Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân hay nhất (70 mẫu)

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 1 

Nguyễn Tuân – một nhà văn luôn đi tìm cái đẹp đã đem đến cho nền văn học Việt Nam một phong cách tài hoa, độc đáo. Trước Cách mạng, các tác phẩm của Nguyễn Tuân, đặc biệt trong tập Vang bóng một thời, thường viết về những nho sĩ cuối đời, những con người tài hoa nhưng bất đắc chí, buông xuôi với đời nhưng vẫn có những mâu thuẫn sâu sắc với xã hội, với thời buổi “Tây Tàu nhố nhăng”. Những tác phẩm trong Vang bóng một thời miêu tả những người chí sĩ tài hoa, ngông nghênh giữa cuộc đời, lấy cái thái độ của mình làm cái đối lập với xã hội. Trong số các tác phẩm ấy, nổi bật lên là tác phẩm Chữ người tử từ cũng nhân vật Huấn Cao – một con người tài hoa, khí phách với cái tâm vô cùng trong sáng thiện lương, dù rơi vào hoàn cảnh chí không thành nhưng cũng không hề mất đi tư thế hiên ngang, ngạo nghễ với đời.

Tác phẩm Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời xuất bản năm 1940, ban đầu được mang tên Dòng chữ cuối cùng. Tác phẩm cũng mang chung một mạch cảm xúc với các tác phẩm khác trong cùng tập truyện khi ca ngợi và khẳng định cái đẹp, đồng thời ca ngợi những con người sống đẹp với lối sống giản dị mà thanh bạch. Và cái đẹp chính là trung tâm của toàn bộ câu chuyện.

Nguyễn Tuân đã xây dựng lên một Chữ người tử tù đặc sắc với không chỉ câu chữ đầy tài năng, mà còn ở một tình huống truyện có một không hai ở đời. Tình huống truyện vốn là hoàn cảnh tạo nên sự kiện đặc biệt được nhà văn tạo ra trong tác phẩm của mình, và chính tại đó, cuộc sống hiện lên đậm sắc nhất, ý đồ của người viết được bộc lộ rõ nét nhất. Dựa vào đó, Nguyễn Tuân đã dựng lên một tình huống truyện khi viên quản ngục có cuộc gặp gỡ với Huấn Cao – một con người tài hoa, đặc biệt là tài viết chữ hiếm có ở trên đời nhưng đồng thời cũng là một tên tử tù đang chờ ngày hành quyết. Và viên quản ngục – người vô cùng hâm mộ nét chữ của Huấn Cao, quyết tâm xin bằng được chữ của người tử tù ấy để cho toại cái “sở nguyện” của mình. Tình huống truyện mà Nguyễn Tuân dựng lên hết sức đặc sắc, hết sức độc đáo, giàu kịch tính mà cũng đầy éo le. Chính điều đó đã tạo nên một Chữ người tử tù – một tác phẩm về cái đẹp độc nhất vô nhị.

Đọc tác phẩm, người ta không khỏi khắc thành ấn tượng về nhân vật chính trong câu chuyện – Huấn Cao - một nhân vật đại diện cho lớp người nho sĩ tài hoa, nhưng lại không gặp thời, bất đắc chí. Huấn Cao – một vị anh hùng bị sa cơ thất thế, ông là nho sĩ nhưng cũng lại là người lãnh đạo nhân dân vùng lên chống lại triều đình để đòi lại công bằng cho mình. Cuộc đấu tranh thất bại, ông bị bắt, bị phán là một kẻ phản nghịch triều đình, phải chịu tội chết, bởi với Nho giáo ngày xưa, trung quân ái quốc là một trong những điều kiện tiên quyết quyết định nhân phẩm của một con người. Có nhiều ý kiến cho rằng, nhân vật Huấn Cao được lấy cảm hứng từ người anh hùng Cao Bá Quát – một người nho sĩ cũng tài hoa vô cùng, cũng quả cảm, cũng có tài viết chữ tuyệt đỉnh, được mệnh danh "thánh Quát", cũng là một thủ lĩnh đứng lên lãnh đạo khởi nghĩa chống lại triều đình.

Huấn Cao vốn một cách gọi vô cùng kính trọng đối với một vị quan trông giữ việc học ở một huyện và đối với viên quản ngục trong tác phẩm, Huấn Cao được hắn vô cùng kính trọng. Với quản ngục, Huấn Cao tựa như là "một ngôi sao Hôm nhấp nháy", hay " một ngôi sao chính vị". Với vị thế của mình, đáng lẽ ra một người như quản ngục, sau khi nhận được tin có một kẻ "phản nghịch" như Huấn Cao vào ngục của mình phải căm tức, phải ghét bỏ lắm, nhưng quản ngục lại khác, ông dường như kiêng nể Huấn Cao, coi trọng Huấn Cao. Người ta thấy một phần trong đó chất chứa cái sự ưu ái mà Nguyễn Tuân dành cho một anh hùng thất thế như Huấn Cao.

Hình tượng nhân vật Huấn Cao được lấy nguyên mẫu từ người anh hùng Cao Bá Quát, có lẽ vì vậy mà Huấn Cao cũng mang trong mình sự tài hoa, không chỉ về nghệ thuật thư pháp đỉnh cao mà còn là một người anh hùng với khí phách kiên cường và một người với cái tâm thiên lương trong sáng. Nguyễn Tuân đã khắc họa Huấn Cao trên nhiều bình diện để thấy được một vẻ đẹp thanh cao, đạt tới chân – thiện – mỹ của cuộc đời.

Đầu tiên, Nguyễn Tuân miêu tả Huấn Cao là một người nghệ sĩ, vô cùng tài hoa trong nghệ thuật viết chữ, vang danh khắp nơi. Nguyễn Tuân không trực tiếp khen ngợi cái tài năng ấy của Huấn Cao mà lại gián tiếp thông qua câu chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại. Trong câu chuyện của hai người coi tù, xuất hiện sáu tên tội phạm mang tội phản nghịch triều đình, trong đó có một kẻ tên Huấn Cao "Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và đẹp đó không?". Không chỉ vậy, hai thầy trò viên quản ngục còn dặn dò nhau rằng "ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục", đó là tất cả những gì người ta được nghe gián tiếp khi nhắc nhỏm về Huấn Cao. Huấn Cao hiện lên là một kẻ "văn võ toàn tài", hội tụ khí chất của một kẻ anh hùng tài ba. Nguyễn Tuân đã thật tinh tế khi khéo léo để nhân vật của mình xuất hiện gián tiếp trong lời kể của những kẻ khác thật tự nhiên, khi mà tiếng thơm của ông đã vang danh và truyền đi khắp thế gian.

Thế nhưng, cái tài hoa của Huấn Cao còn bộc lộ thật rõ ràng hơn trong hành động và suy nghĩ của viên quản ngục – người khao khát có được chữ Huấn Cao hơn hết thảy mọi thứ trên đời.

Ngay khi nhận được "phiến trát" báo tin rằng "chúng ta sắp nhận được sáu tên tù án chém. Trong đó, tôi nhận thấy tên người đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn Cao", viên quản ngục đã gần như ngay lập tức muốn biệt đãi đối với Huấn Cao. Quản ngục đã cho "quét dọn lại cái buồng trong cùng. Có việc dùng đến". Ông muốn những ngày cuối cùng của người tù Huấn Cao được thoải mái nhất, vì vậy ông đã bất chấp nguy hiểm mà đối đãi với Huấn Cao hết sức tử tế. Đối với Huấn Cao như thế, ông không chỉ muốn bày tỏ tấm lòng trân trọng, thành kính của mình đối với tài hoa của Huấn Cao mà còn muốn đạt được cái sở nguyện của mình, đó là có được chữ của ông Huấn. Đối với y, có được chữ viết của Huấn Cao đã trở thành một "sở nguyện" mà chỉ cần đạt được thôi là "y sẽ mãn nguyện". Cái đẹp quả là có sức ảnh hưởng lớn, nó khiến con người ta phải mê mẩn, phải cố gắng để đạt được, bất chấp những nguy hiểm hiểm nguy đang chờ đợi.

Tài năng của Huấn Cao chẳng hề được Nguyễn Tuân bộc lộ trực tiếp một lời vậy mà, người ta vẫn cứ như thấy những con chữ thư pháp "đẹp lắm, vuông lắm" của người tử từ hiện lên trước mắt. Qua những hành động bất chấp nguy hiểm của quản ngục để đối đãi với Huấn Cao cùng những suy tư của y đã khiến chúng ta thật ấn tượng về tài năng của người tử từ nổi danh của vùng Sơn ấy. Và chỉ cần miêu tả cái khát khao cháy bỏng có được chữ Huấn Cao của viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã nâng tầm tài năng của Huấn Cao, biến ông trở thành một tài năng hơn người, trở thành một bậc "thần thơ thánh chữ". Thái độ của viên quản ngục đối với người từ tù đầy sự ngưỡng mộ, đầy kính trọng, phải chăng đây cũng chính là tình cảm ngưỡng mộ của Nguyễn Tuân đối với cái đẹp? Người ta biết Nguyễn Tuân là người luôn săn tìm cái đẹp, và cái đẹp trong tài năng thư pháp của Huấn Cao đã chạm tới cái đẹp tuyệt đối mà Nguyễn Tuân kiếm tìm chăng? Và đó cũng như một lời trân trọng của Nguyễn Tuân dành cho văn hóa truyền thống của dân tộc đang bị mai một chăng?

Không chỉ là một người nghệ sĩ tài hoa với nghệ thuật thư pháp, tử tù Huấn Cao còn nổi tiếng là một người có khí phách hiên ngang của một vị anh hùng.

Nguyễn Tuân đã cất công xây dựng hình ảnh của một vị anh hùng "chọc trời khuấy nước", một người chỉ là một viên quan coi sóc việc học ở một huyện mà dám đứng lên lãnh đạo người dân chống lại triều đình để mà lập lại trật tự xã hội. Một vị quan nhỏ, với công việc của mình, đáng ra cả đời ông đã được yên bình trong tĩnh lặng, thế nhưng, giữa cái cảnh "Hán học suy vi", "Tây Tàu nhố nhăng" đã buộc vị quan ấy phải vùng dậy với mong muốn lấy lại công bằng cho xã hội, mong có được một xã hội tốt đẹp hơn. Như viên quản ngục nhận xét Huấn Cao, ông không chỉ đánh giá tài năng viết chữ của Huấn Cao mà còn khâm phục cái khí phách hơn người của tên tử tù nữa, quản ngục gọi Huấn Cao là "một ngôi sao Hôm", "một ngôi sao chính vị sắp tù biệt vũ trụ" hay "một kẻ chọc trời khuấy nước". Vài ba câu của quản ngục, những người ta đã thấy hiện lên cái tầm vóc mà công việc của Huấn Cao theo đuổi, nó to lớn và vĩ đại tới nhường nào!

Khí phách của Huấn Cao không chỉ thể hiện khi ông còn ở ngoài tự do mà ngay cả khi sa cơ, phải chịu tù tội, ông vẫn giữ nguyên cái khí phách ngang tàng, kiên trung của mình.

Cái khí phách của ông thể hiện gián tiếp qua lời của những nhân vật trong truyện mà đầu tiên là qua lời của tên lính dẫn tù. Khi vừa dẫn Huấn Cao cùng anh em của ông tới trại giam của viên quản ngục, tên lính đã dặn dò viên quản ngục rằng: "Bẩm thầy, tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất bọn". Một vị anh hùng dù sa cơ nhưng vẫn là một kẻ đặc biệt nguy hiểm, cần được đặc biệt chú ý. Đó chính là cái khí phách ngạo nghễ của Huấn Cao, khí phách của một vị anh hùng luôn tỏa ra chói lòa đến thế.

Và nếu theo dõi tiếp, người ta hẳn để ý đến một chi tiết nhỏ trong câu chuyện, chi tiết dỗ gông. Nguyễn Tuân đã chèn vào cả mạch truyện một chi tiết nhỏ ấy, thế nhưng nó lại là chi tiết nổi bật nhất, phản ánh mạnh mẽ nhất cái khí phách gan góc, ngạo nghễ của người anh hùng Huấn Cao. Quả thực là chỉ có Nguyễn Tuân mới có thể làm được điều này!

Sau khi bước tới cửa trại giam, ở vị thế đó là một kẻ khác, chắc hẳn sẽ không chỉ buồn đau mà có khi còn biến chất, trở thành kẻ tiểu nhân, thế nhưng với Huấn Cao thì không. Những lời nói và hành động của ông dường như vô cùng thoải mái, thản nhiên, nhẹ như không khí, đọc lên, người ta ngỡ như ông đang còn tự do ngoài thế giới rộng lớn kia. Huấn Cao nói "Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi! Phải dỗ gông đi!", câu nói nhẹ nhàng như lúc bình thường chứ không ai nghĩ đây là lúc ông đang phải đeo gông mà vào ngục. Nghe câu nói ấy, người ta ngờ như thấy Huấn Cao thản nhiên như đang làm một việc bình thường trong cuộc sống.

Và rồi, cái khí phách ngạo nghễ ấy càng thể hiện mạnh mẽ hơn với cái hành động "dỗ gông": "Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái". Chỉ với một chữ "thuỳnh" thôi, Nguyễn Tuân đã thu hết cái ngạo khí của một vị anh hùng vào câu chữ. Chữ "thuỳnh" ấy nghe nó vang vọng, người đọc như được chính mắt nhìn thấy Huấn Cao "dỗ gông", chính tai nghe được cái âm thanh "dỗ gông" vọng lên trong đầu của mình. Một cái "thúc mũi gông", Huấn Cao làm một cách thản nhiên quá, như ông đang làm một việc gì đó bình thường hàng ngày vậy. Nếu như năm người bạn tù của ông phải "nhăn mặt" vì "then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ", thì riêng Huấn Cao lại chẳng hề tỏ vẻ gì. Đó chính là khí phách của một vị anh hùng làm việc lớn, khiến cho mọi người phải nể vì.

Khí phách của người anh hùng Huấn Cao càng được thể hiện qua hình ảnh của một tên tử tù trong lao ngục. Lao tù xưa nay vốn khiến cho con người ta phải kinh sợ, động lòng, là nơi có thể biến một kẻ anh hùng trở thành một kẻ tiểu nhân vô lại, thế nhưng với Huấn Cao lại khác. Với ông, lao tù chẳng qua cũng chỉ như một nơi ở, bởi chí khí của ông đã tung hoành khắp thế gian này rồi. Ở trong tù nhưng chẳng khác nào ở nhà, Huấn Cao vẫn ung dung, tự tại, với khoản "biệt đãi" của quản ngục, ông "thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm". Huấn Cao cũng giống như Phan Bội Châu ở trong nhà lao Quảng Đông:

"Vẫn hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù"

Cái khí phách ngạo nghễ của những người anh hùng thật khiến những con người bình thường như chúng ta phải khâm phục bội phần.Và cái khí phách ấy của Huấn Cao còn thể hiện ở chỗ, ông "khinh bạc đến điều" cường quyền.

Đó là khi viên quản ngục lui vào "buồng kín, khép nép hỏi ông Huấn" vừa mong ông giữ kín chuyện vừa ân cần hỏi han "ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất", thế nhưng đáp lại sự ân cần của quản ngục, Huấn Cao chỉ trả lời bằng thái độ ngạo mạn "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây". Với ông Huấn, tất cả những kẻ thuộc triều đình, là quan lại của triều đình đều là những kẻ ác, những kẻ xấu xa, sống trên đầu trên cổ của nhân dân, vậy nên, ông cũng coi viên quản ngục là một kẻ như thế. Chính vì thế, ông "khinh bạc đến điều" những kẻ hèn hạ này. Đến khi viên quản ngục nghe thấy lời ông, đáp lại bằng một câu "xin lĩnh ý", người ta mới càng thấy cái tầm vóc của Huấn Cao, nó trở lên kì vĩ hơn, uy nghi hơn. Một viên quản ngục, chúa ngục mà lại "cung kính chắp tay "xin lĩnh ý"" với một tên tử tù, thì tên tử tù ấy phải mang một khí phách khiến người ta phải nể phục đến nhường nào chứ?

Xưa nay, đối với những người anh hùng khí phách ngút trời, cái chết với họ chẳng qua là "lông hồng", họ đã chẳng còn đặt nặng việc sống chết. Với Huấn Cao cũng vậy, đến trước ngày ra pháp trường, ông vẫn ung dung trong tĩnh tại. Nếu như những kẻ khác, trước cái chết không run sợ cũng phải động lòng hốt hoảng, thế nhưng, với những người anh hùng như Huấn Cao, cái chết chẳng có gì đáng sợ, bởi vậy, ông vẫn đường hoàng, bình tĩnh cho lại những con chữ cuối cùng của cuộc đời mình "những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người".

Nếu như phía trên, người ta chỉ thấy tài hoa của ông gián tiếp qua lời kể của những nhân vật khác thì ở đây, khí phách của ông lại được bộc lộ trực tiếp qua lời nói và hành động, vừa được gián tiếp thể hiện qua lời kể của viên quản ngục. Nguyễn Tuân đã xây dựng Huấn Cao trong cảm hứng của bút pháp lý tưởng hóa, khắc sâu vào trong lòng chúng ta hình ảnh của một người với khí phách ngạo nghễ.

Không chỉ là tài hoa, là phí khách hơn người, Huấn Cao còn được biết đến trên khía cạnh là một con người có cái tâm thiên lương vô cùng trong sáng.

Thiên lương vốn là từ chỉ bản tính tốt đẹp của con người được thể hiện từ khi sinh ra. Huấn Cao là một người có cái tâm thiên lương trong sáng, điều đó thể hiện qua việc ông cho chữ cũng như quan niệm của ông về cái chữ. Bởi như lời quản ngục nói về Huấn Cao "tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ", bởi với Huấn Cao, cái chữ là thứ quý giá, không thể cho tùy tiện "ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Huấn Cao viết chữ đẹp là thế, nhưng cả đời ông chỉ mới viết "hai bộ tứ bính và một bức trung đường cho ba người bạn thân", ông chỉ trao con chữ của mình cho những người xứng đáng, cho những người chung chí hướng mà thôi. Đó là quan niệm của Huấn Cao về cái chữ, cái đẹp ở đời. Huấn Cao tặng chữ cho quản ngục vì "ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người", không muốn phụ đi tấm lòng của một người với "sở thích cao quý" và cái tâm biết kính trọng cái đẹp.

Hành động cho chữ của Huấn Cao cho quản ngục vừa thể hiện một tấm lòng quý trọng con người, đền đáp cho người tri ký, vừa để nâng đỡ thứ ánh sáng thiên lương trong một con người khác của Huấn Cao. Viết chữ, viết câu đối là một hành động sáng tạo về mặt thẩm mỹ, thế nhưng ở đây, nó còn là một sự xúc động về mặt đạo đức nữa.

Thiên lương của Huấn Cao đã thể hiện rõ khi ông nhất tâm cho chữ quản ngục, ông cảm động bởi tấm lòng trân trọng cái đẹp, yêu quý cái đẹp của quản ngục và cũng từ cái đẹp ấy, ông khuyên nhủ quản ngục giữ lấy cái thiên lương của chính mình. Con người ta vốn thiện lương đã đẹp, nhưng khi chia sẻ, giúp đỡ người khác trở nên thiện lương thì cái thiện ấy còn tăng gấp bội phần, Và Huấn Cao đã thực sự làm được việc đó bằng lời khuyên nhủ quản ngục "Tôi bảo thực đấy, thấy Quản nên tìm về quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi… Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". Một người tử tù đã dùng hết những tâm can cuối cùng của cuộc đời mình để giúp người khác hướng thiện, ông đem cái thiên lương trong sáng vô ngần ấy của mình để khơi gợi cái thiên lương trong lòng người khác. Đó mới thực là một người anh hùng ở đời!

Huấn Cao là nhân vật được Nguyễn Tuân xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, lý tưởng hóa người anh hùng yêu nước, đồng thời, qua đó, ông bộc lộ kín đáo tình yêu nước thầm kín của mình, kết tính quan điểm về cái đẹp của nhân vật về nghệ thuật và con người. Nghệ thuật chân chính sẽ có sức hút kì lạ đối với những con người thực sự yêu nó, thực sự trân trọng nó. Cái đẹp sẽ tác động tới tâm thức, tâm hồn của con người, nó là sự hòa hợp của cả cái tài và cái tâm

Thế nhưng, Chữ người tử tù sẽ chẳng thể là một tác phẩm vẹn tròn ý nghĩa nếu không nhắc về nhân vật quản ngục, một chúa ngục sống giữa chốn đề lao "tàn nhẫn", "lừa lọc", "một đống cặn bã", nơi mà con người dễ sa ngã, dễ bộc lộ những thú tính hoang dại, độc ác nhất của mình.

Những tưởng sống trong cái môi trường với một "lũ quay quắt", quản ngục cũng sẽ như chúng, hòa mình vào cái "bản đàn" xô bồ ấy, nhưng không, quản ngục lại được ví như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ". Ông là một con người với "tính cách dịu dàng và lòng biết giá người", là một con người "thuần khiết giữa một đống cặn bã". Quản ngục hiện lên hoàn toàn trong một đoạn văn miêu tả bằng bút pháp trữ tình, gợi lên cho chúng ta hình ảnh của một con người với tâm hồn đẹp đẽ, biết trọng cái đẹp cái tài.

Viên quản ngục được Nguyễn Tuân khéo léo dựng lên thông qua hai khía cạnh: một là một con người say mê cái đẹp, và hai là một con người biết hướng thiện, biết sống với cái thiên lương của mình.

Quản ngục là một người say mê, quý trọng cái đẹp, đó là khi ông vừa nhận được "phiến trát" biết tin Huấn Cao sắp được chuyển tới đề lao của mình. Quản ngục đã gần như ngay lập tức thể hiện tấm lòng muốn "biệt đãi" với Huấn Cao – kẻ tử tù phản nghịch cùng với những người bạn khác của ông, bất chấp sự nguy hiểm tới tính mạng nếu như để lộ ra ngoài. Nếu như những tên quản ngục khác muốn bày tỏ cái uy quyền của một chúa ngục nơi chốn lao tù của mình thì viên quản ngục ở đây lại thể hiện cái sự "biệt đãi" kính trọng đối với một tên tù nhân khí phách ngạo nghễ.

Quan điểm sống của quản ngục đó là trân trọng cái đẹp, người tài, cái đẹp chính là tiêu chí đầu tiên đánh giá nhân cách của một con người. Thế nên, khi nhận Huấn Cao vào ngục của mình, quản ngục đã "biệt nhỡn" Huấn Cao hết sức đặc biệt. Yêu cái đẹp, trọng cái tài, chính vì thế, quản ngục luôn đau đáu trong mình cái "sở nguyện" khi có Huấn Cao trong tay, đó là "một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết", "không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất". Cái sở nguyện ấy của quản ngục chẳng phải ai cũng có, đó là sở nguyện cao quý mang phẩm chất của một người nghệ sĩ. Không yêu cái đẹp, trọng cái đẹp thì người ta làm sau thấu hiểu được cái đẹp ở đời mà trân trọng cái tài làm ra cái đẹp được cơ chứ?

Có lẽ vì thế, mỗi hành động của quản ngục đối với ông Huấn là cả một sự cung kính, khiêm nhường đến vô cùng. Huấn Cao xuất hiện trước mặt quản ngục, với sự ngạo nghễ trong hành động "dỗ gông", nếu như những tù nhân khác, quản ngục chắc hẳn "giở những mánh khóe hành hạ thường lệ ra", nhưng với Huấn Cao, ông lại "kiêng nể, tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá rồi". Phải, một con người trọng cái đẹp, cái tài như quản ngục thì làm sao không kính nể con người tài hoa và khí phách như Huấn Cao được cơ chứ?

Đến khi bị Huấn Cao hiểu lầm mà "khinh bạc đến điều", quản ngục vẫn giữ nguyên thái độ cung kính của mình, đáp lại bằng sự "lễ phép lui ra với một câu: "Xin lĩnh ý", bởi y thừa hiểu tính cách của những người anh hùng như Huấn Cao, "những người chọc trời quấy nước, đến trên dầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù". Cái khí phách mà Huấn Cao thể hiện ra càng khiến cho viên quản ngục khâm phục ông hơn bội phần, sự khinh bạc của Huấn Cao với y, càng làm cho y cảm thấy kính nể mà "cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn nữa".

Quản ngục – một nhân vật mà thân phận khác xa với tâm hồn của mình, Nguyễn Tuân cũng đã thẳng thắn thừa nhận điều đó "Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với một lũ quay quắt". Quản ngục là một con người mê cái đẹp, khát khao có được cái đẹp để mà trân quý và giữ gìn. Và như Nguyễn Tuân đã từng khẳng định: một con người yêu cái đẹp, trân trọng cái đẹp thì không bao giờ là kẻ xấu được.

Chẳng thế mà quản ngục còn là một con người biết hướng thiện, biết dũng cảm mà sống theo tiếng gọi của thiên lương.

Có lẽ khi bước chân vào cái nghề cai ngục khủng khiếp này, quản ngục cũng đã từng day dứt "Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi!". Bởi ông hiểu rõ cái môi trường đề lao "người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc", sẽ làm mai một đi tâm hồn "tốt và thẳng thắn", mai một luôn cả tình yêu với cái đẹp của ông. Đến khi gặp Huấn Cao, ông lại càng băn khoăn hơn giữa lý trí là nhiệm vụ của triều đình và tiếng gọi của thiên lương trong con tim ông. Huấn Cao tới, con người với cái tài, cái đẹp mà ông kính trọng tới, "ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương", ông không biết nên hành xử thế nào, nên lo liệu thế nào? Bởi một bên, ông không hề muốn vi phạm nội quy công vụ của triều đình, một bên ông muốn khoản đãi một kẻ tử tù phản nghịch mà ông yêu kính. Tình thế khiến quản ngục phải đau đầu chọn lựa. Có người sẽ vì công vụ mà quên đi cái tâm của mình, quên đi cái đẹp mà mình vốn yêu vốn quý, thế nhưng, quản ngục thì không. Sau một đêm ngồi suy ngẫm, "những đường nhăn nheo của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ", ông đã chọn nghe theo tiếng nói của trái tim, cất bước theo tiếng gọi của cái đẹp, cái thiện lương.

Tiếp nhận Huấn Cao, chứng kiến cái hành động "dỗ gông" ngông cuồng, thế nhưng quản ngục lại chẳng hề băn khoăn, động tâm mà trực tiếp bộc lộ tấm chân tình của mình khiến cho tất cả những tên lính lệ phải ngạc nhiên đến độ "nhắc nhở".

Đến cuối cùng, khi Huấn Cao đồng ý cho chữ rồi cất lời khuyên can quản ngục "thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến việc chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi", nghe đến đây, quản ngục không khỏi cảm động, cúi đầu, nhìn "bức châm", "vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh"". Cuối cùng, cái thiên lương của một tên chúa ngục cũng đã được khai mở hoàn toàn nhờ cái đẹp.

Quản ngục đã bước qua cái giới hạn của thân phận để mà sống thật với bản thân, với lương tri của mình, bất chấp rằng ông có thể hiểm nguy tới tính mạng. Một con người đầy mâu thuẫn, ông là một kẻ tù nhân của chính mình, là một kẻ lạc lõng giữa cái đề lao mà mình cai quản.

Quản ngục được Nguyễn Tuân dựng lên bằng cảm hứng lãng mạn, bằng cái tâm yêu cái đẹp của mình. Qua nhân vật quản ngục, Nguyễn Tuân muốn khẳng định quan điểm của mình về cái đẹp rằng nó sẽ là nguồn cơn để con người trở về cái chân thiện mỹ của cuộc đời, hay một con người yêu cái đẹp, trọng cái tài sẽ không bao giờ trở thành một kẻ ác được.

Tìm hiểu Chữ người tử tù mà không tìm hiểu cặn kẽ, không phân tích cho sâu cái phân đoạn đắt giá nhất của tác phẩm "cảnh cho chữ" thì sẽ chẳng ai có thể hiểu hết những ý nghĩa sâu xa mà Nguyễn Tuân muốn gửi gắm. Cảnh cho chữ là một cảnh đắt giá nhất trong toàn bộ tác phẩm, là một cảnh "xưa nay chưa từng có".

Giữa một không gian chật hẹp ở buồng biệt giam, "một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián" lại là nơi cho người ta thấy cái đẹp, cái tài hoa của một con người. Vào giữa đêm khuya "chỉ còn vẳng lên tiếng mõ vọng canh", những con chữ được sáng tạo ra vào lúc người ta không ngờ tới nhất, bởi xưa nay, người ta thường cho chữ vào lúc trời còn sáng, lúc mặt trời còn đẹp giữa thế gian. Và người cho chữ cũng vậy, là những người làm công việc sáng tạo này phải là người hay chữ, trong một tâm thế thoải mái, vui tươi nhất, thế nhưng đối lập lại, người cho chữ ở đây lại là một tên tử tù ngày mai sẽ bị dẫn ra pháp trường hành quyết. Có lẽ giờ đây là khoảng thời gian cuối cùng mà người anh hùng có thể để lại di huấn của mình với "những hoài bão ước mơ tung hoành của cả một đời người".

Có lẽ chưa từng có trong lịch sử văn học Việt Nam, một cảnh cho chữ nào mà vị thế của các nhân vật được đảo ngược đến thế. Những kẻ uy quyền như quản ngục, thầy thơ lại là phải khúm núm, khép nép còn kẻ tử tù có tội lại hiên ngang, bình thản, tĩnh lặng mà bay bổng trong từng nét chữ như thế! Và nếu như chúa ngục là những kẻ phải buông lời khuyên răn dạy dỗ phạm nhân, thì ở đây, phạm nhân lại là người lên tiếng dạy dỗ viên quản ngục. Thế nhưng, không ai có thể không công nhận, cái khí phách, cái tài hoa của tên tử tù kia đã khiến cho những kẻ uy quyền như quản ngục phải cúi đầu. Và cái cúi đầu ấy không khiến cho quản ngục thấp hèn đi mà khiến ông trở lên cao đẹp hơn, bởi lẽ những lời giáo huấn ấy đã đánh thức cái thiện trong ông, cúi đầu trước cái đẹp, cái uy nghi để nhận những lời răn dạy thì không bao giờ thấp hèn cả.

Quản ngục cung kính với Huấn Cao, cái cung kính ấy không làm ông hèn nhát mà nó còn làm sáng rực cái nhân cách đẹp đẽ, thánh thiện, sự sùng bái của quản ngục với cái đẹp, cái tài và khí phách của người anh hùng.

Quản ngục chính là nhân vật được Nguyễn Tuân gửi gắm quan niệm nhân sinh sâu sắc của mình. Đó là ẩn sau mỗi con người dù sống trong xấu xa, độc ác vẫn luôn có một tâm hồn khao khát cái đẹp, khao khát cái thiện lương, chực chờ thứ ánh sáng thiên lương chiếu tới để bừng dậy mạnh mẽ.

Bằng bút pháp lãng mạn, tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã dựng lên những nhân vật trong sự hoàn thiện, hoàn mỹ tới mức lý tưởng hóa. Như Huấn Cao – một con người xuất chúng, không chỉ tài hoa mà còn có khí phách hơn người cùng một trái tim chứa đầy thiên lương. Còn quản ngục – một con người sống giữa muôn vàn cái ác nhưng lại trở thành "một thanh âm trong trẻo chen giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ", biết yêu cái đẹp, biết trọng cái tài, biết phục cái thiện. Ông cũng xây dựng những nhân vật đối lập trong Chữ người tử tù như Huấn Cao với quản ngục (tử tù với chúa ngục), hay sự đối lập trong chính thân phận và nội tâm của quản ngục.

Hơn thế, trong cảnh cho chữ, tác giả cũng xây dựng những hình ảnh đối lập từ không gian, thời gian, cũng như cái đẹp đối lập với cái xấu. Ngôn ngữ trong Chữ người tử tù vô cùng giàu hình ảnh, đa dạng các từ ngữ Hán Việt tạo nên không khí cổ kính cho tác phẩm.

Chữ người tử tù là tác phẩm thành công nhất trong tập Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Nó đã cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của một người anh hùng tài hoa, chí khí, đồng thời nó cũng cho ta thấy được quan điểm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong cuộc sống.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 2 

Nhà thơ lừng danh người Mỹ Ralph Emerson từng có câu nói rất hay rằng: “Yêu cái đẹp là thường thức. Tạo ra cái đẹp là nghệ thuật. Nhưng biết trân trọng cái đẹp mới là người nghệ sĩ chân chính.” Có lẽ từ lâu nhà văn Nguyễn Tuân đã sớm thấm nhuần tư tưởng trên mà cả cuộc đời ông là một chặng đường say mê đi tìm cái đẹp thanh cao, cái đẹp của chuẩn mực tạo hoá. Tác phẩm Chữ người tử tù của ông đã khắc hoạ rất thành công chân dung vẻ toàn mỹ, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì nó vẫn luôn toả sáng và trường tồn với thời gian.

Nguyễn Tuân (1910 – 1987) xuất thân trong một gia đình Nho giáo, quê ông ở làng Mọc nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Nguyễn Tuân là nhà văn lớn có đóng góp vô cùng quan trọng cho nền văn học Việt Nam hiện đại, cả đời ông say mê đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để từ đó thổi hồn vào trong các tác phẩm của mình những làn gió mới, những vẻ đẹp nhân văn cao đẹp. Các tác phẩm chính của ông gồm có : Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960),… Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng in năm 1939 tên tạp chí Tao Đàn, sau đó được in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Hình tượng Huấn Cao – một con người tài hoa, lỗi lạc với ý chí hiên ngang, bất khuất, cho dù là chí lớn không thành nhưng ông cũng không bao giờ gục ngã, vẫn giữ cho mình tâm hồn thanh cao trước cảnh gục tù tối tăm, u uất.

Thành công của một tác phẩm truyện ngắn là đến từ tình huống truyện đặc sắc, đó chính là chiếc chìa khoá thúc đấy cốt truyện dâng lên cao trào như cách mà Nguyễn Minh Châu từng nói đó là: “Tình thế của câu chuyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”. Chữ người tử tù cũng là một câu chuyện như thế, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật của mình vào nghịch cảnh trớ trêu, cuộc hội ngộ giữa hai thế lực đối lập. Một bên đại diện cho con người tài hoa khí phách, một bên là quyền lực tăm tối của xã hội phong kiến. Cuộc gặp gỡ diễn ra đầy kịch tính, lôi cuốn người đọc, cuối cùng vẻ đẹp thiên lương tao nhã đã thắng thế trước sự xã hội tàn bạo, xấu xa.

Chữ người tử tù xây dựng thành công tuyến nhân vật chính diện, họ là trung tâm đại diện cho cái đẹp thanh cao trong tâm hồn, dù ở trong hoàn cảnh nào, dù thực tại xã hội có dở bẩn ra sao cũng không thể nào làm vướng bẩn nhân cách thiên lương của họ. Trước tiên là hình tượng Huấn Cao – một vị anh hùng sa cơ, thất thế ông là người lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh đòi lại công bằng cho chính mình. Ấy thế mà trong con mắt của chế độ phong kiến ông lại bị gọi là kẻ “phản nghịch”, kẻ cầm đầu nguy hiểm cần phải tiêu diệt. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Tuân sáng tạo hình tượng Huấn Cao dựa trên nguyên mẫu Cao Bá Quát – một người tài hoa, nghệ sĩ, tinh thần quả cảm và đặc biệt là có tài viết chữ đạt đến độ tuyệt mỹ. Huấn Cao là cách gọi kính trọng, là một người mang họ Cao giữ chức huấn đạo – chức quan trông coi việc học ở một huyện.

Nguyễn Tuân khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao qua nhiều bình diện để thấy được cái vẻ đẹp thanh cao đạt đến chân – thiện – mỹ của một người tài hoa bậc nhất. Trước tiên, nhà văn miêu tả Huấn Cao là một người nghệ sĩ tài hoa, lừng danh khắp chốn. Ông xuất hiện gián tiếp trong câu chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại, là người mà “vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, không những thế ông còn có tài “bẻ khoá và vượt ngục”. Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm quả là một người “văn võ song toàn”, hội tụ tất cả những khí chất của một người anh hùng tài ba. Tác giả giới thiệu Huấn Cao với lối miêu tả gián tiếp là hoàn toàn có dụng ý khéo léo, chu toàn ông muốn để cho nhân vật của mình xuất hiện một cách tự nhiên mà không đường đột, từ đó cho người đọc thấy được hình tượng nhân vật phi thường tiếng thơm đã truyền đi khắp nhân gian, khi nhắc đến tên tuổi cả viên quản ngục hay thầy thơ lại đều đã từng nghe qua. Cái tài hoa, nghệ sĩ của ông Huấn cao còn được bộc lộ rõ nét nhất khi viên quản ngục bất chấp hiểm nguy, chỉ với hy vọng có được chữ của ông, chữ ông “đẹp lắm, vuông lắm” chỉ cần có một đôi câu đối của Huấn Cao treo trong nhà coi như là “y đã mãn nguyện” bội phần, dường như trên đời sẽ chẳng có gì có thể làm cho viên quản ngục hạnh phúc hơn thế nữa.

Huấn Cao còn là vị anh hùng với khí phách hiên ngang ngút trời, dù lâm vào cảnh tù đày đối diện với án tử nhưng ông chẳng một chút sợ hãi vẫn giữ cho mình nhân cách thanh cao, không nhún nhường trước cường quyền tào bạo. Trước lời giễu cợt của bọn lính cai ngục, Huấn Cao im lặng “lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng” một hành động dứt khoát như là lời cảnh báo chắc nịch của người tử tù với bọn nha sai hách dịch, cậy quyền. Trong ngục tù tăm tối ông thản nhiên, ung dung “nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình”, thật là hiếm có người tù nào sắp chết mà vẫn giữ thái độ điềm nhiên, bình thản được như Huấn Cao. Chẳng sợ cường quyền, khinh bạc chế độ xã hội tàn bạo dù biết trước sẽ phải đối đầu với một trận “lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo” thế nhưng người anh hùng cũng chẳng thể dối lòng “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây” Câu nói thẳng thừng như gáo nước lạnh tạt thẳng vào bộ mặt phong kiến. Nguyễn Tuân còn miêu tả người anh hùng kiên cường mang tấm lòng thiên lương cao cả. Huấn Cao từ thuở sinh thời không bao giờ ham phù hoa, danh lợi mà bán chữ. Đời ông cũng chỉ viết có “hai bộ tứ bình và một bức trung đường” cho những người bạn tri kỷ. Ông quan niệm cái đẹp thanh cao phải được trao cho đúng người mới phát huy được hết giá trị của nó. Huấn Cao đã bị cảm động trước sự đối đãi chân tình “biệt nhỡn liên tài” của chủ tớ Viên quản ngục. Tấm lòng nhân hậu không muốn phụ “một tấm lòng trong thiên hạ”.

Ngoài nhân vật trung tâm Huấn Cao, Nguyễn Tuân còn xây dựng thêm một tuyến nhân vật viên quản ngục, một người yêu thích cái đẹp, tâm hồn tài hoa nghệ sĩ nhưng lại bị lạc vào chốn nhơ bẩn, dung tục. Nhà văn xây dựng đồng thời hai nhân vật chính diện song song soi chiếu cho nhau toả sáng với vẻ đẹp tâm hồn tao nhã. Viên quản ngục dường như chọn nhầm nghề, ông là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Như cách mà tác giả nói “Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cạn bã”. Thật đáng trân trọng sống giữa một xã hội rối ren, loạn lạc mà vẫn giữ cho tâm hồn mình không vị vùi lấp trong bùn lầy, ông còn còn biết trân trọng cái đẹp, biết nể trọng người tài, là người dũng cảm bất chấp hiểm nguy.

Vào một đêm hoang vắng, tại trại giam tỉnh Sơn đã xảy ra “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Trong buồng giam tăm tối, chật hẹp, mùi ẩm mốc bốc lên, xung quanh là đầy nhưng mạng nhện giăng, mùi hôi thốc của phân chuột, phân gián. Trong không khí khói toả, ngọn lửa đỏ rực của ngọn đuốc đang cháy hừng hực. “Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”, viên quản ngục “khúm núm”, thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”, vị thế nhân vật dường như đổi dời người nắm quyền thế bỗng dưng khép nép, kính cẩn trước một tử tù. Cái đẹp không lẻ loi đơn độc, nó không tồn tại cùng cái xấu xa mà chiến thắng chúng, nhân đạo hoá những tâm hồn đang vướng bụi trần giúp họ thức tỉnh, tìm lại con người nhân nghĩa vốn có của mình.

Chữ người tử tù của tác giả Nguyễn Tuân là một thiên truyện đã đạt “gần tới sự toàn diện, toàn mỹ”. Tác phẩm thể hiện phong cách nghệ thuật tài tình của nhà văn, tạo dựng thành công tình huống truyện độc đáo, khắc hoạ tính cách nhân vật qua thủ pháp đối lập, tương phản gay gắt, ngôn ngữ trang trọng giàu hình ảnh sinh động. Qua truyện, tác giả đã khẳng định sự tồn tại vĩnh cửu của cái đẹp, thể hiện lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân sinh năm 1910 ở làng Nhân Mục, tục gọi là làng Mọc, thuộc Hà Nội. Ông là người có bản lỉnh cứng cỏi trong đời sống và trong sáng tác văn học; hiểu biết rộng, quý trọng tài năng, coi trọng nghề nghiệp, có những sáng tạo độc đáo trong lời văn cũng như trong cảm nghỉ. Sự nghiệp văn học của ông gồm hai giai đoạn. Các tác phẩm tiêu biểu trước 1945: Vang bóng một thời (1940), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943). Sau 1945: Tình chiến dịch (1950), Tùy bút kháng chiến (1955), Sông Đà (1960), một số bài phê bình và giới thiệu chân dung văn học. Nguyễn Tuân có những đóng góp đáng kể cho nền văn xuôi hiện đại, nhất là ở thể loại tùy bút, ở cảm thụ sâu sắc và ở văn phong cẩu kì, đa dạng như một ống kính trăm màu.

