Dàn ý cảm nhận Bình Ngô Đại Cáo hay nhất
1. Mở bài
- Giới thiệu chung về tác phẩm Bình Ngô đại cáo
- Nêu cảm xúc và suy nghĩ chung về tác phẩm
2.Thân bài
a) Cảm nhận về phần đầu tác phẩm: Nguyễn Trãi nêu ra luận đề chính nghĩa, tư tưởng nhân nghĩa
- Mệnh đề tư tưởng nhân nghĩa:
+ "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân": Cần phải bảo vệ cuộc sống cho nhân dân, cho dân được sống trong thanh bình, hạnh phúc, yên ổn làm ăn
+ "Quân điếu phạt trước lo trừ bạo": Xuất phát từ điển cố trong kinh thư, là bậc quân vương thì phải tiêu trừ tham tàn bạo ngược, trừ hại cho dân
=> Quan điểm mới mẻ và tiến bộ: Nhân nghĩa là yêu nước, thương dân, là yêu hòa bình
- Khẳng định sự tồn tại có độc lập chủ quyền của Đại Việt qua năm yếu tố: Có nền văn hiến lâu đời, có cương vực lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán riêng, có truyền thống lịch sử riêng, chủ quyền riêng.
+ Các từ ngữ: "Từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác" => Mang sắc thái khẳng định nhằm nhấn mạnh chân lí không dời đổi là nước Đại Việt ta là đất nước có chủ quyền độc lập.
=> Nguyễn Trãi hoàn thiện quan niệm về một quốc gia, dân tộc
b) Cảm nhận về phần hai tác phẩm: Bản cáo trạng về tội ác của giặc Minh
Tác giả đứng trên lập trường của dân tộc, lập trường nhân nghĩa để tố cáo sự tàn bạo của kẻ thù
- Tố cáo âm mưu cướp nước của giặc Minh: Mượn cớ "phù Trần diệt Hồ", "nhân", "thừa cơ"
- Tội ác man rợn của kẻ thù:
+ Hành động diệt chủng tàn bạo: "Nướng dân đen... hầm tai vạ"
+ Hủy hoại môi trường sống: "nặng thuế khóa... đầm núi", "tàn hại... cây cỏ"
+ Coi người dân như những công cụ để phục dịch, vơ vét sản vật: "Người bị ép... mò ngọc"; "Kẻ... tìm vàng"
=> Giặc Minh đã triệt tiêu toàn bộ đường sống của người dân và tội ác của chúng là không thể dung tha "Ai bảo thần nhân chịu được"
- Nghệ thuật đặc sắc trong khổ thơ:
+ Nghệ thuật tương phản, đối lập giữa nhân dân với kẻ thù: Nhân dân nheo nhóc góa bụa, lao dịch vất vả còn quân thù "Thằng há miệng... chưa chán".
+ Sử dụng hình tượng gợi tả, gợi cảm "trúc Nam Sơn", "nước Đông Hải" - những cái vô cùng vô tận của tự nhiên để diễn tả tội ác của giặc
+ Giọng văn khi thống thiết, đau xót, khi đanh thép kết tội kẻ thù.
c) Cảm nhận về đoạn thơ tái hiện lại quá trình chinh phạt của nghĩa quân Lam Sơn chống kẻ thù
* Giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa:
- Phía quân thù:
+ Lực lượng đông đảo
+ "hung đồ ngang dọc", thỏa sức tác oai tác quái, phô trương thanh thế
- Phía quân ta:
+ Lực lượng mỏng, yếu
+ Thiếu người tài ra giúp nước "Tuấn kiệt... lá mùa thu", thiếu quân lính, thiếu lương thực
+ Thứ duy nhất có là lòng yêu nước, lòng căm thù quân giặc sâu sắc "Tấm lòng cứu nước... phía tả"
=> Buổi đầu chống thù của nghĩa quân Lam Sơn vô cùng khó khăn, gian khổ nhưng chúng ta có tinh thần kiên cường, bất khuất, đoàn kết "nhân dân bốn bể một nhà"...
