghệ thuật: kết cấu truyện vô cũng chặt chẽ, logic; tình tiết hấp dẫn, biến hoá giàu kịch tính, ngôn ngữ sống động, linh hoạt. Có thể đáng giá, đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau đêm gặp gỡ Thị Nở là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của Nam Cao. Và một câu hỏi lớn được đặt ra: làm thế nào để con người được sống một cuộc sống con người? Điều đó chẳng những Bá Kiến không hiểu nổi mà cả xã hội bấy giờ cũng không thể trả lời được. Sự day dứt, bức thiết của câu hỏi ấy cũng chính là nét đặc sắc nhất đánh dấu "Chí Phèo" trở thành một trong những văn xuôi bậc nhất của văn học hiện đại Việt Nam
Bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo 3
Tình yêu - một chủ đề quen thuộc nhưng không bao giờ cũ trong văn chương. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ lấy tình yêu làm cảm hứng sáng tác cho mình. Họ ca ngợi, họ tôn vinh tình yêu như những thiên thần có cánh. Nhưng Nam Cao lại khác, với tình yêu nghiệt ngã của Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” viết về người nông dân trong xã hội cũ, ông đã cho mọi người chứng kiến một tình yêu hoàn toàn mới. Ở đó hạnh phúc có, khổ đau cũng có. Nhưng trên hết, tình yêu ấy còn là thông điệp sâu sắc mà nhà văn muốn nhắm đến cả một giai cấp, một tầng lớp người trong xã hội. Tình yêu ấy, đẹp thật đẹp mà đau cũng thật đau khiến cho người trong cuộc là Chí Phèo đã vật lộn và cuối cùng đi đến cái chết. Nhưng ít nhất, trước khi chết, Chí Phèo cũng đã kịp hưởng thụ hương vị của tình yêu dù chỉ là trong những ngày ngắn ngủi.
Chí Phèo chỉ là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ được dân làng nuôi nấng. Lớn lên Chí làm người ở cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị bà ba dâm đãng hãm hại khiến Bá Kiến ghen đẩy vào tù. Những năm tháng tù đày cùng với lòng thù hận đã khiến Chí từ một chàng thanh niên hiền lành tốt tính trở thành một con quỹ dữ khi trở về làng. Chí đắm mình trong những cơn say. Cho đến một ngày Chí gặp Thị, tình yêu sét đánh gắn kết hai con người với nhau. Nhưng trong lúc đang lâng đang hạnh phúc thì Thị nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí khiến Chí một lần nữa rơi vào tuyệt vọng. Lòng hận thù trong Chí lại nổi lên và Chí quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình để được làm người lương thiện.
Những diễn biến trong cuộc đời Chí chẳng khác nào tấm bản đồ lúc lên lúc xuống. Và trong đó, những phút giây được ở cạnh Thị Nở chính là đoạn đường đẹp nhất, sáng nhất trong cả tấm bản đồ chằng chịt những nét đứt gãy khúc khuỷu, gập gềnh.
Cuộc gặp gỡ của Chí và Thị chỉ là sự tình cờ giữa hai con người mê muội. Chí lúc tỉnh lúc say, mà hầu như là chẳng tỉnh bao giờ. Còn thị cũng ngù ngờ, dở hơi. Đã thế, nhà văn lại ban cho ả một “nhan sắc” “kinh tởm” mà ông tóm gọn trong mấy từ “xấu ma chê quỷ hờn”. Ấy vậy mà khi gặp nhau, cái xấu ấy lại làm một cho một người đàn ông chết mê chết mệt. Có thể vì bản năng, vì dục vọng thể xác mà họ ngã vào nhau. Nhưng sau khi thỏa mãn, họ lại dành cho nhau những thứ tình cảm thật “lạ lùng”. Lạ đến mức người đàn bà dở hơi ấy đã xác định được đây chính là cuộc sống “vợ chồng”. “Hai từ vợ chồng nghe ngường ngượng nhưng mà thinh thích”. Đây đúng là tâm lý của kẻ mới yêu, đang yêu và đang hạnh phúc.
Còn Chí, sau trận ấy, Chí bị ốm. Một trận ốm nặng mà nếu không có Thị, Chí sẽ chết mất. Thị dù có dở hơi, nhưng tấm lòng vẫn thánh thiện khi dành cho Chí một bát cháo hành với ý nghĩ giúp Chí mau khỏe mạnh. Có lẽ Thị là người cuối cùng còn sót lại trong xã hội này nhìn nhận đến Chí. Hoặc do thị ngù ngờ nên không phân biệt được đâu là người, đâu là quỷ dữ nên mới chấp nhận con người Chí. Nhưng dù gì đi chăng nữa, những ân cần săn sóc của Thị cũng đã mang một làn gió mới đến với cuộc đời Chí. “Bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan hắn lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!”. “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Những dòng suy nghĩ của Chí cho thấy rằng Chí hoàn toàn rất khôn ngoan, rất có ý thức sống. Chỉ là do trước đây vì đắm chìm trong men rượu nhiều quá nên Chí không còn nghĩ ngợi tới nữa. Một con người đã trải qua quá nhiều biến cố trong cuộc đời, dòng suy nghĩ hẳn là chín chắn và thấu đáo hơn rất nhiều. Chí biết tiếc cuộc sống, biết nhận ra cuộc đời mình lúc này đang ở trong tình trạng như thế nào và mình cần phải sống ra sao. Chí buồn vì đã để cuộc đời chìm trong cơn say quá nhiều. Và cũng hận khi đã tự chôn vùi đời mình trong thù hận. Những dòng suy nghĩ ấy làm Chí bừng tỉnh và sống lại ước mơ nhỏ bé nhưng giản đơn và thánh thiện ngày nào của mình. Chí ước có một gia đình nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn. Vợ dệt vải thêu thùa. Cuộc sống ấy tuy nghèo, tuy thiếu thốn nhưng sẽ hạnh phúc biết bao. Và giờ đây Chí muốn tiếp tục thực hiện ước mơ ấy cùng Thị Nở. Chí sẽ làm lại từ đầu, làm hòa với mọi người. Chí đang rất tỉnh. Nếu lúc trước Chí say và ngã vào Thị vì Chí không biết rằng người đàn bà ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hơn. Nhưng lúc này, khi hoàn toàn tỉnh táo, Chí không những chấp nhận thị mà còn yêu thị. Bởi chỉ có tình yêu mới khiến con người ta cảm hóa những cái xấu thành cái đẹp. Chí thấy thị có duyên lắm. Và Chí đang rất vui khi được ở cùng thị. Chí đâu có say. Chính vì Chí tỉnh nên Chí mới cảm nhận được những hương vị của cuộc sống, của tình yêu. Những chi tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nữa của Chí. Đó là lòng nhân hậu lớn lao vô cùng. Bởi trong làng ai cũng nhìn Thị bằng con mắt khinh thường và cho rằng Thị chỉ là một người dở hơi. Mà đúng là thị dở thật. Cũng chính vì dở nên Thị mới để cho Chí ngã vào. Nhưng khi tỉnh táo, tình thế đã đảo ngược lại. Lúc này Chí là người khôn ngoan và hoàn toàn bình thường. Nhưng Chí không hề chê bai thị, cũng chẳng xua bỏ thị. Mà ngược lại, Chí còn muốn gắn bó cả đời với thị, cùng thị xây dựng ước mơ ngày nào còn dang dở của mình....
Nhưng rồi, hạnh phúc ấy chẳng được bao lâu, những dự định của Chí cũng vụt tắt khi Thị trở về nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí. Chí một mình ở lại trong căn lều in dấu bao kỷ niệm về tình yêu của mình. Thất vọng, khổ đau và lòng thù hận lại nổi lên. Nhưng lần này, Chí tỉnh rồi, Chí không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Chí đến thẳng nhà Bá Kiến để đòi lại quyền sống của mình. Sống nhưng lại là chết. Chết để giữ được bản chất lương thiện của bản thân. Chí giết Bá Kiến rồi cũng tự kết liễu cuộc đời mình. Phải đi đến quyết định ấy, hẳn là Chí đau khổ lắm. Nhưng với Chí lúc này, đó là cách duy nhất để không quay lại cuộc sống nghiệt ngã như trước kia nữa.
Như vậy, sau khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí đã liên tiếp xảy ra hai biến cố lớn. Một là tỉnh - tỉnh dậy sau những cơn say dài triền miên. Tỉnh để sống, để yêu và hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy không được bao lâu thì biến cố thứ hai lại xảy đến khi thị trở mặt với Chí, khiến Chí tiếc nuối khôn nguôi. Trong cơn tuyệt vọng Chí giết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình. Không phải vô tình mà Nam Cao lại dàn dựng nên những dòng tâm lý trắc ẩn cho Chí, mà trong đó là những thông điệp sâu xa mà ông muốn gửi gắm đến người đọc.