Chữ người tử tù là câu chuyện về một viên quản ngục mến mộ tài năng, nhất là tài viết chữ Hán đẹp nổi tiếng của một người tù án chém, ông ta đã bí mật đối đãi trân trọng người tù với mong ước xin được chữ quý. Cuối cùng, tưởng đã hết hi vọng xin chữ thì ông lại được người tù vui vẻ cho chữ, kèm theo lời khuyên hãy bỏ nghề coi ngục, về quê sống thanh bần để giữ được tâm hồn trong sạch, xứng với thú chơi chữ đẹp. Thông qua câu chuyện ấy đặc biệt là cảnh cho chữ ban đêm trong ánh đuốc đỏ rực, tác giả muốn nêu bật giá trị cao,quý của Cái Đẹp: đẹp chữ viết, đẹp đức cao, đẹp nhân cách. Đồng thời ca ngợi người biết quý trọng gìn giữ Cái Đẹp ấy như một báu vật ở đời mà ngọc vàng, quyền thế cũng không sao đổi được. Người đọc ngày nay tìm hiểu văn chương xưa bao giờ cũng phải vượt qua một cửa ải khó khăn. Đó là vốn văn hoá, lịch sử làm nền cho tác phẩm. Nói về phong kiến là nhắc tới vua quan và dân đen, địa chủ và nông dân. Nói về đạo Nho là nhắc tới cương thường, trên trí quân, dưới trạch dân. Nói về đạo Phật là nhắc tới luân hồi, từ bi... thì có thể cũng hiểu được sơ sơ đôi chút, nhưng trước những sản phẩm vật chất và tinh thần của văn hóa phong kiến Gá ch đây trên một thế ki được để cập tới trong truyện ngắn này thì quả thật không dễ hiểu chút nào.

Chữ người tử tù rút từ tập truyện Vang bóng một thời. Như tựa đề, đó là cuốn sách ghi chép về một thời và một lớp người đã tàn trong quá khứ, mà bóng dáng hãy còn in đậm trong trí nhớ, trong sự kính phục, tôn sùng của tác giả. Nguyễn Tuân có dụng ý rõ ràng khi dựng lại một không khí xưa cũ như thế ở truyện Chữ người tử tù. Cảnh vật, con người, sự việc hiện ra cũng đậm màu sắc ấy, đưa chúng ta trở lại quá khứ cách đây hơn trăm năm. Mở đầu, nội dòng chữ : phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, muốn hiểu cho thấu ngọn ngành, e đến bạc tóc. Bình thường, người ta viết là tờ trát, lá trát, nhưng tác giả vẫn để nguyên cách gọi của thời đó với nghĩa nghiêm trọng là phiến trát Còn tại sao ông không viết: của quan tổng đốc Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường theo kết cấu Hán văn y như trong phiến trát để cho nó giữ nguyên cái tính chất quan yếu, dậy mùi quyển lực ngay trong từng chữ... Đốc bộ đường là chữ dùng để chỉ chức vụ Tổng đốc. Lại thêm tên gọi tắt của ba tỉnh Sơn (Sơn Tây), Hưng (Hưng Hóa), Tuyên (Tuyên Quang) vì hồi ấy, tỉnh nhỏ đứng đầu chi là chức Tuần vũ, hai hay ba tỉnh nhỏ hợp lại mới có chức Tổng đốc trùm lên trên - ba tỉnh này đặt chung dưới quyền cai trị của một Tổng đốc. Mệnh lệnh từ dinh quan Tổng đốc phát ra cho cấp phủ, cấp huyện là rất uy nghi.

Người cầm bút mượn chữ xưa mà khơi dậy cái không khí, khung cảnh của một thời. Tả cảnh vật thì vọng canh (vọng canh là chiếc chòi canh được dựng khá cao để có thể trông xa (vọng), chiếc hèo hoa, giá gươm, án thư, con song, giấy bản, ty Niết, tàn đồn, chiếc gông, chậu mực, bức châm... Tả người thì thầy bát, ngục tốt, thằng thập, thủ xưởng... Tả việc thi cho chữ, thay bút con, đề xong lạc khoản, lĩnh ý, bái lĩnh... Đằng sau chữ nghĩa ấy là cà một nền văn hóa xưa mà truyện này chi xén ra có một mảnh, đủ đưa người đọc vào không khí của một cửa ngục tiêu biểu cho triều đình thời ấy, đầy quyền lực mà ngu xuẩn, hùa nhau hủy diệt nhân cách và đức tài. May mà trong đó còn nổi lên dè dặt mà sâu thiết một tấm lòng biết quý trọng, tôn kính cái đẹp của đức độ, tài ba. Những điều chứa chất bên trong nội dung của truyện đã chinh phục được người đọc. Đó là điều đáng chú ý trước tiên.

Cốt truyện Chữ người tử tù xoay quanh tài viết chữ đẹp của người tù án chém. Ý nghĩa dĩ nhiên có thể mở rộng ra nhiều, nhưng đó là cái cốt lõi. Có ba hạng người và ba thái độ trước cái đẹp ấy. Thái độ thứ nhất là hủy diệt; thái độ thứ hai là kính trọng, mến phục; thái độ thứ ba là đại lượng, trọng mình, trọng người của một bậc chính nhân quân tử. Đan dệt trong truyện là ba thái độ đối với cái đẹp.

Nói chủ đề của truyện là tôn vinh cái đẹp e hồ đồ chăng ? Cái đẹp ấy ở chữ viết của người tử tù là điểu khỏi bàn cãi. Viên quản ngục đã nghe cả vùng tỉnh Sơn vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp của người tù này. cố nhiên tài viết chữ ấy gắn liền với một cái tên cụ thể là Huấn Cao. Ông quan họ Cao có thời làm huấn đạo ở tỉnh Sơn Tây, nơi mà viên quản ngục gọi thân mật là tỉnh Sơn Tây. Ông Huấn Cao ấy bây giờ tên tuổi lại đứng đầu trong danh sách sáu tử tù phạm tội phản nghịch, dám cầm gươm chống lại triều đình. Lời văn chỉ kể có thế, còn nhân vật Huấn Cao có phải là Cao Bá Quát nổi tiếng thơ hay chữ đẹp, lại có thời gian bị triều đình đầy đi giữ chức giáo thụ ở phủ Quốc Oai tỉnh Sơn và đã cùng nông dân nổi lên chống vua quan hay không, thì chẳng biết. Đó là chỗ kín nhiệm của ngòi bút, chỗ để trăng ẩn vào mây như cách nói của người xưa. Nếu có gì trùng hợp thì cũng coi như là ngẫu nhiên vậy.

Lẽ thường, ở đời cái gì đẹp cũng quý bởi nó làm cho cuộc sống thêm tươi vui, ý nghĩa. Chữ đẹp cũng thế. Chữ đây là chữ Hán ngày xưa, một loại chữ tượng hình, các nét được cách điệu hóa qua nhiều đời thành một nghệ thuật viết chữ có phép tắc hẳn hoi (thư pháp). Sách xưa của ta và của Trung Quốc đều nhắc đến thiếp Lan Đình của Vương Hi Chi là nhắc đến mẫu chữ đẹp nổi tiếng, đổng thời cũng ghi chép sự xuất hiện của nhiều trường phái viết chữ Hán. Thuở xưa, trong những nhà giàu sang, nhất là nhà có học, thường treo nhiều hoành phi, câu đối, bức châm, bức trướng... bằng lụa bạch, bằng giấy dày in hoa, bằng gỗ sơn son thiếp vàng hoặc khảm xà cừ. Nhất là bức châm, bộ tứ bình lụa bồi thành tranh có chữ viết kiểu đới thảo chép những lời văn, những bài thơ Đường của bạn bè tri kỉ treo trong nhà là điều hãnh diện vinh dự, là bảo vật còn quý hơn vàng ngọc. Chữ đẹp là một cái đẹp hiếm có trên đời nhưng éo le thay, nó lại là của người tù mang án tử hình, nghĩa là người ấy chết thì nó cũng mất theo. Nguy cơ mất một báu vật trong thiên hạ đã rõ ràng. Châu ngọc còn tìm ra, chứ nét chữ rồng bay phượng múa ấy, nét chữ mà cả một tỉnh đều ca ngợi thì tìm ở đâu ra? Điều đó khiến cho vẻ đẹp của nó bỗng như lấp lánh thêm.

Cái hoa tay viết chữ đẹp ấy còn đi kèm với phẩm cách cao thượng lạ kì. Nhà văn có nhắc tới cái tài bẻ khóa vượt ngục của người tù chắc là để tô đậm tài võ bên cạnh tài văn. Xin đừng vội cho đó là hạ cấp. Bẻ khóa vượt ngục, dám làm giặc chống vua quan tàn bạo, cứu khổ dân lành thì ai dám bảo đó là điều đáng chê ? Viên quản ngục lễ phép nói lời kính phục người tù là người có nghĩa khí; một gọi ngài, hai gọi ngài, ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết... nhất định không phải chi vì nghe cái tên Huấn Cao và nhớ tới tiếng đồn chữ đẹp, mà đã từng nghe, từng nghĩ nhiều điều khác nữa về con người ấy: Những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng còn biết có ai nữa... Ở nhân vật Huấn Cao, tâm hồn cũng đẹp, nhân cách cũng đẹp, hành động cũng đẹp, nhưng tất cả đều ẩn kín sau nét chữ đẹp. Những nét đẹp kia là đẹp đạo đức, còn đẹp chữ viết mới là nghệ thuật. Nghệ thuật hay và đẹp, không ai không say mê, ngưỡng mộ. Nguyễn Tuân lấy nó làm cốt truyện là vậy.

Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân đề cập đến ba thái độ đối với Cái Đẹp. Thái độ thứ nhất là hủy diệt. Một số kẻ được miêu tả trong truyện nhưng đó là hạng thiên lôi chỉ đâu đánh đó, sống lâu ở chốn tù ngục nên nhiễm thói đầu trâu mặt ngựa. Đó là bọn lính tráng, những thằng thập, thằng cửu, lính canh, lính coi tù. Lối sống của chúng là sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc. Chúng là một đống cặn bã, một lũ quay quất Thấy đám tử tù bảo nhau quỳ xuống đất để thúc mạnh chiếc gông vào thềm đá cho rệp rơi bớt ra, một tên trong lũ lính áp giải đùa một câu độc miệng: Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sỏi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Nó nói tiếp, giọng hách dịch: Đứng dậy không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ. Cũng giọng ấy, hắn nhắc viên quản ngục khi thấy ông này lộ vẻ kiêng nể và có biệt nhỡn đối với Huấn Cao: Tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn. Thói sai nha nó vậy. Chốn ấy tất nhiên đẻ ra giống người ấy. Giá ai có tấm lòng trong sạch thì cũng khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả cái đời lương thiện đi. Lời ông Huấn Cao khuyên viên quản ngục ở cuối truyện chỉ nhắc lại một sự thật vĩnh hằng ở cửa ngục của giai cấp thống trị thời suy thoái. Nhà thơ Cao Bá Quát có bài thơ nói về cái gông: Mày chỉ biết gông người chứ mày biết gì phải trái, biết gì tốt xấu trên đời, đúng là để ám chỉ bọn đầu trâu mặt ngựa này. Những người tù kia, dù là Huấn Cao hay là quan gì đi nữa, dù chí cao tài cả đến đâu chăng nữa, đối với chúng chi là những tên tù, lại là tử tù, thì chúng chi nói bằng hèo, bằng tay thước, bằng thanh quất, bằng gươm. Chúng chỉ tuân thủ một mệnh lệnh là tiêu diệt. Một loại người nữa tuy không có mặt trong truyện nhưng lại là những tên tai to mặt lớn, ra lệnh từ xa. Đó là Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, là Hình bộ Thượng thư trong kinh, là ty Niết, hoặc trừu tượng hơn nhưng kinh khủng hơn, là triều đình quốc gia... Vô hình, nhưng chính nó mới là bộ máy hủy diệt. Tài năng, đức hạnh, tiết tháo, khí phách, lo nước, lo dân, văn tài, nghệ thuật... nó không cần. Nó chỉ cần những tên nô tì càng ngu xuẩn càng tốt để giúp nó giữ thật chặt cái ngai vàng bẩn thỉu, mục ruỗng.

Thái độ thứ hai là thái độ quý trọng, kính phục tài năng, nghĩa khí. Đó là thái độ của viên quản ngục và thầy thơ lại. Cái Đẹp ai cũng quý, nhưng phải biết là đẹp thì mới biết quý. Thầy thơ lại biết Huấn Cao có cả tài văn lẫn võ, nhưng là biết qua lời viên quản ngục và ông này cũng chi nghe người ta đồn. Vậy mà, khi hay tin một con người như vậy sẽ bị chém đầu thì lại thấy tiêng tiếc. Cái tính lành trời sinh, thấy tài giỏi thì mến, khổ cực thì thương ở thầy thơ lại thuần phác này đáng quý biết bao nhiêu! Viên quản ngục thì chữ nghĩa thánh hiền có lẽ không nhiều, nhưng trình độ học vấn thể hiện ở câu cửa miệng: Có học thì như lúa như nếp, không học thì như rơm như cỏ. Quý hơn cả là con mắt biết nhìn Cái Đẹp, coi việc thưởng thức Cái Đẹp như là một thú chơi thanh nhã ở đời. Nhân cách của ông ta là một nhân cách trên mức bình thường. Biết quý trọng Cái Đẹp chữ viết, Cái Đẹp khí phách, biết trân trọng hoài bão của con người có tài viết chữ đẹp, thì lại càng đáng quý! Yêu Cái Đẹp, quý Cái Đẹp, kính phục Cái Đẹp cũng làm cho con người đẹp lên, phẩm chất lớn hơn, cao hơn, thơm ngát. Viên quản ngục đã bắt mạch được tấm lòng thuần hậu của thầy thơ lại, trước hết là từ cái cảm tưởng tiêng tiếc hồn nhiên, rồi từ đó khẳng định có căn cứ rằng: người đã biết kính mến khi phách, biết tiếc, biết trọng người có tài hẳn không phải là kẻ xấu. Không đơn thuần suy luận, mà từ bụng ta suy ra bụng người. Đó là nhận xét người, còn bản thân mình thì không giấu được sự kiêng nể, ý biệt nhỡn đối với Huấn Cao và lấy quyền lực của phép nước mà át tụi lính tráng quen thói lên mặt. Đắn đo mãi ông ta mới dám bước vào buồng giam, khép nép thưa bày, một phiền ngài hai xin ngài, để rồi phải nhận một câu cao ngạo như đuổi thẳng của Huấn Cao: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Rồi ông ta lại lễ phép lui ra với một câu: Xin lỉnh ý!chứ không giở trò tiểu nhân thị oai và vẫn dâng cơm rượu hậu hơn trước. Như vậy là hạ mình, hạ mình quá mức. Thông thường, lũ quan quyền từ trên tột đỉnh xuống tận lính quèn, cứ việc ra oai, nói bằng tử hình, bằng gông, bằng hèo chứ đâu nói bằng đạo lí phải trái. Nhưng viên quản ngục này đã đến với người tử tù bằng tư cách của kẻ bề dưới, theo bảng giá trị đích thực của lẽ phải: người tài sơ đức thiểu kính trọng người tài cao đức cả... Huống chi ông ta lại muốn xin của người tử tù ấy những nét chữ tài hoa có một không hai, mà người ấy chết thì nó cũng chết theo. Chơi chữ đẹp, một mặt đã là thú chơi tao nhã, còn giữ cho được nét chữ đẹp ấy lưu lại với đời lại là một ý thức bảo tàng còn quá hiếm hoi ở cái xã hội trọng chức tước và tiền bạc hơn học vấn và văn hóa thuở bấy giờ. Thú chơi ấy, ý thức ấy, viên quản ngục mong ước biến nó thành hiện thực. Việc chuẩn bị ngày càng chu đáo và sự chờ đợi mỗi ngày mỗi thiết tha. ông đã mua sẵn chục vuông lụa trắng Mà can lại thật phẳng phiu. Chao ôi! Xin hiểu giùm cho lòng ông: Từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết... Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời. Một con người có tâm nguyện như vậy, trong nhân cách lại không có chỗ đáng nể hay sao? Chưa kể ông ta lại ở vào cái nơi toàn là cảnh của Diêm Vương, Âm phủ: không vạc dầu thì ngục tối, không cưa xẻ thì gông xiềng, hành hạ, kể cả biến người tù thành ma không đầu... Nơi ấy chi có tàn nhẫn và quay quắt, nơi ấy người ta vui khi thấy máu tù nhân đổ, người ta cười khi thấy tù nhân quằn quại. Nơi đó không có chỗ cho lẽ phải, tình thương, đạo lí, dù là một chút. Ấy vậy mà lại còn sót được hai tâm hồn, một thuần hậu, một cao quý, thì cái thuần hậu cao quý ấy càng đáng kính trọng biết bao! Trong bùn mà sen vẫn ngát thơm. Tính cách của thầy thơ lại và viên quản ngục bổ sung cho nhau để thể hiện trọn vẹn cái trật tự của bảng giá trị lẽ phải và đạo lí ở truyện này. Cảnh viết chữ trong buồng giam ban đêm dưới ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc và niềm vui giây lát của ông Huấn, sự thỏa nguyện của viên quản ngục cùng với lời bái lỉnh kính cẩn sau lời khuyên của ông Huấn là sự hòa hợp bừng nở viên mãn ba vẻ đẹp của ba con người xứng đáng là Con Người.

Thái độ thứ ba là thái độ cao rộng của bậc chính nhân quân tử. Đầu tiên, nhân vật Huấn Cao xuất hiện qua tiếng đồn. Mà đã là tiếng đồn thì không phải cái gì cũng chính xác. Phần khuếch đại theo quy luật dị bản của truyền miệng hẳn không tránh được, như tài bẻ khóa vượt ngục chẳng hạn, nhưng tài viết chữ rất nhanh, rất đẹp, cả tỉnh đều khen chắc là sự thật. Còn phạm tội phản nghịch, làm giặc thì trong giấy tờ quan trên đã ghi rõ. Mà đã dám làm việc ấy thì đương nhiên phải là người có nghĩa khí, tài giỏi, nay bị giết đi thì thấy tiêng tiếc. Việc người ấy làm là việc quốc gia triều đình, những kẻ coi ngục biết gì mà nói. Như vậy là con người Huấn Cao tuy chưa thấy mặt mà uy tín, danh tiếng đã lẫy lừng. Trong suy nghĩ của hai viên chức nhà ngục cũng có điều tô đậm thêm tính cách Huấn Cao, kể cả lời bình có tính chất cảnh cáo của tên lính áp giải. Ba nhân vật có ba từ chứa đựng ý nghĩa đánh giá khá rõ: người thơ lại thì buồn. (Có tài thế mà đi làm giặc thì buồn lắm). Viên quản ngục thì bảo ông Huấn là khoảnh (tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ). Tên lính áp giải thì xếch mé bảo ông tù này là ngạo ngược: Tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn. Tại sao thầy thơ lại thấy buồn? Ấy là do thầy nhận ra rằng người tử tù kia có tài. Có tài thì phải được sống để đem tài giúp đời, đó là mong ước của người xưa. Có tài có đức, khổ mấy rồi cũng làm nên. Từng đọc tích xưa nên thầy thơ lại nghĩ: Có tài thế mà làm giặc thì đáng buồn lắm vì làm giặc chẳng biết đúng sai, nhưng bị khép vào tội chết. Tài ấy không được vua quan sử dụng, lại đem tiêu diệt đi, thiệt cho đời biết bao nhiêu ?! Đáng buồn cho đời bao nhiêu! Đây là một cách đánh giá cái tài mà cũng là Cái Đẹp ở đời. Còn khoảnh là thế nào? Khoảnh về cái gì? Khoảnh với ai? Chữ ông Huấn Cao đẹp, nhưng ông chỉ viết cho những bạn tri kỉ. ông tiếc công hay ông thiên vị ? Không phải! Mà ông nghỉ rằng chữ đẹp chẳng phải ai cũng biết thưởng thức và quý trọng. Bạn tri ki là bạn hiểu Cái Đẹp, quý Cái Đẹp ấy và những Cái Đẹp khác của con người mình. Viết cho tri kỉ là san sẻ tâm hồn, tài năng và Cái Đẹp của mình cho bạn. Khoảnh như vậy là trọng mình, trọng bạn, coi Cái Đẹp là báu vật trên đời, không dễ gì phung phí. Viết chữ cũng như viết văn, làm thơ. Cụ Tam Nguyên Yên Đổ thoáng liên hệ mình với ông Đào (nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng Đào Tiềm) đã thấy thẹn phải ngừng bút. Bao bậc tài hoa trước khi chết đã đốt tất cả chữ nghĩa của mình vì cho là không xứng đáng để đời. Đâu phải chỗ nào cũng dễ dàng hạ bút để vẽ vời?! Ta sẽ thấy tự miệng ông Huấn nói ra cũng cùng một ý như trên. Biết nhận ra Cái Đẹp thì tất nhiên cũng biết quý trọng nó. Đào tiên Tây Vương Mẫu năm trăm năm mới ra được một trái, đó là thần thoại nhưng ý nghĩa vằn là đề cao Cái Đẹp.

Còn tên lính áp giải bảo Huấn Cao là ngạo ngược thì chẳng cần bàn. Con mắt ếch ngồi đáy giếng của hắn thì thấy trời chỉ to bằng cái vung. Sự tự trọng của Huấn Cao nó cho là ngạo ngược. Theo nó, đã là tù nhân thì chi biết cúi đầu, chết cũng phải chịu, huống gì giữ phẩm giá làm người. Lũ tay sai ở thời đó chẳng khác những cái gông, chỉ biết gông người chứ biết gì phải trái, đạo lí và danh dự. Nhưng đánh giá Huấn Cao như vậy, tên lính gián tiếp đã coi Huấn Cao là hạng người trên, dám khinh thường bọn hắn ra mặt.

Trên đây mới là tiếng tăm Huấn Cao qua lời đồn, trong ý nghĩ hai con người đáng quý ở nhà ngục và cả trong lời nói của tên sai nha. Còn ông Huấn tự nghĩ về mình, về người và nói năng, hành động ra sao? Trước sự biệt đãi của viên quản ngục mà người trực tiếp săn sóc là thầy thơ lại, ban đầu Huấn Cao tiếp nhận rượu thịt thản nhiên, coi như là việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh. Đến khi viên quản ngục đích thân vào buồng giam, lễ độ, cung kính tôn xưng ông là người có nghĩa khí, xin ông cho biết cần gì thêm thì ông đáp một cách trịch thượng: Nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Đẩy người ta ra và chờ sự đáp trả bằng uy lực, nhưng người ta chi một mực lễ phép lui ra với một câu bất ngờ: Xin lỉnh ý, tức là xin tuân lệnh, hỏi làm sao ông Huấn không nghi ngờ? Cái trò dụ dỗ mua chuộc nơi giam cầm là mánh khóe quá bình thường, ông Huấn càng bực vì tưởng viên quản ngục có mưu đồ thâm hiểm gì đây. Suy xét mọi lẽ, ông thấy hóa ra không phải. Mãi đến khi thầy thơ lại hớt hải đem nguyện ước sâu xa của viên quản ngục bày tỏ với ông, cùng cái tin khẩn cấp là sáng hôm sau ông Huấn và các bạn sẽ bị đưa vào tận trong Kinh để chịu tội, thì Huấn Cao mới vỡ lẽ vì sao có những hành động đối xử lạ lùng của thầy trò ông quản và nhận ra viên quản ngục này chính là hạng người biết quý Cái Đẹp. Ông mỉm cười dạy thầy thơ lại chuẩn bị chu đáo để ông có cơ hội đáp lại tấm thịnh tình của viên quản ngục ngay đêm nay. Giọng Huấn Cao trở nên từ tốn: về bảo với chủ ngươi, tối nay... đem lụa, mực, bút và cả một bó đuốc xuống đây ta cho chữ. Cho chữ chứ không phải viết chữ. Nghe như lời của bề trên, của thần tiên phán bảo. Huấn Cao khẳng định: Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức tranh đường cho ba người bạn thân của ta thôi.

Lần này là lần thứ tư ông Huấn cho chữ. ông tự giữ giá chữ đẹp của mình đến mức ấy, vậy thì cái gì đã khiến ông hạ bút lần này ? Chính là do lòng thành, biết quý trọng, biết lưu giữ Cái Đẹp hiếm hơn vàng ngọc của viên quản ngục: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, tà đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Lòng tự trọng của ông Huấn đã gặp lòng trân trọng của viên quản ngục. Không phải phi là sự hiểu biết mà còn là sự thông cảm, cao hơn nữa là sự kính trọng đã nâng ông quản lên vị trí của một bậc tri kì một tấm lòng liên tài hiếm có trong thiên hạ. Lời khuyên sau đó của Huấn Cao thốt ra một cách tự nhiên. Phải xa cuộc sống nơi tù ngục này, tắm gội mình trong cuộc sống trong sạch chốn quê nhà thì mới giữ gìn được cái tính lành trời sinh và mới đeo đuổi được thú chơi chữ đẹp.

Quang cảnh buổi ông Huấn cho chữ vừa lạ vừa đẹp, vừa như một ảo ảnh, một ánh hào quang không phải của thế giới này mà của cõi nào trong thần thoại, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Buồng giam hẹp, bẩn, ẩm ướt, tối mịt, ánh đuốc đỏ rực như một đám cháy nhà. Ba bóng người hoạt động. Một người ngồi dưới đất, hai tay nâng tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Một người khác run run bưng chậu mực. Người thứ ba cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang cầm bút viết thoăn thoắt trên mặt lụa. Đó là viên quản ngục, thầy thơ lại và Huấn Cao. Viết xong, ông Huấn đỡ viên quản đứng dậy, rồi nhìn lại chữ mình viết đẹp tươi, nó nói lên những hoài bão của một đời người, ông đỉnh đạc có lời khuyên cuối cùng cho viên quản ngục: muốn treo chơi trong nhà bức chữ đẹp ấy thì phải thay đổi môi trường sống. Lần này, viên quản ngục lùi ra mà nói gần như muốn khóc: Kẻ mê muội này xin bái lỉnh. Ở cuộc giáp mặt lần trước, sau câu sẵng giọng của Huấn Gao, viên quản lễ phép lui ra và lắp bắp: Xin lỉnh ý! Lần này, câu nói của ông ta ấp úng trong nghẹn ngào cảm động. Trên kia là chưa hiểu nhau, đến đây cả ba người đổng cảm trong một tấm lòng chung: tha thiết yêu Cái Đẹp, Cái Đẹp chữ viết đi liền với Cái Đẹp tâm hồn.

Truyện chấm dứt với lời nghẹn ngào nhiều ý nghĩa ấy. Thái độ Huấn Cao trước sau có khác nhưng vẫn là thái độ của một bậc chính nhân quân tử. Đối với thầy trò viên quản ngục, ông Huấn vẫn giữ một khoảng cách trên dưới nhất định, trước lạnh nhạt sau thân mật, ân cần; vẫn phong thái đĩnh đạc, ung dung, độ lượng, cao rộng đối với cái đẹp dù là nhỏ nhất, dù ở bất kì hoàn cảnh nào.

Viết truyện này, Nguyễn Tuân có ngụ ý gì nữa không? Điều chắc chắn là tác giả muốn nói lên nỗi tiếc nuối đối với một con người tài giỏi, nghĩa khí, một nhân cách lớn lao ở cái thời đất nước suy vong, đồng thời cũng kín đáo lồng vào đó một nỗi đau chung cho đất nước và cho tất cả những gì tốt đẹp, tài ba trong đời mà lũ thống trị thực dân phong kiến đã vùi dập một cách bạo tàn. Đồng thời, tác giả khẳng định: cuộc đời dù đen tối đến đâu, trong nhân dân vẫn có những tấm lòng ngời sáng.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 3

Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mĩ là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn tuân phải là hiện thân của cái đẹp.

Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn "Chữ người tử tù" (1939) trong tập "Vang bóng một thời" là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có", cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.

Ông Huấn Cao trong truyện "Chữ người tử tù" là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn "vang bóng". Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thày giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.

Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nữa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để "xin chữ" treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.

Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên "đại nghịch" cầm đầu khỏi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hộ họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách hai nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.

Huấn Cao nói: "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa "ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy". Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: "ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây". Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: "thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ".

Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng nhứng tấm lòng biết quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được "thiên lương". Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi "ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi".

Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bá Quát. "Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián". Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.

Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, "một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng". Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.

Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có"?

Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám.

Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.

Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.

Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn "Chữ người tử tù". Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.

"Chữ người tử tù" không còn là "chữ" nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà "những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người". Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí "duy mĩ" của Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ (Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ người tử tù. Nối bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ - một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.

Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều biết văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà vàn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Huấn Cao là thế. Từ đầu đến cuối, ông hiện ra như một con người phi thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.

Là nhân vật tài hoa nghệ sĩ, phẩm chất đầu tiên của Huấn Cao là tài hoa. Thiên truyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thơ lại. Ở đây tuy Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài được tô đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó là nghệ thuật thư pháp - một bộ môn nghệ thuật truyền thống và cao siêu của dân tộc. Ở sự gửi gắm, kí thác toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình. Nhưng Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa hơn, ông còn có một tấm lòng - đó là tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người.

Một nhà văn nước ngoài đã nói về chân lí sâu xa. Hãy đập vào trái tim mình thiên tài là ở đó. Thì ra gốc của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của nhân cách Huấn Cao. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường không làm nghề thất đức. Bởi lí Huấn Cao đã thể hiện sự khinh bỉ không cần giấu giếm, đến khi nhận ra viên ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật điều hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao rất ân hận. Bằng tất cả sự xúc động, Huấn Cao đã nói: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi... Thiếu chút nữa ta phụ một tấm lòng trong thiên hạ. Câu nói ấy đã hé mở cho chúng ta thấy phương châm của một nhân cách sống là phải xứng đáng với những tấm lòng.

Cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những hình tượng sao cho hoàn hảo thậm chí đến mức phi thường. Ông Huấn Cao cũng thế. Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng này trở thành một con người siêu phàm với việc tô đậm một khí phách siêu việt. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp không thành, ông lĩnh án tử hình. Nhưng tù đày, gông cùm và cái chết cùng không khuất lạc được ông. Ông luôn tìm thấy ở những nơi mà tự do bị tước bỏ. Đối với Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa. Và khi quản ngục hỏi ông muốn gì để giúp, ông đã trả lời bằng sự khinh bạc đến điều... lời nói của ông có thể là nguyên cớ để ông phải rước lấy những trận trả đũa. Nhưng một khi đã nói nghĩa là ông không hề run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một khí phách kiên cường bất khuất, uy vũ bất năng khuất.

Những phẩm chất tuyệt vời đó của Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng cuối cùng mà Nguyễn Tuân đã gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có - cảnh cho chữ. Cảnh cho chữ là sự biểu hiện sống động rực rỡ của tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn Cao.

Muốn hiểu được giá trị sâu sắc của cảnh cho chữ cho chúng ta không thể không nói tới quá trình dẫn đến cảnh cho chữ ấy. Người tinh ý sẽ dễ nhận thấy rằng câu chuyện có hai phần rõ rệt: Phần đầu giới thiệu các nhân vật và dẫn dắt câu chuyện chuẩn bị cho phần sau. Phần sau khắc họa cảnh cho chữ. Nếu không có phần hai thì phần đầu chỉ là những mẩu vụn vặt, thiếu sức sống. Bởi thế phần hai tuy ngắn nhưng lại là kết tinh của toàn bộ câu chuyện. Và bút lực của Nguyễn Tuân càng dồn vào phần này đậm nhất. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh một tình huống đặc biệt. Đó là cuộc gặp hết sức éo le của Huấn Cao và quản ngục - Nơi gặp gỡ là nhà tù, thời gian là những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao. Những điều này làm cho tình thế trở nên ngặt nghèo, bức xúc, khó xoay sở. Nhưng oái ăm hơn cả vẫn là thân phận của hai nhân vật, về bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch. Một người là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại thể chế đương thời, còn người kia lại là một viên quan đại diện cho chính thể ấy. Nhưng về bình diện nghệ thuật, họ lại là hai người tri âm: Một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại vô cùng ngưỡng mộ cái tài đó. Sự trái ngược này đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc là muốn làm tròn bổn phận cua một viên quan thi phải chà đạp lên tấm lòng tri kỉ hoặc muốn trọn đạo tri kỉ phải phản bội lại chức phận của một viên quan. Quản ngục sẽ hành động như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thì tư tưởng tác phẩm sẽ nghiêng về hướng đó.

Với một tương quan như vậy, quan hệ giữa họ ban đầu rất căng thẳng. Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của ông Huấn Cao nhưng đây là cơ hội cuối cùng. Còn Huấn Cao tuy có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho chữ những ai ông cho là tri kỉ. Vậy muốn có chữ của Huấn Cao thì quản ngục phải được ông thừa nhận là tri kỉ trong vòng mấy ngày tới. Điều đó lại dường như không thể đạt được. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là kẻ tiểu nhân, giữa họ là một vực sâu ngăn cách. Thực ra quản ngục cũng có những ưu thế để đối xử với những người tù thông thường. Đó là ông ta có thừa quyền lực và tiền bạc. Nhưng Huấn Cao không phải hạng tiểu nhân như thế, quyền lực không ép được ông cho chữ, tiền bạc không mua được chữ ông. May thay ở viên quản ngục lại có một tấm lòng trong trẻo - tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Và tấm lòng này đã khiến cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao là cội nguồn dẫn đến cảnh cho chữ.

Vậy là việc Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm thường, không giống việc một kẻ sắp bị tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng mà để Huấn Cao trình diễn tài năng, về bản chất việc cho chữ là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng.

Và cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có. Bởi trước hết lẽ ra nó phải diễn ra ở nơi sang trọng, đàng hoàng thì nó lại diễn ra trong căn buồng giam chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu. Và người đem cho cái đẹp lẽ ra phải thuộc thế giới tự do thì ở đây lại là tử tù sắp bị hành hình. Đặc biệt ở đây diễn ra một sự đổi ngôi xưa nay chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng bị mất hết quyền sống là ông Huấn Cao trở nên đầy quyền uy khi chăm chú tô đậm những nét chữ và cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như một bậc thánh nhân: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Cảnh cho chữ lã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, thiên lương trước cái xấu, cái ác. Trong căn phòng giam ẩm tháp đó, ánh sáng rực rờ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột, phân gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này cái đẹp đang lên ngôi, cái đẹp đang đăng quang, chiến thắng hoàn toàn cái xấu. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẫn dắt quản ngục - một kẻ nhầm đường, lạc lối. Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.

Với nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Đồng thời nhà văn còn sử dụng hệ thống ngôn ngữ cổ: biệt nhỡn liên tài, thiên lương, bái lĩnh, sở nguyện... mang lại cho truyện bầu không khí và nhịp điệu của thời phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của một thời vang bóng.

Phân tích cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù 4 

Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân - thiện - mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo sáng tạo lên một tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó là cảnh cho chữ trong nhà giam - là phần đặc sắc nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm ở vị trí này tình huống truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý nghĩa cởi nút, giải tỏa những băn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, từ đó toát lên những giá trị lớn lao của tác phẩm.

Sau khi nhận được công văn, viên quản ngục đã giãi bày tâm sự của mình với thầy thơ lại. Nghe xong truyện, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để kể rõ nỗi lòng viên quản ngục. Và đêm hôm đó, trong một buồng tối chật hẹp với ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để sáng tạo nghệ thuật người ta thường tìm đến những nơi có không gian đẹp, thoáng đãng, yên tĩnh. Nhưng trong một không gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn chốn ngục tù thì việc sáng tạo nghệ thuật vẫn xảy ra. Thời gian ở đây cũng gợi cho ta tình cảnh của người tử tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ và cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh ấy thì “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Trong khi ấy, viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm lúm chuyển động.ở đây cho thấy dường như trật tự xã hội đang bị đảo lộn. Viên quản ngục đáng nhẽ phải hô hào, răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì tù nhân lại trở thành người răn dạy, ban phát cái đẹp.

Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao - người có tài viết chữ nhanh , đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại - những người thích chơi chữ. Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án tử hình (Huấn Cao) và một bên là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Vì thế mà thật là chua xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng ba con người ấy gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn thật của mình. Trong đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và những nét chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Vào lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn ngục tù tối tăm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương chiến thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.

Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể bền vững. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác( cho chữ trong tù) nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến thú chơi chữ là môn nghệ thuật đòi hỏi sự cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức chữ không mấy ai thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.

Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản nguc xúc động “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái thiện. Và trên con đường đến với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong khung cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là thường, vượt lên trên những cái dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một niềm tin vững chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân- thiện-mĩ.

Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “Chữ người tử tù” mà đặc biệt là cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật trước cách mạng, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh đó, truyện còn ca ngời viên quản ngục và thầy thơ lại là những con người tuy sống trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.

“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân cách cao cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dong chữ cuối cung của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau. Nếu không có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai một. Đó cũng là tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.

Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng tạo không khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật (văn học cổ nói chung không tả thực và phân tích tâm lí nhân vật).

Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đao bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân bản: dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.

Phân tích cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù 5

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng.

Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông, mĩ (cái đẹp) là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng khi ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện; ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn Chữ người tử tù (1939) trong tập Vang bóng một thời là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.

Ông Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù là một nho sĩ tài hoa của một đã qua nay chỉ còn vang bóng. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà nho giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dùng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông cùng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xả hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.

Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nửa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để xin chữ treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.

Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên đại nghịch cầm đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị tri đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy tính cách hai nhân vật được bộc lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.

Huấn Cao nói: Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thể mà ép mình viết câu đối bao giờ. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ.

Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quý cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được thiên lương. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi bởi ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi.

Huân Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bà Quát. Đêm hôm ấy, lúc trại giam tính Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quý của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.

Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thơ lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một cảnh tượng xưa nay chưa tùng có?

Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám.

Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thơ lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.

Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái đẹp, cái dũng, cái thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thơ lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyền Tuân là cái đẹp gắn liền với cái thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.

Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộug, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chì run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.

Chữ người tử tù không còn là chữ nữa, không chỉ là mĩ mà thôi, mà những nét chữ tươi tắn nó nói lên những bão tung hoành của một đời người. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa mĩ và dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí duy mĩ của Nguyễn Tuân.

Phân tích cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù 6 

Nguyễn Tuân là một trong năm tác gia lớn của nền văn học Việt Nam. Ông có đóng góp không nhỏ đối với nền văn học hiện đại. Suốt cả cuộc đời Nguyễn Tuân luôn khát khao đi tìm cái đẹp, cái tinh hoa của đất trời để sáng tạc nên những kiệt tác văn học độc đáo. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời”của ông cũng chứa đựng những nét đẹp đó.

Từ xưa đến nay, chơi chữ được coi là một thú chơi tao nhã của những kẻ có học thức. Thú chơi chữ thể hiện được toàn bộ cái đẹp, cái tài năng và cả trí tuệ của người viết cũng như người thưởng thức. Cảnh cho chũ thường được diễn ra tại những nơi trang trọng, có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc. Rồi từ đó những nét chũ uyển chuyển mang trong nó cả cái hồn riêng được ra đời. Nhưng cũng những nét chữ uyển chuyển có hồn ấy, Nguyễn Tuân lại cho nó sinh ra trong một hoàn cảnh khác lạ, “ một cảnh xưa nay hiếm”. Đó là cảnh cho chữ trong tác phẩm: ”Chữ ngươi tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời”.

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có đóng góp rất lớn cho nền văn học nước nhà đặc biệt là ở thể tùy bút. Nguyễn Tuân có nhiểu tác phẩm hay như: Một chuyến đi, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, sông Đà, Vang bóng môt thời,... Vang bóng một thời là một trong những tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Tuân, cũng là một trong những truyện ngắn hay nhất trong kho tàng văn học Việt Nam.

Truyện ngắn “chữ người tử tù” ban đầu có tên là “dòng chữ cuối cùng”. Đây là tác phẩm kết tinh tài hoa của Nguyễn Tuân trước Cách Mạng và được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đánh giá là “một văn phẩm đạt gần tới sự hoàn thiện, toàn mĩ”. Nhân vất chính trong truyện ngắn này là Huấn Cao- một con người văn võ song toàn. Huấn Cao có tiếng là người có tài viết chữ Hán nhanh và đẹp. Ông không chỉ cái cái tài về nghệ thuật thư pháp mà còn có cái trí tuệ uyên bác. Từng nét chữ của ông ẩn chứa cả văn hóa, quan niệm về nhân thế. Người ta treo chữ ông trong nhà không chỉ để chiêm ngưỡng cái đẹp của bức thi họa, mà còn để ngẫm nghĩ những tư tưởng sâu sắc. Nhưng “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà treo là một vật báu trên đời”. Không chủ có tài về nghệ thuật, ông Huấn còn là người có thiên lương. Tính ông chính trực, khẳng khái, không vì tiền bạc, quyền thế mà ép mình cho chữ bao giờ. Gặp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm, khiến người đọc dễ dáng liên tưởng tới người thủ lĩnh tài ba văn vó phong toàn, người anh hùng dân tộc Cao Bá Quát. Được nhân dân ca tụng:

“Văn như Siêu Quát vô tiền Hán

Thi đảo Tùng Tuy thất thịnh Đường”.

Thật vậy, ngay lúc bước vào tù lao, vác trên vai cái gông lớn bằng gỗ lim, ông Huấn không những không mảy may run sợ trước lời quát nạt của tên lính áp giải mà vẫn lạnh lùng “thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Lúc bị giam trong nhà lao, trước sự biệt nhỡn của viên quản nguc, ngày ngày đưa rượu thịt vào cho ông và các đồng chí, ông vẫn thản nhiên đón nhận và coi đó là “hứng sinh bình”, thậm chí ông còn coi khinh viên quản ngục, không muốn hắn bược vào buồng giam của ông thêm lần nào nữa.