* Vai trò của người lãnh đạo Lê Lợi vô cùng quan trọng:
- Lý tưởng cao đẹp
- Lòng căm thù sâu sắc
- Lòng quyết tâm, coi trọng nhân tài, coi trọng vai trò của nhân dân
- Khả năng thu phục lòng người, tài mưu lược hơn người
* Giai đoạn phản công quyết liệt và giành chiến thắng vẻ vang:
- Tiến đánh các vị trí khác nhau để giành lại các cứ điểm quan trọng: Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều, Tốt Động...
- Kết quả trận chiến:
+ Quân ta: Càng đánh lại càng hăng, lần lượt giành thắng lợi ở các trận chiến, thừa thắng xông lên
+ Quân giặc: Liên tiếp bại trận phải bỏ chạy, "thây chất đầy nội", "kẻ bêu đầu, kẻ bỏ mạng...", quân sĩ tan tác, tinh thần sa sút, ngoan cố phản công cầu chi viện nhưng bị ta đánh cho tơi bời...
- Nghệ thuật trong đoạn thơ này:
+ Nghệ thuật miêu tả giàu chất anh hùng ca
+ Sử dụng hình tượng đo bằng sự hùng vĩ, rộng lớn của thiên nhiên
+ Sử dụng nhiều động từ, tính từ
+ Câu văn dài ngắn linh hoạt, nhịp điệu nhanh chậm rõ ràng.
d) Cảm nhận về đoạn cuối của tác phẩm: Tuyên bố chiến quả và khẳng định sức mạnh chính nghĩa
- Giọng văn trở nên trầm lắng tuyên bố chiến thắng, khẳng định nền độc lập dân tộc: "Xã tắc từ đây vững bền... đổi mới"
- Niềm tin về một tương lai tươi sáng: Đất nước bước vào kỉ nguyên mới
- Bài học lịch sử: Để vận nước được lâu bền, phải lấy dân làm gốc; lấy tư tưởng nhân nghĩa làm đầu, phải tuân theo "thiên mệnh"; ghi nhớ công lao của cha ông đã hi sinh cho Tổ quốc....
3. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị của toàn tác phẩm trong nền văn học dân tộc
- Nêu suy nghĩ, cảm xúc của bản thân.
Cảm nhận tác phẩm Bình ngô Đại Cáo hay nhất 1
Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo dưới hai nguồn cảm hứng: cảm hứng chính trị và cảm hứng sáng tác. Cảm hứng chính trị đem đến cho lịch sử dân tộc bản tuyên ngôn độc lập đầy ý nghĩa. Cảm hứng sáng tác đưa tới lịch sử văn học nước nhà một kiệt tác văn chương. Hoà quyện cả hai nguồn cảm hứng, dân tộc Việt Nam có Bình Ngô đại cáo – áng thiên cổ hùng văn (bài văn hùng tráng của muôn đời). Phân tích Bình Ngô đại cáo xuất phát từ cảm hứng sáng tác của tác giả, chúng ta sẽ nêu bật được những giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của tác phẩm.
Cảm hứng về chính nghĩa thể hiện ở hai dạng: nhận thức sâu sắc về nguyên lí chính nghĩa và thái độ khẳng định sức mạnh của nguyên lí đó.
Mở đầu Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi nêu nguyên lí làm chỗ dựa, làm căn cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài Cáo.
Trong nguyên lí chính nghĩa của Nguyễn Trãi, chúng ta thấy có hai nội dung chính được nêu lên: Nguyên lí nhân nghĩa, một nguyên lí có tính chất chung của các dân tộc, của nhiều thời đại; Chân lý về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt đã được chứng minh bằng lịch sử thực tiễn lịch sử.