Thứ nhất là hình ảnh về người nông dân nghèo khổ, bất hạnh bị xã hội đẩy đưa đến bước đường cùng. Đến ngay cả cái hạnh phúc của bản năng con người họ cũng không có được. Cho đến khi có được thì lại nhanh chóng vụt bay cũng chỉ vì định kiến xã hội.
Thứ hai, nhà văn muốn đề cao nhân phẩm, phẩm chất của con người. Chí dù say, nhưng khi tỉnh hắn vẫn luôn mang một tâm hồn trong sáng với tấm lòng nhân hậu tinh khiết. Đặc biệt, là Thị Nở - bên trong người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ấy lại chính là một tâm hồn cao cả. Suýt chút nữa Thị cũng đã bị vùi dập giống như Chí. Hai cong người cùng chung cảnh ngộ ngã vào nhau, cùng làm cho nhau tìm lại chính bản thân mình.
Thứ ba, Nam Cao đã đưa người đọc đến với một tầm cao mới của tình yêu. Đó là tình yêu không chỉ dừng lại ở xác thịt mà ở tình yêu còn là sự đồng điệu của hai tâm hồn. Yêu không vì vẻ bề ngoài, cũng không vì vật chất cao sang. Yêu chỉ vì yêu, vì trái tim. Nhưng dù yêu đến thế nào đi nữa, tình yêu cũng không thể vượt qua giới hạn của thực tế. Ở đây, thực tế của Chí Phèo - Thị Nở chính là những định kiến nghiệt ngã về một tên quỷ dữ đội lốt người mang tên Chí Phèo.
Thứ tư, là sự minh mẫn, sự thức tỉnh trong tình yêu. Tình yêu dù vui buồn hay hạnh phúc, nhưng thứ mà con người ta cần phải giữ vững là tinh thần, là trí óc. Ở đây, sau khi thức tỉnh, Chí vẫn giữ vững tình cảm của mình với thị. Ngay cả sau khi bị thị chối từ, Chí vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Chính vì thế Chí mới đi đến quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.
Như vậy, chỉ bằng một đoạn văn ngắn kể lại diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, nhà văn đã gửi gắm những thông điệp có ý nghĩa sâu xa tới người đọc. Nam Cao không còn, và cuối tác phẩm Chí Phèo cũng chết nhưng những dòng xúc cảm của một con người lần đầu tiên tỉnh rượu đã đánh động tâm hồn mọi người tự ý thức mình, tự nâng niu, trân trọng những gì mình đang có trong cuộc sống cũng như trong tình yêu.
Bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo 4
Nam Cao là một trong những tác giả hiện thực nổi tiếng trong trường phái hiện thực. Ông được mệnh danh là bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật, luôn đi tìm kiếm " con người trong con người". Tác phẩm của ông dù là viết về tri thức hay nông dân đều đi sâu vào bên trong nhân vật. Tác phẩm Chí Phèo là một trong những truyện ngắn nổi tiếng thể hiện tài năng của Nam Cao khi phân tích nhân vật Chí Phèo. Trong đó Nam Cao rất xuất sắc khi khắc họa tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
Chí Phèo xưa là đứa con hoang, bị bỏ tại cái lò gạch cũ và được người trong làng truyền tay nuôi. Chí hiền lành, làm người ở cho nhà Bá Kiến nhưng sau này, vì bị nghi ngờ dính lứu với bà Ba nên hắn bị Bá Kiến vu oan phải vào tù. Sau khi về, chẳng còn ai nhận ra hắn vì nhân dạng đã biến đổi hoàn toàn. Hắn đinh ninh sẽ trả thù Bá Kiến nhưng rồi lại bị Bá Kiến mua chuộc làm tay đâm thuê chém mướn. Giờ đây hắn tha hóa cả về nhân hình lẫn nhân cách trở thành một con quỷ của làng Vũ Đại. Nhưng rồi, khi Thị Nở xuất hiện, Chí đã thay đổi hoàn toàn bởi lần đầu tiên có người tự nguyện cho hắn thứ gì đó mà hắn không phải xin hay dọa dẫm.
Hắn tỉnh dậy sau cơn say, cảm nhận hết thảy tất cả những gì đang diễn ra trong buổi sớm mà từ trước đến nay hắn không hề hay biết. Để rồi hắn nhớ về quá khứ và ước mơ giản dị mà xa vời. Khi Thị Nở bưng bát cháo hành đến cho hắn, Chí rất ngạc nhiên , xúc động bởi lần đầu tiên hắn được chăm sóc , bởi bát cháo hành tỏa ra hương thơm ngào ngạt. Chắc rằng chỉ có hắn trong thời khắc ấy mới cảm nhận được vị ngon tuyệt vời của bát cháo và vị thơm của "tình người". Trong lòng hắn rung động, bâng khuâng trước Thị, người đàn bà xấu xí, dở hơi và ế chồng và cảm thấy ăn năn với Thị vì những chuyện mình đã làm trong quá khứ, khiến bao gia đình tan vỡ,... Dường như những cảm nhận khi ăn bát cháo hành ấy chính là cầu nối tâm hồn giữa Chí Phèo và Thị Nở. Trong hắn trào lên những cảm xúc khinh miệt khi nghĩ về con người Bà Ba, một con quỷ dữ đội lốt một người đàn bà xinh đẹp. Hắn thấy nhục và thấy khinh mọi hành động mà bà ta đã làm. Nghĩ về Thị Nở dù xấu ma chê quỷ hờn nhưng sẵn một lòng lương thiện, còn bà Ba kẻ ăn trắng mặc trơn lại là mặt người dạ thú. Nam Cao qua những khắc họa tâm trạng của Chí, tạo ra sự tương phản giữa hai người đàn bà đã cho ta một bài học khi nhìn nhận ai đó, nhất định không được " nhìn mặt mà bắt hình dong".
Chí Phèo được Thị Nở chăm sóc, thức tỉnh bởi hương vị của cháo hành, hăn nhận thức được thực tại sau trận ốm này, hắn không còn mạnh như trước và muốn làm hòa với mọi người, hắn tin rằng Thị Nở chính là người mở đường cho hắn, sẽ giúp hắn bắc nhịp cầu đến bến bờ thiên lương. Trong nội tâm hắn bỗng tràn lên những khát khao hoàn lương mãnh liệt, cái mầm nhân tính trong Chí Phèo có thể bị che lấp bởi sự tha hóa nhân phẩm, bởi những con say và những lần rạch mặt đòi nợ thuê nhưng nó không hề bị mất đi. Dường như dưới ngòi bút sắc sảo am tường của Nam Cao, tính cách của Chí Phèo được hiện rõ và ông cũng thể hiện sự đồng cảm, thấu hiểu và luôn đặt niềm tin vào bản chất thiên lương ăn sâu trong tận xương tủy của những người dân lao động dù họ có bầm dập, bị tha hóa đến nhường nào.
Luôn có những khát khao hoàn lương, luôn có một mái ấm như bao người nhưng kết cục chẳng mấy tốt đẹp với Chí Phèo. Bởi hắn bị Thị Nở từ chối sống chung. Điều gì khiến Thị thay đổi đến vậy? Có lẽ không phải do Thị bạc tình, không muốn thành đôi với Chí mà do bà cô của Thị nói những lời độc địa, ngăn cấm Thị. Bà cô như một cái loa phát ngôn cho những thứ hẹp hòi, ích kỉ của người làng Vũ Đại và cả xã hội phong kiến đương thời. Chí Phèo chỉ còn biết ngẩn người trước lời của Thị Nở, trong hắn lại thoang thoảng hương cháo hành, dư vị tình yêu thoáng qua mong manh và yếu ớt. Tình yêu ấy không có sức mạnh để có thể vượt qua nổi thực tại trớ trêu. Dù hắn muốn níu kéo tình yêu nhưng chẳng thể làm được, đổi lại bản tính trong hắn lại trỗi dậy, đập gạch ăn vạ, uống rượu say khướt, hơi rượu không sặc sụa mà chỉ thấy thoang thoảng hương cháo hành. Đó là tình yêu ám ảnh cả tâm hồn lẫn thể xác của Chí. Hắn chỉ biết khóc, ôm mặt khóc như một đứa trẻ, đòi xách dao đi giết Thị Nở , giết bà cô nhưng thực chất hắn đến nhà Bá Kiến. Có thể nói hành động của Chí là sai đường nhưng đúng hướng. Hắn tuyệt vọng vì bị từ chối sống chung, cũng như từ chối làm người lương thiện. Hắn đau đớn biết bao vì lương chi đã tỉnh, ý thức sâu sắc thực tại rằng hắn bị từ chối nguyên nhân sâu sa không phải tại Thị Nở mà tại Bá Kiến, người xua tay đuổi hắn là cả những định kiến của người làng Vũ Đại.
