Nghị luận cảm hứng yêu nước trong bài thơ Câu cá mùa thu 1
Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên ở một vùng quê yên ả. Phần lớn cuộc đời nhà thơ gắn bó với mảnh đất Yên Đổ, mà hình ảnh của nó đã in đậm lên từng trang thơ với những nét hết sức tiêu biểu. Thông qua các tác phẩm của ông, ta cảm nhận được ở đó tấm chân tình với quê hương, đất nước mình của một người được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu).
Cả bài thơ là một bức tranh làng quê Bắc Bộ thu nhỏ với những nét thật đặc trưng và ấn tượng:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
...
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Bức tranh mùa thu được mở rộng theo nhiều chiều kích mà mỗi chiều kích lại có những khoảnh khắc gieo vào lòng người rất nhiều ấn tượng. Người câu cá thực ra lại là người ngoạn cảnh, người suy tư và cũng nhờ đó mà ta hiểu được phần nào tâm sự của vị “Tam nguyên Yên Đổ” nổi tiếng.
Bức tranh thiên nhiên mở đầu với hình ảnh của ao thu.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Những dấu hiệu đầu tiên báo hiệu một buổi đi câu là ao thu và thuyền câu. Ta bắt gặp một hình ảnh quen thuộc thường gặp ở vùng chiêm trũng đồng bằng Bắc Bộ: những chiếc ao nhỏ nhắn, tĩnh lặng đến độ làm cho “nước trong veo”. Ao thu lạnh, ao thu nhỏ và ao thu trong và có lẽ vì thế mà chiếc thuyền câu cũng phải trở nên “bé tẻo teo” cho hợp cảnh. Chiếc thuyền được đặt trong một không gian tĩnh lặng, dường như ngay từ đầu đã nằm trong chủ ý của tác giả, chỉ là một phần trong đó chứ không làm khuấy động bầu không khí vốn có của cảnh. Bức tranh ngay từ đầu đã hiện lên với những đường nét thật hài hòa.
Từ viễn cảnh, nhìn bao quát toàn bộ cảnh ao thu, bức tranh thu về cận cảnh với hình ảnh của sóng. Chỉ là “sóng biếc theo làn hơi gợn tí”, nghĩa là chỉ là những gợn lăn tăn, rất nhẹ. Câu thơ tả nhưng có sức gợi. Nhìn sóng người ta còn như cảm nhận được làn gió cũng đang mơn man rất nhẹ trong không gian, trên mặt hồ. Mơn man nhẹ đủ để sóng nước chỉ gợn lên đôi chút. Lại thêm một nét nữa của mùa thu không muộn là mất đi bầu không khí mùa thu tĩnh lặng đang bao trùm lên không gian. Trong tất cả những sự chuyển động chậm rãi ấy, chiếc lá xuất hiện đột ngột nhưng chỉ làm bức tranh lại có thêm một nét chấm phá thật nhẹ:
“Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Đọc câu thơ người ta còn nhận ra nhịp chuyển động trước khi tiếp đất (mà cũng có thể là tiếp mặt nước - và đặt trong không gian đó hình ảnh chiếc lá “khẽ đưa vèo” càng trở nên đẹp hơn). Phải là người có tâm hồn tinh tế nhạy cảm lại đang chìm đắm, say sưa trong cảnh vật mới có thể nắm bắt được nét vẽ rất động nhưng cũng rất nhẹ ấy của bức tranh thiên nhiên. Từ xa tới gần, bức tranh lại tiếp tục được mở rộng lên cao, ra xa:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"
Không biết tại khí thu vốn mang trong nó vị buồn hay lòng người sẵn mối suy tư mà vô hình chung, tất cả cảnh vật hiện lên trong bức tranh đều có một cái gì đó lạnh lẽo, lẻ loi, vắng vẻ. Tất cả đều đượm buồn. Chắc cũng vẫn là cái màu da trời xanh ngắt trong “Thu ẩm”, màu xanh rất đặc trưng của khí thu vùng nhiệt đới, khí thu vùng đồng bằng Bắc Bộ nhưng ở đây nó không trở nên “gắt” như trong câu hỏi “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” mà hài hoà hơn cùng với tầng mây trôi lơ lửng. Không gian vắng, lạnh nhưng rất sáng.