Trước hết, Nguyễn Trãi nêu nguyên lí nhân nghĩa. Đây là nguyên lý có tính chất phổ biến, mặc nhiên thừa nhận thời bấy giờ;
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nguyên lí nhân nghĩa Nguyễn Trãi nêu ở đây là một tiền đề có tính chất tiên nghiệm bởi tiền đề này có nguồn gốc từ phạm trù nhân nghĩa của nho giáo. Khổng Tử nói tới chữ nhân, Mạnh Tử nói tới chữ nghĩa. Nhân nghĩa được nhiều người giải thích ; cách nói, cách hiểu đôi khi khác nhau nhưng nhìn chung mọi người đều thừa nhận tình thương và đạo lí, nhân nghĩa là yên dân trừ bạo, tức là tiêu trừ tham tàn bạo ngược, bảo vệ cuộc sống của dân. Là một trí thức nho giáo, nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cũng bao hàm lẽ đó. Nhưng ở bài Cáo, tác giả khai thác sâu khía cạnh nội dung nhân nghĩa có lợi cho dân tộc: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Việc đưa một tiền đề tiên nghiệm như vậy, đối với tâm lí con người thời bấy giờ là có tính thuyết phục cao. Bởi lẽ thời trung đại, ở Việt Nam, Trung Quốc và nhiều nước phương Đông, tư tưởng nhân nghĩa là một chân lí mặc nhiên được thừa nhận. Tuy nhiên lại phải nhấn mạnh, khi đưa tiền đề tiên nghiệm, Nguyễn Trãi đã biết chắt lọc lấy cái hạt nhân cơ bản, tích cực:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
Trong hai câu mở đầu, Nguyễn Trãi đã xác định mục đích, nội dung của việc làm nhân nghĩa: chủ yếu để yên dân, trước nhất là trừ bạo.
Điều đáng nói hơn nữa là trong khi biết chắt lọc lấy cái hạt nhân cơ bản, tích cực của tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã đem đến một nội dung mới, lấy ra từ thực tiễn dân tộc để đưa vào tiền đề có tính chất tiên nghiệm: nhân nghĩa phải gắn liền với chống xâm lược. Nội dung này trong quan niệm Khổng, Mạnh và Nho gia Trung Quốc hầu như không có. Nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa, có như vậy mới bóc trần luận điệu nhân nghĩa mới phân định rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc xâm lược là phi nghĩa: Nước mắt nhân việc nhà Hồ trái đạo, mượn cái tiếng thương dán đánh kè có tội, thật ra là làm việc bạo tàn, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta ….Nhân nghĩa mà làm như thế ư?
Dân tộc ta chiến đấu chống xâm lược là nhân nghĩa, là phù hợp với nguyên lí chính nghĩa thì sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc Việt Nam là một chân lý khách quan phù hợp với nguyên lí đó.
Sau khi nêu nguyên lí nhân nghĩa, tác giả nêu chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt.
Nếu nhân nghĩa là tiền đề có tính chất tiên nghiệm thì chân lý về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt lại có cơ sở chắc chắn từ thực tiễn lịch sử:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Bản dịch dã cố lột tả bản chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước Đại Việt tồn tại độc lập bằng các từ: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác (Nguyên văn: duy ngã, thực vi, kí thù, diệc dị).
Nguyễn Trãi đã đưa ra những yếu tố căn bản để xác định độc lập, chủ quyền của dân tộc ; cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, nền văn hiến lâu đời, và thêm nữa là lịch sử riêng, chế độ riêng, với hào kiệt không bao giờ thiếu.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bèn làm đế một phương Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có
Những thực tế khách quan mà Nguyễn Trãi đưa ra là chân lý không thể phủ nhận. Khi nêu chân lí khách quan, đồng thời Nguyễn Trãi đã phát biểu một cách hoàn chỉnh quan niệm của mình về quốc gia, dân tộc. Người đời sau vẫn thường xem đoạn trên là tiêu biểu và kết tinh học thuyết về quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi. So với thời Lý thường Kiệt, học thuyết đó phát triển cao hơn bởi tính toàn diện và sâu sắc của nó. Toàn diện về ý thức vì dân tộc trong Nam quốc sơn hà được xác định trên hai yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền, còn đến Bình Ngô đại cáo, ba yếu tố nữa được bổ sung văn hiến, phong tục tập quán, lịch sử. Sâu sắc vì trong quan niệm về dân tộc, Nguyễn Trãi đã ý thức được văn hiến là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân để xác định dân tộc. Vả chăng sự sâu sắc của Nguyễn Trãi cũng thể hiện ở chỗ: điều mà kẻ xâm lược luôn tim cách phủ định (văn hiến nước Nam) thì chính lại là thực tế, tồn tại của chân lý khách quan. So với chúng ta ngày nay, học thuyết đó rất gần gũi và vẫn còn giá trị thật sự.
