Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 1
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả
- Giới thiệu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
II. Thân bài
1. Phân tích khổ 1: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế.
- Bức tranh được hiện lên qua lời mời trong đó hàm chứa sự trách móc mà thân thiết:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
- Cảnh vật hiện lên qua vài nét phác họa nhẹ nhàng, duyên dáng, đầy ấn tượng của màu xanh như ngọc của ánh sáng tinh khôi buổi ban mai.
- Cuối cùng là nét chấm phá độc đáo tương phản giữa cái vuông vức của khuôn mặt chữ điền với chiếc lá trúc che ngang, gợi lên nét tinh nghịch mà dịu dàng, dễ thương vốn dĩ ở thôn quê.
2. Phân tích khổ 2: Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.
- Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng lay lắt buồn bã trong cảm giác chia lìa bằng hình thức thơ độc đáo: Gió theo lối gió / mây đường mây. Dòng sông như tấm gương ghi nhận hình ảnh chia lìa đó, nên buồn thiu, hoa bắp cúng lay lắt buồn thiu, chia sẻ với tâm trạng nhà thơ.
- Trăng chiếm một dung lượng khá lớn trong thơ Hàn Mặc Tử và ánh trăng thật kì lạ, khác thường. Ta từng gặp trong thơ của ông, hình ảnh:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
(Bẽn lẽn)
- Câu phiếm định: "thuyền ai?", rồi lại "bến sông trăng". Quả thật, đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong "Thi nhân Việt Nam": "Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh".
3. Phân tích khổ cuối: Cảnh vật, con người đều chìm sâu vào mộng ảo.
- Cõi lòng nhà thơ dường như chìm vào mộng tưởng (mơ khách đường xa). Bệnh tật cũng đã khiến nhà thơ rơi vào trạng thái buồn đau ảo giác (nhìn không ra, mờ nhân ảnh). Bởi vậy, con người cảnh vật tất cả đều nhòa mờ trong cô đơn, ngậm ngùi.
- Trong cô đơn, ngậm ngùi, trong mộng ảo đau thương, nhưng lòng nhà thơ vẫn cứ âm thầm muốn gởi đến con người, cuộc đời một thông điệp, nó như lời trần tình tội nghiệp:
Ai biết tình ai có đậm đà?
- Ta chưa thể quyết rằng cậu thơ ấy thể hiện tình yêu nước của Hàn Mặc Tử đến mức nào. Thế nhưng, chắc chắn rằng Hàn Mặc Tử rất yêu cuộc đời, rất yêu quê hương xứ sở. Ta cũng không ngờ trong tập Thơ Điên lại có những vần thơ đậm đà, chan chứa tình quê đến thế.
III. Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 2
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Hàn Mặc Tử là nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới.
- Bài thơ được rút ra từ tập Thơ Điên.
- Nội dung: Bài thơ là tình cảm hồi đáp mà Hàn Mặc Tử gửi cho Hoàng Thị Kim Cúc khi Hoàng Thị Kim Cúc gửi thư chúc ông chóng lành bệnh kèm một bức tranh phong cảnh.
- Bài thơ là sự đan xen hòa quyện giữa cảnh và tình nơi xứ Huế mộng mơ, nhẹ nhàng.
II. Thân bài:
Khổ 1: Cảnh thiên nhiên xứ Huế
Câu 1:
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Câu thơ là dấu chấm hỏi lửng, thể hiện nỗi lòng nhớ thương, băn khoăn
- Đó là lời mời thân thiện, gắn bó
- Là lời trách móc, giận hờn khéo léo, thiết tha
- Thể hiện thời gian đã lâu rồi tác giả chưa ghé thăm thôn Vỹ.
Câu 2,3:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt qua xanh như ngọc
- Cảnh vật thiên nhiên hiện lên thật đẹp, căng tràn sức sống, tươi xanh
- Cảnh vật mang trong mình vẻ đẹp thanh tao, dịu nhẹ
- Tạo cho người đọc một cảm giác sảng khoái, êm đềm, du dương, bay bổng
Câu 4:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
- Hai hình dạng đối lập: vuông vức mặt chữ điền với dáng vẻ manh mai, thanh tao của lá trúc
- Thể hiện duyên dáng, nhịp nhàng, e thẹn của những cô gái xinh xắn, tài sắc, phúc hậu của người con gái thôn quê.
Khổ 2: Bức tranh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng
- Vẻ đẹp của tạo hóa hiện lên với 2 màu sắc đan xen: cảnh đẹp nhưng lại buồn, mang dáng dấp sự chia lìa, lẻ loi: gió theo lối gió, mây đường mây.
- Cuộc chia lìa ấy ghi vào lòng sông những cung bậc thê lương: dòng nước buồn thiu; hoa bắp lay lắt, nổi trôi.
- Cảnh vật chỉ là bức màn biểu hiện cho lòng người “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh thật đẹp còn người lại chẳng thể về để thưởng thức thì cảnh liệu rằng còn đẹp nữa hay chăng. Vỹ Dạ nhớ anh, lòng em cũng nhớ anh, mong anh.
Câu 3.4:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Trăng vốn là hình ảnh quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử. Trăng là nơi để con người ta gửi gắm tình cảm, chút tâm tư sâu lắng. Thế nhưng o đây lại là “bến sông trăng”. Đây vừa là hình ảnh tả thực- ánh trăng chiếu xuống mặt nước, lan tỏa trên mặt nước vừa là hình ảnh biểu trưng- sự vô định (thuyền ai), mênh mông dạt dòa. Nỗi niềm tâm tư của tác giả như lan tỏa, thấm sâu, rộng lớn vô ngàn. Trong người lúc này là sự rưng rưng, xót xa, man mác đến nhói lòng.
- Mở rộng: Đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong “Thi nhân Việt Nam” : “Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”.
Khổ 3: Mộng ảo của tâm hồn thi nhân.
- Khổ thơ là lời bộc bạch trần tình tả thực về bệnh tình của tác giả: bệnh tình của người khiến hạn chế về thị giác: nhìn không ra, mờ nhân ảnh. Từ đó, khiến cho con người rơi vào cô đơn; ngậm ngùi.
- Thể hiện những mộng tưởng đơn giản: mở khách đường xa khách đường xa, tác giả mong mình có thể được đến thôn để Vỹ thưởng thức cảnh và gặp người thôn Vỹ, để đáp lại tình cảm trân quý từ người bạn của mình.
- Áo em trắng quá nhìn không ra:
+ Hình ảnh người phụ nữ thướt tha uyển chuyển trong tà áo dài xứ Huế.
+ Ánh mắt anh do sự ảnh hưởng sức khỏe đã không thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp của em nhưng vẫn cảm nhận được hình bóng và dáng vẻ dịu dàng của em.
Ở đây sương khói mở nhân ảnh: Quang cảnh thiên nhiên nơi tác giả sinh sống. Với tác giả mọi thứ giờ đây chỉ là ảo ảnh, mơ hồ, không hiện diện được rõ nét nữa.
Ai biết tình ai có đậm đà: Dù trong bệnh tật đau đớn, khó khăn, cô đơn nhưng trái tim tác giả vẫn đong đầy yêu thương: đó là tình yêu quê hương đất nước, xứ xở và tình cảm mãnh liệt gửi gắm đến em.
Tình cảm ấy lúc nào cũng dạt dào, đậm đà, say mê.
III. Kết bài
Nghệ thuật:
- Chuyển mạch thơ linh hoạt: không theo sự vận động của không gian thời gian nhưng nhất quán và đồng điệu với tâm tư lòng người.
- Hình ảnh thơ giàu sức gợi, độc đáo, sử dụng những gam màu nóng nhẹ đan xen nhẹ nhàng: mướt quá, xanh, nắng,…=> Tạo nên cõi trần gian hư thực mơ mộng, bay bổng và tuyệt đẹp.
- Các câu hỏi tu từ cuối mỗi dòng thơ, mang nỗi niềm da diết khắc khoải.
- Nhịp điệu thơ không theo một quy luật nào mà bị chi phối bởi dòng chảy cảm xúc và nội tâm chính tác giả.
=> Thể hiện sâu sắc nỗi lòng tác giả muốn gửi gắm.
Nội dung:
- Thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước của tác giả.
- Tình yêu mãnh liệt, nồng nàn dành cho người bạn Hoàng Thị Kim Cúc.
- Khát khao cháy bỏng, mãnh liệt được sống để cảm nhận và tận hưởng cho kì hết những cái đẹp về cảnh và người nơi trần thế.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 3
1. Cuộc hành hương về Vĩ Dạ
a) Trong các nhà thơ mới, Hàn Mặc Tử phải là người bất hạnh nhất, lạ nhất và phức tạp nhất. Vì thế cũng bí ẩn nhất. Có ai định tranh chấp với Tử những cái "nhất" ấy không? Ví Tử với ngôi sao chổi, Chế Lan Viên đã thật có lí. Và cũng như thái độ dành cho một ngôi sao chổi quá lạ, bao ống kính thiên văn đã đua nhau chĩa về Hàn Mặc Tử. Tiếc thay, cái vừng sáng vừa trong trẻo, vừa chói lói, vừa ma quái phát ra từ ngôi sao có sức cuốn hút bao nhiêu cũng có sức xô đẩy bấy nhiêu. Đến nay đã có bao cuộc thăm dò, thám hiểm. Với một hiện tượng "bấn loạn" nhường này, ướm đi ướm lại, người ta thấy tiện nhất là xếp vào loại siêu: nào siêu thực, siêu thức, nào siêu thoát v.v...
Vậy mà, nào đã thoát! Rốt cuộc, lơ lửng treo phía trước vẫn cứ còn đó câu hỏi: Hàn Mặc Tử, anh là ai?
Ngày trước, cuộc xung đột "bách gia bách ý" chỉ xảy ra với Hàn Mặc Tử, nói chung. "Đây thôn Vĩ Dạ" vẫn hưởng riêng một không khí thái bình. Phải đến khi được mạnh dạn tuyển vào chương trình phổ thông cải cách, sóng gió mới ập đến cái thôn Vĩ bé bỏng của Tử. Thế mới biết, chả hồng nhan nào thoát khỏi truân chuyên! Có người hạ bệ bằng cách chụp xuống một lí lịch đen tối. Người khác đã đem tới một cái bóng đè. Không ít người thẳng tay khai trừ "Đây thôn Vĩ Dạ" khỏi danh sách những kiệt tác thuộc phần tinh chất của hồn thơ Tử...
Ngay những ý kiến đồng lòng tôn vinh thi phẩm này cũng rất phân hoá. Người si mê thấy đó chỉ là tỏ tình (với Hoàng Cúc). Người vội vàng bảo rằng tả cảnh (cảnh Huế và người Huế). Người khôn ngoan thì làm một gạch nối: tình yêu - tình quê. Kẻ bảo hướng ngoại. Người khăng khăng hướng nội. Lắm người dựa hẳn vào mối tình Hoàng Cúc như một bảo bối để tham chiến. Người khác lại dẹp béng mảng tiểu sử với cái xuất xứ không ít quan trọng ấy sang bên để chỉ đột phá vào văn bản không thôi. Người khác nữa lại hoàn toàn "dùng ngoài hiểu trong, dùng chung hiểu riêng", ví như dùng lí sự chung chung về cái tôi lãng mạn và tâm trạng lãng mạn để áp đặt vào một trường hợp rất riêng này... Tôi tin Hàn Mặc Tử không bác bỏ hẳn những cực đoan ấy. Nếu sống lại, thi nhân sẽ mỉm cười độ lượng với mọi ý kiến vì quá yêu Vĩ Dạ bằng những cách riêng tây mà nghiêng lệch thôi. Ở toàn thể là thế. Mà ở chi tiết cũng không phải là ít chuyện. Ngay một câu "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" cũng gây tranh cãi.
Cái màn "sương khói" làm "mờ nhân ảnh" là ở Vĩ Dạ hay thuộc chốn người thi sĩ đang chịu bất hạnh, cũng gây bất đồng... Hèn chi, hai tờ báo nhiều liên quan đến nhà trường và văn chương là Giáo dục & Thời đại và Văn nghệ được phen chịu trận. Dù muốn hay không, nó cũng đã thành một "vụ" thực sự thời bấy giờ. Đến nay, khó mà nói các ý kiến đã chịu nhau. Tình hình xem ra khá mệt mỏi, khó đặt được dấu chấm hết. Hai báo đành thổi còi thu quân với vài lời tiểu kết nghiêng về "điểm danh". Một độ sau, nhà giáo-nhà nghiên cứu Văn Tâm khi soạn cuốn Giảng văn văn học lãng mạn (NXB Giáo Dục, 1991) đã điểm sâu hơn.
Rồi nhà biên soạn này cũng nhanh chóng trở thành một ý kiến thêm vào cái danh sách dài dài đó. Cuộc hành hương về Vĩ Dạ lại tiếp tục đua chen. Khói hương và cả khói lửa, vì thế, tràn lan ra nhiều báo khác, sang tận tờ Tập văn thành đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam [1], động đến cả những người ở Hoa Kỳ, Canada...
Chắc là hiếm có bài thơ nào trong trẻo thế mà cũng bí ẩn đến thế. Xem ra, cái chúng ta "gỡ gạc" được mới thuộc phần "dễ dãi" nhất ở đó thôi!
b) Phải nói ngay rằng: coi một tác phẩm đã gắn làm một với cái tên Hàn Mặc Tử lại không tiêu biểu cho tinh chất của hồn thơ Tử, thì kì thật. Mỗi bài thơ hay, nhất là những tuyệt tác, bao giờ cũng có "mạng vi mạch" nối với tinh hoa tinh huyết của hồn thơ ấy. Có điều nó đã được dò tìm ra hay chưa thôi. Thậm chí, một hệ thống kiến giải mới về hiện tượng Hàn Mặc Tử sẽ khó được coi là thuyết phục, một khi chưa thử sức ở "Đây thôn Vĩ Dạ". Đã đến lúc phải lần ra "mạng vi mạch" của thi phẩm cùng tinh hoa tinh huyết của thi sĩ. Trong cảm thụ nghệ thuật, mọi việc khác không thể thay thế việc dùng trực cảm thâm nhập vào bản thân tác phẩm. Nhưng việc độc tôn một chiều với nguyên tắc ấy ở đây đã tỏ ra không mấy hi vọng, nếu không nói là trở nên kém thiêng. Thôn Vĩ Dạ dường vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt", cự tuyệt ngay cả những linh khiếu vốn cả tin vào một trực giác đơn thuần. Vĩ Dạ vẫn điềm nhiên giấu kín ngay trong sự trong trẻo kia bao bí ẩn của nó. Muốn đến đúng chỗ giấu vàng của Thôn Vĩ, trực cảm nhất thiết phải được trang bị thêm một "sơ đồ chỉ dẫn", một chìa khoá. Những thứ này, tiếc rằng, cũng giấu mình khắp trong thơ Hàn Mặc Tử. Nói cách khác, mỗi tác phẩm sống trong đời như một sinh mệnh riêng, tự lập. Có một thân phận riêng, một giá trị riêng, tự thân. Đọc văn, căn cứ tin cậy nhất, trước sau, vẫn là văn bản tác phẩm. Đó là một nguyên tắc. Và nhiều khi không biết gì về tác giả, vẫn có thể cảm nhận được tác phẩm. Nhưng hiểu và hiểu thấu đáo là hai cấp độ. Không am tường tác giả thì khó mà thấu đáo tác phẩm. Trường hợp trong trẻo mà đầy bí ẩn như "Đây thôn Vĩ Dạ", với một vị thân sinh đầy phức tạp như Hàn Mặc Tử càng cần phải thế. Nghĩa là: thiếu cái nhìn liên văn bản, cùng những khám phá về thân phận, tư tưởng và thi pháp của tác giả sẽ khó giúp ta soi sáng được thi phẩm này.
Trong nhiều điều cần cho sự soi sáng thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, không thể không nói đến một tình yêu tuyệt vọng, lối Thơ Điên và lớp trầm tích những biểu tượng và ngôn ngữ thuộc hệ thống thi pháp của thi sĩ này. Nếu tình yêu tuyệt vọng quyết định đến điệu tình cảm chung, thì lối Thơ Điên quyết định trình tự cấu tứ, cơ cấu không gian. Trong khi lớp biểu tượng và ngôn ngữ ở tầng trầm tích lại quyết định đến hệ thống hình tượng, hình ảnh của thi phẩm đặc sắc này.
2. Vĩ Dạ trong Đau thương và Thơ điên
a) Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn phải thấy rằng tập thơ quan trọng nhất của thi sĩ chính là Đau thương. Thực ra ban đầu Hàn Mặc Tử đã đặt cho nó một tên khác, dễ sợ hơn: Thơ điên. Hai cái tên có thể hoán cải cho nhau, là một điều đáng để cho ta lưu ý. Nó nói rằng Tử ý thức rất sâu sắc về mình. Thì Đau thương và Điên chính là Hàn Mặc Tử vậy.
Đau thương là cội nguồn sáng tạo, còn Điên là hình thức của sáng tạo ấy. Đọc ra điều này không khó, nhưng nhận diện bản chất của Đau thương lại không dễ. Chả thế mà người ta cứ đánh đồng "đau đớn thân xác" với "đau khổ tinh thần", và cứ coi Điên chỉ giản đơn là một trạng thái bệnh lí.
Ngẫm tới cùng Đau thương chính là một tình yêu tuyệt vọng. Ta thường tự cầm tù trong định kiến về tuyệt vọng. Thực ra, tuyệt vọng chả như ta vẫn tưởng. Không phải nỗi tuyệt vọng nào cũng làm cho con người gục ngã. Còn có nỗi tuyệt vọng làm tình yêu thăng hoa. Tuyệt vọng có thể chấm dứt hi vọng, nhưng không chấm dứt tình yêu. Càng mãnh liệt càng tuyệt vọng, càng tuyệt vọng càng mãnh liệt. Con người ta đi đến tuyệt vọng có thể vì những nguyên uỷ rất riêng tây kín khuất, đôi khi ta bất khả tri (một thiếu hụt, tổn thương, một mất mát nào đó trong tâm thể, chẳng hạn!). Hàn Mặc Tử có lẽ thuộc số đó. Ai cũng biết chết là một cuộc chia lìa tất yếu và đáng sợ. Sống có nghĩa là đang chia lìa. Nhưng, may thay, hết thảy chúng ta đều có khả năng quên đi mà vui sống. Còn ở những người như Tử lại không được trời phú cho cái khả năng quên. Càng mắc những bệnh trầm trọng lại càng ám ảnh. Sống trong dự cảm khôn nguôi về thời khắc chia lìa, Tử thường tự đẩy mình (giời xô đẩy thì đúng hơn) đến điểm chót cùng của tuyệt vọng để nuối đời, níu đời. Nói khác đi, Tử làm thơ bên miệng vực của nỗi chết. Không ai yêu sống, yêu đời hơn một người sắp phải lìa bỏ cuộc sống! Thơ Tử là tiếng nói của niềm yêu ấy. Và trong lăng kính lạ lùng của niềm yêu ấy, cảnh sắc trần gian này thường ánh lên những vẻ khác thường: lộng lẫy, rạng rỡ, thanh khiết hơn bao giờ hết. Mà càng đẹp, càng tuyệt vọng ; càng tuyệt vọng, lại càng đẹp! Thế là Đau thương chứ sao! Đau thương không chỉ là cung bậc mà còn chính là dạng thức cảm xúc đặc thù của Hàn Mặc Tử. Mỗi lần cầm bút khác nào một lần nói lời tuyệt mệnh, lời nguyện cuối. Cho nên mỗi lời thơ Tử thực là một lời bày tỏ da diết đến đau đớn của một tình yêu tuyệt vọng. Và như thế, điều oái oăm đã hình thành: Tuyệt vọng đã trở thành một cảm quan, một cách thế yêu đời đặc biệt của Hàn Mặc Tử.
Có thể nói, đó là nghịch lí đau xót của một thân phận. Và nghịch lí này lại cũng là cấu trúc của tiếng nói trữ tình Hàn Mặc Tử: niềm yêu là một nỗi đau, mỗi vẻ đẹp là một sự tuyệt vọng, cảnh sắc lộng lẫy chỉ là phía sáng của tấm tình tuyệt vọng. Ý thức rõ về điều này, nên trong bài thơ viết cho Thanh Huy - một người tình trong mộng - Tử đã tự họa bằng cặp hình ảnh nghịch lí trớ trêu: Mắt mờ lệ ở sau hàng chữ gấm. Thơ Tử là thế! Hàng chữ gấm (trong trẻo, tươi sáng) chỉ là phía thấy được của đôi mắt mờ lệ (u ám, đau thương) khuất chìm phía sau mà thôi.
Kết tinh từ nguồn thơ lạ lùng oan trái đó, "Đây thôn Vĩ Dạ" là lời tỏ tình với cuộc đời của một niềm đau thương, một tình yêu tuyệt vọng. Nói đến một thi phẩm chân chính là phải nói đến điệu cảm xúc riêng của nó. Mà âm điệu chính là cái điệu tâm hồn, điệu cảm xúc của thi sĩ được hình thức hoá. Đọc thơ, nắm được âm điệu của nó xem như đã nắm được hồn vía của thơ rồi. Không cần phải cố gắng lắm người ta cũng thấy ngay mỗi khổ của "Đây thôn Vĩ Dạ" đều vang lên trong âm hưởng của một câu hỏi. Ba khổ là những câu hỏi kế tiếp, càng về sau càng da diết, khắc khoải:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Âm điệu của những câu hỏi ấy được cất lên từ một niềm thiết tha với cuộc đời đến mức thương tâm của một hồn đau. Ở bài thơ vốn được xem là kiệt tác này, niềm yêu đau đáu đến tuyệt vọng còn hoá thân thành một mặc cảm sâu xa, thấm đẫm vào toàn thể thi phẩm: mặc cảm chia lìa. Trước tiên, nó quyết định đến hình ảnh cái Tôi của thi sĩ, đồng thời nó đổ bóng xuống cảm quan không gian của Hàn Mặc Tử, nó dàn dựng nên các tương quan không gian của "Đây thôn Vĩ Dạ". Đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác và tâm thế sáng tạo bấy giờ của thi sĩ, ta có thể thấy những điều ấy rõ hơn.
Sau khi mắc bệnh nan y, Hàn Mặc Tử đã coi mình như một cung nữ xấu số bị số phận oan nghiệt đày vào lãnh cung. Ấy là lãnh cung của sự chia lìa (tôi không nhằm nói đến Gò Bồi hay Qui Hoà, bởi đó chỉ là hai địa chỉ hạn hẹp trong cái lãnh-cung-định-mệnh ấy thôi). Cơ hội về lại cuộc đời cơ hồ không còn nữa. Vô cùng yêu đời, thiết tha bao luyến mọi người, vậy mà Tử đã chủ động cách li, quyết định tuyệt giao với tất cả. Nhưng tuyệt giao chứ không phải tuyệt tình. Thậm chí, càng tuyệt giao, tình nhớ thương càng mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hằng ngày ở trong cái lãnh cung ấy, Tử thèm khát thế giới ngoài kia: Ngoài kia xuân đã thắm hay chưa? / Trời ở trong đây chẳng có mùa / Không có niềm trăng và ý nhạc / Có nàng cung nữ nhớ thương vua. Chủ động tuyệt giao chỉ là biểu hiện lộn ngược của lòng thiết tha gắn bó. Hễ tiễn một ai đến thăm mình về lại Ngoài kia thì chẳng khác nào tiễn người từ chốn lưu đày vĩnh viễn về lại cuộc đời, thậm chí như tiễn người từ cõi này về cõi khác. Một nửa hồn mình coi như đã chết theo: Họ đã đi rồi khôn níu lại / Lòng thương chưa đã mến chưa bưa / Người đi một nửa hồn tôi mất / Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. Từ bấy trong thơ Tử hình thành hai không gian với sự phân định nghiệt ngã: Ngoài kia và Trong này. Nó là sự cách nhau của hai cõi, mà khoảng cách bằng cả một tầm tuyệt vọng - Anh đứng cách xa nghìn thế giới / Lặng nhìn trong mộng miệng em cười / Em cười anh cũng cười theo nữa / Để nhắn lòng anh đã tới nơi. Đọc thơ Hàn, dễ thấy Ngoài kia và Trong này (hay ở đây) là hai thế giới hoàn toàn tương phản. Ngoài kia: mùa xuân, thắm tươi, đầy niềm trăng, đầy ý nhạc, tràn trề ánh sáng, là cuộc đời, trần gian, là sự sống, hi vọng, hạnh phúc... Trong này: chẳng có mùa, không ánh sáng, không trăng, không nhạc, âm u, mờ mờ nhân ảnh, là lãnh cung, là trời sâu, là địa ngục, bất hạnh... Trong này chỉ về lại được Ngoài kia bằng ước ao thầm lén, bằng khắc khoải tuyệt vọng mà thôi.
Tấm thiếp phong cảnh của Hoàng Cúc gửi vào lập tức đánh động khát vọng về Ngoài kia trong hồn Tử. Thôn Vĩ Dạ hiện lên như một địa danh khởi đầu, một địa chỉ cụ thể của Ngoài kia. Nói khác đi. Ngoài kia trong cái giờ khắc ấy đã hiện lên bằng gương mặt Vĩ Dạ. Thèm về thăm Vĩ Dạ cũng là thèm khát về với Ngoài kia, về với cuộc đời, với hạnh phúc trần gian. Nghĩa là trong ý thức sáng tạo của Hàn Mặc Tử, Vĩ Dạ vừa là một địa danh cụ thể vừa được tượng trưng hoá [2]. Trong văn bản của thi phẩm này, có thể thấy tương quan không gian như thế ở hai nơi chốn: "thôn Vĩ" (Ngoài kia) và "ở đây" (Trong này). Hình tượng cái Tôi thi sĩ hiện ra như một người đang "ở đây", ở trong này mà khắc khoải ngóng trông hoài vọng về "thôn Vĩ", về Ngoài kia. Đó là hình ảnh một cá thể nhỏ nhoi tha thiết với đời mà đang phải lìa bỏ cuộc đời, đang bị số phận bỏ rơi bên trời quên lãng, đang chới với trong cô đơn, đang níu đời, nuối đời. Đây thôn Vĩ Dạ chẳng phải là lời tỏ tình với thế giới Ngoài kia của kẻ đang bị lưu đày ở Trong này hay sao? Chẳng phải lời tỏ tình ấy càng vô vọng lại càng mãnh liệt, càng mãnh liệt lại càng thêm vô vọng hay sao?
b) Đau thương đã tìm đến "thơ điên" như một hình thức đặc thù đối với Hàn Mặc Tử, nhất là ở giai đoạn sau [2]. Sẽ không quá lời khi nói rằng Tử đã buộc chúng ta phải xét lại cái quan niệm hẹp hòi lâu nay về "điên" và "thơ điên". Ta quen thấy điên chỉ như một trạng thái bệnh lí mà quên hẳn rằng còn có điên như một trạng thái sáng tạo.