Một lần nữa, góc nhìn của nhân vật trữ tình lại có sự thay đổi khi nhìn ra xa, tới những ngõ trúc quanh co uốn lượn, vẫn không có sự xuất hiện của con người. Chỉ là “khách vắng teo” dường như để tạo nên sự tĩnh lặng đến tuyệt đối, chỉ có tác giả - người câu cá - đối mặt với cả một bầu không gian mùa thu buồn. Không biết bởi lòng người mang sẵn nhiều tâm sự nên mang điều ấy, mang cái nhìn ấy gieo vào cảnh vật hay cảnh vật dường như cũng đồng cảm với tâm sự của con người mà thay đổi theo mà giữa con người và cảnh vật có một sự hài hoà cao độ. Người ta thấy bức tranh mùa thu trở nên hoàn toàn tĩnh lặng đến độ:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Bài thơ mang tựa đề là “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) mà đến tận cuối bài thơ, hình ảnh người đi câu và công việc đi câu mới được nhắc tới. Nhưng ngay cả lúc này, cũng vẫn là hình ảnh một người đi câu trầm lặng ngồi “tựa gối ôm cần”. Tư thế ấy giống như bức tượng “Người suy tư” nổi tiếng của Auguster Rodin, tạc khắc một dáng ngồi bất động vào không gian. Đi câu cá, “tựa gối ôm cần” tưởng chừng như để chờ cá cắn câu nhưng thực ra lại không phải như vậy. Người đi câu đang chìm đắm trong suy tư của riêng mình đến nỗi dường như không còn quan tâm đến việc có câu được cá hay không nữa.
Mải mê suy nghĩ đến mức chỉ một tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo” cũng đủ để khiến người trong cuộc nghe thấy và sực tỉnh. Chỉ là tiếng cá đớp động, nghĩa là những âm thanh vô cùng nhỏ nhưng cũng đủ khiến người đi câu giật mình trở về với thực tại. Đi câu chỉ là một cái cớ để tác giả suy ngẫm về cuộc đời, về mình chính, là một cái cớ để “câu” sự thanh tĩnh, câu cái bình yên trong tâm hồn mình mà thôi. Con người ấy, hồn thơ ấy phải đi tìm những phút giây tĩnh lặng này bởi trong lòng ông đang nổi sóng.
Qua ngòi bút miêu tả tinh tế của Nguyễn Khuyến, bức tranh thiên nhiên mùa thu hiện lên thật buồn nhưng cũng thật đẹp. Buồn, đó là khí thu đặc trưng nhưng đó cũng là bởi người ngoạn cảnh cũng đang mang rất nhiều tâm trạng. Bài thơ cho ta cảm nhận về một tâm hồn thơ nhạy cảm yêu thiên nhiên đất nước. Sự gắn bó và tình yêu thương trìu mến đặc biệt với vùng đồng bằng chiêm trũng, với những ao chuôm nhỏ nhắn, với thuyền câu, lá vàng, ngõ trúc quanh co... đã giúp cho nhà thơ có được những cảm nhận tinh tế về thiên nhiên cũng như giành cho nó tình cảm ưu ái đặc biệt. Bài thơ còn là sự gửi gắm những tâm sự thầm kín của một người luôn nặng trĩu suy tư về quê hương, đất nước, về trách nhiệm của bản thân đối với quê hương đất nước mình. Là một trí thức yêu nước, ông không thể làm ngơ trước nỗi nhục, nỗi đau vong quốc mà ở đó:
“Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”
Chính nỗi “non nước” khôn nguôi này làm ông tủi hổ, làm như lỗi tại mình nên mượn thơ mà cả thẹn:
“Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già
Xuân về ngày loạn càng lơ láo”
Mượn tiếng cuốc kêu mà thổ lộ tâm sự:
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”
Có thể nói Nguyễn Khuyến đã nén cả một nhân cách lớn, một hồn thơ lớn một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc hôm nay.
Nằm trong chùm ba bài thơ thu nổi tiếng, “Thu điếu” là một trong những bài thơ không chỉ góp phần đưa Nguyễn Khuyến trở thành “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” mà còn làm nên một nhân cách lớn Nguyễn Khuyến còn lại mãi trong lòng người.
Nghị luận cảm hứng yêu nước trong bài thơ Câu cá mùa thu hay nhất 2
Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội như những người Cộng sản vẫn ra rả bấy lâu nay thì chúng ta sẽ mất nước vào tay những kẻ bên kia biên giới nhân danh chủ nghĩa xã hội đã âm thầm lấn chiếm của ta từng mét đất ở biên cương, đã trắng trợn cướp không của ta từng hải lí biển ở ngoài khơi. Và Nhà nước Việt Nam cộng sản cũng vì chủ nghĩa Xã hội thản nhiên cắt đất đai hương hỏa của cha ông ta cho nước cộng sản cùng ý thức hệ!