Nêu chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập, cổ chủ quyền của dân tộc Đại Việt, để tăng thêm sức thuyết phục, Nguyễn Trãi đã dùng biện pháp so sánh: so sánh ta với Trung Quốc, đặt ta ngang hàng với Trung Quốc, ngang hàng về trình độ chính trị, tổ chức chế độ, quản lý quốc gia (Triệu, Đinh, Lý, Trần ngang hàng với Hán, Đường, tống, Nguyên).
Trong bài thơ Nam quốc sơn hà, tác giả đã thể hiện một ý thức dân tộc mạnh mẽ và sâu sắc qua từ Đế. Ở Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy niềm tự hào dân tộc mạnh mẽ và sâu sắc đố: Các đế nhất phương. Nhiều bản dịch trước đây dịch là làm chủ – hùng cứ thì nay đều bỏ mà giữ nguyên chữ Đế để giữ nguyên giá trị tác phẩm. Rất tiếc bản dịch Bình Ngô đại cáo in trong sách giáo khoa 10 lại vẫn theo cách dịch cũ mỗi bên hùng cứ một phương (hùng cứ và làm đế là rất khác nhau cả về tính hợp pháp và thính quyền lực).
Trong Nam quốc sơn hà, khẳng định, Nam đế, Lý Thường Kiệt nhằm mục đích đối lập với Bắc đế. Mục đích đó dù sao vẫn chưa được phát biểu bằng cách so sánh trực tiếp như Nguyễn Trãi đã làm. Lí do là phải đến thời Nguyễn Trãi, sau khi đã có bốn thế kỷ giành độc lập, sau khi đã có những triều đại tồn tại ngang hàng (nếu không muốn nói là hơn vì Đại Việt luôn chiến thắng) với các triều đại phương Bắc thì Nguyễn Trãi mới có đủ tiền đề lịch sử để so sánh, chứng minh. Lại nữa, Lý Thường Kiệt khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc đã dựa vào thiên thư còn Nguyễn Trãi dựa vào lịch sử. Đó là bước tiến của tư tưởng thời đại nhưng đồng thời cũng là tầm cao của tư tưởng Ức Trai.
Nêu nguyên lí nhân nghĩa nêu chân lí khách quan, Nguyễn Trãi đã đưa ra những chứng minh đầy tính thuyết phục về sức mạnh của nhân nghĩa, của chân lý, nói chung lại là sức mạnh của chính nghĩa: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô, Ô Mã, kẻ bị giết, người bị bắt. Tác giả lấy chứng cớ còn ghi để chứng minh cho sức mạnh của chính nghĩa. Nhưng khi chọn những chứng cớ còn ghi về chiến công huy hoàng của dân tộc, về sự thất bại nhục nhã của kẻ thù thì cùng với việc khẳng định chân lý khách quan, chúng ta thấy được niềm tự hào dân tộc to lớn của tác giả. Cảm hứng về chính nghĩa tất yếu sẽ dẫn tới cảm hứng căm thù kẻ xâm lược, vì chúng là phi nghĩa và tàn bạo.
Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Cảm hứng về chính nghĩa trong Bình Ngô Đại Cáo cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 10 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10 và biết cách soạn bài lớp 10 các bài trong sách Văn tập 1 và tập 2. Đồng thời các dạng đề thi học kì 1 lớp 10, đề thi học kì 2 lớp 10 mới nhất cũng sẽ được chúng tôi cập nhật. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.
