Lập dàn ý phân tích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt hay nhất (9 mẫu)

Dàn ý cảm nhận về vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt 1

1. Mở Bài

- Có thể nói khao khát được là chính mình đã được thể hiện trong rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, đó chính là cái “tôi” cá nhân đầy mạnh mẽ.

- Một trong những tác phẩm thể hiện rõ nhất khao khát này đó chính là vở kịch có tên Hồn Trương Ba, da hàng thịt do nhà soạn kịch tài ba Lưu Quang Vũ chắp bút.

2. Thân Bài

* Tác giả, tác phẩm:

- Lưu Quang Vũ (1948-1988), quê gốc ở Đà Nẵng, nhưng sinh sống, học tập và làm việc ở Hà Nội, từng tham gia quân đội trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1960-1970).

- Ông là nhà viết kịch có nhiều đóng góp đặc sắc, với hơn 50 tác phẩm kịch trong vòng 10 năm trời sáng tác và hầu như chúng đều được công chiếu, dàn dựng trên toàn quốc.

- Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch có cốt truyện xuất xứ từ dân gian, ra đời năm 1981, mãi đến năm 1984 mới được công bố, và ngay lập tức đã được độc giả đón nhận nồng hậu. Đoạn trích trong chương trình học nằm ở cảnh thứ 7 và trong phần kết của vở kịch.

* Bi kịch bị tha hóa của hồn Trương Ba:

- Trong cuộc độc thoại nội tâm:

+ Ông tự nhận ra mình bắt đầu ham uống rượu, ăn thịt, hững hờ với đánh cờ.

+ Ông hoang mang, bối rối và sợ hãi, khao khát được rời khỏi cái xác thô kệch dù chỉ một chốc lát.

- Trong cuộc đối thoại với xác:

+ Xác đã dùng những lý lẽ hết sức sắc bén, lươn lẹo, giọng điệu mỉa mai để vạch trần sự tha hóa của hồn Trương Ba.

Việc khao khát khi ở bên cạnh vợ anh hàng thịt, thích ăn thịt, rồi húp cả tiết canh,…

Sức mạnh của xác đã giúp Trương Ba đánh thằng con trai bật máu mồm, giúp ông cày xới khu vườn.

+ Cũng nhờ có xác mà Trương Ba được gần gũi người thân, nhìn ngắm bầu trời,…

Hn và xác tuy hai mà mt, đều thng nht trong mt cuc chơi, hn c vic tha hóa, ri đổ ti cho xác để được thanh thn, ngược li xác phi được “chiều chuộng” những ham muốn tầm thường.

+ Bản thân Trương Ba tuy tức giận, liên tục chỉ trích xác ti tiện, là “xác thịt âm u” không có cảm xúc, tri giác, lại còn lươn lẹo nhưng cuối cùng ông vẫn bị đuối lý bởi xác nói đúng, ông đang bị tha hóa. Điều đó khiến ông tuyệt vọng.

* Bi kịch bị chối bỏ:

- Bà vợ đòi bỏ đi

- Đứa cháu gái không thừa nhận ông nội, cho rằng ông là kẻ đồ tể, cục súc đang phá hoại khu vườn của ông nội nó.

- Cô con dâu tuy thấu hiểu, nhưng cuối cùng cũng bộc bạch những sự thay đổi, lệch lạc của hồn Trương Ba. Điều này làm ông hoàn toàn nhận ra sự tha hóa của mình.

* Giải quyết xung đột kịch

- Trương Ba quyết tâm trả lại xác cho anh hàng thị

- Xin cho cu Tị được sống lại, còn mình thì xin được chết hẳn.

- Đó là những quyết định rất khó khăn của Trương Ba, nhưng không còn cách giải quyết nào khác tốt đẹp hơn nữa. Ông không thể sống trong một đằng, ngoài một nẻo.

* Ý nghĩa đoạn kết:

- Đoạn kết là kết thúc có hậu cho một vở bi kịch lạc quan.

- Trương Ba đã trở lại làm chính mình, tuy không còn trên nhân thế nhưng ông đã trở thành bất tử trong lòng người thân, lấy lại được toàn vẹn những tình cảm trước đây ông đánh mất, trở nên thanh thản, cao khiết trở lại.

3. Kết Bài

- Toàn bộ vở kịch của Lưu Quang Vũ cuối cùng kết lại ở thông điệp: Dù cuộc đời nhiều cám dỗ nhưng con người vẫn luôn phấn đấu để giữ được tâm hồn nguyên vẹn , trong sạch, thẳng thắn, luôn cố gắng để được làm chính mình.

- Những con người đã khuất hãy là một bản tình ca để tuổi trẻ hôm nay mãi nhớ về, mãi ngân nga từ đó gieo niềm tin cho cuộc đời. Sống có nhiều cách sống, trong đó có cách dù thân xác đã trở về cát bụi nhưng tâm hồn vẫn mãi còn bất tử với những ấn tượng và kỷ niệm đẹp nhất trong lòng người ở lại.