Yêu nước là yêu từ hơi may của đất trời Việt Nam:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
(Nguyễn Đình Thi)
Yêu từ mùi trầu thơm nồng của mẹ: Xin mẹ cứ nhai trầu / Cho buổi chiều yên tĩnh (Thanh Thảo). Thì đất nước Việt Nam mãi mãi còn là của người Việt Nam. Nguyễn Khuyến (1835 –1909) là một người yêu nước như vậy.
Yêu từ cánh bèo trên mặt ao đìu hiu mùa thu, Nguyễn Khuyến đã từ chức quan thời đất nước đã rơi vào tay giặc Pháp để về giữ nước bằng cách hòa vào nhân dân, đắm trong thiên nhiên đất nước. Trở về vui buồn cùng dân là khi Nguyễn Khuyến đã ở vào mùa thu cuộc đời. Soi mùa thu đời mình vào mùa thu đất nước, Nguyễn Khuyến đã để lại những bài thơ đặc sắc nhất về mùa thu Việt Nam, để lại chiếc bóng lồng lộng trong mùa thu Việt Nam.
Mỗi lần nhận ra hơi may se se trong ngọn gió thu về, tôi lại bâng khuâng nhớ Nguyễn Khuyến. Nhìn màn sương bảng lảng chiều thu, tôi lại thấy chiếc bóng Nguyễn Khuyến đơn độc giữa những chiếc lá vàng tả tơi rụng rơi.
Sinh năm 1835, đỗ tiến sĩ năm 1871 khi mới ba mươi sáu tuổi, một con đường công danh rạng rỡ mở ra trước mặt ông Nghè trẻ tuổi, tài hoa và có chí là Nguyễn Khuyến. Nhưng Nguyễn Khuyến chỉ làm quan có mười hai năm rồi cáo bệnh rũ áo từ quan lui về Vườn Bùi chốn cũ vừa muốn buông xuôi mọi nhẽ, vừa canh cánh không yên:
Lúc hứng uống thêm ba chén rượu
Khi buồn ngâm láo một câu thơ!
Chí bình sinh của kẻ làm trai được cửa Khổng sân Trình giáo dục là Tu thân –Tề gia –Trị quốc – Bình thiên hạ, học hành thấu đáo đạo lí ở đời, ổn định gia thất, đỗ đạt khoa bảng rồi gánh vác việc dân việc nước. Đó là cách bộc lộ lòng trung quân ái quốc, cách mang tài năng và chí trai ra giúp ích cho đời.
Con người đã dành gần ba mươi năm của cuộc đời vào việc học hành tích lũy kiến thức, rèn luyện đức độ và tài năng đâu phải để về nhà tựa gối buông cần! Con người đã vài lần thi hỏng, bốn khoa thi cử không đâu cả nhưng vẫn quyết chí lều chõng và đã đỗ cao không phải chỉ để lấy tiếng! Con người đã nhiều lần tỏ ra rất bằng lòng, rất kiêu hãnh về việc đỗ đạt và làm quan. Rất bằng lòng nên: Rằng lão, rằng quan tớ cũng ừ, và Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu. Và rất kiêu hãnh:
Cờ biển Vua ban cho ngày trước
Khi đưa thày con rước đầu tiên .
Thế mà con người ấy đã bỏ dở con đường hoạn lộ giữa tuổi bốn mươi tám suy nghĩ đã chín chắn, tứ thập bất hoặc, lẽ đời đã thấu đáo, đã kín mọi đường mọi nhẽ, không còn điều gì phải hoang mang, nghi ngại, cái tuổi đã gần tới ngũ thập tri thiên mệnh, tuổi thấu được mệnh trời đất, đã nhìn ra khắp thiên hạ. Tuổi trí lực đang chín, đang làm việc, suy xét tốt nhất lại rũ áo từ quan để trở về mà day dứt: Ơn Vua chưa chút báo đền / Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn Trời! Trở về với nỗi buồn, nỗi phẫn của kẻ chưa thỏa chí: Khi buồn ngâm láo một câu thơ.