Một con người có tài năng về nghệ thuật, có thiên lương cao đẹp, lại có khí phách ngang tàn và tính khoảnh như Huấn Cao tưởng chừng như sẽ không bao giờ chịu chấp nhận tặng chữ của mình cho viên quản ngục. Thế nhưng, khi hiểu ra nỗi lòng và sở thích cao quý của viên quản ngục, biết ông đã bất chấp cả tính mạng của mình vì thú vui cao quý, Huấn Cao đã thay đổi định kiến về một kẻ tiểu lại giữ tù như ông , ân hận vì thiếu chút nữa “đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” và quyết định tặng chữ cho ông. Chính lúc này, thiên lương của ông đã tự tỏa sáng, bên cạnh thứ ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tỏa sáng cả căn buồng giam chật hẹp ẩm thấp đầy phân rán phân chuột hôi hám. Trong chính cái đêm hôm ấy, cái đẹp đã lên ngôi. Từ một viên quản ngục hàng ngày khét tiếng tàn bạo giờ đây lại khúm núm. Một kẻ tử tù, “ cổ đeo gông, chân vướng xiềng” lại đĩnh đạc, làm chủ nơi ngục tù. Kẻ tử tù ấy dù bị giam hãm về thể xác nhưng nhân cách y lại tự do khác hẳn với kẻ tưởng chừng tự do nhưng lại bị trói buộc cả tâm hồn tại nơi ngục tù tăm tối, nơi cái ác ngự trị này. Nơi ngục tù tăm tối ấy, đêm nay lại diễn ra “cảnh xưa nay chưa từng có”. Cảnh cho chữ - cho một vật báu trên đời lại được diễn ra tại nơi tối tăm chật hẹp. Cái ánh sáng của ngọn đuốc cháy đỏ rực xóa tan bóng đêm tăm tối. Mùi thơm từ chậu mức bốc lên xoa dịu đi mùi hôi tanh của căn phòng. Trên tấm lụa bạch còn nguyên lần hồ, từng nét chữ vừa đẹp, vừa vuông của ông Huấn dần hiện ra. Vậy là cái đẹp có thể nảy sinh trên nền cái xấu, cái ác, cái tội lỗi nhưng không bao giờ sống chung với cái xấu, cái ác. Vì thế, sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã huyên viên quản ngục đổi nghề, đổi chỗ ở để giữ thiên lương cho lành vững, phải có thiên lương lành vững mới thưởng thức được cái đẹp. Cái thiên lương cao đẹp của ông Huấn cũng là sáng bừng cả thiên lương ẩn giấu của quản ngục. Hành động xin “bái lính” của y chính là sự chiến thắng của cái đẹp, sự thất bại thảm hại của cái xấu, cái ác. Cảnh cho chữ không diễn ra ở nơi có trăng hoa tuyết nguyệt mà lại ở trong căn buồng tăm tối chật hẹp. Nơi ngự trị của cái ác lại là nơi cái đẹp được “khai sinh”, thăng hoa. Toàn bộ bóng đêm tăm tối của ngục tù đã sụp đổ, chỉ còn lại vẻ đẹp thuần thiết của khí phách của thiên lương. Người tử tù dù ngày mai có phải chịu án tử hình nhưng kẻ ấy không chết mà sẽ đi vào cõi bất tử cùng với cái đẹp. Huấn Cao là hiện thân cho vẻ đẹp hoàn mĩ, con người ấy chỉ có thể chết về tinh thần , nhưng tử tưởng đẹp của ông Huấn và từng lờ dạy của ông sẽ còn lại với đời, sẽ theo viên quản ngục trong suốt cuộc đời còn lại.

Câu chuyện thành công không chỉ vì nó phê phán đúng thực trạng xã hội đương thời mà còn vì cái độc đáo khác lạ của tình huống truyện. Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ giữa hai con người hoàn toàn khác nhau. Một người là viên quan quản ngục- một công cụ trấn át kẻ tù tội phục vụ cho triều đình, còn người kia là kẻ tử tù chống lại triều đình. Thế nhưng chính cái đẹp đã dẩy hai con người hoàn toàn khác biệt ấy trở thành tri kỉ. Họ là người nghệ sĩ, biết yêu và coi trọng cái đẹp. Cái độc đáo của truyện cũng nằm trong chính từng nhân vật. Huấn Cao - tên tử tù – lại là một nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp. Viên quản ngục - công cụ trấn át tội phạm của triều đình- lại là con người có mong muốn thưởng thức cái đẹp. Cả câu chuyện mang vẻ cổ kính từ nhân vật, cảnh cho chữ cho đến ngôn ngữ câu văn. Chính nghệ thuật đối lập tương phản, kết hợp vời bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn đã đem đến thánh công cho tác phẩm. Không gian ẩm thấp nơi buồng giam, thời gian đêm tối bóng dáng con người trong đêm và ánh sáng bó đuốc như ánh sáng của thiên lương, của tài năng, khí phách. Màn đêm tăm tối của ngục từ - hiện thân cho cái ác - lại bị ánh sáng của tài năng, thiên lương làm sụp đổ. Không gian được miêu tả hẹp dần: từ căn phòng đến ánh sáng ngọn đuốc, tấm lục trắng tinh rồi đến từng con chữ vuông vắn.

Dường như, cảnh cho chữ và hình tượng nhân vật Huấn Cao đã giúp Nguyễn Tuân thể hiện thành công phong cách nghệ thuật của mình. Ông luôn hướng tới cái đẹp, cái phi thường lí tưởng, đã đẹp phải tuyệt mĩ, đã tài phải siêu phàm, nhưng cũng có cá tính độc đáo.

Câu truyện kết thúc nhưng dư âm về cái đẹp, cái khí phách hiên ngang và thiên lương cao quí của ông Huấn vẫn còn vương vấn. Người đọc có thể hình dung ra một viên quản ngục từ biệt nơi quan trường đầy thị phi mà trở về quê nhà. Ngày ngày, ông thư thả ngắm bức thi họa của ông Huấn ban cho được treo ngay ngắn trong gian giữa ngôi nhà mà trong lòng vẫn khắc sâu lời khuyên răn của ông Huấn.

Nguyễn Tuân được sinh ra trong 1 gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn, thơ văn của ông luôn viết về cái đẹp, ông dành cả cuộc đời của mình để đi săn tìm cái đẹp. Ông có những đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm “Chữ người tử tù" được in trong tập “Vang bóng một thời" đánh dấu tài năng của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám và được coi như là 1 văn phẩm đạt gần đến độ hoàn mĩ. Ở cuối truyện, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung miêu tả, tô đâm vẻ đẹp lãng mạn của người anh hùng Huấn Cao, qua đó khẳng định được sự chiến thắng của thiên lương, của ánh sáng trước bóng tối và cái xấu. Có thể nói, cảnh cho chữ là cảnh tượng đắt giá nhất, cảnh mà xưa này chưa từng có.

Truyện ngắn được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa 2 nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục, cả 2 đều là nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn, vượt lên hoàn cảnh, không chịu sự chi phối của hoàn cảnh. Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, với nghệ thuật viết thư pháp, nét chữ ông trở thành niềm khao khát của biết bao nhiêu con người có thú chơi chữ. Và quản ngục là 1 trong số đó, sở nguyện lớn nhất của quản ngục là có được đôi câu chữ của Huấn Cao treo trong nhà, Ở đây, người nghệ sĩ gặp kẻ tri âm trong 1 hoàn cảnh bất thường: Người có nét chữ huyền thoại kia lại là người tử tù, còn người có thú chơi chữ tao nhã kia lại là 1 viên quản ngục. Chuyện xin chữ tưởng như khó có thể xảy ra bởi cả cuộc đời ông mới chỉ cho chữ có 3 người. Liệu Huấn Cao có thể cho chữ cho kẻ tiểu lại như quan nhục chăng? Nhưng điều bất ngờ đã xảy ra, điều không thể đã trở thành có thể, chính nhờ sở thích cao quý, tấm lòng quý trọng người tài của quản ngục đã khiến Huấn Cao phải xúc động. Ông đã dành đêm cuối cùng của mình tại nhà giam tỉnh Sơn để cho chữ quản ngục, ông cho chữ không phải là dể phô trương tài năng mà là để tạ 1 tấm lòng.

Cảnh ông Huấn cho chữ trong nhà giam được khắc họa bằng chi tiết gây ấn tượng, cảm hứng mãnh liệt trước cảnh tượng cho chữ xưa nay khó có đã khiến Nguyễn Tuân say sưa sáng tạo bằng các ngôn từ sắc xảo, bút pháp dựng người, dựng cảnh đạt tới độ điêu luyện. Cảnh cho chữ được diễn ra vào buổi đêm, đêm cuối cùng của ông Huân tại nhà ngục. Địa điểm cho chữ là ngay trong buồng giam chật hẹp với mạng nhện đầy tường, trên đất bừa bãi phân chuột phân gián Trong không khí trang nghiêm 3 nhân vật hiện lên trong 3 tư thế khác nhau: Huấn Cao thì cổ đeo gong, còn chân vướng xiềng nhưng vẫn ung dung vẽ dậm to từng nét chữ, viên quản ngục thì đang khúm núm cất những đồng tiền kẽm để đánh dấu từng ô chữ, còn thầy thơ lại thì đang run run bê lấy chậu mực. Tuy là khác nhau về tư thế, về địa vị về con người nhưng họ đều có điểm chung là biết thưởng thức và trân trọng cái đẹp Những nét chứ của con người chuẩn bị đi vào cõi chết mà không hề ngả nghiêng siêu vẹo mà “vuông, tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của 1 đời con người". Những nét chữ như phượng múa rồng bay thể hiện được tài năng của ông Huấn. Không chỉ vậy, với thái độ ung dung, tràn trề cảm hứng sáng tạo, ông còn tinh tế cảm nhận được mùi mực thơm ngát thể hiện được khí phách hiên ngang, không sợ cái chết của ông Huấn. Nếu không có tinh thần tự do, không có sức mạnh thì chắc chắn sẽ không có được phong độ ấy. Khi viết chữ xong, ông buồn bã đỡ quản ngục đứng thẳng dậy, ông buồn không phải vì ngày mai mình sẽ bị giải ra pháp trường mà ông buồn vì người như quản ngục lại phải…. Ông còn khuyên quản ngục thật chân thành hãy tìm về nhà quê mà ở, xong rồi hãy nghĩ tới chuyện chơi chữ, ở đây khó lòng giữ được thiên lương cho lành vững. Lời khuyên đặt ra yêu cầu đối với người thưởng thức: Phải có tâm hồn đẹp mới có thể cảm nhận được hết cái đẹp, phải có 1 môi trường tốt để cái đẹp được bảo vệ và giữ gìn. Như vậy, Huấn cao chuẩn bị đi vào cõi chết mà vẫn nghĩ tới sự sống của cái đẹp, cái đẹp không thể ở chung với cái xấu. Ông cho chữ quản ngục là để tạ 1 tấm lòng, để chia sẻ với 1 tri kỉ và để nâng đỡ 1 thiên lương.

Có thể nói, cảnh cho chữ diễn ra nơi tù ngục nhưng cũng rất xúc động và thiêng liêng. Quản ngục nghe xong lời khuyên của ông Huấn, ông chắp tay nói 1 câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào “ Kẻ mê muội này xin bái lĩnh “. Qua thái độ kính cẩn của quản ngục, người đọc có thể thấy được thái độ trân trọng đặc biệt đối với người tài và cái đẹp, cái đẹp có khả năng cảm hóa con người, đưa những con người đang lầm đường lạc lối trở về con đường trong sáng. Trong đoạn văn tác giả sử dụng thành công thủ pháp đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa mùi thơm với mùi ô uế, bẩn thỉu, Ánh sáng ở đây không chỉ là ánh sáng của bó đuốc mà còn là ánh sáng của cái đẹp, mùi thơm ở đây không chỉ là mùi thơm của chậu mực mà còn là mùi thơm tỏa ra từ nhân cách con người. Bóng tối không thể che lấp được màu trắng của tấm vải, không thể che được ngọn đuốc đang cháy rừng rực và mùi mực tàu thơm ngát.

Có thể khẳng định cảnh ông Huấn cho chữ là cảnh “xưa nay chưa từng có" vì hú chơi chữ là 1 thú chơi tao nhã thanh cao, người có tài viết chữ đẹp mà đạt tới trình độ viết thư pháo không có nhiều, người thưởng thức cũng phải là người có vốn văn hóa nhất định. Bình thường cảnh cho chữ thường được diễn ra nơi sảnh đường thoáng mát, thanh cao để người nghệ sĩ có thể thoải mái mà sáng tạo nhưng Huấn Cao lại cho chữ trong nhà ngục, nơi bóng tối ngự trị, nơi cái ác lên ngôi. Nhưng có lẽ, vì ánh sáng kia qua đẹp nên đã che lấp bóng tối, bóng tối ở đây càng làm tô đậm hơn nét đẹp của ánh sáng. Bình thường quản ngục là đại diện cho pháp luật ở chốn lao tù, là người của triều đình ở thế bề trên vậy mà trong cảnh này Huấn Cao lại ung dung trong tư thế làm chủ, kẻ có chức năng đi giáo dục người khác lại bị giáo dục lại. Như vậy, Nguyễn Tuân đã làm 1 cuộc đảo lộn trật tự xã hội để cho thấy, ở cảnh này, không con người tử tù, cũng không còn quản ngục, gong xiềng bị vô hiệu hóa, chỉ còn người nghệ sĩ đang sáng tạo cái đẹp và người thưởng thức, sủng kính cái đẹp

Qua truyện ngắn “Chữ người tử tù" người đọc có thể dễ dàng thấy được quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân: cái đẹp gắn với cái thiện và cái tài phải đi liền với cái tâm. Cảnh cho chữ cũng khơi gợi cho con người phải biết trân trọng các giá trị của văn hóa truyền thống, phải biết giữ gìn các truyền thống đang bị mai một dần kia.

Trong một không khí khói toả như cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lân hồ. Khói bốc tỏa cay mắt. Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực…”.

Đoạn văn miêu tả đặc sắc đầy chất tạo hình và điện ảnh trên hẳn đã góp phần làm sáng tỏ thêm nhân định : Nguyễn Tuân là một trong những bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc; đồng thời cũng khẳng định thêm sự phong phú, chính xác về kiến thức lịch sử, văn hoá, xã hội…., năng lực quan sát lọc lõi và trí tưởng tượng mạnh mẽ và bay bổng của tác giả Vang bóng một thời.

Đoạn văn miêu tả cảnh tượng người tử tù tặng thư pháp nơi ngục thất vừa thảm đạm vừa hào hùng khiến cho cả ba nhân vật Huấn Cao, quản ngục và thơ lại bỗng thăng hoa thành những hình tượng kì vĩ phi thường – Xây dựng được cốt cách phi phàm, những “con người khổng lồ” nhưng có khi phải lặn ngụp “dưới đáy” xã hội, đó cũng là một đặc trưng nổi bật của bút pháp lãng mạn chủ nghĩa nói chung. Đoạn văn chứa đầy mơ ước thiết tha của Nguyễn sở dĩ gọi thức tâm linh người đọc, cũng bởi cả ba nhân vật, tuy ở các vị trí xã hội xa cách nhau nhưng lại có khả năng bổ sung phẩm tính cho nhau ấy, đều là những mảnh hồn của tác giả say đắm hóa thân : tam vị nhân vật, nhất thế ? Nguyễn Tuân. Bút pháp đoản thiên tiểu thuyết phong cách điêu khắc của Nguyễn dựng nên nhóm tượng đài Thiên lương – Tam vị nhất thể sáng láng này dường như muốn tạo tác một biểu hiện làm đối chứng với cái hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến tồi tệ hiên hữu trước mắt tác giả. Sự thực, cái xã hội nhãn tiền ấy đã được Nguyễn Tuân lịch sử hoá , “Sơn Hưng Tuyên” hóa qua bối cảnh câu chuyện ông Huấn cho chữ ; đó là một xã hội “hỗn loạn xô bồ” với những thế nhân “cặn bã”, những “lũ quay quắt” sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc : đối với kẻ sa cơ thất thế thì sẵn sàng hung hăng “phết cho mấy hèo bây giờ” – “Ở đây, khó giữ thiên lương”…Khi viết những dòng Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã và đang được nếm trải thấm thía cái mùi vị xã hội ấy – thạm chí, một sự nghiệm sinh khá kĩ lưỡng, tất nhiên chưa đến độ “cổ đeo gông, chân vướng xiềng lê bước dần tới nơi đoạn mệnh như ông Huấn, nhưng bất hạnh đến mức tù đày khổ nhục đắng cay (khoảng 1929 – 1930) thì cuang đã từng: “những trái tim đó (của các tù nhân – V.T) thỉnh thoảng có lên tiếng nhưng một cách dữ dội và tàn ác. Những cuộc xô xát giữa tù và tù giữa bữa cơm mắm nhà nước phát, thường bắt đầu từ việc tranh giành một quả ớt. Quả ớt đỏ đã nhuộm đỏ những nắm cơm đỏ bị những vần tay vấy máu mân mê. Những bữa cơm cá thối trong một bầu không khí kinh khủng như vậy…” (Một chuyến đi). Có thể nói nguyên mẫu nhân vật Huấn Cao là ông giáo thụ Cao Bá Quát dạy học đát Sơn Tây bán sơn địa sỏi đá từ trăm năm trước ; nhưng nguyên mẫu của xã hội xứ Đoài thời ông Huấn (triều đại Thuận Trị, Tự Đức) thì lại chính là hoàn cảnh xã hội Việt Nam trước mắt người đang sáng tác Vang bóng một thời. Viết truyện ngắn Chữ người tử tù để “dĩ cổ vi kim” (lấy xưa nói nay) là một dụng ý khá rõ ràng của tác giả. Bấc đắc chí, bất mãn, phản kháng chế độ xã hội thực dân địa đang tiếp tục nuôi dưỡng quy luật đau thương : thân phận không phải là hệ quả của bản chất – tinh thần dân tộc sâu xa của nhà văn Nguyễn Tuân yêu nước thâm trầm chủ yếu là ở chỗ đó. Một biểu hiện nữa của tinh thần dân tộc trong Chữ người tử tù là thái độ luyến tiếc của một nhã thú văn hoá cổ truyền đang lụi tàn dần trong xã hội thời Tây : thưởng ngoạn thư pháp. Do chữ Nho là thứ văn tự tượng hình, rất nhiều chữ giống như tranh hiện đại chủ nghĩa (siêu thực, trừu tượng), nét bút lông lại rất mềm mại dễ dàng bộc lộ cá tính và nhân cách…; do đó viết chữ Nho không đơn thuần là thao tác kí hiệu hóa ngôn ngữ, mà nhiều khi trở nên một hành động nghệ thuật đích thực : sáng tạo thư pháp (thư pháp có khi đứng riêng một mình, có khi phối hợp cùng nghệ thuật tạo hình : xuất hiện trên tranh thuỷ mặc…).

Người Việt Nam xưa sử dụng chữ Nho, hoà đồng cùng truyền thống văn hóa phương Đông đã say mê thư pháp, và cũng sản sinh được không ít những nét chữ vừa “Như Phượng múa rồng bay”, vừa phát tiết nhân phẩm. Một trong các danh sĩ Bắc Hàvề thư pháp chính là Cao Chu Thuần (1808 – 1855) với văn chương “vô tiên Hán” và nhân cách thì “Một đời chỉ cúi trước hoa mai” (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”)… Xây dựng một nguc quan biết nung nấu sở nguyện : “Có được chữ ông Huấn mà treo, là có một vật báu trên đời”, lại biết giữ gìn đến cùng thái độ tôn kính rất mực trước thiên lương và thư pháp kiệt xuất của người tử tù : “Người tù viết xong một chữ, viên quan ngục lại vội khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”…; Nguyễn Tuân như đã cất lên khúc vãn ca đối với một mảng văn hóa truyền thống mà đến thời của Nguyễn lại “vang bóng” (nhiều sinh hoạt văn hoá cổ truyền đáng quý khác cũng chung số phận). Giai điệu vãn ca ấy ngậm nghĩa oán hờn thế cục “Tây Tầu nhố nhăng” đã phạm tội đối với văn hoá Việt. Về nguyên nhân tinh thần gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với văn hóa dân tộc ngàn xưa, có thể tìm thấy ở nguồn gốc gia đình, cũng như ở ngay đời thường của Nguyễn – một con ngưòi tài hoa và am tường và đã sống chan hoà cùng folklore Việt (nghệ thuật sân khấu dân gian : chèo, tuồng ; nghệ thuật tạo hình dân gian ; dân ca : đào nương ca, trong đó có hát ca trù…).

Cuối cùng, tính dân tộc trong truyện ngắn Chữ người tử tù còn thể hiện ở sự trân trọng, Nguyễn Tuân đã học thuộc tiếng mẹ đẻ, trong đó có lớp từ cổ đã tạo hiệu quả lợi hại cho việc tái hiện một cách rất cụ thể – lịch sử, rất hội hoạ điêu khắc và điện ảnh… những cảnh và người gần trăm năm trước.

Tất nhiên, sức mạnh của ngôn ngữ nghệ thuật không phải chỉ ở số lượng từ phong phú mà còn ở khả năng nhạy cảm về ngữ nghĩa của từ, ngữ điệu của câu…- Nhà văn Nguyễn Tuân có đầy đủ những điều kiện đó. Một ví dụ nhỏ: tác giả Chữ người tử tù đã dùng từ “ngấc”, nhưng sách phụ lục văn 12 đã in sai là : “Viên quan coi ngục ngóc đầu” ; “ngấc” và “ngóc” có phần gần gũi về ngữ âm nhưng ngữ nghĩa khá xa nhau, và về phương diện gây ngữ cảm thì càng rất khác nhau : ngóc đầu là dựng thẳng dậy, gây ngữ cảm đáng sợ (rắn ngóc đầu, bọn tội phạm ngóc đầu…), còn ngấc đầu là nhấc đầu nghiêng nghiêng, gây ngữ cảm tội nghiệp (đối với người mệt mỏi, ốm đau…). Các điều kiện thiết yếu đối với một con người cầm bút snág tác văn chương ấy, một phần do thiên bẩm mà Nguyễn có ; phần khác do công phu học hỏi nghiêm túc xuất phát từ cõi lòng gắn bó với cộng đồng. Theo nhà văn Vũ Bằng : “… không cứ thư gửi cho vợ, bất cứ cái gì viết ra giấy,in ra chữ, Tuân đều thận trọng, ít ra cũng là thận trọng hơn so vói những nhà văn, nhà thơ khác (…) Thực tôi chưa thấy bản thảo nào sạch sẽ và viết chữ kiểu cách, nắn nót như bản thảo của Nguyễn Tuân. Trong khi đa số anh em khác viết trên những tờ giấy nham nhở, cắt xén xô bô, tờ to tờ nhỏ khác nhau, bao giờ Tuân cũng viết lên những tờ giấy trắng thượng hạng, cắt xén rất đều, kềm kệp cẩn thận và không bao giờ quên đóng ở trên đầu một cái dấu xanh in một cánh buồm “Gió đã lên”, và thường đến cuối bài lại kí một chữ bay bướm và đóng một cái dấu son đỏ trên màu cánh sen. Sau này cũng có nhiều người cũng bắt chước lối chơi lập dị đó để bây giờ cái chuyện đó cũng hoá ra thường, nhưng nếu trí nhớ của tôi không lầm thì Tuân là nhà văn trẻ đầu tiên bắt chước các cụ in nhãn hiệu và đóng dấu vào bản thảo và sách vở. Đến cái chữ viết của anh cũng cầu kì. Anh viết như nhà nho viết câu đối chữ thả, uốn éo, lên xuống tỏ rõ thái độ tôn kính của Nguyễn Tuân đối với tiếng dân tộc ; đồng thời… than ôi! cũng chứng tỏ Nguyễn Tuân muốn noi gót, hoặc cũng muốn… xin chữ ông Huấn Cao!

Không phải ngẫu nhiên, mà chính cái tố chất tài, tình và đức của “nhà văn đặc biệt Việt Nam” Nguyễn Tuân đã hiệp đồng cùng nhau tạo Chữ người tủ tù – một trong những truyện ngắn “cổ điển” trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.

Phân tích cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù 7 

Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc của dân tộc Việt Nam, ông là nhà văn được mệnh danh là người đi tìm cái đẹp trong cái bị tàn lụi, với một tâm hồn lãng mạn và đầy chất nhân văn, ông đã sáng tác nên tác phẩm Chữ người tử tù, với biện pháp nghệ thuật hấp dẫn thu hút sự chú ý của người xem đó là bút pháp lãng mạn.

Với tài năng nghệ thuật sâu sắc, ông đã sáng tác lên tác phẩm thu hút sự chú ý của mọi người vào tài năng trong cách sử dụng ngôn ngữ, cũng như một biện pháp có sức thu hút mạnh mẽ tài năng cũng như phẩm giá của nhà văn. Với tài năng và trách nhiệm với tác phẩm mà mình viết ra ông đã sáng tác nên những tác phẩm đậm chất nhân văn và giàu giá trị sâu sắc, ông không chỉ để cho người đọc thấy được tài năng của mình, mà qua đó người đọc thấy được nghệ thuật về xây dựng cái đẹp, cái đẹp đang bị mất đi, con người đang phải sống trong những khoảng không gian chặt hẹp nhưng con người vẫn đang phát huy được cái đẹp trong tâm can của mình.

Với những tình huống đặc sắc, tác phẩm đã phát huy được sức mạnh của nghệ thuật tạo hình, với những đường nét phong phú, và những chi tiết đặc sắc, câu chuyện là sự giao thoa và hòa hợp trong cuộc gặp gỡ giữa viêm quản ngục và Huấn Cao. Với một không gian chặt hẹp của ngục tù, con người đang phải sống và trải qua những giây phút mà cái đẹp đang bị tàn lụi, những chính những giây phút đó mà con người đang dần phát huy mạnh mẽ tài năng trong việc trưng dụng cái đẹp và người hiền tài.

Với một tình huống truyện độc đáo, và nó tạo nên những cái riêng trong cảm giác của tác giả về việc xây dựng cấu trúc và giá trị cho một tác phẩm, giá trị của tác phẩm không chỉ trong việc tạo dựng nên hình tượng và giá trị trong tác phẩm, mà nó còn để lại cho người đọc một cảm quan nghệ thuật mới về cái đẹp, về con người trong khoảng không gian, tối tăm của tù mà cái đẹp vẫn có điều kiện nảy nở và phát huy mạnh mẽ sức mạnh của mình, điều đó không chỉ để cho chúng ta thấy được tài năng và nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm, tác phẩm nó còn thấm đẫm những giá trị lãng mạn, lãng mạn từ việc sắp xếp lên cốt truyện, nó để cho người đọc có một cái nhìn mới mẻ, về không gian nghệ thuật cũng như giá trị về một tác phẩm thành công.

Nhà văn đã dùng bút pháp lãng mạn trong nhân vật trong tác phẩm của mình, bút pháp lãng mạn xoáy sâu vào giá trị phẩm giá của tâm hồn một con người tài hoa và mang nhiều đức tính tốt đẹp, giá trị đó được chúng ta nhìn nhận lại một cách mới mẻ và có nhiều ấn tượng mạnh mẽ nhất đối với cuộc sống của con người. Nhân vật trong nghệ thuật sáng tạo của tác giả, hiện lên cũng vô cùng sâu sắc, nó mang một cảm xúc khác lạ đối với các nhân vật khác, nhân vật ở đây được dùng để biểu hiện một nghệ thuật tạo hình, trong cách sáng tạo với những đường nét tinh tế và giàu giá trị, cảm xúc đó đã mang đến cho đọc giả những phát hiện mởi mẻ, trong cách xây dựng nhân vật. Dùng lối nói có vẻ lãng mạn và mức độc cường điệu hóa đã gia tăng thêm giá trị cho tác phẩm của nhân vật. Nhân vật Huấn Cao được miêu tả với những nét điển hình về ngoại hình, tính cách của nhân vật qua cách biểu hiện, và giá trị của nó mang đến cho người đọc đó là sự uy nghiêm, tài hoa, và một đức tính của người hiền tài.

Với sự tài hoa, và phẩm chất tốt đẹp ông không sợ những lời dọa nạt của nhân vật của mình, mà luôn thể hiện một thái độ dứt khoát về chính tính cách cũng như sự diễn đạt của mình một cách độc đáo và giàu có về giá trị nhất, ngoại hình cũng là một yếu tố để tôn lên vẻ đẹp của nhân vật trong chính tác phẩm. Nhân vật Huấn Cao biểu lộ lên những tính cách của những nhân vật chính diện, nó thể hiện một thái độ của tác giả trước nhân vật của mình, với bút pháp lãng mạn, nhân vật này hiện lên với một con người vừa có tâm và có tài năng.

Như đối với viêm quan ngục nhân vật này hiện lên với một tình cảm đó là yêu cái đẹp, về địa vị có vẻ như đối lập với Huấn Cao, nhưng ông cũng có một tấm lòng biết yêu quý và chân trọng cái đẹp, cái đẹp đó đang trường tồn và nó thể hiện một thái độ tốt đối với chính nhân vật của mình, qua thái độ khúm núm, và tính cách của ông đối với Huấn Cao. Nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện được một thái độ dứt khoát trong phong cách nghệ thuật, cũng như những sáng tạo mang lại những giá trị to lớn, và nó để lại ý nghĩa đặc biệt sâu sắc cho chính tác phẩm mà nhân vật này thể hiện trong câu chuyện.

Nhân vật biểu tượng cho sự trân trọng và giữ gìn cái đẹp, với bút pháp lãng mạn nhân vật biểu hiện lên trong những khoảnh khắc tài hoa và năng động mạnh mẽ nhất, nhân vật Huấn Cao cũng là tài năng biểu hiện cho một cái đẹp trường tồn và vĩnh viễn không bao giờ có thể xóa bỏ được, còn quản ngục là người yêu cái đẹp và luôn giữ gìn cái đẹp. Với tài năng và sự miêu tả đầy chất lãng mạn tác giả đã tạo nên những giá trị riêng để miêu tả nghệ thuật tài hoa của chính nhân vật Huấn Cao.

Với tài năng và bút pháp nghệ thuật lãng mạn tác giả đã thể hiện được tài năng cũng như giá trị chính của tác phẩm mà tác giả muốn thể hiện, những tác phẩm đó đã để lại cho người đọc một cái nhìn sâu sắc hơn, về nghệ thuật xây dựng hình tượng, và cách tạo dựng nên tính cách của nhân vật, giá trị của nó tô điểm thêm cho chúng ta thấy được phong cách nghệ thuật của ông. Ông tài hoa trong việc tạo dựng nên tình huống cũng như nhân vật trong tác phẩm, với bút pháp sắc sảo của mình, ông làm gia tăng lên giá trị biểu đạt trong chính tác phẩm của mình.

Tập truyện ngắn này của Nguyễn Tuân cũng là một thành tựu rực rỡ của văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945, hội tụ trong đó những yếu tố thẩm mỹ và nguyên tắc sáng tác của phương pháp sáng tác này. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một trong số đó.

Trong “Chữ người tử tù” nói riêng và tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” nói chung, Nguyễn Tuân đã dựng lại những mảnh của cuộc sống một thời đã qua, một thời vang bóng. Cả một dấu xưa vàng son, quá vãng nay trở về sáng lại trên mỗi trang văn với vẻ đẹp mê hồn, có khi rùng rợn mang đầy nuối tiếc, bâng khuâng. Truyện tuy ngắn nhưng cũng đủ để nhà văn vẽ ra một sự tương phản giữa cái lý tưởng và hoàn cảnh thực tại, giữa cái Thiện và cái Ác, giữa ánh sáng và bóng tối. Nhân vật Huấn Cao, quản ngục, thầy thư lại là một bộ ba nhân vật mà trong đó chỉ Huấn Cao là có tên (một cái tên cũng khá mơ hồ gồm tên gọi tắt của chức vụ (Huấn) đi kèm với họ (Cao)) nhưng vẫn sáng lên như những nốt nhấn giữa một mặt bằng tăm tối. Có thể nói hoàn cảnh nhà lao nói riêng và hoàn cảnh xã hội nói chung đã giam hãm những con người trong sạch đó vào cái lồng thiên địa chật hẹp và bó buộc, là một không gian thù địch và luôn ẩn chứa sức phá hoại đối với cái Tài, cái Đẹp, cái Thiên lương. Nhân vật quản ngục và thư lại là những con người trung gian mà Huấn Cao là nhân vật lý tưởng, mẫu hình lý tưởng đối lập với cuộc sống đang níu giữ, kéo ghì quản ngục và thư lại xuống. Quản ngục và thư lại sống lẫn trong cuộc sống đó, Huấn Cao vượt lên khỏi cuộc sống đó nhưng xét đến cùng họ đều là nhân vật của văn học lãng mạn. Huấn Cao sống một cuộc sống mà bình sinh chọc trời khuấy nước mặc dầu với những hình tích và hành trạng bí ẩn đầy màu sắc truyền thuyết. Con người ấy đối lập mình với thế giới, với chế độ mà mình đang sống bởi tự ý thức được mình, ý thức được phẩm giá của mình, kiêu hãnh đứng riêng ra và cao hơn với xung quanh và cảm thấy cô độc trong niềm kiêu hãnh đó. Tuy quản ngục và thầy thư lại không được như Huấn Cao nhưng họ vẫn là những người xa lạ với hoàn cảnh của mình đang sống. “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người (…) của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Họ sống lạc lõng với xung quanh, là những người chọn nhầm nghề bởi nơi họ sống là một nơi “lẫn lộn (…) khó giữ thiên lương”, là nơi mà những cái thuần khiết bị đày ải giữa một đống cặn bã. Giữa cảnh sống đó, nhân cách và tài năng của Huấn Cao càng rực sáng hơn, Huấn Cao đã vượt lên khỏi những ràng buộc của hoàn cảnh để sống với chính bản thân mình dù rằng ông đang ở trong cảnh tù đày, cá nằm trên thớt. Nguyễn Tuân đã dùng những lời thật đẹp để tả lại khung cảnh “một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định (…); bấy nhiêu âm thanh phức tạp bay cao dần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ…”. Những câu văn bay bổng, tài hoa đó đã nói lên phần nào lòng yêu mến của nhà văn với các nhân vật lý tưởng của mình.

Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một bức tranh gồm nhiều mảng màu khác nhau, phân rõ tối sáng, đậm nhạt mà trong đó cái Thiện và cái Ác, ánh sáng và bóng tối luôn tương phản với nhau. Có thể nói, ngay ước muốn xin chữ Huấn Cao của viên quản ngục đã là một ý định đầy chất lãng mạn. Ước mơ đó đã là cái nền nâng đỡ cho hàng loạt chi tiết sau này để những mảng màu tương phản được bày ra. Cảnh tượng Huấn Cao cho chữ là tột đỉnh của quan điểm lãng mạn mà tại điểm hội tụ đó cái Thiện chiến thắng cái Ác, ánh sáng đã lấn át bóng tối và quan trọng hơn là sự phát triển của tính cách nhân vật không còn phụ thuộc vào hoàn cảnh. Tính cách, cảm xúc của nhân vật đã vượt lên trên hoàn cảnh. Nguyễn Tuân đã nói đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” và chúng ta có thể nói nếu theo logic thông thường của cuộc sống thì đó là một cảnh tượng “không thể có”. Ở đây các nhân vật đã quên đi tất cả, quên đi địa vị, danh phận, địa điểm mình đang đứng mà chỉ sống với cái đẹp, hướng tới ánh sáng, thưởng thức chung một nét chữ, cảm nhận cùng một mùi thơm của mực. Trong bức tranh sơn dầu đó, Huấn Cao có cái đẹp lan toả của một người nghệ sĩ còn viên quản ngục và thầy thư lại có cái đẹp của lòng biệt nhỡn liên tài, vẻ đẹp của thiên lương còn giữ được giữa bao quay cuồng đen trắng. Từ hành động rỗ gông của Huấn Cao ở đầu truyện tới việc Huấn Cao viết chữ ở cuối truyện là sự thống nhất nhân cách của một nhân vật lãng mạn. Quản ngục, thư lại là hai nhân vật nâng đỡ nhưng cũng đẹp và đầy chất thơ – chất thơ của cái đẹp, của tài hoa đối lập và vượt lên khỏi thực tại tầm thường, tăm tối. Câu nói “Xin lĩnh ý” của viên quản ngục khi bị Huấn Cao quát đuổi ra ngoài chỉ đơn thuần là một sự nhũn nhặn nhưng câu nói “Xin bái lĩnh” của chính nhân vật này ở cuối truyện, nói sau khi được Huấn Cao cho chữ và khuyên bảo lại là một nét đẹp của một tâm hồn hướng thiện, yêu mến tài hoa.

Trong sáng tác của các nhà văn lãng mạn, người ta có thể nhận ra được hình bóng nhà văn trong nhân vật lý tưởng của mình. Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” là một nhân vật như thế. Hành trạng một đời tung hoành không biết trên đầu có ai cùng sự tài hoa, ngông nghênh của ông Huấn cũng là một phần tâm hồn Nguyễn Tuân gửi vào trong đó. Con người Nguyễn Tuân ở ngoài đời cũng như con người ông trong văn chương và các nhân vật của ông có những nét chồng khít đến kỳ lạ mà trong đó sự tài hoa, ngang tàng, phóng túng là mẫu số chung của những phân số đó. Con người nghệ sĩ ấy không chấp nhận cái tầm thường xung quanh, muốn nổi loạn với tất cả mà ở đây hình mẫu lịch sử của nhân vật Huấn Cao (một số nhà nghiên cứu nói là Cao Bá Quát) chỉ còn tiếng vọng. Cũng chính con người nghệ sĩ trong Nguyễn Tuân đã giúp ông bỏ đi phần kết của truyện này khi in trên báo, không đưa vào trong tập sách “Vang bóng một thời”. Khi truyện ngắn “Vang bóng một thời” in lần đầu trên báo, sau khi nói “Xin bái lĩnh”, viên quản ngục đã nghĩ rằng mình đã có “lời”, có “lãi” khi biệt đãi Huấn Cao và nhận được bức châm do chính tay Huấn Cao viết. Cái kết này đã bị lược bỏ khi truyện được in thành sách và chính sự lược bỏ đó đã làm cho truyện thành công hơn, cuốn hút hơn. Truyện cuốn hút vì nó là một khối lãng mạn thực sự mà không bị những ý nghĩ vụ lợi xen vào dù chỉ trong từng chi tiết nhỏ. Đó chính là quan niệm cái Đẹp không gắn liền với cái hữu ích, cái Đẹp đối lập với cái vụ lợi, như Nguyễn Tuân từng nói: “Nghệ thuật là cái mà bọn con buôn coi là vô giá trị…”.

“Vang bóng một thời” là một tiếng vọng đầy cuốn hút trong trào lưu văn học lãng mạn 1930 – 1945 và “Chữ người tử tù” là một tiếng nói góp phần làm nên sự thành công của tập truyện này. Có thể nói rằng, những đặc trưng của phương pháp sáng tác lãng mạn chủ nghĩa không phải đã tập trung đầy đủ ở đây nhưng nhà văn đã thực sự đem chúng ta đến một thế giới mà trong đó nhân vật lãng mạn vượt lên khỏi hoàn cảnh để sống khác biệt với những tầm thường, tăm tối quanh mình. Cái Đẹp, cái Thiện và sự tài hoa đã cùng nhau châu tuần về đó.

Vẻ đẹp của viên quản ngục trong bài văn chữ người tử tù – Bài văn mẫu số 8

Nếu như nhân vật Huấn Cao là biểu tượng về cái đẹp với sức mạnh hướng thiện của nó, thì nhân vật viên quản ngục được sáng tạo ra là để hiện thực hóa sức mạnh ấy. Có viên quản ngục thì ý đồ nghệ thuật của nhà văn mới thực hiện được

 Nhưng vai trò cực kì quan trọng ấy của nhân vật quản ngục không dễ nhận ra, bởi vì nhân vật này dường như được Nguyễn Tuân “giấu” đi, ẩn xuống hàng thứ hai đằng sau nhân vật Huấn Cao. Cảm giác ban đầu khi đọc Chữ người tử tù, người đọc choáng ván, ngập trong ánh sáng tỏa ra từ hình tượng Huấn Cao uy nghi, rực rỡ. Từng dòng chữ, từng trang sách cứ lấp lánh Huấn Cao. Người đọc chẳng thiết nghĩ điều gì khác ngoài nghĩ về Huấn Cao. Nhưng đọc thêm một vài lần nữa, gấp trang sách lại, ngẫm nghĩ kĩ, thấy nhân vật quản ngục từ từ hiện lên, ngày một rõ nét và cuốn hút ta bằng một sức mạnh kì lạ. Ta càng thấm thía, cảm phục ngòi bút tài hoa, thâm thúy của Nguyễn Tuân. Khi được khám phá, phát hiện, nhân vật quản ngục sẽ đem lại cho ta nhiều khoái cảm thẩm mĩ mới mẻ, thú vị.

Tính cách của nhân vật Huấn Cao có phần một chiều, bất biến và đơn giản, ít những bất ngờ. Trái lại, nhân vật viên quản ngục có sự vận động về tính cách. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là người đèn sách, “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu đến say mê cái đẹp, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.

Nhưng sự đời run rủi, và “ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”, quản ngục sa vào chỗ tối tăm, phẩm chất từ đó đã hoen ố đi ít nhiều. Giữa chốn tù ngục hầu như chỉ tồn tại hai thứ : cái ác, cái xấu, tàn nhẫn, lừa lọc và những nỗi đau khổ, tuyệt vọng. Tình cờ, viên quản ngục gặp được ông huấn Cao, gặp thần tượng của mình, gặp trong hoàn cảnh cực kì éo le : giữa chốn ngục thất, thần tượng của ông giờ đây lại là một tử tù, còn ông là cai ngục. Một tình huống đầy kịch tính được mở ra : ở bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau ; ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Kẻ cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình lại là một nghệ sĩ tài hoa tầm cỡ “thiên hạ đệ nhất thư pháp”, kẻ đại diện cho luật pháp của triều đình lại là người có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”’ ngưỡng mộ tài thư pháp ấy. Cuộc “kì ngộ” khiến cho lòng yêu cái đẹp trong quản ngục sống dậy mãnh liệt tới mức ông có thể bất chấp cả tính mạng và địa vị, mong sao có được mấy chữ của ông Huấn.

Người đọc hồi hộp theo dõi từ đầu chí cuối tác phẩm, không biết quản ngục có xinh nổi chữ của ông Huấn hay không ? Nhân vật quản ngục bị đặt vào một thử thách khá gay go quyết liệt. Mấy ngày ngắn ngủi ông Huấn Cao tạm bị giam trong ngục tử tù của y, quản ngục luôn sống trong tình trạng vô cùng căn thẳng, hồi hộp. Y thừa biết tính ông Huấn “vốn khoảng, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Làm sao đây, chỉ trong ít ngày để có thể lấp đầy khoảng cách giữa “cai ngục” và “tử tù”, để thành “tri kỉ” của ông Huấn ? “Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất”. Mặt khác, viên quản ngục luôn luôn phải dò xét, đề phòng cả bọn thuộc hạ, ông sợ “tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì khó mà ở yên”, ông phải “dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”.