Có không ít người làm thơ cố học đòi thơ điên như chạy theo một thứ mốt tân kì, nên chỉ là cách làm ra điên của những người tỉnh queo. Còn điên ở Hàn Mặc Tử là trạng thái đau thương bên trong đang chuyển hoá thành sáng tạo. Cảm xúc tuyệt vọng, oái oăm thay, lại trở thành hưng phấn sáng tạo. Một hưng phấn cực điểm, thái quá, khiến tâm tư xé rào vượt ra khỏi những lối đi, những biên giới thông thường. Thi hứng đến như một cơn sốc, sáng tạo như lên đồng. Chính Hàn cũng tự ý thức rõ về trạng thái này: "Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú(...) Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi hết sức giữ bí mật. Và cũng có nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên..." (Tựa "Thơ điên"). Ra đời như vậy "Thơ điên" thường có những đặc trưng: a) là tiếng nói của đau thương với nhiều biểu hiện phản trái nhau; b) chủ thể như một cái Tôi li-hợp bất định; c) một kênh hình ảnh kì dị kinh dị; d) mạch liên kết siêu logic; e) lớp ngôn từ cực tả. Với những đặc trưng ấy (đặc biệt là điểm d) đã khiến cho mỗi bài thơ khác nào những xao động tâm linh được tốc kí trọn vẹn. Những vẻ "điên" này hiện ra trong các bài thơ thành dòng tâm tư bất định. Đặc tính này không khó nhận ra, nếu tác giả viết thơ tự do. Nhưng ở những bài được viết thành những khổ tề chỉnh, vuông vức, tròn trịa, thì việc nhận biết khó hơn nhiều. Có hình dung như vậy mới thấy "Đây thôn Vĩ Dạ" vẫn cứ là "thơ điên" theo đúng nghĩa. Không có những hình ảnh kì dị ma quái, những tiếng kêu kinh dị, nhưng mạch liên kết toàn bài thì rõ ra là "đứt đoạn", "cóc nhảy" [3]. Mạch thơ như một dòng tâm tư bất định, khước từ vai trò tổ chức chặt chẽ của lí trí. Nhìn từ văn bản hình tượng, có thể thấy thi phẩm được dệt bằng một chuỗi hình ảnh liên kết với nhau rất bất định. Vừa mới ngoại cảnh (phần đầu) thoắt đã tâm cảnh (phần sau); hãy còn tươi sáng (Vườn thôn Vĩ) chợt đã âm u (cảnh sông trăng và sương khói)... Những mảng thơ phản trái nhau cứ dính kết vào nhau ngỡ như rất thiếu trật tự, "vô kỉ luật". Nhưng nhìn kĩ sẽ thấy đó chỉ là sự chuyển kênh quá mau lẹ từ "hàng chữ gấm" sang "đôi mắt mờ lệ" đó thôi. Nhìn từ mạch cảm xúc, cũng thấy có những gấp khúc, khuất khúc với những phía chợt sáng chợt tối như vậy. Khổ đầu: một ước ao thầm kín ngấm ngầm bên trong lại cất lên như một mời mọc từ bên ngoài, nỗi hoài niệm vốn âm u lại mang gương mặt của khát khao rực rỡ; khổ hai: một ước mong khẩn thiết dâng lên thoắt hoá thành một hoài vọng chới với; khổ ba: một niềm mong ngóng vừa ló rạng đã vội hoá thành một mối hoài nghi. Nhìn từ cấu trúc không gian, cũng thấy bài thơ có sự chuyển tiếp không gian rất tinh vi, kín mạch, không dễ nhận ra. Trong phần sâu của nội dung, có thể thấy ba cảnh chính: vườn xa, thuyền xa, khách đường xa. Chúng hợp thành cái thế giới Ngoài kia để đối lập với Ở đây. Như sự đối lập quái ác giữa cuộc đời và lãnh cung, trần gian tươi đẹp và trời sâu ảm đạm, sống và không sống, gắn bó và chia lìa... Khổ một còn ở thôn Vĩ Ngoài kia, khổ hai rồi phần đầu khổ ba nữa vẫn là Ngoài kia, đến cuối khổ ba thì đã bay vụt vào Trong này, đã Ở đây rồi. Nó là chốn nào vậy? Còn chốn nào khác, ngoài cái nơi Tử đang bị căn bệnh tàn ác ấy hành hạ? Chẳng phải đó là sự chuyển tiếp lối "cóc nhảy" rất đặc thù của "liên tưởng thơ điên" đó sao? Điều đáng nói là: nếu lối liên tưởng đứt đoạn bất định của "thơ điên" tạo ra sự chuyển làn các cảnh sắc, các miền không gian một cách đột ngột đến tưởng như phi lí, thì âm điệu tự nhiên nhuần nhuyễn của cùng một mối u hoài, trong cùng một lối thơ chia thành các khổ vuông vức tề chỉnh lại đã san lấp, phủ kín hoàn toàn những quãng đứt nối, khiến người đọc cứ mặc nhiên coi rằng bài thơ là sự nới rộng cùng một không gian Vĩ Dạ, mà không thấy rằng đó là sự ghép nối rất bất chợt, xuất thần giữa các vùng không gian vốn góc biển chân trời ("thôn Vĩ" là Ngoài kia, còn "ở đây" là Trong này). Theo tài liệu đáng tin cậy mới đây của Phạm Xuân Tuyển, trong cuốn Đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử, Nxb. Văn học 1997, thì bài thơ vốn có tên đầy đủ là "Ở đây thôn Vĩ Dạ". Bấy giờ, Tử đang tuyệt giao với tất cả, đến ở một chốn hoang liêu mạn Gò Bồi, cách li hoàn toàn với bên ngoài để chữa bệnh. Theo đó thì, cái nơi chốn "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh" lại càng là sự biểu hiện trực tiếp của chốn "trời sâu" bất hạnh mà Tử đang bị lưu đày - "Tôi đang còn đây hay ở đâu? / Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu? / Sao bông phượng nở trong màu huyết / Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?". Có hiểu như thế ta mới thấy lối biểu hiện phức tạp của "thơ điên" và tình yêu tuyệt vọng đầy uẩn khúc của Hàn Mặc Tử.
Tóm lại, nếu mạch "liên tưởng điên" tạo ra một văn bản hình tượng có vẻ "đầu Ngô mình Sở", thì dòng tâm tư bất định lại chuyển lưu thành một âm điệu liền hơi. Hệ quả là: dòng hình ảnh thì tán lạc, nhưng dòng cảm xúc lại liền mạch. Bởi thế Đây thôn Vĩ Dạ vẫn là một phẩm "thơ điên". Đó là phi logic ở bề mặt nhưng lại nguyên phiến, nguyên điệu ở bề sâu. Tất cả vẫn khiến cho thi phẩm là một nguyên khối. Vì thế, vào cõi thơ Hàn Mặc Tử, không chỉ cần chú mục vào phần "lộ thiên", mà cần đào rất sâu vào tầng "trầm tích" nữa! Chú thích:
[1] Ở số PL 2535, tác giả Võ Đình Cường đã công bố một tư liệu quan trọng liên quan đến cách hiểu bài thơ này: Bức thiếp phong cảnh Tử nhận được không phải là ảnh Hoàng Cúc trong tà áo dài trắng nữ sinh Đồng Khánh… Điều này cho thấy việc trói chặt nội dung bài thơ vào sự kiện Hoàng Cúc là vô lối.
[2] Có thể các nhà thơ thuộc Trường Thơ Loạn ít nhiều ảnh hưởng quan niệm "thơ điên" thuộc chặng cuối của thi phái Tượng trưng Pháp, mà người đại diện là Mallarme… Riêng Hàn Mặc Tử đến với "thơ điên" chủ yếu là do logic nội tại.
[3] Các ý kiến của Vũ Quần Phương (trong Thơ với lời bình), Lê Quang Hưng (trong Tác phẩm Văn học) và Nguyễn Hữu Tuyển (trong Nỗi oan cần được giải) đều nhận xét rằng: "bề ngoài câu chữ tưởng như rất lỏng lẻo chẳng ăn nhập gì" (Văn nghệ phụ san số 5.1990
3. Bước vào thi phẩm
a) Dù là "thơ điên" hay thơ gì chăng nữa, một khi đã là một thi phẩm dành được chỗ đứng trang trọng trong kí ức của người đọc nhiều thế hệ, thì dứt khoát phải nhờ vào vẻ đẹp tư tưởng của nó. Mà lõi cốt của tư tưởng ấy không thể là gì khác hơn một quan niệm nào đó về cái đẹp. Sự tương phản giữa hai miền không gian vừa nói trên đây ở Đây thôn Vĩ Dạ, không chỉ là mặc cảm của một con người đang phải chia lìa với cuộc đời. Sâu sắc hơn, thấm thía hơn, đó còn là mặc cảm của một thi sĩ đang phải ngày một lìa xa cái đẹp mà mình hằng khao khát, tôn thờ. Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn phải thấy rằng chuẩn mực quan trọng nhất của cái đẹp theo quan niệm của Tử chính là sự thanh khiết. Điều này vừa có nguồn gốc từ trong nhỡn quan của một thi sĩ trước cuộc đời, vừa từ tín niệm tôn giáo của một kẻ mộ đạo. Ở cảnh vật, nó hiện ra thành vẻ thanh tú (thiên nhiên lí tưởng theo Tử phải là "chốn nước non thanh tú"). Ở con người, nó hiện ra trong vẻ trinh khiết (đầy đủ là "trinh khiết mà xuân tình"). Quan niệm về cái đẹp như thế đã chi phối ngòi bút Hàn Mặc Tử khi thể hiện con người và thiên nhiên. Trong thi phẩm này có sự hiện diện của những hình tượng cơ bản Vườn thôn Vĩ, Sông trăng - thuyền trăng, Khách đường xa đều là những biểu hiện sống động của của vẻ đẹp thanh khiết đó. Trong mặc cảm chia lìa, tất cả những vẻ đẹp kia đều khiến Tử lâm vào tuyệt vọng. Và đương nhiên, Tử đã cảm nhận chúng qua lăng kính của niềm tuyệt vọng. Có thể trường hợp Tử là một minh chứng đáng sợ cho định nghĩa về cái đẹp của Pôn Valeri: Cái đẹp là cái làm ta tuyệt vọng. Mặc cảm chia lìa ở đây, dường như, đã hiện ra trong cảm giác về một thực tại xa vời, một hiện tại quá ngắn ngủi và sự tồn tại mong manh của mình. Không chỉ thấm vào hơi thơ, giọng thơ khiến cho cả mạch thơ được phổ một âm điệu da diết khắc khoải thật ám ảnh, mà trước tiên, mặc cảm chia lìa với các cảm giác éo le kia đã hoá thân vào từng hình ảnh, từng cảnh sắc của thi phẩm này.
b) Hãy đi vào từng khổ.
Câu mở đầu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? là một câu hỏi nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhớ, vừa trách, vừa mời mọc. Giờ đây chẳng ai còn ấu trĩ gán cho nó là câu hỏi của Hoàng Cúc hay của một cô gái nào ở thôn Vĩ nữa. Bởi, là đằng này thì vô lí - không đúng sự thực, là đằng kia thì vô tình - viết để tạ lòng Hoàng Cúc mà lại nghĩ đến cô khác ư? [5] Vả chăng, đâu chỉ có một câu hỏi này. Toàn bài có tới ba câu hỏi. Cả ba đều cùng một chủ thể. Trên kia đã phần nào nói đến việc bài thơ được viết thành ba khổ trên âm điệu chủ đạo của những câu hỏi buông ra, buột lên, không lời đáp. Thực ra, câu hỏi chỉ là hình thức bày tỏ. Nó không đợi trả lời để thành đối thoại. Nó cứ buông ra thế để thành dòng độc thoại bộc bạch tâm tình. Ngữ điệu hỏi càng về sau càng khắc khoải hơn, u hoài hơn. Và, nhờ ngữ điệu nhất quán ấy, mà ba cảnh sắc ở ba khổ thơ vốn đứt đoạn, "cóc nhảy" đã được xâu chuỗi lại tự nhiên khăng khít. Đó là Tử đang phân thân để tự hỏi chính mình. Hỏi mà như nhắc đến một việc cần làm, đáng phải làm, mà chẳng biết giờ đây có còn cơ hội để thực hiện nữa không. Ấy là về lại thôn Vĩ, thăm lại chốn cũ, cảnh xưa. Ta đều biết tuổi nhỏ Tử đã từng học trường Pellerin ở Huế, và khi in xong tập "Gái quê", Tử đã từng đến tìm Hoàng Cúc tại thôn Vĩ mà rồi chỉ nấp nom ngoài rào trúc chứ không dám vào. Giờ đây, nhận được bức thiếp phong cảnh này, niềm khát khao đã cất lên thành lời tự vấn oái oăm vậy. Còn ba câu sau vẽ ra hình tượng mảnh vườn thôn Vĩ: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Mỗi câu là một chi tiết vườn. Tất cả đều hoà hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú. Đọc thơ Tử, qua các tập, thấy vườn thực sự là một mô-típ ám ảnh. Nào vườn trần, vườn tiên, vườn chiêm bao... Dù mỗi nơi một khác, nhưng vườn của Tử đều mang chung một diện mạo mà Tử muốn gọi là "chốn nước non thanh tú". Phải, thiên nhiên mà Tử say đắm dứt khoát phải có vẻ đẹp thanh tú! Không thế, Tử khó mà động bút. Dường như các mảnh vườn kia đã hò hẹn nhau đầu thai thành mảnh vườn Vĩ Dạ này. Chả thế mà chi tiết nào của nó dù đơn sơ cũng toát lên vẻ tinh khôi, dù bình dị cũng toát lên vẻ thanh khiết cao sang. Nghĩa là một "chốn nước non thanh tú" hoàn toàn.
Trong thơ Tử, nắng cũng là mô-típ ám ảnh. Ta thường gặp những thứ nắng lạ đầy ấn tượng với những nắng tươi, nắng ửng, nắng chang chang, nắng loạn... Trong mảnh vườn này, Tử chỉ nói giản dị Nắng hàng cau nắng mới lên, cớ sao mà gợi thế! Có lẽ một câu thơ hay không chỉ hay bởi những gì nó mang sẵn, mà còn vì những gì nó có thể gợi ra để người đọc đồng sáng tạo. Ai đã từng sống với cau, dễ thấy cau là một thứ cây cao, thậm chí ở mảnh vườn nào đó, có thể là cao nhất. Nó là cây đầu tiên nhận được những tia nắng đầu tiên của một ngày. Bởi thế mà tinh khôi. Trong đêm, lá cau được tắm gội trên cao, sắc xanh như mới được hồi sinh trong bóng tối, dưới nắng mai lại rời rợi thanh tân. Nắng trên lá cau thành nắng ướt, nắng long lanh, nắng thiếu nữ. Bởi thế mà thanh khiết. Lại nữa, cau có dáng mảnh dẻ, trong nắng sớm, bóng đổ xuống vườn, in xuống lối đi những nét mảnh thật thanh thoát. Thân cau chia thành nhiều đốt đều đặn, khác nào như một cây thước mà thiên nhiên dựng sẵn trong vườn dùng để đo mực nắng. Nắng mai rót vào vườn cứ đầy dần lên theo từng đốt, từng đốt. Đến khi tràn trề thì nó biến cả khu vườn xanh thành viên ngọc lớn... Chẳng phải câu thơ hay còn phải đánh thức dậy bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức con người? Song, trọng tâm của hình tượng vườn dường như thuộc về những nét vẽ ở hai câu sau. Mà ấn tượng nhất là câu thơ có vẻ đẹp long lanh này: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Vì nó có sắc "mướt" chăng? Vì được sánh với "ngọc" chăng? Quả là hai chữ ấy đã đập ngay vào trực cảm người đọc. "Mướt" ánh lên vẻ mượt mà óng ả đầy xuân sắc. Còn "ngọc" là tinh thể trong suốt nên vừa có màu vừa có ánh. Nhờ đó, vườn thôn Vĩ như một viên ngọc không chỉ rời rợi sắc xanh, mà còn đang tỏa vào ban mai cả những ánh xanh nữa. Thiếu đi những ánh sắc ấy, mảnh vườn đơn sơ bình dị này khó mà hiện ra vẻ thanh tú cao sang. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó không thôi, ta mới chỉ thấy tầng lộ thiên của chữ "ngọc". Ẩn bên dưới, vẫn còn tầng trầm tích nữa. Khảo sát phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử, thấy thi sĩ này rất ưa dùng những vật liệu cao sang, nhất là ở giai đoạn cuối. Từ "Thơ điên" trở đi, các trang đều tràn ngập những vàng, gấm, lụa, trân châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược... đặc biệt là ngọc. "Ngọc" vừa được dùng lối ước lệ cổ điển như tay ngọc, mắt ngọc, đũa ngọc... vừa được dùng lối trực quan. Mà dù theo lối nào nó cũng là so sánh ở mức tuyệt đối:
"Đức tin thơm hơn ngọc / Thơ bay rồi thơ bay", "Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc / Cả một mùa xuân đã hiện hình"... Thi sĩ đang muốn tuyệt đối hoá, tột cùng hoá vẻ đẹp đẽ, quí giá, cao sang của đối tượng. Nhu cầu tuyệt đối hoá này thường xuất hiện khi niềm thiết tha với cuộc đời trần thế dâng trào đến mức đau đớn. Càng đẹp lại càng đau.
Cho nên, trong so sánh với "ngọc" luôn thấy chất chồng một cách oái oăm cả hai tâm thái: cảm giác càng tinh tế, cảm xúc càng đau thương. Ở đây cũng thế, Vườn ai mướt quá xanh như ngọc chứa đựng trong đó một cảm nhận về vẻ đẹp ở mức tột bậc và cả niềm thiết tha ở mức đau thương. Cũng phải thôi, lộng lẫy đến thế, ngay trước mắt thế, mà đang vuột ra ngoài tầm tay của mình, thì làm sao tránh khỏi đau thương!
Nhưng, bên cạnh những chữ phô ngay ra vẻ quyến rũ ấy, còn có những chữ khác, khép nép bên cạnh, khiêm nhường kín đáo thôi, nhưng dường như lại được Tử yêu tin mà kí thác vào đó những uẩn khúc của lòng mình. Tôi muốn nói đến chữ "ai". Nếu cả bài chỉ có một chữ này thôi thì chưa có gì thật đáng nói. Bởi chữ "ai" thường mang ý phiếm chỉ hoá, ỡm ờ hoá mà thơ truyền thống, nhất là ca dao đã khai thác đến nhàm. Đáng nói vì cả bài có tới bốn chữ "ai" nằm ở cả ba khổ. Chúng gắn với nhau bằng cả sắc thái lẫn giọng điệu tạo thành một "hệ vi mạch" ẩn sâu trong lòng bài thơ, chuyển tải một cảm giác se xót - cảm giác về thực tại xa vời: Vườn ai..., Thuyền ai..., Ai biết tình ai. Thế giới này, cuộc đời này đẹp đẽ là thế, hiện ngay trước mắt thế, vậy mà đã hoá xa vời, vậy mà đã thuộc về Ngoài kia, thuộc về cõi trần ai kia. Sắc thái phiếm chỉ bỗng chốc đã làm tất cả như lùi xa, bỗng như diệu vợi hoá, mông lung hoá. Cũng trong câu này, không thể không dành quan tâm ít nhiều đến chữ "quá", bởi hiệu quả nghệ thuật riêng của nó. Cũng là từ chỉ mức độ, nhưng xem ra chỉ có nó mới đem đến cho câu thơ âm hưởng của một tiếng kêu ngỡ ngàng, trầm trồ như chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn, mà có lẽ ở khoảnh khắc trước chưa thấy, khoảnh khắc sau cũng chưa hẳn đã thấy. Ta sẽ còn gặp ở khổ cuối tiếng kêu như thế nữa - áo em trắng quá nhìn không ra. Nó cũng là tiếng kêu muốn tuyệt đối hoá vẻ đẹp của đối tượng. Nghĩa là những tiếng kêu hàm chứa nỗi đau thương. Trong khổ này, câu thứ tư đã gây nhiều tranh luận: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Gương mặt kia là phụ nữ hay đàn ông? Lối tạo hình của nó là cách điệu hay tả thực? Ý kiến xem ra chưa ngã ngũ.
Thực ra, làm sao lại có một chi tiết cách điệu lạc vào giữa một bức tranh trực quan thuần tả thực như thế này. Vả chăng, nó diễn tả một khuôn mặt chữ điền ẩn sau những lá trúc loà xoà kia mà. Có người đã cất công để chứng minh dứt khoát đấy là gương mặt phụ nữ. [6] Thiết tưởng muốn xác định là đàn ông hay phụ nữ, trước tiên cần phải trả lời một câu hỏi khác: đó là mặt người thôn Vĩ hay người trở về thôn Vĩ? Nếu xét thuần tuý về cú pháp câu thơ, người đọc có quyền hiểu theo cả hai cách. Nhưng xét trong tương quan với toàn cảnh và trong hệ thống mô-típ phổ biến ở thơ Tử, thì có thể loại trừ được cách không phù hợp. Nếu là người thôn Vĩ (chủ nhân khu vườn), thì hẳn phải là khuôn mặt phụ nữ. Một người đàn ông về thôn Vĩ chắc không phải để ngắm khuôn mặt đàn ông! Còn là người trở về thôn Vĩ, thì người ấy chính là Tử, nói chuẩn hơn là hình tượng của chính Cái Tôi thi sĩ. Tìm trong thơ Hàn, sẽ thấy đây là lối tạo hình khá phổ biến, và cái nhân vật nép mình khi thì sau cành lá, khóm lau, khi thì sau rào thưa, bờ liễu... như thế này thường là hình bóng tự họa của Tử. Mà Tử vẫn có cái "thói" tự vẽ mình một cách rất kiêu hãnh và có phần... vơ vào nữa ("Người thơ phong vận như thơ ấy", "Có chàng trai mới in như ngọc? Gió căng hơi và nhạc lên trời", "Xin mời chàng tài hoa thi sĩ đó / Ngồi xuống đây bên thảm ngọc vườn châu"...). Thực ra, cũng chả riêng gì Tử vơ vào. Nguyễn Bính chân quê cũng "vơ vào" chả kém khi tự hoạ một cách bóng gió trong một khuôn hình gần giống thế: "Bóng ai thấp thoáng sau rào trúc / Chẳng Tống Trân ư cũng Nguyễn Hiền". Nghĩa là khuôn mặt và hình dáng văn nhân cả thôi. Tuy nhiên, khuôn mặt chữ điền sau lá trúc, không chỉ là sản phẩm của "tâm lí vơ vào" dễ thương thế thôi đâu. Sâu xa hơn, nó còn là sản phẩm của mặc cảm chia lìa. Mặc cảm này thường khiến Tử vẽ mình trong các trang thơ như một "kẻ đứng ngoài", "kẻ đi ngang qua cuộc đời", kẻ "đứng cách xa hàng thế giới", là vị "khách xa", kẻ đứng ngoài mọi cuộc vui, mọi cảnh đẹp trần thế. Kẻ ấy thường làm những chuyến trở về với cuộc đời Ngoài kia một cách thầm lén, vụng trộm. Tử hình dung mình trở về thôn Vĩ (hay tái hiện lại cái lần mình đã trở về mà không vào, chỉ nép ngoài rào trúc, thì cũng thế!), vin một cành lá trúc, che ngang khuôn mặt mình để mà nhìn vào, say ngắm vẻ đẹp thần tiên của khu vườn. Hiểu thế mới thấy câu thơ kia, hoá ra là sản phẩm nhất quán của một tình yêu mãnh liệt mà cũng là sản phẩm của một tâm hồn đầy mặc cảm về thân phận mình. Trong đó chẳng phải giấu kín một niềm uẩn khúc đáng trân trọng mà cũng thật đáng thương sao? Song, hẳn sẽ có ý thắc mắc rằng: mạch thơ đang vẽ đối tượng (cảnh nơi thôn Vĩ) sao thoắt lại chuyển sang vẽ chủ thể (cái tôi thi sĩ), liệu có cóc nhảy, phi logic không? Đúng thế. Nhưng, như bạn biết đấy, cóc nhảy và phi logic trên bề mặt chính là một đặc trưng của mạch liên tưởng "thơ điên". Sự chuyển kênh đột ngột ấy, trước sau, vẫn chỉ xoay quanh một niềm thiết tha vô bờ mà cũng đầy uẩn khúc của Tử mà thôi.
Như vậy, trong khổ thơ thứ nhất này, cảnh sắc là thôn Vĩ mà cũng là Ngoài kia, vườn Vĩ Dạ mà cũng là vườn trần gian. Qua lăng kính của mặc cảm chia lìa, cả những cảnh vật đơn sơ cũng trở nên vô cùng lộng lẫy. Với Tử đó là thiên đường trần gian - một thiên đường giờ đây dường như không thuộc về mình nữa, đang tuột khỏi tầm mình. Về thôn Vĩ vốn là việc bình thường, với Tử giờ đây lại thành một ước ao - ước ao quá tầm với, thành một hạnh phúc - hạnh phúc quá tầm tay.