Cảm nhận của em về đoạn kết trong vở kịch “Hồn trương Ba, da hàng thịt 2

1.Mở bài:

- Tác giả Lưu Quang Vũ: một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.

- Tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch gây được nhiều tiếng vang nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch được viết năm 1981.

- Nêu yêu cầu đề:

2. Thân bài:

- Giới thiệu tình huống kịch: Trương Ba là người nhân hậu, thanh cao, khoáng hoạt phải trú nhờ trong xác hàng thịt dung tục, thô lỗ rơi vào bi kch quyết định tr xác để được là tôi toàn vn

- Mô tả lại đoạn kết:

      +  Kết thúc vở kịch, Trương Ba Chết, nhưng hồn ông vẫn còn đó “giữa màu xanh cây vườn, Trương Ba chập chờn xuất hiện”, và ông đã nói với vợ mình những lời tâm huyết, hàm chứa ý nghĩa “ Tôi đây bà ạ. Tôi ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta…Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu…”.

+ Cu Tị sống lại và đang cùng ngồi với cái Gái trong khu vườn. Cái Gái “Lấy hạt na vùi xuống đất…”cho nó mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo thế. Những cây sẽ nối nhau mà khôn lớn.Mãi mãi…”

- Ý nghĩa:

      + Những lời nói của Trương Ba, phải chăng đó là sự bất tử của linh hồn trong sự sống, trong lòng người. Điều đó tô đậm thêm nhân cách cao thượng của Trương Ba và khắc sâu thêm tư tưởng nhân văn của tác phẩm.

      + hình ảnh cái Gái ăn quả Na rồi vùi hạt xuống đất:

Biểu tượng cho sự tiếp nối những truyền thống tốt đẹp ( “Ông nội tớ bảo vậy”) là tâm hồn là nhân cách Trương Ba. Biểu tượng cho sự sống bất diệt của những giá trị tinh thần mang tính nhân văn cao đẹp (“mãi mãi”).Khẳng định niềm tin vào sự chiến thắng của cái thiện và cái đẹp.

- Ý nghĩa của sự sống nhiều khi không phải ở sự tồn tại sinh học mà chính là sự hiện diện của người đã khuất trong tâm tưởng, nỗi nhớ, tình yêu của những người còn sống. Vẻ đẹp tâm hồn sẽ trường tồn dài lâu, bất tử so với sự tồn tại của thể xác

 - Có thể nói, đây là một đoạn kết giàu chất thơ với ngôn từ tha thiết, thấm đẫm tình cảm và có dư ba bởi những hình ảnh tượng trưng về sự sống nảy nở ( “ vườn cây rung rinh ánh sáng, hai đứa trẻ cùng ăn quả na rồi gieo hạt na xuống đất cho nó mọc thành cây mới). Đó là khúc ca trữ tình ca ngợi sự sống, ca ngợi những giá trị nhân văn mà con người luôn phải vươn tới và gìn giữ.

- Tác giả gửi gắm thông điệp về cuộc sống: sự sống thật sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên,hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Hạnh phúc của con người là chiến thắng được bản thân, chiến thắng sự dung tục, hoàn thiện được nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý

3. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề

- Rút ra bài học cho bản thân.

Phân tích vở kịch Hồn trương ba da hàng thịt 3

a) Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Lưu Quang Vũ (1948 – 1988), ông sinh ra ở Phú Thọ, là con trai của nhà viết kịch Lưu Quang Thuận. Ông là một con người tài năng đa dạng nhưng gặp nhiều bất hạnh. Ông đã mất trong một vụ tai nạn giao thông khi sự nghiệp đang nở rộ.

+ “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một trong tác phẩm xuất sắc nhất của ông và đã đưa tên tuổi của ông nổi tiếng hơn nữa.

b) Thân bài: Phân tích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt

+) Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt

- Hồn Trương Ba:

+ Cho rằng mình vẫn có một đời sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.

+ Xem xác chỉ là cái vỏ bên ngoài, âm u, đui mù, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc, nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém. Hồn Trương Ba phủ nhận vai trò của xác anh hàng thịt.

+ Thái độ: từ chối quả quyết, mạnh mẽ sang ấp úng, bịt tai lại, tuyệt vọng.

- Xác anh hàng thịt:

+ Cho rằng hồn Trương Ba không thể tách khỏi xác anh hàng thịt, mọi việc làm, hành động của hồn Trương Ba đều chịu sự chi phối của xác anh hàng thịt.

+ Thái độ: từ giễu cợt sang quả quyết, mạnh mẽ, lấn át và cuối cùng thắng thế.

- Kết quả: phần thắng thuộc về xác anh hàng thịt.

=> Cuộc đấu tranh giữa phần con và phần người, giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng.

+) Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình

- Hồn Trương Ba: cho rằng mình vẫn có một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch và thẳng thắn.

- Những người thân trong gia đình:

+ Vợ Trương Ba: đau đớn, khóc lóc, nhận ra Trương Ba không còn là Trương Ba của ngày xưa, “ông đâu còn là ông”.

+ Cháu gái: giận dữ, quyết liệt, phản đối nhất mực, cho rằng ông mình đã chết mà thay vào đó là một Trương Ba vô cùng vụng về, thô lỗ, phũ phàng.

+ Con dâu: cảm thông, chia sẻ và yêu thương với ông nhưng vẫn thấy không còn nhận ra Trương Ba của trước đây nữa.

-> Mỗi người trong gia đình ở một vị trí, một thái độ khác nhau nhưng đều có điểm chung là thấy Trương Ba đã thay đổi, không còn nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.

- Kết quả: Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay đổi của bản thân và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ông.

=> Mâu thuẫn kịch lên đến đỉnh điểm.

+) Cuộc đối thoại giữa Trương Ba với Đế Thích, quyết định cuối cùng của hồn Trương Ba

- Sự giác ngộ về ý thức:

+ Con người sống cần có sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn, cần được sống là chính mình và cần phải sống có ý nghĩa.

+ Không được bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.

+ “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”.

+ “Không thể sống với bất cứ giá nào được. Có những cái giá quá đắt, không thể trả được tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa”.

- Hành động mang tính bước ngoặt của Trương Ba:

+ Trả lại xác cho anh hàng thịt còn Trương Ba sẽ chết.

+ Phép thử của Đế Thích (Trương Ba nhập vào xác cu Tị): Trương Ba đã để cho cu Tị sống còn mình thì chết.

=> Một quyết định đầy khó khăn nhưng hết sức đúng đắn.

=> Đoạn kết có ý nghĩa rất to lớn nó có tác dụng thúc đẩy ý chí nhận thức của con người về cách sống để tránh làm cho tâm hồn của mình bị tổn thương, không hoán đổi thân xác và sống nhờ vào thân xác của người khác. Được sống làm người quý giá thật nhưng được sống đúng mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn.

* Đặc sắc nghệ thuật:

- Sáng tạo cốt truyện dân gian.

- Nghệ thuật tạo tình huống, tạo xung đột kịch

- Nghệ thuật diễn tả hành động nhân vật, dựng lời thoại

- Đối thoại kịch đậm chất triết lí, giàu kịch tính

- Độc thoại nội tâm

c) Kết bài

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của vở kịch 

- Nêu cảm nhận hoặc ý kiến của mình về tác phẩm.

Dàn ý Phân tích bài Hồn Trương ba, da hàng thịt 4

1. Mở bài

- Lưu Quang Vũ là một trong những cây bút tài hoa để lại những dấu ấn trong nhiều thể loại: thơ, văn xuôi và đặc biệt là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.

- Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, đánh dấu sự vượt trội trong sáng tác của Lưu Quang Vũ.

- Nhân vật Trương Ba – một nhân vật bi kịch

2. Thân bài

a. Giới thiệu chung

- Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ

- Đây là một vở kịch mà Lưu Quang Vũ đã dựa vào cốt truyện dân gian, tuy nhiên chiều sâu của vở kịch chính là phần phát triển sau của tuyện dân gian.

b. Phân tích

- Hoàn cảnh éo le, bi đát của ông Trương Ba

+ Trương Ba là người làm vườn yêu cây cỏ, yêu thương mọi người, sống nhân hậu, chân thực, chưa tới số chết, nhưng vì sự tắc trách của quan nhà trời mà Trương Ba phải chết.

+ Hồn Trương Ba phải trú nhơ vào xác anh hàng thịt, một người thô lỗ,… Tính cách Trương Ba ngày càng thay đổi.

Bi kịch của sự oan trái

- Cuộc đối thoại giữa hồn và xác

+ Hồn là biểu tượng cho sự thanh nhã, cao khiết, trong sạch, đạo đức nhưng tất cả hoàn toàn trái ngược qua phần đối thoại với xác. Hồn Trương Ba để lại trong mắt xác hàng thịt là một kẻ phàm ăn, tục uống ; mê rượu và háo sắc ; cư xử thô bạo với mọi người,…

+ Những biểu hiện ngay trong đối thoại khi Hồn Trương Ba không còn là chính mình : cư chỉ, điệu bộ lúng túng, khổ sở ; giọng điệu có khi yếu ớt, lời thoại ngắn ; khi đuối lý lại dùng lời lẽ thô bạo để trấn áp “Ta… Ta… đã bảo mày im đi”

Bi kịch của sự tồn tại riêng rẽ: con người không thể chỉ sống bằng thân xác mà cũng không thể sống bằng tinh thần.