Khi Nguyễn Khuyến phải rũ áo từ quan là lúc triều đình nhà Nguyễn ươn hèn khiếp nhược đã nhục nhã kí với Pháp hòa ước Harmand đặt Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp. Kí hòa ước này, một lần nữa triều đình Huế đã kí bản giao kèo đánh đổi cả sinh mạng đất nước, cả số phận dân tộc cho Pháp để giữ lấy cái ngai vàng mục ruỗng của mình. Từ đây dải đất Việt Nam ngàn lần yêu thương đã thuộc về người Pháp. Từ đấy vua quan nhà Nguyễn chỉ là một đám bù nhìn, một lũ tay sai cho bọn cướp nước, chỉ còn là một lũ hề của lịch sử, của sân khấu chính trị: Vua chèo còn chẳng ra gì / Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề!
Không thể trơ mặt ra mà cố đấm ăn xôi, không thể nhẫn tâm làm thứ hề ấy:
Nếu trơ như đá thì đau khổ
Còn chút lương tâm mới khó nguôi!
Lương tâm này với cái chính trường đã thành sân khấu hề kia chẳng thể chấp nhận nhau được nữa:
Cờ đương dở cuộc không còn nước
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng!
Thôi về đi để khỏi bán mình cho danh lợi, để lánh xa chốn bon chen! Về đi để giữ trọn tấm lòng trung trinh với núi sông đất nước, giữ sạch lương tâm với đời:
Về nơi vườn rộng lòng ta thỏa
Việc thế nghe qua chỉ mỉm cười!
Cả những ai còn chút lương tâm, còn chút lòng yêu nước thương dân, còn chút lòng tự trọng, thôi cũng về đi:
Thu qua bác Huyện bỏ về rồi
Nay đến ông Thương cũng tháo lui.
Về sống với nhân dân, với bà con làng xóm, với những con người bình dị, chân chất, những người nếu có tên gọi riêng thì cũng chỉ là những chú Đáo, mẹ Mốc, ông Từ. Về sống với thiên nhiên đất nước, với ngõ trúc, ao thu. Bây giờ chỉ có những thứ quan như Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Cao Khải cam tâm làm tay sai cho giặc. Làm quan như thế là đối lập với nhân dân. Trở về để hòa vào với đất nước, hòa vào với nhân dân, quan nhất thời, dân vạn đại, hòa vào với cái vạn đại, cái vĩnh cửu. Từ đây Nguyễn Khuyến gắn bó cả đời mình với những người dân Sớm trưa dưa muối cho qua bữa, gửi cả hồn mình vào cảnh sắc thiên nhiên Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Có trở về như thế Nguyễn Khuyến mới nhận ra được ở cảnh sắc quê hương cái riêng biệt, cái hồn vía Việt Nam. Vì thế chỉ đến Nguyễn Khuyến, cái hồn của thiên nhiên Việt Nam mới được nhận ra, mới được ghi nhận bằng ngôn ngữ nôm na của những người dân bình dị. Trước Nguyễn Khuyến, mùa thu Việt Nam đã đi vào thơ ca khá nhiều nhưng mùa thu trong thơ vịnh của những nhà thơ khoa bảng còn quá xa lạ với hiện thực thiên nhiên Việt Nam, lại càng xa lạ với lời ăn tiếng nói đầy biểu cảm của người dân Việt Nam khi mùa thu Việt Nam đầy bâng khuâng gợi cảm lại diễn tả bằng hình ảnh ước lệ vay mượn xa lạ, bằng ngôn từ khoa trương, hào nhoáng, sáo rỗng và vô hồn:
Lác đác ngô đồng
Nhạn về ải Bắc
Giếng ngọc sen tàn
Rừng phong lá rụng
Tuyết đưa hơi lạnh
Gió phẩy mưa băng
Bên hoa triện ngọc
Dưới lệ rèm châu
Những cảnh sắc không có trong không gian nhiệt đới Việt Nam. Những ngôn từ không có trong từ vựng của người dân nước Việt chân chất, mộc mạc. Có sự trở về với dân gian của Nguyễn Khuyến, thơ ca Việt Nam mới thực sự có mùa thu Việt Nam.