Cảm nhận tác phẩm Bình ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi 2
Bình Ngô đại cáo được mệnh danh là áng thiên cổ hùng văn nghìn đời còn vang mãi, là áng văn chính luận mẫu mực và hơn tất cả nó còn là bản tuyên ngôn độc lập đầy tự hào của dân tộc. Tác phẩm được Nguyễn Trãi theo lệnh Lê Lợi viết vào năm 1428, là tác phẩm văn học có giá trị to lớn, thể hiện lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, sự kiêu hùng dũng mãnh của nhân dân ta trong cuộc chiến chống quân Minh, đồng thời cũng phản ánh sự tàn bạo của quân thù khi giày xéo lên mảnh đất quê hương
Cả bài cáo chia làm 4 phần chính được đánh số số thứ tự, mỗi phần bao hàm một nội dung, nhưng bao quát nhất vẫn là tấm lòng yêu nước thật nồng nàn và sâu sắc, cùng ý chí tự cường của nhân dân ta.
Ở phần đầu tiên, Nguyễn Trãi đã nêu ra luận đề chính nghĩa, để khẳng định nền độc lập của dân tộc đã tồn tại từ hàng nghìn năm nay, đồng thời nêu lên tư tưởng nhân nghĩa. Những lý luận, luận điểm được Nguyễn Trãi đưa ra một cách thật xác đáng, có dẫn chứng cụ thể. Trước hết ở mệnh đề tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi cho rằng "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", cần phải bảo vệ cuộc sống của nhân dân, cho nhân dân được sống trong thanh bình hạnh phúc, yên ổn làm ăn. "Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", xuất phát từ điển cố trong kinh thư, là bậc quân vương thì phải tiêu trừ tham tàn bạo ngược, trừ hại cho dân. Từ đó, ta thấy được quan điểm mới mẻ và tiến bộ của Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là yêu nước, thương dân, là yêu hòa bình. Lần đầu tiên nhân dân được xuất hiện trong một bộ văn kiện quan trọng, tầm vóc lịch sử của dân tộc, đây là một bước tiến lớn trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có."
Tiếp đến, tác giả khẳng định sự tồn tại có độc lập chủ quyền của Đại Việt thông qua 5 yếu tố: Có nền văn hiến lâu đời, có cương vực lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán riêng, có truyền thống lịch sử riêng, chủ quyền riêng "mỗi bên xưng đế một phương". Nguyễn Trãi đã hoàn thiện quan niệm về một quốc gia, dân tộc, tiến một bước dài hẳn so bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên là Nam quốc sơn hà. Ông cũng sử dụng nhiều từ ngữ như: "Từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác", đây là những từ ngữ mang sắc thái khẳng định nhằm nhấn mạnh một chân lí không thể dời đổi là nước Đại Việt ta là đất nước có chủ quyền độc lập.
Sang đến đoạn thứ hai, Nguyễn Trãi đi vào vạch rõ những tội ác của giặc Minh, ông đứng trên lập trường của dân tộc, trên lập trường nhân nghĩa để tố cáo sự tàn bạo của kẻ thù. Trước hết, Nguyễn Trãi đứng trên lập trường dân tộc để tố cáo âm mưu cướp nước của giặc Minh, dùng những từ ngữ "nhân" "thừa cơ" để vạch trần luận điệu bịp bợm của nhà Minh "phù Trần diệt Hồ" để che mắt nhân dân ta, nhằm tràn sang xâm lược. Rồi Nguyễn Trãi lại đứng trên lập trường nhân bản, nhân nghĩa, đứng về quyền sống của người dân vô tội để tố cáo chủ trương cai trị phản nhân đạo của kẻ thù. Chúng đã hủy hoại cuộc sống của con người bằng hành động diệt chủng vô cùng tàn bạo "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Rồi còn hủy hoại cả môi trường sống "nặng thuế khóa sạch không đầm núi", "tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ". Chúng còn sử dụng người dân như là những công cụ để phục dịch, vơ vét sản vật "Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc", "Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng". Nhân dân vô tội đã hoàn toàn bị triệt tiêu đường sống, khổ không tả xiết, tội ác của quân Minh khiến trời không dung đất không tha. Câu "Ai bảo thần nhân chịu được?" như một câu hỏi, một lời tố cáo đầy căm phẫn với kẻ thù.