- Nỗi đau khổ của Hồn Trương Ba khi tìm về những người thân trong gia đình

+ Người vợ vừa hờn ghen vừa dằn dỗi chồng, có cảm giác ông là người sống xa lạ với mọi người.

+ Đứa con trai cả quyết định bán khu vườn để đầu tư vào sạp thịt.

+ Cái Gái, đứa cháu nội mà ông yêu quý nhất, không thừa nhận ông là ông nội, thậm chí nó còn cự tuyệt đến quyết liệt “Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông”. Trong mắt nó, Hồn Trương Ba chỉ là một tên đồ tể, tay chân vụng về, luôn phá hoại.

+ Con dâu tỏ ra thông cảm, hiểu và đau cho nỗi đau sống nhờ và sự thay đổi của Hồn Trương Ba.

Bi kịch bị người thân xa rời, khước từ cuộc sống.

- Khát vọng giải thoát khỏi thân xác người khác.

+ Trương Ba tự ý thức bi kịch của mình : “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.

Bi kịch sống nhờ vào thân xác người khác

- Trương Ba trước cái chết của cu Tị

+ Trước đề nghị đổi thân xác của Đế Thích, tính cách TB từ chỗ lưỡng lự, suy nghĩ rồi quyết định dứt khoát.

+ Trương Ba muốn chết thật là để cho mình được sống mãi hoài nhớ của mọi người.

Giải thoát bi kịch của một sự giả tạo trong con người Hồn Trương Ba.

c. Đánh giá

- Hồn Trương Ba là một nhân vật quá chú trọng đời sống tinh thần mà coi nhẹ thân xác.

- Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba là bi kịch về nỗi đau của sự vênh lệch giữa thể xác và tâm hồn trong một con người.

- Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, nghệ thuật tạo tình huống và diễn tiến kịch kích độc đáo.

3. Kết luận

- Đánh giá chung về nhân vật.

- Khẳng định tài năng viết kịch của Lưu Quang Vũ và sức sống của tác phẩm.

Dàn ý màn đối thoại giữa Trương Ba và xác Hàng Thịt 5

I. Mở bài:

- Khái quát: Lưu Quang Vũ là được mệnh danh là “cây bút vàng” của sân khấu Việt Nam những năm 80 của thế kỷ 20. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được viết năm 1981, và là vở kịch nói đầu tiên mang ra nước ngoài công diễn. Bằng ngòi bút giàu chất triết lý, Lưu Quang Vũ đã thổi vào tích xưa một luồng gió mới. Kịch bản của ông không đơn thuần là chuyện vay mượn xác – tái sinh. Đặt vấn đề về lẽ sống con người qua nỗi khổ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, qua mâu thuẫn giữa tâm hồn (thanh cao) và thể xác (phàm tục), vở kịch mang chứa những triết lý nhân sinh. “Tôi muốn là tôi toàn vẹn”, bởi sống nhờ, sống giả, sống không phải là mình, đó là bi kịch đau đớn nhất của con người.

II. Thân bài:

- Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác Hàng Thịt

a. Hồn Trương Ba:

- Tâm thế của hồn Trương Ba trong cuộc đối thoại: Lời thoại của Hồn Trương Ba ở đầu đoạn trích đã bộc lộ rõ tâm trạng vừa chán ngán, vừa sợ hãi cái thân xác mà ông đang vay mượn: “Tôi chán cái chỗ không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta muốn rời xa mi ngay tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỏ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!”.

=> Ước muốn của Hồn Trương Ba đã được thỏa nguyện. Sự phân tách và đối đầu giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt trước hết có thể hiểu là sự tranh cãi quyết liệt giữa một bên là Hồn Trương Ba (tượng trưng cho sự cao khiết, cho đạo đức, cho “phần Người” chân chính của mỗi con người) và một bên là Xác hàng thịt (tượng trưng cho bản năng, cho những ham muốn trần tục, là “phần Con” tầm thường ẩn nấp trong mỗi con người).

- Nội dung lời nói của Hồn Trương Ba:

+ Hồn có cơ hội bày tỏ tâm trạng uất ức, tức giận vì phải chung sống với Xác thô lỗ, tầm thường, dung tục. Hồn cũng không che giấu sự coi thường, khinh bỉ đối với Xác, “kẻ âm u đui mù, không cảm xúc, không tư tưởng, không có tiếng nói”...; kẻ có nhu cầu vật chất thấp kém gần với con thú (thèm ăn ngon, thèm rượu thịt), sức mạnh thể chất gắn với sự tàn bạo…

+ Hồn cũng phủ nhận sự lệ thuộc của linh hồn vào xác thịt, khẳng định linh hồn có đời sống riêng: “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”…

=> Tưởng rằng, Hồn sẽ phần nào giải tỏa được nỗi đau khổ bị dồn nén bấy lâu khi có cơ hội cất lên tiếng nói của mình.

b. Xác hàng thịt:

- Tâm thế của xác hàng thịt trong cuộc đối thoại: Xác không bị động, nhún nhường. Ngược lại, Xác có thái độ khi thì ngạo nghễ, thách thức, khi thì ranh mãnh với những câu hỏi mang tính phản biện đầy bỡn cợt, châm chọc.