Khổ thứ hai chuyển sang một cảnh khác: cảnh dòng sông. Hiểu là sông Hương cũng được mà dòng sông nào đó của cuộc đời Ngoài kia cũng được.[7] Mặc cảm chia lìa ở đây hiện ra cả trong câu chữ, hình ảnh và nhạc điệu:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Hai câu trên nói đến một thực tại phiêu tán. Tất cả dường như đang bỏ đi: gió bay đi, mây trôi đi, dòng nước cũng buồn bã ra đi... Có phải cảnh tượng kia là một cái gì thật ngang trái trớ trêu? Đúng thế. Trước tiên, gió mây làm sao có thể tách rời - mây không tự di chuyển, gió thổi mây mới bay, chúng không thể chia tách. Rõ ràng, đây không còn đơn thuần là hình ảnh của thị giác, mà là hình ảnh của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa đã chia lìa cả những thứ tưởng không thể chia lìa! "Dòng nước buồn thiu" vì mang sẵn trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn li tán chia phôi từ mây gió đã bỏ buồn vào lòng sông? Khó mà đoán chắc. Lạ nhất là chữ "lay". Động thái "lay" tự nó không vui không buồn. Sao trong cảnh này nó lại buồn hiu hắt vậy? Nó là nét buồn phụ họa với gió mây sông nước? Hay nỗi buồn sông nước đã lây nhiễm, đã xâm chiếm vào hồn hoa bắp phất phơ này? Thật khó mà tách bạch. Có phải có một chữ "lay" buồn như thế từ bông sậy của dân ca đã xuôi theo ngọn gió thời gian mà đậu vào thơ Tử: Ai về giồng dứa qua truông / Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em? Có phải chữ "lay" ấy lại trôi nổi thêm nữa để đến với hiện đại nhập vào lá ngô của thơ Trúc Thông: Lá ngô lay ở bờ sông - Bờ sông vẫn gió người không thấy về? Và tất cả những chữ "lay" kia có phải đều dây mơ rễ má với chữ "hiu hiu" đầy ám ảnh của thơ Nguyễn Du: Trông ra ngọn cỏ lá cây / Thấy hiu hiu gió thì hay chị về"? Hiu hiu, lay động đều là tín hiệu báo sự hiện hữu. Cứ nhìn thấy thế là người ngóng trông nhận ra sự trở về nào đó từ cõi vô hình. Còn Tử nhìn hoa bắp lay để nhận ra sự phiêu tán, sự ra đi. Cả mây, gió, cả dòng nước cứ lìa bỏ nhau và đều lìa bỏ chốn này mà đi hết cả. Chỉ riêng hoa bắp là cái tĩnh tại, không thể tự nhấc mình lên mà lưu chuyển. Bị bỏ rơi lại bên bờ, động thái "lay" kia có phải là một níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng của kẻ bị chia lìa? Có phải Tử đã thấy hoa bắp côi cút bên sông như vận vào mình? Có phải mặc cảm chia lìa đã khiến Tử nhìn ra cái thân phận bị bỏ rơi bên trời quên lãng của mình trong dáng "lay" sầu tủi của hoa bắp?
Đối mặt với cái xu thế tất cả đang chảy đi, bỏ đi, trôi đi càng lúc càng vuột xa ngoài tầm sống của mình ấy, Tử chợt ao ước một thứ có thể ngược dòng về với mình, ấy là trăng. Phải, mây đã đi, gió đã đi, dòng nước cũng đi... may ra chỉ còn trăng thôi:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Trong bài thơ này có hai chữ "về". Nếu chữ thứ nhất là về với Vĩ Dạ, với Ngoài kia (Sao anh không về chơi thôn Vĩ?), thì chữ thứ hai đây đã đổi hướng, là về phía Tử, về với Trong này. Cũng phải thôi, trong "lãnh cung" của sự chia lìa, vốn "không có niềm trăng và ý nhạc", nên Tử đã đặt vào trăng kì vọng của mình: Có chở trăng về kịp tối nay?
Trăng giờ đây như một bám víu duy nhất, một tri âm, một cứu tinh, một cứu chuộc! Tìm kiếm vẻ đẹp của những câu này, người phân tích thường chỉ chú mục vào hình ảnh "sông trăng", "thuyền trăng" với thủ pháp huyền ảo hoá. Thực ra đó chỉ là những vẻ đẹp thuộc cái duyên phô ra của thơ mà thôi. Tôi muốn nói đến chữ khác lâu nay bị bỏ quên, bởi nó lặng lẽ khiêm nhường chứ không bóng bảy ồn ào. Nhưng nó vẫn đẹp trong quên lãng. Ấy là chữ "kịp". Chữ "kịp" mới mang bi kịch của tâm hồn ấy, thân phận ấy. Ta và cả người đọc sau ta nữa chắc chắn không thể biết "tối nay" kia là tối nào cụ thể. Nhưng qua giọng khắc khoải và qua chữ "kịp" này ta nhận ra một lời cầu khẩn. Dường như, nếu trăng không về "kịp" thì kẻ bị số phận bỏ rơi bên rìa cuộc đời này, bỏ dưới trời sâu này sẽ hoàn toàn lâm vào tuyệt vọng, vĩnh viễn đau thương. Như thế, chữ "kịp" đã hé mở cho ta một cách thế sống: sống là chạy đua với thời gian. Một so sánh với Xuân Diệu có thể thấy rõ Tử hơn. Cũng chạy đua với thời gian, nhưng ở Xuân Diệu là để được hưởng tối đa, sống để mà tận hưởng mọi hạnh phúc nơi trần giới, bởi đời người quá ngắn ngủi, cái chết sẽ chờ đợi tất cả ở cuối con đường, còn Hàn Mặc Tử chỉ mong tối thiểu, chỉ được sống không thôi đã là hạnh phúc rồi, bởi lưỡi hái của tử thần đã hơ lên lạnh buốt sau lưng. Quĩ thời gian đang vơi đi từng giờ từng khắc, cuộc chia lìa vĩnh viễn đã sát gần. Trong cảnh ngộ này, trăng dường như là điểm tựa duy nhất, là bấu víu cuối cùng của kẻ cô đơn đang chới với trong nguy cơ chia lìa đương vây khốn. Thơ là sự lên tiếng của thân phận, thật trớ trêu, định nghĩa ấy hoàn toàn đúng với Hàn Mặc Tử.
Khổ thứ ba, giọng khắc khoải đã hiển hiện thành nhịp điệu. Khác hẳn các đoạn trước, nhịp thơ ở đây gấp gáp hơn, khẩn khoản hơn:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ đến hình bóng đẹp của khách đường xa. Tất cả đều là những hình ảnh đầy mời gọi của thế giới Ngoài kia.
Ở trên, tôi đã nói đến vẻ đẹp trinh khiết như là chuẩn mực cho cảm quan thẩm mĩ của Hàn Mặc Tử. Trinh khiết trở thành vẻ đẹp phổ biến của thế giới và của những Nàng thơ trong cõi thơ Tử. Những người con gái trong thơ Tử bao giờ cũng là hiện thân sống động của vẻ trinh khiết xuân tình. Gắn làm một với hình bóng họ là sắc áo trắng tinh khôi. Cho nên ngóng ra thế giới Ngoài kia, thì hình bóng người khách đường xa (người tình xa) phải là trung tâm, phải thanh khiết nhất, lung linh nhất. Và đắm say tột bậc cái vẻ đẹp này, Tử thường cực tả bằng những sắc trắng dị kì. Tử dồn cả màu cả ánh để diễn đạt cho được trực cảm của mình: "Chị ấy năm nay còn gánh thóc / Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Thậm chí, có lúc không theo kịp trực giác, lời thơ trở nên kì quặc: "chết rồi xiêm áo trắng như tinh"... Nhiều người phân tích chưa nhận thấy đặc trưng này của thơ Hàn Mặc Tử đã giải thích áo trắng quá nhìn không ra là bởi lẫn và sương khói. Không phải thế. "Áo em trắng quá nhìn không ra" chính là một tiếng kêu, một cách cực tả sắc trắng ở sắc độ tuyệt đối, tột cùng. Trắng đến mức lạ lùng, không còn tin vào mắt mình nữa (tựa như tiếng kêu vườn ai mướt quá xanh như ngọc đã phân tích ở trên). Đừng lầm tưởng rằng đây là lời thú nhận về sự bất lực của thị giác.
Như thế, cuối cùng, mơ tưởng da diết khắc khoải hơn hết thảy vẫn là dành cho con người, vẫn là hướng tới những người tình xa. Bởi phải chia lìa với thế giới Ngoài kia, có lẽ mất mát lớn nhất, niềm đau thương nhất vẫn là phải chia lìa với người mình yêu vậy.
Đến đấy, Tử quay trở về với thực tại u ám của mình, ấy là chốn lãnh cung ảm đạm mịt mờ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Được viết gần như đồng thời với bài "Những giọt lệ", cho nên ta cứ nghe đâu đây trong những câu chữ kia tiếng dội của những giọt lệ đau thương, như hoài nghi, như hi vọng, như tuyệt vọng: "Tôi đang còn đây hay ở đâu? / Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?" và "Trời hỡi bao giờ tôi chết đi? / Bao giờ tôi hết được yêu vì?"... Tử yêu đời đến đau đớn. Còn cuộc đời, tình đời còn dành cho Tử được bao nhiêu, được bao lâu? Cuộc đời Ngoài kia vẫn cứ kì diệu thế, vẫn "cách xa nghìn thế giới" như thế, vẫn cứ cách ở đây hẳn một tầm tuyệt vọng như thế. Tồn tại ở đây, ở trời sâu này thật quá đỗi mong manh. Chỉ có cái tình kia là sợi dây duy nhất níu buộc Tử với ngoài ấy. Thế mà cái tình kia cũng mong manh xa vời làm sao? Câu hỏi cuối cùng khép lại toàn bộ dòng tâm tư bất định này là tiếng thở dài hay là lời cầu mong của một kẻ thiết tha gắn bó đến cháy lòng? Có lẽ là cả hai. Bởi vì uẩn khúc và nghịch lí chính là nét lạ lùng nhất trong cấu trúc của tiếng nói trữ tình Đây thôn Vĩ Dạ.
Thế đấy, tôi đã khá dài dòng khi hành hương về Vĩ Dạ theo cái đường dây mong manh và bí mật của tình yêu tuyệt vọng vốn chìm khuất trong thế giới của thi phẩm. Những đối chiếu giữa thi phẩm với thế giới nghệ thuật của thi sĩ: từ cội nguồn của tiếng nói trữ tình đến hình thức đặc thù của "thơ điên", từ lớp biểu tượng ở tầng trầm tích đến phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử... chính là những sự chỉ dẫn cần thiết. Không có bản chỉ dẫn ấy, cuộc hành hương khó tránh khỏi sa vào bế tắc. Tuy nhiên điều tôi muốn nói thêm trước khi dừng là: Thôn Vĩ vẫn còn nhiều bí ẩn sẵn chờ và mời mọc những cuộc hành hương khác.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 4
a) Mở bài
- Giới thiệu vài nét về tác giả Hàn Mặc Tử và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
+Hàn Mặc Tử (1912-1940) nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn.
+ Đây thôn Vĩ Dạ (1938) in trong tập thơ Điên, là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, ra đời trong hoàn cảnh mối tình đơn phương của Hàn Mạc Tử với cô gái gốc Huế rơi vào tuyệt vọng.
- Có thể trích dẫn nội dung bài thơ.
b) Thân bài
* Khái quát chung:
- Bối cảnh sáng tác bài thơ: Bài thơ được lấy cảm hứng từ bức ảnh do cô gái Huế có tên Hoàng Cúc gửi tặng. Đó là tấm bưu thiếp vẽ cảnh Huế với dòng sông, con đò, bến trăng hay một buổi bình minh. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Nhận được bức ảnh cùng những lời thăm hỏi của cô gái mà mình thầm thương trộm nhớ, ông đã xúc động viết bài thơ này.
* Phân tích khổ thơ đầu: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế (thôn Vĩ)
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
- Câu hỏi tu từ "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" : lời trách móc, mời mọc tha thiết của cô gái Huế, cũng có thể là lời tự trách móc và dự cảm không hay về cuộc đời mình của chính tác giả.
- Hồi tưởng của nhà thơ về thôn Vĩ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
+ Nắng mới lên ở những hàng cau: những tia nắng ban mai rực rỡ, phủ đầy không gian, trên tàu lá cau còn ướt sương đêm và xanh rời rợi.
+ Vườn xanh như ngọc: một màu xanh mơn mởn trong sớm mai tràn đầy sức sống, gợi sự trù phú, non tươi, mỡ màng tràn đầy sinh khí của khu vườn thôn Vĩ.
- Hình ảnh con người xứ Huế:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
+ Mặt chữ điền : biểu tượng của nét đẹp phúc hậu, hiền lành, trung thực.
+ Lá trúc chen ngang : lá trúc mảnh mai, gợi nét đẹp duyên dáng, kín đáo, dịu dàng của con người xứ Huế.
-> Nghệ thuật cách điệu hoá: trong những ngôi nhà vườn xinh xắn, sau những hàng tre trúc, thấp thoáng có bóng ai đó kín đáo, dịu dàng phúc hậu.
=> Con người và cảnh vật hòa quyện hài hòa tạo nên bức tranh tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Qua đó thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng thiết tha đằm thắm đối với cảnh và người xứ Huế. Tất cả ẩn chứa một sự nuối tiếc, một niềm khát khao trở về thôn Vĩ yêu thương.
* Phân tích khổ thơ thứ 2 : Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
- Cảnh không gian mênh mông hiện lên với gió, mây, dòng nước, hoa bắp lay.
+ “Gió theo lối gió / mây đường mây”: gió đi một đường mây đi một ngả → sự xa cách chia lìa.
-> Nội tâm và dự cảm không lành trước sự chia li, cách biệt của sinh tử.
+ “Dòng nước buồn thiu / hoa bắp lay”: dòng sông lặng lờ như mang một nỗi buồn, hắt hiu không có bóng dáng của sự sống.
-> Sự bừng tỉnh của tác giả trước cảnh ngộ thê lương của bản thân, trước con đường tăm tối vô hương, vô sắc hiện hiện tại. Nhà thơ đã gửi nỗi buồn vào dòng sông.
=> Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng lay lắt buồn bã trong cảm giác chia lìa
- Không gian mờ ảo đầy ánh trăng: thuyền, bến, sông trăng
+ "Sông trăng" : hình ảnh lạ, đẹp, đầy thi vị. Dòng sông tràn ngập ánh trăng vàng. Con thuyền vốn là hình ảnh có thực được nhìn qua con mắt của thi nhân trở thành một hình ảnh mộng tưởng. Thuyền đậu trên bến sông trăng để trở trăng về một nơi nào đó trong mơ. Gợi lên vẻ đẹp lãng mạn, nhẹ nhàng, tất cả đang đắm chìm trong bồng bềnh mơ mộng, như thực như ảo.
+ "ai" : Đại từ phiếm chỉ gợi cảm giác mơ hồ, xa lạ, đầy ảo mộng.
- Câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” : nỗi mong chờ, niềm hi vọng thiết tha cùng nỗi buồn man mác của nhà thơ.
-> Khát vọng một tình yêu đằm thắm, kín đáo, tha thiết, sự lo lắng của tác giả trước sự hữu hạn của đời mình, lo rằng liệu bản thân còn kịp tận hưởng ánh trăng sáng hay không.
=> Bức tranh sông Hương nên thơ, huyền ảo nhưng phảng phất tâm trạng u buồn, cô đơn. Sự chuyển biến cảm xúc đột ngột từ niềm vui của hi vọng gặp gỡ sang trạng thái lo âu đau buồn thất vọng khi tác giả nhớ và mặc cảm về số phận bất hạnh của mình.
* Phân tích khổ thơ thứ 3 : Bức tranh cảnh vật, tâm trạng con người chìm sâu vào mộng ảo
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
- Mơ: trạng thái vô thức, nhà thơ đang đắm chìm trong cõi mộng.
- Điệp ngữ “khách đường xa”: nhấn mạnh khoảng cách xa rời, chỉ là khách trong mơ.
-> Tác giả nhận thức được nỗi cô đơn và trống trải của mình trước cuộc sống trần thế, tình yêu đang dần vụt mất.
- “Áo em trắng quá nhìn không ra” : sự choáng ngợp, thảng thốt trước sắc trắng không thực, trắng một cách kì lạ - màu trắng trong tâm tưởng.
- "Ở đây" : nơi nhà thơ dưỡng bệnh
- "mờ nhân ảnh" : sương khói làm mờ ảo cả bóng người.
-> mối tình mong manh, xa vời, không trọn vẹn.
=> Xứ Huế mơ mộng lắm khói sương và áo em trắng quá “mờ nhân ảnh” khiến nhà thơ không nhận ra. Lúc này đối với nhà thơ, tất cả như một màn sương hư ảo, cuộc đời như cách xa tầm tay với.
- Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” : vừa như hỏi mình lại vừa hỏi người, vừa như gần gũi lại vừa xa xôi, vừa như hoài nghi lại vừa như giận hờn, trách móc.
=> Tâm trạng bâng khuâng, bất lực trong mặc cảm chia lìa của nhà thơ trước cảnh cũ người xưa, nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu cuộc đời và con người.
* Đánh giá về nghệ thuật
- Biện pháp tu từ điệp từ, nhân hóa, so sánh, câu hỏi tu từ…
- Thủ pháp liên tưởng và lấy động gợi tĩnh
- Hình ảnh sáng tạo, có sự hòa quyện giữa thực và ảo
- Sự hòa điệu giữa tả thực, tượng trưng, lãng mạn và trữ tình.
c) Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 5
1.1 Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
Tác giả: Hàn Mặc Tử (1912-1940), xuất thân trong một gia đình công giáo nghèo, thời niên thiếu từng sống ở Huế, cũng là miền ký ức tươi đẹp nhất cuộc đời ông. Ông là nhà thơ có phong cách thơ siêu thực, quan niệm thơ độc đáo, mới lạ, trong thơ thường xuất hiện cõi không gian liêu trai, mờ ảo.
Tác phẩm: “Đây thôn Vĩ Dạ” lấy cảm hứng từ cuốn bưu thiếp mà Thu Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử sau khi biết được tình cảm đơn phương mà Hàn Mặc Tử dành cho mình, ông đã nhớ lại những kỉ niệm ở Huế và viết bài thơ này.
1.2 Thân bài
Bố cục: Bài thơ có 3 khổ, mỗi khổ thơ là một đoạn diễn tả một ý hoàn chỉnh, cụ thể:
+ Khổ 1: Bức tranh thiên nhiên xứ Huế
+ Khổ 2:Cảnh sông nước mây trời xứ Huế
+ Khổ 3: Không gian mộng tưởng
Phân tích chi tiết
*Khổ 1:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
+ Câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” như một lời trách móc nhẹ nhàng, cũng là lời mời gọi chân thành, tha thiết đối với người mình yêu thương, cũng có thể là lời phân thân tự hỏi với chính mình.
+ Bức tranh thôn Vĩ vào sáng sớm mới tươi đẹp, giàu sức sống làm sao, có nắng, có cây, một không gian nhẹ nhàng, xinh đẹp. Bức tranh thiên nhiên ngập tràn sắc nắng của buổi sớm mai, điệp từ “nắng” “nắng hàng cau”, “nắng mới lên”, là một thứ nắng tinh khiết, nắng nhẹ nhàng chứ không hề gay gắt, chói chang.
+ Từ “mướt” gợi sự óng ả, mỡ màng, đầy xuân sắc của cây cối trong vườn. Màu xanh của cây lá là màu “xanh ngọc”, một thứ màu trong trẻo, như được lọc qua ánh sáng, sang trọng, quý phái, dịu nhẹ.
+ Giữa khung cảnh của chốn non nước, thanh tú ấy, con người hiện lên với vẻ mặt phúc hậu, kín đáo, đầy duyên dáng “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Hình ảnh tre trúc vốn là hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam. Trong “Thu điếu”, Nguyễn Khuyến cũng từng nhắc về hình ảnh “ngõ trúc”
“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
=> Bốn câu thơ đã vẽ lên một bức tranh thôn quê ở xứ Huế mộng mơ, cảnh vật hiện lên tinh khôi, dịu nhẹ, con người hiền hòa, phúc hậu, duyên dáng chính là nét đẹp rất riêng, rất độc của Huế.
*Khổ 2
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
+ Nếu như bức tranh thiên nhiên ở khổ thơ đầu là bức tranh tươi sáng, miêu tả một khu vườn rất đặc trưng của xứ Huế thì khổ thơ thứ hai lại hướng ngòi bút ra bờ sông, thời gian chuyển từ ngày sang đêm.
+ Nhịp thơ 4/3 chia câu thơ thành hai vế gợi sự chia lìa “Gió theo lối gió mây đường mây”. Gió và mây vốn đi cùng nhau nhưng giờ cũng phải chia lìa, gián đoạn. Hình ảnh thiên nhiên không hòa hợp chính là mặc cảm với đời, với số phận của chính bản thân Hàn Mặc Tử. Mặc dù tình yêu cuộc đời, yêu thiên nhiên vẫn rất tha thiết nhưng nhà thơ đã chẳng thể trở về cuộc sống như xưa được nữa.
+ Hình ảnh nhân hóa “dòng nước buồn thiu” giống như tâm trạng của con người vậy vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” . Chính bởi dòng nước buồn thiu mà hoa bắp cũng “lay” theo dòng tâm trạng đó. Cảnh vật trở nên có hồn, gợi sự hiu hắt, trống trải, mang nỗi buồn miên man, bâng khuâng.
=> Dường như ta thấy được nỗi buồn nặng trĩu trong lòng thi nhân, nỗi buồn ấy xuất phát từ nỗi cô đơn, mặc cảm, day dứt không yên, còn nhiều điều tiếc nuối mà chưa thể làm được.
+ Đại từ “ai” cùng với câu hỏi tu từ “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” gợi sự mông lung vô định.
+ Sông trăng: ánh trăng đã phủ lên toàn bộ dòng sông, gợi lên một sự liêu trai, huyền ảo. Trăng là hình ảnh quen thuộc trong thi ca, đã trở thành người bạn của nhiều thi nhân. Đối với Hàn Mặc Tử, một con người luôn sống trong cảm giác cô đơn thì vầng trăng cành trở thành người bạn thân thiết. Trong rất nhiều những tác phẩm khác, vầng trăng xuất hiện không chỉ là người bạn mà còn là tình nhân:
“Trăng nằm sõng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
Không chỉ là hình ảnh “Thuyền
+ Hình ảnh “thuyền”, “bến”, “trăng” gắn với tình yêu đôi lứa:
“Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
+ Chữ “kịp” vừa gợi sự mong ngóng, khao khát, vừa thể hiện niềm lo lắng.
+ ”tối nay”: là từ ngữ ẩn dụ cho quãng thời gian ngắn ngủi, cũng là sự lo sợ của tác giả trước hiện thực phũ phàng về thân phận hiện tại của bản thân mình.
=> Khổ thơ vừa là bức tranh ngoại cảnh, vừa thấm đẫm tâm trạng của tác giả.
*Khổ cuối
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
+ Mơ: gợi ra một thế giới ảo, phiêu lãng
+ Điệp từ “khách đường xa”: nhấn mạnh sự thân thiết nhưng giờ đã quá xa vời, chỉ là một người khách ở xa đến thăm.
+ Màu trắng tinh khôi của “áo em” gợi ra sự tinh khiết, cũng là nét đẹp đặc trưng của người con gái Huế.
+ Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà”:Một câu hỏi hoài nghi nhưng vẫn thể hiện sự khao khát với cuộc đời, khao khát yêu thương. Tác giả cũng ý thức được hoàn cảnh của mình hiện tại, nỗi đau sự tuyệt vọng khi không thể có được tình yêu trọn vẹn.
1.3 Kết bài
Tổng kết về nội dung và nghệ thuật:
Nội dung: bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống của thi sĩ.
Nghệ thuật: Bút pháp gợi tả, ngôn ngữ giàu sức biểu đạt, nghệ thuật nhân hóa, so sánh, điệp từ, biểu hiện nội tâm sâu sắc.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 6
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm:
- Hàn Mặc Tử là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ ca lãng mạn 1930-1945. Tuy cuộc đời nhiều bi thương nhưng ở ông luôn dồi dào sức sáng tạo. Đọc thơ Hàn Mặc Tử ta thấy rõ một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế.
- “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử nằm trong tập “Thơ điên” (hay “Đau thương”) được chính nhà thơ tập hợp lại vào 1938. Bài thơ vừa là bức tranh thiên nhiên, con người xứ Huế; vừa là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.
2, Phân tích bài thơ:
- Khổ 1: Cảnh ban mai thôn Vĩ và tình người tha thiết
+ Câu đầu là câu hỏi tu từ mang nhiều sắc thái. Có thể hiểu đó là lời mời mọc của một cô gái Huế dịu dàng, trìu mến hay là lời trách móc nhẹ nhàng của chính cô? Cũng có thể đó là lời tự vấn của nhà thơ cho một tự mình lần lỡ hẹn? Dù hiểu theo cách nào thì câu thơ cũng chứa đựng tình người tha thiết.
+ Ba câu sau gợi lên vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên thôn Vĩ trong khoảnh khắc hừng đông. Đó là bức tranh tươi tắn, đầy sức sống với ánh nắng ấm áp, lấp lánh của "nắng mới lên", với màu xanh mướt "như ngọc" của trúc, của cau... Thấp thoáng ẩn hiện đằng sau khung cảnh ấy bóng dáng con người xứ Huế, vừa chăm chỉ, khéo léo, vừa đôn hậu "Lá trúc che ngang mặt chữ điền".
=> Qua khổ 1, ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên, con người tha thiết cùng niềm băn khoăn day dứt của tác giả.
- Khổ 2: Cảnh hoàng hôn thôn Vĩ và niềm đau cô lẻ, chia lìa
+ Hai câu đầu bao quát toàn cảnh với hình ảnh gió, mây chia lìa đôi ngả; dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay gợi nổi buồn hiu hắt. Nghệ thuật nhân hóa khiến cảnh cũng mang đầy tâm trạng.
+ Hai câu sau tả dòng Hương giang trong đêm trăng lung linh, huyền ảo vừa thực vừa mộng, đằng sau đó là tâm trạng vừa đau đớn, khắc khoải vừa khao khát cháy bỏng của nhà thơ. Nỗi lo âu phấp phỏng "Có chở trăng về kịp tối nay?" chính là tiếng lòng của một con người đang chạy đua với thời gian từng phút từng giờ để giành giật sự sống. Câu thơ chất chứa niềm yêu đời, khát sống mãnh đến đến đau đớn, tội nghiệp.
- Khổ 3: Nỗi niềm thôn Vĩ
+ Hai câu đầu: Bóng dáng người xa hiện lên mờ ảo, xa vời trong sương khói mờ nhân ảnh trong cảm nhận của khách đường xa.
+ Hai câu cuối: mang chút hoài nghi mà lại chan chứa niểm thiết tha với cuộc đời.