Nguyễn Khuyến có đến ba bài thơ mùa thu Việt Nam. Thu vịnh là buổi sáng chớm thu. Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, vòm trời mấy tầng cao và xanh ngắt là vẫn còn không gian của mặt trời sáng chói huy hoàng từ mùa hè rớt lại. Thu điếu là buổi chiều thu tàn, không khí đìu hiu và lạnh lẽo của Thu điếu chỉ có ở cuối thu. Thu ẩm là buổi tối giữa thu, Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe. Buổi tối mùa thu gợi cảm quá nên phải có rượu, Độ năm ba chén đã say nhè. Mỗi bài là một bức tranh khá tiêu biểu về mùa thu. Mỗi bài là một cung bậc tình cảm của một tâm hồn đa cảm trước tiết thu gợi cảm. Mỗi bài là một chiếc bóng Nguyễn Khuyến soi vào thiên nhiên đất nước. Mỗi bài có một vị trí tình cảm, một giá trị nghệ thuật riêng. Bài nào cũng hay. Bài nào cũng thấm đẫm tình yêu của Nguyễn Khuyến với đất trời quê hương. Tiêu biểu hơn cả cho mùa thu ở làng quê Việt Nam là bài Thu điếu:
Đây là mùa thu ở làng quê miền Bắc bởi vì chỉ ở làng quê miền Bắc mới thực sự có sự khác biệt xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một sắc thái riêng biệt. Miền Trung mùa thu là mùa mưa lũ lụt lội, nước sông cuồn cuộn phù sa và nước mưa làm đục ngầu ao hồ nên không thể có Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Ở miền Nam chỉ có hai mùa phân biệt theo mưa nắng, mùa mưa và mùa khô. Mùa khô đã chang chang nắng nhưng mùa mưa cũng nắng mưa đan xen, chợt mưa, chợt nắng. Dù có mùa mưa, mùa khô nhưng mùa nào cũng nắng nóng. Mưa đã ồn ào, nắng lại càng nồng nàn, không thể có không gian sâu lắng và tĩnh lặng của Ao thu lạnh lẽo nước trong veo.
Xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một không gian tâm linh, mỗi mùa một thế hiệu tình cảm. Mùa xuân náo nức. Mùa hạ khắc khoải. Mùa thu bâng khuâng. Mùa đông hiu hắt. Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Bâng khuâng quá! Bâng khuâng vì không gian yên tĩnh đến hoang vắng! Không có gì khuấy động nước ao mới trong veo đến thế! Những gì là vẩn, là đục đã chìm xuống, lắng lại cả rồi! Những gì khuấy động trong lòng cũng đã chìm xuống, lắng lại cảrồi nên mới có thể Việc thế nghe qua chỉ mỉm cười! Mùa thu của đất trời nhưng cũng là mùa thu của tâm hồn, mùa thu của cuộc đời Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến nhìn mùa thu của đất trời cũng là nhìn vào mùa thu của hồn mình, mùa thu của đời mình.
Mùa thu ấy yên tĩnh lắm, thanh thản lắm! Thuyền chỉ một chiếc thôi chứ không phải là hai, ba để mà xôn xao đối đáp. Phần động cũng chỉ động ở mức thấp nhất. Mặt nước chỉ hơi gợn. Chiếc lá chỉ khẽ đưa. Những nhịp dao động này như những hơi thở cố nén xuống càng làm tăng thêm sự tĩnh mịch của không gian. Người ngồi câu là một người đã từng trải, đã vượt qua mọi sự nhốn nháo trường đời, đã rũ bỏ mọi bon chen ham hố chốn danh lợi mới có thể thanh thản và điềm tĩnh đến thế, mới có thể tựa gối buông cần im phắc đã lâu chẳng được gì vẫn không bận tâm, vẫn không sốt ruột. Xem như thế đủ biết người đi câu không phải vì mục đích kiếm cá mà chỉ là để được đắm mình vào thiên nhiên đất nước, đắm mình trong tiết thu sâu lắng và say đắm.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Đọc một câu đã thấy đìu hiu cô quạnh. Đọc cả bài càng thấy cô quạnh đìu hiu. Đây là mùa thu đã gần tàn, mùa đông đang gần đến. Trong tiết trời lạnh lẽo, se xắt, mọi vật như cố thu nhỏ lại còn vòm trời thì cứ rộng mãi ra. Cảnh vật hiện ra đều ở dạng đơn chiếc, đều thu vào cá thể. Một mảnh ao. Một chiếc thuyền. Một người ngồi câu lặng lẽ. Một chiếc lá khẽ rơi. Con thuyền bé tẻo teo, đến con sóng cũng chỉ hơi gợn tí. Mọi vật đều nhỏ nhoi, bé bỏng giữa cái mênh mông quạnh vắng của không gian cao rộng Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt và sâu hút Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Sau mùa xuân ồn ào của tuổi thơ bầy đàn, sau mùa hạ rạo rực của tuổi thanh niên lứa đôi mới đến mùa thu yên tĩnh của ý thức cá nhân. Đó là mùa thu của cuộc đời Nguyễn Khuyến.