- Nội dung lời nói của Xác hàng thịt:

+ Xác âm u, đui mù nhưng có thể lấn át, sai khiến, thậm chí đồng hóa linh hồn cao khiết. Hồn không thể còn nguyên vẹn, trong sạch, khi phải chung sống và chiều theo những đòi hỏi của xác thịt dung tục (Hồn Trương Ba đã có cảm giác xao xuyến, khao khat khi đứng bên vợ hàng thịt, đến nỗi chân tay run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại, đã có cảm xúc lâng lâng trước các món ăn mà ông cho là dung tục như tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, đã sử dụng vũ lực mà ông cho là tàn bạo để tát thằng con toé máu mồm, máu mũi… Rõ ràng, Hồn Trương Ba đã nhiễm những thói hư tật xấu của xác hàng thịt).

=> Như vậy, Hồn Trương Ba đau đớn, dằn vặt, khao khát khẳng định mình vẫn là mình, nhưng cuối cùng phải thừa nhận rằng, mình đang sống nhờ thể xác kẻ khác và bị thể xác đó điều khiển, dẫn đến sự tha hoá không có cách gì chuyển biến được. Bi kịch của Hồn Trương Ba, vì thế, không những không được giải tỏa, mà còn trở nên đau đớn, xót xa hơn.

+ Trước đó, Hồn Trương Ba cho mình là cao khiết và coi thường, khinh bỉ Xác hàng thịt, thậm chí uất ức vì phải chung sống với Xác HT. Nhưng Xác hàng thịt đã chỉ ra thói hư tật xấu trong Hồn Trương Ba “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông cứ vin vào cớ linh hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn để rồi bỏ bê thân xác mãi khổ sở nhếch nhác” và “làm xong điều xấu gì, ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết: cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện” . Đồng thời, Xác hàng thịt đã bày tỏ những bất công mà mình phải gánh chịu khi sống với linh hồn Trương Ba: bị xúc phạm, bị bỏ bê nhếch nhác, khổ sở…vì những lý do không chính đáng.

=> Những lý lẽ và dẫn chứng mà Xác hàng thịt đưa ra khiến Hồn Trương Ba không thể phủ nhận được.

c. Ý nghĩa:

Cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác mang ý nghĩa sâu sắc.

+ Trước hết, ở góc độ Hồn Trương Ba, ta nhận ra khát vọng sống cao thượng, thánh thiện của con người, khi bị những cám dỗ vật chất phàm tục làm cho tha hoá, biến chất.

+ Ở góc độ Xác hàng thịt, ta nhận ra những nếp nghĩ sai lầm của con người: đó là thói quen đề cao tinh thần mà coi thường vật chất, tự ru ngủ mình trong những giấc mơ cao thượng mà quên đi rằng, cần phải thiết lập mối quan hệ hoà hợp, gắn bó giữa chúng.

=> Như vậy, Hồn và Xác là những ẩn dụ nghệ thuật lớn, và cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là một tình huống kịch đặc sắc, tô đậm bi kịch “bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”, sự thiếu hài hòa, không thống nhất trên các phương diện: linh hồn và thể xác, vật chất và tinh thần, nội dung và hình thức, bản năng và lý tưởng, cao cả và tầm thường...ở mỗi con người.

- Kết thúc cuộc đối thoại, Hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt vọng trở về cuộc sống trái với chính mình. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt, ngồi lặng lẽ bên chõng” diễn tả cô đọng tính chất căng thẳng của xung đột kịch: mâu thuẫn không những không được giải quyết mà còn được đẩy lên đến một mức cao hơn.

III. Kết bài:

- Đặc sắc nghệ thuật: Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở bi kịch đặc sắc trên nhiều phương diện: Sự kết hợp giữa nội dung hiện thực với yếu tố kì ảo, nghệ thuật tạo tình huống và dẫn dắt xung đột kịch, sắc thái đa dạng của lời thoại khiến cho tâm lí nhân vật được phơi trải, sát với đặc trưng thể loại, ngôn ngữ kịch giàu chất triết lí, giọng điệu tranh biện độc đáo.

- Ý nghĩa triết lý về đạo đức và nhân sinh.

Dàn ý phân tích đối thoại của Đế Thích và Hồn Trương Ba 6

I. Mở bài:

– Tác giả Lưu Quang Vũ (một nhà soạn kịch tài năng, một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX)

– Hoàn cảnh sáng tác Hồn Trương Ba, da hàng thịt (ra đời năm 1981)

– Đưa ra nhận xét chung về màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích

II. Thân bài:

a, Hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại:

- Sau ba tháng ngụ cư trong xác hàng thịt, Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với chính mình và với người thân, bị người thân nghi ngờ, xa lánh.