Hắn xách dao đến giết Bá Kiến cũng là lúc hắn tự kết liễu đời mình. Đó là một lựa chọn duy nhất để quay về. Tuy hắn không được sống như một người lương thiện nhưng hắn chết để làm người lương thiện. Quả thật, cái giá của thiên lương là cái giá cắt cổ đối với những kẻ như Chí, có lẽ phải đánh đổi bằng cả mạng sống của mình. Qua cái chết tức tưởi của Chí, Nam Cao lên án xã hội bất lương, tàn bạo và cảm thông với những người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Những người sống no đủ đã khó, sống thiên lương còn khó hơn bội phần
Nam Cao, một nhà tâm lí tài ba với ngòi bút tinh tế, ông đã khắc họa tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở rất xuất sắc. Qua đó giúp độc giả có thêm những bài học nhận thức sâu sắc về con người.
Bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo 5
Tình yêu là là ngọn nguồn của mọi hạnh phúc cũng như khổ đau. Tình yêu còn giúp con người trở nên mạnh mẽ, lạc quan, giúp ta hướng thiện. Truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao tuy chuyện tình yêu giữa Chí Phèo và thị Nở chỉ là một lát cắt nhỏ nhưng lại có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó là một khởi đầu mới cho Chí, đem Chí trở về cuộc sống của một con người lương thiện mà lâu nay Chí đánh mất.
Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi, nghèo khổ và bất hạnh. Từ khi lọt lòng đã bị mẹ bỏ rơi, Chí Phèo lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của người làng Vũ Đại. Lớn lên Chí là một thanh niên khỏe mạnh, làm thuê ở nhà Bá Kiến. Vì bà ba dâm đãng hãm hại, Chí bị Bá Kiến đẩy vào nhà tù thực dân và bị đánh mất nhân hình và nhân tính của mình, ra tù lại trở thành tay sai cho Bá Kiến, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng khi thị Nở xuất hiện, cuộc đời Chí được lật sang một trang mới, đẹp đẽ, hạnh phúc, mà cũng đầy khổ đau, bất hạnh.
Thị Nở sống cùng bà cô. Thị là một người phụ nữ quá lứa, sinh ra trong mả hủi, tính dở hơi. Không chỉ vậy thị xấu ma chê quỷ hờn, nên đã nhiều tuổi mà chẳng có được hạnh phúc cho riêng mình.
Vẫn như mọi lần, Chí uống rượu say, trên đường trở về nhà, Chí thấy trong người khó chịu nên đã ra sông tắm. Còn thị Nở đi gánh nước, mệt nên nằm ngủ ngay cạnh bờ sông. Bởi vậy, đã tạo nên cuộc gặp gỡ tiền định này. Cuộc gặp gỡ đã thay đổi con người, suy nghĩ của Chí Phèo.
Cuộc sống của Chí Phèo đã thực sự thay đổi, sau bao nhiêu ngày chỉ biết đến say sưa, chỉ biết đến rạch mặt ăn vạ thì sau đêm gặp gỡ với Thị Nở đây là lần đầu tiên Chí tỉnh. Lần đầu tiên Chí nhận thức thế giới xung quanh, nhận ra sự tồn tại của mình và tương lai tăm tối của bản thân. Khi Chí Phèo mở mắt ra hì trời đã sáng lâu. Mặt trời chắc đã cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe tiếng chim kêu ríu rít bên ngoài đủ biết. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn chỉ hơi lờ mờ […] chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say. Sự thức tỉnh của Chí Phèo bắt nguồn trước hết phải là từ sự tỉnh rượu, từ tỉnh rượu hắn mới tỉnh ngộ, mới nhận ra nhiều điều. Chí nhận thấy những âm thanh vui vẻ, ríu rít xung quanh mình là tiếng chim, tiếng của những người đi chợ. Âm thanh quen thuộc quá, mà bấy lâu nay trong cơn say triền miên Chí không hề nhận thấy. Hắn nhớ về ngày trước, nhớ về anh nông dân lương thiện, với những mơ ước thật giản dị về một gia đình ấm cúng và cuộc sống lao động cần mẫn. Nhưng chính hắn cũng phải tự giật mình về hoàn cảnh hiện tại của bản thân: Tỉnh dậy, hắn thấy hắn già mà vẫn cô độc. Buồn thay cho đời ! Có lí nào như thế được ? Hắn đã già rồi hay sao […] Chí Phèo hình như đã trông thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này con đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau. Ngòi bút của Nam Cao đã lách sâu vào tâm hồn của Chí để nhận ra những thay đổi dù là nhỏ bé nhất.
Không chỉ vậy, Chí Phèo còn xúc động sâu sắc trước sự quan tâm, chăm sóc của Thị Nở dành cho mình. Thấy bát cháo hành Thị Nở đưa cho mình Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Chí Phèo xúc động đến tột cùng khi nhận được sự quan tâm chăm sóc từ một người khác. Đây cũng là lần đầu tiên ta thấy người vẫn bị coi là con quỷ dữ của làng Vũ Đại khóc. Đó là giọt nước mắt của niềm vui, của hạnh phúc khi được nhận hơi ấm tình người, bởi lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho , những thứ xưa nay hắn có được chỉ là do cướp giật, hắn chưa được ai quan tâm, chăm sóc bao giờ. Chí nhớ về bà ba và nỗi nhục khi phải bóp chân cho bà ba. Chính bởi vậy, bát cháo hành của Thị Nở làm hắn phải bâng khuâng, phải suy nghĩ nhiều. Ta có thể thấy rằng, phần nhân tính bị chìm khuất bao lâu nay của Chí nay đã dần dần xuất hiện trở lại do nhận được tình yêu thương của Thị Nở. Với việc phân tích diễn biến tâm lí hết sức sâu sắc và hợp lí, Nam Cao đã ngầm khẳng định bản chất lương thiện của người nông chỉ bị vùi lấp bởi những độc ác, xấu xa của cuộc sống, nó sẽ ngay lập tức được khơi dậy khi có điều kiện phù hợp.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở còn khơi dậy niềm hi vọng trong Chí Phèo. Niềm hi vọng được làm người lương thiện : Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được…. . Khát vọng làm người lương thiện của Chí thật chính đáng, hợp lí khi mà nhân tính của Chí đã quay trở lại. Bởi vậy, Chí đã đề nghị với Thị Nở sang đây ở với tớ một nhà cho vui. Năm ngày đó Chí sống trong sung sướng, hạnh phúc, đến ngày thứ sáu Thị Nở về xin phép bà cô và đó cũng là lúc khởi phát bi kịch. Sau những lời bà cô dè bủi và nhất quyết không cho lấy Chí, Thị Nở sang nhà Chí Phèo nói hết những lời bà cô nói và quay về nhà, trước sự tuyệt vọng tột cùng của Chí. Chí Phèo lấy rượu uống, càng uống lại càng tỉnh, càng đau đớn, hắn ôm mặt khóc rưng rức. Đỉnh điểm của sự phẫn uất và tuyệt vọng Chí vác dao với ý định giết cả nhà Thị Nở, nhưng lại quen chân sang nhà Bá Kiến. Chí Phèo giết chết Bá Kiến và tự kết liễu mình. Chí Phèo rơi vào bi kịch đau đớn, muốn làm người lương thiện nhưng bị cự tuyệt. Cái chết của Chí Phèo là lời tố cáo đanh thép với xã hội thực nửa phong kiến đương thời.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở có ý nghĩa quan trọng với nhân vật Chí Phèo. Về nội dung, Thị Nở xuất hiện góp phần làm nổi bật nhân vật trung tâm và làm nổi bật chủ đề tác phẩm: Thị Nở đã giúp Chí Phèo hồi sinh, qua đó thể hiện giá trị nhân đạo của Nam Cao; nhưng chính Thị cũng đẩy Chí vào bi kịch, qua đó tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến. Về nghệ thuật, Thị Nở giúp thúc đẩy câu chuyện phát triển, đồng thời tình huống gặp gỡ này cũng giúp bộc lộ phẩm chất, tính cách, tâm hồn của nhân vật trung tâm.
Bằng ngòi bút phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, Nam Cao đã cho thấy sự biến đổi trong nhận thức của Chí Phèo, đó là sự phục sinh của nhân tính. Nhưng đồng thời cũng cho thấy bi kịch đau đớn của Chí khi bị cự tuyệt làm người, cự tuyệt về cuộc sống lương thiện.
Bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo 6
Nam Cao sinh năm 1917 mất năm 1951, tên khai sinh là Trần Hữu Tri sinh ra trong một gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân tỉnh Hà Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo sâu sắc, vừa mới mẻ vừa độc đáo. Các sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng sáng ngời. Nổi bật lên là tác phẩm “Chí Phèo”, tác phẩm là sự kết tinh tài năng nghệ thuật, là cái nhìn hiện thực nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Đặc biệt với biệt tài phân tích diễn biến tâm lý nhân vật, Nam Cao đã cho mọi người thấy được diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở cho đến hết tác phẩm.
Ngay từ thuở nhỏ, Chí Phèo đã có hoàn cảnh đáng thương. Vốn là đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa, nhờ chén cơm của người làng Chí lớn lên trở thành anh thanh niên tốt bụng, giàu lòng tự trọng. Năm 20 tuổi, Chí làm canh điền cho Lý Kiến rồi bị Lý Kiến hãm hại đẩy vào tù. Ở tù ra
Chí bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính, từng bước biến thành tay sai cho Bá Kiến, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tưởng rằng Chí Phèo sẽ vẫn tiếp tục với cuộc sống của một con quỷ dữ nhưng không, trong một lần tình cờ gặp Thị Nở, Thị đã đánh thức bản chất lương thiện sâu trong con người Chí.
Trong một lần say, Chí gặp Thị họ đã ăn nằm với nhau rồi cùng say ngủ dưới ánh trăng. Đến nửa đêm Chí đau bụng, Thị dìu hắn vào trong lều đắp chăn cho hắn rồi ra về. Đến sáng hôm sau, cũng như nhiều người say tỉnh dậy, Chí cảm thấy miệng đắng, toàn thân uể oải, chân tay thì bủn rủn. Hay là đói rượu? nhắc đến rượu hắn thấy rùng mình, người nao nao khó chịu “Hắn sợ rượu giống như những người ốm sợ cơm, tiếng chim hót ngoài kia vui tai quá! Tiếng cười nói của người đi chợ… Những tiếng quen thuộc này ngày nào mà chả có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy, chao ôi là buồn!”
Rồi hắn nghe thấy cuộc đối thoại của mấy bà đi chợ, hắn nao nao buồn bởi chúng nhắc cho Chí một cái gì đó xa xôi. Hình như đã có thời hắn ước mơ một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, một cuộc sống hạnh phúc giản dị được xây dựng bằng chính bàn tay lao động của mình. Tỉnh dậy hắn thấy mình già mà vẫn còn cô độc, buồn thay cho đời! Có lẽ nào? Hắn già rồi ư? Hình như Chí Phèo nhìn thấy trước được cuộc sống sau này của mình ốm đau, đói rét, cô độc, cái này còn đáng sợ hơn tuổi già, ốm đau, đói rét.
Một cách tự nhiên mọi suy nghĩ của Chí lại hướng về thị Nở. Khi thị bước vào với bát cháo hành hắn “ngạc nhiên”, “mắt hình như ươn ướt”. Bởi vì, đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho. Ăn bát cháo hành được trao từ bàn tay ấm lòng đầy tình thương của Thị Nở, hắn cảm động và phục sinh linh hồn. Hương vị bát cháo hành hay hương vị của tình thương và cảm động, hạnh phúc giản dị Chí Phèo được hưởng đã đánh thức bản chất lương thiện vùi dập bấy lâu của mình.Trời ơi! Hắn muốn làm người lương thiện, hắn thèm được lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, mọi người sẽ nhận lại hắn vào cuộc sống lương thiện này. Hắn đặt niềm tin hi vọng vào thị Nở.
Nhưng hi vọng vừa mới hé mở đã đóng lại ngay bởi sự trở lại của lương tri đã đẩy Chí đến đỉnh điểm bi kịch. Chí đã tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính, bộ mặt người lẫn linh hồn người để rồi trở thành hiện thân của quỷ dữ. Thủ phạm chính là Bá Kiến, nhưng tham gia còn có định kiến xã hội lực lượng không kém phần tàn nhẫn đẩy Chí đến cùng quẫn bế tắc. Đại diện cho định kiến xã hội ấy là bà cô của thị Nở, bà kiên quyết ngăn cản mối tình này làm cho con đường trở lại làm người lương thiện của Chí bị chặn đứng. Chí bị thị Nở cự tuyệt, bị chính hy vọng duy nhất, khát khao cháy bỏng còn sót lại cự tuyệt. Đau đớn đến tột cùng Chí mang rượu ra uống nhưng “càng uống lại càng tỉnh”, “tỉnh ra chao ôi buồn”. Chí đã cố níu kéo Thị lại nhưng Thị đã đi, đã đi.
Chí ngồi “ôm mặt khóc rưng rức” và rồi hắn quyết định đi trả thù kẻ mà gây cho hắn ra nông nổi này. Ban đầu Chí định đi giết chết cả nhà thị Nở, giết con cọm già đã ngăn cản hắn. Nhưng trong tiềm thức Chí nhận ra rằng kẻ đã cướp đi quyền làm người, bộ mặt lẫn linh hồn mình là Bá Kiến chứ không phải ai khác. Thế rồi trong cơn say Chí xách dao đi tìm Bá Kiến, rồi đâm chết Bá Kiến. Chí hỏi đời “Ai cho tao lương thiện”? Trả thù rồi thì sao, sự thật không thay đổi được nữa rồi Chí tự sát, tuy chết mà vẫn uất ức vẫn muốn nói gì đó mà không thốt thành lời.
Qua cái chết bi kịch của Chí chứng tỏ ý thức, nhân phẩm của Chí đã trở lại. Nó thể hiện sự khát khao được sống lương thiện của Chí Phèo và cũng là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội phong kiến thực dân tàn bạo không những dồn người nông dân vào đường cùng mà còn đẩy họ vào chỗ chết. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện ra và miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay cả khi họ biến thành thú dữ. Đồng thời, tác giả đã đưa ra lời cầu cứu khẩn thiết: hãy bảo vệ con người, bảo vệ quyền lợi của mỗi cá nhân trước những thế lực xấu xa của cuộc sống.
Góp phần tạo nên thành công của tác phẩm, tác giả đã xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Phân tích và miêu tả diễn biến tâm trạng, nội tâm nhân vật tinh tế. Ngôn ngữ tự nhiên, sử dụng khẩu ngữ, giọng điệu đan xen, cách trần thuật linh hoạt. Kết cấu truyện linh hoạt, giàu kịch tính, hấp dẫn
Tác phẩm “Chí Phèo” là kiệt tác văn xuôi Việt Nam hiện đại, nó thể hiện trình độ bậc thầy về truyện ngắn Nam Cao. Qua tâm trạng nhân vật Chí Phèo tác giả cho ta thấy rõ bi kịch: “Sinh ra là người mà không được làm người” đồng thời thể hiện rõ khát khao lương thiện của con người và bế tắc của hiện thực xã hội bấy giờ.
Bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo 7
Số phận khốn khổ của người nông dân là đề tài quen thuộc của văn học hiện thực (1930-1945). Là một cây bút sáng tạo là yêu cầu sống còn của văn chương, Nam Cao có những tìm tòi, đổi mới đáng trân trọng. Không dừng lại ở nỗi khổ sưu cao thuế nặng như các tác phẩm cùng thời “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”, Nam Cao đi sâu vào hiện tượng người nông dân bị tha hóa, bị cự tuyệt quyền làm người. Đồng thời, Nam Cao phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân bị tha hóa. Những sáng tạo của Nam Cao được kết tinh từ nhân vật Chí Phèo. Đặc biệt là trong những trang văn diễn tả tâm trạng Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở.
Có thể nói, dấu mốc quan trọng nhất tạo nên bước ngoặt quyết định trong cuộc đời Chí Phèo đó là cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở, từ cố nông lương thiện, Chí bị đẩy xuống và nhấn chìm trong vũng bùn tha hóa. Sau khi gặp Thị, Chí đã vực dậy rũ bùn tha hóa, thức tỉnh hoàn lươn. Vậy Thị Nở là ai? Là người như thế nào mà lại có tác động lớn lao đến cuộc đời Chí Phèo như vậy? Theo ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở là người xấu ma chê quỷ hờn, ngẩn ngơ như người đần trong truyện cổ tích. Lại sinh ra trong gia đình nghèo truyền kiếp, có mả hủi. thị chẳng khác gì con vật lạ. Nhưng Thị lại là người duy nhất trong làng Vũ Đại vô tình, vô cảm ấy đã tự nguyện kết thân yêu thương Chí chân thành. Dĩ nhiên, không phải ngay từ khi gặp Thị, tâm hồn Chí đã thức tỉnh, cái lốt quỷ dữ được lột bỏ. Là một nhà văn am hiểu sâu sắc tâm lí nhân vật, Nam Cao đã khám phá, miêu tả, phân tích diễn biến nội tâm của Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở một các chân thực, sống động và đầy xúc cảm.