Nhân vật viên quản ngục được xây dựng với bút pháp giàu chất hiện thực, gần với cuộc đời hơn, thật hơn. Và chính ở đây thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đọc truyện, người đọc như thấy hiện ra trước mắt dáng đi, điệu đứng, lời ăn tiếng nói của viên quản ngục này. Lúc ở công đường, dáng điệu của y rõ bệ vệ, quan cách, oai phong, trầm tĩnh, rõ là chu đáo, cần mẫn trong công việc. Tiếp được công văn để lĩnh nhận sáu tên tù án chém, ông ta đọc tên từng người và dừng lại ở cái tên Huấn Cao, rồi hỏi viên thơ lại để xác minh cho rõ. Nhân vật viên quản ngục không chỉ là kẻ biết thi hành phận sự, cần mẫn, tận tụy, mà còn là nhân vật có đời sống nội tâm sâu sắc. Có lúc khuôn mặt tỏ rõ sự nghĩ ngợi đăm chiêu, “ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”, “người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”.

Trong nhận xét rất tinh tế của người dẫn truyện thì viên quản ngục có “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người”. Ông được coi “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”, là “cái thuần khiết” bị đày ải “vào giữa một đống cặn bã”, là “người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Là quản ngục, nhưng ông ta cũng chính là tù nhân chung thân của cái nhà tù do ông cai quản. Cái danh, cái lợi, trách nhiệm, bổn phận của một ngục quan là những thứ gông cùm, xiềng xích vô hình xiết chặt tâm hồn quản ngục suốt đời. “Lũ người quay quắt”, cái “đống cặn bã” bao quanh ông chẳng khác gì nơi buồng tối giam tử tù “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đã có lúc, ngục quan thấm thía thân phận lạc loài, cô đơn giữa chốn tù ngục của chính mình, y than thở một mình : “Có lẽ lão bá này, cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi”. Nếu như bi kịch của ông Huấn là bi kịch của người anh hùng thất thế, thất thế nhưng vẫn kiêu hùng, lẫm liệt ; thì bi kịch của ngục quan là bi kịch lầm đường. kẻ lầm đường lạc lối, may thay, vẫn còn có lương tri, lương năng, còn có “lòng biệt nhỡn liên tài”, còn có khát vọng giải thoát. Y tôn thờ cái đẹp, say mê cái đẹp để hi vọng tự giải thoát. Lúc ngục quan gặp huấn Cao thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”, “bộ mặt tư lự” đã hằn nhiều nếp nhăn của cuộc đời “tù nhân” nhọc nhằn, nhưng khát vọng giải thoát biểu hiện ở khát vọng hướng tới cái đẹp vẫn mãnh liệt vô cùng. Âm ỉ bấy lâu, nay nó bùng cháy lên thành lửa ngọn. Ngục quan tự hạ mình xuống trước tử tù, nhẫn nhục chấp nhận sự “khinh bạc đến điều” của ông Huấn. Y không oán thù, y biết người ta, “y cũng thừa hiểu những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Về bản chất, đó là sự ngưỡng mộ trước cái đẹp một cách hoàn toàn tự nguyện. Hành động biệt đãi ông Huấn cũng là xuất phát từ lòng say mê đó. Nhưng đến cuối tác phẩm thì không chỉ còn là chuyện say mê, tôn thờ mấy cái chữ đẹp nữa, mà cao hơn thế, đó là sự trân trọng, tôn thờ nhân cách cao quý của một bậc tài danh. Bị cái đẹp và nhân cách cao thượng của ông Huấn thuyết phục, viên quản ngục thực sự cảm động cũng giống như ông Huấn Cao đã cảm động trước “sở thích cao quý” và “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan. Đó là điểm gặp gỡ để trở thành tri âm, tri kỉ của hai con người cách nhau quá xa về vị trí xã hội. Sự tri kỉ ấy được đánh dấu bằng dòng lệ và tiếng nói nghẹn ngào : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” và kèm theo một cái vái.

Vận mệnh nghệ thuật của tính cách ông Huấn Cao đã kết thúc cùng với sự kết thúc của thiên truyện ; trong khi đó, vận mệnh vẫn còn tiếp tục ở nhân vật viên quản ngục : người đọc có thể tin rằng sau những lời khuyên bảo ân cần của ông Huấn, viên quản ngục đã luống tuổi ấy sẽ từ bỏ nghề bất nhân về quê ở để giữ thiên lương cho trong sạch, lành vững.

Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người đang được dắt dẫn bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là kiểu sáng tạo nhân vật rất mới trong văn học hiện đại Việt Nam, cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách.

Phân tích cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù 9

Huấn Cao là một kẻ sĩ xả thân vì đại nghĩa, lên án và tố cáo sự trắng trợn của triều đình, ông bất chấp tất cả để chống lại triều đình mục nát, thối rữa. Huấn Cao trong mắt của bọn lính là một kẻ “ngạo ngược và nguy hiểm nhất”, nên đề phòng. ĐỐi với thầy thơ thì ông “văn võ đều có tài cả, chà chà” còn đối với người quàn ngục thì Huấn Cao là người “chọc trời quấy nước”, coi thường tiền bạc và bạo lực. Với những cách nhìn ấy, Huấn Cao là một người tài ba trong mắt của mọi người, là một kẻ tù nhưng lại có tấm lòng kiên trung, toát lên sự thanh cao giữa chốn xiềng xích nhơ bẩn.

 Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã vẽ lên hình ảnh Huấn Cao bộc trực, đầy hào khí, từng đường nét đều rất thoát phàm, rất độc đáo. Là một kẻ tù nhưng Huấn Cao dường như chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, ông có thể thét lên với bất cứ ai. KHông cần hành động nhưng khí phách của ông lại khiến cho mọi người nể phục.

Huấn Cao giữa chốn lao tù này còn được biết đến là kẻ sĩ tài hoa, người đời mến mộ bằng cái tên “cái người mà vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp..” Những kẻ sĩ có chữ đẹp luôn được sung bái và ngưỡng mộ như vậy. CHữ của ông như “một báu vật trên đời”, ai có diễm phúc sở hữu chữ của ông chính là sở hữu một vật báu trong thiên hạ. Huấn Cao không biết ông quản ngục luôn có một ước mong được sở hữu chữa Huấn Cao, được treo chữ của ông viết ở trong nhà, chữ ông Huấn Caop đẹp và vuông lắm. Một con người tài đức vẹn toàn, một con người không chỉ tài hoa mà còn có cái tâm rất trong sáng và ngay thằng. Kỳ thực ông viết chữ đẹp nhưng chưa bao giờ “ép mình viết bao giờ” Đấy là cốt cách thực sự đáng quý. Ông chỉ viết cho những người thực sự xứng đáng, những người có thể khiến ông ngưỡng mộ và khâm phục nhất.

Nguyễn Tuân thực sự rất tài, tài đến nối đọc từng câu từng chữ của ông người ta cứ ngỡ như ông đang vẽ nên một bức họa thật sinh động giữa chốn nhân gian về một kẻ sĩ đáng trọng như Huấn Cao.

Huấn Cao còn là một người trân trọng tìn bạn, mến mộ những con người có “chí nhớn” trong thiên hạ. Qua lời kể của viên thơ lại, ông đã biết được tấm lòng của viên quản ngục và ngưỡng mợ trước tấm chân tình cũng như sự yêu mến và khát khao có được chữ của ông. Ông xúc động nhận ra được con người có thú vui thanh tao giữa chốn gong cùm nhơ bẩn này “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy quản mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Chỉ một cụm từ “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”, Huấn Cao đã khiến cho người đọc không thể nén được cảm xúc. Một con người biết trân trọng cái đẹp, hướng về cái đẹp, đó là một lối sống hướng đến vẻ đẹp “Chân-Thiện-Mỹ”.

Hình ảnh cảnh cho chữ hiện lên ở cuối tác phẩm dường như là cảnh tượng khó quên nhất trong tác phẩm. Một cảnh tưởng khiến cho người đọc nhớ mãi. Cảnh cho chữ diễn ra không phải ở một nơi thanh cao mà lại diễn ra giữa chốn ngục tù, là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Hình ảnh ba con người hiện lên trong cảnh tượng ấy thật đẹp, thật lung linh, họ không còn là người tù, viên quản ngục nữa mà là những người yêu cái đẹp, tâm đắc với cái đẹp. Cảnh cho chữ ấy thật thiêng liêng và xúc động, sự gặp gỡ quá muộn màng giữa những con người yêu cái đẹp, yêu cái vẻ đẹp hoàn thiện nhất. Hình ảnh Huấn Cao vương xiềng xích, tung bút viết những chữ vuông vắn nhất thực sự là hình ảnh đẹp nhất, đáng ngưỡng mộ và khâm phục nhất. Hình ảnh viên quản ngục “vái lạy” Huấn Cao và Huấn Cao đỡ viên quản ngục dây thực sự là hình ảnh ám ánh khi gấp trang sách lại. Thời khắc mong manh giữa sự sống và cái chết khiến cho người kẻ sĩ ấy thêm kì vĩ, lấp lánh hơn. Kẻ tử tù không thể có cốt cách như vậy, chỉ có anh hùng mới xứng đáng với cốt cách ấy. Và Huấn Cao là môt đấng anh hùng như vậy.

Huấn Cao hiện lên rõ nét, oai phong, đĩnh đạc qua từng nét bút của Nguyễn Tuân thực sự khiến cho người đọc không thể rời mắt khỏi trang viết. Huấn Cao là biểu tượng của cái đẹp vĩnh cửu, của những gì hoàn hảo và kiên trung nhất. Một con người “khó kiếm” trong thiên hạ.

Thực vậy, gấp trang sách lại nhưng hình ảnh Huấn Cao vẫn hiện hiển trong trí óc của người đọc. Ông là hình ảnh tiêu biểu cho những anh hùng hiên ngang bất khuất giữa chốn nhơ bẩn, bất công của thời đại.

Phân tích quan niệm về cái đẹp trong truyện ngắn Chữ người tử tù 10 

Nguyễn Tuân (1910 – 1987) cả một đời văn đi tìm cái Đẹp. Nhưng khác với Thạch Lam, tâm hồn ông hướng về vớ i những nét toàn thiện toàn mĩ , vượt lên khỏi giới hạn của cái bình thường, luôn nhìn nhận thế giới và con người ở phương diện thẩm mĩ – văn hoá.

Vang bóng một thời như là một điểm xuất phát của quan điểm nghệ thuật mang dấu ấn cá tính con người tài hoa tài tử Nguyễn Tuân. Mười một truyện ngắn dựng lên những chân dung đặc sắc khó quên của một thời quá vãng, tiêu biểu cho khuynh hướng thoát li của Nguyễn Tuân trước cách mạng : những thú chơi tao nhã, những con người của quá khứ xa xăm, thực ra là một cách cắt nghĩa cho tấm lòng của nhà văn vốn nặng tình cùng thời vàng son dĩ vãng. Nhưng ẩn chứa trong tập truyện là một tâm hồn dân tộc yêu tha thiết những giá trị đã trở thành truyền thống. Bên cạnh đó, tác phẩm còn là nơi gửi gắm tâm sự yêu nước, tâm trạng bất hoà của một người trí thức luôn cảm thấy bức bối trong khuôn đời chật hẹp. Cảm hứng đặc biệt mãnh liệt của Nguyễn Tuân gắn với những nhân vật đối lập với trật tự khuôn phép phong kiến, thể hiện tập trung trong truyện ngắn Chữ người tử tù, giúp ta hiểu sự chân thành sâu lắng của Nguyễn Tuân trong cái vỏ khác người kiêu bạc.

Tác phẩm là câu chuyện xoay quanh nét chữ của Huấn Cao – người tử tù bất khuất. Xung quanh trục chính của câu chuyện là những nhân vật thầy thơ lại, viên quản ngục và Huấn Cao. Họ vốn là kẻ thù với nhau trong cuộc sống, nhưng lòng yêu cái Đẹp giúp họ tìm đến với nhau như những người bạn tâm giao.

Cho đến tận thế kỉ XXI, trên văn đàn vẫn còn những cuộc tranh luận sôi nổi xung quanh Chữ người tử tù về nhân vật chính của tác phẩm: Chữ hay là người tử tù Huấn Cao mới là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm này của Nguyễn Tuân? Điều đó cho thấy tính phức tạp, đa nghĩa của tác phẩm. Chính vì vậy, sức hấp dẫn của tác phẩm vẫn còn nguyên vẹn. Tuy nhiên cần phải nhìn nhận tác phẩm này từ quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước cách mạng, đồng thời gắn với đặc trưng “văn học là nhân học”  để xácđịnh rõ tư tưởng của Chữ người tử tù.  Trước cách mạng, Nguyễn Tuân là đại diện cho khuynh hướng thoát li trong văn học lãng mạn bằng việc đề cao những vẻ đẹp “vang bóng một thời”. Lấy cái tôi làm trung tâm để nhìn nhận cuộc sống, ít nhiều trong tác phẩm, người nghệ sĩ lãng mạn bao giờ cũng muốn bộc lộ chính những suy ngẫm, tâm trạng của riêng mình. Không phải ngẫu nhiên tác phẩm lại chọn nguyên mẫu Cao Bá Quát để tạo dựng hình tượng Huấn Cao, vì ít ra nhà văn cũng cảm nhận được mối quan hệ tương đồng giữa bản thân mình với nhân vật. Mặt khác, trước cách mạng, Nguyễn Tuân luôn lấy tiêu chuẩn đánh giá con người ở ba khía cạnh: cái Tài – cái Đẹp – cái Thiên Lương nên Huấn Cao là hình tượng độc đáo giúp nhà văn phát biểu quan niệm về con người của chính ông một cách toàn diện. Chữ – thư  pháp vốn là sở hữu của bậc văn nhân tài tử thời xưa, là phương tiện diễn tả thần thái, tinh hoa của con người, là hiện hình cụ thể của chủ thể thẩm mĩ. Vì vậy, không thể xem chữ là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Con người và những vẻ đẹp Người bao giờ cũng là trung tâm cảm hứng của văn học lãng mạn, chữ của Huấn Cao thực chất là sự lí giải một góc tâm hồn Huấn Cao, là lời ca tụng cái đẹp Con Người trong hoàn cảnh tưởng chừng chỉ tồn tại những điều xấu xa.

Xem Huấn Cao là nhân vật đại diện cho cái Tài – cái Đẹp – cái Thiên Lương theo quan niệm Nguyễn Tuân cũng cần phải xét đến vai trò của viên quản ngục và thầy thơ lại. Bởi, cái đẹp chỉ thật sự có ý nghĩa khi có người biết thưởng thức. Đó cũng là một khía cạnh chủ đề của tác phẩm mà nhà văn muốn thông qua những nhân vật của mình phát biểu. Sẽ không ai biết đến Huấn Cao vào những thời khắc khốc liệt nhất của đời ông nếu như không có những người như quản ngục, thơ lại. Hai nhân vật này cùng Huấn Cao làm nên “ba đốm sáng đặc biệt” trên nền hiện thực tăm tối.

Tác phẩm hấp dẫn người đọc trước hết ở lối dựng chuyện rất ấn tượng của Nguyễn Tuân. Bản thân ông ý thức rất rõ về việc tạo không khí cho tác phẩm để từ đó diễn giải về số phận, tính cách nhân vật. Vốn là một người rất am hiểu văn hoá phương Đông, tiếp thu ảnh hưởng của cha, Nguyễn Tuân có biệt tài tái hiện những hình ảnh xa xăm của một thời “một đi không trở lại”. Không khí cổ điển bao trùm toàn bộ tác phẩm ngay từ câu đầu tiên: “Nhận được phiến trát của quan Sơn-Hưng-Tuyên đốc bộ đường…”, để từ đó những con người của một thế giới xa xưa hiện ra trước mắt ta nguyên hình rõ nét. Nhân vật chính chưa xuất hiện mà tác phẩm lại bắt đầu từ tâm trạng nửa lo – nửa mừng của viên quan đứng đầu nhà ngục khi nghe tin Huấn Cao sẽ bị áp giải đến nơi mình cai quản. Bổn phận của một bề tôi trung thành là phải làm tròn chức trách nên trong cuộc trao đổi giữa ngục quan với thuộc cấp đã hiện lên một kẻ mẫn cán trong phận sự. Hoàn cảnh đề lao đã tạo nên con người theo khuôn phép, cẩn trọng đúng mực như ngục quan. Nhưng để thấy con người thực của ngục quan và nỗi băn khoăn của ông ta cần phải gắn cùng một hoàn cảnh khác, tâm trạng khác. Bởi qua những dòng đầu tiên, người đọc biết đến niềm khao khát được thưởng thức tài hoa tuyệt đỉnh của thư pháp trong nét chữ tên tử tù Huấn Cao của một người nắm quyền sinh quyền sát trong tay. Nhưng là người biết định giá cái Đẹp và đến với cái Đẹp bằng tất cả tấm lòng, ngục quan cũng hiểu rõ tình thế khó xử của chính mình. Để nhân vật một mình lọt thỏm trong mênh mông bóng tối của nhà ngục. Nguyễn Tuân đã thuật lại khá đầy đủ những xung đột bên trong của nhân vật. Ngôn ngữ miêu tả tâm lý của Nguyễn Tuân đã đạt đến trình độ bậc thầy khi ông đi sâu mổ xẻ những uẩn khúc trong lòng nhân vật một cách rất tự nhiên gắn kết với khung cảnh.

Để cắt nghĩa tâm trạng ngục quan, Nguyễn Tuân đã khắc họa khỏanh khắc ngục quan khơi lại ngọn đèn dầu sở soi sáng khuôn mặt, đối diện chính bản thân. Đây cũng là thủ pháp thường gặp trong văn xuôi hiện đại. Nhà văn cũng đã không ngần ngại bộc lộ cảm tình của mình với ngục quan, khi ông dùng những nét vẽ bằng ngôn ngữ phác họa chân dung nhân vật một cách trân trọng. Phẩm chất nhân vật được khái quát đầy đủ ngay từ đầu với những nét tương hợp giữa ngôn ngữ, ngọai hình và nội tâm của nhân vật. Đàng sau khuôn mặt bình thản như mặt nước hồ thu là cả một thế giới tâm hồn đáng trọng: “trọng người ngay, biết giá người…” là cơ sở nhà văn khẳng định tâm hồn ngục quan như “bản đàn trong trẻo” trong thế giới tạp âm, đối lập với “bọn cặn bã, lũ quay quắt”. Nhân vật đối lập với hoàn  cảnh luôn là đặc điểm hàng đầu trong sáng tác của Nguyễn Tuân, là chiếc chìa khóa mở tung những cửa ngách phức tạp của hồn Nguyễn Tuân, văn Nguyễn Tuân. Đoạn đặc tả chân dung nhằm diễn giải cho tình huống thử thách xảy đến cùng ngục quan: liệu giữa con người bản – chất và con người mặt – nạ, phía nào sẽ thắng thế? Tâm nguyện của ngục quan có cơ hội thực hiện, nhưng bằng con đường nào phải lẽ, bản thân nhân vật phải trải qua quá trình đấu tranh căng thẳng với chính mình. Xin được chữ Huấn Cao – con người “văn hay chữ tốt nổi tiếng một vùng” là vinh hạnh của một kẻ như quản ngục, bị giam cầm trong bổn phận, trách nhiệm. Liệu nhân vật có vượt qua được thử thách hay không? Câu hỏi định hình từ phía nhà văn đã gợi được trí tò mò cho bạn đọc để làm nên một không khí khác hẳn với lối diễn giải một chiều của tiểu thuyết chương hồi, phơi bày những phức tạp mâu thuẫn nội tâm để làm rõ nét chân dung đặc sắc của ngục quan.

Nếu Huấn Cao là nhân vật trung tâm của tác phẩm thì ngục quan chính là nhân vật đối chiếu để làm rõ cho ý đồ của nhà văn. Thế nhưng góc nhìn đối sánh ấy lại bắt đầu từ vị thế đối lập giữa hai nhân vật. Ngay từ khoảnh khắc đầu tiên xuất hiện giữa nhà ngục, Huấn Cao đã hiện ra sừng sững những cốt cách, khí phách của một anh hùng. Chiếc gông đeo cổ sáu tử tù – biểu tượng dữ tợn của quyền uy và tội ác với kích cỡ “xứng đáng”, với màu “đen bóng” vì mồ hôi bao kẻ tử tội trở nên tầm thường thảm hại trước thái độ lạnh lùng “dỗ gông” của Huấn Cao. Giữa ranh giới sống – chết mong manh, khí phách “uy vũ bất năng khuất” (uy vũ không thể khuất phục) của Huấn Cao không thể được hiểu bằng đầu óc u tối của đám lính lệ dựa hơi quan quyền ra oai phách lối. Chỉ có thái độ “hiền lành khác hẳn ngày thường” của ngục quan mới là sự trọng thị thật sự của những người ý thức bản thân rõ nét. Nguyễn Tuân đã thuật lại quá trình tìm cách tiếp cận Huấn Cao của ngục quan hoàn toàn khách quan và hợp logic phát triển trên tâm lý nhân vật. Nhưng ông cũng giúp thấy rõ nghịch cảnh trớ trêu: một đàng tìm cách gần gũi, một đàng cảnh giác tuyệt giao. Nỗi khổ tâm của ngục quan càng tăng thì sự lạnh lùng “khinh bạc đến điều” của Huấn Cao càng tỏ rõ sự cứng rắn, đầy bản lĩnh của người anh hùng mạt lộ. Đơn giản một điều là họ chưa tìm thấy tiếng nói chung khi vị thế hai người được đặt trong sự đối đầu về mặt xã hội.

Đỉnh cao của xung đột đầu tiên giữa hai kẻ không cùng chiến tuyến là lúc ngục quan mạo hiểm xuất hiện trước mặt Huấn Cao và nhận được câu trả lời đuổi thẳng. Đáp lại thái độ khinh bạc của Huấn Cao là một lời bẽ bàng của quản ngục “Xin lĩnh ý” . Tưởng chừng sau phút đó, chuyện sẽ rẽ ngoặt sang hướng khác: kính trọng sẽ thành thù hận. Nhưng điều bất thường là rượu thịt cung phụng cho “thú sinh bình” của Huấn Cao lại còn hậu hơn trước khiến cho nảy sinh tình huống mới: thái độ ngạc nhiên băn khoăn về quản ngục của Huấn Cao. Ngạc nhiên là phải, vì đàng sau rượu thịt không phải là những trò mua chuộc hạ sách mà ông Huấn Cao từng biết. Băn khoăn của Huấn Cao xoay quanh bí ẩn về nhân thân của quản ngục. Nét đặc sắc trong nghệ thuật dựng chân dung nhân vật của Nguyễn Tuân là ở đó, ông đặt nhân vật vào những ranh giới đòi hỏi sự lựa chọn đúng – sai, thật – giả, tốt – xấu … để khám phá thêm những mặt tiềm ẩn của tâm hồn con người, hé lộ những mặt đa dạng của tính cách nhân vật.

Lời giải đáp cho băn khoăn của Huấn Cao đến trong một hoàn cảnh thật nghiệt ngã, ông phải đứng trước thử thách của chính mình. Ranh giới phân định không còn nằm trong thế cho con người lựa chọn như trước, bởi đó là sự sống còn và cái chết của chính ông. Kết cục số phận của một người tử tù là cái chết, nhưng trước cái chết con người cũng có những phản ứng khác nhau. Một người bình thường sẽ mặt tái nhợt hốt hoảng như thầy thơ lại khi báo tin  cho Huấn Cao, còn bản thân một kẻ “chọc trời khuấy nước” như Huấn Cao lại dường như bình thản đón nhận. Người anh hùng luôn đón đợi hiểm nguy, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, phải chăng vì vậy Nguyễn Tuân đã không dùng một từ nào mô tả phản ứng của Huấn Cao khi nghe tin dữ đến với mình. Giây phút “lặng người đi một lát rồi mỉm cười” của Huấn Cao chính là thời điểm mở ra thế giới thực của một con người tài hoa. Cuối cùng những “kẻ thù “ trong đời đã gặp nhau ở một tấm lòng. Thời điểm này ta cũng nhận rõ hơn vai trò của thầy thơ lại. Ông ta hoàn toàn không phải là người trung gian, kẻ đầu sai cho chủ. Cũng giống viên quản ngục, ông ta còn giữ được “thiên lương” nhưng hoàn cảnh không cho phép ông bộc lộ con người thực của mình. Thậm chí, so với ngục quan, thầy thơ lại còn hiêïn lên vẻ an phận thủ thường bằng dáng vẻ khúm núm, rụt rè, hớt hải của một kẻ ý thức được thân phận của mình. Nhưng đôi mắt “biết giá người” của ngục quan đã phát hiện được con người thực của ông ta. Thầy thơ lại chính là điểm tựa, là niềm tin giúp ngục quan đủ dũng khí vượt qua nỗi sợ hãi thường trực trong cảnh sống nơm nớp lo âu. Có thể xem thầy thơ lại là nhân vật bổ sung cho tính cách của ngục quan. Dẫu cho ông ta không phải là người đam mê cái đẹp thư pháp giống như ngục quan, nhưng ông ta là người đóng vai trò xúc tác để cái đẹp tìm đến nhau. Cuộc sống rất cần loại người như thế. Trong thế giới nhân vật lý tưởng hoá của Nguyễn Tuân, viên thơ lại này là con người của đời thường, tận tâm trong công việc và tận tâm với cả bạn bè, dám làm những việc nguy hiểm cho tính mạng bản thân vì người khác. Không có thầy thơ lại, sẽ không có cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục, không có cảnh tượng cho chữ “xưa nay chưa từng có”.

Khi những hận thù, ngộ nhận được xoá nhoà, nhà văn mới để Huấn Cao bộc lộ rõ con người thật bằng những lời nói cảm động. Điều bất ngờ của Huấn Cao về quản ngục còn làm người đọc bất ngờ hơn về thái độ của Huấn Cao khi ân hận “Thiếu chút nữa thì ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao bỗng trở nên gần gũi, rất con người sau câu nói này. Hoá ra nhân cách cao quí của Huấn Cao ngoài thái độ bất khuất kiên cường còn có cả một tấm lòng biết trân trọng con người. Hoá ra nụ cười Huấn Cao không chỉ là “trông chết cười ngạo nghễ” mà còn là nụ cười sung sướng tìm được một con người có “sở thích cao quí” chính vào thời khắc số mệnh đã an bài. Cuộc gặp gỡ của những tấm lòng đã làm nên lời giải đáp, hoá giải mọi khổ tâm, băn khoăn, sợ hãi.

Nguyễn Tuân đã dựng lên một không gian đặc biệt để ba nhân vật gặp gỡ. Đúng như ông mô tả, đây là cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Nhưng trang viết này đã thể hiện bút lực Nguyễn Tuân dồi dào sung mãn nhất. Cảm hứng mạnh mẽ, tô đậm những nét độc đáo phi thường đã làm nên nhừng hình ảnh, câu văn thật phóng khoáng. Bắt đầu của sự chuyển đổi không gian nhà ngục – vốn tối tăm ghê rợn đã bừng sáng lên trong ánh lửa cháy “rừng rực” của những bó đuốc tẩm dầu. Xung đột Bóng tối – Ánh sáng mang ý nghĩa tượng trưng, điển hình cho một cảm hứng quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn. Đây là ánh sáng khác hẳn với sắc nhợt nhạt của “những vì sao” nhấp nháy sắp rụng, với ánh leo lét của ngọn đèn dầu sở soi sáng gương mặt ngục quan, tâm hồn ngục quan. Aùnh đuốc làm bật lên ba con người đẹp đẽ trên nền hiện thực nhà tù tàn ác xấu xa. Đối cực giữa hoàn cảnh với con người nhờ vậy tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho độc giả, tạo một tâm thế hào hứng đón nhận cái đẹp vượt lên thực tại tầm thường tù túng, để thât sự thăng hoa.

Cảnh tượng đẹp nhất đánh dấu thời khắc cái Đẹp lên ngôi chính là lúc Huấn Cao viết chữ, thầy thơ lại khúm núm bưng chậu mực, viên quan coi ngục đánh dấu lên từng con chữ. Vẫn là những con người ấy nhưng thật sự họ đã toàn tâm toàn trí hướng về cái đẹp. Người sáng tạo, người thưởng thức, tôn vinh cái đẹp đã gặp gỡ nhau. Lời nói của Huấn Cao dành cho quan coi ngục là lời chỉ dành cho người tri âm tri kỷ. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng bình khoảnh khắc này là khoảnh khắc “ba đốm sáng gặp nhau”, khoảnh khắc để con người cúi đầu trước cái đẹp để thật sự cảm nhận vẻ đẹp toát lên từ con chữ, từ tấm lụa bạch, thỏi mực thơm.

Nhà văn khép lại câu chuyện bằng lời nói của ngục quan, như hứng lấy tâm huyết hoài bão một đời của Huấn Cao: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh!”. Đó là lúc cái đẹp chiến thắng tuyệt đối, là lúc “Ba người nhìn bức châm rồi lại nhìn nhau”. Họ đã thật sự chiến thắng nỗi sợ hãi, cái chết. Đó là thời khắc hội tụ cái Tài – cái Đẹp – cái Thiên Lương.

Chữ người tử tù đã thể hiện trọn vẹn quan niệm cái đẹp của Nguyễn Tuân trước các h mạng tháng Tám. Cái đẹp đối lập vối thực tại tầm thường giả trá, cái đẹp của những con người phản ứng thực tại xã hội đương thời. Và Nguyễn Tuân cũng đã đem lại cho người đọc thú thưởng thức văn hoá rất đặc sắc trong nét chữ tài hoa. Tài hoa ấy, tấm lòng ấy cũng là của chính Nguyễn Tuân muốn gửi gắm lại cho cuộc đời này. 

Phân tích Chữ người tử tù 11

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn lớn, một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác am hiểu nhiều lĩnh vực đời sống. Suốt đời đi tìm cái đẹp ông thường quan sát sự vật ở góc độ thẩm mĩ và miêu tả con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Ông giữ vị trí vô cùng quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với nền văn học hiện đại Việt Nam thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc và đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách tài hoa và độc đáo. Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm đặc sắc nhưng tiêu biểu nhất là truyện ngắn Chữ người tử tù thuộc tập ”Vang bóng một thời”.

 Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Tuân đã dựng lên một tình huống truyện oái oăm, éo le. Đó là cuộc ”kì ngộ” giữa Huấn Cao và viên quản ngục trong nhà tù vào vài ngày trước khi Huấn Cao bị tử hình – một tình huống truyện giàu kịch tính. Xét về bình diện xã hội họ là những kẻ đối địch một người cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình còn người kia là viên quản ngục đại diện cho bộ máy cai trị của triều đình ấy. Nhưng ở bình diện nghệ thuật họ lại là những tri kỉ, tri âm một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại ngưỡng mộ cái tài ấy. Nguyễn Tuân đã xây dựng nhân vật bằng nghệ thuật lý tưởng hóa để khắc họa hình tượng Huấn Cao nguyên mẫu ngoài đời là Cao Bá Quát  nhà học vấn uyên thâm, văn võ song toàn. Người vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao có tài viết chữ rất nhanh rất đẹp. Thư pháp thường viết bằng chữ Hán một cách nghệ thuật đòi hỏi cả người viết chữ lần người nhận chữ phải có tâm hiểu được cái đẹp của chữ và cái sâu của nghĩa. ”Nét chữ vuông vắn tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người”. Viên quản ngục có ước nguyện cả đời là có được chữ ông Huấn mà treo, coi đó là ”một báu vật trên đời”. Hành động biệt đãi Huấn Cao của viên quản ngục bất chấp nguy hiểm dám làm những việc trái với quy định của triều đình phong kiến. Vượt lên trên quyền hạn của mình đánh đổi cả bằng tính mạng chỉ để thỏa mãn tâm nguyện cả đời của mình. Lòng khao khát của viên quản ngục đã nói thật rõ tài năng vượt bậc của Huấn Cao. Khi cảm nhận được tấm lòng biệt nhỡn liên tài và sở nguyện cao quý của viên quản ngục Huấn Cao vui vẻ cho chữ. Trong khi đó ông không vì vàng ngọc quyền thế mà ép mình cho chữ bao giờ, cả cuộc đời mới chỉ cho chữ ba người bạn thân là chỗ tri kỉ với ông. Câu nói: “Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” thể hiện quan điểm sống rất cao đẹp của Huấn Cao. Sống là phải xứng đáng với lòng người, phụ tấm lòng cao đẹp của người khác là không thể tha thứ. Hành động ”dỗ gông” lạnh lùng bất chấp lời dọa dẫm của tên lính áp giải. Khi viên quản ngục biệt đãi, Huấn Cao thản nhiên nhận rượu thịt coi đó là một cái thứ bình sinh vẫn làm lúc chưa bị giam cầm. Cách trả lời viên quản ngục: ”Ta chỉ muốn có một điều là nhà người đừng đặt chân vào đây” khinh bạc đến điều coi việc kẻ đại diện thống trị làm chỉ là những trò tiểu nhân thị phi. Nhà văn bày tỏ thái độ yêu mến trân trọng Huấn Cao nhân vật kết tinh lưu giữ vẻ đẹp cổ truyền của văn học dân tộc cũng đồng nghĩa với việc tôn vinh ngợi ca những nét đẹp văn hóa cổ truyền đó. Phải chăng, đây cũng chính là biểu hiện của lòng yêu nước thầm kín thiết tha sâu lắng mà tác giả gửi gắm. Ngoài Huấn Cao, tác giả còn xây dựng thêm một hình tượng nhân vật nữa không kém phần đặc sắc là viên quản ngục. Một người có tâm hồn trong sáng, yêu cái đẹp và trọng cái tài. Bất chấp nguy hiểm để biệt đãi Huấn Cao với mục đích giúp ông Huấn bớt khổ cực và xa hơn là muốn xin chữ. Tác giả đặt viên quản ngục trước hai lựa chọn mang tính xung đột một là làm tròn bổn phận của một viên quan thì phải trà đạp lương tâm của mình còn hai là không làm xấu lương tâm của mình thì phải phản lại bộ phận nhà nước, coi thường bổng lộc và sự an toàn tính mệnh bản thân. Thế nhưng viên quản ngục lại lựa chọn cách thứ hai, trước sự khinh bạc của Huấn Cao quản ngục vẫn cung kính lễ phép chứng tỏ sự kiên trì, nhẫn nhịn để thực hiện khao khát cả đời của bản thân. Chỉ mong rằng một ngày nào đó Huấn Cao sẽ hiểu ra sở nguyện và chấp nhận cho chữ dù phải đổi cả tính mạng ông cũng cam lòng. Nhà thơ tự khẳng định viên quản ngục chính là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cuối cùng ở cảnh cho chữ tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa ánh sáng và bóng tối để miêu tả những chuyển biến bất ngờ đột ngột của hình tượng nhân vật đi từ bóng tối qua ánh sáng, từ sự tối tăm dơ bẩn đến cái chân thiện mĩ và sự chiến thắng của thiên lương. Vì sao nói đây là ”một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”? Thông thường cho chữ thường ở trong đại sảnh, phòng trà sang trọng thời gian là ban ngày lúc cả người cho và người nhận đều ung dung thư thái. Nhưng trong truyện lại là nơi ngục tù tối tăm bẩn thỉu người cho chữ thân thể thì đang bị gông cùm nhưng vẫn ung dung sản sinh cái đẹp còn thầy thơ lại run run bưng chậu mực và quản ngục khúm núm khép nép. Tại sao họ lại thế? Hay là họ sợ bị quân lính báo quan trên nhưng không họ đang sợ trước cái đẹp khi lần đầu tiên trong cuộc đời của mình được chiêm ngưỡng vẻ đẹp đích thực của chữ nghĩa, sản sinh từ một con người có tâm hồn cao khiết nhân cách đẹp

Tóm lại, qua tác phẩm ”Chữ người tử tù” ta thấy được tài năng xây dựng tình huống truyện độc đáo, khai thác nhân vật ở mọi phương diện qua các hành động bề ngoài  kết hợp với thủ pháp đối lập tài tình, tác giả càng làm rõ hơn thông điệp muốn gửi gắm trong mỗi con người bình thường như chúng ta ai cũng có một tâm hồn nghệ sĩ biết yêu cái đẹp nên hãy luôn cố gắng trau dồi để vun đắp nó.

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn 12

Chữ người tử tù là truyện ngắn xuất sắc được in trong tập “ Vang bóng một thời’’ của Nguyễn Tuân xuất bản năm 1940. Tấp truyện được xem là :”một văn phẩm đạt gần tới sự toàn mỹ” (Vũ Ngọc Phan). Một trong những làm nên giá trị của tác phẩm là ở đó tác giả đã xây dựng nhân vật Huấn Cao, một hình tượng nhân vật hết sức độc đáo.

Tác giả Nguyễn Tuân (1910-1987) là nhà văn nổi tiếng trước CM tháng Tám, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ônng viết nhiều thể loại nhưng nổi tiếng là truyện ngắn và tùy bút. Trước CM thág Tám ông viết xoay quay 3 đề tài . Đề tài về cái tôi của chủ nghĩa xê dịch, cái tôi hưởng thụ trụy lạc và cái đẹp ngày xưa nổi tiếng một thời nay không còn nữa chỉ vang bóng lại. Sau Cách mạng tháng Tám ông viết phục vụ CM.

Tác phẩm Chữ người tử tù lúc đầu có tên là dòng chữ cuối cùng được đăng trên Tạp Chí Tao Đàn (1938). Vế sau tác giả đổi tên la Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời (1940).Chữ người tử tù là chữ viết của người có tội bị giam trong ngục. Ở tác phẩm, tác giả ca ngợi thú chơi chữ có tính truyền thống văn hóa, ca ngợi nhứng con người biết chơi , dám chơi đồng thời qua đó thể hiện tấm lóng yêu nước của nhân vật HC.

Trước một xã hội “ Tây Tàu nhố nhăng’’, Hán học suy vi ,mâu thuẫn xã hội gay gắt.Dường như con người ta muốn buông xuôi tắt cả. Thế nhưng "Thời thế tạo anh hùng" vẫn còn một số người, đại diện cho nhũng nho sĩ cuối mùa, nhũng con người tài hoa bất đắc chí muốn lấy cái “ tôi” tài hoa , ngông nghênh của mình để đối lập với xã hội phàm tục; phô diễn lối sống đẹp , thanh cao của mình như một thái độ phản ứng trật tự xã hội đương thời. Trong số những con người tài hoa ấy , nổi bật lên hình tượng nhân vật Huấn Cao.

Huấn Cao vốn là người văn võ song toàn, có tâm hồn và nhân cách cao đẹp.Ngừoi tỉnh Sơn ai cúng biết Huấn Cao có tài viết chữ đẹp và rất nhanh, ngoài ra ông còn có tài bẻ khóa nữa. Huấn Cao bị nhà nước thực dân ghép vào tội đại nghịch nên bị bắt giam chờ ngày về kinh chịu tội. Trong những ngày bị giam giữ cuối đời, Huấn Cao vẫn toát lên vẻ đẹp hiên ngang , bình tĩnh và sáng suốt của 1 ngừơi anh hùng . Qua đó mới thấy được vẻ đẹp tài hoa, khí phách , khí tiết của Huấn Cao .

Tài viết chữ đẹp của Huân Cáo đươc mọi ngừơi kính nể. Bởi lẻ, cái hiếu thẩm mỹ của người xưa về viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý. Huấn Cao viết chữ Hán đẹp, người ta xem những tác phẩm của ông như là những tác phẩm nghệ thuật để trang trí trong nhà . Ở trong truyện, Nguyễn Tuân không trực tiếp miêu tả vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao mà thông qua nhân vật Viên Quản ngục để làm bật lên cái tài viết chữ đẹp của ông. Viên quản ngục là một người rành chơi chữ, khi biết Huấn Cao sắp được giải đén nhà lao của mình , viên quản ngục đâm chiêu lưỡng lự, tìm cách đối xử với Huấn Cao như thế nào cho đúng. Lão ái mộ Huấn Cao đến mức xuống nước biệt đãi cơm , rượu , thịt cho Huấn Cao. Dù biết đó là việc hết sức nguy hiểm và nếu có người tố giác sẽ khiến viên quản ngục mất việc, hơn nữa là mất mạng nhưng lão vẫn bất chấp , đã thế còn bị Huấn Cao khinh bạc đủ điều: “ Ngươi hỏi ta muốn j, ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng đặt chân đến đây nữa”.

Viên Quản ngục nhịn nhục vì ông biết rằng:” Chữ HC đẹp lắm , vuông lắm có được chữ HC treo trong nhà là một vật báu ở trên đời”.

Vì sao Viên Quản Ngục lại chịu nhịn nhục và bất chấp nguy hiểm để biệt đãi HC. Phải chăng trước vẻ lạnh lùng , ngang tàn của một người anh hùng khiến VQN có thái độ đặc biệt như vậy. Không , mà vì VQN rất trân trọng , khâm phục, yêu quí cái tài viết chữ đẹp của HC.

Qua sở thich của VQN, ta thấy nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa của HC. VÌ chữ đẹp của HC mà VQN có thể sẵn sàng chịu nhịn nhục, chịu bị HC trách mắng đủ điều và hơn nữa bất chấp cả tính mạng.

Bên cạnh vẻ đẹp tài hoa , HC cò toát lên vẻ đẹp nhân cách, cái nhân cách cao đẹp chiếu sáng cả cuộc đời ông. Ông không luồn cúi, chịu cảnh cá chậu chim lồng mà đi làm giặc chốg lại triều đình. Điều này khiến ông hơn người

Nhân cách ấy còn được thể hiện khi ông bị giải tới nhà lao. Nhà lao là nơi cái nơi tối tăm, xiềng xích bủa vây , tra tấn con người ta về mặt thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhứng với HC khi giải tới nhà lao ông vẫn hiên ngang, cổ mang gông tử tù bước vào ngục tử tội chờ chết mà ông vẫn không hề biết sợ.