Trong bài giới thiệu cho tập Thơ văn Nguyễn Khuyến của nhà xuất bản Văn Học in năm 1971, nhà thơ Xuân Diệu viết: Sao lắm ao thế? Cả huyện Bình Lục là xứ đồng chiêm rất trũng kia mà. Nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà bé tẻo teo. Xuân Diệu là người bình thơ hay nhất Việt Nam ở thời của ông. Với tất cả lòng kính trọng đối với một nhà thơ có tài và một người thẩm thơ tinh tế, tôi phải xin thưa lại rằng Xuân Diệu viết như thế là mới thấy phần vật chất, phần thể xác của câu thơ Nguyễn Khuyến, của cảnh sắc trong thơ Nguyễn Khuyến. Rõ ràng ao thì phải nhỏ. Nếu lớn đã gọi là hồ. Ở ao không thể có thuyền lớn. Nhưng vấn đề không phải ở phần xác cụ thể, thô thiển đó. Trong không gian đất trời bâng khuâng cô quạnh của mùa thu, trong cõi lòng yên tĩnh, sâu lắng của Nguyễn Khuyến, dù có chiếc thuyền lớn có sức chở hàng nghìn tấn đi nữa thì nó cũng chỉ bé tẻo teo mà thôi!
Cô quạnh, yên tĩnh, sâu lắng của không gian mùa thu. Cô quạnh, yên tĩnh, sâu lắng tự trong lòng người tựa gối buông cần:
Đời loạn đi về như hạc độc
Tuổi già hình bóng tựa mây côi!
Cõi lòng Nguyễn Khuyến trong mùa thu đất nước, trong mùa thu cuộc đời ông đấy! Đọc câu thơ Nguyễn Khuyến viết về cõi lòng mình càng thấy bóng ông đơn độc mà lồng lộng trong mùa thu Việt Nam. Mùa thu ở làng quê Việt Nam thật đồng điệu với cõi lòng Nguyễn Khuyến. Ta mới hiểu vì sao Nguyễn Khuyến có cả thơ về mùa xuân, mùa hè, mùa đông nhưng thơ mùa thu của ông nhiều hơn cả, hay hơn cả. Nguyễn Khuyến là một mùa thu Việt Nam cô quạnh và se buồn. Mùa thu ấy đã trở thành cổ điển và bất tử trong văn chương Việt Nam.
Bây giờ mỗi khi nghĩ đến Nguyễn Khuyến tôi vẫn hình dung ra một ông già ôm cần câu ngồi bó gối trên chiếc thuyền nan mỏng manh như một chiếc lá đậu chếch trên mặt nước ao lặng lẽ. Lòng thuyền sau lưng ông già không có một con cá nào, cũng chẳng hề có giỏ đựng cá, chỉ có mấy chiếc lá vàng rụng xuống đó tự bao giờ, mặt lá vẫn còn láng bóng, vàng hoe. Mấy chiếc lá vàng nhắc ta biết mùa thu đã về. Mấy chiếc lá vàng cũng cho ta biết rằng ông ngồi đó đã lâu lắm rồi. Và ông còn ngồi đó không biết đến bao giờ nữa.
Bóng Nguyễn Khuyến cứ lồng lộng trong mọi mùa thu buồn Việt Nam ở cái thuở nhân dân chưa được làm chủ đất nước của mình, chưa được làm chủ vận mệnh của chính mình. Ông ngồi đó có u buồn nhưng thật điềm tĩnh bởi ông hiểu và tin ở đất nước này, nhân dân này. Ông là phần yên tĩnh của đất nước đang trong cơn xáo động, vật vã quyết liệt. Cõi lòng yên tĩnh đến thế, tâm hồn cao cả sáng trong đến thế Nguyễn Khuyến mới có thể chối bỏ chức quan trông coi viện Sử trong cung đình nhà Nguyễn để trở về với Thu điếu, với Khổ nhiệt, với Hung niên. . . , trở về với cuộc sống gian nan vất vả của người dân thường để giữ cho mình vẫn còn là con người Việt Nam chân chính, được yêu đất nước của mình, được yêu nhân dân của mình và được sống giữa tình yêu của nhân dân:
Chú Đáo làng bên lên với tớ
Ông Từ xóm chợ lại cùng ta.