Ban đầu, cuộc chung chạm với Thị Nở chỉ đánh thức bản năng gã đàn ông cho Chí Phèo. Nhưng sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã làm bản chất lương thiện trong con người Chí thức dậy. Tâm hồn Chí Phèo dần thức tỉnh rồi hồi sinh mãnh liệt. Nhưng ngay sau đó, Chí Phèo lại lâm vào bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời mình, là bi kịch từ chối, cự tuyệt quyền làm người. Sau đêm ái ân với Thị Nở, Chí Phèo tỉnh dậy muộn, hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Sau bao nhiêu năm sống trong u mê dằng dặc, lần đầu tiên những cảnh vật, âm thanh của cuộc sống bỗng dội vào tâm hồn Chí tạo nên những vang động sâu xa. Chí thấy nắng rực rỡ, tiếng chim hót vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng anh thuyền chèo đuổi cá. Lòng Chí bâng khuâng, mơ hồ buồn.
Tỉnh rượu rồi Chí tỉnh ngộ, từ chỗ tê liệt ý thức, Chí bỗng ngộ ra bao điều về đời mình. Chí đã có cái nhìn chính xác về cuộc đời dằng dặc của mình từ quá khứ, hiện tại, tương lai. Nghĩ về những ngày xa xôi, Chí nao nao buồn. Hình như có một thời, Chí ao ước có một gia đình nho nhỏ , chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải… Nhưng ước mơ nhỏ bé giản dị ấy đã tuột khỏi tay Chí từ lúc nào, về phương trời xa xăm nào. Ngẫm về hiện tại, Chí thấy buồn thay cho đời. Chí đã già, đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời mà vẫn cô độc, trắng tay. Chí không nhà, không cửa, không vợ, không con. Đời chí đâu chỉ là con số 0 tròn trĩnh mà còn là con số âm khủng khiếp, đời Chí chồng chất biết bao nhiêu là tội ác. Tương lai phía trước còn đáng buồn hơn. Chỉ có tuổi già đói rét, ốm đau và cô độc. Và Chí sợ nhất là sự cô độc, mà sợ cô độc nghĩa là Chí thèm khát tình người. Thèm khát tình người đồng nghĩa với việc là tính người đang trở lại trong Chí.
Có thể nói ‘‘Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí sau đêm gặp gỡ với Thị Nở là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của ngòi bút Nam Cao”. Không chỉ dừng lại ở đó, những diễn biến tâm trạng vô cùng phức tạp tinh vi của Chí Phèo đã được nhà văn diễn tả chân thực, chính xác, tài tình đến cảm động. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm được bộc lộ sâu sắc mới mẻ và lớn lao.
Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao (Chuẩn) – Bài văn mẫu số 8
Trong các tác phẩm của dòng văn học hiện thực Việt Nam, người ta thường nhắc nhiều đến những cái tên như chị Dậu, lão Hạc, … Nhưng có lẽ quen thuộc và nổi tiếng nhất, điển hình nhất là nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao – một người nông dân nghèo bị tha hóa trở thành kẻ lưu manh và chết trong nỗi khát khao được trở lại làm người lương thiện. Trong tác phẩm, người ta không chỉ ấn tượng về hình dáng, về cuộc đời của Chí mà còn thấm thía cái diễn biến tâm trạng vô cùng sâu sắc và đầy đau khổ của một con người khi rơi vào tận cùng của tăm tối của cuộc đời.
Viết Chí Phèo, Nam Cao đã lấy chất liệu từ chính làng quê của mình, từ vùng nông thôn nghèo đói trước Cách mạng tháng Tám với những ám ảnh về sự tăm tối, bức ép, ngột ngạt. Chí Phèo – đại diện cho tất thảy những người nông dân trong xã hội ấy, bị đẩy vào bước đường cùng bi kịch mà tha hóa trở lên lưu manh. Trước đây, hắn cũng đã từng có những ước mơ đời thường về cuộc sống gia đình dù nghèo đói nhưng vẫn bình yên và hạnh phúc, thế nhưng ước mơ ấy chẳng có ngày thành hiện thực vì hắn đã sớm bị xã hội, bị những định kiến, những cường quyền tước đi linh hồn của một con người.
Không như những tác phẩm khác cùng đề tài thường phản ánh về sưu cao, thuế nặng khiến người nông dân lâm vào bước đường cùng như Tắt đèn – Ngô Tất Tố hay lão Hạc, Nam Cao lại chọn một cách khác để thể hiện những nỗi thống thiết trong cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Đây là cách thể hiện vô cùng mới mẻ và thể hiện được cách nhìn đa chiều của Nam Cao với đời sống của người nông dân.
Vậy chúng ta có biết Chí Phèo là người như thế nào? Cuộc sống của hắn ra sao, diễn biến tâm lý của hắn thế nào mà hắn lại trở thành con người điển hình cho lớp người nông dân thời kì này trong văn học Việt Nam?
Nhắc đến Chí Phèo thì người ta nhớ ngay đến từ "ăn vạ" và nhớ ngay ra cái cách mà hắn xuất hiện trong câu chuyện của Nam Cao, cái đặc trưng riêng của Chí, đó là "vừa đi vừa chửi". Chí xuất hiện không hoành tráng, không ba hoa, không có từ ngữ miêu tả dáng hình nhưng lại khiến người ta thật khó lòng không nhớ. Hắn xuất hiện với tiếng chửi, với dáng người xiêu vẹo của một tên nghiện rượu. Cái chửi của hắn chẳng nhắm vào ai mà chỉ bâng quơ giữa đường, nào là "chửi trời", rồi "chửi đời", "chửi cả làng Vũ Đại", "chửi đứa nào không chửi nhau với hắn", và cuối cùng là "chửi đứa nào đã đẻ ra hắn".
Như những người bình thường khác, cha mẹ thân sinh công ơn tựa trời biển, nào ai dám mắng chửi, đem ra nhục mạ thế, nhưng Chí Phèo lại khác. Bởi hắn là một kẻ chẳng cha chẳng mẹ, bị bỏ rơi giữa cái "lò gạch cũ" giữa đói rét, cha mẹ đã vứt bỏ hắn "trần trường và xám ngắt trong một cái váy đụp cũ cạnh lò gạch bỏ hoang" để mặc hắn tự sinh tự diệt. Có thể nói, số phận hắn từ khi lọt lòng đã bi thảm vô cùng và nỗi bi thảm ấy càng tăng gấp bội khi hắn bị đẩy vào tù trong oan ức. Cuộc sống của Chí lênh đênh, tội nghiệp là thế, hắn bơ vơ giữa dòng đời, không một chốn dung thân. Hắn cũng như bao người nông dân khác trong xã hội đương thời ấy, phải sống bơ vơ, lạc lõng như thế giữa cuộc đời, người đi ở đợ, kẻ buôn ngược bán xuôi, người lại tha phương cầu thực chỉ mong giữ lại sinh mệnh của mình giữa cuộc đời.
Có lẽ chính vì thế mà sau khi ra tù, Chí "trông khác hắn", thay đổi hẳn. Nếu ngày xưa, Chí tuy mồ côi nhưng vẫn chăm chỉ làm ăn, kiếm sống bằng làm thuê làm mướn, rồi đi làm canh điền cho nhà Lý Kiến cốt để kiếm cái ăn trong sạch thì giờ đây, hắn chỉ chìm đắm trong những cơn say lướt khướt. Từ Bá Kiến, và tiếp sau là nhà tù thực dân đã tiếp tay biến Chí trở thành một con nghiện rượu, một kẻ lưu manh, tha hóa, đầu đường xó chợ. Chính cái thói dâm dục người đàn bà mang tên bà Ba, cùng cường quyền và thói lọc lõi của cụ Bá đã khiến Chí trở thành một con người "trông gớm chết" như hôm nay. Chí tìm đến rượu và say lướt khướt suốt như thế phải chăng là để quên đi cái phần lương thiện còn sót lại trong người, để trở lên thành "kẻ mạnh", để không ai còn có thể bắt nạt được hắn được nữa?