Cái hình ảnh của người anh hùng tuy thất thế mà vẫn hiên ngang ấy khiến người ta phải ngưỡng mộ. Đó là nhân cách của con người:” bần tiện, bất năng di, phú quí bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất”. Bước vào nhà lao trước đông đảo bọn cai tù mặt nhìn soi mói như ăn tươi , nuốt sống . Nhưng như vậy cúng chẳng khiến HC bận tâm và cảm thấy sợ sệt một chút nào cả, ông lạnh lùng bảo 5 người cùng xích chung trong cùng một cái thang gông:”Rệp cắn tôi , đỏ cả cổ lên rồi, phải dỗ gông đi”. HC Cao cùng 5 người thúc thang gông xuống trong lúc bọn cai tù đe dọa châm biếm :” Các ngươi chỉ phải tập thêm nữa …cho mấy hèo bây giờ”.Nhưng HC vẫn thản nhiên: “ Khom mình cúi thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng”. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh , đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt, riêng HC vẫn lạnh lùng bình thản như không.

Không chỉ có vậy nhân cách của HC còn được thể hiện khi VQN xuống tận buồng giam thăm và nói HC “ Ngươi cần j xin cho biết rồi sẽ liệu”. Nếu một người không có khí phách chắn hẳn sẽ năn nỉ van xin hay cảm ơn. Nhưng với HC thì không đời nào, ông không vì rượu thit mà lung lạc tinh thần. HC nói: “ Ngươi hỏi ta muốn j, ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng đặt chân đến đay nữa”.Bất chấp sau câu nói ấy HC có thể sẽ làm VQN tức giận và không được ăn ngon như trước hay bị một trân đòn nhưng HC vẫn nói . Đó là khí phách của của một người có bản lĩnh kiên cường .

HC còn bật lên vẻ đẹp khí tiết nữa.Đối vơi Hc tiền bạc, uy vũ sức mạnh không làm lung lạc tinh thần:” ta không vì tiền bạc , quyền thế mà ép mình viết chữ cho ai bao giờ”. Nhưng khi được Viên Thơ kể lại về sự tình của VQN, HC đã nhận thức được một tâm hồn trong sáng của VQN, người yêu cái đép, vì cái đẹp mà bất chấp nguy hiểm.VQN thật sự la ngườt tốt, xh rối ren khiến lão lạc vào đám cặn bã này thôi , khiến HC không nhận ra: “…nào ta có biết …Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng thiên hạ”. Đúng là HC dù là con người lạnh lùng, mạnh mẽ , cứng đầu lúc nhận ra con người thực của VQN , Quản ngục chỉ là cái áo khoác bên ngoài còn thực chất lão là người tốt , không mưu mô , xảo quyệt như trc đây HC đâ nghĩ .Trước thái độ chân thành cũng như tình cảm của VQN đối với mình khiến HC mềm lòng cảm động và quyết đjnh cho chữ VQN.

Đêm hôm ấy, HC đã cho chữ VQN, một trong những cảnh tượng xưa nay chưa từng có. HC sàng tạo trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt: đêm khuya , trong căn phòng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy màng nhện , đất bừa bãi phân nhện và phân gián, người sáng tạo ra cái đẹp , cổ đeo gông, chân vướng xiềng xích mà lại là người tự do và đầy uy quyền nhất. Người đọc không chỉ thấy đây là cảnh tượng cho chữ mà là cảnh truyền ngôi thụ giáo. Đẹp hơn nữa, HC còn tguyết giáo cho VQN cải tà quy chánh . VQN cảm động vài người tù một vài, chắp tay nói một câu mà nước mắt rỉ vàokẽ miệng làm cho nghẹn ngào:”Kẻ mê mụi này xin bái lĩnh “ Đó là vẻ đẹp khí tiết của một nhân cách cao thượng và ở khả năng cảm hóa con người của HC.

Nguyễn Tuân đã khắc họa nhân vật Huấn Cao thật tài tình , ở nhân vật này người đọc không chỉ thấy sự tài hoa của người nghệ sĩ mà còn là một con người có khí phách , khí tiết cao đẹp.Đó cũng là ước muốn của Nguyễn Tuân cũng như cái nhìn của ông : người nghệ sĩ không chỉ có tài mà còn phải có tâm có nhân cách đẹp.Vì vậy tác giả xây dựng nhân vật HC nhú tấm gương sáng để các thế hệ sau có cái nhìn về cái đẹp tài hoa và cái đẹp trong nhân cách, khí tiết và để lại cho người đọc một sự yêu mến , một sự ngưỡng mộ. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã để lại ho nền văn học Việt Nam một tác phẩm đầy chất nhân văn .

Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân 13

Nguyễn Tuân là một nhà văn tài ba, không chỉ tài ba mà còn yêu cái đẹp, sống vì cái đẹp, và trên hết, ông tạo ra cái đẹp. Mỗi tác phẩm của ông đều ẩn chứa những cái đẹp riêng, có khi là phô trương, có khi lại sâu lắng đầy ý nghĩa sâu xa. Ví dụ như trong “Chữ người tử tù”, cái đẹp được ca ngợi ở đây không chỉ là tài viết chữ đẹp, cái thiên lương đẹp mà còn là cả một con người đẹp, đẹp từ trong tâm ra đến hành động, từng con chữ. Chữ người tử tù là tập truyện ngắn rút từ tập vang bóng một thời của Nguyễn Tuân (1940). Đây là truyện ngắn có nội dung tư tưởng sâu sắc và có nhiều thành công về tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm bộc lộ tập trung trong hình tượng nhân vật Huấn Cao.

Có thể khẳng định rằng, nhân vật Huấn Cao là hình mẫu xuất chúng, là linh hồn, là nhân tố tạo nên sự thành công của tác phẩm “Chữ người tử tù”. Để làm rõ chất xuất chúng trong xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, chúng ta cùng phân tích nhân vật trên ba phương diện nổi bật: Huấn Cao- Anh Hùng; Huấn Cao- Nghệ sĩ tài hoa và Huấn Cao – Thiên lương trong sáng.

Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao với tất cả những nét đẹp đáng quý nhất. Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài ba! Nếu ai  đã từng đọc “Chữ người tử tù” chắc hẳn đều ít nhất một lần rung động, cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khuất, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí. Đó là Huấn Cao . Ông là kết tinh, là hội tụ phẩm chất của một con người có nhân, dũng, trí;  là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao đẹp nhất. Nhờ đó, Huấn Cao trở thành  một hình tượng thẩm mỹ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là một người có nhân cách vẹn toàn, vừa có tài văn, tài võ, vừa là người có nghĩa khí. Nhiều nhà phê bình lẫn độc giả cho rằng, hình tượng nhân vật Huấn Cao phảng phất bóng dáng của Cao Bá Quát. Người vĩ nhân đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang dọc, là người có tài ,có đức, văn hay chữ đẹp, sống dưới thời Nguyễn, dám đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, bọn cường quyền, đả kích xã hội PK thối nát, bỉ ổi.

Trong “Chữ người tử tù” Huấn Cao cũng vậy. Ông bị gọi là kẻ cầm đầu quân phản loạn, ông học rộng hiểu nhiều, dám đứng lên chống lại cái sai, cái bất công; đả kích sự mục ruỗng thối nát của nhà Nguyễn, đấu tranh vì lợi ích của nhân dân. Phải chăng, Nguyễn Tuân đã mượn hình tượng nhân vật Huấn Cao để ca ngợi Cao Bá Quát?  Và ngược lại, lấy nguyên mẫu từ Cao Bá Quát để khái quát lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa quyện với cái đẹp của khí phách, tuy chí không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy gian khổ, coi khinh cái chết. Khí chất của Huấn Cao giống như ánh sáng mặt trời hiên ngang, rực rỡ tỏa sáng trên cái nền đen nhơ nhớp, tối tăm chốn ngục tù.

Nói đến vẻ đẹp của hình tượng HC trước hết phải nhắc đến cái tài. Tài của Huấn Cao là tài viết chữ đẹp. Xét trong thị hiếu thẩm mỹ của người xưa từ Trung Quốc đến Việt Nam thì viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý. Tâm có đẹp, hồn có thanh, có tài ba, trí thức mới viết ra được những con chữ đẹp. Viết chữ đẹp và chơi chữ đẹp là biểu hiện của con người có tri thức, một vẻ đẹp hoàn mỹ trong văn hoá truyền thống dân tộc. Nó như một sản phẩm nghệ thuật, như một vật báu mà con người khát khao, thèm muốn lẫn trân trọng, nâng niu. Chữ Huấn Cao viết là chữ Hán loại văn tự giàu tính tạo hình. Các nhà nho thuở xưa viết chữ để bộc lộ cái tâm, cái chí. Viết chữ thành một môn nghệ thuật gọi là thư pháp, có người viết chữ thì có người chơi chữ. Người ta treo chữ đẹp ở những nơi trang trọng trong nhà, xem đó như một thú chơi tao nhã.

Huấn cao là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. “Tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” của ông nổi tiếng khắp một vùng tỉnh sơn.” Ngay cả viên quan quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm! có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đời”. Cho nên “Sở nguyện của viên quan cai ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do ông Huấn Cao viết”. Để có được chữ ông Huấn Cao, viên quản ngục không những phải dụng công, phải nhẫn nhục mà còn phải liều mạng. Bởi vì biệt đãi Huấn Cao một kẻ tử tù là việc làm nguy hiểm có khi phải trả giá bằng tính mạng của mình.

Một cái tài nữa nghe có vẻ rất không thống nhất với tài viết chữ đẹp đó là tài bẻ khóa vượt ngục. Người trí thức bàn tay hoa mỹ những tưởng chỉ để phát lên những nét rồng bay phượng múa, ai ngờ lại còn có thể bẻ khóa, ra vào tù ngục như chốn không người. Nếu như viết chữ đẹp thể hiện một con người trí thức, nho nhã, yêu cái đẹp thì tài bẻ khóa vượt ngục lại thể hiện một con người khát khao tự do, hoài bão tung hoành. Điều này rất hợp logic với tính cách của một con người luôn đấu tranh cho chính nghĩa, dũng cảm đứng lên chống lại triều đình Phong Kiến mục nát. Hai biệt tài của Huấn Cao tưởng rằng máu thuẫn nhưng lại thống nhất, bổ sung cho nhau; tất cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào lòng độc giả như một anh hùng, một trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình thường nhỏ nhoi của cuộc đời để vẫy vùng để “chọc trời khuấy nước”. Nhưng anh hùng không gặp vận, người tài chẳng đúng thời! Giữa cái xã hội Phong Kiến còn đầy rẫy những chuyên chế, đàn áp, bất công ấy thì những người như Huấn Cao lại bị quy thành tội phạm, thậm chí là tội phản quốc phải gánh lấy cái án tử hình.

 Vẻ đẹp nổi bật thứ hai của Huấn Cao đó chính là khí phách hiên ngang, bất khuất của người anh hùng. Không chỉ văn võ song toàn, Huấn Cao còn là một người có khí phách, một người anh hùng dám làm dám chịu, không những không bị khuất phục trước quyền lực, bạo lực; mà còn không hề nao núng, sợ hãi khi đứng trước cái chết- kết cục tất yếu của tử tù phản quốc

Huấn Cao xuất thân là nho sĩ, tầng lớp trí thức, học giả; thường khi những người như ông sẽ cống hiến tài mình phục vụ cho triều đình. Đặc biệt, thời phong kiến, tư tưởng quân chủ chuyên chế vẫn còn đè nặng. Làm việc cho triều đình là một cách báo quốc, đền dân; nhưng triều đình mục ruỗng, thối nát thì không đáng để ông phụng sự. Ông là người tài, không chỉ tài ở tài viết chữ, mà còn là người có cái nhìn thức thời, sáng suốt. Một nhân tài không sợ hãi trước cường  quyền và bạo lực. Không chịu sống cảnh “cá chậu chim lồng”, “vào luồn ra cúi” nên ông đã tham gia khởi nghĩa cùng nông dân chống lại triều đình. Ông bị bắt và bị kết tội phản quốc chờ xử chém.

Khí phách của ông trước hết thể hiện ở thái độ lạnh lùng và hành động cương quyết của ông khi vừa được đưa đến nhà ngục. Mặc cho những tên lính áp giải nói gì, “Huấn Cao lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Phải là người có bản lĩnh, quyết đoán, tự chủ trước cường quyền, Huấn Cao mới có được hành động như vậy. Trong những ngày ở tù, ông luôn làm chủ bản thân, không luồn cúi. “Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù”. “Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm”. Thậm chí, ông còn có thái độ khinh bạc đối với viên quản ngục. Khi viên quản ngục hỏi ông xem ông có cần thêm gì thì cho viên quản ngục biết, ông đã thẳng thắn trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Quá thực, đó là một thái độ khinh bạc đến điều.“Ông Huấn đã đợi một trận lôi đình và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Đến cảnh chết chém ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này”. Huấn Cao rất cứng cỏi, không dễ dàng bị mua chuộc.

Dù chí lớn không thành tư thế của Huấn Cao lúc nào cũng hiên ngang, bất khuất. Bị dẫn vào huyện ngục ông không chút run sợ trước những kẻ nắm giữ vận mệnh của mình. Chắc hẳn ai đã từng đọc “chữ người tử tù” đều không thể nào quên hình ảnh Huấn Cao thúc gông xuống thềm đá, chỉ một chi tiết ấy cũng làm toát lên khí chất kiên cường, có chút ngông lạnh của người anh hùng không màng cái chết. Hình ảnh đó thật đẹp, thật hào hùng khiến ta nhớ mãi không quên. Rõ ràng là một tử tù chỉ đợi ngày ra pháp trường vậy mà Huấn Cao vẫn luôn ung dung, đạo mạo, toát lên khí chất coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trước sau không thay đổi. Điều đó thật đáng kính!

Tuy nhiên, có lẽ vẻ đẹp đáng kính nhất ở Huấn Cao là vẻ đẹp của tâm hồn. Ông là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp hiếm có, đáng trân trọng!

Trong truyện Chữ người tử tù khái niệm “thiên lương” được Nguyễn Tuân sử dụng với nhiều ý nghĩa khác nhau. Với quản ngục và thơ lại thì “thiên lương” là ý thức của ông trong việc sử dụng cái tài của mình. Huấn cao có tài viết chữ nhưng không phải ai ông cũng cho chữ. Ông không bao giờ ép mình cho chữ vì vàng ngọc hay quyền thế. Ông chỉ trân trọng những ai biết yêu quý cái đẹp, cái tài…Cho nên suốt đời Huấn Cao chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân. Lúc đầu, ông tỏ thái độ khinh bạc vì tưởng quản ngục có ý đồ đen tối gì khi thấy viên quan ấy biệt đãi mình. Rồi ông “cảm cái lòng biết ơn liên tài” của quản ngục và thơ lại, khi biết họ thành tâm xin chữ. Ông quyết không phụ tấm lòng của họ, nên mới diễn ra cảnh cho chữ trong tù được tác giả gọi là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Cái đẹp từ “thiên lương” trong sáng của Huấn Cao chính là điểm sáng nhất của tác phẩm. Tuy nhiên, hình tượng nhân vật Huấn Cao chỉ thực sự tỏa sáng khi đạt được sự thống nhất giữa cả 3 vẻ đẹp từ cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng. Trong cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm Nguyễn Tuân đã để cho vẻ đẹp của cái tâm, của “thiện lương” chiếu rọi, làm cho cái đẹp của cái tài của khí phách anh hùng bừng sáng, tạo nên nhân cách cao đẹp của Huấn Cao. Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng là lí tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân là chuẩn mực để ông đánh giá nhân cách của con người. Nguyễn Tuân đặt nhân vật dưới ánh sáng của lí tưởng ấy để các hình tượng bộc lộ vẻ đẹp với những mức độ khác nhau. Trên cái nền đen tối của nhà tù, quản ngục và thơ lại là hai điểm sáng bên cạnh cái vần sáng rực rỡ của Huấn Cao. Cũng chính lý tưởng thẩm mỹ ấy chi phối mạch vận động của truyện, tạo thành cuộc đổi ngôi kì diệu kẻ tử tù trở thành người làm chủ tình huống, ban phát cái đẹp, dạy dỗ cách sống, quan coi ngục thì khúm núm sợ hãi. Hình tượng Huấn Cao vì thế trở thành biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp cái cao cả đối với cái phàm tục, dơ bẩn của khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ.

Để làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục và thơ lại. Đó là cuộc gặp gỡ của tử tù với viên quan cai ngục nhưng cũng là cuộc hội ngộ của những kẻ “liên tài tri kỉ”. Nguyễn Tuân thật tài tình khi miêu tả Huấn Cao để làm nổi bật sự chiến thắng của cái tài cái đẹp cái tâm và khí phách ngang tàng.  Ông triệt để sử dụng sức mạnh của nguyên tắc tương phản, đối lập của bút pháp lãng mạn đối lập giữa ánh sáng và bóng tối giữa cái đẹp cái cao cả với cái phàm tục dơ bẩn. Có sự tương phản ở những chi tiết tạo hình được sử dụng để miêu tả không khí của cảnh cho chữ : bóng tối phòng giam, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tấm lụa bạch còn nguyên… Có sự đối lập tương phản giữa sự cho chữ và hoàn cảnh cho chữ. Đó là sự đối lập giữa công việc tạo ra cái đẹp “nói lên hoài bão tung hoành của một đời người” với chốn ngục tù hôi hám, bẩn thỉu, nơi giam cầm cùm trói tự do. Sự sự đối lập phong thái của người cho chữ với tư  của kẻ nhận chữ cũng góp phần không nhỏ vào việc khắc họa hình tượng nhân vật.

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân - Bài mẫu số 13


Chữ người tử tù là tác phẩm ca ngợi sự chiến thắng của khí phách, tài hoa và nhân cách đối với cái xấu xa, thấp hèn, là bài ca đầy cảm hứng động viên con người gắng gìn giữ “thiên lương” dù trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc đời.

Nói đến những sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, người ta nghĩ ngay tới “Vang bóng một thời”, trong đó truyện ngắn “Chữ người tử tù” từng được đánh giá là tác phẩm hay nhất của một nghệ sĩ tài hoa có phong cách độc đáo. Cái phong cách độc đáo ấy được gửi gắm trong nhiều hình tượng mà nổi bật nhất đó là nhân vật Huấn Cao – một con người có khí phách ngang tang, bất khuất, có tài hoa và phẩm chất thiên lương trong sang. 

Điểm nổi bật ở Huấn Cao đó là một con người mang vẻ đẹp của khí phách, tư thế hiên ngang. Vẻ đẹp ấy được bộc lộ ở lòng tự trọng sống hiên ngang, không khom lưng uốn gối. Là một con người cương trực, thẳng thắn và sống trong sang vô ngần, luôn gạt mọi quyền chức danh lợi sang một bên: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đó là một câu nói thể hiện một tư thế sống đẹp của Huấn Cao, rất có “thiên lương”. Sống trong một xã hội dơ bẩn nhưng tâm hồn của Huấn Cao vẫn ánh lên những tia sáng của sự trong sạch, ấy là điều đáng quý, đáng trân trọng, khâm phục. Tác giả đã rất khéo léo, khách quan khi để cho hình tượng Huấn Cao hiện lên với tư thế hiên ngang, bất khuất qua suy nghĩ của viên quản ngục: “Viên quản ngục không lấy làm oán thù thái độ khinh bạc của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Huấn Cao, một con người đang trong tâm thế bị động, bị tù đày, lẽ ra khi được viên quản ngục quan tâm phải lấy đó làm vinh hạnh, làm ân huệ cuộc đời, nhưng vốn ông là người ngay thẳng, chính trực nên đã tỏ thái độ rất lạnh lùng, khinh bạc đối với viên quản ngục. Huấn Cao chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ nhờ vả người quản ngục của mình. Trong hoàn cảnh éo le như thế, mạng sống đã bắt đầu không giữ nổi mà người tử tù vẫn giữ được thế đứng vững vàng, thật đáng phục biết bao. Đó là một nhân cách sáng lên giữa cảnh tăm tối của nhà tù, của xã hội lúc bấy giờ. Khi chí lớn không thực hiện được, Huấn Cao không hề có một chút run sợ trước thảm cảnh tương lai, tương lai đang đón đợi ông bằng cái chết. Nói về cái chết, Huấn Cao dửng dưng và coi thường mọi gian khổ, tư thế của ông đúng là tư thế người chiến sĩ: “Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa.” Chết chém mà không sợ thì còn sợ cái gì nữa đây? Có lẽ cái làm Huấn Cao sợ đó chính là sự phi lí của xã hội, sự dơ bẩn, xảo trá, đảo điên của thời đại !

Bên cạnh tư thế đĩnh đạc ông còn có những suy nghĩ , hành vi thật phóng khoáng. Ông không cố chấp, không gò bó bản thân mình, tuy vẫn kiêu bạc với viên quản ngục nhưng mỗi lần được ưu đãi ăn uống thì “ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt” , “coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm”. Ở trong ngục, khi đối diện với cái chết thì người ta thường lo đứng lo ngồi, ăn không ngon miệng, ngủ chẳng đủ giấc, nhưng riêng với Huấn Cao vẫn cứ “rượu thịt” như thường, thể hiện một tâm thế ung dung, đứng ở tư thế chủ động để đón đợi mọi tình huống trong tương lai, cho dù đó là cái chết đi chăng nữa.

Huấn Cao đã rất băn khoăn trước sự biệt đãi của viên quản ngục. Thực tình, ông không hiểu vì sao con người ấy không những đối đãi tử tế với một mình ông mà còn với năm người tử tù cùng đi với ông nữa. Cho dù vậy, thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục vẫn vô cùng ngạo nghễ, khinh bạc. Khi quản ngục lo ấu, khép nép hỏi Huấn Cao có cần gì thêm nữa không để quản ngục cố gắng chu toàn, Huấn Cao đã lạnh lung nói một câu như tát nước vào mặt “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Điều đó thể hiện thái độ yêu ghét rất rõ ràng của Huấn Cao, dù viên quản ngục có tốt đến mấy nhưng trong mắt Huấn Cao, hắn vẫn là một kẻ cai ngục hèn hạ.

Nghệ thuật chơi chữ, viết chữ vốn là một thú vui tao nhã của người xưa. Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, đẹp đến nỗi nổi tiếng cả tỉnh, và cái danh của ông đã được truyền đi rất xa: “tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, “chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Tuy viết chữ đẹp nổi danh như thế nhưng ông Huấn Cao vẫn rất khiêm tốn, cả một đời mà ông chỉ mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường: “Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Lần cho chữ viên quản ngục như môt ngoại lệ, đó cũng chính là nét bút cuối cùng của Huấn Cao. Huấn Cao cho chữ viên quản ngục đâu phải vì gã đối xủa tử tế với mình mà chính bở Huấn Cao cảm nhận được một sự đồng cảm hài hòa giữa mình với con người đó. Ông cho chữ vì “ta cảm cái tấm lòng biết nhìn liên tài của ngươi”. Có nghĩa Huấn Cao cho chữ viên quản ngục vì hiểu được rằng quản ngục là người có “thiên lương” trong sáng, có con mắt biết nhìn đời, nhìn người đặc biệt là thưởng thức, quý trọng giá trị của cái đẹp. Điều này đã gặp gỡ với tâm hồn, con người của Huấn Cao.

Cái cao đẹp, tài hoa của Huấn Cao được Nguyễn Tuân xây dựng trong một khung cảnh đối lập giữa bóng tối và ánh sáng, cái cao cả và cái thấp hèn. Viết chữ vốn là một việc thanh cao, long trọng với lụa trắng, mực thơm, nét chữ tươi tắn đối lập với cái dơ bẩn, ẩm ướt, đen tối của ngục tù đầy phân chuột, phân gián … Nhưng Huấn Cao vẫn chăm chú viết chữ là một hình tượng mà từ xưa đến nay chưa từng có “Một người tu, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang chậm tô nét chữ trên mảnh lụa trắng tinh căng trên mảnh ván” và “trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một mảnh lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt làm họ dụi mắt lia lịa”. Giữa cái chật chội hôi hám của nhà tù mà những con người có bản chất thiên lương ấy vẫn vượt lên trên tất cả mọi khó khăn để sáng tạo nên cái đẹp đã biểu hiện một ý nghĩa vô cùng sâu sắc: Cái đẹp có thể sản sin từ nơi cái ác hoành hành ngự trị , cái đẹp có thể tồn tại, sản sinh từ một mảnh đất chết. Cái đẹp ấy lại được sinh ra từ bàn tay của một người tử tù lại mang một ý nghĩa nhân văn cao cả: Dù cuộc sống có tàn nhẫn đến đâu thì giá trị nghệ thuật đích thực vẫn tồn tại vì nếu thiếu cái đẹp, cuộc sống sẽ tầm thường biết bao.

Huấn Cao không chỉ là người có khí phách “đội trời đạp đất” mà còn là con người mang nét đẹp tâm hồn tài hoa. Ông không chỉ tu dưỡng mình để trở thành một con người có “thiên lương” trong sáng, bản chất tốt đẹp mà ông còn muốn người khác cũng như vậy, đặc biệt là một người có “thiên lương” như viên quản ngục. “Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về quê nhà mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Chữ “tâm” trong sáng của Huấn Cao trong lời khuyên bảo sau cuối đối với viên quản ngục. Lời khuyên ấy càng làm đẹp thêm hình tượng Huấn Cao – chỉ có con người “thiên lương” mới có tư cách khuyên bảo, nhắn nhủ những điều đầy lương trí ấy. Huấn Cao mong mỏi những điều tốt đẹp cho viên quản ngục, mong muốn viên quản ngục hãy giữ lấy khí tiết và tấm lòng trong sạch ấy, tránh xa nơi nhem nhuốc này. Như vậy, Huấn Cao là người yêu cái đẹp và cảm thong với người biết quý trọng, biết thưởng thức cái đẹp. Ông là người kiêu bạc là thế nhưng lúc hiểu được tấm lòng chân thành của viên quản ngục, ông đã vui vẻ nhận lời cho chữ và tự kết án mình “thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao là người tạo ra cái đẹp, viên quản ngục lại là người biết thưởng thức cái đẹp, như vậy hai tâm hồn đẹp đã gặp nhau và cất lên sự đồng điệu, hòa hợp.

Tác phẩm là câu chuyện về những người vang bóng một thời. Tác giả đã kết hợp hết sức nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ hiện đại và cổ kínhđể tạo được không khí trang trọng trong văn phong. Vận dụng tối đa thủ pháp tương phản, đối lập giữa cái sáng – tối nhằm làm nổi bật cái ác – cái thiện, cái cao cả – cái thấp hèn. Giọng văn chậm rãi, từ tốn, cách đối thoại làm bộc lộ tính cách tâm lý nhân vật một cách sâu sắc.

Chữ người tử từ là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Tuân. Thông qua bút pháp tài tình, điêu luyện, Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xấy dựng các nhân vật của mình, đặc biệt là Huấn Cao. Từ hình tượng ấy, đặt trong hoàn cảnh mất nước lúc ấy thì đó chính là một cách giãy bày cảm động, kín đáo tấm lòng yêu nước sâu sắc của nhà văn.

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân - Bài mẫu số 14

Huấn cao được Nguyễn Tuân xây dựng dựa trên hình tượng Cao Bá Quát, một nhà nho yêu nước đồng thời cũng nổi tiếng về cái tài viết chữ đẹp. Tuy vậy, Huấn Cao luôn là nhân vật đẹp nhất của đời văn Nguyễn Tuân bởi hình tượng nhân vật này là công sức sáng tạo của nhà văn.

Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, có tài viết thư pháp. Người viết chữ đẹp xưa nay đâu có hiếm, nhưng được tôn thờ nhờ tài viết chữ đến mức thần thánh thì hiếm vô cùng. Chữ Huấn Cao quý giá không chỉ vì được "viết rất nhanh và rất đẹp", không chỉ vì "đẹp lắm vuông lắm" mà quan trọng hơn đó là "những nét chữ vuông, tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người". Nguyễn Tuân không tả những nét chữ Huấn Cao mà dùng bút pháp ngợi, chủ yếu miêu tả cái thần thái tỏa ra từ những nét chữ đó. Nhà văn không trực tiếp giới thiệu cái tài đó mà thông qua lời ngợi khen của viên quản ngục và thầy thơ lại: "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm…Có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một vật báu trên đời". Cả đời ông Huấn mới cho chữ có 3 lần cho ba người bạn thân, vậy mà tiếng tăm của ông đã nổi danh khắp cả, đến viên cai ngục của một huyện cũng nghe đến tiếng Huấn Cao như sống động bên tai. Chi tiết Huấn Cao viết chữ rất nhanh mở ra một ông Huấn uyên bác, trí tuệ còn chi tiết viết chữ "rất đẹp" lại cho ta ấn tượng về những nét chữ vừa mềm mại uyển chuyển "như phượng múa rồng bay" lại vừa có cái phóng túng tự do trong hoài bão. Quan trọng hơn, nét chữ đó có khả năng lay động trái tim con người, khiến cho quản ngục tự bao giờ đã có cái mong muốn: "Một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do chính tay ông Huấn Cao viết". Chính cái tài của Huấn Cao đã nuôi dưỡng một ước mơ rất đẹp nơi quản ngục. Như vậy, tài năng của Huấn Cao được đối phương công nhận và ngưỡng mộ, đó là một tài năng chân chính.

Sáng hôm sau, Huấn Cao trực tiếp xuất hiện thông qua một chi tiết "dỗ gông" mặc cho mấy tên lính áp giải, ông Huấn vẫn lạnh lùng thúc mũi gông xuống đất đánh thuỳnh một cái, khiến cho trên nền đá điểm những chấm nâu nhạt của rệp. Huấn Cao đã cho thấy việc gì ông muốn là làm và hoàn toàn có thể làm được, bất chấp nó khó khăn đến đâu và có được phép hay không. Và từ đó, Huấn Cao cứ thế đi đến cuối chuyện, trong tư thế ung dung, đĩnh đạc, đường hoàng.

Trong thời gian ở tù, Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu, thịt coi đó là việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh. Thậm chí, khi quản ngục ngỏ ý muốn biệt đãi ông, Huấn Cao đã trả lời quản ngục bằng những lời "khinh bạc đến điều". Tất cả những chi tiết ấy cho chúng ta thấy Huấn Cao đúng là con người chọc trời khuấy nước và việc vào nhà tù tỉnh Sơn chỉ giống như việc người anh hùng "chạy mỏi chân thì hẵng ở tù" (Phan Bôi Châu). Đặc biệt chỉ ngày mai phải vào kinh lĩnh án tử hình, đêm nay tại trại giam quê hương ông vẫn ung dung cho chữ mà không hề để ý đến cảnh ngộ của bản thân. 

Điểm đặc biệt nhất khiến Huấn Cao trở thành nhân vật đẹp nhất đời văn Nguyễn Tuân chính là: ông là người có "thiên lương" trong sáng, cao đẹp. Điều này thể hiện rõ nét ở phản ứng của ông trước những người xin chữ: "ta không vì vàng ngọc hay quyền thế mà viết chữ bao giờ" vậy nên cả đời Huấn Cao mới cho chữ 3 lần cho 3 người bạn thân của ông mà thôi. Ông Huấn đúng là một người quân tử mà quyền thế không thể khuất phục, giàu sang không thể mua chuộc. Mà để làm được điều đó phải có cái tâm trong sáng, vững vàng, bất biến. Khi Ngục quan bước vào buồng giam, ông đã mắng bằng những lời lẽ kiêu bạc nhưng khi nghe tâm sự và nguyện vọng xin chữ của quản ngục ông vô cùng xúc động. Bởi vậy không đắn đo suy tính, khi đã hiểu tấm lòng quản ngục ông nhận lời ngay: "ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Điều này làm cho hình tượng Huấn Cao trở nên trọn vẹn, hoàn hảo. Một con người cả đời kiêu bạc như ông Huấn, những tưởng không khuất phục một ai, vậy mà lại mềm lòng trước một tấm lòng. 

Sự thống nhất của cái tài, cái tâm khí phách anh hùng ở hình tượng Huấn Cao được hội tụ trong cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm. Không còn hình tượng một người tử tù mà chỉ còn hình tượng Huấn Cao – một người nghệ sĩ đang say xưa trổ tài viết chữ đẹp, đang khai sinh chữ đẹp: "Một người tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ". Không chỉ vậy ông còn để lại cho quản ngục những lời di huấn thiêng về đạo lý làm người: "Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên thay chốn ở đi, ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững rồi ra nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". Cái đẹp của Huấn Cao là cái đẹp tổng hòa của tài năng, nhân cách, khí phách, một cái đẹp đạt đến mức lý tưởng.


Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân - Bài mẫu số 15

Nhà văn Pauxtopki từng khẳng định: “Nhà văn là người dẫn đường đến xứ xở của cái đẹp. Bước vào thế giới văn chương nghệ thuật là bước vào thế giới của cái đẹp”. Tuy nhiên mỗi nhà văn lại có một lí tưởng riêng. Nếu Thạch Lam đưa người đọc đến với thế giới cái đẹp dịu dàng, êm đềm mà u buồn, man mác thì Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ tận hiến suốt đời cho cái đẹp lại dẫn ta đến thế giới thanh cao, sang trọng, lịch lãm mà cổ kính. Trong thế giới nghệ thuật độc đáo ấy của Nguyễn Tuân nổi bật lên hình tường Huấn Cao – nhân vật chính của “Chữ người tử tù”, một nét son chói lọi trong văn nghiệp của Nguyễn Tuân

Là một người nghệ sĩ coi cái đẹp là một tôn giáo, giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, trước Cách mạng, bất mãn xã hội Tây tàu nhặng xị, Nguyễn Tuân trở về quá khúe kiếm tìm, nâng niu nhữnng vẻ đẹp còn vương xót lại. Trong hành trình đi tìm kiếm cái đẹp “Vang bóng một thời”, Nguyễn Tuân chợt phát hiện ra không gì đẹp bằng những con người tài hoa tài tử. Nổi bật trong lớp người tài hoa ấy là danh sĩ Cao Bá Quát, một nhà Nho uyên bác, một nhà thơ lớn của dân tộc, một nhà thư Pháp kiệt xuất. Dựa trên nguyên mẫu về danh sĩ Cao Bá Quát, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên hình tượng Huấn Cao – một nhân vật đẹp và sang nhất trong cuộc đời Nguyễn Tuân. Không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa, tài tử, Huấn Cao còn là một đấng anh hùng. Ở Huấn Cao có sự kết hợp tuyệt vời giữa vẻ đẹp của tâm hồn nghệ sĩ và khí phách của trang anh hùng hào kiệt.

Nghệ thuật thư pháp là một bộ môn nghệ thuật cổ xưa. Một nghệ sĩ thư pháp đòi hỏi một tay bút tài hoa điêu luyện, với những nét chữ rồng bay phượng múa, một học vấn uyên thâm, một cốt cách thanh cao. Với những đòi hỏi khắt khe như thế, thật ít nghệ sĩ dám theo đuổi bộ môn nghệ thuật thư pháp cao siêu. Thế mà Huấn Cao dám dấn thâm và tận hiến đời mình cho nghệ thuật thư pháp và trở thành người nghệ sĩ tài hoa tột bậc. Huấn Cao có tài viết chữ nhanh, đẹp, vuông. Hơn thế nữa, mỗi con chứa đựng cả hoài bão khát vọng của người nghệ sĩ. Danh tiếng của Huấn Cao lan truyền đến chốn ngục tù khiến cho những kẻ suốt đời tưởng chỉ biết đến đòn roi đánh đập, hành hạ, tra tấn cũng phải ngưỡng mộ. Đặc biệt đối với quản ngục. Ngay từ nghi đọc vỡ sách thánh hiền, ngục quan đã ấp ủ được treo ở nhà riêng đôi câu đối do tay Huấn Cao viết. Vì ngưỡng mộ tài năng, sùng kính nhân cách của ông Huấn, quản ngụ đã có lối ứng xủa lạ lùng chưa từng thấy đối với kẻ từ tù. Không chỉ tỏ thái độ kiêng nể kính trọng, ngục quan còn sẵn sàng hi sinh tất cả những gì vốn được coi là quý báu. Có được chữ của ông Huấn, quản ngụ vô cùng hạnh phúc, cảm động cung kính vái lạy người tử tù trong dòng nước mắt ngọt ngào “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Vẫn biết những tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn có khả năng thanh lọc tâm hồn, cảm hóa con người nhưng thực sự hiếm có tác phẩm nào có sức cảm hóa mạnh mẽ diệu kì, lạ lùng chưa từng thấy như những con chữ viết của Huấn Cao.

Là người nghệ sĩ tài hoa tột bậc, đồng thời Huấn Cao còn là người anh hùng có khí phách phi thường. Nếu vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ Huấn Cao được miêu tả gián tiếp thì khí phách hiên ngang bất khuất được miêu tả trực tiếp qua hành động, ngôn ngữ. Là một nhà Nho có chí khí, Huấn Cao không chấp nhận cảnh sống cá chậu chim lồng, nhắm mắt làm ngơ trước cảnh đời thối nát để mong vinh thân phì gia. Vì sự công bằng của xã hội, hạnh phúc dân lành, Huấn Cao nổi dậy chống lại triều đình. Sự nghiệp anh hùng không thành, Huấn Cao bị khép vào án tử hình. Trước cái chết cận kề, Huấn Cao không hề hối tiếc hay lo lắng, sợ hãi. Trái lại, Huấn Cao luôn tỏ rõ dũng khí hiên nganh, bất khuất. Bẻ khóa vượt ngục đã trở thành tài của Huấn Cao khiến quản ngục và thầy thơ lại thán phục. Bất cứ lời nói hành động nào của Huấn Cao dường như cũng toát lên khí phách hiên ngang, bất khuất của vị đại trượng phu. Tuy nhiên, nếu phải chọn một hành động điển hình cho khí phách ấy, nhiều người chọn hành động dỗ gông lúc nhập ngục. Đối mặt với bọn tiêu lại giữ tù, cai tù hống hách, bạo ngược, Huấn Cao không hêd khúm núm, sợ sệt như những tù nhân khác. Hành động của Huấn Cao có khác nào một cái tát khinh bỉ vào mặt bọn cai tù cặn bã. Dõi theo hành động, thái độ của Huấn Cao trong nhà giam những ngày cuối cùng, người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Chẳng những Huấn Cao thản nhiên nhận rượu thịt – quà biếu của quản ngục coi đó là việc vẫn là trong hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Trước cường quyền không lùi bước, trước cái chết không chịu khuất phục, đó là khí phách anh hùng Huấn Cao. Khi thầy thơ lại ngập ngừn báo tin cho ông biết sáng sớm mai ông phải về kinh lãnh án tử hình, không một phút lo âu, không một giây sợ hãi, Huấn Cao đón nhận cái chết bằng nụ cười. Đó là nụ cười ngông ngạo của người sẵn lòng tin “giữ trinh bạch linh hồn trong bụ bẩn”. Không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa, Huấn Cao đúng là trang anh hùng có khí phách phi thường

Nhà văn vĩ đại V.Hugo đã từng nói: “ Trước bộ óc vĩ đại ta phải cúi đầu nhưng trước trái tim vĩ đại ta phải quỳ gối”. Học theo tư tưởng của văn hòa Hugo, trước hình tượng Huấn Cao, mỗi người đọc chúng ta ắt phải cúi đầu và quỳ gối. Bởi Huấn Cao không chỉ là một nghệ sĩ tài năng siê biệt, một đấng anh hùng có khí phách phi thường mà ông còn là hiện thiên của nhân cách cao đẹp, thiên lương trong sáng vô ngần. Là một người nghệ sĩ thư pháp tài hoa tột bậc, những con chữ của Huấn Cao là một vật báu đối với bao người. Cả đời, Huấn Cao mới tặng chữ cho ba người. Không mềm lòng trước tiền bạc, quyền uy, trước sau Huấn Cao chỉ trân trọng tình tri âm, tri kỉ. Đến khi hiểu được ước nguyện của quản ngục, Huấn Cao chẳng những cho chữ mà còn mỉm cười mãn nguyện. Quả thật, không hạnh phúc sao được khi giữa thế giới ngục tù, tối tăm, bẩn thỉu ta lại bắt gặp một tấm lòng trong sáng, biết trọng người ngay, biết kính mến khí phách và tài năng. Tuy sẵn lòng cho chữ quản ngục nhưng Huấn Cao vẫn day dứt “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Ở trên đời này, khi mắc lỗi, hầu hết con người ta tìm cách trốn tránh và đổi lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh thế nên hành động ăn năn, hối hận là rất đáng quý chỉ có ở những nhân cách tử tế. Lại day dứt ân hận trước những sai lầm suýt mắc phải, những sai lầm chỉ mình mình biết, mình mình hay, chỉ có ở những nhân cách cao đẹp mới như vậy.

Kết lại truyện “Chữ người tử tù” là cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Không chỉ vậy, nó còn là bệ phóng hoàn hảo làm nổi hình nổi bật các nhân vật và nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Đặc biệt ở cảnh cho chữ, ta thấy tài năng và khí phách của Huấn Cao. Vậy là, bằng tài năng bà tâm huyết, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao, sự hiện thân cho cái đẹp kì diệu cùng hình tượng quản ngục và cảnh cho chữ. Không chỉ “Vang bóng một thời”, mà “Chữ người tử tù” sẽ neo đạu mãi trong tâm hồn người đọc như một dấu son không bao giờ phai.

Phân tích cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” 14 

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho hiếu học, Nguyễn Tuân đã dành cả cuộc đời mình để săn tìm cái đẹp hướng đến chân – thiện – mỹ. Không thể phủ định được những đóng góp lớn lao của ông cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm “Chữ người tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời” là truyện ngắn đặc sắc đánh dấu tài năng nghệ thuật của Huấn Cao trước cách mạng tháng Tám và được coi là một tác phẩm gần như đạt đến độ hoàn mĩ. Ở cuối tác phẩm, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung miêu tả, tô đậm vẻ đẹp của người anh hùng Huấn Cao, qua chi tiết đó tác giả muốn khẳng định sự chiến thắng của thiên lương. Có thể nói đây cảnh tượng đắt giá nhất xưa nay chưa từng có.

Chúng ta có thể thấy, từ xưa tới nay chơi chữ là thú vui tao nhã, thanh cao của những người có học thức, các sĩ tử,... Các câu đối, châm ngôn cuộc sống, bài thơ nổi tiếng được những người nghệ sĩ thư pháp uyển chuyển viết lên giấy giúp cho tâm hồn của con người được thư thái. Chơi chữ chính là nói lên cái đẹp, tài năng và trí tuệ của con người. Chúng ta sẽ thường bắt gặp cảnh cho chữ được diễn ra ở những nơi trang trọng, có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc, rồi từ đó có những nét chữ uyển chuyển trong đó có cả cái hồn riêng được ra đời. Nhưng với sự sáng tạo của Nguyễn Tuân thì cảnh cho chữ là một cảnh tượng hết sức lạ lùng, vượt ra khỏi những chuẩn mực xã hội xưa cũ và cho đến bây giờ chúng ta vẫn gọi đó là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nhưng chính chi tiết lạ lùng ấy đã làm cho giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm được nâng lên, từ đó tạo nên sức lôi cuốn và hấp dẫn cho bạn đọc.