- Nghệ thuật thơ: Trí tưởng tượng phong phú; nghệ thuật so sánh, nhân hóa; thủ pháp lấy động gợi tĩnh, sử dụng câu hỏi tu từ hình ảnh sáng tạo, có sự hòa quyện giữa thực và ảo.
3. Đánh giá chung về bài thơ:
- Bài thơ đã cho ta thấy vẻ đẹp hồn thơ và tài thơ Hàn Mặc Tử.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 7
I. Xuất xứ
Đây thôn Vĩ Dạ được rút ra từ tập Thơ điên. Khi hai người cùng ở Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã từng yêu thầm Hoàng Thị Kim Cúc. Khi về Huế, Hoàng Cúc nghe tin Hàn Mặc Tử bệnh bèn gởi vào tặng Hàn Mặc Tử tấm bưu ảnh phong cảnh và lời chúc sớm lành bệnh. Từ đó, đã gợi cho ông những kỉ niệm một thời từng sống ở Huế và sáng tác bài thơ này.
II. Chủ đề
Từ những kỉ niệm về Huế, nhà thơ đã khắc họa nên bức tranh tuyệt về cảnh vật, con người xứ Huế. Đồng thời, mượn câu chuyện tình đơn phương của mình để kín đáo gởi gắm tình yêu quê hương xứ sở.
III. Phân tích
1. Khổ 1: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế.
– Bức tranh được hiện lên qua lời mời trong đó hàm chứa sự trách móc mà thân thiết:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
– Cảnh vật hiện lên qua vài nét phác họa nhẹ nhàng, duyên dáng, đầy ấn tượng của màu xanh như ngọc của ánh sáng tinh khôi buổi ban mai.
– Cuối cùng là nét chấm phá độc đáo tương phản giữa cái vuông vức của khuôn mặt chữ điền với chiếc lá trúc che ngang, gợi lên nét tinh nghịch mà dịu dàng, dễ thương vốn dĩ ở thôn quê.
2. Khổ 2: Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.
– Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng lay lắt buồn bã trong cảm giác chia lìa bằng hình thức thơ độc đáo: Gió theo lối gió / mây đường mây. Dòng sông như tấm gương ghi nhận hình ảnh chia lìa đó, nên buồn thiu, hoa bắp cúng lay lắt buồ thiu, chia sẻ với tâm trạng nhà thơ.
– Trăng chiếm một dung lượng khá lớn trong thơ Hàn Mặc Tử và ánh trăng thật kì lạ, khác thường. Ta từng gặp trong thơ của ông, hình ảnh:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
(Bẽn lẽn)
– Câu phiếm định: “thuyền ai?”, rồi lại “bến sông trăng”. Quả thật, đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong “Thi nhân Việt Nam” : “Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”.
3. Khổ cuối: Cảnh vật,con người đều chìm sâu vào mộng ảo.
– Cõi lòng nhà thơ dường như chìm vào mộng tưởng (mơ khách đường xa). Bệnh tật cũng đã khiến nhà thơ rơi vào trạng thái buồn đau ảo giác (nhìn không ra, mờ nhân ảnh). Bởi vậy, con người cảnh vật tất cả đều nhòa mờ trong cô đơn, ngậm ngùi.
Trong cô đơn, ngậm ngùi, trong mộng ảo đau thương, nhưng lòng nhà tha vẫn cứ âm thầm muôn gởi đến con người, cuộc đời một thông điệp, nó như lời trần tình tội nghiệp:
Ai biết tình ai có đậm đà?
– Ta chưa thể quyết rằng cậu thơ ấy thể hiện tình yêu nước của Hàn Mặc Tử đến mức nào. Thế nhưng, chắc chắn rằng Hàn Mặc Tử rất yêu cuộc đời, rất yêu quê hương xứ sở. Ta cũng không ngờ trong tập Thơ Điên lại có những vần thơ đậm đà, chan chứa tình quê đến thế.
IV. Đúc kết
– Hàn Mặc Tử đã ra đi khi hãy còn quá trẻ. Thế nhưng dâu ấn thơ Hàn Mặc Tử là dấu ấn của trái tim nồng nàn, cuồng say, khát khao yêu và sống.
– Hàn Mặc Tử trong đời thơ của mình đã để lại cho đời những tác phẩm thơ mà ta không dễ gì hiểu được vì sự kì dị và tính siêu thực của nó. Thế nhưng Đây thôn Vĩ Dạ vừa siêu thực lại vừa gần gũi thông qua bức tranh cảnh vật, con người xứ Huế.
– Hàn Mặc Tử không sinh ra ở Huế. Thi nhân đến rồi lại đi, mang theo một bóng hình, một kỉ niệm dẹp khó phôi pha.
– Cũng như các bài thơ trữ tình khác, mạch cảm xúc bao giờ cũng thuộc về chủ thể trữ tình. Riêng Hàn Mặc Tử, mầm li biệt dường như là một ám ảnh khôn nguôi trong thơ ông. Phải chăng vì căn bệnh ngặt nghèo nên tất cả như phân chia thành hai vùng sáng — tối, đôi mảnh tâm trạng nhưng đều đựng sự chi phối của một dự cảm, một thực tiễn mất mát – chia lìa. Có lẽ “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng không phải là ngoại lệ?
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 8
1. Mở bài
Hàn Mặc Tử là một trong những bài thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Đây thôn Vĩ Dạ là cho vẻ đẹp con người xứ Huế, một bài thơ tiêu biểu cho sự sáng tạo đó của ông. Bài thơ sáng tác năm 1938 in trong tập Thơ Điên.
Bài thơ đã gây xôn xao dư luận, gợi nhiều cách hiểu khác nhau, có người cho rằng bài thơ chỉ thể hiện tình yêu của tác giả đối với người con gái xứ Huế. Vậy cách hiểu này đúng, sai chúng ta tìm hiểu nội dung bài thơ.
2. Thân bài
– Xuất xứ: Bài thơ gợi hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với cô gái quê ở Vĩ Dạ (Huế) đó là Hoàng Thị Kim Cúc. Một lần, khi biết tin Hàn bị lâm trọng bệnh, Kim Cúc gửi cho Hàn một tấm thiếp vẽ cảnh Huế có người chèo đò trên sông Hương với lời thăm chúc thi sĩ mau chóng bình phục…
– Khổ 1:
+ Câu mở đầu là câu hỏi tu từ nhưng gợi nhiều cách hiểu “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”, có thể là lời trách nhẹ nhàng, lời mời gọi tha thiết của nhà thơ hay đúng hơn là lời tự vấn, tự trách, tự hỏi mình của nhà thơ.
+ Tác giả miêu tả cảnh đẹp ở Huế: với những hàng cau thẳng tắp, cao vút, vượt lên những cây khác, nhưng cái đẹp của thôn Vĩ không phải do nắng hay hàng cau mà là do sự kết hợp “nắng hàng cau”, và cái nắng ở đây là “nắng mới”, cái nắng tươi rói, trong trẻo, tinh khiết. Hình ảnh “vườn ai mướt quá, xanh như ngọc” càng làm cho thôn Vĩ trở nên tươi tắn lạ thường…
+ Hình ảnh con người xuất hiện càng làm cho bức tranh trở nên sinh động, nhưng con người hiện lên kín đáo: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” – ý nghĩa tượng trưng cho vẻ đẹp con người xứ Huế.
– Khổ 2: “Gió theo lối gió…”.
+ Cảnh thực: Trên sông Hương, có lối gió đường mây cuối chân trời, có thuyền đậu bến sông trăng, và thuyền chở đầy trăng… Đó là cảnh tượng mơ hồ, huyền ảo rất hợp với cảnh xứ Huế.
+ Ý nghĩa tượng trưng: Những câu thơ miêu tả tâm trạng. “Lối gió, đường mây” là những ẩn dụ ý nói đôi lứa mỗi người một ngả. Sự tinh tế của câu thơ là ở chỗ ẩn dụ không hoàn toàn, thể hiện tình cảm chưa rõ rệt, đúng với trong thực tế.
+ Tác dụng của những câu hỏi tu từ: “Thuyền ai… Có chở trăng về kịp tối nay?” làm cho ý thơ có gì như hối hả, giục giã; và có những ẩn ý do không nói hết căn nguyên của câu hỏi, nên câu thơ càng huyền bí hơn.
– Khổ 3: “Mơ khách đường xa, khách dường xa…”.
+ Các hình ảnh mờ ảo, cách viết bí ẩn nhưng nhiều sức gợi.
+ Người ta thường nói Huế tím, Huế trắng để chỉ màu áo của các thiếu nữ, có phải vậy mà Hàn Mặc Tử phải bối rối thốt lên, bởi áo em trắng hay sương khói mờ nhân ảnh…
+ Câu cuối cùng mang chút hoài nghi mà chan chứa niềm yêu thiết tha: “Ai biết tình ai có đậm đà?”.
– Khái quát: Đây thôn Vĩ Dạ có sự thành công đặc biệt về cảnh Huế, trầm mặc, cổ kính nên nó mang một vẻ đẹp buồn, tao nhã, quý phái. Cảnh Huế rất sinh động, có hồn.
– Bài thơ trước hết thể hiện tình cảm của nhà thơ với một người con gái thôn Vĩ, nó khởi điểm và kết thúc đều luôn gắn liền với câu chuyện có thật về mối tình đơn phương giữa thi sĩ với cô con gái ông chủ Sở Đạc điền Quy Nhơn Tuy vậy, với tư cách là một tác phẩm nghệ thuật, bài thơ còn đi xa hơn một con người, một miền quê cụ thể: nó là tượng trưng cho tình cảm, tình yêu tha thiết của nhà thơ đối với cuộc đời này, nhất là khi nhà thơ đã lâm trọng bệnh, cảm nhận được cái thiêng liêng của cuộc đời. Điều sâu sắc cuối cùng mà thi sĩ muốn gửi đến tất cả chúng ta là tình yêu sâu nặng va thiêng liêng của ông đối với cuộc sống.
3. Kết bài
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có xuất xứ và cảm hứng chủ đạo hướng về một người con gái, một miền quê cụ thể, nhưng với sức khái quát hóa nghệ thuật, bài thơ vượt qua ranh giới những gì cụ thể để đến với mọi miền quê, với tất cả chúng ta. Đó là tình yêu tha thiết và sâu nặng của nhà thơ đối với con người, với quê hương, với cuộc sống và với tất cả cuộc đời này.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 9
1. Mở bài
Đây thôn Vĩ Dạ rút trong tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử tập thơ được xuất bản sau khi ông qua đời (1940). Con người đầy tài hoa và nhiệt huyết này, năm 25 tuổi (1937), bị mắc bệnh phong cùi và qua đời ba năm sau đó. Với tuổi đời ngắn ngủi và chỉ với hơn 10 năm sáng tác, thi sĩ đã để lại cho đời nhiều thi phẩm có giá trị, trong đó Đây thôn Vĩ Dạ được xem là một kiệt tác.
Xuất xứ bài thơ có liên quan đến câu chuyện tình giữa thi sĩ nghèo với cô con gái ông chủ sở Đạc Điền – Quy Nhơn. Tuy là một mối tình đơn phương nhưng nó đã để lại trong lòng thi sĩ họ Hàn một ấn tượng sâu sắc. Và trong bài thơ này, ý nghĩa của ấn tượng ấy không chỉ dừng lại ở chỗ đối với một con người cụ thể, một làng quê cụ thể, mà còn có giá trị phổ quát, giá trị nhân văn hết sức sâu đậm.
2. Thân bài
a. Khổ 1: Sao anh không về…
– Câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng. Đó là lời tác giả nói vởi Kim Cúc, hay lời Kim Cúc được tưởng tượng ra để trách móc nhà thơ? Cũng có thể hiểu đó là lời một nhân vật trữ tình phiếm chỉ:
– Hình ảnh “nắng mới, hàng cau” cùng với lá vườn mướt “xanh như ngọc” tạo ra một bức tranh chói lòa ánh sáng và rực rỡ sắc màu. Người ta không hết bàng hoàng là vì sao, qua hàng trăm năm, bức tranh làng cảnh Việt Nam vẫn thiếu vắng một hình ảnh rất dân dã, quen thuộc mà lại tươi đẹp đến rực rỡ như hình ảnh “nắng mới – hàng cau” trong bài thơ này?
Câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” đã gây nhiều cách hiểu: có người cho đó là gương mặt của người đàn ông vuông vức “chữ điền”, tượng trung cho người quan chức thời phong kiến; có người lại cho đó là gương mặt đẹp của người xứ Huế nói chung…., nhưng muốn hiểu thế nào thì câu thơ bí ẩn này vẫn mang phong vị và vẻ đẹp cổ kính, có lá trúc, có gương mặt chữ điền, có thể tượng trưng cho quê hương và con người xứ Huế.
Trong khổ thơ thứ hai: Gió theo lối gió… kịp tối nay? Cảnh tượng thực bên bờ sông Hương:
Nhưng đó cũng là ẩn dụ kín đáo. Cái đặc biệt ở đây là ẩn dụ không toàn phần – tức là “ẩn dụ một nửa”, “bán ẩn dụ”.
Hai câu tiếp theo là cầu hỏi mơ hồ, đầy ẩn ý:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
“Thuyền ai” là câu hỏi dành cho ai? Tại sao lại phải “về kịp?” Sao lại nay?” Tất cả những từ, những chữ ấy đều chứa đựng những điều huyền bí, khiến cho bài thơ như có ma lực, hấp dẫn người ta không dứt.
c. Khổ 3: Mơ khách đường xa… Ai biết tình ai có đậm dà?
Những hình ảnh mơ hồ, huyền ảo không ai giải thích nổi, và cuối cùng cũng không cần giải thích. Chỉ biết rằng những hình ảnh mơ hồ ấy rất ám ảnh người đọc, khiến ta cảm thấy đó là những câu thơ ấy là hay nhất, không thể thay thế.
Câu hỏi tu từ không thể trả lời, nhưng ta vẫn thấy câu hỏi ấy thống nhất với mạch cảm xúc chung của cả bài thơ: mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi tu từ. Cả bài thơ là một câu hỏi lớn không cần ai giải đáp. Đó chính là tình yêu, là tầm hồn Hàn Mặc Tử. Cũng chính là lời yêu nhắn gửi lại cuộc đời này với tất cả những nỗi niềm day dứt khó quên.
3. Kết bài
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một hài thơ tình, cũng là một bài thơ về đất nước, con người, nhưng quan trọng hơn là một bức di thư, gửi gắm niềm yêu thống thiết, bắt đầu từ một mối tình dang dở, nhưng kết thúc ở tình đời bao la. Tinh yêu của Hàn Mặc Tử đối với một người con gái xứ Huế, đôi với một làng quê xứ Huế, và rộng lớn hơn là đôi với tất cả cuộc đời này thật sự đã đạt tới một tình yêu bất tử.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 10
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả tác phẩm
2. Thân bài
Khổ 1
* Câu đầu: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” là câu hỏi nhưng lại gợi cảm giác như lời trách nhẹ nhàng và cũng là lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ (Lời nhà thơ tự trách, tự hỏi mình, là ước ao thầm kín của người đi xa được về lại thôn Vĩ).
+ “Về chơi” ≠ “về thăm”.
“Về thăm” có vẻ xã giao.
“Về chơi” mang sắc thái thân mật, tự nhiên, chân tình hơn.
=> Câu hỏi là duyên cớ để khơi dậy trong tâm hồn nhà thơ bao kỉ niệm sâu sắc, bao hình ảnh đẹp đẽ, đáng yêu của xứ Huế, trước hết là Vĩ Dạ- nơi có người mà nhà thơ thương mến và đẹp nhất là cảnh thôn Vĩ trong ánh bình minh.
* Ba câu sau: Vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên thôn Vĩ trong khoảnh khắc hừng đông.
– Hai câu 2&3:
+ Không tả mà chỉ gợi những gì gây ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc, còn lưu trong tâm trí người ở nơi xa.
+ “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”: phác qua cái nhìn từ xa tới, chưa đến Vĩ Dạ nhưng đã thấy những hàng cau thẳng tắp, cao vút, vượt lên trên những cây khác, những tàu lá cau lấp lánh ánh mặt trời buổi sớm mai.
=> Quan sát tinh tế: cái đẹp của thôn Vĩ không phải chỉ do “nắng” hay do “hàng cau” mà là do “nắng hàng cau”, do sự hài hoà của ánh nắng vàng rực rỡ trên hàng cau tươi xanh.
Hai chữ “nắng” trong câu thơ bảy chữ gợi đúng đặc điểm của nắng miền Trung: nắng nhiều, chói chang, rực rỡ ngay từ lúc bình minh. “Nắng mới lên” thật trong trẻo, tinh khiết, có cảm giác ánh nắng ấy làm bừng sáng cả khoảng trời hồi tưởng của nhà thơ.
+ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”: cái nhìn thật gần của người như đang đi trong những khu vườn tươi đẹp của thôn Vĩ. Có thể coi cái thần thái của thôn Vĩ là vườn cây, vườn bao bọc quanh nhà, gắn với ngôi nhà thành một cấu trúc thẩm mĩ xinh xắn.
“Mướt”: gợi được sự chăm sóc chu đáo, gợi được vẻ tươi tốt, đầy sức sống của vườn cây cũng như cái sạch sẽ, láng bóng của từng chiếc lá cây dưới ánh mặt trời.
“Vườn ai mướt quá”: mang sắc thái ngợi ca.
“Xanh như ngọc”: phép so sánh thật đẹp gợi hình ảnh những lá cây xanh mướt, mượt mà được “nắng mới lên”, cái ánh nắng mặt trời rực rỡ buổi sớm mai chiếu xuyên qua trở nên có màu xanh trong suốt và ánh lên như ngọc.
=> Tình yêu thiên nhiên, cuộc sống tha thiết, ân tình sâu sắc, đậm đà với thôn Vĩ.
– “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”: Sự xuất hiện của con người làm cảnh vật thêm sinh động. Tuy nhiên, con người xuất hiện thật kín đáo, rất đúng với bản tính của người Huế, vì chỉ thấy thấp thoáng sau những chiếc lá trúc là khuôn mặt chữ điền, khuôn mặt của người ngay thẳng, cương trực, phúc hậu theo quan niệm thời xưa.
=> Hàn Mặc Tử càng gợi rõ hơn thần thái của thôn Vĩ: cảnh xinh xắn, người phúc hậu, thiên nhiên và con người hài hoà với nhau trong một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng
Khổ 2
– Hai câu đầu: Bao quát toàn cảnh
+ Tả thực vẻ êm đềm, nhịp điệu khoan thai của xứ Huế: gió mây nhè nhẹ bay đi, dòng nước chảy lững lờ, cây cỏ khẽ đung đưa.
+ Nghệ thuật nhân hoá => thiên nhiên cảnh vật cũng nhuốm màu tâm trạng con người.
Nhịp thơ 4/3 => sự chia li, tan tác.
Sự vận động ngược chiều của hình ảnh thơ => sự trống vắng của không gian.
=> Hình ảnh đẹp nhưng cũng thật lạnh lẽo, dường như nó phảng phất tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ.
– Hai câu thơ sau: dòng sông Hương trong đêm trăng lung linh, huyền ảo
+ Cảnh thực mà như ảo: Dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng, dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian nghệ thuật thêm hư ảo, mênh mang. Con thuyền vốn có thực trên sông trở thành một hình ảnh của mộng tưởng, nó đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một nơi nào đó trong mơ.
+ Con thuyền, dòng sông, ánh trăng trong sự hồi tưởng của quá khứ lại gắn với cảm nghĩ của nhà thơ trong hiện tại. Nhà thơ muốn con thuyền chở trăng về kịp “tối nay” chứ không phải mộ tối nào khác. Phải chăng trong “tối nay”, nhà thơ có điều gì muốn tâm sự và chỉ có trăng mới hiểu được?
=> Cho thấy tâm hồn nhà thơ có buồn và cô đơn, khắc khoải nhưng vẫn chan chứa tình yêu với con người và thiên nhiên xứ Huế.
Khổ 3
– Nhà thơ trực tiếp tâm sự với người xứ Huế.
– Điệp ngữ “Khách đường xa”: nhấn mạnh thêm nỗi xót xa. Câu thơ đầu như lời tâm sự của nhà thơ với chính mình: Trước lời mời của cô gái thôn Vĩ, có lẽ nhà thơ chỉ là người khách quá xa xôi, hơn thế, chỉ là người khách trong mơ.
Có thể hiểu câu thơ theo hai nghĩa:
+ Về nghĩa thực: Xứ Huế nắng nhiều, mưa nhiều cũng nhiều sương khói, sương khói làm tăng thêm vẻ hư ảo, mộng mơ của Huế nhưng sương khói đều màu trắng, “áo em” cũng màu trắng thì chỉ thấy bóng người thấp thoáng, mờ ảo.
+ Về nghĩa bóng: cái sương khói làm mờ cả bóng người ấy phải chăng tượng trưng cho cái huyền hoặc của cuộc đời đang làm cho tình người trở nên khó hiểu, xa vời?
– Câu cuối mang chút hoài nghi mà lại chan chứa niềm thiết tha với cuộc đời.
Nhà thơ sử dụng rất tài tình đại từ phiếm chỉ “ai” => câu thơ trở nên đa nghĩa:
+ Nhà thơ làm sao mà biết được tình người xứ Huế có đậm đà không hay cũng mờ ảo, dễ có chóng tan như sương khói kia?
+ Người xứ Huế có biết chăng tình cảm nhà thơ với cảnh Huế, người Huế hết sức thắm thiết, đậm đà?
=> Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng chỉ tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng trong tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.
3. Kết bài
Tổng kết về nội dung và nghệ thuật
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 11
1. Mở bài
- Một vài nét đặc biệt về Hàn Mặc Tử và thơ ông.
- Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, được coi là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất và hay nhất của phong trào thơ Mới cũng như trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
2. Thân bài:
a. Tác giả và tác phẩm:
- Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 trong một gia đình công giáo nghèo tại Quảng Bình.
- Phong cách thơ của ông có sự đan xen kết hợp giữa những hình ảnh thân thuộc, trong trẻo, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những thứ rùng rợn, ma quái, cuồng loạn đã tạo nên một diện mạo thơ vô cùng kỳ dị và phức tạp
- Đây thôn Vĩ Dạ sáng tác năm 1938 in trong tập thơ Điên, sau đổi tên thành Đau thương, bài thơ ra đời trong hoàn cảnh mối tình đơn phương của Hàn Mạc Tử với cô gái gốc Huế rơi vào tuyệt vọng.
b. Khổ thơ đầu: Khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp tràn đầy sức sống.
- "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" câu hỏi tu từ mang âm hưởng Huế, đã mở ra mạch cảm xúc cho cả bài thơ, đó có thể là lời trách móc, mời mọc của cô gái Huế, cũng có thể là lời tự vấn và dự cảm không may của chính nhà thơ về cuộc đời mình.
- "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên": Hình ảnh nắng ban mai rực rỡ, phủ đầy không gian đem đến sự ấm áp, bừng sức sống.
- "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc": Gợi ra cái sự trù phú, non tươi, mỡ màng tràn đầy sinh khí của khu vườn thôn Vĩ, từ "ai" làm cho câu thơ thêm tình tứ, có hồn hơn.
- "Lá trúc che ngang mặt chữ điền": Nỗi niềm mong nhớ của nhà thơ về cô gái Huế, người tình trong mộng bấy lâu với những nét vẽ đậm nhạt mang khung hướng "thi trung hữu họa".
c. Khổ thơ thứ hai:
- Có sự chuyển đổi cảnh sắc và cảm xúc của nhà thơ một cách rõ ràng từ buổi sáng sớm nắng mai tràn đầy sức sống đến cảnh sông nước, trời mây tối tăm, cô đơn lạnh lẽo.
- "Gió theo lối gió mây đường mây": Bộc lộ rõ nội tâm và dự cảm không lành của Hàn Mặc Tử trước sự chia ly, cách biệt ghê gớm của sinh tử.
- "Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay": Xóa tan đi cái mộng cảnh biêng biếc, tươi trẻ tràn ngập sức sống và hơi ấm tình người trong khổ thơ đầu, là sự bừng tỉnh của tác giả trước cảnh ngộ thê lương của bản thân, trước con đường tăm tối vô hương, vô sắc hiện hiện tại.
- Câu hỏi "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?" ẩn hiện sự lo lắng của tác giả trước sự hữu hạn của đời mình, lo rằng liệu bản thân còn kịp tận hưởng ánh trăng sáng, hay chính là cuộc đời vốn còn nhiều nuối tiếc.
d. Khổ thơ cuối:
- "Mơ khách đường xa, khách đường xa/Áo em trắng quá nhìn không ra...": Nhận thức của tác giả trước cuộc sống trần thế, tình yêu đang dần vụt mất, chỉ để lại cho ông một nỗi cô đơn và trống trải.
- "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/Ai biết tình ai có đậm đà?": Nỗi đớn đau về cuộc đời thiếu vắng hơi ấm tình người và nỗi khắc khoải khôn nguôi về một tình yêu không có kết quả.
3. Kết bài:
- Đôi lời kết về Hàn Mặc Tử và Đây thôn Vĩ Dạ.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 12
1.Kết cấu bài thơ
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có ba khổ thơ, mỗi khổ là một cảnh sắc, một tâm tình ngỡ như không có liên hệ gì với nhau nhưng thực ra vẫn có chỗ liền nhau. Đó là trạng thái xúc cảm – một dòng chảy gồm những đứt – nối của lòng yêu cuộc sống đến khắc khoải. Đây cũng chính là nét độc đáo của bài thơ này.
-Khổ 1 : Cảnh hàng cau, vườn thôn Vĩ dưới ánh nắng ban mai đẹp tinh khôi. Ẩn trong cảnh là nỗi ước ao, niềm đắm say của nhân vật trữ tình.
-Khổ 2 : Cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo. Nhân vật trữ tình dường như mong ngóng, lo âu.
-Khổ 3 : Cảnh trong mộng. Cảm xúc của nhân vật trữ tình là hoài nghi, mơ mộng.