- Trong tâm trạng đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình, trước cái chỗ ở không phải của mình, Hồn Trương Ba khao khát tách xa, rời khỏi thể xác thô lỗ: “Ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!”.

b, Diễn biến cuộc đối thoại:

- Trương Ba nêu rõ nguyện vọng muốn được là mình toàn vẹn. Đế Thích không thể thỏa mãn được ý muốn của Trương Ba vì xác của Trương Ba đã tan rữa trong bùn đất; Đế Thích khuyên Trương Ba nên chấp nhận hoàn cảnh thực tại vì thế giới vốn không toàn vẹn.

- Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích; trình bày quan niệm của mình về ý nghĩa của cuộc sống và dứt khoát xin trả lại thân xác cho anh hàng thịt.

- Đế Thích muốn sửa sai bằng một giải pháp khác là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị và đưa ra những lí lẽ để thuyết phục Trương Ba. Trương Ba tưởng tượng thấy bao nhiêu rắc rối khi phải sống nhờ trong thể xác cu Tị.    

- Trương Ba kiên quyết từ chối tái sinh trong thân thể non nớt của cu Tị, không chấp nhận cảnh sống giả tạo; kêu gọi Đế Thích sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là cho cu Tị được sống lại. Đế Thích cuối cùng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba, làm phép cho anh hàng thịt, cu Tị sống lại và Trương Ba thì chết hẳn.

Ý nghĩa của triết lý “hãy sống là chính mình” mà tác Lưu Quang Vũ muốn thể hiện

- Muốn sống đúng là chính mình thì mỗi chúng ta cần phải biết hài hoà giữa việc chăm lo cho linh hồn cũng như biết quý trọng và chăm sóc cho những nhu cầu thiết yếu của thể xác. 

- Một loại chỉ biết trau chuốt vẻ ngoài và chạy theo những ham muốn vật chất mà không chăm lo cho đời sống tâm hồn. 

=> Thông qua xác và hồn Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng phải sống là chính mình đó mới chính là hạnh phúc thật sự của con người.

Triết lí nhân sinh từ cuộc đối thoại:

- Linh hồn và thể xác là hai mặt tồn tại không thể thiếu trong một con người, cả hai đều đáng trân trọng. Một cuộc sống đích thực chân chính phải có sự hài hoà giữa linh hồn và thể xác

.- Tác giả một mặt phê phán những dục vọng tầm thường, sự dung tục của con người, mặt khác ông vạch ra qniệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị vật chất và những nhu cầu của thể xác.

- Con người cần có sự ý thức chiến thắng bản thân, chống lại những nghịch cảnh số phận, chống lại sự giả tạo để bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách

III. Kết bài: 

Lưu Quang Vũ đã thể hiện những tình huống truyện độc đáo, qua những mâu thuẫn sâu sắc xuất hiện mà khắc họa rõ nét khát vọng sống là chính mình của nhân vật Hồn Trương Ba.

Dàn ý phân tích triết lý sống trong “Hồn Trương Ba da hàng thịt 7

A. Mở bài:

– Lưu Quang Vũ là một trong những cây bút tài hoa bậc thầy để lại những dấu ấn trong rất nhiều thể loại như thơ, văn xuôi và đặc biệt là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.

- Là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, đánh dấu sự đột phá trong sáng tác của Lưu Quang Vũ.

– Nhân vật Trương Ba – thể hiện một triết lý sống cao đẹp.

B. Thân bài

1. Giới thiệu chung

– Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ của tác phẩm.

– Đây là một vở kịch mà tác giả Lưu Quang Vũ đã dựa vào cốt truyện dân gian, tuy nhiên chiều sâu của vở kịch hay cái mới chính là phần phát triển sau của truyện dân gian.

2. Phân tích

– Hoàn cảnh éo le, bi đát của ông Trương Ba

+ Trương Ba với là một ông lão làm vườn yêu thiên nhiên, cỏ cây, sống chan hòa với mọi người

+Trương Ba chết một cách oan uổng do sự vô tâm, tắc trách của Nam Tào. Lại được Bắc Đẩu “sửa sai” một cách vô lí là đã cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt mới mất sau đó. Đã không sai khiến được còn bị xác thịt điều khiển, dẫn đến linh hồn bị nhiễm độc bởi cái tầm thường. Ý thức được điều đó, hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định bằng cách tách ra để sống độc lập, hướng tới sự hoàn thiện về nhân cách.