Không gian và thời gian trong cảnh cho chữ được tác giả miêu tả rất sinh động và chân thực. Vào một đêm khuya vắng lặng, khi bóng tối đã bao trùm và thống trị nơi đây. Cùng với tiếng gõ mõ vọng cạnh, nhà tù đã hiện lên một cách chật hẹp, tù túng, ẩm thấp, mệt mỏi và những tiếng thở dài bất lực trước xã hội đương thời. Một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác giờ đây lại bị giam trong nhà tù tăm tối, thế nhưng tại chính nơi hạ đẳng, tăm tối đó lại xảy ra một cảnh tượng làm rung động trái tim của những con người tài hoa chân chính.

Một không gian tăm tối không thể thấy ánh mặt trời dù là ngày hay đêm, trong khung cảnh như vậy có ba người “đang chăm chú trên một tấm bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Ngay lúc này buồng gian ngập tràn “khói tỏa như đám cháy nhà”, “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu”, họ đang chăm chú với niềm hạnh phúc dâng trào để tạo nên một tác phẩm hoàn mỹ. Sự đối lập về vị thế giữa Huấn Cao – người cho chữ và người nhận chữ - viên quản ngục, tác giả đã khắc họa sắc nét, sinh động từng hành động, cử chỉ và thái độ của 2 nhân vật này. Chỉ qua một chi tiết nhỏ này thôi tác giả đã bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của con người nơi tăm tối.  

Có lẽ vì đứng trước cái đẹp nên những cảnh tượng xung quanh đang diễn ra bỗng nhiên như chậm lại, khiến cho trái tim con người rung động, như có một thứ gì đó bóp nghẹt, không ai nói với nhau câu nào nhưng vẫn đủ để cảm nhận được niềm hạnh phúc, vui sướng đang tuôn trào trong lồng ngực của mỗi con người yêu cái đẹp nơi tù túng này. Ta có thể thấy lạ, là một viên quản ngục “quyền cao chức trọng” nhưng lại cúi đầu trước một người tù, thực chất viên quản ngục đang cúi đầu trước cái vẻ đẹp tài hoa và người tử tù có tấm lòng thiên lương trong sáng. Khi nét chữ cuối cùng đã viết xong Huấn Cao thở dài buồn bã, ông khuyên viên quản ngục nên đổi nghề và đổi chỗ ở để có thể giữ cho thiên lương trong sáng, thức tỉnh và cứu rỗi tâm hồn viên quản ngục đang bị tha hóa, rối ren, rơi vào nơi vấy bẩn của xã hội. Trước những lời khuyên đó, viên quản ngục đã xúc động, cảm kích và kính trọng Huấn Cao, những giọt nước mắt lăn dài trên má ông chính là những giọt nước mắt thể hiện sự tiếc thương cho số phận người anh hùng đầy khí phách Huấn Cao.

Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, tác giả Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của cái đẹp thiên lương, ở bất cứ đâu, cho dù là nơi tối tăm nhất thì cái đẹp vẫn tồn tại, thậm chí là tồn tại không đơn độc. Nó như một sức mạnh vô hình chỉ đường dẫn lối cho những người tốt có tấm lòng nhân hậu đang bị lạc nơi bóng tối bao trùm và tội ác hoành hành trở về đúng con đường chân chính, tươi đẹp. Người đọc có thể cảm nhận được rằng tác giả là người giàu kiến thức, có sức tưởng tượng cô cùng phong phú và độc đáo. Chính vì vậy mà tác giả có thể vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng tối đối lập nhau gay gắt, một bên là màu của khung cảnh tăm tối nơi ngục tù, một bên là ánh sáng chói lóa của nét đẹp hoàn mỹ.

Kết tinh bởi tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo Nguyễn Tuân đã biến cảnh cho chữ thành cảnh tượng chưa nay chưa từng có. Tác phẩm đã thể hiện sự tiếc nuối của chính tác giả và người đọc trước số phận của những con người yêu cái đẹp, luôn hướng đến cái chân – thiện – mỹ. Xen vào đó, tác giả đã khéo léo bày tỏ tấm lòng của mình một cách kín đáo, tiếc thương trước số phận người anh hùng nhân hậu, khí phách và có nhân cách cao thượng.

Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” 15

Khi nhắc đến lối văn chương hướng đến cái đẹp chân chính, người ta nghĩ ngay đến người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân, dành cả cuộc đời để tìm kiếm cái đẹp. Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân nói chung và tác phẩm “Chữ người tử tù” nói riêng, tác giả đã miêu tả nhân vật của mình như một người nghệ sĩ đầy tài năng.Bên cạnh đó, nhà văn còn khéo léo sáng tạo lên một cảnh tượng vô cùng độc đáo, cảnh tượng xưa nay chưa từng có đó là “cảnh cho chữ” – đây là chi tiết được đánh giá là xuất sắc nhất của thiên truyện.

Tác phẩm lúc đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng” sau đó được đổi thành “Chữ người tử tù”. Nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã đánh giá “đây là một văn phẩm đạt gần tới sự hoàn mỹ”. Nhân vật chính trong truyện ngắn này chính là Huấn Cao – một con người văn võ song toàn, một người anh hùng có tấm lòng nhân hậu và thiên lương trong sáng. Huấn Cao có tiếng là người có tài viết chữ nhanh và đẹp, những người biết chơi chữ thời bấy giờ ai cũng mong muốn có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà. Nghệ thuật thư pháp và tài hoa uyên bác chính là 2 phẩm chất cao thượng tồn tại trong con người Huấn Cao. Văn hóa, quan niệm về nhân thế được ẩn chứa trong từng nét chữ của ông, người ta treo chữ của ông trong nhà không chỉ là để ngắm và thưởng thức cái đẹp mà còn để suy ngẫm về những tư tưởng sâu sắc. Nhưng không phải ai cũng có thể có được chữ Huấn Cao, ông chỉ cho những người thân tri kỉ, chính vì vậy có được chữ của Huấn Cao treo trong nhà người ta coi đó là báu vật. Huấn Cao không chỉ nổi tiếng là người viết chữ đẹp, có tài về nghệ thuật mà ông còn là người có thiên lương. Ông không phải là người vì tiền bạc, vì quyền uy mà ép mình làm những điều trái với lương tâm, trái với luân thường đạo lý.

Ngay cả khi bước vào tù lao, phải vác trên vai cái gông lớn bằng gỗ lim, ông không những không run sợ mà trước lời quát nạt của tên lính áp giải mà vẫn lạnh lùng “thúc mạnh đầu thang gỗ gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Khi bị giam trong nhà lao, ngày ngày viên quản ngục sai người đưa rượu thịt vào, ông thản nhiên đón nhận và coi đó là “hứng sinh bình”, thậm chí ông còn coi khinh viên quản ngục, ông không muốn viên quản ngục bước chân vào phòng giam của mình thêm một lần nào nữa.  

Một người ngang tàn, có tài năng nghệ thuật, vị anh hùng khí phách rất ít khi cho ai chữ của mình. Thế nhưng khi hiểu ra được tấm lòng của viên quản ngục, biết ông bất chấp cả tính mạng của mình vì cái đẹp, vì thú vui cao quý, Huấn Cao đã có sự thay đổi định kiến của mình về viên quản ngục, ân hận về việc thiếu chút nữa đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ và quyết định tặng chữ cho viên quản ngục. Chính lúc này, trong không gian của nhà tù chật chội, tăm tối, bên cạnh thứ ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tỏa sáng cả buồng giam chật hẹp ẩm thấp hôi hám đầy mùi phân gián, phân chuột hôi hám thì thiên lương của ông được tỏa sáng, cũng ngay chính lúc này cái đẹp chính thức lên ngôi. Hằng ngày viên quản ngục khét tiếng tàn bạo giờ lại khúm núm, cúi đầu. Còn kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” bị giam hãm về thể xác nhưng nhân cách ông lại tự do khác hẳn với kẻ tự do về thể xác nhưng lại bị trói buộc về tâm hồn tại nơi ngục tù tăm tối, nơi cái ác thống trị.  

Từng nét chữ vừa đẹp vừa uyển chuyển của Huấn Cao dần xuất hiện trên tấm lụa trắng. Chính nơi đầy tăm tối và tội ác bao trùm này đã cái đẹp đã nảy sinh và lên ngôi. Ngay sau khi cho chữ xong Huấn Cao còn cho viên quản ngục lời khuyên nên đổi nghề, đổi chỗ ở để có thể giữ cho thiên lương trong sáng bền vững. Chính cái thiên lương cao đẹp của Huấn Cao đã làm sáng bừng cả thiên lương ẩn dấu sâu bên trong con người viên quản ngục. Hành động của viên quản ngục “vái” Huấn Cao nó thể hiện sự kính trọng, biết ơn và những giọt nước mắt của viên quản ngục xót thương cho số phận người anh hùng Huấn Cao. Cảnh cho chữ không diễn ra ở nơi trăng hoa tuyết nguyệt mà nó lại diễn ra ngay trong ngục tù tăm tối nơi cái ác và bóng tối bao trùm, nơi mà cái ác ngự trị cũng chính là nơi cái đẹp lại “khai sinh”. Nguyễn Tuân đã xây dựng nhân vật Huấn Cao đại diện cho vẻ đẹp hoàn mỹ, và những tư tưởng đẹp đẽ của ông sẽ mãi ở lại với đời và sẽ theo viên quản ngục trong suốt cuộc đời còn lại.

Qua tác phẩm, tác giả không chỉ muốn phê phán đúng thực trạng xã hội đương thời mà còn thể hiện sự khác lạ của tình huống truyện. Hai con người hoàn toàn đối lập nhau nhưng số phận lại đưa hai con người này đến với nhau và trở thành tri kỉ. Một người là viên quản ngục – công cụ trấn áp kẻ tù tội phục vụ triều đình, còn Huấn Cao lại là người chống đối lại triều đình. Để có thể đưa tác phẩm đi đến thành công tác giả đã kết hợp nghệ thuật đối lập tương phản, kết hợp hài hòa giữa bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn. Không gian ẩm thấp nơi buồng giam, ánh sáng ngọn đuốc như ánh sáng của thiên lương, của tài năng, khí phách, bóng tối của màn đêm bao trùm của ngục tù chính là hiện thân của cái ác đối lập với ánh sáng của ngọn đuốc đại diện cho ánh sáng tài năng đã được tác giả miêu tả một cách sinh động và chân thực.

Có thể nói thành công trong nghệ thuật là nhờ tác giả đã dồn hết tài năng và tâm huyết, ông luôn hướng tới cái đẹp, cái chân - thiện – mỹ, cái phi thường, lý tưởng, cái đẹp phải tuyệt mỹ, đã tài là phải siêu phàm. Chính những điều này đã làm nên giá trị đặc sắc cho tác phẩm “Chữ người tử tù” để rồi đến tận bây giờ người ta vẫn gọi cảnh cho chữ trong tác phẩm là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. 

Phân tích nhân vật Huấn Cao 16

Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm kiếm cái đẹp, cái đẹp tỏa ra từ những con người, những sự vật, sự việc tưởng chừng như hết sức bình thường. Nguyễn Tuân trong tập “Vang bóng một thời” đã khắc họa thành công những nhân vật điển hình, tài hoa như thế, tiêu biểu là nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”.

Trong truyện “Chữ người tử tù”, có ba nhân vật được nhắc đến đó là Huấn Cao, nhân vật viên quản ngục, thầy thơ lại, Nguyễn Tuân đã tập trung khắc họa nhân vật Huấn Cao ở ba đặc điểm, là một người nghệ sĩ tài hoa, một người có khí phách hiên ngang và một tâm hồn thiện lương. Huấn Cao là một nhân vật điển hình cho cái đẹp, được Nguyễn Tuân chú trọng xây dựng và để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

Trước tiên, ta thấy Huấn Cao là một người có tài, một người nghệ sĩ không những giỏi thư pháp mà còn hiểu biết về võ thuật và có tài bẻ khóa. Tài năng của ông được giới thiệu trước khi ông xuất hiện, đã được biết đến khắp vùng với “tài viết chữ nhanh và rất đẹp”. Tài năng ấy chính là lý do khiến người quản ngục sùng kính Huấn Cao ngay từ khi chưa gặp mặt “Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm, có được chữ ông Huấn mà treo là một vật báu trên đời.

Không chỉ có tài viết chữ mà Huấn Cao còn là người kẻ sĩ dám xả thân vì nghĩa lớn. Ông là người đứng đầu đứng về phía nhân dân chống lại triều đình, ông được xem là người “chọc trời khuấy nước”, coi thường cường quyền bạo lực, dường như chẳng biết ai trên đời nữa. Trong con mắt của thầy thơ lại Huấn Cao là một người toàn tài đến nỗi thầy thơ lại phải thốt lên “văn võ toàn tài cả, chà chà”.

Toàn tài như vậy, Huấn Cao trong miêu tả của Nguyễn Tuân còn là một người có khí phách hiên ngang, ông có tài và biết trọng cái tài của mình. Được nhiều người mến mộ bởi nét chữ đẹp nhưng không phải ai Huấn Cao cũng cho chữ, ông chỉ viết chữ tặng cho những người bạn tri âm tri kỷ mà ông trân quý. Chính vì vậy mà cả cuộc đời ông chỉ có một bức hoành phi và ba bức bình phong. 

Huấn Cao luôn biết trọng cái tài, ông tự biết “chữ thì quý thật” nhưng không bao giờ “vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình bao giờ”. Bởi vậy mà đã từ lâu, có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà đã trở thành sở nguyện của viên quản ngục.

Khí phách hiên ngang của ông còn được thể hiện ở phong thái khi ông bước vào nhà giam. Là một người bị cầm tù, chịu sự cai quản của cai ngục, dưới chế độ nhà tù, nhưng thái độ của Huấn Cao rất điềm nhiên, không đếm xỉa đến ai, coi như trốn không người mà “khom mình, chúc mũi gông nặng, thúc mạnh vào đầu thanh gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Bị nhốt giam trong ngục tối nhưng thái độ của ông vẫn rát thản nhiên, vẫn làm những việc như lúc bình sinh thường làm, vẫn thản nhiên nhận rượu thịt như không hề cảm thấy đó là sự đối đãi đặc biệt.

Trước cường quyền bạo lực, ông cũng không hề e sợ, khi được viên quản ngục hỏi lễ phép có cần gì nữa không thì Huấn Cao trả lời rất thản nhiên như một lời tuyên bố “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây nữa”. Phàm là người quân tử, thường có ba cái “không” là “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất nang di, uy vũ bất nang khuất” (Giàu sang không phóng đãng, nghèo hèn không dối lòng, vũ lực không khuất phục), Huấn Cao chính là người quân tử “uy vũ bất nang khuất”.

Nét đẹp tâm hồn thứ ba mà Nguyễn Tuân khắc họa ở nhân vật Huấn Cao chính là vẻ đẹp của sự thiện lương. Huấn Cao không những nhận thấy và trân trọng tài năng của mình mà còn biết trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của người khác. Tấm thiên lương trong sáng của ông có sức cứu rỗi những tâm hồn khác, mà ở trong tác phẩm đó chính là nhân vật quản ngục.

Từ khi biết được tấm chân tình của quản ngục, ông Huấn đã thay đổi hẳn thái độ, xem trọng tấm chân tình mà quản ngục dành cho mình. Trước đó, ông khinh bỉ quản ngục bao nhiêu, xem thường bao nhiêu thì sau khi nghe thầy thơ lại kể những tâm tình của quản ngục thì Huấn Cao coi như đã hiểu “sở nguyện cao đẹp” của ông: “nào ta có biết, người như thầy quản đây lại có sở nguyện cao đẹp đến thế. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao đã xem quản ngục như là “một tấm lòng trong thiên hạ”, từ đây hai người đã thấu hiểu nhau, trở thành những người tri kỷ.

Tất cả vẻ đẹp tâm hồn, khí phách của Huấn Cao dường như được quy tụ lại trong cảnh cho chữ. Đây là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”, chưa từng có bởi vì người cho chữ là người tử tù mai ra pháp trường chịu án chém, người xin chữ là người quản ngục, đại diện cho tầng lớp thống trị, “chưa từng có” bởi trước ngày chịu án tử mà ở con người ấy vẫn ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách, vẫn thản nhiên tặng chữ.

Nét chữ trong tờ giấy trắng như tấm lụa bạch vuông vắn, tươi tắn, thể hiện cái ý chí “tung hoành của cả một đời người”. Cảnh cho chữ dường như đối lập hoàn toàn với khung cảnh đen tối, u ám, bẩn thỉu nơi phòng giam đầy những màng nhện, tổ rệp, phân gián, phân chuột. Hình ảnh người tù “dậm tô nét chữ” trong nhà lao, đang đeo gông cùm, chân vướng xiềng xích chính là nét đẹp của người nghệ sĩ chân chính trong cảnh ngục tù. Mọi sự thăng hoa dường như đều được nén lại để quy tụ lại trong cảnh cho chữ ấy.

Vẻ đẹp tâm hồn của Huấn Cao còn thể hiện ở lời khuyên cuối cùng mà ông dành cho người quản ngục, trước tiên là phải thay chốn ở, nơi làm việc bởi ông Huấn hiểu được không gian sống có thể tác động đến nhân cách của một con người như thế nào. Ông đưa ra lời khuyên chân thành, trước khi ra pháp trường chịu án tử, ông vẫn kịp cứu rỗi một tâm hồn thiện lương nhưng phải sống trong môi trường có thể khiến con người ta thay đổi nhân tính “ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời người”, ông càng hiểu rõ “ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. 

Với nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặt nhân vật vào những tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật đối lập, miêu tả nhân vật giàu chất tạo hình, Nguyễn Tuân đã thành công trong việc khắc họa nét đẹp tài hoa, khí phách, thiên lương trong sáng của người tử tù Huấn Cao. Vẻ đẹp hài hòa, tài hoa ấy sẽ còn sáng mãi trong những trang văn của Nguyễn Tuân- người tự nhận là người suốt đời đi tìm kiếm cái đẹp, cho đến mãi về sau.  

Phân tích nhân vật người quản ngục 17

“Chữ người tử tù” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân, thể hiện tài hoa của người nghệ sĩ suốt đời đi tìm kiếm cái đẹp. Nguyễn Tuân không chỉ khắc họa thành công nhân vật Huấn Cao mà còn gây ấn tượng với người đọc bởi hình tượng người quản ngục. Người quản ngục sống trong môi trường đen tối nhưng lại ngời sáng những nét đẹp nhân cách mà phải là người có con mắt tinh tế, trân trọng vẻ đẹp con người thì Nguyễn Tuân mới có thể xây dựng nhân vật thành công đến vậy.

Nhân vật quản ngục giữ vai trò canh giữ tù nhân, chính bởi công việc ấy mà ông có cơ hội để gặp mặt Huấn Cao_một người tài hoa, khí phách hơn người, mặc dù hoàn cảnh gặp gỡ có phần khác người và còn éo le, bởi một người là người canh ngục, một người là tử tù phải chịu án chém. Tuy nhiên, nhân vật quản ngục trong tác phẩm của Nguyễn Tuân khác những người quản ngục khác ở chỗ, ông không hề coi Huấn Cao là tử tù, mà ông luôn bày tỏ một thái độ trân trọng, kính trọng người tù.

Đó chính là tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” của người quản ngục, coi trọng cái tài, người tài và biết nhìn thấy cái đẹp đang hiện hữu. Ngay từ khi Huấn Cao chưa được chuyển vào ngục, ông đã mong chờ bởi nghe danh ông Huấn đã lâu, nổi tiếng với tài “viết chữ nhanh và đẹp”, lại còn là người biết đánh võ, biết bẻ khóa vượt ngục. Đáng ra người quản ngục nên coi đó là một mối nguy hiểm, nhưng thái độ của ông lại thể hiện rõ sự kính trọng.

Khi Huấn Cao đến nhà giam, thái độ của ông khác hẳn với cách ông đối đãi với những người tử tù khác, đến nỗi mà bọn lính canh còn phải ngạc nhiên vì ông rất khác ngày thường. Người quản ngục không hề đánh đập Huấn Cao mà còn dũng cảm đối đãi đặc biệt với ông, ngày nào cũng sai người mang rượu thịt vào. Ông còn cho người vào dọn qua phòng giam để Huấn Cao có một phòng giam tốt nhất, điều mà trước đó ông chưa bao giờ làm, ông cũng tỏ rõ mong muốn của mình “ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại”

Khi nhận thấy thái độ, khinh bỉ, tức giận của Huấn Cao, người quản ngục vẫn không hề thay đổi thái độ, bởi ông hiểu, một người như ông Huấn có thái độ như vậy với ông cũng là điều dễ hiểu. Ông chỉ lặng lẽ lui ra và đi làm công việc của mình. Tất cả những hành động này của người quản ngục càng tỏ rõ ông là người biết coi trọng người tài, có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.

Không chỉ vậy, qua ngòi bút khắc họa và xây dựng nhân vật của Nguyễn Tuân thì ta còn thấy quản ngục là một người biết khát khao và trân trọng cái đẹp. Ông luôn khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, ông khao khát “Chữ ông Huấn đẹp lắm, giá như có chữ của ông Huấn treo trong nhà thì quả là vật báu trên đời”. Chính niềm khao khát ấy đã khiến ông có dũng khí để đối đãi với Huấn Cao một cách đặc biệt, trái với những luật lệ trong nhà tù.

Ông cũng là người hiểu rõ được con người khí phách như Huấn Cao, biết được tính Huấn Cao sẽ không vì danh lợi hay cường quyền mà cho chữ, Huấn Cao chỉ tặng chữ cho những chỗ tri kỉ “trừ những chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Chính vì vậy mà người quản ngục lại càng lo lắng vì nếu không xin được chữ của ông Huấn thì ông ân hận suốt đời mất. Nỗi lo sợ ấy phần nào cũng thể hiện được tấm lòng trân trọng của người quản ngục, vì trân trọng nên mới sợ mất đi, vì trân trọng nên mới sợ không xin được chữ.

Tấm lòng biệt nhỡn liên tài, trân trọng cái đẹp của người quản ngục được thể hiện rõ nét nhất trong cảnh cho chữ. Để xin được chữ của ông Huấn, quản ngục đã phải vất vả lắm, và khi đã được Huấn Cao đồng ý cho chữ, quản ngục càng thêm cẩn trọng. Ông đã chuẩn bị một “tấm lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ”, biểu hiện khi xin chữ “khúm núm, run run” là sự ngưỡng mộ, trân quý từng phút giây cao quý thiêng liêng này.

Ở trong khung cảnh cho chữ, mọi thứ đều đối lập, từ vị trí của người quản ngục và người tử tù, từ người cho chữ và người xin chữ, từ cái bẩn thỉu, đen tối của nhà giam đến màu trắng tinh của tấm lụa, mùi thơm của nghiên mực và ngọn đuốc cháy trong đêm, duy chỉ có một thứ duy nhất đồng điệu ấy chính là tấm lòng trân trọng và ngưỡng vọng cái đẹp của hai con người đã hiểu tấm lòng của nhau. Tâm hồn của người quản ngục được ví như “một thanh âm trong trẻo” nơi ngục tù, Ở đây có một người có tài và một người biết trọng tài, một người có tâm và một người trân trọng tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” ấy, coi như là “một tấm lòng trong thiên hạ”.

Khi nhận được lời khuyên chân thành của Huấn Cao, quản ngục vô cùng cảm tạ và “cúi đầu vái lạy” người tù cùng giọt nước mắt rỉ vào kẽ miệng. Ông đã thoát ra khỏi sự mê muội và thức tỉnh trước cái đẹp. Chính bởi vậy mà phải chăng Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh một ngôi sao sáng trên bầu trời vụt tắt, truyền ánh sáng cho những ngôi sao khác. Người tử tù trước khi ra pháp trường còn kịp thời cứu rỗi một tâm hồn. Đây chính là nét đẹp ngời sáng trong thiên truyện.

Như vậy, với thủ pháp đối lập, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công nhân vật quản ngục với những nét đẹp tâm hồn ngời sáng, luôn vươn tới cái đẹp. Những nhân vật mà Nguyễn Tuân khắc họa trong “Vang bóng một thời” đều là tiếng nói của thiên lương, của tinh thần yêu và trân quý cái đẹp.Vẻ đẹp của nhân vật quản ngục cũng như những giá trị mà “vang bóng một thời” nói chung cũng như “chữ người tử từ nói riêng sẽ còn vang mãi trong lòng người đọc từ nay cho đến mãi về sau. ta sẽ mãi trân trọng cây bút tài hoa và tâm lòng yêu thương, trân trọng con người, luôn khám phá vẻ đẹp tài hoa ở những con người bình dị nhất của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân.

Hy vọng qua những bài văn mẫu phân tích "Chữ người tử tù" trên đây, bạn học sẽ có nguồn tham khảo hữu ích để học môn Ngữ Văn tốt hơn.

Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân 18

Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mĩ là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn tuân phải là hiện thân của cái đẹp.

Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” (1939) trong tập “Vang bóng một thời” là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.

Ông Huấn Cao trong truyện “Chữ người tử tù” là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thày giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.

Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nữa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để “xin chữ” treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.

Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên “đại nghịch” cầm đầu khỏi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hộ họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách hai nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.

Huấn Cao nói: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy”. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: “ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: “thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.

Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng nhứng tấm lòng biết quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được “thiên lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi “ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.

Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bá Quát. “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.

Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng”. Hình ảnh người tử tù trở nên ***g lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.

Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?

Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám.

Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.

Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.

Bên cạnh hình tượng Huấn Cao ***g lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.

“Chữ người tử tù” không còn là “chữ” nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà “những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí “duy mĩ” của Nguyễn Tuân. 

Phân tích những giá trị nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân 19

Thành công đầu tiên và đọc đáo nhất của Chữ người tử tù đó tình huống truyện gây cán, hấp dẫn, bất ngờ. Nguyễn Tuân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo: cuộc gặp gỡ éo le, kì lạ giữa hai nhân vật Huấn Cao với viên quản ngục:

Về không gian: chốn ngục thất mà Huấn Cao là tử tù còn viên quản ngục là người có uy quyền trông coi ngục thất Về thời gian: đêm cuối cùng trước khí Huấn Cao bị chịu án chém. Đó là một cuộc gặp gỡ éo le giữa một tử tù ngang tang, khí phách và có nhân cách cao đẹp lại viết chữ nho rất đẹp với một người coi tù thích chữ đẹp, đặc biệt là chữ của tử tù Huấn Cao.

Trên bình diện xã hội họ gặp nhau trong cảnh ngộ và vị thế đối kháng: Huấn Cao cầm đầu khởi nghĩa chống lại triều đình, bị coi là giặc, bị khép tội đại nghịch và chờ án chém; còn viên quản ngục đang phụng mệnh triều đình, là kẻ đại diện cho bộ máy cai trị của chế độ đó. Nhưng điều kì diệu là 2 kẻ tưởng đối nghịch ấy đã trở thành tri âm, tri kỉ.

Nhưng ở một chiều sâu khác, đây là một cuộc gặp gỡ tất yếu. Ở phương diện nghệ thuật:  Huấn Cao là một tài năng hiếm thấy, “một ngôi sao hôm nhấp nháy, một ngôi sao chính vị” mà tài viết chữ nho có một không hai trên đời “cả vùng tỉnh Sơn ta đều khen”.  Viên quản ngục tuy là người không có tài nhưng lại là người biết quý trọng cái tài, ông coi chữ của Huấn Cao là báu vật mà cả đời khao khát.

Ở phương diện cá nhân con người: Huấn Cao sắp chết chém mà vẫn hiên ngang, cao cả, bất chấp ngục tù và cái chết; còn ngục quan đang phụng mệnh triều đình lại giám biệt đãi tử tù trong nhà ngục. Huấn Cao là một người trọng nghĩa, khinh thường danh lợi, tấm lòng biết gạn đục, khơi trong, đem cái tâm để đãi người biết quý trọng cái đẹp, trọng cái tâm và cái tài; còn viên quản ngục là một tấm lòng trong thiên hạ “một thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật hỗn loạn, xô bồ”.

Như vậy họ đã gặp nhau ở cả nhân cách và khí phách. Nhưng điều quan trọng chính là cái chữ của người tử tù như chất keo kết dính những thứ đó lại với nhau. Chơi chữ hay thư pháp là một nghệ thuật lâu đời. Trong đó vẻ đẹp của họa kết hợp với cái tinh túy của văn tạo nên những bức câu đối, hoành phi, tứ bình vô giá. Người viết chữ và người biết thưởng thức chữ đều là người có tâm hồn thanh cao mới có thể gặp nhau, mới có thể trở thành tri âm, tri kỉ.

Thế nhưng ông trời nhiều lúc chơi ác đem đầy ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã và những con người có tâm tính tốt ngay thẳng lại phải ăn đời, ở kiếp với một lũ quay quắt. Đúng là một tình huống éo le nhưng tất yếu giữa những người thực chất là tri âm, tri kĩ. Cuộc gặp gỡ này là thử thách, làm nổi bật vẻ đẹp các nhân vật, làm cho truyện giầu kịch tính.

Nghệ thuật tạo không khí cổ xưa cho tác phẩm. Những chi tiết về cảnh, người của một thời vang bóng. Sử dụng một loạt từ ngữ Hán-Việt rất đắt như: phiến chat, thầy bát, thầy thơ lại, viên quản ngục, thiên lương, án thư, pháp trường, bộ tứ bình, bức trung đường, bái lĩnh… tạo nên mầu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng.

Sử dụng triệt để thủ pháp tương phản đối lập, cách khắc họa nhân vật theo bút pháp lãng mạn, làm nổi bật gay gắt giữa cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác, lí tưởng và hiện thực.

Cảnh cho chữ là cảnh chói sáng nhất trong tác phẩm. Nó vừa thiêng liêng vừa tràn ngập ánh hào quang của cái đẹp. Cái đẹp tỏa ra từ phẩm chất, khí phách, nhân cách của các nhân vật đặc biệt toát ra từ vẻ đẹp, cái hay của chữ người tử tù Huấn Cao đã tạo thành chất thơ huyền diệu của tác phẩm.

Nguyễn Tuân tài hoa ở cách thức nhìn nhận và phản ánh con người của mình, “ngông” trong lối biểu hiện khác đời khác người. Từ đề tài, nhân vật đến cách thể hiện đều gây bất ngờ, rất độc đáo và giàu sáng tạo. Tử tù đến người người lái đò bình thường bỗng trở thành nghệ sĩ tài hoa.

Nguyễn Tuân rất yêu cái đẹp. Người tủ tù không nhìn nhận ở phương diện tội ác mà nhìn nhận của sự tài hoa. Người lái đò không nhìn nhận ở phương diện nghề nghiệp mà nhìn ở phương diện của một nghệ sĩ, một chiến sĩ. Tất cả đều được nâng lên tới tầm cao nghệ thuật qua ngòi bút Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân đặt nhân vật của mình ở nhiều phương diện khác nhau. Ở phương diện xã hội: Huấn Cao là kẻ tử tù đang đợi ngày ra pháp trường chịu án chem.. Ở phương diện nghệ thuật: Huấn Cao là người nghệ sĩ sáng tao ra cái đẹp. Ở phương diện võ thuật: Huấn Cao là vi tướng tài, có tài bẻ khóa vượt ngục.. Sự đa dạng và phong phú chính là đặc điểm trong phong cách nghệ thuật bởi với ông sự đơn giản và đơn điệu chính là cái chết của nghệ thuật.

Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật. Mà đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo ( Nguyễn Tuân )

Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ thành công hình tượng Huấn Cao – một con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang, bất khuất. Qua đó nhà văn thể hiện quan niệm về cái đẹp khẳng định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nước.

Tác phẩm thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo; trong nghệ thuật dựng cảnh khắc hoạ tính cách nhân vật, tạo không khí cổ kính, trang trọng, trong việc sử dụng thủ pháp đối lập và ngôn ngữ giàu tính tạo hình.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân 20

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ (Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ người tử tù. Nối bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.


Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều biết văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà vàn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Huấn Cao là thế. Từ đầu đến cuối, ông hiện ra như một con người phi thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.

Là nhân vật tài hoa nghệ sĩ, phẩm chất đầu tiên của Huấn Cao là tài hoa. Thiên truyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thơ lại. Ở đây tuy Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài được tô đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó là nghệ thuật thư pháp – một bộ môn nghệ thuật truyền thống và cao siêu của dân tộc. Ở sự gửi gắm, kí thác toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình. Nhưng Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa hơn, ông còn có một tấm lòng – đó là tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người.

Một nhà văn nước ngoài đã nói về chân lí sâu xa. Hãy đập vào trái tim mình thiên tài là ở đó. Thì ra gốc của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của nhân cách Huấn Cao. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường không làm nghề thất đức. Bởi lí Huấn Cao đã thể hiện sự khinh bỉ không cần giấu giếm, đến khi nhận ra viên ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật điều hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao rất ân hận. Bằng tất cả sự xúc động, Huấn Cao đã nói: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi… Thiếu chút nữa ta phụ một tấm lòng trong thiên hạ. Câu nói ấy đã hé mở cho chúng ta thấy phương châm của một nhân cách sống là phải xứng đáng với những tấm lòng.

Cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những hình tượng sao cho hoàn hảo thậm chí đến mức phi thường. Ông Huấn Cao cũng thế. Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng này trở thành một con người siêu phàm với việc tô đậm một khí phách siêu việt. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp không thành, ông lĩnh án tử hình. Nhưng tù đày, gông cùm và cái chết cùng không khuất lạc được ông. Ông luôn tìm thấy ở những nơi mà tự do bị tước bỏ. Đối với Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa. Và khi quản ngục hỏi ông muốn gì để giúp, ông đã trả lời bằng sự khinh bạc đến điều… lời nói của ông có thể là nguyên cớ để ông phải rước lấy những trận trả đũa. Nhưng một khi đã nói nghĩa là ông không hề run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một khí phách kiên cường bất khuất, uy vũ bất năng khuất.

Những phẩm chất tuyệt vời đó của Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng cuối cùng mà Nguyễn Tuân đã gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có – cảnh cho chữ. Cảnh cho chữ là sự biểu hiện sống động rực rỡ của tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn Cao.

Muốn hiểu được giá trị sâu sắc của cảnh cho chữ cho chúng ta không thể không nói tới quá trình dẫn đến cảnh cho chữ ấy. Người tinh ý sẽ dễ nhận thấy rằng câu chuyện có hai phần rõ rệt: Phần đầu giới thiệu các nhân vật và dẫn dắt câu chuyện chuẩn bị cho phần sau. Phần sau khắc họa cảnh cho chữ. Nếu không có phần hai thì phần đầu chỉ là những mẩu vụn vặt, thiếu sức sống. Bởi thế phần hai tuy ngắn nhưng lại là kết tinh của toàn bộ câu chuyện. Và bút lực của Nguyễn Tuân càng dồn vào phần này đậm nhất. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh một tình huống đặc biệt. Đó là cuộc gặp hết sức éo le của Huấn Cao và quản ngục – Nơi gặp gỡ là nhà tù, thời gian là những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao. Những điều này làm cho tình thế trở nên ngặt nghèo, bức xúc, khó xoay sở. Nhưng oái ăm hơn cả vẫn là thân phận của hai nhân vật, về bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch. Một người là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại thể chế đương thời, còn người kia lại là một viên quan đại diện cho chính thể ấy. Nhưng về bình diện nghệ thuật, họ lại là hai người tri âm: Một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại vô cùng ngưỡng mộ cái tài đó. Sự trái ngược này đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc là muốn làm tròn bổn phận cua một viên quan thi phải chà đạp lên tấm lòng tri kỉ hoặc muốn trọn đạo tri kỉ phải phản bội lại chức phận của một viên quan. Quản ngục sẽ hành động như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thì tư tưởng tác phẩm sẽ nghiêng về hướng đó.

Với một tương quan như vậy, quan hệ giữa họ ban đầu rất căng thẳng. Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của ông Huấn Cao nhưng đây là cơ hội cuối cùng. Còn Huấn Cao tuy có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho chữ những ai ông cho là tri kỉ. Vậy muốn có chữ của Huấn Cao thì quản ngục phải được ông thừa nhận là tri kỉ trong vòng mấy ngày tới. Điều đó lại dường như không thể đạt được. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là kẻ tiểu nhân, giữa họ là một vực sâu ngăn cách. Thực ra quản ngục cũng có những ưu thế để đối xử với những người tù thông thường. Đó là ông ta có thừa quyền lực và tiền bạc. Nhưng Huấn Cao không phải hạng tiểu nhân như thế, quyền lực không ép được ông cho chữ, tiền bạc không mua được chữ ông. May thay ở viên quản ngục lại có một tấm lòng trong trẻo – tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Và tấm lòng này đã khiến cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao là cội nguồn dẫn đến cảnh cho chữ.

Vậy là việc Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm thường, không giống việc một kẻ sắp bị tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng mà để Huấn Cao trình diễn tài năng, về bản chất việc cho chữ là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng.

Và cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có. Bởi trước hết lẽ ra nó phải diễn ra ở nơi sang trọng, đàng hoàng thì nó lại diễn ra trong căn buồng giam chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu. Và người đem cho cái đẹp lẽ ra phải thuộc thế giới tự do thì ở đây lại là tử tù sắp bị hành hình. Đặc biệt ở đây diễn ra một sự đổi ngôi xưa nay chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng bị mất hết quyền sống là ông Huấn Cao trở nên đầy quyền uy khi chăm chú tô đậm những nét chữ và cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như một bậc thánh nhân: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Cảnh cho chữ lã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, thiên lương trước cái xấu, cái ác. Trong căn phòng giam ẩm tháp đó, ánh sáng rực rờ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột, phân gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này cái đẹp đang lên ngôi, cái đẹp đang đăng quang, chiến thắng hoàn toàn cái xấu. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẵn dắt quản ngục – một kẻ nhầm đường, lạc lối. Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.

Với nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Đồng thời nhà văn còn sử dụng hệ thống ngôn ngữ cổ: biệt nhỡn liên tài, thiên lương, bái lĩnh, sở nguyện… mang lại cho truyện bầu không khí và nhịp điệu của thời phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của một thời vang bóng.

Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù Của Nguyễn Tuân 21

     Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn , là một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có một vị trí quan trọng và những đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những sánh tác tiêu biểu để lại tiếng vang trong sự nghiệp hành văn của Nguyễn Tuân là truyện ngắn” Chữ người tử tù”. Trong truyện ngắn “ Những người tử tù”, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật đặc sắc đi vào lòng độc giả. Ngoài Huấn Cao – con người tài hoa, khí phách hiên ngang, bất khuất và thiên lương trong sáng thì ta không thể không nhắc đến một nhân vật đặc biệt khác – viên quản ngục.

     Quản ngục: không phải là một anh hùng cao đẹp như Huấn Cao, lại càng không mang dáng vóc, tính cách của một tên đao phủ khát máu, tham lam lợi lộc , vinh hoa , phú quý. Ngục quan có một ngoại hình ưa nhìn dễ nhìn. Đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Bộ mặt tư lự, nhăn nheo, có một đời sống nội tâm sâu sắc, cả nghĩ. Sau khi nhân được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường về chuyện nhận sáu tên tử tù, trong đó có Huấn Cao "người đứng đầu bọn phản nghịch" lại "có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp", ngục quan đăm chiêu "nghĩ ngợi". Hình ảnh ngục quan thao thức giữa đêm khuya khi đĩa dầu sở đã "vợi lần mực dầu", lúc đầu thì "tư hỉ" càng vể khuya thì trên mặt ông "chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ". Việc nhận tù sắp tới đã gây ra nhiêu xao động ghê gớm trong tâm tư vị ngục quan này. Ông là một người từng trải, có tính cách dịu dàng khác hẳn với những kẻ sống bằng tàn nhẫn bằng lừa lọc trong chốn đề lao. Và điều ta thấy rõ ở con người này chính là tâm hồn trong sáng, yêu cái đẹp, trọng người tài.

     Đối đãi với Huấn Cao, quản ngục hết sức tôn trọng kính cẩn, thể hiện rõ thái độ biệt nhỡn nhân tài. Ngày nhận tù nhân , viên quản ngục đã làm trái với phong tục nhận tù mọi ngày,” hôm nay viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới vào bằng cặp mắt hiền lành”. Ngay từ ánh nhìn đầu tiên mà viên quản ngục đã bày tỏ kín đáo tấm chân tình của mình đối với người sáng tạo ra cái đẹp – Huấn Cao. Mặc kệ cho những tên tay sai bên dưới nhắc khéo ngài có phải dùng đến những tiểu sảo trong nhà lao để ép cung , tra tấn thì viên quản ngục vẫn lặng thing làm lơ đi điều đó. Bởi lúc này đây, quản ngục biết mình đã gặp đúng người rồi, người mà từ thủa đọc vỡ nghĩa chữ sách thánh hiền hắn hằng đêm mong có được chữ của người. Suốt nửa tháng ở trong tù, ngày nào Huấn Cao cũng nhận được rượu thịt trước bữa cơm tù thành ra là chuyện lạ nhưng người vẫn cứ điềm nhiên nhận lấy hưởng thụ như thú vui lúc bình sinh chưa bị giam cầm. Và người đứng đằng sau những bữa rượu thịt ngon ấy, không ai khác chính là viên quản ngục sắp xếp đối đãi đặc biệt với Huấn Cao. Rồi đến một hôm quản ngục đích thân xuống hỏi thăm tên tù ngục ta lại càng thêm thấy rõ tấm chân tình của hắn dàng cho Huấn Cao. Thế nhưng trước những lời lẽ kính cẩn , tôn trọng của hắn, Huân Cao lại một mực phũ phàng , coi thường: “ Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây”. Trước tình huống ấy, người nắm quyền uy trong tay rất bình tĩnh. Không nổi trận lôi đình để trả thù. Không giở trò tiểu nhân thị oai. Ngục quan chỉ lui ra lễ phép với một câu: "Xin lĩnh ý", Huấn Cao và năm đồng chí của người vẫn được "biệt đãi", cơm rượu lại có phần "hậu hơn trước". Tại sao ngục quan lại xử sự như thế? về vị thế, hắn chỉ tự coi mình là "là kẻ tiểu lại giữ tù", còn Huấn Cao là một anh hùng tài tử "chọc trời quấy nước", nổi danh trong thiên hạ về cái tài "viết chữ rất nhanh và rất đẹp". Vả lại, quản ngục còn hi vọng chờ cho Huấn Cao "dịu bớt tính nết" để xin chữ. Nếu được tử tù cho chữ thì hắn ta  "mãn nguyện". Qua đó, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật bao phẩm chất của ngục quan: bình tĩnh, lễ độ, nhẫn nhục.