Sau khi bị dồn vào tù bởi Bá Kiến, rồi ra tù, Chí biến thành một con người khác "trông đặc thằng săng đá. Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết!". Hắn không chỉ mất đi nhân hình mà còn mất luôn cả nhân tính của con người. Bởi trước đây, hắn hiền lành, lương thiện bao nhiêu, tự ý thức được nhân cách của mình, "thấy nhục"trước những lời lẳng lơ của bà Ba bao nhiêu, thì giờ đây, hắn lưu manh, bặm trợn bấy nhiêu. Và cái đặc sắc nhất của Chí là thói ăn vạ đời, ăn vạ người. Bất kì khi nào, hắn cũng có thể lấy mảnh chai cào vào mặt để "ăn vạ" người ta, để cướp giật những thứ hắn cần. Và Chí càng hung hăng, độc ác, lún sâu vào con đường tội lỗi hơn khi hắn trở thành tay sai cho Bá Kiến.
Ở đây, Nam Cao đã tinh tế khi phát hiện ra con đường lưu manh hóa của người nông dân, không còn dừng ở việc phân tích đời sống khốn cùng của những người nông dân nữa. Ông đã đào sâu vào cuộc sống đau khổ của họ và nhận ra rằng đằng sau sự lưu manh hóa, tha hóa của những người nông dân lương thiện, chất phác kia là những con quỷ nắm trong tay cường quyền cùng thủ đoạn độc ác và thói đời lọc lõi của chúng mà điển hình ở đây là Bá Kiến.
Về Chí Phèo, hắn chỉ chợt ý thức được cuộc đời của mình, về số kiếp của mình sau khi hắn bắt gặp Thị Nở, bắt gặp những quan tâm đầu tiên hắn nhận được trong đời. Và từ đó, tâm trạng hắn nảy sinh những diễn biến vô cùng phức tạp mà lại vô cùng thấm thía với chúng ta.
Trước khi gặp Thị, Chí Phèo chỉ là một kẻ nghiện rượu, cô độc, là một kẻ lưu manh, một con quỷ của làng Vũ Đại. Hắn không có suy nghĩ, không có ước mơ, chẳng ý thức được sự sống của mình, hắn cứ vật vờ từ ngày này qua tháng khác. Có chăng điều duy nhất thôi thúc trong tâm thức hắn là được giao tiếp với con người, đó là lý do hắn luôn đi "chửi" thiên hạ, bởi hắn mong mỏi có một con người nào đó cho hắn được một lời nói, dù là lời chửi bới thôi cũng được.
Thế nhưng, sau khi gặp Thị Nở, cuộc đời hắn trở sang một trang mới và Thị Nở chính là ánh sáng soi rọi vào tâm hồn đen tối của Chí và tâm hồn hắn nảy sinh những diễn biến phức tạp, khó hiểu.
Chí Phèo gặp Thị Nở sau khi uống rượu say, còn Thị - một người đàn bà ngẩn ngơ và ế chồng, đi gánh nước và ngủ quên ở cạnh bờ sông, lối về cái lều rách của Chí. Trong cơn say, Chí Phèo đã ăn nằm với Thị và sau đó, Thị đã đưa hắn vào lều, đắp chiếu rồi ra về. Những tưởng câu chuyện chỉ có thế, nhưng không, Nam Cao đã thật nhân đạo khi để hai con người bất hạnh ấy đến với nhau bằng một tình yêu thật nên thơ.
Sau đêm ấy, Chí tỉnh rượu, Chí nhận thấy "trời sáng đã lâu. Mặt trời chắc đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ". Lần đầu tiên, Chí nhận biết được thời gian, nhận thức được thế giới xung quanh mình. Tỉnh dậy, Chí thấy người bâng khuâng, lòng hắn vu vơ những "mơ hồ buồn". Chí tỉnh rượu, và khi tỉnh rượu thì Chí nhận ra được nhiều điều.
Đầu tiên, Chí thấy mình "sợ rượu như những người ốm sợ cơm", rồi hắn thấy những âm thanh rộn rã bên ngoài căn lều của mình. Tiếng chim hót say sưa, tiếng gõ thuyền, tiếng người cười nói khi đi chợ, tất cả những âm thanh nhộn nhịp ấy lần đầu hắn mới được nghe thấy "tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá." Tất cả những âm thanh ấy "quen thuộc ngày nào chả có" nhưng đến hôm nay "hắn mới nghe thấy". Tỉnh rượu, hắn thức tỉnh luôn cả con người, thức tỉnh cả những giác quan mọi khi bị bịt kín. Những âm thanh ấy náo nức, thế nhưng lòng hắn lại buồn "chao ôi là buồn!".
Hắn buồn bởi hắn nhận ra những câu chuyện của những người đàn bà đi chợ kia "nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi". Chạy qua tâm trí hắn là từng dòng kí ức của ngày kia, khi mà hắn vẫn còn là một tên canh điền hiền lành, hắn đã từng có những ước mơ giản dị như những con người bình thường khác, hắn mơ "có một gia đình nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải". Ước mơ ấy tầm thường quá, giản dị quá, vậy mà với hắn là một cái gì đó thật xa xôi. Phải chăng lương tri trong Chí đang thức tỉnh, phải chăng ý thức con người đang dần trở về với hắn để hắn lại có những bồi hồi mơ ước như con người bình thường?
Và có lẽ cái ý thức ấy lại càng sống dậy trong hắn mạnh mẽ hơn khi hắn nhận ra được những nỗi khốn khổ của cuộc đời mình. Trước đây, hắn không có ý thức về thời gian, về tuổi tác thì giờ đây, hắn nhận ra "hắn già mà vẫn còn cô độc". Hắn đã bước chân sang "cái dốc bên kia của cuộc đời" mà vẫn còn một mình. Hắn bắt đầu nghĩ về tương lai "trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc". Nếu trước đây, Chí Phèo chưa từng suy nghĩ về những điều ấy, bởi hắn chẳng bao giờ tỉnh rượu và cũng bởi hắn chưa từng ý thức được cuộc sống của con người, bởi hắn đã sống vật vờ như một con quỷ dữ. Giờ đây, hắn thức tỉnh, hắn nhận ra cuộc đời của mình, và nhận ra những cảm xúc rất đời thường. Hắn có những nỗi sợ vẩn vơ, những nỗi sợ đói rét, cô độc, ốm đau rất thường của con người. Sự thức tỉnh ấy đã làm lương tri trong hắn trở về rồi, sự lương thiện đang trở về với Chí rồi!
Nhận được sự quan tâm của Thị Nở, Chí Phèo lần đầu tiên biết tới yêu thương, biết tới tình yêu của một người đàn bà. Sự chăm sóc của Thị Nở, bát cháo hành với những cái lườm nhưng đầy tình tứ, yêu thương của Thị đã khiến bừng lên trong hắn cái ước mơ được trở lại như xưa, trở lại làm người lương thiện.
Thị Nở đến bên Chí với bát cháo hành còn đang bốc khói khiến Chí ngạc nhiên hết mức "thằng này rất ngạc nhiên". Cũng phải thôi, Chí đã bao giờ được tận hưởng cảm giác yêu thương, tận hưởng sự chăm sóc, hay "được một người đàn bà cho", vậy nên hắn ngạc nhiên lắm và "hắn thấy mắt hình như ướt". Sự xúc động đến từ trái tim đã bật thành giọt nước mắt trên bờ mi, Chí xúc động lắm, rồi Chí thấy Thị thật có duyên, cái duyên không phải đến từ hình dáng mà đến từ tâm hồn tràn đầy yêu thương, nhân từ của Thị. Hắn lần đầu tiên được ăn cháo, lần đầu tiên được cảm nhận yêu thương và lần đầu tiên hắn mong ước được trở lại làm người lương thiện. Bừng lên trong hắn là khát khao được quay lại cuộc sống bình thường như trước. Và hắn đã nghĩ "Thị sẽ là người mở đường cho hắn". Hắn sẽ trở lại với cuộc sống bình thường, với những con người lương thiện, hắn muốn "làm hòa với mọi người", và "họ sẽ thấy hắn cũng có thể không làm hại ai. Họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Thế nên, Chí đã mở lời tỏ tình với Thị Nở bằng một cái giọng "phong tình" rằng "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui".
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở không chỉ giúp Chí thức tỉnh mà còn mang đến cho Chí những cảm xúc đời thường như tình yêu, sự chăm sóc. Và Chí mong ước được yêu thương, được chăm sóc, được trở thành người lương thiện, để được yên ổn làm ăn, được sống với một gia đình nhỏ hạnh phúc.
Tâm trạng của Chí đến đây đã bước sang một trang mới, không còn vô cảm, không còn vô hồn nữa mà tràn đầy yêu thương, khao khát được trở lại làm con người. Chí đã rất vui mừng rằng Thị Nở sẽ mở đường giúp hắn, giúp hắn làm lại cuộc đời.