Nghệ thuật viết cáo trạng của Nguyễn Trãi ở đây bao gồm nghệ thuật tương phản đối lập giữa nhân dân với kẻ thù, dân ta thì nheo nhóc, góa bụa, phải lao động phục dịch vất vả, lên chốn rừng sâu nước độc, còn quân thù thì "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán". Tác giả cũng sử dụng những hình tượng gợi tả và gợi cảm "trúc Nam Sơn" và "nước Đông Hải" dùng cái vô cùng của tự nhiên để miêu tả những tội ác nhiều vô số kể của quân Minh. Giọng văn thống thiết đau đớn xót xa khi nói về thảm cảnh của con dân, có lúc lại đanh thép khi kết tội kẻ thù.
Tiếp tục soi chân lý vào thực tiễn tác giả lại nói về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược, kể lại quá trình chinh phạt đầy gian khổ của nghĩa quân từ buổi đầu đến khi chiến thắng. Giai đoạn đầu đầy cuộc khởi nghĩa bắt đầu với đầy khó khăn và thách thức. Phía quân thù đang mạnh, "hung đồ ngang dọc", thả sức tác oai tác quái, phô trương thanh thế, còn phía ta thì:
"Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc"
"Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi"
"Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội."
Chúng ta gần như thiếu tất cả, thiếu người tài, thiếu quân lính, thiếu lương thực, thứ có nhiều nhất ấy là tấm lòng yêu nước, lòng căm thù quân giặc sâu sắc "Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông/Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả". Từ đó, thấy được sự chênh lệch giữa ta và địch là rất lớn, khó khăn chồng chất lên nghĩa quân Lam Sơn, thế nhưng bằng tinh thần kiên cường, bất khuất nghĩa quân vẫn có thể vượt qua tất cả và đi tới thắng lợi. Đó là tấm lòng đoàn kết "nhân dân bốn bể một nhà", "tướng sĩ một lòng phụ tử", là bộ óc thông minh sáng tạo, lòng can trường dũng mãnh "Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh/Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều".
Trong đoạn thứ hai, Nguyễn Trãi còn đề cập đến vai trò của người lãnh tụ, người đóng vai trò nòng cốt lèo lái cuộc khởi nghĩa đó là Lê Lợi. Người anh hùng đã hội tụ đủ những yếu tố của một nhà lãnh tụ vĩ đại đó là: Lòng căm thù giặc sâu sắc "ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống", có lý tưởng cao đẹp, có lòng quyết tâm, coi trọng nhân tài, coi trọng vai trò của nhân dân biết tập hợp sức mạnh dân tộc. Ông còn có khả năng thu phục lòng người, tạo nên khối đoàn kết vững mạnh và một yếu tố không thể thiếu đó là tài mưu lược hơn người.