       Ngục quan có một tâm hồn trong sáng thanh cao, biết trọng người tài, rất yêu thích cái đẹp. Mặc dù đã "chọn nhầm nghề", nhưng thiết nghĩ trên cõi đời này đã có chúa ngục nào có "cái sở nguyện" cao quý như hắn ? Cái ao ước của hắn thật là thanh cao, thật là một thú vui tao nhã  nhân văn. Quản ngục ao ước là có một ngày nào đó "được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết". Hắn say mê, hắn khao khát vì "chữ Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm". Với quản ngục thì có vinh hạnh nào hơn nếu "có được chữ ông Huấn Cao mà treo, là có một háu vật trên đời". Vì thế, khi chưa xin được chữ Huấn Cao thì ngục quan sống trong tâm trạng đầy bi kịch. Nỗi "khổ tâm" của hắn là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không dám giáp lại mặt vì quản ngục cảm thấy nhân cách tử tù xa cách ông nhiều quá!. Hơn thế nữa, hắn càng "khổ tâm" lo lắng, mai mốt đây, Huấn Cao bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ thì ông "ân hận suốt đời". Có thể nói, đó là một bi kịch cao quý được Nguyễn Tuân cảm nhận ở phương diện văn hoá nghệ thuật. Sự giày vò tâm trạng của quản ngục đem đến tình tiết cao trào cho tác phẩm khi Huân Cao đồng ý cho chữ ngay trước đêm người phải ra pháp trường lãnh án tử hình.
Điều gì đến rồi cũng phải đế , giấy báo tử được gửi đến nhà lao nơi giam giữ Huân Cao, quản ngục gọi thầy thơ lại đến tâm sự rõ sự tình của mình như một tiếng thở dài than vãn sao thời gian nhanh quá, còn chưa kịp xin chữ Huấn Cao mà đã nhận giấy án chém… Thầy thơ lại nghe xong thì vô cùng cảm động nên đã tìm đến người tù đang bị giam trong nhà lao kia kể lại sự tình và báo luôn tin tử hình cho Huấn Cao nghe. Nghe xong tên tử tù liền mỉm cười. Đó là một nụ cười chứ không phải sự sợ hãi trước cái chết đang cận kề. Phải là một kẻ đã đối mặt với bao hiểm nguy, thân quen với cái chết trong ngang tấc thì nụ cười đó mới nở trên môi như vậy, con người này đúng là anh hùng bất khuất , hiên ngang bảo sao mà quản ngục không khiêng nể , lại thêm mến phục , yêu con chữ thể hiện hoài bão cả một kiếp người tung hoàng bốn phương trời. Huấn Cao như thấu hiểu nỗi lòng của quản ngục, đã nói: "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Nhân cách văn hoá cao quý của ngục quan đã làm Huấn Cao xúc động và quý trọng. Cảnh cho chữ diễn ra trong phòng giam tử tù là sự kì ngộ giữa khách anh hùng tài tử với kẻ biệt nhỡn liên tài, một cảnh đẹp hiếm có trong nhân gian. Kẻ có quyền lại khúm núm trước một kẻ tử tù, còn kẻ tử tù áy lại thong dong, viết nên bức thư pháp ngàn người nể phục, yêu quý, săn tìm , cầu mong có được nhưu bảo vật quý trên đời. Trước cái đẹp của thư pháp, ngục quan đã trở thành tri âm, tri kỉ của tử tù. Ngục quan "khúm núm" cất những đồng tiền kẽm đánh dấu trên ô chữ… Ngục quan lắng nghe lời khuyên của tử tù "nên lui về quê nhà" để giữ lấy thiên lương rồi hãy “nghĩ đến chuyện chơi” chữ… Ngục quan vái tử tù một vái và nói qua dòng nước mắt: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Tất cả đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của ngục quan dưới ánh sáng của thư pháp và thiên lương.

      Hình ảnh quản ngục là một trong những thành công của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật miêu tả và xây dựng nhân vật ở phương diện tài hoa độc đáo của nghệ sĩ bậc thầy. Yêu cái đẹp với tấm lòng biệt nhỡn liên tài là tâm hồn tính cách của ngục quan. Từ ngoại hình, ngôn ngữ, tâm tư tình cảm đến cử chỉ, hành động của ngục quan đã được Nguyễn Tuân miêu tả với tất cả sự chắt lọc của một ngòi bút tài hoa, đã làm hiện lên một con người có cốt cách rất đẹp. Quản ngục với nghề nghiệp của mình trên phương diện xã hội là hoàn toàn trái ngược nhau, đối lập với Huấn Cao, nhưng trên phương diện nghệ thuật thì quản ngục là người biết yêu , biết say mê, tôn thờ cái đẹp và với nhân vật này chủ đề của tác phẩm càng thêm được thể hiện

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 22

Nguyễn Tuân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn tiêu biểu trong thời kỳ văn học lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945. Ông được mệnh danh là người suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn đưa cái đẹp vào trong từng trang viết của mình. Tên tuổi của nhà văn Nguyễn Tuân đã thực sự sáng chói trên diễn đàn văn học Việt Nam khi tập truyện “Vang bóng một thời” ra mắt người đọc. Nổi bật trong mười một tập truyện là truyện ngắn Chữ người tử tù và dấu ấn để lại của tác phẩm chính là cảnh cho chữ ở cuối truyện – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có – được nhà văn xây dựng lôi cuốn.

Khung cảnh của buổi cho chữ không diễn ra tại nhà của một thầy đồ với nghiên mực, sách bút mà lại được diễn ra ngay trong chính buồng giam chật hẹp, u tối và bẩn thỉu,…Trong khi đó, cho chữ được xem là một việc làm thanh cao. Phải chăng tác giả đang cố tình đặt cảnh cho chữ vào một không gian đặc biệt, một nơi chứa đầy máu và tội ác, để làm nổi bật lên nhân cách thanh cao, trong sạch của nhân vật Huấn Cao. 

Cảnh tượng cho chữ thiêng liêng diễn ra trong một không gian vô cùng yên tĩnh, chỉ thỉnh thoảng văng vẳng tiếng mõ kêu trên chòi canh. Không gian này không chỉ chứa đựng sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối mà còn vạch rõ ranh giới giữa ánh sáng của lương chi với bóng tối của tội ác. Ánh sáng ở đây chính là tấm lòng lương thiện của một vĩ nhân có cốt cách thanh cao đã và đang bị đẩy lùi vào bóng tối, và cũng chính là hiện thân của sự tàn bạo và độc ác đang ngự trị trong mỗi buồng giam ở ngục tù này. Dường như, ánh sáng đã khai sáng, soi rọi cho những kẻ lầm đường lạc bước trở về với đúng cuộc sống của con người lương thiện.

Cảnh tượng cho chữ xoay quanh hai nhân vật là Huấn Cao – một tử tù có tài năng viết chữ rất đẹp nhưng bị khép vào tội chết, đang chờ ngày ra pháp trường, và viên quản ngục – kẻ có quyền nhưng lại rất mê vẻ đẹp toát lên từ những nét chữ của ông Huấn Cao, ngày đêm ao ước có thể sở hữu được những nét chữ đẹp ấy.

Nếu chỉ xét về phương diện tại ngục tù tối tăm thì Huấn Cao và viên quản ngục là hai người ở hai đầu chiến tuyến, người đại diện cho sự lương thiện và người là hiện thân của tội ác. Nhưng nếu xét về phương diện nghệ thuật thì họ lại là tri âm tri kỷ của nhau. Chính vì hiểu được sở thích cao quý, lòng yêu nghệ thuật và yêu cái đẹp của viên quản ngục mà Huấn Cao mới đồng ý cho chữ.

Dường như, tấm lụa trắng tinh kia cùng những nét chữ vẫn còn thơm mùi mực và cả tấm lòng lương thiện của tên ngục tù Huấn Cao đã đánh đổ được nhà tù tàn bạo và đen tối kia. Trong không gian cho chữ, không còn ai gọi là tội phạm và cũng không còn ai gọi là quản ngục, nơi đây đã trở thành chốn tâm giao giữa những người nghệ sĩ yêu cái đẹp. Có thể nói, cảnh cho chữ đã chắp cánh cho ngòi bút của nhà văn Nguyễn Tuân giúp ông dựng nên một tượng đài nghiêm trang về một con người rất tài hoa và tràn đầy khí phách anh hùng.

Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, người đọc có thể thấy cảnh tượng cho chữ không chỉ làm thức tỉnh những con người đang lầm lỡ trở về với lương thiện mà còn góp phần mang đến một ý nghĩa nhân sinh vô cùng sâu sắc về tình đời, tình người và lòng đam mê cái đẹp. Cánh cửa làm người lương thiện luôn dang rộng đón chờ những ai biết quay đầu lại với sai trái và quyết tâm làm lại từ đầu.

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông  là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, có cá tính độc đáo. Sáng tác của ông có nhiều thể loại và ở thể loại nào cũng có những thành công đáng kể. Một trong số tác phẩm kết tinh tài năng độc đáo của Nguyễn Tuân ở thể loại truyện ngắn là “ Chữ người tử tù”. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao hội tụ nhiều vẻ đẹp.
Truyện “ Chữ người tử tù” lúc đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng” in trên  tạp chí “Tao đàn” (1939), sau được tuyển in trong tập “Vang bóng một thời” và đổi tên thành “Chữ người tử tù”.
Truyện “Chữ người tử tù” kể về nhân vật Huấn Cao, một người “văn võ toàn tài”. Mở đầu truyện là cảnh nhà ngục tỉnh Sơn chuẩn bị đón sáu tên tử tù nguy hiểm, trong đó đứng đầu là Huấn Cao. Trước khi tù đến, viên quản ngục đã tỏ lòng khâm phục Huấn Cao vì cái tài viết chữ đẹp, vì tài cầm quân, tài bẻ khóa, vượt ngục. Suốt nửa tháng, quản ngục đã biệt đãi Huấn Cao và năm tử tù nhưng vì chưa hiểu nỗi niềm của viên quản ngục nên Huấn Cao vẫn tỏ ra  “khinh bạc”. Có lệnh chuyển tù, quản ngục đã nhờ viên thơ lại đến nói với Huấn Cao tâm sự của mình (muốn xin mấy chữ đại tự trên lụa trắng). Nhận ra tấm lòng của quản ngục, Huấn Cao đã đồng ý. Đêm hôm đó, cảnh cho chữ kì lạ diễn ra trong ngục tối. Viết xong, Huấn Cao khuyên quản ngục thay chốn ở mà giữ “thiên lương”. Quản ngục cảm động, vái  người tử tù “xin lĩnh ý”.
          Trước hết, vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao thể hiện ở phương diện tài hoa. Huấn Cao là một nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. Chữ của Huấn Cao “ đẹp lắm”, “vuông lắm”. Để thể hiện tài hoa ở chữ, Nguyễn Tuân không miêu tả kĩ lưỡng về chữ đó mà ông tập trung thể hiện sức hấp dẫn, sức chinh phục của những nét chữ. Tài hoa trong nghệ thuật thư pháp của Nguyễn Tuân đã nức tiếng gần xa. Trước khi đến nhà ngục, danh tiếng của Huấn Cao đã được quản ngục biết đến và hằng ngưỡng mộ, kính phục. Khi Huấn Cao đặt chân đến nhà ngục, tài hoa của ông đã khơi dậy trong viên quản ngục niềm khao khát cháy bỏng: được treo riêng ở nhà một câu đối do ông Huấn Cao viết và đó sẽ là “báu vật trên đời”. Không chỉ ao ước, khao khát, viên quản ngục còn tìm mọi cách “biệt đãi” để mong Huấn Cao cho chữ. Ngay cả khi bị Huấn Cao tỏ ra  khinh bạc, viên quản ngục cũng chỉ biết vâng lời, nhẫn nhục và vẫn hết lòng trọng đãi. Có thể nói, tài hoa của Huấn Cao đã hoàn toàn chinh phục viên quản ngục. Trước cái đẹp tài hoa của ông Huấn, quản ngục đã bất chấp sự nguy hiểm đến danh vị và sinh mạng. Hành động hạ mình trước Huấn Cao của viên quản ngục chính là  sự khuất phục của quyền uy trước cái đẹp.
         Cùng với tài hoa, ở Huấn Cao còn chói ngời khí phách hiên ngang. Huấn Cao mang ý chí “chọc trời khuấy nước” nên đã cầm quân chống lại triều đình phong kiến thối nát, khi bị bắt thì “bẻ khóa, vượt ngục” để tiếp tục thực hiện lí tưởng. Điều này cũng thể hiện rõ qua ý nghĩ của Quản ngục về Huấn Cao “những kẻ chọc trời khuấy nước đến trên đầu người ta cũng chẳng biết có ai nữa”. Như vậy Huấn Cao rõ ràng là một trang anh hùng nghĩa liệt có lí tưởng, có dũng khí, có chí lớn, yêu công bằng và tự do. Khí phách hiên ngang của Huấn Cao còn hiện rõ ở tinh thần “uy vũ bất năng khuất”(không sợ gông xiềng, đòn roi, cường quyền). Vừa đến nhà ngục, bất chấp việc lính giơ roi dọa dẫm, Huấn Cao vẫn điềm  nhiên chỉ huy những người tù dỗ cái gông nặng đến bảy, tám tạ xuống nền đá làm rơi ra một trận mưa rệp. Hành động này cho thấy, với Huấn Cao việc gì ông muốn là ông có thể làm được, bất chấp khó khăn đến đâu và có được phép hay không. Lúc viên quản ngục cho người đem rượu thịt đến, Huấn Cao đã điềm nhiên ăn uống như cái lúc còn tung hoành ngoài đời. Như vậy, với Huấn Cao, nhà giam và án tử hình treo trên đầu chẳng có gì là đáng sợ, nhà tù chỉ có thể giam cầm ông về thể xác, còn về tinh thần, ông vẫn hoàn toàn tự do. Đặc biệt, khi Huấn Cao tưởng viên quản ngục đến để mua chuộc mình, ông đã tỏ ra “ khinh bạc đến điều” và nói: “Ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Với câu nói đó, Huấn Cao đã đuổi thẳng cổ viên quản ngục đi mà không sợ sự lôi đình, sự báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của một ngục quan bị sỉ nhục. Khí phách của Huấn Cao càng ngời sáng rực rỡ hơn khi ông nhận được tin ngày mai sẽ bị đưa về kinh xử chém. Với những con người bình thường, khi đối mặt với cái chết, họ thường tỏ ra khiếp sợ. Vậy mà , khi được tin cái chết đã đến, Huấn cao vẫn thanh thản “mím cười”. Hơn thế, Huấn Cao vẫn ung dung , chủ động sắp xếp kế hoạch để cho chữ viên quản ngục sau khi đã nhận ra tấm lòng yêu quý cái đẹp của ông ta. Trong cảnh cho chữ, Huấn cao đã hiện lên thật uy nghi : cổ đeo gông, chân vướng xiềng, tay tung hoành những nét chữ thể hiện khí phách của một con người hoài bão. Như vậy, ở Huấn Cao có vẻ đẹp hiên ngang của một trang anh  hùng nghĩa liệt.
          Không chỉ là một nghệ  sĩ tài hoa, một trang anh hùng hiên ngang khí phách, Huấn Cao còn là ngừơi có thiên lương cao đẹp. Thiên lương đó được thể hiện ở sự tự trong, coi khinh tiền bạc để bảo vệ cái đẹp. Huấn Cao không bao giờ vì vàng bạc, quyền uy mà ép mình cho chữ bao giờ. “ Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Vẻ đẹp thiên lương của Huấn Cao còn thể hiện rõ ở chỗ ông coi trọng  những tâm hồn luôn hướng tới cái đẹp. Huấn Cao đã rất cứng cỏi khi nghĩ rằng Quản ngục là kẻ đại diện cho quyền lực phi nghĩa. Khi biết Quản ngục có tấm lòng yêu chuộng cái đẹp, thái độ của ông khác hẳn, ông đồng ý cho chữ và nói những lời chân thành “ Ta cảm cái lòng biệt nhỡn liên tài…Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Lời nói đó đã hé mở lối sống của Huấn Cao: sống là phải đáp lại những tấm lòng tốt. Huấn Cao không chỉ yêu và bảo vệ cái đẹp của nghệ thuật, ông còn luôn hướng tới bảo vệ cái đẹp của cuộc sống, của tâm hồn con người. Điều đó được thể hiện trong lời khuyên của ông với viên quản ngục:  hãy bỏ nghề, về quê mà ở vì ở đây khó giữ thiên lương cho “ lành vững”. Như vậy, Huấn Cao là người có cái tâm trong sáng.
          Xây dựng nhân vật Huấn Cao với vẻ đẹp ngời sáng, Nguyễn Tuân đã thể hiện rõ tài hoa độc đáo trong  phong cách sáng tác của mình. Nguyễn Tuân đã đặt cả hai nhân vật vào tình huống éo le. Trong tình thế ngang trái đó, các nhân vật sẽ dần dần bộc lộ nhân cách của mình. Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân còn sử dụng nghệ thuật tương phản : Huấn Cao xuất hiện luôn trong tư thế ung dung, hiên ngang, còn viên quản ngục và  thầy thơ lại luôn khép nép , nhún nhường. Chính nhờ nghệ thuật  này, Nguyễn Tuân đã tạo nên một ngôi sao chính vị rực rỡ – Huấn Cao. Đặc biệt, Nguyễn Tuân còn sử dụng nghệ thuật “ vẽ mây nảy trăng”. Để tô đậm nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân lại nói nhiều đến viên quản ngục và thầy thơ lại. Những lời nhận xét, đánh giá của thầy thơ lại và viên quản ngục càng làm cho vẻ đẹp của Huấn Cao ngời sáng rực rỡ hơn. Hình tượng nhân  vật Huấn Cao đã in đậm dấu ấn về phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân.
Tóm lại, tài hoa, khí phách, thiên lương trong sáng đã hội tụ và tỏa sáng ở nhân vật Huấn Cao. Qua hình tượng Huấn Cao, Nguyễn Tuân muốn khẳng định cái đẹp là bất diệt, cái tài và cái tâm, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời; đồng thời thể hiện sự trân trọng những giá trị tinh thần của dân tộc. Tác phẩm khép lại nhưng để lại dư âm trong lòng người đọc nhiều cảm xúc. Đó là sự cảm phục trước vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao và trước tài năng của nhà văn Nguyễn Tuân. Với tác phẩm này, Nguyễn Tuân không chỉ “Vang  bóng một thời” mà còn mãi mãi “vang bóng” trên văn đàn văn học Việt Nam. 

Phân tích nhân vật Quản Ngục 23

Nhân vật viên quản ngục
Đặc điểm nhân vật:
a.Có sở thích cao quý : cũng là người “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”, từ những ngày nào, ông có một “sở nguyện” là có một ngày kia được treo ở nhà riêng của mình một đôi câu đối do chính tay ông Huấn Cao viết. Với ông thì “có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. Bởi vậy mà khi có một ông Huấn trong tay mình, dưới quyền mình nhưng lại không can đảm giáp mặt, viên quản ngục chỉ lo mai mốt chi đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được chữ thì “ân hận suốt đời mất”. Cũng bởi vậy mà khi tiếp đọc công văn giải Huấn Cao ra pháp trường mà ông “tái nhợt” người đi. Để rồi sau đó mãn nguyện nói lời cảm tạ ông Huấn “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Đằng sau câu nói, người đọc cũng hiểu, ngục quan sẽ nghe theo lời giáo huấn của ông Huấn, từ nay, ông sẽ bỏ cái nghề mà ông đã chọn nhầm này để về quê, giữ thiên lương cho “lành vững”. Ông sẽ rời xa chốn quan trường ấy mà không hề nuối tiếc bởi cái “sở nguyện” cả đời của ông đã được thực hiện.
b.Biết say mê và quý trọng cái đẹp, biết cảm phục tài năng, nhân cách và “biệt nhỡn liên tài” :
– Vừa nhận được công văn sắp có sáu tên tù án chém sẽ được chuyển đến nhà lao tỉnh Sơn trong nay mai, trong đó có Huấn Cao, ông đã “ngờ ngợ” và hỏi lại thầy thơ lại cho chắc chắn. Đó có phải là người mà ông kính nể bởi cái tài “viết chữ rất nhanh và rất đẹp” và ao ước được gặp mặt bấy lâu nay ? Khi thầy thơ lại chắc chắn đó là Huấn Cao, việc đầu tiên mà quản ngục làm là nhắc thầy thơ lại  “bảo ngục tốt nó quét dọn lại cái buồng giam trong cùng”. Quét dọn cho sạch sẽ để “tiếp đón” một tử tù. Nếu là một tử tù bình thường thì quả là lạ. Nhưng đây lại là ông Huấn, là “thiên hạ đệ nhất thư pháp”, là người mà ông ngưỡng mộ bấy nay, vậy thì chuyện quét dọn lại buồng giam để đón tiếp là bình thường. Hành động mở đầu truyện này đã hé mở một nhân cách đẹp :  biết say mê và quý trọng cái đẹp, biết cảm phục tài năng, nhân cách và “biệt nhỡn liên tài”.
– Tối hôm đó, sau khi đã cắt đặt xong mọi việc để tiếp đón tử tù, khi xung quanh trời đã “tối mịt”, chỉ còn những thanh âm của đêm khuya thì ngục quan vẫn đang “băn khoăn ngồi bóp thái dương”. “Khuôn mặt nghĩ ngợi” ấy vẫn chưa dứt khỏi những ý nghĩ về Huấn Cao. Ông đang suy nghĩ : “ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại”. Ông thương ông Huấn vì “chọc trời khuấy nước” mà đã phải chịu bao đau đớn cực khổ bởi đòn roi tra tấn trong nhà ngục. Ông cảm phục tài năng, nhân cách cứng cỏi của ông Huấn mà muốn cho ông đỡ khổ trong những ngày cuối cùng còn lại. Thế nhưng, ông cũng phải cẩn thận bởi tính mạng của mình cũng không giữ được nếu việc đến tai quan trên. Bởi vậy, dù đã suy đoán về tính cách thầy thơ lại “hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình”, có lẽ “hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi”, thế nhưng ông vẫn cẩn thận “để mai ta dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”. Những suy nghĩ trong đêm khuya ấy cho người đọc thấy viên quản ngục tuy làm việc cho triều đình phong kiến, tuy làm công việc cai quản tù nhân nhưng ông không phải là một hung thần với đôi tay vấy máu. Chẳng qua là ông đã “chọn nhầm nghề” mà thôi.
– Sáng hôm sau, lính tỉnh dẫn sáu tên tử tù đến trước cửa ngục thất. Trái với phong tục nhận tù mọi ngày, hôm nay viên quan coi ngục “nhìn sáu tên tù mới vào với cặp mắt hiền lành”. Lòng kiêng nể của ông với ông Huấn Cao tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá rồi. Khi kiểm điểm phạm nhân, ngục quan còn có biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao khiến bọn lính phải nhắc ông “để tâm”. Ông thừa hiểu mấy chữ “để tâm” của bọn lính là gì nhưng vẫn ung dung “việc quan ta đã có phép nước” làm cho chúng không hiểu và sáu tên tử tù thì cứ ngạc nhiên về thái độ ấy. Tấm lòng say mê, quý trọng cái đẹp, sự cảm phục tài năng, nhân cách và “biệt nhỡn liên tài” trong quản ngục ngày càng rõ.
– Suốt nửa tháng sau đó, ở trong buồng tối, hàng ngày Huấn Cao vẫn thản nhiên dùng rượu, thịt do người thơ lại gầy gò mang đến. Đó là “ít quà mọn” do thầy quản “biếu” ông dùng kẻo “trong buồng đây, lạnh lắm”. Rồi một hôm, chính quản ngục trực tiếp mở cửa buồng kín để “khép nép” bày tỏ tấm lòng mình : “…biết ngài là một người có nghĩa khí, tôi muốn châm chước ít nhiều…”. Mặc dù biết rằng “phép nước ngặt lắm” và có thể “phiền lụy riêng cho tôi nhiều lắm” nếu quan trên biết việc này, nhưng viên quản ngục vẫn cứ biệt đãi ông Huấn Cao với tấm lòng kính nể, yêu mến chân thành. Bởi vậy, dù có bị ông Huấn “xỉ nhục đến điều”, ngục quan vẫn không hề tức giận, ngược lại còn lễ phép lui ra với câu nói “Xin lĩnh ý” và từ hôm ấy cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và lại có phần hậu hơn trước. Ông không hề lấy làm oán thù mà còn hiểu rằng : những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù. Nếu không phải là một người có nhân cách cao cả, một người biết say mê và quý trọng cái đẹp, biết cảm phục tài năng, nhân cách và “biệt nhỡn liên tài” thì làm sao có thể hành động và suy nghĩ như thế được ?
– Kết thúc câu chuyện, người đọc không thể nào quên hình ảnh : “Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Một ngục quan mà lại quỳ lạy dưới chân một tử tù ! Trên bình diện xã hội, thật đó là chuyện không thể xảy ra. Thế nhưng, đọc đến đây, không hề có ai thấy lạ. Bởi người đọc hiểu rằng, bây giờ chỉ còn một kẻ say mê, trân trọng cái đẹp và nhân cách quỳ dưới biểu tượng của cái đẹp, cái cao cả. Ẩn hiện đâu đó quan niệm của người anh hùng “nhất sinh đê thủ bái mai hoa” (một đời ta chỉ cúi đầu sùng bái trước hoa mai).
– Sống giữa một “đống cặn bã”, một “lũ quay quắt” chỉ sống bằng tàn nhẫn, lừa lọc, ông vẫn giữ được “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay”. Quả thực đó là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”, một đóa sen thơm ngát giữa bùn lầy. Xây dựng hình tượng viên quản ngục, nhà văn muốn nói rằng : trong mỗi con người luôn chứa tâm hồn yêu cái đẹp, cái tài; và cái đẹp chân chính trong bất kì hoàn cảnh nào vẫn luôn giữ được “phẩm chất”, “nhân cách”.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặc sắc, thủ pháp tương phản đối lập, nhà văn không chỉ khắc họa một “ngôi sao chính vị rực rỡ” là Huấn Cao mà còn hướng con người đến với chân – thiện – mỹ bằng hình tượng của viên quản ngục. Tuy xây dựng hình tượng viên quản ngục bằng bút pháp hiện thực khiến hình ảnh của ông thực hơn, đời hơn so với hình ảnh lí tưởng của Huấn Cao, thế nhưng, người đọc vẫn cảm thấy viên quản ngục cũng là một ngôi sao rực rỡ giữa đất trời.
Kết luận :
Tóm lại, truyện ngắn “Chữ người tử tù” bên cạnh khắc họa hình tượng nhân vật Huấn Cao với vẻ đẹp lí tưởng, còn khắc họa hình tượng viên quản ngục có nhân cách cao quý. Tác phẩm khép lại nhưng để lại dư âm trong lòng người đọc nhiều cảm xúc. Đó là sự cảm phục trước vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao và trước tài năng của nhà văn Nguyễn Tuân. Với tác phẩm này, Nguyễn Tuân không chỉ “Vang  bóng một thời” mà còn mãi mãi “vang bóng” trên văn đàn văn học Việt Nam.

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân 24

Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân-thiện-mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân- một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tac của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo sáng tạo lên một tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó là cảnh cho chữ trong nhà giam- là phần đặc sắc nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.


Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm.ở vị trí này tình huống truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý nghĩa cởi nút,giải tỏa những băn khoăn,chờ đợi nơi người đọc, từ đó toát lên những giá trị lớn lao của tác phẩm.

Sau khi nhận được công văn, viên quản ngục đã rãi bày tâm sự của mình với thầy thơ lại. Nghe xong truyện, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để kể rõ nỗi lòng viên quản ngục. Và đêm hôm đó, trong một buồng tối chật hẹp với ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để sáng tạo nghệ thuật người ta thường tìm đến những nơi có không gian đẹp, thoáng đãng, yên tĩnh. Nhưng trong một không gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn chốn ngục tù thì việc sáng tạo nghệ thuật vẫn xảy ra. Thời gian ở đây cũng gợi cho ta tình cảnh của người tử tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ và cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh ấy thì “ một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trăng tinh”. Trong khi ấy, viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm lúm chuyển động.ở đây cho thấy dường như trật tự xã hội đang bị đảo lộn. Viên quản ngục đáng nhẽ phải hô hào, răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì tù nhân lại trở thành người răn dạy, ban phát cái đẹp.

Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao-người có tài viết chữ nhanh, đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại-những người thích chơi chữ. Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án tử hình( Huấn Cao) và một bên là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Vì thế mà thật là chua xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng ba con người ấy gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn thật của mình. Trong đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và những nét chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Vào lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn ngục tù tối tăm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương chiến thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.

Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể bền vững. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác( cho chữ trong tù) nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến thú chơi chữ là môn nghệ thuật đòi hỏi sự cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức chữ không mấy ai thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.

Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản nguc xúc động “ vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái thiện. Và trên con đường đến với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong khung cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là thường, vượt lên trên những cái dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một niềm tin vững chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân- thiện-mĩ.

Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “ Chữ người tử tù” mà đặc biệt là cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật trước cách mạng, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh đó, truyện còn ca ngời viên quản ngục và thầy thơ lại là những con người tuy sống trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.

“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân cách cao cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dong chữ cuối cung của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau. Nếu không có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai một. Đó cũng là tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.

Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng tạo không khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật.( văn học cổ nói chung không tả thực và phân tích tâm lí nhân vật)

Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đao bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân bản: dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.

Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù 25

Nguyễn Tuân là một cây bút xuất sắc ở cả trước và sau Cách mạng Tháng Tám. Ông nổi tiếng tiếng với nhiều tác phẩm như: vang bóng một thời, Chùa Đàn,… cùng với một số tùy bút. Trong số đó, “Chữ người tử tù” được cho là một trong những văn phẩm đạt tới sự hoàn hảo và hoàn mĩ. Trong truyện, nhân vật Huấn Cao nổi bật với những phẩm chất tài hoa, thiên lương và khí phách anh hùng.

Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ say mê, suốt đời đi săn tìm cái đẹp. Nhân vật Huấn Cao là sản phẩm của lí tưởng thẩm mĩ ấy. Nhân vật càng được tỏa sáng và thăng hoa dưới bút pháp lí tưởng hóa của ngòi bút lãng mạn. Nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn không chịu sự chi phối của hoàn cảnh, vượt lên hoàng cảnh và hướng về những điều tốt đẹp. Cũng giống như các nhân vật chính diện khác trong “Vang bóng một thời”, Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hòa với thiên lương trong sáng. Điểm đặc biệt ở nhân vật là ông còn là một bậc anh hùng lẫm liệt. Cả ba phẩm chất tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn cao đều mang  nét khác thường nhưng cũng là đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn. Nguyên mẫu của hình tượng Huấn Cao là Cao Bá Quát- một bậc danh sĩ tùng đứng lên chống lại cả triều đình. Tuy nhiên, nhân vật Huấn Cao lại mang những tính cách và tâm hồn của chính Nguyễn Tuân. Trong truyện, vẻ đẹp của Huấn Cao được thể hiện trong mối quan hệ với quản ngục và Thầy thơ lại. Cả ba nhân vật đều là điểm sáng đặc biệt trong chốn ngục tù tăm tối, trong đó Huấn Cao được tỏa sáng nhất

Ở trước và sau cách mạng, Nguyễn Tuân đều nhìn con người dưới phương diện tài hòa, nghệ sĩ. Tài hoa của Huấn Cao được thể hiện qua tài viết chữ Nho- chữ tượng hình vuông vắn trong văn tự tiếng Hán. Nét chữ không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách con người. Hơn nữa, Huấn Cao không chỉ là nhà Nho bình thường mà còn là một nhà thư pháp nổi tiếng. Đối với người xưa thì thư pháp là nghệ thuật cao cấp chỉ dành cho các vị quan chức, nho sĩ những tao nhân, những mặc khách. Thư pháp chỉ có ý nghĩa khi nó chuyên chở tài năng và nhân cách đáng trọng của người sáng tạo ra nó. Còn người thưởng thức cũng phải có vốn hiểu biết văn hóa nhất định. Vì vậy thú chơi chữ được đặt ở vị trí đầu tiên trong bốn thú chơi tao nhã thời xưa “nhất chữ nhị tranh tam sành tứ gốm”. Tài năng của Huấn Cao còn được người đời truyền tụng như một huyền thoại, “Cái người mà ở vùng tỉnh Sơn ấy có tài viết chữ rất nhanh và đẹp”, đó là lời mà mọi người dành tặng cho ông. Không chỉ thế, phe đối địch còn dành những lời ca ngợi ông “Huấn Cao không chỉ có tài viết chữ đẹp mà còn có tài bẻ khóa, vượt ngục” khiến cho vị Quản ngục nghe tiếng và ngưỡng mộ tài năng của Huấn từ rất lâu. Chính vì vậy, sở nguyện của quản ngục chính là một ngày nào đó được treo một đôi câu đối của ông Huấn Cao, và trân trọng những chữ đó như báu vật. Thật vậy, chữ ông Huấn không chỉ đẹp mà còn hiếm. Từ lúc xuất thần ngòi bút tới giờ ông chỉ cho chữ có ba người bạn thân. Nét chữ của ông không phải để đem ra mua bán đổi trác mà để dành tặng cho người biết trân trọng người tài, cái đẹp. Chính vì thể ngay từ lúc gặp ông Huấn, quản ngục đã quên mất vai trò của một nhà hành chức mà biệt đãi Huấn Cao, bất chấp mọi rủi ro có thể xảy ra nếu bại lộ. Điều đỏ chứng tỏ quản ngục coi trọng nét chữ ông Huấn hơn cả tính mạng mình. Tuy bị Huấn Cao khinh miệt, xua đuổi nhưng quản ngục vẫn tâm niệm” Không xin được chữ Huấn Cao là ân hận cả đời”. Có thể nói, tài năng của ông Huấn đặc biệt khách thường, thái độ của quản ngục làm nên cái khác thường thứ hai, đam mê cái đẹp khác thường. Cái khác thường sau nổi bật cái khác thường trước. Đó là thư pháp vẽ mây nảy trăng của hội họa phương đông. Quan việc trân trọng tài năng của Huấn Cao và sở nguyện tha thiết của quan ngục, tác giả bày tò sự trân trọng người tài, cái đẹp cũng như sự luyến tiếc với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc đàng dần mai một

Không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa, Huấn Cao còn là người anh hùng có khí phách, có lí tưởng. Người anh hùng ấy dám đứng lên đấu tranh với cả triều đình, sẵn sàng xả thân vì đại nghĩa, đã từng bẻ khóa vượt ngục vào sinh ra tử nhiều lần. Qua thái độ của phe đối địch cũng thể hiện phẩm chất anh hùng của Huấn Cao. Trước khi Huấn Cao đến, quản ngục đã sai người quét dọn buồng cho Ông Huấn với thái độ trân trọng. Trái với phong tục nhận tù hàng ngày thì hôm nay quản ngục nhìn 6 ngục tù với con mắt hiền lành. Quản ngục còn sai thêm người canh gác thêm vì vẫn còn e dè với người tử tù này. Ngoài ra hành động của Huấn Cao khi ở trại giam càng khẳng định thêm phẩm chất anh hùng ấy. Những buổi đầu mới dến, Huấn Cao đã xuất hiện ấn tượng, đứng trước sự dọa nạt của bọn lính canh, ông luôn lạnh lung và chúc mũi gông nặng trịch đó xuống nền đá khiến nó đánh thình một cái. Mấy tiếng pháp trường căn bản không làm Huấn Cao run sợ. Ông chỉ coi lũ lính canh như lũ sâu bọ. Đến cái chết còn không sợ huống hồ là lũ tiểu nhân vô lại

Sau nửa tháng ở trại giam, Huấn Cao không hề thay đổi thói quen như những ngày tự do. Đứng trước sự biệt đãi của quản ngục, ông thản nhiên nhận và coi đó là việc làm bình thường trong hứng sinh bình. Đối với ông, nhà tù chỉ thay đổi về chỗ ở chứ không làm thay đổi cái hứng trong cuộc sống, vật chất tầm thường không làm lung lay ý chí. Khi quản ngục ân cần muốn chu tất thêm thì Huấn Cao khinh bạc đáp lại là chỉ muốn quản tù đừng bao giờ đặt chân vào nơi đây nữa. Sau câu nói đó Huấn Cao bất chấp mọi thủ đoạn có thể xảy ra khi sỉ nhục tên cai ngục. điều đó càng khẳng định Huấn Cao là một bậc anh hùng dù trong thế sa cơ vẫn ung dung, đàng hoàng. Có thể nói, Nguyễn Tuân miêu tả người anh hùng không cần tới những đường kiếm hay phút so đao nảy lửa mà là người anh hùng luôn hiên ngang lẫm liệt dù vào thế sa cơ

Huấn Cao còn được đặc biệt ca ngợi bởi thiên lương trong sáng- bản tính tốt đẹp trời phú cho. Ở đây nếu tác giả chỉ khác họa tài năng và khí phách của ông Huấn thì người đọc sẽ cảm phục chứ chưa chắc yêu quý nhân vật. Điều làm người đọc ấn tượng nhất có lẽ là cái tâm trong sáng của người nghệ sĩ- anh hùng này. Trong truyện, Huấn Cao đã từng tuyên bố về lẽ sống nhân sinh đầy kiêu hãnh của mình” ta nhất sinh không vì tiền bạch hay quyền thế mà éo mình cho chữ bao giờ. Điều đó cho thấy ông rất coi trọng nét chữ của mình cũng như không bao giờ chịu cúi đầu trước tiền bạc hay quyền thế. Ngoài ra thiên lương trong sáng của Huấn cao được thể hiện qua thái độ đối với cái xấu cái ác. Lúc đầu tưởng quản ngục là tên vô lại xấu xa tàn ác, Huấn cao đã xua đuổi khinh miệt bất chấp mọi thủ đoạn có thể xảy ra. Trong những ngày ở tù, ngoài việc nghĩ đến chí lớn không thành thì Huấn Cao cũng bận tâm đến sự tươm tất của quản ngục. Điều dó thể hiện ông còn là người biest phân biệt phải trái, đúng sai, tốt xấu. Khi biết được tấm lòng của quản ngục, Huấn Cao đã rất xúc động “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của ngươi… Thiếu chút nữa ta đã phụ tấm òng trong thiên hạ” Người anh hùng ấy không sọ áp bức cường quyền nhưng lại sợ phụ một tấm lòng. Phải là người có nhân cách cao đẹp biết bao mới có nỗi sợ đẹp đẽ ấy. Như vậy bề ngoài tuy ông Huấn lạnh lùng kiêu bạc nhưng lại là người có trái tim ấm nóng, cảm đọng trước những tấm lòng. Cả đời ông dùng cái tâm để xử thế. Hành động cho chữ của Huấn Cao là hành động lấy tấm lòng để trả tâm lòng. Quan đó, tác giả bày tỏ quan niệm về nhân sinh thế kỉ XX” Đạo đức học chính là mĩ học của tương lai” Huấn Cao chính là biểu tượng của sự tiên đoán sớm ấy. Quan nhân vật, nhà văn cũng bày tỏ quan niệm “ Cái đẹp phải gắn liền với cái thiện, cái tài phải gắn liền với cái tâm”

Có thể nói, Huấn Cao là đại diện của chủ nghĩa lãng mạn, là nhân vật dược lí tưởng hóa với đủ 3 phẩm chất tài- tâm – dũng. Nhân vật này được khẳng định ca ngợi trong mối quan hệ với Thơ lại và quản ngục. Huấn Cao chính là hiện thân của cái đẹp trong đời sống văn hóa cổ truyền, của khí phách dân tộc. Với nhân vật, Nguyễn Tuân đã bộc lộ tình cảm nồng hậu và khẳng định tư tưởng “ Cái đẹp nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó nằm ngoài cái chết”

Có thể nói, thành công trong tác phẩm “chữ người tử tù” là việc sáng tạo nên nhân vật Huấn Cao với ngòi bút lí tưởng hóa. Quan nhân vật người đọc càng thêm trân trọng người tài cái đẹp và những thấm nhuần những tư tưởng nhân sinh sâu sắc. Cảm ơn Nguyễn Tuân vì văn phẩm hoàn mĩ khiến người đọc khó có thể nào quên này.

Phân tích cảnh cho chữ trong truyện Chữ người tử tù 26

   Nguyễn Tuân được sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn, thơ văn của ông luôn viết về cái đẹp, ông dành cả cuộc đời của mình để đi săn tìm cái đẹp. Ông có những đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm "Chữ người tử tù" được in trong tập "Vang bóng một thời" đánh dấu tài năng của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám và được coi như là một văn phẩm đạt gần đến độ hoàn mĩ. Ở cuối truyện, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung miêu tả, tô đậm vẻ đẹp lãng mạn của người anh hùng Huấn Cao, qua đó khẳng định được sự chiến thắng của thiên lương, của ánh sáng trước bóng tối và cái xấu. Có thể nói, cảnh cho chữ là cảnh tượng đắt giá nhất, cảnh mà xưa nay chưa từng có.