+ Ban đầu hồn Trương Ba tỏ vẻ coi khinh xác anh hàng thịt :”Mày không có tiếng nói mà chỉ là cái xác thịt âm u, đui mù” . Xác thịt đã cười nhạo , chế giễu, bác lại hồn Trương Ba mà không biết sức mạnh âm u, đui mù của mình sẽ chiến thắng. “Lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy”

+ Trong cuộc đối thoại với xác Hàng Thịt, Hồn Trương Ba rơi vào tình cảnh yếu thế, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải mặc nhiên thừa nhận (cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì…”. Đó chính là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là “phàm”. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”,…)

+ Xác thịt đã tìm cách thỏa hiệp bằng cách nêu cụ thể những nhu cầu mang tính bản năng của con người ( các món tiết canh cổ hũ…), khẳng định vai trò của mình :” Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới , nhìn ngắm trời đất, cây cối, người thân…”

+ Xác Hàng Thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện.

+ Xác Hàng Thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…”.

+ Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn lúc này chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.

+ Trước lí lẽ ti tiện của xác thịt, hồn Trương Ba nổi giận mắng mỏ, khinh bỉ xác thịt hèn hạ và cố chống lại nhưng phần nào cũng ngậm ngùi vì hắn có lí, hồn TB bị dồn vào thế yếu. Thấm thía nghịch cảnh, Trương Ba trở lại xác thịt trong tuyệt vọng.

Qua màn hội thoại của hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt cho thấy rằng Trương Ba được Bắc Đẩu trả lại cuộc sống, nhưng cuộc sống đó là cuộc sống không đáng sống vì cái thanh cao phải dung hòa với cái thấp hèn, dung tục, thì đó chẳng phải là bi kịch hay sao? Thể xác và linh hồn con người là 2 thực thể có mối quan hệ hữu cơ, không thể vênh lệch, tách rời. Xác thịt có nhu cầu sự sống, nhu cầu mang tính bản năng. Hồn mang tính chất thanh cao góp phần điều chỉnh thể xác hòa hợp, vươn tới sự hoàn thiện nhân cách. Cuộc tranh cãi giữa hồn ông Trương Ba và xác hàng thịt là bi kịch thứ nhất của Trương Ba vì xác đã thắng. Tác giả đã cảnh báo, khi con người phải sống trong cái tầm thường, dung tục thì tất yếu sẽ bị nhiễm độc bởi cái xấu, cái đẹp sẽ bị lấn át, tàn phá.

+ Hồn là biểu tượng cho sự thanh nhã, cao khiết, trong sạch, đạo đức nhưng tất cả hoàn toàn trái ngược qua phần đối thoại với xác. Hồn Trương Ba để lại trong mắt xác hàng thịt là một kẻ phàm ăn, tục uống ; mê rượu và háo sắc ; cư xử thô bạo với mọi người,…

+ Những biểu hiện ngay trong đối thoại khi Hồn Trương Ba không còn là chính mình : cư chỉ, điệu bộ lúng túng, khổ sở ; giọng điệu có khi yếu ớt, lời thoại ngắn ; khi đuối lý lại dùng lời lẽ thô bạo để trấn áp “Ta… Ta… đã bảo mày im đi”

– Bi kịch của sự tồn tại riêng rẽ: con người không thể chỉ sống bằng thân xác mà cũng không thể sống bằng tinh thần.

– Nỗi đau khổ của Hồn Trương Ba khi tìm về những người thân trong gia đình

+ Người vợ vừa hờn ghen vừa dằn dỗi chồng, có cảm giác ông là người sống xa lạ với mọi người.

+ Đứa con trai cả quyết định bán khu vườn để đầu tư vào sạp thịt.

+ Cái Gái, đứa cháu nội mà ông yêu quý nhất, không thừa nhận ông là ông nội, thậm chí nó còn cự tuyệt đến quyết liệt “Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông”. Trong mắt nó, Hồn Trương Ba chỉ là một tên đồ tể, tay chân vụng về, luôn phá hoại.

+ Con dâu tỏ ra thông cảm, hiểu và đau cho nỗi đau sống nhờ và sự thay đổi của Hồn Trương Ba.

– Bi kịch bị người thân xa rời, khước từ cuộc sống.

– Khát vọng giải thoát khỏi thân xác người khác.

+ Trương Ba tự ý thức bi kịch của mình : “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.

=) Bi kịch sống nhờ vào thân xác người khác

– Trương Ba trước cái chết của cu Tị

+ Trước đề nghị đổi thân xác của Đế Thích, tính cách TB từ chỗ lưỡng lự, suy nghĩ rồi quyết định dứt khoát.

+ Trương Ba muốn chết thật là để cho mình được sống mãi hoài nhớ của mọi người.

- Giải thoát bi kịch của một sự giả tạo trong con người Hồn Trương Ba.

3. Đánh giá

– Hồn Trương Ba là một nhân vật quá chú trọng đời sống tinh thần mà coi nhẹ thân xác.

– Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba là bi kịch về nỗi đau của sự vênh lệch giữa thể xác và tâm hồn trong một con người. “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Tôi muốn là tôi toàn vẹn”- Đây cũng chính là triết lý sống của tác phẩm

– Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, nghệ thuật tạo tình huống và diễn tiến kịch kích độc đáo.