2.Phân tích từng khổ thơ
a.Khổ thơ thứ nhất
Mở đầu bài thơ là câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”. Lời thơ khơi dòng thi tứ là một câu hỏi trong tâm tưởng nhà thơ như muốn khẳng định lời thăm hỏi của người thôn Vĩ – người ông vẫn thầm yêu trộm nhớ – không phải trong mơ mà là có thật; và như thế, thi sĩ như phân thân để nói với mình về Cúc : “Em bảo sao anh không về thôn Vĩ ư ?”, “Sao mình lại không về thôn Vĩ nhỉ ?”… Câu thơ như một lời gió thoảng, nhỏ nhẹ, êm ru và ngọt ngào kiểu Huế. Tấm bưu ảnh và những dòng chữ do chính Hoàng Cúc viết đến với nhà thơ lúc bệnh tật, cô đơn như là một liều “thần dược”. Bỗng chốc sinh lực như được hồi sinh, đất trời mở ra tràn đầy sức sống, những hình ảnh về thôn Vĩ ngày xưa, thời Hàn Mặc Tử còn là cậu học trò Trường Pe-lơ-ranh ở Huế, cùng lúc hiện về, tưoi rói, đẹp tinh khôi:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Cảnh thôn Vĩ chỉ còn như vậy, ít nét, mơ hồ, không xác định bởi vì đó là cảnh trong cõi nhớ, là những ấn tượng được lưu giữ ở miền kí ức. Nói đến hàng cau vì hàng cau vươn cao đón được nắng mới lên sớm nhất. Nhớ hàng cau bởi vì nhớ cái sắc nắng trong khoảnh khắc hàng cau đón những tia nắng ban mai tinh khiết mà rực rỡ ấy. Cảnh trí vườn tược nhập nhoà đường nét, chỉ còn lại là một ấn tượng về màu xanh mướt mát xanh như ngọc. Cái mướt của vườn đáng nhớ có lẽ vì cái sắc nắng của hàng cau rọi xuống. Rồi không rõ vì sao từ trong kí ức lại trở về một bức chân dung đẹp rất Á Đông : “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”…
Đọc khổ thơ này – khổ thơ vui nhất của bài – nhiều người nghĩ rằng có thể tình cảm đặc biệt của chàng thi sĩ họ Hàn dành cho cô gái Huế có tên Hoàng Thị Kim Cúc những năm xưa vẫn ấp ủ, giấu kín trong lòng nay bỗng được đánh thức. Vì thế nên cảnh mới đẹp, mới trong, mới rạng ngời như tình yêu mới chớm nở ở thuở ban đầu lưu luyến ấy. Mà cảnh là ẩn tình – là nỗi ước ao được sống, được yêu đắm say mãnh liệt.
b.Khổ thơ thứ hai
Bốn câu ở khổ thơ này chẳng có liên hệ gì vói bốn câu trên, chẳng còn hàng cau với “nắng mới lên”, chẳng còn “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”, cũng chẳng còn “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” nữa. Niềm yêu rạo rực, ngắn ngủi trước vẻ đẹp của tình người, của cảnh đời bỗng vụt tắt. Ấy là vì thi sĩ chợt tỉnh mộng yêu, đối diện với sự thật hiện hữu : giữa thân phận mình với người thôn Vĩ kia là một hố sâu ngăn cách – sự ngăn cách còn đáng sợ hơn nhiều nỗi xa cách về không gian. Đó là chứng bệnh nan y như một bản án tử hình chờ ngày hành quyết. Thi tứ Hàn Mặc Tử lại vụt bay đến cõi đau thương đối lập :
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Do trực cảm về sự chia lìa đôi ngả giữa nhà thơ với người thân, với người trong mộng, với cuộc đời rồi sẽ như “Gió theo lối gió, mây đường mây” nên trước mắt nhà thơ, “nắng hàng cau” đã tắt lụi, thay vào đó là “dòng nước buồn thiu”. “Hoa bắp lay” có lẽ cũng là một hình ảnh xuất hiện đột ngột theo dòng cảm xúc hư ảo, mông lung lúc này ; mặc dù, về luận lí, có thể cho rằng đó cũng là một ấn tượng được lưu giữ trong kí ức về thôn Vĩ tái hiện (Trên cồn Hến giữa sông Hương, đối diện vói thôn Vĩ Dạ, có trồng nhiều vạt bắp ; vào mùa, cả một vùng hoa ngút ngát lay động theo gió). Chìm ngập trong mối sầu gió – mây đôi ngả, thi sĩ chỉ còn biết mong ngóng, đợi một người bạn cố tri có vẻ đẹp huyền ảo để phần nào linh hồn bất hạnh được cứu rỗi, được lãng khuây. Đó là vầng trăng vàng, trăng ngọc. Chỉ có trăng là điểm tựa, là niềm an ủi duy nhất. Cho nên thi sĩ hỏi với niềm hi vọng đầy khắc khoải nhưng cũng vô cùng phấp phỏng lo âu :
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
c. Khổ thơ thứ ba
Đến khổ thơ cuối, ta thấy Hàn Mặc Tử vẫn lặng đi trong mơ tưởng :
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Theo tứ thơ và mạch cảm xúc của thi nhân thì câu thơ trên gợi cho ta nghĩ ngay đến một khách… má hồng. Câu sau giúp ta khẳng định sự “suy diễn” trên – “Áo em trắng quá nhìn không ra”. “Khách đường xa” và cả “màu áo trắng” đều là trong tâm tưởng thi sĩ cả. Nhìn vào lòng mình, nhìn vào kí ức để thấy cái màu áo ấn tượng nên nó hư hư thực thực. Thực vì có lí và bất ngờ : trắng quá nên nhìn không ra. Thực mà lại hư ảo vì màu áo ấy bây giờ choán hết cảm xúc của tác giả, nhen lên trong lòng nhà thơ một thứ tình cảm rất khó xác định, rất khó nắm bắt :
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?
Câu thơ kết không giấu nổi nỗi ngậm ngùi, nghi ngại trong lòng chàng thi sĩ thân bệnh nhưng lòng khao khát được yêu thương. Nêu ở cuối khổ thơ thứ hai, thi sĩ vừa cầu cứu trăng làm tan mối sầu thương vừa lo âu ước nguyện không thành (“Có chở trăng về kịp tối nay ?”) thì kết thúc khổ thơ cuối cùng của bài, dường như thi sĩ muốn bấu víu vào tình người thôn Vĩ, vào tình đời mà sống trong cơn hoạn nạn.
Câu thơ kết bài cũng là một câu hỏi – hỏi trong lúc đã tỉnh chứ không còn mộng. Nó vang ứng với câu hỏi đầu tiên và để lại dư ba trong lòng người đọc :
Ai biết tình ai có đậm đà ?
Chẳng nhẽ thi sĩ lại nói trắng ra là : “Không biết tình em có đậm đà không mà anh về thôn Vĩ”. Bài thơ trong sáng. Đọc bài thơ, ai cũng cảm nhận được vẻ đẹp hư ảo của nó nhưng dù phân tích thế nào thì vẻ đẹp ấy vẫn là một bí ẩn. Bài thơ trong sáng mà buồn thấm thìa.
3.Đặc điểm về nghệ thuật
Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử được đánh giá là một kiệt tác, bởi bài thơ mở ra một hướng tìm tòi về thi pháp của thơ mới lãng mạn. Ở bài thơ này, cái nghịch lí của tồn tại được biểu đạt một cách súc tích, thông qua sự trải nghiệm cá nhân của riêng thi sĩ Hàn Mặc Tử ; hình tượng thơ đa nghĩa, biến ảo lung linh. Mỗi khổ thơ là một câu hỏi giúp người đọc dần dần khám phá “cái tôi” trữ tình đầy mâu thuẫn của thi nhân – niềm xốn xang trong hoài niệm về thôn Vĩ; sự mặc cảm về thân phận “chậm chân”, “lỡ chuyến” giữa cuộc đời; sự ám ảnh về cõi mơ, về tình trạng gió – mây đôi ngả trong cuộc đời và trong tình yêu; cảm giác lo âu, phấp phỏng, mong chờ,… – giúp ta cảm nhận bản năng sống vô cùng mãnh liệt của chủ thể trữ tình, một thi nhân tài hoa dù lâm vào tình cảnh bi đát nhưng không thôi tra vấn về ý nghĩa cuộc đời.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 13
Dàn ý khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ:
Không gian cảnh vườn thôn Vĩ, nét đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế với nỗi nhớ da diết:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Trong khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11: Khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, đơn sơ nhưng hết sức ấn tượng và giàu sức sống, con người đôn hậu, dịu dàng, đằm thắm. Cảnh và người thôn Vĩ trong kí ức và tưởng tượng càng tươi đẹp bao nhiêu thì Hàn Mặc Tử càng đau khổ và nuối tiếc bởi không thể nào quay trở về được nữa. Đây là cái “tôi” buồn bã, cô đơn khắc khoải của Thơ mới.
– Câu hỏi tu từ, giọng điệu thơ thân tình da diết
+ Lời trách móc nhẹ nhàng.
+ Lời mời gọi chân thành tha thiết.
+ Lời phân thân tự hỏi chính mình.
Nỗi niềm đau xót, tiếc nuối nghẹn ngào có nhiều hối tiếc.
– Hình ảnh:
+ Nắng hàng cau.
+ Nắng mới lên.
+ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
Thiên nhiên hiện lên trong trẻo, ấm áp, tinh khôi, đầy sức sống, tươi đẹp mơn mởn.
+ “Mặt chữ điền”:
Khuôn mặt cô gái Huế.
Khuôn mặt của nhà thơ.
Hình tượng thơ đa nghĩa, độc đáo, ấn tượng, khắc họa nét đẹp kín đáo, đặc trưng của con người xứ Huế, tạo nên cái thần của thôn Vĩ.
Dàn ý khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ:
Không gian bến sông trăng thực ảo đan xen và tâm trạng buồn đau, chia lìa – Nội dung chính của khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp tay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Cái tôi cô đơn bị bỏ rơi, bị quên lãng giữa dòng đời tội nghiệp. Yêu cuộc sống đến mãnh liệt nhưng lại gặp phải hoàn cảnh bi thương.
* Hình ảnh thiên nhiên không hòa hợp:
– Điệp từ “gió”, “mây” tạo ra sự cố định, ngăn cách giữa những sự vật thiên nhiên.
– Thông thường, gió thổi mây bay là quy luật một chiều không thể chia cắt nhưng câu thơ lại hàm chứa những từ ngữ không tuân theo quy luật tự nhiên: Gió đi đường của gió, mây bay lối của mây, mây gió chia lìa, li tán đoạn tuyệt với nhau.
– Nhịp thơ 4/3 đã cắt đôi câu thơ, ngắt “gió” và “mây” ra thành hai thái cực.
Hình ảnh thiên nhiên không hòa hợp chính là do mặc cảm về thân phận. Hàn Mặc Tử yêu thiên nhiên và cuộc sống vô cùng, tuy nhiên lại không thể trở về cuộc sống đời thường được nữa (căn bệnh vốn bị người đời xa lánh).
* Nỗi buồn trĩu nặng:
– Nhân hóa: Dòng nước “buồn thiu”
– Động từ gợi tâm trạng kéo theo: “lay”
Từ “lay” tự nó không vui, không buồn nhưng trong cảnh này, sông nước hay chính nỗi buồn của mây nước đã xâm chiếm vào hồn hoa bắp bên sông và tạo thành một nỗi buồn trĩu nặng trong lòng thi nhân. Nỗi buồn ấy xuất phát từ sự cô đơn, mặc cảm, day dứt không yên lòng, vẫn còn nhiều điều tiếc nuối.
* Nỗi lo âu, phấp phỏng:
– Đại từ phiếm chỉ “ai”, câu hỏi tu từ. Sự mông lung, vô định.
– Hình ảnh “trăng” là tri kỉ và niềm tin cậy. Thiên nhiên tràn ngập ánh trăng tạo nên một cói liêu trai, huyền ảo không có thực. Trăng là thứ duy nhất đi ngược lại xu thế chảy trôi của vạn vật để tìm về với thi sĩ. Trăng là điểm tựa, là niềm an ủi, là toàn bộ hi vọng về sự thấu hiểu, là cầu nối đưa nhà thơ trở về với đời thực.
– Từ “kịp” là hiện thân cho nỗi lo sợ của tác giả. Thi nhân lo sợ vì quỹ thời gian còn lại quá ít ỏi mà khát vọng giao cảm với thiên nhiên và cuộc đời vẫn còn đong đầy, tha thiết.
Phân tích khổ 3 Đây thôn Vĩ Dạ:
Không gian thiên nhiên chập chờn gắn với cảm xúc mơ tưởng, hoài nghi:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Trong khổ 3 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11 chúng ta thấy một tình yêu đơn phương, day dứt đến tội nghiệp. Nỗi niềm băn khoăn, day dứt khôn nguôi càng nhấn mạnh khao khát được sống, được giao cảm yêu thương và chia sẻ với cuộc đời.
– Điệp ngữ “khách đường xa” có sức gợi tả, ngắt nhịp 4/3 tạo nhịp điệu khẩn trương gấp gáp. Nhấn mạnh sự mong đợi tha thiết, lời khẩn khoan van nài những người xưa thật xa xôi, tất cả trở nên vô vọng.
– Hình ảnh: màu áo trắng mờ ảo trong sương khói khiến cho dáng hình con người nhòa đi trước mắt, nhòa đi cả trong tiềm thức. Màu áo trong tâm tưởng vốn trần đầy kỉ niệm nay trở nên nhạt nhòa, xa cách.
– Câu hỏi tu từ cùng với đại từ phiếm chỉ “ai” – lớp từ đa nghĩa.
Thiên nhiên chập chờn, ma mị, mộng ảo, vận động theo logic của tâm trạng. Đó là cái tôi đau thương, nhạt nhòa không ra đường nét, là nỗi niềm hoài nghi, khắc khoải, mong chờ trong vô vọng, là tâm trạng đau thương, mặc cảm không dám trông mong vào sự đậm đà của tình người trong chốn nhân gian.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 14
I. Khổ 1: Bức tranh làng quê và con người thôn Vĩ.
a. Câu hỏi tu từ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
* Câu mở đầu bài thơ đã làm dấy lên nhiều ý kiến trái chiều. Có người cho rằng đây là lời Hoàng Cúc hỏi Hàn Mặc Tử, cũng có giả thiết được đặt ra rằng đây câu tự hỏi lòng của tác giả. Dù theo ý kiến nào, câu thơ cũng đều chứa đựng nhiều tầng cảm xúc và ý nghĩa sâu xa.
* Nếu cho đây là lời của Hoàng Cúc:
+ Câu hỏi là một lời mời Hàn Mặc Tử về chơi làng quê Vĩ Dạ xứ Huế. Tại sao người hỏi lại dùng từ “về” thay vì từ “đến”? Có lẽ, thôn Vĩ đã là một nơi gắn bó, thân quen với nhà thơ. Thôn Vĩ là nhà, là quê hương, là nơi có một người con gái đang chờ đợi Hàn Mặc Tử.
+ Nếu thôn Vĩ thân thuộc với tác giả như vậy, thì câu hỏi còn là một lời hờn trách nhẹ nhàng nhưng cũng đầy nghẹn ngào “sao anh…”. Cụm từ “không về” chứa cả những giận hờn, trách cứ, cả những lo lắng, nhớ nhung.
* Nếu cho đây là lời của Hàn Mặc Tử: câu thơ chính là tiếng lòng của tác giả.
+ Cụm từ “sao anh” lại gợi lên những trắc trở, ưu tư trong lòng chủ thể trữ tình. Trong đó vẫn chứa đựng sự hờn trách, nhưng là trách bản thân, ở trạng thái mạnh mẽ hơn và cũng bất lực hơn, bởi vì nhà thơ không thể về thôn Vĩ nữa rồi.
+ Từ “về” cũng cho thấy vị trí đặc biệt của làng quê thôn Vĩ – quê hương thứ hai trong trái tim Hàn Mặc Tử. Chính vì vậy, chủ thể trữ tình càng nhung nhớ và dằn vặt, đau thương hơn khi hình ảnh đầy thân yêu, gần gũi của làng quê sông nước Vĩ Dạ hiện lên trong tâm trí.
* Tiểu kết: Dù hiểu nghĩa nào, người đọc đều tìm thấy nỗi nhớ, niềm mong mỏi và cả tình yêu thương da diết, nỗi bất lực và trăn trở của người hỏi. Điều này đã chứng tỏ tác dụng nghệ thuật lớn lao của câu hỏi tu từ được sử dụng một cách tài tình. Mở bài thơ bằng một câu hỏi chứa đựng nhiều lớp sắc thái, tác giả đã gợi ra trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ về một thôn Vĩ vừa gần vừa xa trong lòng nhà thơ.
b. Thiên nhiên thôn Vĩ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
* Bao phủ lên cây lá Vĩ Dạ là màu nắng vàng ươm lấp lánh, như trong hai câu thơ “Trong làn nắng ửng khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.”(2). Điệp từ “nắng” gợi lên niềm vui, niềm hân hoan trong khi cụm từ “nắng mới lên” giúp ta hình dung ra một buổi sớm chan hòa ánh ban mai, không phải ban trưa chói chang nắng.
*Dưới ánh nắng vàng óng là hàng cau đứng thẳng tắp quá đỗi thân thuộc với cảnh làng quê Việt Nam. Cầu – loại cây mang cái hồn quê giản dị, đơn sơ đã đi vào trong thơ ca Nguyễn Bình: “Nhà anh có một hàng cau/ Nhà em có một giàn trầu”(3) và cũng xuất hiện trong sáng tác của Trần Đăng Khoa: “Đường cỏ lơ mơ nắng/ Mái tranh chìm chơi với/ Vai tán cau mộc mạc/ Thả hồn quê lên trời”. (4)
* Cụm từ “vườn ai” để chỉ một khu vườn tươi tốt như mọi khu vườn ở thôn Vĩ. Tiếng “ai” gợi ra hình ảnh Hàn Mặc Tử đang mơ hồ mường tượng lại quá khứ tươi đẹp khi đến chơi xứ Huế. Đi kèm với đó là tính từ giàu sức gợi “mướt” và biện pháp so sánh “xanh như ngọc”.
+ Chỉ qua một tính từ “mướt” ta thấy khu vườn thật đỗi xanh tươi. Không chỉ xanh, mảnh vườn nhỏ xinh còn tràn đầy sức sống khi được phủ lên một lớp sương đêm ướt mọng, óng ánh dưới nắng mai. Từ “mướt” còn làm nổi bật lên vẻ mịn màng, mềm mại, non tơ của thảm cỏ.
+ Thêm vào đó, phép so sánh “như ngọc” còn khiến mảnh vườn thật trù phú, mỡ màng. Với người nông dân sống nhờ vào hoa màu thu hoạch được từ miếng đất con con ấy, khu vườn chính là viên ngọc ước quý giá. Bên cạnh đó, phép so sánh cũng khiến màu xanh của vườn thôn Vĩ mang một sắc màu trong trẻo, lung linh, tỏa sáng ra không gian. Đọc câu thơ này, người ta liên tưởng tới lời thơ “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá” của Xuân Diệu (5). Màu xanh ngọc của “Ông hoàng thơ tình Việt Nam” để phân biệt với những xanh dương, xanh lam, xanh lục,.. thì sắc “xanh như ngọc” của cây bút “thơ điên” để chỉ màu sắc của mảnh đất quê nhà thứ hai, màu của nỗi nhớ mong khao khát được quay về, màu của yêu thương đang cháy âm ỉ trong con tim nhà thơ.
* Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của tác giả trong hai câu thơ này thực vô cùng tinh tế, khiến Hoài Thanh từng ngợi ca rằng: “Hàn Mặc Tử có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng láng.”
c. Con người thôn Vĩ:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
* Lại một câu nữa làm dấy lên những tranh luận trong giới phê bình văn học. Chủ nhân gương mặt lấp ló sau lá trúc ấy là Hàn Mặc Tử hay Hoàng Cúc?
+ Nếu cho gương mặt “chữ điền” kia là của tác giả, giả thiết này hoàn toàn có căn cứ. Bởi trong sáng tác của mình, không ít lần nhà thơ tự họa bản thân, lúc thì ẩn sau cành lê, khi lại lấp ló dưới khóm lau, bờ liễu. Thêm vào đó là khuôn “chữ điền” vuông vắn nên không ít người đoán đây là một lần Hàn Mặc Tử miêu tả chính mình, một chàng trai trẻ đang núp sau khóm trúc ngắm người con gái mình thầm thương, trộm nhớ.
+ Nhưng cũng có thể đây là khuôn mặt của Hoàng Cúc, hay bất cứ một cô gái người Huế nào bởi con người xứ ấy có câu ca dao: “Mặt em vuông tựa chữ điền/ Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài./ Lòng em có đất có trời/ Có câu nhân nghĩa, có lời thủy chung.” Từ đó, người đọc hiểu Hàn Mặc Tử không chỉ chú ý đến khuôn mặt, mà còn đề cao nhân cách của cô gái. “Mặt chữ điền” vẽ nên những đường nét vuông vắn đầy phúc hậu của cô gái quê chân chất. Lá trúc – một trong bốn loài cây thường được dùng để chỉ những phẩm chất cao đẹp trong thơ Đường càng giúp tô đậm vẻ đẹp tâm hồn của cô gái ấy. Hình ảnh lá trúc mảnh mai, thon dài đặt bên cạnh khuôn mặt vuông đầy lại tạo nên một bức chân dung hài hòa, sống động, có con người, có thiên nhiên, có sự hòa quyện gần gũi.
* Tiểu kết: Dù nhìn nhận ý thơ theo nghĩa nào, độc giả đều thấy được tình yêu, sự gắn bó giữa người và cảnh, đều có ấn tượng sâu sắc với khuôn mặt bí ẩn, lấp ló của người dân quê đôn hậu, chân thật dưới khóm trúc.
d. Kết luận: Khổ đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là bức tranh đẹp, hòa quyện giữa thiên nhiên và con người xứ Huế. Qua những hình ảnh đầy thơ mộng, thanh bình của vùng quê xứ Huế, người đọc thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu con người và cái nhìn trân trọng, nâng niu của tác giả với hồi ức đẹp.
II. Khổ 2: Nỗi buồn thực tại của chủ thể trữ tình
1. Thiên nhiên đượm buồn:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.”
* Bức tranh thôn Vĩ tươi sáng, trong trẻo trong khổ thơ đầu đã hóa thành khung cảnh hoang vắng, buồn thương. Không còn khu vườn xanh tốt đầy sức sống mà thay vào đó là bầu trời u ám, dòng sông lặng lẽ trôi. Qua sự biến chuyển cảm xúc, cảnh thật – hình ảnh đẹp có thực trong hồi ức của Hàn Mặc Tử đã chuyển thành cảnh ảo – khung cảnh được vẽ nên bởi tư tình của chính nhà thơ.
* Bằng cách chia nhịp 4/3, câu thơ đầu được ngắt thành hai vế, miêu tả hai chuyển động riêng biệt của gió và mây. Thông thường người ta thấy gió thổi mây bay, nhưng qua đôi mắt đượm buồn của nhà thơ, mây gió chia đôi ngả. Ý thơ muốn nói đến tình cảnh thực tại của Hàn Mặc Tử, sống chia lìa xa cách những người ông thương yêu.
* Khổ thơ là sự kết hợp giữa cả bầu trời quạnh hiu và mặt đất trống trải im vắng. Qua nghệ thuật nhân hóa, “dòng nước buồn thiu” hiện lên như một con người, có linh hồn và nặng trĩu tâm tư. Đã không ít nhà thơ miêu tả sông Hương – con sông nổi tiếng của xứ Huế.
+ Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi nhịp chảy chậm rãi của con sông ấy là “điệu slow tình cảm mà sông Hương dành riêng cho Huế”
+ Nhà thơ Thu Bồn lại miêu tả về sông Hương thế này: “Con sông dùng dằng, con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.”
* Qua hai ví dụ trên, sông Hương hiện lên đầy tình tứ, trong khi đó, tính từ “buồn thiu” lại khiến dòng sông của Hàn Mặc Tử trông thật u sầu, buồn bã, chán chường làm sao.
* Trong hai câu đầu, hình ảnh thơ có sự chuyển động, nhưng chúng không đem lại vẻ tươi vui mà trái lại, còn khiến thiên nhiên thêm thê lương, ảm đạm. Những ngọn gió chỉ khẽ chuyển mình đủ đế hoa ngô nhẹ đung đưa. Nỗi buồn của Hàn Mặc Tử cũng vậy, nó không phải một chấn động tâm lí mạnh, nhưng lại là nỗi bi thương âm ỉ ngày ngày dày vò trái tim của thi nhân. Từ “lay” mà nhà thơ đã sử dụng trong câu thơ cũng được bắt gặp trong dân ca: “Ai về trồng dứa qua truông/ Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em.”, và cũng xuất hiện trong bài “Bờ sông vẫn gió” của Trúc Thông: “Lá ngô lay ở bờ sông/ Bờ sông vẫn gió người không thấy về.”
* Tiểu kết: Nỗi buồn thấm đượm cảnh sắc thiên nhiên bắt nguồn từ sự thức tỉnh tâm trí Hàn Mặc Tử. Những câu thơ đầu đẹp như mơ cho đến khi nhà thơ chợt giật mình nhận ra tất cả chỉ còn là quá khứ không thể xảy ra lần nữa, khoảnh khắc đẹp chỉ đến một lần. Tác giả không thể về thôn Vĩ nữa rồi, chưa nói đến có được cảm nhận lại niềm hạnh phúc ngọt ngào ngày ấy hay không. Trở về khoảng không gian, thời gian mình đang sống, Hàn Mặc Tử chỉ thấy trống trải, cách xa.
2. Hồn thơ khát khao hạnh phúc:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
* Đại từ phiếm chỉ “ai” trong “vườn ai” lại xuất hiện, từ đó, hình ảnh con thuyền hiện lên vừa gần vừa xa, vừa thân thuộc, gần gũi, vừa lạ lẫm, cách trở.
* Mặt sông được phủ một lớp bạc lấp lánh với hình ảnh ẩn dụ “sông trăng”. Vầng trăng lung linh huyền ảo chẳng treo ở trên trời, mà lại nằm trên dòng nước.
* “Trăng” trong câu thơ trên là trăng của đất trời, sông nước; “trăng” ở câu dưới lại là hình tượng thơ trở đi trở lại trong những tác phẩm của Hàn Mặc Tử.
+ Có những khi trăng hiện lên với sự ma quái, bí ẩn: “Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra.”