Thế nhưng, niềm vui đến với Chí chẳng được bao lâu thì sự tuyệt vọng, đau đớn lại dồn tới. Chí đã những tưởng được làm lại từ đầu và Thị Nở sẽ là người mang tới cơ hội đó cho Chí nhưng không, định kiến xã hội đã giết chết cái mơ ước, khát khao ấy của Chí. Bà cô Thị Nở đã chì chiết và đay nghiến Thị khi biết chuyện Thị với Chí Phèo, bà dùng những định kiến của xã hội mà ngăn cấm Thị Nở "Ngoài ba mươi tuổi … ai lại còn đi lấy chồng?", "lấy ai không lấy, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một cái nghề là rạch mặt ăn vạ". Phải, và thế là ái định kiến ấy đã lấy đi của Chí tất cả những gì vừa mới chớm nở hôm qua. Khi Thị Nở tới và "trút vào mặt hắn tất cả những lời của bà cô" thì Chí đã "hình như hiểu".
Ban đầu, Chí có phần "ngạc nhiên" thế rồi hắn "nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu, hắn bỗng nhiên ngẩn người". Hắn đã hiểu rằng hắn bị ngăn cản, bị Thị Nở từ chối, và hắn chẳng thể quay trở lại con đường lương thiện được nữa. Hắn "sửng sốt" và bất lực trước bi kịch của cuộc đời mình. Chạy dọc trong tâm trí hắn là những yêu thương, là sự chăm sóc, là "hơi cháo hành", hắn muốn níu kéo Thị, níu kéo con đường duy nhất và cuối cùng để hắn trở về làm người. Hắn níu lấy tay Thị "hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay", nhưng đáp lại hắn chỉ là cái "gạt tay" của Thị và thị còn "giúi thêm cho một cái. Hắn lăn khoèo xuống sân". Tất cả những gì hắn mong muốn đều không thể có được nữa, hắn tuyệt vọng vô cùng, tuyệt vọng nên hắn tìm tới rượu. Hắn không muốn tỉnh nữa, hắn muốn trở lại làm "kẻ mạnh" như trước kia. Thế nhưng, lương tri của hắn, ý thức của hắn đã trở về, hắn chẳng còn say được nữa, hắn "càng uống càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn. Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành". Đến đây, không còn chịu đựng được nữa, hắn "ôm mặt khóc rưng rức".
Giọt nước mắt của Chí Phèo không chỉ là giọt nước mắt buồn tủi khi bị Thị Nở từ chối mà còn là giọt nước mắt của đau khổ, tuyệt vọng, của bi kịch cuộc đời khi hắn muốn trở lại làm người thì lại bị đẩy ra khỏi xã hội, và con đường duy nhất lại bị tước đoạt, cắt đứt bởi định kiến. Đau khổ, tuyệt vọng và phẫn uất biết bao!
Trong cơn tuyệt vọng, bi phẫn đến tột cùng, Chí Phèo đã xách dao đi, miệng lảm nhảm "Tao phải đâm chết nó! Tao phải đâm chết nó!". Nó ở đây là ai, ban đầu thì là Thị Nở và bà cô nhưng "hắn lại quên rẽ vào nhà thị Nở". Hắn xách dao "xông xông đi vào" nhà cụ Bá. Tại đây, hắn đã "trợn mắt, chỉ vào cụ" mà đanh thép lên tiếng đòi lại quyền sống cho mình. "Tao muốn làm người lương thiện" – câu nói của Chí như cắt vào lòng người đọc một vết cắt thật sâu, muốn làm người lương thiện mà còn phải đi đòi người khác hay sao?
Thế nhưng, ai đọc được tác phẩm của Nam Cao cũng sẽ hiểu cái điều mà Chí Phèo yêu cầu, mong muốn duy nhất và cuối cùng của hắn trong cuộc đời mình. Bởi lẽ, tỉnh rượu, ngẫm nghĩ, hắn mới hiểu mọi nguồn cơn của hắn đều xuất phát từ Bá Kiến – từ tay kẻ lọc lõi đời, biết cách điều khiến người khác bằng thứ quyền lực trong tay mình. Câu nói cuối cùng của Chí "Ai cho tao lương thiện?" trước khi vung dao đâm chết Bá Kiến có lẽ là câu hỏi ám ảnh nhất trong văn học Việt Nam. Câu hỏi đó được hỏi bằng tất cả sự đau khổ, tuyệt vọng, bi phẫn hoàn toàn của một con người bị tha hóa, lưu manh hóa bởi cái xã hội thực dân phong kiến, bởi những kẻ ác bá cường quyền.
Tóm lại, diễn biến tâm trạng của Chí từ một kẻ không xúc cảm, không suy nghĩ, không có ý thức về cuộc đời, tương lai của mình, đến khi gặp Thị Nở, trở thành một người tỉnh táo với ý thức về số phận của mình, hạnh phúc khi được tận hưởng niềm yêu thương, chăm sóc, tận hưởng tình yêu và khao khát được trở lại làm người lương thiện đến nỗi bi phẫn, đau khổ, tuyệt vọng khi bị từ chối quyền làm người. Diễn biến ấy vừa tràn đầy hạnh phúc lại vừa bi thương, bi kịch vô cùng, tất cả được viết lên dựa trên niềm cảm hứng và lòng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao.
Qua đó, ta thấy được tâm trạng của một người nông dân nghèo bị đẩy tới bước đường cùng, tha hóa, lưu manh hóa, nhưng sâu thẳm trong họ vẫn là khát khao được trở lại làm người, được trở lại và sống giữa một xã hội "bằng phẳng và thân thiện của những người lương thiện".
Nam Cao đã vô cùng tài năng khi dựng lên bức chân dung tâm trạng của Chí Phèo và phát hiện ra những điều mới mẻ trong nhân cách những người nông dân nghèo. Ông không hề khiến họ xấu đi mà ngược lại còn tôn lên nhân phẩm của họ và khẳng định rằng cái nhân phẩm ấy sẽ chẳng bao giờ bị mất đi dù xã hội có chà đạp, vứt họ xuống tận bùn đen tăm tối.
Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo là một trong những diễn biến nội tâm vô cùng phức tạp và sâu sắc. Thế nhưng, Nam Cao với ngòi bút miêu tả nội tâm xuất sắc của mình đã khiến chúng ta phải rung cảm trước chân dung nội tâm của một kẻ bị coi là quỷ dữ, bị cả xã hội xa lánh. Ông đã khiến người đọc phải cảm động mà đồng cảm, thương xót cho số phận của nhân vật của mình. Tài năng của Nam Cao thật khiến cho những thế hệ sau chúng ta phải nể phục và trân trọng
Tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở 9
Chí phèo là nhân vật điển hình cho lớp nông dân Việt Nam trước cách mạng, bị bần cùng hóa và rơi vào tình trạng tha hóa khủng khiếp. Dưới ngòi bút của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo hiện lên đa diện, phức tạp, vận động tâm lí theo một chu trình khép kín nhung cũng hết sức bất ngờ. Đặc sắc nhất là diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
Trước khi vào tù, Chí Phèo từng là anh nông dân hiền lành lương thiện. Vì cơn ghen vu vơ của Bá Kiến, Chí bị đẩy vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho Bá Kiến biến Chí thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Đúng lúc hắn đang rơi vào hố sâu của tội ác và tuyệt vọng thì Nam Cao đã đưa “thiên sứ” thị Nở đến trong cuộc đời của Chí.
Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say dài. Hắn nhận ra cảm giác “miệng đắng” và “lòng mơ hồ buồn”. Cảm thấy “sợ rượu như người ốm thường sợ cơm”. Chí nhận ra và cảm nhận được những thanh âm của cuộc sống: “tiếng chim hót, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng mấy bà đi chợ bán vải về”. Đó là âm thanh vang vọng của cuộc sống thường nhật. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Âm thanh ấy như cơn mưa rào mùa hạ, như dòng suối ngọt ngào đổ vào tâm hồn quỷ dữ và thức dậy cả một trời ký ức tươi đẹp. Âm thanh ấy nhắc cho hắn nhớ đến một tuổi trẻ từng mơ ước “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ ở nhà dệt vải…”.
Âm thanh ấy cũng đánh thức hiện tại đầy cay đắng. Hắn không nhớ mình năm nay bao nhiêu tuổi; chỉ biết đã qua bên kia con dốc của cuộc đời. Hắn nhận ra hiện tại đã già mà vẫn còn cô độc. Nghĩ đến tương lai, hắn chạnh lòng vì phải đối mặt với một “đói rét, ốm đau và cô độc, cô độc, còn sợ hơn cả đói rét và ốm đau”. Khi ý thức được hiện tại, đoán biết được tương lai, Chí không còn là quỷ dữ nữa mà đã trở lại năng lực làm người.