C. Kết luận

– Đánh giá chung về nhân vật và triết lý sống được gửi gắm qua nhân vật.

– Khẳng định tài năng viết kịch của Lưu Quang Vũ và sức sống của tác phẩm.

Dàn ý phân tích nhan đề Hồn Trương Ba, da hàng thịt 8

I. Mở bài:

Giới thiệu nhan đề: Nhan đề Hồn Trương ba, da hàng thịt là một nhan đề giàu ý nghĩa, không chỉ dẫn dắt người đọc đến với câu chuyện mà còn khơi dậy được trí tò mò, khám phá của tác giả đối với vở kịch.

II. Thân bài:

– Hồn Trương Ba, da hàng thịt được xây dựng dựa trên một câu chuyện dân gian cổ

– Vở kịch của Lưu Quang Vũ lại được phát triển từ chính phần kết thúc của câu chuyện để truyền tải những thông điệp sâu sắc về nhân sinh

– Nhan đề “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”:

+ Thể hiện tình trạng của Trương Ba khi được sống lại trong thân xác người hàng thịt

+ Thể hiện sự tương phản, khác biệt giữa phần thể xác bên ngoài và linh hồn bên trong con người.

– Hồn Trương Ba biểu tượng cho tâm hồn trong sạch, đẹp đẽ còn xác người hàng thịt lại là biểu tượng cho phần thể xác với những nhu cầu về vật chất thiết thực của con người.

–> Tuy mang tính đối lập nhưng lại là những phần cùng tồn tại bên trong con người.

– Nhan đề “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một đặc sắc nghệ thuật khi phản ánh được thực trạng cuộc sống của con người với mâu thuẫn giữa nhu cầu về vật chất và tinh thần.

– Phản ánh được bi kịch của con người khi phải sống bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo.

=> Thông điệp: cảnh tỉnh con người khi không làm chủ được hoàn cảnh, làm chủ bản thân mà bị hoàn cảnh ấy chi phối dẫn đến sự tha hóa, biến đổi bản chất bên trong.

– Được sống và làm người là cơ hội quý giá nhưng được sống với những lí tưởng của bản thân còn quý giá hơn.

– Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người sống tự nhiên với sự hài hòa giữa các nhu cầu vật chất, tinh thần, giữa bên trong và bên ngoài của con người.

III. Kết bài:

- Nhan đề Hồn Trương Ba, da hàng thịt là nhan đề ý nghĩa vừa góp phần định hướng nội dung vừa chứa đựng những nội dung sâu sắc mà tác giả muốn truyền tải.

Quan niệm “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”, Anh/chị suy nghĩ gì về quan niệm... 9

I. Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

Giới thiệu câu nói: Câu nói của Trương Ba không chỉ góp phần thể hiện tư tưởng nhân sinh của vở kịch mà còn gợi bao suy ngẫm sâu sắc cho độc giả khi soi chiếu vào trong chính cuộc sống của mình.

2. Thân bài

– Câu nói thể hiện quan niệm sống của Trương Ba được rút ra từ chính bi kịch sống nhờ cái xác của người hàng thịt.

– Câu nói của Trương Ba đã thể hiện khát vọng được giải thoát khỏi thực cảnh hiện tại, mong muốn được sống là chính mình mà không phải cuộc sống bị đổi thay, xáo trộn trước sự chi phối, điều khiển của cái xác nữa.

– Trương Ba từ chối cơ hội được sống quý giá để được sống là mình trọn vẹn, để không phải “sống bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo” nữa.

– Câu nói của Trương Ba không chỉ góp phần phát triển kịch tính của câu chuyện, bộc lộ những giằng xé, đau đớn cũng như những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Trương Ba mà câu nói còn thể hiện được những triết lí sâu sắc

– Con người là thực thể thống nhất giữa phần hồn và phần xác, do đó không thể có một tâm hồn thanh cao, thanh sạch trong một thân xác phàm tục, tội lỗi.

– Khi con người chấp nhận sống nương nhờ, chắp vá không toàn vẹn, không được sống là mình thì cuộc sống vẫn tiếp diễn, chúng ta có thêm cơ hội để sống thế nhưng cuộc sống ấy cũng thật vô nghĩa.

– Lời nói và hành động của Trương Ba đã thể hiện bản lĩnh và vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật khi sẵn sàng đón nhận cái chết còn hơn sống trong sự dày vò của lương tâm và sự ghẻ lạnh, thất vọng của những người thân yêu

3. Kết bài

Qua câu nói của nhân vật Trương Ba, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã thể hiện được cái nhìn sâu sắc khi phát hiện được bi kịch bên trong con người hiện đại: đó là thực trạng con người sống vội, sống gấp, sống thực dụng mà vô tình đánh mất chính mình.