+ Đôi lúc trăng lại mang vẻ đẹp trân quý: “Là sợi đường tơ dịu quá trăng/ Là bao nhiêu ngọc cũng chưa bằng”
* “Trăng” trong “Đây thôn Vĩ Dạ” đầy thơ mộng và trừu tượng. Bóng nguyệt ấy có thể là hạnh phúc viên mãn, đủ đầy mà Hàn Mặc Tử khát khao, cũng có thể là chính con người thi nhân, mong ước được quay lại xứ Huế, gặp lại người thân yêu. Dù hiểu thế nào, độc giả đều cảm nhận được nỗi mong mỏi da diết của tác giả. Không phải ông không hiểu hoàn cảnh bất đắc dĩ của mình, nhưng vì tình yêu quá sâu nặng với con người, với cuộc đời, Hàn Mặc Tử mới lưu luyến, hi vọng nhiều đến vậy.
* Câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” cho thấy sự băn khoăn, trăn trở của Hàn Mặc Tử. Bệnh tật và khoảng cách ngăn trở ông đến với miền hạnh phúc. Nhưng trong thâm tâm nhà thơ lại thầm mong một phép màu có thể giúp ông quay về Vĩ Dạ gặp cố nhân một lần, dù chỉ là một lần cuối. Không chỉ biểu hiện sự băn khoăn, câu hỏi này còn bộc lộ nỗi thất vọng sâu kín của nhà thơ. Ông hỏi, nhưng lại không muốn được nghe câu trả lời, bởi nó sẽ nhắc lại cái sự thực phũ phàng mà Hàn Mặc Tử đã quá thấm thía. Từ đó, người đọc nhìn ra mâu thuẫn trong lời thơ: vừa khao khát, vừa lo âu. Sự đối lập này cũng khắc họa bi kịch đau thương của Hàn Mặc Tử.
* Hàn Mặc Tử cũng sắp đặt nhiều từ đắt giá trong câu thơ cuối khổ.
+ Từ “về” đã được thấy trong khổ một. Tác dụng của nó không hề thay đổi, là để tô đậm vị trí quan trọng của Vĩ Dạ trong lòng nhà thơ, là nhà, là quê hương thứ hai của ông. So sánh thôn Vĩ với nhà, tác giả càng thành công trong việc khắc họa nỗi mong mỏi trở về xứ Huế, khiến nó da diết hơn, mãnh liệt hơn.
+ Bên cạnh đó là từ “kịp” mang âm hưởng đầy khắc khoải, lo âu. Nó chứa đựng lời mong cầu khẩn thiết. Nó cũng thầm cho thấy, quỹ thời gian của Hàn Mặc Tử không còn nhiều, một giây một khắc cũng vô cùng quý giá. Vậy nên ông mới mong mỏi, nóng lòng được quay về Vĩ Dạ, chứ không phải dành chút tháng ngày ít ỏi còn lại của cuộc đời ở đất Quy Nhơn cách biệt với thế giới bên ngoài.
* Những niềm mong mỏi của tác giả “Mùa xuân chín” gợi liên tưởng đến Xuân Diệu – nhà thơ của mùa xuân cuộc đời. Trong khi “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” ao ước được sống trọn từng khoảnh khắc để tận hưởng cuộc đời tươi đẹp thì “chủ soái dòng thơ điên” lại chỉ muốn được sống – được sống đã là một niềm hạnh phúc lớn lao.
3. Tiểu kết: Bức tranh sông nước đêm trăng ở khổ hai lột tả cảm xúc đau thương, nỗi lo âu, khắc khoải và khát khao hạnh phúc tha thiết của Hàn Mặc Tử khi nhìn nhận thực tại đầy bi kịch. Người đọc có thể thấy tình yêu da diết với cuộc đời của thi nhân. Càng yêu đời, ông càng đau đớn, tuyệt vọng.
III. Khổ 3. Niềm hi vọng, không chịu khuất phục trước thương đau:
1. Mơ về cố nhân:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.”
* Trong những khổ thơ trên, nhân vật trữ tình hướng về “vườn ai”, “thuyền ai”, đến đây, tâm điểm thơ lại là “khách đường xa”. Hình ảnh thơ vẫn giữ vẻ huyền ảo, bí ẩn. Độc giả không rõ, Hàn Mặc Tử mơ về Hoàng Cúc nói riêng, hay những người thân thiết đang bị ngăn cách bởi cả khoảng cách địa lý và tinh thần.
* Động từ “mơ” được đặt ở đầu câu thơ để nhấn mạnh vào nỗi nhớ mong mòn mỏi, khôn nguôi của Hàn Mặc Tử. Niềm mong đợi ấy đã đi vào tiềm thức, vào cả giấc mơ của thi nhân. Không một phút giây nào ở nơi xa cách quê nhà, xa cách cố nhân, nhà thơ không nhớ về những tháng ngày hạnh phúc của tuổi trẻ, của tình yêu.
* Phép điệp “khách đường xa” cho thấy dù là trong thực tại, hay trong mơ, hình ảnh cố nhân vẫn ở quá tầm với của tác giả. Nhân vật trữ tình càng ước ao gặp gỡ, hình bóng mờ ảo ấy càng nhạt nhòa, hòa lẫn vào vô định.
* Trong giấc mơ ấy, với mọi cố gắng tiến lại gần, khoảng cách cũng đã rút ngắn. Hàn Mặc Tử mơ hồ nhìn ra màu trắng tinh khôi của tà áo dài. (Hoàng Cúc đã từng gửi bức ảnh cô mặc áo dài trắng thời học sinh cho Hàn Mặc Tử sau khi biết nhà thơ mắc bệnh nan y)
+ Giọng điệu của nhà thơ trong câu thơ đầy thân thương, trìu mến khi gọi đến hai tiếng “áo em”. Người Việt quan niệm áo là vật thông dụng trong cuộc sống hàng ngày, cũng là vật biểu hiện tình yêu đôi lứa. Áo đã xuất hiện đầy thân thương, gần gữi trong ca dao: “Chàng về để áo lại đây/ Để đêm em đắp, để ngày em trông.” hay “Yêu nhau cởi áo cho nhau/ Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay.”
+ Màu áo trắng hiện lên rõ rệt và nổi bật giữa giấc mơ huyền ảo: “trắng quá nhìn không ra”. Từ “quá” đã thêm vào ý thơ những tiếc nuối, nghẹn ngào, tình yêu mãnh liệt và cả sự bất ngờ khi gặp lại bóng hình quen thuộc, rồi bỗng bàng hoàng, thảng thốt khi phải chứng kiến hạnh phúc tuột khỏi tầm tay.
+ Giống như gương mặt chữ điền lấp ló sau cành trúc trong khổ một, hình ảnh người con gái mặc áo trắng ở khổ cuối cũng hiện lên mờ nhạt, như ảo ảnh. Điều này chứng tỏ nhìn nhận của nhà thơ về tình yêu, cuộc sống viên mãn dù mong cầu thế nào cũng không thể đạt được.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 15
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả: Hàn Mặc Tử (1912 – 1940), quê tỉnh Quảng Bình, là nhà thơ có nhiều đóng góp lớn cho phong trào Thơ mới 1932 – 1940.
- Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được rút ra từ tập Thơ điên. Bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở Vĩ Dạ - Hoàng Thị Kim Cúc. Bài thơ là bức tranh đẹp và thơ mộng về thôn Vĩ Dạ. Thông qua bài thơ, tác giả muốn bộc lộ khát khao được sống, được yêu và được giao hòa với thiên nhiên.
II. Thân bài
1. Phân tích khổ 1:
- Câu thơ mở đầu: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” vừa là lời mời mọc ân cần, tha thiết, vừa là lời trách cứ nhẹ nhàng ⇒ sự phân thân của tác giả.
- Cảnh vật và con người xứ Huế hiện lên một cách nhẹ nhàng, tinh khiết, đầy sức sống.
Nắng mới lên, hàng cau, vườn xanh như ngọc.
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
- Nghệ thuật cách điệu hóa tạo nên hình ảnh của thôn Vĩ và con người xứ Huế thật dịu dàng, phúc hậu ⇒ cảnh đẹp, người đôn hậu.
2. Phân tích khổ 2:
- Miêu tả cảnh: gió, mây, dòng nước, hoa bắp lay ⇒ cảnh vật chia lìa
- Không gian mờ ảo đầy hình ảnh của trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền chở trăng.
- Tâm trạng khắc khoải, đợi chờ của nhân vật trữ tình.
3. Phân tích khổ 3:
- Sự ảo mộng của cảnh và người
- Câu hỏi tu từ: là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc.
- Đại từ phiếm chỉ “ai” ⇒ làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu.
III. Kết bài
- Nội dung:
+ Bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ êm đềm, thơ mộng
+ Bức tranh tâm cảnh của nhân vật trữ tình.
- Nghệ thuật:
+ Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, câu hỏi tu từ,…
+ Hình ảnh thơ sáng tạo, độc đáo
+ Kết hợp giữa bút pháp thơ tả thực và lãng mạn, tượng trưng.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 16
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:
+ Đây thôn Vĩ Dạ được rút ra từ tập Thơ điên. Khi hai người cùng ở Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã từng yêu thầm Hoàng Thị Kim Cúc. Khi về Huế, Hoàng Cúc nghe tin Hàn Mặc Tử bệnh bèn gởi vào tặng Hàn Mặc Tử tấm bưu ảnh phong cảnh và lời chúc sớm lành bệnh. Từ đó, đã gợi cho ông những kỉ niệm một thời từng sống ở Huế và sáng tác bài thơ này.
+ Từ những kỉ niệm về Huế, nhà thơ đã khắc họa nên bức tranh tuyệt về cảnh vật, con người xứ Huế. Đồng thời, mượn câu chuyện tình đơn phương của mình để kín đáo gởi gắm tình yêu quê hương xứ sở.
III. Thân bài: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
1. Phân tích khổ 1: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế.
- Bức tranh được hiện lên qua lời mời trong đó hàm chứa sự trách móc mà thân thiết:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
- Cảnh vật hiện lên qua vài nét phác họa nhẹ nhàng, duyên dáng, đầy ấn tượng của màu xanh như ngọc của ánh sáng tinh khôi buổi ban mai.
- Cuối cùng là nét chấm phá độc đáo tương phản giữa cái vuông vức của khuôn mặt chữ điền với chiếc lá trúc che ngang, gợi lên nét tinh nghịch mà dịu dàng, dễ thương vốn dĩ ở thôn quê.
2. Phân tích khổ 2: Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.
- Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng lay lắt buồn bã trong cảm giác chia lìa bằng hình thức thơ độc đáo: Gió theo lối gió / mây đường mây. Dòng sông như tấm gương ghi nhận hình ảnh chia lìa đó, nên buồn thiu, hoa bắp cúng lay lắt buồn thiu, chia sẻ với tâm trạng nhà thơ.
- Trăng chiếm một dung lượng khá lớn trong thơ Hàn Mặc Tử và ánh trăng thật kì lạ, khác thường. Ta từng gặp trong thơ của ông, hình ảnh:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
(Bẽn lẽn)
- Câu phiếm định: "thuyền ai?", rồi lại "bến sông trăng". Quả thật, đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong "Thi nhân Việt Nam": "Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh".
3. Phân tích khổ cuối: Cảnh vật, con người đều chìm sâu vào mộng ảo.
- Cõi lòng nhà thơ dường như chìm vào mộng tưởng (mơ khách đường xa). Bệnh tật cũng đã khiến nhà thơ rơi vào trạng thái buồn đau ảo giác (nhìn không ra, mờ nhân ảnh). Bởi vậy, con người cảnh vật tất cả đều nhòa mờ trong cô đơn, ngậm ngùi.
Trong cô đơn, ngậm ngùi, trong mộng ảo đau thương, nhưng lòng nhà thơ vẫn cứ âm thầm muốn gởi đến con người, cuộc đời một thông điệp, nó như lời trần tình tội nghiệp:
Ai biết tình ai có đậm đà?
- Ta chưa thể quyết rằng cậu thơ ấy thể hiện tình yêu nước của Hàn Mặc Tử đến mức nào. Thế nhưng, chắc chắn rằng Hàn Mặc Tử rất yêu cuộc đời, rất yêu quê hương xứ sở. Ta cũng không ngờ trong tập Thơ Điên lại có những vần thơ đậm đà, chan chứa tình quê đến thế.
III. Kết bài
- Hàn Mặc Tử đã ra đi khi hãy còn quá trẻ. Thế nhưng dấu ấn thơ Hàn Mặc Tử là dấu ấn của trái tim nồng nàn, cuồng say, khát khao yêu và sống.
- Hàn Mặc Tử trong đời thơ của mình đã để lại cho đời những tác phẩm thơ mà ta không dễ gì hiểu được vì sự kì dị và tính siêu thực của nó. Thế nhưng Đây thôn Vĩ Dạ vừa siêu thực lại vừa gần gũi thông qua bức tranh cảnh vật, con người xứ Huế.
- Hàn Mặc Tử không sinh ra ở Huế. Thi nhân đến rồi lại đi, mang theo một bóng hình, một kỉ niệm đẹp khó phôi pha.
- Cũng như các bài thơ trữ tình khác, mạch cảm xúc bao giờ cũng thuộc về chủ thể trữ tình. Riêng Hàn Mặc Tử, mầm li biệt dường như là một ám ảnh khôn nguôi trong thơ ông. Phải chăng vì căn bệnh ngặt nghèo nên tất cả như phân chia thành hai vùng sáng - tối, đôi mảnh tâm trạng nhưng đều đựng sự chi phối của một dự cảm, một thực tiễn mất mát - chia lìa. Có lẽ "Đây thôn Vĩ Dạ" cũng không phải là ngoại lệ?
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 17
1. Mở bài phân tích Đây Thôn Vĩ Dạ
– Giới thiệu về tác giả Hàn Mặc Tử: một trong số những cây bút có sức sáng tạo mạnh mẽ và có nhiều đóng góp to lớn cho phong trào thơ Mới
– Khái quát về đặc điểm thơ Hàn Mặc Tử: mang một diện mạo khá phức tạp nhưng chúng ta luôn nhận thấy ở đấy tình yêu đến đau đớn song vẫn luôn hướng về cuộc đời
– Giới thiệu khái quát về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
2. Thân bài phân tích bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ
a. Khổ 1: bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp về thôn Vĩ Dạ lúc bình minh
– Sử dụng câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” đặt ở đầu bài thơ vừa như lời trách nhẹ nhàng của cô gái vừa như lời tự trách của Hàn Mặc Tử
– Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ:
+ “nắng hàng cau – nắng mới lên”
+ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
– Hình ảnh con người: mặt chữ điền – gợi vẻ đẹp phúc hậu, kín đáo vè một bức tranh thôn Vĩ tươi đẹp, tràn đầy sức sống, trong trẻo, tinh khiết và phải chăng ẩn sau nó là tiếng nói rạo rực của một tâm hồn yêu đời, khát khao sống.
b. Khổ 2: khung cảnh trời, mây, sông nước thôn Vĩ trong đêm trăng
– Hai câu đầu: thiên nhiên chia lìa và mang đầy tâm trạng
+ sự chia lìa đôi ngả của mây và gió: gió theo lối gió mấy đường mây
+ Nghệ thuật nhân hóa diễn tả tâm trạng: dòng nước buồn thiu
+ Sự chuyển động nhẹ nhàng của cảnh vật: hoa bắp lay
=> Mặc cảm chia lìa, nỗi buồn của tác giả
– Hai câu sau:
+ Hình ảnh thuyền trăng, sông trăng: sáng tạo nghệ thuật độc đáo, biểu tượng của hạnh phúc, của cõi mộng
+ “Kịp”: bình dị song nó đã hé mở ra cho người đọc về sự cảm nhận và tâm thế sống của tác giả – sống là phải chạy đua với thời gian.
=> Hai câu thơ khép lại khổ thơ thứ hai vừa như một sự hoài nghi vừa như một sự mong mỏi, hi vọng của tác giả – khát vọng hòa mình với cuộc đời, với thiên nhiên, với con người.
c. Khổ 3: Tâm sự của nhà thơ
– Điệp từ “khách đường xa”
– Nghệ thuật hoán dụ cùng từ ngữ đặc tả sắc trắng: Áo em trắng quá nhìn không ra
– Câu thơ đa nghĩa: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
– Câu hỏi tu từ chứa điệp từ “ai”: Ai biết tình ai có đậm đà
=> Nhấn mạnh một cách sâu sắc mặc cảm chia li, tâm trạng chưa nhiều uẩn khúc – một nỗi niềm hoài nghi, khắc khoải xót xa trong vô vọng
3. Kết bài phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ: thông qua việc sử dụng từ ngữ, hình tượng đặc sắc, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh miêu tả cảnh đẹp của thôn Vĩ, đồng thời, đó là tiếng lòng của một nhà thơ yêu đời, mong muốn tha thiết gắn bó với cuộc sống.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 18
I. Mở bài:
• Giới thiệu khái quát về tác giả Hàn Mặc Tử
• Giới thiệu khái quát về bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ"
"Đây thôn Vĩ Đã" là một bài thơ ấn tượng của Hàn Mặc Tử được ông viết năm 1938, lấy cảm hứng từ mối tình với Hoàng Cúc - cô gái thôn quê Vĩ Dạ đoan trang, truyền thống. Với cảm xúc dạt dào, chân thành và cái tài làm thơ được gửi gắm khéo léo, Hàn Mặc Tử cùng tác phẩm đã tạo được nhiều dấu ấn đẹp đẽ trong trái tim biết bao con người yêu văn, say thơ từ thuở đó đến bây giờ.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm:
a. Tác giả:
• Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, các bút danh là Hàn Mặc Tử, Phong Trần, Lệ Thanh.
• Qua ông ở Đồng Hới, Quảng Bình.
• Gia đình viên chức nghèo, theo Đạo Thiên chúa.
• Năm 1940, ông mất ở Tuy Hoà khi mới 28 tuổi.
• Cuộc đời Hàn Mặc Tử bất hạnh khi ông mắc bệnh hiểm nghèo giữa tuổi thanh xuân, cuộc đời ông ngắn ngủi, chết trong cô đơn ở trại phong Tuy Hoà.
• Về con người, Hàn Mặc Tử với thân xác bị phá hủy bởi bệnh tật đến tàn tạ, thống khổ nhưng tâm hồn lại khao khát hướng về con người, cuộc đời.
• Sáng tác của Hàn Mặc Tử mang hai tiếng nói chính là tiếng nói của máu cuồng và hồn điên tạo nên sự kỳ dị, ma quái và tiếng nói của yêu thương, khao khát tạo nên nét trong trẻo, thanh khiết.
b. Tác phẩm:
• In trong tập "Thơ điên", sau đổi tên thành "Đau thương".
• Sáng tác năm 1938, khi Hàn Mặc Tử mắc bệnh hiểm nghèo sống cách ly để chữa bệnh.
• Ông lấy cảm hứng từ mối tình của Hoàng Cúc - một cô gái thôn quê Vĩ Dạ đoan trang, truyền thống.
2. Phân tích tác phẩm:
a. Khổ 1:
• Câu hỏi tu từ "Sao anh không về chơi thôn Vĩ" là một câu hỏi đa sắc điệu, giống như lời hờn trách nhẹ nhàng hay lời mời mọc tha thiết.
• Hai chữ "không về" là một uẩn khúc bởi "không về" chứ không phải "chưa về" vì "chưa về" còn mở ra cơ hội còn "không về" là khao khát nhưng không về được.
• chữ "anh" trong câu thơ gợi ta hiểu nhân vật đang tự phân thân hỏi chính mình, đang khao khát trở về Vĩ Dạ.
• Cụm từ "nắng hàng cau" gợi hình ảnh những tia nắng đầu tiên của ngày mới chiếu qua thân cau cao vút, thẳng tắp, phát ra ánh lung linh, tinh khôi. "Nắng mới lên" một lần nữa nhấn mạnh đấy là nắng sớm, thứ ánh nắng thiếu nữ vừa rạng rỡ vừa trong trẻo, điệp từ "nắng" đã gợi nên vẻ đẹp thanh khiết của ánh sáng.
• Từ "mướt" là nhãn tự câu thơ, ánh lên vẻ đẹp mượt mà, óng ả của khu vườn với cây lá xanh non tràn đầy sức sống. Hình ảnh so sánh "xanh như ngọc" đã gợi ra sắc xanh ngời lên trong vẻ đẹp lộng lẫy, cao sang. Nếu hai câu trên điệp hai lần từ "nắng" thì đến hai câu này nhà thơ hai lần nhấn vào sắc xanh. Thi sĩ không tả màu mà gợi sắc, từ "mướt quá" đã tột cùng hoá vẻ đẹp thôn Vĩ, làm bật lên vẻ đẹp thanh tân của khu vườn,.đó là ngôn ngữ của những cảm xúc, ấn tượng, của niềm tha thiết ngắm nhìn thôn Vĩ.
• Sắc diện con người hiện lên với mặt chữ điền cân đối hài hòa, "lá trúc che ngang mặt chữ điền" gợi ra vẻ đẹp thanh thoát, nhẹ nhàng, đậm chất Huế vì nó hiện lên thấp thoáng, ẩn hiện sau cành lá trúc che ngang. Thủ pháp cách điệu hóa làm cho con người hiện ra giữa vườn thôn Vĩ trong vẻ đẹp thanh tú.
• Bức tranh thôn Vĩ trong hoài niệm của tác giả hiện ra mang vẻ đẹp tươi sáng với nắng thanh khiết, vườn thanh tân, người thanh tú, tất cả gợi lên một vẻ đẹp thánh thiện. Với Hàn Mặc Tử, hình ảnh khu vườn là hình ảnh thực mang màu sắc tượng trưng, khu vườn mơ ước, là hiện thân của cái đẹp thánh thiện, quý phái mà nhà thơ khao khát hướng tới.
b. Khổ 2:
• Hình ảnh thơ mang tính chất siêu thực, nhà thơ phá vỡ logic hiện thực: gió thổi, mây bay, ngắt nhịp thơ từ câu có nhịp 4/3 chia thành nhiều câu nhỏ.
• Nhân hoá: gieo nỗi buồn vào lòng sông, biến dòng sông ngoại cảnh thành dòng chảy tâm trạng.
• Cảnh ở đây không còn là cảnh thực mà thấm đẫm tâm trạng, cảm xúc. Đặt vào hoàn cảnh sáng tác, mặc cảm chia lìa bắt nguồn từ cảnh ngộ riêng của nhân vật trữ tình, tâm hồn tràn đầy khao khát mà sức sống cạn kiệt dần.
• Câu hỏi tu từ "Thuyền ai đâu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?": cảnh chuyển từ hư thực thành mộng ảo, hình ảnh một con thuyền chở đầy trăng trôi trên dòng sông trăng về một bến trăng xa xôi nào đó, thuyền ở đây là "thuyền ai" gợi sự mơ hồ, xa cách.
• Hình ảnh "bến sông trăng" như thuộc về một cõi khác chứ không phải bến trần gian trong đời thực, cả không gian tràn ngập ánh trăng, cái thực cái ảo đồng điệu, vừa gần gũi vừa xa vời, tất cả đều lung linh như ánh trăng, ánh sáng của tình yêu và cái đẹp hiện diện như một điểm tựa an ủi, cứu rỗi, một khao khao khát không thể đạt được.
• Câu hỏi tu từ "Có chở trăng về kịp tối nay?" vọng lên khắc khoải, da diết như một bức thông điệp về một kiếp sống ngắn ngủi, thể hiện tâm trạng mong ngóng và âu lo, dường như dòng sông ở đây là dòng đời phiêu tàn còn con thuyền là tình yêu xa xôi và bến trăng là bến bờ hạnh phúc hư ảo.
c. Khổ 3:
• Các từ "sương khói", "đường xa" gợi ra không gian huyền hoặc bất định, đọng lại chỉ là một vùng sương khói hư ảo, hình ảnh con người xa dần mờ dần rồi trở thành hư ảnh trong cảm nhận của nhân vật trữ tình.
• Đầu tiên nhà thơ nói "khách đường xa" - con người có thật nhưng xa xôi rồi đến "em" - "áo trắng": hư-thực và chập chờn, cuối cùng là "nhân ảnh"- con người hiện diện như một ảo ảnh xa mờ.
• Câu hỏi tu từ kết thúc bài "Ai biết tình ai có đậm đà?" đượm nỗi hoài nghi, đại từ phiếm chỉ "ai" được sử dụng rất tài tình gợi ra hình ảnh thơ đa nghĩa với những cách diễn giải khác nhau: "ai" ở đây có thể là giai nhân, là con người hoặc cũng có thể là cõi đời đang hiện diện ngoài kia mà nhà thơ không thể nào đến gần, cảm nhận và nắm bắt. "Tình ai" có thể hiểu là tình yêu, rộng hơn là tình đời, tình người đối với thi nhân, giờ đều trở nên huyền hoặc, khó xác định.
III. Kết bài:
• Khẳng định lại giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật.
"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bức tranh đẹp về một miền quê của đất nước đồng thời là tấm lòng tha thiết của nhà thơ đối với cuộc sống con người .Ngôn ngữ sử dụng trong bài trong sáng, tinh tế và đa thanh. Hình ảnh thơ gợi cảm, sinh động, đậm màu sắc tượng trưng siêu thực. Cấu trúc ba câu hỏi ở ba khổ thơ gợi cảm xúc đi từ khao khát đến phấp phỏng, âu lo, từ hi vọng đến hoài nghi, xót xa, mỗi câu hỏi trong khổ thơ như gõ vào cánh cửa cuộc đời thể hiện niềm thiết tha với cuộc sống ở tác giả.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 19
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Hàn Mặc Tử là nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới.
– Bài thơ được rút ra từ tập Thơ Điên.
– Nội dung: Bài thơ là tình cảm hồi đáp mà Hàn Mặc Tử gửi cho Hoàng Thị Kim Cúc khi Hoàng Thị Kim Cúc gửi thư chúc ông chóng lành bệnh kèm một bức tranh phong cảnh.
– Bài thơ là sự đan xen hòa quyện giữa cảnh và tình nơi xứ Huế mộng mơ, nhẹ nhàng.
II. Thân bài:
Khổ 1: Cảnh thiên nhiên xứ Huế
Câu 1:
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Câu thơ là dấu chấm hỏi lửng, thể hiện nỗi lòng nhớ thương, băn khoăn
– Đó là lời mời thân thiện, gắn bó
– Là lời trách móc, giận hờn khéo léo, thiết tha
– Thể hiện thời gian đã lâu rồi tác giả chưa ghé thăm thôn Vỹ.