Từ giai đoạn đầu đầy khó khăn của cuộc khởi nghĩa nhưng với vai trò của người lãnh tụ kiệt xuất Lê Lợi, cuộc khởi nghĩa đã có nhiều chuyển biến tốt đẹp, bước vào giai đoạn phản công và giành thắng lợi. Ban đầu đó là nghĩa quân tiến đánh các vị trí khác nhau ở phía Bắc để giành lại các cứ điểm quan trọng bao gồm các trận: Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều, Tốt Động. Với sĩ khí không ngừng dâng cao "hăng lại càng hăng", ta liên tục thắng trận, thừa thắng xông lên, quân giặc liên tiếp bại trận phải bỏ chạy, nơi nơi thấy xác "thây chất đầy nội", kẻ "bêu đầu", kẻ"bỏ mạng",tướng giặc vô dụng, quân sĩ thì tan tác. Quân đội ta tuy thấy kẻ địch còn thoi thóp nhưng không hề đuổi cùng diệt tận mà vẫn tha cho con đường sống. Ấy thế mà chúng lại mưu tính chuyện phản công, cầu chi viện, thật ngoan cố hết sức. Chính điều đó đã dẫn đến những trận chặn đánh tiếp theo của nghĩa quân ta ở Chi Lăng, Mã An. Quân giặc có ý định đánh nhanh thắng nhanh, nhưng tinh thần giặc đã sa sút, lại gặp sĩ khí quân ta bừng bừng nên sớm phải thất bại, xin hàng. Nghệ thuật miêu tả giàu chất anh hùng ca, sử dụng những hình tượng đo bằng sự hùng vĩ, rộng lớn của thiên nhiên. Dùng nhiều động từ liên tiếp, tính từ ở mức độ tối đa để tạo thế tương phản của ta và địch, câu văn dài ngắn linh hoạt khiến cho nhịp điệu bài cáo nhanh chậm rõ ràng, tựa như tiếng ngựa phi, tiếng bước chân chạy hào hùng. Đọc mà tưởng như nhìn thấu cả cuộc chiến phong vân đổi dời.
Phần bốn là phần tuyên bố chiến quả và khẳng định sức mạnh chính nghĩa. Khác với giọng văn dồn dập, tiết tấu nhanh của đoạn 3, ở đây giọng văn lại mang sắc thái trầm lắng, như qua cơn mưa trời lại sáng, yên ả thanh bình. "Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới", tuyên bố chiến thắng, khẳng định nền độc lập dân tộc đã được giành lại, vận nước đang lên. Tựa như quẻ Càn, quẻ Khôn trong Kinh Dịch, tựa như quy luật của nhật nguyệt, đó là niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng. Từ đây, nước ta chính thức bước vào kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên độc lập vững bền sau hơn 20 năm sống trong cảnh nhọc nhằn. Từ đó, Nguyễn Trãi cũng rút ra những bài học lịch sử sâu sắc, từ quy luật của Càn, Khôn, quy luật của nhật nguyệt giúp ta liên tưởng đến vận mệnh của đất nước, cũng có lúc lên lúc xuống, có hưng thịnh thì cũng có lúc suy tàn. Để vận nước được lâu bền, ta phải lấy nhân dân làm gốc, lấy tư tưởng nhân nghĩa làm đầu, phải tuân theo "thiên mệnh", ghi nhớ công lao của cha ông đã hy sinh cho Tổ quốc, đừng vì sống trong cảnh thanh bình mà quên mất những ngày gian khó.
Bình Ngô đại cáo xứng đáng là bản thiên anh hùng ca bất tận, là áng thiên cổ hùng văn, bản tuyên ngôn độc lập xuất sắc lưu danh mãi muôn đời. Ở đó, thể hiện được những tư tưởng nhân nghĩa và tiến bộ của Nguyễn Trãi trong quan niệm về một quốc gia. Tác phẩm vừa là tuyên ngôn khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, đồng thời cũng là tuyên ngôn về quyền sống của con người, mà trước đây chưa từng một văn bản nào đề cập đến. Nhân dân ta đã được đẩy lên tầm cao mới đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành đất nước, đó là một quan điểm rất tiến bộ và xuất sắc trong nhận thức của đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi.
Giọng văn trong bài cáo hùng hồn, đĩnh đạc; lí lẽ sắc bén; cách diễn đạt sóng đôi, cân xứng của lối văn biến ngẫu đã khẳng định và ca ngợi tầm vóc lớn lao của Đại Việt, biểu hiện một ý chí tự cường cao độ. Phần đầu của văn bản đã góp phần thể hiện giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bản tuyên ngôn độc lập, áng thiên cổ hùng văn của dân tộc.