Khi thấy bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo ngạc nhiên và thấy “mắt mình như ươn ướt”. Hắn xúc động vì lần đầu tiên được chăm sóc, lại là sự chăm sóc của một người đàn bà. Và cũng bởi vì đây là lần đầu Chí được bàn tay của một người đàn bà cho. Hắn nhận ra bát cháo hành mà hắn đón lấy là “cái cho” đầu tiên của cuộc đời, vì xưa nay muốn có cái ăn, hắn phải rạch mặt ăn vạ. Điều ấy khiến Chí chạnh lòng nhận ra bi kịch của đời mình.
Chí cảm nhận về cháo hành như cảm nhận về tình người, tình yêu thương mà bây giờ hắn mới nhận ra. Hắn nhận ra “cháo hành ăn rất ngon” nhưng cũng tự hỏi “sao đến bây giờ mới được ăn”; rồi lại tự trả lời “có ai nấu cho mà ăn đâu”. Phút giây ấy, người đọc có thể hình dung ra tình cảnh thê thảm của Chí: không người thân, không kẻ thương, Chí cô độc đến tuyệt đối giữa làng Vũ Đại.
Như vậy, bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc, là bát cháo của tình yêu thương, của tình người. Hương vị cháo hành còn là hương vị của tình yêu mà lần đầu Chí cảm nhận được. Nếu như ban đầu, người đàn bà xấu xí, quá lứa lỡ thì, lại dở hơi ấy chỉ khơi lại cái bản năng ở Chí Phèo thì sau đó điều kì diệu đã xảy ra, sự săn sóc đầy ân tình và yêu thương mộc mạc của thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện tiềm ẩn trong con người Chí Phèo.
Không phải là nước cháo, không phải là lá hành, chính bàn tay chăm sóc ân cần của thị Nở và hương vị của cháo hành đã xoa dịu trái tim con quỷ dữ và thức dậy bản tính người, thức dậy thiên lương trong sâu thẳm con người của Chí. Sức mạnh của tình yêu thương đã lan tỏa từ bát cháo hành, xông đến tận cùng thớ não và tim gan của Chí, đưa hắn ra khỏi vùng tối của cuộc đời, mang hắn đến bến bờ thiên lương. Trái tim đầy tổn thương của hắn phải chăng đã được vá lại từ tình yêu thương của thị Nở.
Nếu lúc trước Chí say và ngã vào Thị vì Chí không biết rằng người đàn bà ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hờn. Nhưng lúc này, khi hoàn toàn tỉnh táo, Chí không những chấp nhận thị mà còn yêu thị. Bởi chỉ có tình yêu mới khiến con người ta thấy xấu cũng thành đẹp. Và Chí say thị thật. Đàn bà không có men như rượu nhưng cũng có thể làm người ta say. Chí thấy thị có duyên lắm. Vậy là Chí tỉnh, hắn đâu có say. Chính vì Chí tỉnh nên hắn mới cảm nhận được những hương vị của cuộc sống, của tình yêu. Những chi tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nữa của Chí. Đó là tính thiện – Nam Cao tin rằng: lương thiện là thứ không bao giờ mất đi ở người nông dân. Đó là tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn dành cho nhân vật.
Đã có lúc, Chí hồn nhiên, hắn thấy lòng thành trẻ con, muốn làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ. Ý nghĩ hồn nhiên ấy khiến Chí như trẻ lại. Còn người đọc nhận ra một điều chua chát: Chí không có mẹ, hắn chưa bao giờ được nhận sự yêu thương từ mẹ. Bởi thế thị đối với hắn như người ban ơn vậy. Rồi hắn khao khát hạnh phúc. Tình yêu với Thị Nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình: “Giá cứ như thế này mãi thì thích nhỉ”; “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”.
Rồi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người. Chí không còn là kẻ rạch mặt ăn vạ nữa, không còn là con quỷ dữ nữa. Hắn thực sự đã trở lại làm người với hai chữ “con người” đúng nghĩa. Như vậy, thị Nở chính là “thiên thần” của Chí. Thị không có đôi cánh tình yêu như trong thần thoại nhưng lại ấm nóng như lửa và mạnh mẽ như gió. Nếu là gió, thị sẽ thổi tung đám tàn tro nguội lạnh vây quanh cuộc đời của Chí. Nếu là lửa, lửa sẽ đốt bỏ lớp vỏ quỷ dữ để trả lại cho anh hình hài của một con người.
Gặp thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến niềm vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy. Chí khát khao trở lại tháng ngày tươi đẹp. Và thị Nở sẽ là chiếc cầu nối đưa hắn trở về xã hội loài người nhưng niềm mong mỏi ấy đã bị chặn đứng bởi định kiến của bà cô, mà cũng là của xã hội ấy.
Chí thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần vô cùng đau đớn – bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện. Thị Nở không thể làm chiếc cầu nối đưa hắn trở lại. Hi vọng được sống với thị Nở, sâu xa hơn là hi vọng được quay về với cuộc đời lương thiện như một đóm lửa vừa mới được nhóm lên thì đã bị dập tắt. Chí “ngẩn người” vì thất vọng rồi hắn thấy “thoang thoảng hơi cháo hành”.
Hương vị tình yêu vẫn còn, nhưng chỉ là tô đậm thêm bi kịch tình yêu của hắn. Chí ngẩn người ra vì cay đắng, chua xót trước một sự thật phũ phàng: xã hội làng Vũ Đại, ngay cả một con đàn bà xấu xí cũng đã cự tuyệt, không chấp nhận, dứt khoát không coi hắn là một con người. Hắn thấy rõ mọi con đường đều đang đóng chặt trước mặt hắn. Chí vật vã, đau đớn và tuyệt vọng. Chí ôm mặt khóc rưng rức. Những giọt nước mắt đau đớn, tủi nhục của kiếp người. Chí lại tìm đến rượu. Nhưng vì ý thức đã trở về, lần uống rượu này của Chí khác biết bao nhiêu lần uống rượu trước. Rượu một khi không đủ sức làm lu mờ lý trí của con người thì sẽ quay ngược trở lại thức tỉnh lý trí của con người. Hắn càng uống lại càng tỉnh ra, hắn không ngửi thấy mùi rượu mà chỉ nghe thoang thoảng mùi cháo hành, càng uống càng thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận.
Hắn quyết định đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Nhưng hắn không rẽ vào nhà thị Nở mà thẳng đường đến nhà Bá Kiến. Khi đến nhà bá kiến, Chí trợn mắt chỉ tay vào mặt Bá Kiến, đanh thép kết tội. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? là câu hỏi chất chứa niềm phẫn uất, đau đớn, làm day dứt tâm can người đọc: làm thế nào để con người sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo, ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Câu hỏi ấy cũng là lời kêu cứu của Nam cao: hãy yêu thương con người. Hãy cứu lấy con người.
Hành động giết Bá Kiến và tự sát thể hiện sự phẫn uất và tuyệt vọng đến tột cùng của người nông dân Chí Phèo. Đó là lúc nhân phẩm trở về, Chí Phèo hiểu ra nguồn gốc bi kịch của mình nên ngọn lửa căm hờn càng bùng lên dữ dội. Cái chết của Chí chứng tỏ Chí khao khát trở về cuộc sống lương thiện. Vì vậy cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ cái xã hội thực dân nửa phong kiến không những đẩy người dân lương thiện vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy họ vào cái chết. Chừng nào còn xã hội người ăn thịt người ấy thì sẽ còn những bi kịch như Chí.
Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đôi chỗ miêu tả lạnh lùng. Trần thuật hấp dẫn. Tình huống truyện độc đáo. Kết cấu vòng tròn khép kín. Mở đầu Chí Phèo cha ra đời nơi chiếc lò gạch cũ, kết thúc tác phẩm, lại một Chí Phèo con ra đời cũng bên cạnh lò gạch cũ. Đó là kết thúc vòng tròn khép kín, không lối thoát.
Diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở là một phát hiện mới của Nam Cao trong đời sống tinh thần của người nông dân. Bi kịch bi cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của Nam Cao với nỗi đau khổ tột cùng của người nông dân. Tiếng nói tố cáo xã hội bất nhân, tàn ác đã đẩy con người vào bi kịch. Nhà văn lên tiếng cảm thông, bênh vực và phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn sâu thẳm của người nông dân; trước sau bản tính lương thiện tốt đẹp vẫn là thứ không bao giờ mất đi ở họ. Nam Cao có biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật hết sức sắc sảo. Đặc biệt là tài nghệ miêu tả những diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị nở.