Câu 2,3:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt qua xanh như ngọc
– Cảnh vật thiên nhiên hiện lên thật đẹp, căng tràn sức sống, tươi xanh
– Cảnh vật mang trong mình vẻ đẹp thanh tao, dịu nhẹ
– Tạo cho người đọc một cảm giác sảng khoái, êm đềm, du dương, bay bổng
Câu 4:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
– Hai hình dạng đối lập: vuông vức mặt chữ điền với dáng vẻ manh mai, thanh tao của lá trúc
– Thể hiện duyên dáng, nhịp nhàng, e thẹn của những cô gái xinh xắn, tài sắc, phúc hậu của người con gái thôn quê.
Khổ 2: Bức tranh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng
– Vẻ đẹp của tạo hóa hiện lên với 2 màu sắc đan xen: cảnh đẹp nhưng lại buồn, mang dáng dấp sự chia lìa, lẻ loi: gió theo lối gió, mây đường mây.
– Cuộc chia lìa ấy ghi vào lòng sông những cung bậc thê lương: dòng nước buồn thiu; hoa bắp lay lắt, nổi trôi
– Cảnh vật chỉ là bức màn biểu hiện cho lòng người “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh thật đẹp còn người lại chẳng thể về để thưởng thức thì cảnh liệu rằng còn đẹp nữa hay chăng. Vỹ Dạ nhớ anh, lòng em cũng nhớ anh, mong anh.
Câu 3.4: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Trăng vốn là hình ảnh quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử. Trăng là nơi để con người ta gửi gắm tình cảm, chút tâm tư sâu lắng. Thế nhưng o đây lại là “bến sông trăng”. Đây vừa là hình ảnh tả thực- ánh trăng chiếu xuống mặt nước, lan tỏa trên mặt nước vừa là hình ảnh biểu trưng- sự vô định( thuyền ai), mênh mông dạt dòa. Nỗi niềm tâm tư của tác giả như lan tỏa, thấm sâu, rộng lớn vô ngàn. Trong người lúc này là sự rưng rưng, xót xa, man mác đến nhói lòng.
– Mở rộng: Đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong “Thi nhân Việt Nam” : “Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”.
Khổ 3: Mộng ảo của tâm hồn thi nhân
-Khổ thơ là lời bộc bạch trần tình tả thực về bệnh tình của tác giả: bệnh tình của người khiến hạn chế về thị giác: nhìn không ra, mờ nhân ảnh. Từ đó, khiến cho con người rơi vào cô đơn; ngậm ngùi.
– Thể hiện những mộng tưởng đơn giản: mở khách đường xa khách đường xa, tác giả mong mình có thể được đến thôn để Vỹ thưởng thức cảnh và gặp người thôn Vỹ, để đáp lại tình cảm trân quý từ người bạn của mình.
– Áo em trắng quá nhìn không ra:
+ Hình ảnh người phụ nữ thướt tha uyển chuyển trong tà áo dài xứ Huế.
+ Ánh mắt anh do sự ảnh hưởng sức khỏe đã không thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp của em nhưng vẫn cảm nhận được hình bóng và dáng vẻ dịu dàng của em
Ở đây sương khói mở nhân ảnh: Quang cảnh thiên nhiên nơi tác giả sinh sống. Với tác giả mọi thứ giờ đây chỉ là ảo ảnh, mơ hồ, không hiện diện được rõ nét nữa.
Ai biết tình ai có đậm đà: Dù trong bệnh tật đau đớn, khó khăn, cô đơn nhưng trái tim tác giả vẫn đong đầy yêu thương: đó là tình yêu quê hương đất nước, xứ xở và tình cảm mãnh liệt gửi gắm đến em.
Tình cảm ấy lúc nào cũng dạt dào, đậm đà, say mê.
III. Kết bài
Nghệ thuật:
– Chuyển mạch thơ linh hoạt: không theo sự vận động của không gian thời gian nhưng nhất quán và đồng điệu với tâm tư lòng người.
– Hình ảnh thơ giàu sức gợi, độc đáo, sử dụng những gam màu nóng nhẹ đan xen nhẹ nhàng: mướt quá, xanh, nắng,…=> Tạo nên cõi trần gian hư thực mơ mộng, bay bổng và tuyệt đẹp
– Các câu hỏi tu từ cuối mỗi dòng thơ, mang nỗi niềm da diết khắc khoải
– Nhịp điệu thơ không theo một quy luật nào mà bị chi phối bởi dòng chảy cảm xúc và nội tâm chính tác giả.
=> Thể hiện sâu sắc nỗi lòng tác giả muốn gửi gắm
Nội dung:
– Thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước của tác giả
– Tình yêu mãnh liệt, nồng nàn dành cho người bạn Hoàng Thị Kim Cúc
– Khát khao cháy bỏng, mãnh liệt được sống để cảm nhận và tận hưởng cho kì hết những cái đẹp về cảnh và người nơi trần thế.
Hoàn thành lập dàn ý bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến giúp bài viết hoàn thiện hơn.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 20
1, Khái quát:
– Bài thơ được lấy cảm hứng từ mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với bà Hoàng Cúc
– Bài thơ là tình yêu, kỉ niệm với xứ Huế
2, Phân tích:
a, Khổ 1: Cảnh nhà vườn xứ Huế vào buổi sáng:
– Câu thơ 1: (trích thơ)
+ Câu hỏi tu từ đa sắc thái: vừa là lời trách móc, vừa là lời mời gọi thiết tha về với thôn Vĩ
+ “Về chơi”: gợi mối quan hệ mật thiết, tâm tình
+ Chủ thể hỏi: là nhà thơ -> lời tự nhắc, tự trách, là cái cớ để về thôn Vĩ
– Câu 2,3: cảnh vườn thôn Vĩ (trích thơ)
+ Điệp từ “nắng”: ngập tràn sắc nắng
+ Hình ảnh “nắng hàng cau”, “nắng mới lên”: hình ảnh quen thuộc của xứ Huế, thứ nắng trong trẻo, thanh tân
+ “Mướt”: sự óng ả, mỡ màng đầy xuân sắc
+ So sánh “xanh như ngọc”: long lánh, sang trọng, quý phái
+ Thán từ “quá”: như một tiếng reo vui
=> Khắc họa bức tranh về chốn non nước thanh tú
– Câu 4: con người thôn Vĩ (trích thơ)
+ “Mặt chữ Điền”: nét mặt phúc hậu, hiền lành, trung thực
+ Ẩn sau gương mặt chữ Điền là vẻ đẹp kín đáo, duyên dáng của con người xứ Huế
=> 4 câu thơ là một bức tranh đẹp, tràn đầy sức sống. Ở đó, vẻ đẹp của thiên nhiên hòa quyện với vẻ đẹp của con người
b, Khổ 2: cảnh sông nước mây trời xứ Huế
-Thời gian: chuyển từ ngày sang đêm
– Không gian: sông, nước, mây, trời xứ Huế
– Câu 1,2: (trích thơ)
+ Câu 1:
_ Nhịp thơ 4/3, chia câu thơ thành 2 vế
_ Hiện tượng phi lí, gợi sự xa cách, chia lìa
+ Câu 2:
_ Nhân hóa “dòng nước buồn thiu”: dòng sông trở nên có hồn, dòng sông chuyển thành dòng tâm trạng
_ “Hoa bắp lay”: gợi sự hắt hiu, thưa thớt, trống trải, mang nỗi buồn bâng khuâng, mien man
=> Nhịp thơ chậm như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”
– Câu 3,4:
+ “Sông trăng”: dòng sông được phủ ánh trăng lấp lánh, cũng có thể là dòng ánh sáng trong kí ức của nhà thơ
+ Hình ảnh “thuyền”, “bến”, “trăng”: gắn với tình yêu đôi lứa-> thuyền chở trăng trở thành con thuyền mang hạnh phúc đang vội về cho kịp cuộc hẹn hò
+ Tâm trạng của nhà thơ:
_ “Kịp”: vừa mong ngóng, khao khát, vừa thể hiện nỗi niềm lo lắng
_ “Tối nay”: ẩn dụ cho quỹ thời gian ngắn ngủi, cũng là sự lo sợ của tác giả trước hiện thực phũ phàng
=> Khổ thơ vừa là bức tranh ngoại cảnh, vừa là bức tranh tâm trạng, mang theo nỗi khao khát, khắc khoải, tuyệt vọng của nhà thơ
c, Khổ 3: Hình bóng con người trong sương khói mờ ảo và nỗi tuyệt vọng của thi nhân
-“Mơ”: là thế giới của mờ ảo, phiêu lãng
– Phép điệp “khách đường xa”: nhấn mạnh hình ảnh biết bao thân thương nhưng quá đỗi xa vời
– Câu thơ: “Áo em trắng quá nhìn không ra”
+ Màu trắng gợi sự trong trắng, tinh khiết, màu áo đặc trưng của người con gái Huế
=> Hiện thân cho vẻ đẹp mà tác giả mong nhớ, nhưng giờ đây hình ảnh ấy đã quá xa vời
– Câu hỏi tu từ: “Ai biết tình ai có đậm đà”
+ Ý thức được hiện thực của mình nơi lãnh cung bệnh tật
+ Hoài nghi nhưng lại chứa chan niềm thiết tha với cuộc đời
=> Khổ thơ là nỗi niềm cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn thiết tha, yêu thương con người và cuộc đời
3, Tổng kết:
a, Nghệ thuật: hình ảnh biểu hiện nội tâm sâu sắc, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế
b, Nội dung:
-Là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 21
I. Mở bài: giới thiệu tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ
Ví dụ:
Hàn Mạc Tử là một hồn thơ mãnh liệt, nhưng hồn thơ ấy luôn trái ngược với một thể xác ốm yếu ông đang mang. Chính bởi vì nỗi đau bệnh tật đã khiến cho Hàn Mạc Tử có những tác phẩm thơ nổi bật và đặc sắc. một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng của ông đó là Đây thôn Vĩ Dạ. bài thơ được Hàn Mạc Tử sáng tác tại Quy Nhơn, noi ông nghỉ bệnh. Bài thơ thể hiện vẻ đẹp của thôn Vĩ Dạ và niềm say mê, khát khao được yêu thương của ông. Chúng ta cùng đi tìm hiểu tác phẩm.
II. Thân bài: phân tích về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
1. Khổ 1: bức tranh thiên nhiên và con người thôn Vĩ
• Cảnh sắc nơi thôn vĩ được thể hiện tự nhiên, hiện lên các hình ảnh đẹp đẻ và thơ mộng
• Sự xuất hiện của hình ảnh con người rất nhỏ nhoi nhưng khiến chúng ta cảm nhận là một người rất xinh đẹp
• Cảm nhận được tình yêu của tác giả đối thiên nhiên và con người với Huế
2. Khổ 2: bức tranh sông nước, mây trời
• Hình ảnh thể hiện sự chia lìa
• Thể hiện sự u buồn, lạnh lẽo
• Xự xa cách cuộc đời mình với cuộc sống và thiên nhiên
3. Khổ 3: tâm trạng của tác giả:
• Bộc lộ sự yêu thương
• Khát khao yêu thương
• Tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ
III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Ví dụ:
Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ thể hiện thiên nhiên và con người đẹp đẽ nơi Huế. Đồng thời thể hiện tình yêu cuộc sống, khát vọng được sống của nhà thơ.
Trên đây là Hướng dẫn lập dàn ý đề bài “Cảm nhận về bài thơ đây thôn vĩ dạ - Hàn Mạc Tử” chi tiết và ngắn gọn nhất dành cho bạn. hi vọng qua bài lập dàn ý bạn đã có được những sự tham khảo để làm văn tốt hơn. Chúc các bạn thành công, học tập tốt.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 22
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả
- Giới thiệu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
II. Thân bài
1. Phân tích khổ 1: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế.
- Bức tranh được hiện lên qua lời mời trong đó hàm chứa sự trách móc mà thân thiết:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
- Cảnh vật hiện lên qua vài nét phác họa nhẹ nhàng, duyên dáng, đầy ấn tượng của màu xanh như ngọc của ánh sáng tinh khôi buổi ban mai.
- Cuối cùng là nét chấm phá độc đáo tương phản giữa cái vuông vức của khuôn mặt chữ điền với chiếc lá trúc che ngang, gợi lên nét tinh nghịch mà dịu dàng, dễ thương vốn dĩ ở thôn quê.
2. Phân tích khổ 2: Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.
- Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng lay lắt buồn bã trong cảm giác chia lìa bằng hình thức thơ độc đáo: Gió theo lối gió / mây đường mây. Dòng sông như tấm gương ghi nhận hình ảnh chia lìa đó, nên buồn thiu, hoa bắp cúng lay lắt buồn thiu, chia sẻ với tâm trạng nhà thơ.
- Trăng chiếm một dung lượng khá lớn trong thơ Hàn Mặc Tử và ánh trăng thật kì lạ, khác thường. Ta từng gặp trong thơ của ông, hình ảnh:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
(Bẽn lẽn)
- Câu phiếm định: "thuyền ai?", rồi lại "bến sông trăng". Quả thật, đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong "Thi nhân Việt Nam": "Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh".
3. Phân tích khổ cuối: Cảnh vật, con người đều chìm sâu vào mộng ảo.
- Cõi lòng nhà thơ dường như chìm vào mộng tưởng (mơ khách đường xa). Bệnh tật cũng đã khiến nhà thơ rơi vào trạng thái buồn đau ảo giác (nhìn không ra, mờ nhân ảnh). Bởi vậy, con người cảnh vật tất cả đều nhòa mờ trong cô đơn, ngậm ngùi.
- Trong cô đơn, ngậm ngùi, trong mộng ảo đau thương, nhưng lòng nhà thơ vẫn cứ âm thầm muốn gởi đến con người, cuộc đời một thông điệp, nó như lời trần tình tội nghiệp:
Ai biết tình ai có đậm đà?
- Ta chưa thể quyết rằng cậu thơ ấy thể hiện tình yêu nước của Hàn Mặc Tử đến mức nào. Thế nhưng, chắc chắn rằng Hàn Mặc Tử rất yêu cuộc đời, rất yêu quê hương xứ sở. Ta cũng không ngờ trong tập Thơ Điên lại có những vần thơ đậm đà, chan chứa tình quê đến thế.
III. Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 23
1. Mở bài
- Một vài nét đặc biệt về Hàn Mặc Tử và thơ ông.
- Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, được coi là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất và hay nhất của phong trào thơ Mới cũng như trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
2. Thân bài:
a. Tác giả và tác phẩm:
- Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 trong một gia đình công giáo nghèo tại Quảng Bình.
- Phong cách thơ của ông có sự đan xen kết hợp giữa những hình ảnh thân thuộc, trong trẻo, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những thứ rùng rợn, ma quái, cuồng loạn đã tạo nên một diện mạo thơ vô cùng kỳ dị và phức tạp
- Đây thôn Vĩ Dạ sáng tác năm 1938 in trong tập thơ Điên, sau đổi tên thành Đau thương, bài thơ ra đời trong hoàn cảnh mối tình đơn phương của Hàn Mạc Tử với cô gái gốc Huế rơi vào tuyệt vọng.
b. Khổ thơ đầu: Khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp tràn đầy sức sống.
- “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” câu hỏi tu từ mang âm hưởng Huế, đã mở ra mạch cảm xúc cho cả bài thơ, đó có thể là lời trách móc, mời mọc của cô gái Huế, cũng có thể là lời tự vấn và dự cảm không may của chính nhà thơ về cuộc đời mình.
- “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”: Hình ảnh nắng ban mai rực rỡ, phủ đầy không gian đem đến sự ấm áp, bừng sức sống.
- “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”: Gợi ra cái sự trù phú, non tươi, mỡ màng tràn đầy sinh khí của khu vườn thôn Vĩ, từ “ai” làm cho câu thơ thêm tình tứ, có hồn hơn.
- “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”: Nỗi niềm mong nhớ của nhà thơ về cô gái Huế, người tình trong mộng bấy lâu với những nét vẽ đậm nhạt mang khung hướng “thi trung hữu họa”.
c. Khổ thơ thứ hai:
- Có sự chuyển đổi cảnh sắc và cảm xúc của nhà thơ một cách rõ ràng từ buổi sáng sớm nắng mai tràn đầy sức sống đến cảnh sông nước, trời mây tối tăm, cô đơn lạnh lẽo.
- “Gió theo lối gió mây đường mây”: Bộc lộ rõ nội tâm và dự cảm không lành của Hàn Mặc Tử trước sự chia ly, cách biệt ghê gớm của sinh tử.
- “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”: Xóa tan đi cái mộng cảnh biêng biếc, tươi trẻ tràn ngập sức sống và hơi ấm tình người trong khổ thơ đầu, là sự bừng tỉnh của tác giả trước cảnh ngộ thê lương của bản thân, trước con đường tăm tối vô hương, vô sắc hiện hiện tại.
- Câu hỏi “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?” ẩn hiện sự lo lắng của tác giả trước sự hữu hạn của đời mình, lo rằng liệu bản thân còn kịp tận hưởng ánh trăng sáng, hay chính là cuộc đời vốn còn nhiều nuối tiếc.
d. Khổ thơ cuối:
- “Mơ khách đường xa, khách đường xa/Áo em trắng quá nhìn không ra...”: Nhận thức của tác giả trước cuộc sống trần thế, tình yêu đang dần vụt mất, chỉ để lại cho ông một nỗi cô đơn và trống trải.
- “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/Ai biết tình ai có đậm đà?”: Nỗi đớn đau về cuộc đời thiếu vắng hơi ấm tình người và nỗi khắc khoải khôn nguôi về một tình yêu không có kết quả.
3. Kết bài:
- Đôi lời kết về Hàn Mặc Tử và Đây thôn Vĩ Dạ.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 24
I. MỞ BÀI:
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có số phận đau thương nhưng lại là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Ông để lại cho làng thơ Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như: “Gái quê”, “Thơ điên”,…Đặc sắc và gây xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. Tất cả những vẻ đẹp ấy của bài thơ đã được ngòi bút Hàn Mặc Tử khắc họa một cách tinh tế và sâu lắng qua hai khổ thơ đầu:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
…
Có chở trăng về kịp tối nay”
II. THÂN BÀI
1. Khái quát:
Theo thi sĩ Quách Tấn – bạn thơ của Hàn Mặc Tử thì bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh do cô gái Huế có tên Hoàng Cúc gửi tặng. Đó là tấm bưu thiếp vẽ cảnh Huế với dòng sông, con đò, bến trăng hay một buổi bình minh. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh cùng những lời thăm hỏi của cô gái xứ Huế, ông đã xúc động viết bài thơ này. “Đây thôn Vĩ Dạ” sau đó được in trong tập thơ “Đau thương”.
2. Nội dung cần phân tích cảm nhận:
2.1. Khổ thơ thứ nhất mở ra bức tranh thôn Vĩ sống động, lung linh trong hoài niệm mênh mang của nhà thơ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Mở đầu là câu hỏi tu từ với những băn khoăn, vừa như hờn dỗi, như trách yêu:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”.
Câu hỏi ấy chính là sự phân thân của nhà thơ, sự hóa thân của nhà thơ vào cô gái Huế. Chỉ một câu thôi, câu hỏi nhưng lại chan chứa yêu thương. Tại sao lâu rồi anh không về chơi thôn Vĩ bên bờ sông Hương thơ mộng, có người con gái anh thương? Mặt khác, sắc thái tu từ trong câu thơ đầu còn là lời tự hỏi, tự trách mình: “sao anh không về”? Sao cảnh Huế đẹp vậy mà mình không trở về? Đó là một câu hỏi đớn đau, khắc khoải vì trở về Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của cơn bạo bệnh. Nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy là nguyên cớ để khơi dậy những khát khao, hoài niệm. Vì không thể trở về nên nhà thơ đã làm một cuộc hành hương trong tâm tưởng. Thôn Vĩ, vì thế hiện ra lung linh trong hoài niệm.
Cảnh sắc thôn Vĩ được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. Từ xa nhà thơ đã nhìn thấy:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Điệp từ “nắng” được nhắc lại hai lần gợi ra bức tranh thơ thật lãng mạn về cảnh vườn quê xứ Huế. Nhớ đến thôn Vĩ, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh hàng cau đầu tiên – “nắng hàng cau”. Bởi lẽ hàng cau là hình ảnh quá đỗi thân thuộc với mỗi người dân thôn Vĩ. Cau là loài cây cao nên đón ánh nắng đầu tiên của ngày mới. Không gian thôn Vĩ vì thế như được đẩy lên cao, thoáng đãng, khoáng đạt. Đặc biệt sau một đêm tắm gội dưới làn sương, những tàu cau trở nên xanh biếc hơn dưới ánh mặt trời. Cụm từ “nắng mới lên” cho ta một cảm nhận đẹp về ánh nắng của buổi ban mai thật rực rỡ, sáng trong. Câu thơ vẽ nên một hàng cau đầy sức sống đang vươn lên mãnh liệt đón ánh nắng đầu tiên của buổi sớm. Ánh nắng mới mẻ, tinh khôi như làm sáng bừng lên không gian khoáng đạt, rộng lớn.
Ở khoảng cách gần, thôn Vĩ hiện lên bởi vẻ đẹp của khu vườn tràn đầy nhựa sống:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
“Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi” (Lưu Trọng Lư). Quả đúng như vậy, câu thơ đã gợi ra một khoảng không gian xanh của thiên nhiên Vĩ Dạ, cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của hàng cây khiến cho người đọc cảm nhận được một sức sống tràn trề, mơn mởn. Tác giả dùng phép so sánh “xanh như ngọc” để diễn tả sức sống, vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, một sắc màu cao quý, lấp lánh và trong trẻo. Nếu không có một tình yêu nồng nàn đối với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ thi sĩ họ Hàn không thể gieo được những vần thơ trong trẻo đến như vậy. Bài viết của thầy Phan Danh Hiếu
“Vườn ai”? không xách định nhưng ngầm hiểu đó là khu vườn cô gái Huế. “Mướt” là một tính từ khác với “mượt” bởi “mượt” chỉ gợi lên mịn màng mà “mướt” thì gợi sự sáng lên, tươi mới của cảnh vật. Bốn chữ “vườn ai mướt quá” như một lời trầm trồ, thán phục, ngợi ca cũng như lời thầm cảm ơn chủ nhân của khu vườn đã dày công chăm bẵm cho khu vườn thêm đẹp.
Bức tranh quê thôn Vĩ càng đẹp hơn bởi sự xuất hiện của hình bóng con người:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Phải chăng trong tâm tưởng của thi nhân bất chợt hiện về khuôn mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc. Câu thơ có sự giao hòa giữa hai hình ảnh thiên nhiên và con người. Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi vẻ đẹp phúc hậu, kín đáo, duyên dáng, e ấp rất thiếu nữ, rất Huế.. Tất cả tạo nên sự hài hòa giữa con người và cảnh vật.
2.2. Nếu như ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng niềm lạc quan yêu đời thì sang khổ thứ hai, tâm trạng thi nhân dần có sự đổi khác, đó chính là lúc mặc cảm chia lìa hiện ra rõ nét dưới từng câu chữ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Hai câu thơ đầu, cảnh vật hiện lên thật đẹp nhưng lại thấm đượm nỗi buồn da diết bâng khuâng:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Câu thơ bắt đúng thần thái của xứ Huế. Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dòng sông Hương luôn chảy lững lờ, chậm rãi như “điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Hai bên bờ sông là những vườn bắp với những bông hoa nhẹ nhàng lay động. Thế mà trong đôi mắt Hàn Mặc Tử thì cảnh vật hiện lên chia lìa: “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Phép nhân hoá làm dòng sông như chở nặng nỗi sầu thương chất ngất của nhà thơ. Đó là lúc tâm cảnh đã nhuốm vào ngoại cảnh. Nỗi buồn của thi nhân dường như phủ khắp cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa bắp… Nhìn lên trời cao thấy gió mây chia lìa; nhìn xuống dòng sông, thấy dòng sông trở nên “buồn thiu”; nhìn quanh cảnh vật chỉ thấy hoa bắp khẽ “lay”. “Lay” là một động từ gợi tả những cử động hết sức nhẹ, phải là sự quan sát tinh tế lắm mới có thể cảm nhận được cái nét vẽ thần tình ấy. Ca dao xưa cũng có câu:
“Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em”
Vâng! đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, đơn phương.
Hai câu thơ tiếp theo, thi nhân đưa người đọc vào cõi mộng. Trước mắt người đọc là không gian ngập đầy ánh trăng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Đọc câu thơ, người đọc có cảm tưởng như đang trôi vào cõi mộng. Ở đó là bến trăng, một dòng sông trăng, một con thuyền chở đầy trăng. Trăng dưới ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử bỗng trở nên huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực nửa hư, như trong cõi mộng. Trăng vốn là biểu tượng cho cái đẹp, cho hạnh phúc, niềm vui. Với Hàn Mặc Tử, trong bối cảnh lúc đó, trăng có ý nghĩa như “một bám víu duy nhất, như người bạn tri âm, tri kỉ”, giờ chỉ còn là nỗi ước ao, khát khao gặp gỡ và nỗi niềm lo âu về sự muộn màng, dang dở. Vì thế, câu thơ của Tử cất lên như một câu hỏi đau đáu, một nỗi niềm day dứt đầy phấp phỏng “Có chở trăng về kịp tối nay?”.
“Tối nay” là tối nào, phải chăng đây là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ – khi mà cuộc sống của con người ấy là cuộc chạy đua với thời gian. “Tối nay” phải chăng chính là ranh giới của sự sống và cái chết. Có phải vì thế mà câu hỏi tu từ vang lên khẩn thiết: “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu rồi con thuyền ấy có cập bến bờ trước lúc Hàn Mặc Tử trở về với cõi vĩnh hằng hay không? Từ “kịp” vì thế mà chất chứa tâm trạng hoài mong và cả tin yêu lẫn bi kịch và hoài nghi của con người.
“Có chở trăng về kịp tối nay?” là câu hỏi ẩn chứa một sự day dứt, mong ước và lo sợ. Một niềm hy vọng đầy khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi nhân. Hàn Mặc Tử cảm nhận thời gian đang trôi chảy trong lúc mình bất lực. Chính vì vậy mà người đọc càng thấu hiểu hơn cái giục giã trong lời mời gọi ở câu thơ đầu, càng đồng cảm hơn với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết đang kề cận.
3. Nghệ thuật
Thành công của đoạn thơ nói riêng và bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” nói chung chính là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Hàn Mặc Tử sử dụng sáng tạo: nhiều biện pháp tu từ tăng sức gợi cho hình ảnh như: so sánh, điệp từ, câu hỏi tu từ, tương phản đối lập; ngôn ngữ thơ mộc mạc bình dị; giọng thơ thiết tha, trìu mến. Tất cả đã hòa quyện lại chắp cánh cho ngòi bút của nhà thơ thăng hoa cùng cảm xúc.
III. KẾT BÀI
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 25
1, Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Hàn Mặc Tử: là một con người lãng mạn nhưng cũng đầy bất hạnh.
– Giới thiệu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ: là bài thơ được ông sáng tác khi nhận được tấm bưu thiếp phong cảnh từ Hoàng Cúc.
2, Thân bài
a, Khổ 1: Cảnh thiên nhiên thôn Vĩ buổi bình minh và tình người đằm thắm
– Câu 1: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”, là câu hỏi của nhà thơ tự phân thân, hỏi nhưng cũng là lời trách móc, nuối tiếc nhớ mong của bản thân.
– Hinh ảnh thiên nhiên:
+ “Nắng hàng cau”: là một hình ảnh đẹp, đặc trưng ở thôn Vĩ.
+ “Nắng mới”: ánh nắng buổi sớm ban mai trong lành chiếu lên những hàng cau vẫn còn ướt đẫm sương
+ “Vườn ai”: đại từ phiếm chỉ “ai” không xác định là vườn của nhà ai nó gợi lên sự ám ảnh nhớ thương.
+ “Mướt quá xanh như ngọc” sử dụng nghệ thuật so sánh): Khu vườn mượt mà óng ả, mát xanh, tràn đầy sức sống, rực rỡ.
– Con người thôn Vĩ:
+ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”: hình ảnh người con gái Huế: kín đáo, e ấp, dịu dàng và phúc hậu.
b, Khổ 2: Cảnh đêm trăng thôn Vĩ và niềm đau cô đơn, chia lìa.
– “Gió theo lối gió mây đường mây”: Hướng gió và mây đi ngược nhau, nó gợi nỗi đau chia lìa xa cách, mỗi người một ngả.
– “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”: cảnh đẹp nhưng lại trở nên rời rạc, hắt hiu trước tâm trạng đau buồn, u uất cô đơn của nhà thơ.
– “Thuyền, bến”: tượng trưng cho người con trai và con gái
+ “Trăng”: là một hình ảnh quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử, là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu, hạnh phúc nhưng cũng là hình ảnh tượng trưng nỗi đau, cô đơn.
+ “Thuyền ai”, “bến sông trăng”: là một hình ảnh không xác định, một hình ảnh đậm chất hư ảo, sông nước tràn trề ánh trăng, cảnh đẹp như trong mơ.
+ “Có chở trăng về kịp tối nay”: câu hỏi tu từ thể hiện sự mong nhớ da diết nhưng cũng vẫn có sự hoài nghi, không thật
c, Khổ 3: Nỗi niềm, tâm trạng con người
– “ Mơ khách đường xa, khách đường xa”: Điệp ngữ “ khách đường xa” nhấn mạnh sự nhớ mong, nhớ thương da diết của chủ thể trữ tình.
– “ Áo em trắng quá nhìn không ra”: hình ảnh hoán dụ màu áo trắng liên tưởng đến những kỷ niệm xa xăm đang dần phai nhạt, gợi sự xa cách.
– “ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”: Thể hiện sự xa xôi về khoảng cách lẫn thời gian”Ở đây sương khói”, hình ảnh người con gái mà nhà thơ nhớ đến chỉ là ảo ảnh, xa xôi.
– “Ai biết tình ai có đậm đà”: Là một câu hỏi tu từ là em hay là anh hai là cả hai thì cũng không rõ, câu thơ gợi sự hoài nghi cùng với nỗi buồn, sự khắc khoải, lo âu.
3, Kết bài
– Khái quát lại vấn đề: Bài thơ đã làm toát lên được cảnh đẹp huyền diệu của thiên nhiên nơi xứ Huế và tình cảm của con người nơi đây.
– Nghệ Thuật: Bài thơ sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như câu hỏi tu từ, điệp ngữ, so sánh… đã làm tăng thêm sức thuyết phục cho bài thơ và đồng thờ làm nổi bật sâu sắc thêm thiên nhiên và con người xứ Huế
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 26
1, Mở bài
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ mang đến cho thơ mới một hồn thơ lạ, thơ ông luôn quằn quại giữa yêu và đau. Nhưng bên cạnh đó thơ ông vẫn luôn tràn đầy niềm tin yêu cuộc sống, khát khao gắn bó với cuộc đời mong hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ hay của ông khi viết về chữ “yêu” sự cô đơn trong tình yêu. Bài thơ được ra đời khi Hàn Mặc Tử nhận được một tấm bưu thiếp phong cảnh nơi xứ Huế mà Hoàng Cúc đã gửi cho ông.
2, Thân bài
Ngay khi đọc bài thơ từ khổ đầu tiên, nhà thơ đã cho chúng ta thấy một vẻ đẹp tinh khôi của thiên nhiên thôn Vĩ vào bình minh và tình cảm của con người nơi đây. Trước tiên, cảnh thiên nhiên hiện ra qua câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” đó là câu hỏi của nhà thơ tự phân thân, hỏi nhưng cũng là lời trách móc, nuối tiếc nhớ mong của bản thân khi đã không về thôn Vĩ chơi nơi có một thiên nhiên đẹp đến lạ lùng. Hình ảnh thiên nhiên ấy đó là “ Nắng hàng cau nắng mới lên” một hình ảnh đẹp đặc trưng ở thôn Vĩ, những ánh nắng buổi sớm bình minh chiếu lên những hàng cau xanh vẫn còn ướt đẫm sương đêm. Không chỉ vậy thiên nhiên còn hiện lên mới một màu xanh tuyệt đẹp: “ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” nhà thơ đã dùng đại từ phiếm chỉ “ai” đó là đại từ phiếm chỉ không xác định là vườn nhà ai nó gợi lên cho người đọc một sự ám ảnh nhớ thương trước vẻ đẹp của khu vườn, hơn nữa nhà thơ dùng nghệ thuật so sánh: “Mướt quá xanh như ngọc” để làm nổi bật lên vẻ đẹp xanh mướt, mượt mà óng ả tàn đầy sức sống của khu vườn. Nhưng không chỉ hình ảnh thiên nhiên đẹp mà thôn Vĩ còn hiện lên hình ảnh con người: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” là hình ảnh người con gái xứ Huế mang vẻ đẹp kín đáo, e ấp, dịu dàng và phúc hậu. Từ đó, cho ta thấy một hình ảnh đẹp về thiên nhiên và con người nơi xứ Huế nơi mà nhà thơ luôn nhớ thương.
Thiên nhiên cảnh đẹp thôn Vĩ không chỉ hiện ra qua vẻ đẹp của buổi sớm bình minh mà những đêm trăng ở thôn vĩ luôn làm lòng người nhớ thương xen lẫn với nỗi đau sự chia lìa, cô đơn. Nếu theo lẽ thông thường của quy luật tự nhiên gió đẩy mây sẽ trôi nhưng ở đây ngược lại “Gió theo lối gió mây đường mây” hướng gió và mây đi ngược nhau, không liên quan đến nhau nó gợi nỗi đau chia lìa xa cách, mỗi người một ngả. Đến cả những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ cũng trở nên rời rạc, hắt hiu qua cái nhìn buồn đau u uất của nhà thơ: “ Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” cảnh tượng này cũng giống với một câu thơ trong truyện Kiều mà Nguyễn Du đã viết:” Cảnh buồn người cũng có vui bao giờ”. Không chỉ vậy, hình ảnh thiên nhiên còn hiện ra với trăng, thuyền, bến đó là những hình ảnh tượng trưng cho người con trai, gái, tình yêu và sự chia lìa.“Trăng”: là một hình ảnh quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử, là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu, hạnh phúc nhưng cũng là hình ảnh tượng trưng nỗi đau, cô đơn. Và hình ảnh “Thuyền ai”, “bến sông trăng”: là một hình ảnh không xác định, một hình ảnh đậm chất hư ảo, sông nước tràn trề ánh trăng, cảnh đẹp như trong mơ. Câu thơ cuối trong khổ “Có chở trăng về kịp tối nay”: là một câu hỏi tu từ thể hiện sự mong nhớ da diết nhưng cũng vẫn có sự hoài nghi, không thật. Qua đó, ta thấy đây không chỉ là niềm nhớ quê da diết mà còn là một tâm hồn khắc khoải, buồn, nhớ thương….
Khi hình ảnh thiên nhiên hiện ra đẹp như vậy nhưng cũng mang theo tâm trạng, nỗi niềm con người: “ Mơ khách đường xa, khách đường xa” nhà thơ đã dùng điệp ngữ “ khách đường xa” nhấn mạnh sự nhớ mong, nhớ thương da diết của chủ thể trữ tình đối với người xứ Huế. Hình ảnh “ Áo em trắng quá nhìn không ra” đó là một hình ảnh hoán dụ màu áo trắng liên tưởng đến những kỷ niệm xa xăm đang dần phai nhạt, gợi sự xa cách. Một sự xa cách về không gian và thời gian: “ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” đã hiện ra hình ảnh người con gái mà nhà thơ nhớ đến chỉ là ảo ảnh, xa xôi nhưng nhà thơ đã đặt ra câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà” Là câu hỏi của em hay là anh hai là cả hai thì cũng không rõ, câu thơ gợi sự hoài nghi cùng với nỗi buồn, sự khắc khoải, lo âu của nhà thơ đối với người con gái xứ Huế. Qua đó, cho thấy nhà thơ luôn khát khao sống với cuộc sống, được yêu thương, chia sẻ đau buồn đã làm tăng lên sự cô đơn vô vọng trong tâm hồn tha thiết được yêu thương của nhà thơ
3, Kết bài
Bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ” đã khắc họa lên một bức tranh thiên nhiên đẹp đan xen giữa thực và ảo của xứ Huế đó cũng chính là tiếng lòng của nhà thơ, yêu đời muốn gắn bó với cuộc sống. Đồng thời, bài thơ dùng nhiều hình ảnh đẹp giàu sức biểu cảm , các phép hoán dụ, điệp ngữ…. đã làm tăng thêm sức thuyết phục của bài thơ và nói lên được tiếng lòng của nhà thơ với cuộc đời.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 27
I. Giới thiệu vài nét về hoàn cảnh sáng tác, bài thơ và vị trí đoạn trích
1. Bài thơ được viết ra từ hai nguồn cảm hứng: thứ nhất là cảm hứng đẹp với một ngôi làng vùng quê ven bờ sông Hương, cây cối tốt tươi, thơ mộng. Cảm hứng thứ hai, theo nhà thơ Quách Tấn đó là mối tình đơn phương nhiều ước mơ với Hoàng Cúc.
2. Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ rất nổi tiếng của Hàn Mặc Tử, in trong tập Thơ điên. Bài thơ không chỉ làm rạng danh cho một thi sĩ tài hoa, đa cảm nhưng cuộc đời gặp nhiều cảnh ngộ éo le, bất hạnh mà còn góp phần tô điểm cho một địa danh vốn đã nổi tiếng ở Huế:
Đây xứ mơ màng, đây xứ thơ
3. Bài thơ gồm ba khổ: Khổ một là vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, chứa chan sức sống của khu vườn trong ánh nắng ban mai. Khổ hai: bầu trời, sông nước Vĩ Dạ trong tâm trạng buồn, chia li tuyệt vọng và đau đáu một nỗi khát khao gặp gỡ của Hàn Mặc Tử.
II. Phân tích
1. Phân tích hai câu đầu:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Tiếp theo khổ một đặc tả vẻ đẹp trong sáng, thơ mộng, tràn đầy sức sống của vườn thôn Vĩ Dạ vào một buổi sớm mai, khổ hai đã mở rộng ra khung cảnh bầu trời, sông nước Vĩ Dạ. Bài thơ dường như có sự vận động từ ngoại cảnh vào tâm cảnh. Vì thế, Bầu trời sông nước cũng nhuốm đầy tâm trạng thi nhân. Cảnh vật xuất hiện với bốn hình ảnh: “gió”, “mây”, “dòng nước”, “hoa bắp”. Hai hình ảnh “gió”, “mây” ở đây trở nên chia lìa, trái tự nhiên, không hoà nhập “gió một đường, mây một nẻo” này được thể hiện theo logic của tâm trạng buồn, cô đơn vì mối tình ở dạng “đơn phương”, “vô vọng” của nhà thơ với Hoàng Cúc. Chú ý phân tích các điệp từ, cách ngắt nhịp câu thơ đã làm nổi bật cảm xúc trên.
Câu thơ thứ hai với hai hình ảnh “dòng nước” và “hoa bắp” cũng đã tiếp tục tô đậm thêm tâm trạng thi nhân: buồn lặng lẽ, hiu hắt, có thể hiểu hai câu thơ ở khổ thơ này vừa tả cảnh, vừa tả tình trong cảnh và cả nhịp điệu của cảnh: Tình buồn chia li, sầu tủi, hiu hắt. Cảnh êm đềm phẳng lặng, nhịp điệu cảnh “trầm tư chẳng nơi nào có được” của Huế đẹp và thơ.
2. Phân tích hai câu sau:
Cùng với cảm giác chìa lìa, mạch thơ đã chuyển hẳn một thế giới thôn Vĩ thực và tràn trề ánh nắng ở khổ 1 sang một thế giới mộng, tắm đẫm ánh trăng ở khổ 2:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Trăng dưới ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử bỗng trở nên huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực nửa hư, như trong cõi mộng. Trăng vốn là biểu tượng cho cái đẹp, cho hạnh phúc, niềm vui. Với Hàn Mặc Tử, trong bối cảnh lúc đó, trăng có ý nghĩa như “một bám víu duy nhất, như người bạn tri âm, tri kỉ”, giờ chỉ còn là nỗi ước ao, khát khao gặp gỡ và nỗi niềm lo âu về sự muộn màng, dang dở. Vì thế, câu thơ của Tử cất lên như một câu hỏi đau đáu, một nỗi niềm day dứt đầy phấp phỏng “Có chở trăng về kịp tối nay?”.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 28
Mở bài
– Vài nét về tác giả
– Vài nét về bài thơ:
Thân bài
– Về mặt nội dung:
+ Cảnh ban mai thôn Vĩ và tình người tha thiết
+ Nỗi niềm thôn Vĩ
– Về mặt nghệ thuật:
+ Trí tưởng tượng phong phú
+ Nghệ thuật so sánh, nhân hóa, thủ pháp lấy động gợi tĩnh, sử dụng câu hỏi tu từ…
+ Hình ảnh sáng tạo có sự hòa quyện giữa thật và ảo.
Kết Bài
– Bao quát giá trị nội dung, nghệ thuật từ tác phẩm
– Gợi liên tưởng sâu xa trong lòng bạn đọc.
96.
a. Bức tranh thôn Vĩ
* Nét đẹp phong cảnh thôn Vĩ trong khổ thơ đầu:
- Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ “ nhưng thực ra là một lời trách móc nhẹ nhàng và cũng là lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ.
- Cảnh nơi thôn Vĩ: Vĩ Dạ hừng Đông
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” :
+ Điệp từ nắng nhấn mạnh ánh nắng của buổi bình minh.
+ Nắng hàng cau nắng mới lên: gợi ánh nắng ấm áp trong trẻo và tinh khôi của buổi sớm mai.
“Vườn ai mát quá xanh như ngọc” :
+ Vườn ai: địa từ phiếm chỉ “ai” gợi cảm giác mơ hồ, bất định trong tâm hồn thi nhân.
+ Mướt quá: gợi sự tươi non, mượt mà của khu vườn thôn Vĩ.
+ Xanh như ngọc: nghệ thuật so sánh diễn tả sự xanh mướt được ánh nắng mặt trời của buổi sớm mai chiếu xuyên qua làm bừng sáng cả khu vườn nơi thôn Vĩ.
=> Thiên nhiên thôn Vĩ buổi sớm mai đẹp thanh khiết, trong trẻo, thơ mộng và tràn trề sức sống.
- Con người nơi thôn Vĩ: “Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”:
+ Mặt chữ điền: là biểu tượng của nét đẹp phúc hậu, hiền lành, trung thực.
+ Lá trúc chen ngang: lá trúc mảnh mai, gợi nét đẹp kín đáo, phúc hậu, dịu dàng của con người xứ Huế.
=> Câu thơ có sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người trong vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng.
=> Bốn câu thơ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thơ mộng, con người mang vẻ đẹp kín đáo dịu dàng. Qua đó cũng bộc lộ tình yêu thiên nhiên, yêu người tha thiết cùng những niềm băn khoăn, day dứt của nhà thơ.
* Hình ảnh gió, mây, sông, trăng trong khổ thơ thứ hai: Vĩ Dạ đêm trăng
- Không gian mênh mông có đủ gió, mây, sông, nước, trăng, hoa.
- “Gió theo lối gió mây đường mây”: cách ngắt nhịp 4/3 gợi tả không gian gió mây chia lìa như một nghịch cảnh đầy ám ảnh của sự chia lìa, xa cách.
- “Dòng nước buồn thiu”: nghệ thuật nhân hóa dòng sông trở thành một sinh thể mang tâm trạng gợi cảm giác u buồn. Dòng sông không thể tự buồn mà nhà thơ đã gửi nỗi buồn vào dòng sông.
- “Hoa bắp lay”: sự chuyển động rất nhẹ, “lay” gợi nỗi buồn hiu hắt, thưa vắng.
=> Cảnh vật được nội tâm hóa bộc lộ nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”:
+ Sông trăng: hình ảnh lạ, đẹp, đầy thi vị. Dòng sông tràn ngập ánh trăng vàng. Con thuyền vốn là hình ảnh có thực được nhìn qua con mắt của thi nhân trở thành một hình ảnh mộng tưởng. Thuyền đậu trên bến sông trăng để trở trăng về một nơi nào đó trong mơ. Gợi lên vẻ đẹp lãng mạn, nhẹ nhàng, tất cả đang đắm chìm trong bồng bềnh mơ mộng, như thực như ảo.
+ Đại từ phiếm chỉ “ai” gợi cảm giác mơ hồ, xa lạ, đầy ảo mộng.
- “Có trở trăng về kịp tối nay?” : câu hỏi tu từ thoảng thốt, băn khoăn, có gì đó khắc khoải, khẩn thiết. Chữ kịp khiến cho khoảng thời gian “tối nay” càng trở nên ngắn ngủi. Ta cảm nhận được sự lo sợ, một mặc cảm về hiện tại ngắn ngủi, hé mở cho ta thấy chủ thể như muốn chạy đua với thời gian.
=> Khổ thơ thứ hai đã vẽ nên một bức tranh sông Hương nên thơ, huyền ảo, phảng phất tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ. Cảm xúc chuyển biến đột ngột từ niềm vui của hi vọng gặp gỡ sang trạng thái lo âu đau buồn thất vọng khi tác giả nhớ và mặc cảm về số phận bất hạnh của mình.
b. Tâm trạng của nhà thơ
Tâm trạng của nhà thơ qua khổ thơ cuối:
“Mơ khách đường xa khách đường xa”:
+ Mơ: trạng thái vô thức, nhà thơ đang đắm chìm trong cõi mộng.
+ Điệp ngữ “khách đường xa”: nhấn mạnh khoảng cách xa rời, chỉ là khách trong mơ.
- “Áo em trắng quá nhìn không ra”: từ “quá” diễn tả sự choáng ngợp, thảng thốt; “nhìn không ra” cực tả sắc trắng, trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực nữa mà là màu trong tâm tưởng.
- “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”: câu thơ có thể hiểu theo hai nghĩa.
+ Về nghĩa thực, xứ Huế nắng nhiều, mưa nhiều nên nhiều sương khói và sương khói làm tăng thêm vẻ hư ảo, mộng mơ của xứ Huế.
+ Về nghĩa bóng, sương khói làm mờ ảo cả bóng người hay chính là tượng trưng cho một mối tình mong manh, xa vời, không trọn vẹn.
- “Ai biết tình ai có đậm đà”: đại từ phiếm chỉ “ai” mở ra hai lớp nghĩa:
+ Nhà thơ làm sao biết tình người xứ Huế có đậm đà với mình hay không hay cũng mờ ảo như làn khói kia.
+ Người xứ Huế có biết chăng tình cảm của nhà thơ với cảnh Huế, người Huế hết sức đậm đà, thắm thiết.
=> Câu thơ thể hiện nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời đã nhuốm màu đau thương, bất hạnh. Lời thơ bâng khuâng hư thực gợi nỗi buồn xót xa trách móc.
=> Khi hoài niệm về quá khứ xa xôi hay ước vọng về những điều không thể nhà thơ càng thêm đau đớn. Điều đó chứng tỏ tình yêu tha thiết cuộc sống của một con người luôn có khát vọng yêu thương và gắn bó với cuộc đời.
c. Giá trị nội dung
Bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ và lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn khúc của nhà thơ.
d. Giá trị nghệ thuật
- Trí tưởng tượng phong phú.
- Nghệ thuật so sánh nhân hóa, thủ pháp lấy động gợi tĩnh, sử dụng câu hỏi tu từ,..
- Hình ảnh sáng tạo, có sự hòa quyện giữa thực và ảo.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 29
1. Mở bài
Đây Thôn Vĩ Dạ là tác phẩm xuất sắc của Hàn Mạc Tử, tác phẩm nói lên bức tranh thiên nhiên nơi thôn vĩ và tâm hồn của con người hòa với không gian thiên nhiên.
2. Thân bài
Bài thơ mang nhiều cảm xúc sâu sắc, đó là hòa nhập với bức tranh thiên nhiên nhẹ nhàng của khung cảnh nơi thôn vĩ, bài thơ mang nhiều xúc cảm sâu sắc với người đọc.
+ Bài thơ đã mang đến cho người đọc một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, ở đó có con người.
+ Bức tranh thiên nhiên nhẹ nhàng, hòa vào với không gian, thiên nhiên của cảnh vật của bức tranh thiên nhiên nơi phố Huế, có hình ảnh hàng cau, vườn cúc, có có bức tranh thiên nhiên tươi tắn, mang đến không gian diệu mát và tươi tắn cho không gian, đất trời.
+ Cùng với đó là tâm trạng buồn cô đơn của nhà thơ, khi phải chia xa nơi đây, sự chia cắt làm cho mọi cảnh vật trở nên tiêu điều, cảnh vật của phố Huế nhè nhẹ, gợi tả cảnh sắc có vẻ buồn cô đơn.
+ Khổ thơ đã mang đậm những cảm xúc của nhà thơ khi nhớ về khung cảnh cũ của thiên nhiên, đó là những cảnh tượng nhẹ nhàng, sâu lắng, mang những xúc cảm sâu sắc, trong tâm hồn của con người.+ Tâm trạng của nhà thơ khi trở về xứ Huế, tác giả đã hòa mình vào không gian thiên nhiên, làm cho cảnh vật nhuốm màu buồn thương, cảnh vật làm lay động trái tim của con người, khung cảnh đó biết buồn thương, bi ai và mang những không gian nhẹ nhàng, buồn thiu, làm cảnh sắc như có sự lay chuyển.
+ Tác giả đang mơ ảo trước không gian đó, xa xăm có hình ảnh mờ ảo của những khung cảnh, thiên nhiên, nhẹ nhàng và sâu lắng trong tâm hồn của con người.
+ Tình cảm của con người cũng tàn phai, trở nên vô vọng trước không gian và thời gian trước cảnh vật của cuộc sống, nó nhẹ nhàng, mang đến màu sắc, sự tươi tắn trước những khung cảnh của không gian thiên nhiên.
+ Bài thơ đã mang những xúc cảm đặc biệt của con người trước không gian thiên nhiên nơi đây, nó nhẹ nhàng, tinh tế và mang nhiều xúc cảm sâu sắc trước cuộc sống, thiên nhiên và con người.
+ Bài thơ đã mang đến cho người đọc những tình cảm chân thành, và bức tranh thiên nhiên nhẹ nhàng, mang đến nhiều xúc cảm sâu sắc cho người đọc.
3. Kết Luận
Bài thơ đã mang đến cho con người đọc không gian thiên nhiên rộng lớn, mênh mông, ở đó con người được hòa mình vào khung cảnh của thiên nhiên, đất trời.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 30
1. Mở Bài:
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912, tại Lệ Mĩ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình công chức theo đạo Thiên Chúa.
Năm 1920, Hàn Mặc Tử theo gia đình vào học tiểu học ở Sa Kì, Quy Nhơn, sau đó học ở Bồng Sơn, rồi lại trở về học ở Sa Kì.
Năm 1926, thân sinh Hàn Mặc Tử bị bệnh rồi mất ở Huế, ông theo mẹ vào Quy Nhơn, bắt đầu làm thơ Đường với bút hiệu Minh Duệ Thị.
2. Thân Bài:
Những bài thơ Đường luật đầu tiên của Hàn Mặc Tử mang cảnh buồn lạnh như cảnh Chùa
hoang:
Hương sầu khói lạnh nằm ngơ ngác
Vách chán đêm suông đứng dãi dầu
Qua nỗi buồn nhè nhẹ trong tập Gái quê. Và rồi người đọc ngạc nhiên khi trong tập Thơ
Điên lại có Đây thôn Vĩ Dạ không điên tí nào, ngược lại còn đẹp, có chút dịu dàng...
Một lời mời, lời trách nhẹ nhàng, thân ái mở đầu bài thơ. Nghệ thuật trách và mời trong câu thơ thật khéo léo.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Trách vì đã quen nhau và đã mời từ trước. Bây giờ mới về gặp mặt, nhắc lại là để trách yêu nhưng cũng để giới thiệu cái đẹp trong sáng, xinh tươi. Tiếp đến, người đọc thấy một bức tranh bình minh rạng rỡ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
3. Kết Bài:
Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm sâu sắc, Đây thôn Vĩ Dạ, một bài thơ đẹp. Một bài thơ có những câu tả cảnh đầy tính nghệ thuật làm tăng thêm vẻ đẹp của một vùng quê xứ Huế. Đồng thời cũng thể hiện khao khát sống, khao khát được yêu của nhà thơ trong cảnh sống cô đơn, bệnh hoạn... một bài thơ tình yêu của một kiếp người truân chuyên nhưng đầy ắp tình yêu đời, yêu người.