   Truyện ngắn được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục, cả hai đều là nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn, vượt lên hoàn cảnh, không chịu sự chi phối của hoàn cảnh. Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, với nghệ thuật viết thư pháp, nét chữ ông trở thành niềm khao khát của biết bao nhiêu con người có thú chơi chữ. Và quản ngục là một trong số đó, sở nguyện lớn nhất của quản ngục là có được đôi câu chữ của Huấn Cao treo trong nhà. Ở đây, người nghệ sĩ gặp kẻ tri âm trong một hoàn cảnh bất thường: Người có nét chữ huyền thoại kia lại là người tử tù, còn người có thú chơi chữ tao nhã kia lại là một viên quản ngục. Chuyện xin chữ tưởng như khó có thể xảy ra bởi cả cuộc đời ông mới chỉ cho chữ có 3 người. Liệu Huấn Cao có thể cho chữ cho kẻ tiểu lại như quan ngục chăng? Nhưng điều bất ngờ đã xảy ra, điều không thể đã trở thành có thể, chính nhờ sở thích cao quý, tấm lòng quý trọng người tài của quản ngục đã khiến Huấn Cao phải xúc động. Ông đã dành đêm cuối cùng của mình tại nơi ngục tù đó để cho chữ quản ngục, ông cho chữ không phải là để phô trương tài năng mà là để tạ một tấm lòng.

   Cảnh ông Huấn cho chữ được khắc họa bằng chi tiết gây ấn tượng, cảm hứng mãnh liệt trước cảnh tượng cho chữ xưa nay khó có đã khiến Nguyễn Tuân say sưa sáng tạo bằng các ngôn từ sắc xảo, bút pháp dựng người, dựng cảnh đạt tới độ điêu luyện. Cảnh cho chữ được diễn ra vào buổi đêm, đêm cuối cùng của ông Huấn tại nhà ngục. Địa điểm cho chữ là ngay trong buồng giam chật hẹp với mạng nhện đầy tường, trên đất bừa bãi phân chuột phân gián. Trong không khí trang nghiêm ba nhân vật hiện lên trong ba tư thế khác nhau: Huấn Cao thì cổ đeo gông, còn chân vướng xiềng nhưng vẫn ung dung vẽ dậm to từng nét chữ, viên quản ngục thì đang khúm núm cất những đồng tiền kẽm để đánh dấu từng ô chữ, còn thầy thơ lại thì đang run run bê lấy chậu mực. Tuy là khác nhau về tư thế, về địa vị về con người nhưng họ đều có điểm chung là biết thưởng thức và trân trọng cái đẹp. Những nét chữ của con người chuẩn bị đi vào cõi chết mà không hề ngả nghiêng siêu vẹo mà "vuông, tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người". Những nét chữ như phượng múa rồng bay thể hiện được tài năng của ông Huấn. Không chỉ vậy, với thái độ ung dung, tràn trề cảm hứng sáng tạo, ông còn tinh tế cảm nhận được mùi mực thơm ngát thể hiện được khí phách hiên ngang, không sợ cái chết của ông Huấn. Nếu không có tinh thần tự do, không có sức mạnh thì chắc chắn sẽ không có được phong độ ấy. Khi viết chữ xong, ông buồn bã đỡ quản ngục đứng thẳng dậy, ông buồn không phải vì ngày mai mình sẽ bị giải ra pháp trường mà ông buồn vì người như quản ngục lại phải... Ông còn khuyên quản ngục thật chân thành hãy tìm về nhà quê mà ở, xong rồi hãy nghĩ tới chuyện chơi chữ, ở đây khó lòng giữ được thiên lương cho lành vững. Lời khuyên đặt ra yêu cầu đối với người thưởng thức: Phải có tâm hồn đẹp mới có thể cảm nhận được hết cái đẹp, phải có một môi trường tốt để cái đẹp được bảo vệ và giữ gìn. Như vậy, Huấn Cao chuẩn bị đi vào cõi chết mà vẫn nghĩ tới sự sống của cái đẹp, cái đẹp không thể ở chung với cái xấu. Ông cho chữ quản ngục là để tạ một tấm lòng, để chia sẻ với một tri kỉ và để nâng đỡ một thiên lương.

   Có thể nói, cảnh cho chữ diễn ra nơi tù ngục nhưng cũng rất xúc động và thiêng liêng. Quản ngục nghe xong lời khuyên của ông Huấn, ông chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Qua thái độ kính cẩn của quản ngục, người đọc có thể thấy được thái độ trân trọng đặc biệt đối với người tài và cái đẹp, cái đẹp có khả năng cảm hóa con người, đưa những con người đang lầm đường lạc lối trở về con đường trong sáng. Trong đoạn văn tác giả sử dụng thành công thủ pháp đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa mùi thơm với mùi ô uế, bẩn thỉu. Ánh sáng ở đây không chỉ là ánh sáng của bó đuốc mà còn là ánh sáng của cái đẹp, mùi thơm ở đây không chỉ là mùi thơm của chậu mực mà còn là mùi thơm tỏa ra từ nhân cách con người. Bóng tối không thể che lấp được màu trắng của tấm vải, không thể che được ngọn đuốc đang cháy rừng rực và mùi mực tàu thơm ngát.

   Có thể khẳng định cảnh ông Huấn cho chữ là cảnh "xưa nay chưa từng có" vì thú chơi chữ là một thú chơi tao nhã thanh cao, người có tài viết chữ đẹp mà đạt tới trình độ viết thư pháp không có nhiều, người thưởng thức cũng phải là người có vốn văn hóa nhất định. Bình thường cảnh cho chữ thường được diễn ra nơi sảnh đường thoáng mát, thanh cao để người nghệ sĩ có thể thoải mái mà sáng tạo nhưng Huấn Cao lại cho chữ trong nhà ngục, nơi bóng tối ngự trị, nơi cái ác lên ngôi. Nhưng có lẽ, vì ánh sáng kia qua đẹp nên đã che lấp bóng tối, bóng tối ở đây càng làm tô đậm hơn nét đẹp của ánh sáng. Bình thường quản ngục là đại diện cho pháp luật ở chốn lao tù, là người của triều đình ở thế bề trên vậy mà trong cảnh này Huấn Cao lại ung dung trong tư thế làm chủ, kẻ có chức năng đi giáo dục người khác lại bị giáo dục lại. Như vậy, Nguyễn Tuân đã làm một cuộc đảo lộn trật tự xã hội để cho thấy, ở cảnh này, không còn người tử tù, cũng không còn quản ngục, gông xiềng bị vô hiệu hóa, chỉ còn người nghệ sĩ đang sáng tạo cái đẹp và người thưởng thức, sủng kính cái đẹp.

   Qua truyện ngắn "Chữ người tử tù" người đọc có thể dễ dàng thấy được quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân: cái đẹp gắn với cái thiện và cái tài phải đi liền với cái tâm. Cảnh cho chữ cũng khơi gợi cho con người phải biết trân trọng các giá trị của văn hóa truyền thống, phải biết giữ gìn các truyền thống đang bị mai một dần kia. 

Phân tích truyện Chữ Người Tử Từ của Nguyễn Tuân 27

Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam ông có rất nhiều những tác phẩm hay trong đó nổi bật lên là tác phẩm Chữ Người Tử tù.

Chữ Người tử tù là tác phẩm hay trong những sáng tác của Nguyễn Tuân, trong đó nó biểu hiện được khung cảnh của việc cho chữ của viên quản ngục Huấn Cao và tên quản ngục. Ở đây đã có sự diễn ra của việc cho cái đẹp, cả hai người này đều có trái tim yêu cái đẹp. Với cách miêu tả chi tiết, sâu sắc, mỗi chi tiết xuất hiện trong tác phẩm đều được miêu tả cụ thể chi tiết trong từng tình huống, tác giả đã xây dựng không gian để cho hai người gặp nhau. Tình huống gặp gỡ thật chớ chêu, cái đẹp lại được trao ở nơi ngục tù, tối tăm, bẩn thiểu. Mối quan hệ đó thật trớ trêu, tuy nhiên ở đây tác giả cũng đang ca ngợi cái đẹp, đề cao cái đẹp.

Trong xã hội mục ruỗng, cái đẹp bị xã hội vùi dập, nhưng tên quản ngục này vẫn có tâm hồn yêu cái đẹp, vẫn một lòng tôn thờ cái đẹp, khung cảnh ở đây đã biểu hiện được tình hình xã hội lúc bấy giờ, ở nơi ngục tù tối tăm, cái đẹp vẫn nảy sinh, nó vẫn trạm đến trái tim của những người yêu cái đẹp, mong muốn được thưởng thức cái đẹp.

TRong tác phẩm, tác giả đã miêu tả chi tiết hình ảnh của nhân vật Huấn Cao, ông là người yêu cái đẹp, là người nghệ sĩ tài hoa, trong tác phẩm tác giả đã miêu tả điều đó thông qua chi tiết: “”chữ đẹp và vuông lắm”. Ai ai cũng mong muốn có chữ của ông để treo trong nhà, trong đó có ông quản ngục, ông luôn mong muốn có được chữ để treo trong nhà của mình. Ngoài ra tác giả còn miêu tả được hình ảnh Huấn Cao là một người ngang tang, có khí phách hiên ngang trong cuộc sống.

Ông là người anh hùng, mặc dù đang chuẩn bị đối diện với cái chết thế nhưng ông vẫn thể hiện được tinh thần lạc quan, ung dung, không sợ hãi bất cứ điều gì hết, sự ngang tang đó biểu hiện hình ảnh của một vị anh hùng vừa yêu cái đẹp, vừa là người anh hùng hiên ngang.

Ông là người có thiên lương trong sáng, biểu hiện ở việc ông là người nghệ sĩ chân chính, ông sẵn sàng cho chữ cho những người yêu cái đẹp, biết chân trọng cái đẹp ông còn là người có tấm lòng cao cả, một lòng khuyên viên quản ngục hết mình, chính những điều đó thể hiện ông là người anh hùng có trái tim chân chính, biết phân biệt tàn ác, ông khuyên tên quản ngục nên trốn đi: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chốn đi… ở đây thiên lương khó giữ cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Qua chi tiết này chúng ta có thể thấy ông có tâm hồn cao cả, một nhân cách sống cao đẹp.

Hình tượng Huấn Cao được xây dựng nên để miêu tả về cái đẹp, hình tượng của Huấn Cao là một mục đích để tác giả biểu hiện về cái đẹp, như Nguyễn Tuân được mệnh danh là con người đi tìm cái đẹp, cái đẹp được tìm thấy trong những hoàn cảnh đặc biệt, sâu sắc nhất. Ngoài miêu tả hình ảnh của nhân vật Huấn Cao, tác giả cũng miêu tả hình ảnh của viên quản ngục với thân phận, tính cách đặc trưng xuất hiện trong tác phẩm, ông là người yêu cái đẹp, biết thưởng thức, chân trọng cái đẹp cao quý, cớ tính cách thanh cao, tính cách đó xuất hiện chi tiết trong tác phẩm.

Với khung cảnh cho chữ diễn ra ở nơi ngục tối, tuy nhiên trong không gian đó, cái đẹp vẫn trường tồn, tỏa sáng, hình ảnh của người anh hùng vẫn biểu hiện sâu sắc, chi tiết nhất trong tác phẩm của mình, mỗi một tác phẩm đều được xây dựng một cách chi tiết, sâu sắc nhất. Cái đẹp luôn được coi trọng và nó tỏa sáng trong khung cảnh của ngục tù tối tăm.

Tác phẩm đã được xây dựng sâu sắc với những chi tiết nổi bật, đặc sắc, qua đó muốn ca ngợi cái đẹp, người anh hùng khí phách của Huấn Cao, tấm lòng yêu cái đẹp của Quản Ngục. 

Phân tích nhân vật Huấn Cao 28

Nguyễn Tuân - một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam. Ông có những sáng tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “chiếc ấm đất”, “chén trà sương” và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù”.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát làm nguồn cảm hứng sáng tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sáng ngời và rất đỗi tài hoa.

Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài hoa.

Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu , tấm lòng trong sáng của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao trước hết là một người có tài viết thư pháp. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách con người. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Tài năng của Huấn Cao còn được miêu tả qua lời người dẫn truyện và trong suy nghĩ nhân vật. Chữ của Huấn Cao “đẹp lắm, vuông lắm”, nét chữ còn thể hiện khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một vật báu ở trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng, phi thường có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.

Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng ở hình tượng Huấn Cao:

Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, làm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khóa, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiến có trên đời.

Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lý của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh một cái” và “lãnh đạm” không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục! Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời:

“Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây ”.

Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ …”. Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Huấn Cao là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp . Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Thế nhưng khi biết được nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay uy quyền mà ép cho chữ bao giờ”.

Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình.

Cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu trách nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người cha khuyên bảo con: “Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.

Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xóa tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.

Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 29

Là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã dành trọn đời mình để viết nên những trang văn mà ở đó có một nguồn mĩ cảm dạt dào dành cho tất thảy những gì đẹp nhất trên đời. Viết rất hay về những thú chơi đẹp, uống đẹp, nhắm đẹp, Nguyễn Tuân cũng không bỏ quên cái đẹp ngời ngời như ngọc sáng trong nhân cách con người. Có người nói sự nghiệp Nguyễn Tuân sẽ không thể toàn vẹn nếu thiếu đi “Vang bóng một thời”, và “Vang bóng một thời” cũng sẽ khiếm khuyết nếu không có sự góp mặt của thiên truyện “Chữ người tử tù”. Huấn Cao trong tác phẩm là một nhân cách sáng và đẹp mà Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên bằng cả niềm trân trọng và tài năng của mình, gửi vào đó nhân sinh quan về cái đẹp một cách sâu sắc.

Huấn Cao được nhớ đến trước hết là bởi vẻ đẹp của một tài năng siêu việt, toàn diện trên cả văn và võ. Bằng một cách rất tinh tế và rất Nguyễn Tuân, nhà văn đã không để nhân vật của mình xuất hiện trực diện mà qua cuộc trò chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại. Nhưng dẫu là nhìn qua nhãn quan của những kẻ đối nghịch, tài năng của Huấn Cao vẫn không thể bóp méo. Như người xưa nói, “văn kì thanh bất kiến kì hình”, Huấn Cao đã bước vào trang văn Nguyễn Tuân như một hình tượng tuyệt mỹ.

Cái tài của ông Huấn là tài nghệ thư pháp. Là một người “viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, danh tiếng của ông Huấn đã lan ra khắp một vùng tỉnh Sơn, đến tai cả những người như quản ngục và thơ lại, khiến họ cũng phải trầm trồ và dè dặt. Quả thực, tiếng lành đồn xa, tài viết chữ của Huấn Cao vốn đã thành danh bất hư truyền. Thú chơi chữ mà Huấn Cao say mê là một trong những nhã thú thanh cao của cổ nhân, là biểu trưng cho văn hóa cổ truyền dân tộc. Những con chữ tượng hình nói lên nhân cách phẩm giá và chí khí của con người. Chính quản ngục cũng phải cảm khái: “Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm, có được chữ ông treo trong nhà là một vật báu ở đời.” Trong một xã hội mà Đông Tây bát nháo, ối a bông phèng, cái cũ thì chưa suy hẳn mà cái mới thì chưa kịp thay thế hết, Nguyễn Tuân là một nhà nho mang tâm thế bất hòa, bất mãn, bất lực với thực tại, xây dựng nhân vật với một tài năng siêu việt về thú chơi cổ truyền như một cách để nhà văn bày tỏ những tiếc nuối về một quá khứ vàng son đã qua nay chỉ còn vang bóng.

Khi Huấn Cao diện kiến trực tiếp với bạn đọc, thì người quân tử ấy còn được biết đến như một trang anh hùng nghĩa liệt với khí phách hiên ngang. Vốn là một người song toàn văn võ, bên cạnh tài thư pháp còn có tài “bẻ khóa và vượt ngục”, Huấn Cao là cái tên khiến những người trong ngục tù phải dè chừng. Trong mắt triều thần, ông là một người cầm đầu bọn phản nghịch, nhưng thực chất đó là một anh hùng đứng lên vì chính nghĩa, dám chống lại triều đình vì bảo vệ lẽ phải. Ông là hiện thân của một con người kinh bang tế thế, anh hùng cái thế.

Khi được đặt vào hoàn cảnh lao tù, hình ảnh Huấn Cao càng nổi bật lên với những vẻ đẹp khí phách hiên ngang lẫm liệt. Thản nhiên bước vào nhà lao, hành động đầu tiên của Huấn Cao là dỗ gông, không mảy may đếm xỉa đến vương quyền trên đầu: “Huấn Cao khom mình, chúc mũi gông nặng, thúc mạnh vào đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Đó là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ.

Những ngày bị giam chân nơi chốn ngục tù, Huấn Cao không một chút khiếp sợ. Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt như việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Câu nói của Huấn Cao với quản ngục cũng thể hiện một khí phách ngang tàng trước cường quyền bạo lực: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây.” Lời tuyên bố dõng dạc đủ để thấy Huấn Cao đã bỏ ngoài hết thảy những sợ hãi và lo âu, không để tâm người mình đang đối đầu là kẻ đang nắm quyền, đang nắm giữ sự sống. Trong con người của kẻ tử tù ấy thể hiện đúng tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Uy quyền trên đầu không thể ràng ép, bạo lực chực chờ không thể đánh gục. Dẫu ngày mai là ngày bị giải ra pháp trường và đón nhận lấy cái chết thì khí chất người anh hùng vẫn thế, luôn vững vàng.

Sáng lên hơn cả trong nhân cách người tử tù là một thiên lương trong sáng, vững lành, có sức mạnh cứu rỗi những tâm hồn đang dần bị bôi đen. Đó là nhân cách của bậc đại trí, đại dũng, không bao giờ bị lung chuyển trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục: “Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền quý mà ép mình phải viết chữ bao giờ”. Một con người ý thức sâu sắc được thiên chức và phẩm giá của nghệ thuật. Một con người không bao giờ thị tài.

Đáng quý hơn, Huấn Cao không chỉ trọng thiên lương của mình mà còn trọng thiên lương của kẻ khác. Điều này được thể hiện trong cách ứng xử chân tình mà ông dành cho quản ngục. Khi chưa hiểu được tấm lòng quản ngục, ông khinh bỉ đến điều, coi thường y như coi thường một kẻ cầm tay đao suốt đời chỉ sống trong nhơ bẩn, sống vì phi nghĩa. Còn khi đã hiểu ra cái “sở nguyện cao đẹp” của y, ông hết sức cảm mến và trân trọng: “Nào ta có biết, người như thầy quản đây lại có sở nguyện cao đẹp như thế. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ.” Cũng chính sự thấu hiểu này đã đưa hai con người từ đối đầu thành tri âm tri kỉ.

Nhưng có lẽ tài năng khí phách và nhân cách cao đẹp của ông Huấn thể hiện rõ nhất, tập trung nhất, hài hòa nhất ở cảnh cho chữ – cảnh mà Nguyễn Tuân gọi là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Đêm đã khuya, chỉ sáng mai thôi là người tử tù phải vào gánh chịu án chém, nhưng ông Huấn vẫn trút hết tài năng sáng tạo vào ngòi bút và viết ra những con chữ vuông tươi tắn nói lên cái “chí khí tung hoành của đời một con người”. Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, mùi mực thơm, màu trắng của tấm lụa bạch như xua tan đi bóng tối ngục thất đầy màng nhện, tổ rệp, phân gián, phân chuột. Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc hay ánh sáng thiên lương làm cho hình ảnh tử tù Huấn Cao thêm ngạo nghễ, uy nghi. Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, cái chết kề bên, ông Huấn vẫn “dậm tô nét chữ” trong tư thế của người nghệ sĩ chân chính đang làm chủ lao tù. Sự thăng hoa của tài năng và bản lĩnh phi thường của ý chí đã đồng hiện và sáng lên trong cảnh cho chữ ấy.

Huấn Cao còn hiện lên thật đẹp ở khoảnh khắc ấy trong vai trò của người hướng thiện, hướng đạo cho kẻ mê muội. Lời khuyên chân thành dành cho kẻ tri âm đã làm sáng lên vẻ đẹp ấy: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý, làm cho viên quản ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: – Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.

Vẫn cái chất Nguyễn Tuân ở đó, uyên bác và tài hoa, trong cả tư tưởng và cách biểu hiện. Nhà văn đã thật thành công khi xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”.

Phân Tích “Chữ Người Tử Tù” 30

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, mỗi nhà thơ, nhà văn đều để lại trong lòng bạn đọc những dấu ấn riêng, không thể nào trộn lẫn. Nếu bạn đọc biết đến Thạch Lam với những trang truyện ngắn đầy chất thơ, Nam Cao là nhà văn với tài năng phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Vũ Trọng Phụng là nhà văn trào phúng xuất sắc,… thì với Nguyễn Tuân, bạn đọc biết đến ông là “người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp” với những trang viết tài hoa, uyên bác, lãng mạn và tài hoa. Và có thể nói, tập truyện “Vang bóng một thời” gồm 11 truyện ngắn ra  đời trước cách mạng tháng Tám là một trong số những tác phẩm tiêu biểu của ông. Đọc tập truyện “Vang bóng một thời” người đọc sẽ không thể nào quên được thiên truyện “Chữ người tử tù” – tác phẩm viết về thú chơi chữ – một nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.

Có thể nói, tình huống truyện là yếu tố cốt lõi, thành phần quan trọng đối với mỗi truyện ngắn, góp phần không nhỏ vào thành công, sức hấp dẫn của truyện và như Nguyễn Minh Châu từng nói “Tình huống truyện là thứ nước rửa hình rửa ảnh làm nổi hình, nổi sắc nhân vật”. Và truyện ngắn “Chữ người tử tù” cũng vậy, tác phẩm đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo, góp phần không nhỏ vào sức sống lâu bền của thiên truyện. Tình huống truyện độc đáo của truyện ngắn “Chữ người tử tù” chính là cuộc gặp gỡ đầy éo le giữa Huấn Cao và viên quản ngục nơi chốn ngục tù trong những ngày cuối cùng của cuộc đời Huấn Cao. Chính cuộc gặp gỡ giữa hai con người đối lập nhau trên bình diện xã hội – Huấn Cao là người có tội, đang chờ ngày chịu án và viên quan coi ngục nhưng họ lại gặp nhau ở tấm lòng, niềm say mê cái đẹp đã tạo nên tình huống truyện hấp dẫn, từ đó, làm cho câu chuyện thêm phần kịch tính và hấp dẫn người đọc. Và để rồi, tình huống truyện ấy đã góp phần làm bật nổi tính cách, vẻ đẹp tâm hồn của cả Huấn Cao và viên quản ngục. Đồng thời, qua tình huống truyện cũng giúp chúng ta hiểu hơn về quan điểm về cái đẹp của nhà văn Nguyễn Tuân.

     Không chỉ thành công ở việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, truyện ngắn “Chữ người tử tù” còn xây dựng thành công các hình tượng nhân vật, trước hết là nhân vật Huấn Cao. Nhân vật Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm là người có tài viết chữ đẹp – tài viết thư pháp. Như chúng ta đã biết, tài viết thư pháp và nghệ thuật cho chữ là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc từ xa xưa đến nay và là tài năng được coi trọng. Và với Huấn Cao, tài viết chữ đẹp của ông nổi tiếng khắp nơi và được thể hiện rõ nét qua những lời khen, lời giới thiệu trong cuộc trò chuyện giữa viên quản ngục và thầy thơ lại khi Huấn Cao được giải đến chốn ngục tù này “Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và đẹp đó phải không?” Đặc biệt, tài viết chữ đẹp của Huấn Cao còn được thể hiện gián tiếp qua ước muốn, khát khao cháy bỏng có được chữ ông Huấn để treo trong ngôi nhà của mình của viên quan coi ngục “Chữ ông đẹp lắm, vuông lắm… Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”.

     Thêm vào đó, Huấn Cao còn là người có khí phách hiên ngang, tinh thần bất khuất. Huấn Cao là kẻ “chọc trời khuấy nước”, là người dám cầm đầu cả một cuộc đại phản chống lại triều đình để không đi lại lề lỗi cũ. Và chắc có lẽ bởi vậy, mà chỉ cần nghe đến tên của ông thôi cũng đủ làm cho bọn lính coi ngục phải dè chừng, khiếp sợ “Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn.” Khi đến trước cửa ngục, Huấn dường như chẳng lấy gì làm sợ hãi, ông vẫn có thái độ dỗ gông đầy bản lĩnh, tỏ rõ cái khí phách vốn có của mình “Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt.”

     Không dừng lại ở vẻ đẹp tài năng hay khí phách hiên ngang, hơn người, Huấn Cao còn là người có vẻ đẹp thiên lương trong sáng. Trong suốt cuộc đời mình, Huấn Cao chưa từng một lần cho chữ vì sợ quyền lực hay ham muốn địa vị vật chất, tiền bạc, ông từng nói “ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ.” Nhưng rồi vì cảm mến, vì trân trọng tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” của viên quản coi ngục mà ông cho chữ ngay giữa chốn ngục tù tối tăm ngay trước đêm ông chịu án tử “Nào đâu có biết một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.” Hành động cho chữ viên quản ngục của Huấn Cao xét đến cùng là tấm lòng quý trọng của Huấn Cao đối với những người biết coi trọng, nâng niu cái tài, cái đẹp.

     Cùng với nhân vật Huấn Cao, nhân vật viên quản ngục cũng góp phần không nhỏ vào thành công và sức hấp dẫn của tác phẩm. Trước hết, viên quản ngục là người có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” hay nói cách khác ông là người quý trọng cái đẹp, cái tài năng. Dù chưa từng một lần gặp mặt ông Huấn Cao nhưng từ tận sâu trong lòng mình viên quản ngục đã hết mực kính trọng và khao khát có được “chữ ông Huấn mà treo trong nhà”. Tấm lòng ấy của viên quản ngục thể hiện rõ nét qua thái độ, cách đối xử của ông với Huấn Cao trong những ngày Huấn Cao ở tù. Đó là thái độ kiên nhẫn dâng rượu thịt cho Huấn Cao với hi vọng có thể xin được chữ. Đó còn là thái độ lễ phép rút lui khi bị Huấn Cao mắng. Thêm vào đó, viên quản ngục còn là người có nhân cách cao đẹp. Mặc dù sống và làm việc nơi chốn ngục tù ẩm ướt, nơi cái xấu, cái ác đang từng ngày, từng giờ ngự trị song viên quản ngục vẫn giữ cho mình một tâm hồn cao đẹp, một tấm lòng say mê với cái đẹp, cái tài. Đặc biệt, nhân cách cao đẹp của ông thể hiện rõ nét qua cái chắp tay, cúi đầu bái lĩnh “kẻ mê muội này xin bái lĩnh” của ông sau khi Huấn Cao cho chữ.

     Đặc biệt, khi đọc thiên truyện “Chữ người tử tù” người đọc sẽ không thể nào quên được cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm. Chúng ta vẫn thấy cảnh cho chữ thường diễn ra ở những nơi thanh cao, tao nhã nhưng ở đây, cảnh cho chữ lại diễn ra ngay chốn ngục tù tăm tối, nơi mà cái ác, cái xấu vẫn đang từng giây, từng phút ngự trị “trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” trong một đêm tối tĩnh mịch trước ngày Huấn Cao chịu án tử. Và để rồi, trong nền không gian ấy, hình ảnh ba cái đầu chụm lại với nhau dưới ánh đuốc đỏ rực thật khiến người ta ám ảnh mãi không nguôi. Huấn Cao – người tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô những nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Còn viên quản ngục thì đang “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng” và thầy thơ lại “gầy gò, run run bưng chậu mực”. Có lẽ, cảnh cho chữ này là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” bởi lẽ cảnh cho chữ diễn ra nơi chốn ngục tù. Hơn thế nữa, người cho chữ ở đây lại người tử tù đang mang trên mình xiềng xích và chỉ nốt đêm nay thôi, ngày mai sẽ phải đối diện với án tử. Nhưng qua cảnh cho chữ ấy, đã để lại trong chúng ta nhiều suy ngẫm. Nó không chỉ làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của các nhân vật, mà qua đó còn giúp chúng ta hiểu hơn về quan niệm về cái đẹp của nhà văn Nguyễn Tuân. Với Nguyễn Tuân, cái đẹp luôn có khả năng và mang trong mình sức mạnh cảm hóa kì diệu, nó làm cho tất cả phải phục tùng và quỳ gối trước nó và hơn thế, cái đẹp luôn có sức mạnh cảm hóa và hướng thiện con người.

Tóm lại, truyện ngắn “Chữ người tử tù” với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, sử dụng ngôn ngữ góc cạnh đã cho ta thấy quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp cũng như tài năng của ông trong việc lựa chọn tình huống, xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn ngữ.

Phân tích vẻ đẹp nhân vật huấn cao ( hoặc viên quản ngục) trong chữ người tử tù. Từ đó nhận xét nghệ thuật khắc họa của nhà văn 31

Đọc tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân nhiều người chỉ chú ý đến  hình tương nhân vật Huấn Cao - một anh hùng thất thế, một con người có trái tim nhân hậu, khí phách hiên ngang - mà quên rằng: Thế giới nhân vật cứa Nguyễn Tuân không chỉ là những con người có tài nhưng không gặp thời mà ông còn luôn cố gắng khắc họa hình tượng những nhân vật tuy có cuộc sống bình thường nhưng tâm hồn lại rất trong sáng, luôn hướng tới cái thiện, cái đẹp, cái thiên lương của cuộc đời. Phải chăng, trong Chữ người tử tù đó chính là nhân vật viên quản ngục?

Vậy nhân vật này có nghề nghiệp gì và có những phẩm chất cao đẹp nào?

Ngay chữ “quản ngục” cũng nói cho chúng ta biết về nghề nghiệp của  nhân vật này. Đó là một người cai ngục, ông đại diện cho triều đình, cho

phe đôi lập với những con người có tài nhưng không gặp thời, những tướng cướp hảo hán, ngang ngược,

Sông giữa lũ người độc ác, bạo ngược, viên quản ngục này “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản dàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ....”.

Chiều hôm ấy, khi quản ngục nhận được công văn báo sẽ có sáu tôn tù tứ hình chuyển về ngục tạm giam, trong đó kẻ cầm đầu là Huấn Cao - một người có tài “viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, lại có tài “bẻ khóa”, “vượt ngục” hẳn người đọc sẽ tưởng tượng những trận mưa đòn sắp rơi xuống đầu những kẻ phản nghịch kia. Nhưng thật lạ! Không những không được nghe những tiếng quất kèm theo những tiếng kêu xé lòng mà ta còn bắt gặp thái độ trầm trồ kinh ngạc: “Tôi nghe ngờ ngợ Huấn Cao? Hay la cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cải tài viết chữ rất nhanh và rất dẹp do không?”. Chao ôi! Quản ngục nhận tù mà phải sửng sốt trước một tên tù như vậy u?

Ngay sau khi biết mình đang nắm trong tay sinh mệnh của Huấn Cao, ông đã phải trải qua một cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt: “Một khuôn mặt nghĩ ngợi...”, sau đó “ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”. Và sau cùng, ông đã chọn quyết định cho mình - một quyết định đúng đắn, khiến cho “Những dường nhăn nheo của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã  biến mất hẳn. ở dấy, giờ chỉ là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín dáo và êm nhẹ...”. Đây là biểu hiện của sự đâu tranh dằn vặt, day dứt của lương tâm vì ở con người này đẹp, biết trọng người tài. Cao hơn thế, ông còn là biểu tượng của cái đẹp, cái cao cả. Người chơi chữ phải là người có tám hồn đẹp. Vì vậy, quản ngục là một con người có tâm trong sáng, sống trong hoàn cảnh đề lao nhưng con người này vẫn giữ được thiên lương, giữ được cái tâm của con người như Nguyễn Tuân đã từng nói: “một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là kẻ vô tình”. Vậy, quản ngục cũng là một người tốt.

Tính cách của viên quản ngục đâu chỉ dừng lại ở cái đạo đức tốt, cái tâm hồn trong sáng kia! Ỏng có một sở thích thiêng liêng: “treo ở nhà riêng mình một dôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Một ké coi tù mà cũng biết yêu cái đẹp ư? Ông bị đặt trước một thử thách làm theo uy quyền hay làm theo nghệ thuật, theo lương tâm. Và cuối cùng, cái thiện, cái tâm đã chiến thắng. Sau quyết định nhân đức “biệt nhỡn Huấn Cao” tâm hồn và diện mạo của nhân vật này đã trở nên tươi đẹp hơn, rạng rỡ hơn. Ông là một người biết yêu cái đẹp, biết trọng cái tài, kính phục khí phách và nhân cách cao cả của Huân Cao. Mặc dù bị ông Huấn khinh bạc, sỉ nhục: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi dừng dặt chân vào dây", nhưng viên quản ngục lại lễ phép chui ra với một câu: “Xin lĩnh ý”. Và rồi cái gì đến sẽ phải đến, cái đẹp, cái thanh cao bao giờ cũng tìm được tri kỉ, tri âm. Hiếu được tâm lòng quản ngục, Huấn Cao đã nghĩ: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài (..) Thiếu chút nữa, ta phụ di mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Sở dĩ, quản ngục xin chư ông Huân là vì: “chữ ông Huấn Cao dẹp lắm vuông lắm (..)

Có được chữ của ông Huấn mà treo là có một báu vật trên dời”.

Có thê nói, sông giữa những con người xấu xa, độc ác mà viên quản ngục vẫn biết yêu cái đẹp, cái thiôn lương của cuộc đời. Ong còn là một người biết trọng người tài, “biệt nhỡn liên tài”. Sức mạnh của cái đẹp, cái thiên lương thật vo cùng lớn. Sức mạnh ấy được thể hiện rất rõ qua cảnh tượng cho chữ. ở cảnh tượng này, viên quản ngục này không còn là quán ngục nữa mà ông đã trỞ thành một con người hoàn toàn khác, là một mảnh hồn Nguyễn Tuân hóa thân. Nhưng tại sao cụ Nguyễn lại viết “xưa nay chưa từng có”?

Ở ngay trong phòng giam cua ke tư tù, trong một căn buồng tối tăm, chật hẹp, ẩm ướt, nơi từ xưa tới nay chỉ có tội ác, sự thô bỉ, hôi hám và bẩn thỉu, giữa cái tối tăm chật hẹp ấy chỉ có một ánh sáng duy nhất là bó đuốc tẩm dầu soi lén ba cái đầu đang chụm lại. Sau những nghi ngờ, khinh bạc, thù hằn, ba con người lẻ loi kia đã hiểu, họ xích lại gần nhau hơn. Ba đốm sáng lẻ loi đã chụm lại tạo thành ngọn lửa rực sáng chốn ngục tôi. Đó là sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của cái đẹp với cái nhơ nhuốc, bẩn thỉu.

Nhìn Huấn Cao trong tư thế: “Cổ đeo gông, chân vướng xiềng” là một con người tốt, quản ngục đã cảm động mỗi khi “khúm núm cất những dồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng”. Thái độ của ông lluấn Cao là thái độ trân trọng và vô cùng xúc động. Vị thê của ba con người đã hoàn toàn thay đổi trước quyền uy của cái đẹp. Hình ảnh tấm lụa trắng được nhắc đi nhắc lại đến năm lần: “Tấm lụa bạch... tấm lụa trắng tinh... phiến lụa óng... tấm lụa trắng trẻo... bức châm”. Hình ảnh này biểu tượng cho cái đẹp, cái cao cả, thanh khiết đáng trân trọng. Mực để viết là mực thơm: “Thoi mực, thầy mua ở dâu mà tôt và thơm quá”. Mùi mực thơm là biêu tượng cho sự cao quý hoàn toàn đôi lập với sự hôi hám bần thỉu của nhà tù. Được ông Huấn Cao đỡ cho đứng thắng người và khuyên bảo: "... thầy hây thoát khỏi cái nghề này di đã, rồi hãy nghĩ dến chuyện chơi chữ. ở đây khó giữ dược thiên lương cho lành vững...”, quản ngục đã cúi đầu “vái người tử tù một cái (...) dòng nước mắt rỉ vào cửa miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Lời khuyên của Huấn Cao là lời tâm huyết của kẻ tử tù không chỉ dành cho quản ngục mà là lời khuyên tất cả những người còn sống: Hay giữ vững ý chi quyết tâm, giữ vững thiên lương, nhân cách của một con người.

Một điều kì lạ: “Ngục quan cảm dộng, vái người tù một cái”. Có những cái cúi đầu làm người ta bé nhỏ, thấp hòn đi nhưng lại có những cái cúi đầu làm cho con người cao quy hơn, lớn lao hơn, trong sáng hơn. Cái cúi đầu của quản ngục là cái cúi đầu khuãt phục trước cái tài, cái dẹp và thiên lương. Cái cúi đầu đó cũng như cái cúi đầu trước hoa mai của Cao Chu Thần:

Nhất sinh dê thủ bái mai hoa.

(Cả đời chỉ cúi đầu trước vẻ đẹp của hoa mai)

Vị thế của các nhân vật đã hoàn toàn thay đổi. Đó là sự chiên thắng

của tài hoa và khí phách:

Cái đẹp đã đăng quang ưà cứu vớt con người.

CĐòx tôiepxki)

Có thể nói, viên quản ngục là một mảnh hồn của Nguyễn Tuân hóa thân. Cái tình của viên quản ngục và cái tài của Huấn Cao là một nét triết lí nhân sinh thuộc nhân sinh quan, thế giới quan cùa Nguyễn Tuân. Một con người vô danh tiếu tốt làm cái nghề thất đức lại có một cử chỉ. Một tấm lòng, một thiên lương cao quý. Trong bài Giếng khơi của mình thi sĩ Hồ Xuân Hương đã dùng hai chữ “thanh thơi”:

Giếng tốt thanh thơi giếng lạ lùng.

“Thanh” có nghĩa là trong, còn “thơi” có nghĩa là sâu. Cái “thanh" của viôn quản ngục phải chăng là cái tâm hồn trong sáng, luôn hướng tới cái thiện kia? Còn cái “thơi” phải chăng cũng là cái tâm lòng của Ông với Huấn Cao?

Tóm lại, tác phẩm đã thể hiện tư tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân. Cái đẹp, cái tài đã chiến thắng tất cả. Nó nâng đỡ và dìu dắt con người xích lại với nhau tạo nên sức mạnh chiên thắng mọi gông xiềng, quyền uy và thế lực. Nghệ thuật khắc họa nhân vật của cụ Nguyễn đầy ấn tượng đã tạo ra cho tác phẩm những bức tranh, hình ảnh đầy kịch tính với một ngôn ngữ khỏe khoắn, gân guổc đầy cảm giác và tân kỳ. Người ta thường nói đến phong cách của Nguyẽn Tuân gói gọn trong chữ “ngông” song thực tế không phải vậy. vẻ đẹp của quản ngục là biểu tượng cho thiên lương của con người, ở đây nó còn là hiện thân của cái đẹp. Nói như Vũ Ngọc Phan giá trị của tác phẩm “gần đạt đến sự toàn mĩ” là từ nhân vật này chăng?

Phân tích cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân 32

Cho chữ vốn là hoạt động thanh cao, là lúc nghệ thuật được đẩy lên vị trí cao nhất, là khoảng thời gian người nghệ sĩ sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy mà người ta thường sáng tạo thư pháp ở những nơi như thư phòng, viện sảnh hay là những nơi có đủ trăng, hoa, rượu thơm lừng để có cảm hứng tốt nhất mà tạo nên nghệ thuật. Thế nhưng hoàn cảnh cho chữ trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” lại hoàn toàn khác.

Đó là lúc đêm khuya, không gian đối lập với sự thông thường. Tại trại giam vùng tỉnh Sơn chỉ còn tiếng mõ trên vọng canh, buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Ánh sáng phục vụ cho việc cho chữ không phải là những ngọn đèn lớn, ánh sáng rực rỡ mà là bó đuốc được tẩm dầu, khói bốc tỏa cay mắt. Cái ẩm ướt, tối tăm nơi nhà giam hoàn toàn đối lập với màu trắng tinh khôi của tấm lụa, ánh sáng đỏ rực của ngọn đuốc, mùi thơm của thoi mực.

Hơn thế, ánh sáng và bóng tối là hai hình ảnh đối lập nổi bật trong truyện mang người đọc đến với cảm giác muốn đọc tiếp, đào sâu hơn tình tiết truyện. Bóng tối nơi nhà tù đặc quánh như bao trùm, phủ kín tất cả như muốn nuốt tươi ánh sáng tồn tại nơi đây.Thế nhưng ánh sáng vẫn cứ cháy rừng rực, không chịu lu mờ trước bóng tối dày đặc. Ở đây đã không còn đơn thuần là ánh sáng vật lí, ánh sáng tỏa ra từ bó đuốc tẩm dầu nữa mà nó đã được nâng cao thành ánh sáng của nhân sinh, ánh sáng của thiên lương, ánh sáng của những tâm hồn đẹp biết nâng niu, trân trọng và gìn giữ cái đẹp. Ánh sáng ấy đã bừng cháy, xóa tan màn đêm nơi ngục tù nhơ bẩn để đến cuối cùng nó đã chiến thắng bóng tối âm u của không gian, thời gian còn con người đã chiến thắng cường quyền bạo lực. Nó giúp khai tâm, cảm hóa con người trở về với cuộc sống lương thiện.

Không gian và thời gian là thế, tư thế của con người càng lạ hơn, đặc biệt hơn. Đó là hình ảnh lẫm liệt của Huấn Cao: một người tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên một tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Vẻ đẹp của một tư thế hiên ngang bất khuất, không có gông cùm xiềng xích nào có thể trói buộc được tâm hồn say mê sáng tạo cái đẹp đã được hiện hữu chỉ bằng một câu văn. Trái ngược với Huấn Cao là sự nhỏ bé , tầm thường của viên quản ngục và thầy thơ lại: quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm, thầy thơ lại gầy gò, run run bưng chậu mực. Đó là hai tư thế chưa từng có. Sự có mặt của quản ngục và thầy thơ lại càng tô đậm thêm nét đẹp ở Huấn Cao. Đến đây, bạn đọc có thể dễ dàng nhận ra đã có sự chuyển giao về quyền lực, ngôi bậc. Sự ô uế, nhơ bẩn trong nhà ngục không còn nữa. Ở đây ta chỉ còn bắt gặp sự uy nghi, đường hoàng, bắt gặp những tâm hồn nghệ sĩ đang hòa quyện vào nhau còn cái đẹp thì đang được tôn vinh. Lúc này, người tù đã ngự trị nơi mà cái ác, cái xấu bao quanh khiến cho quản ngục phải kính nể. Huấn Cao từ chỗ là một người tử tù giờ đây đã trở thành một người nghệ sĩ, một người anh hùng không bị vướng bận bởi cái chết ở gần kề trước mắt, vẫn một lòng đầy tâm huyết sáng tạo nên cái đẹp trong ánh hào quang bất tử, trong ánh sáng của lương tri. Những nét chữ điêu luyện, tinh tế đang hòa mình cùng ánh sáng của thiên lương để tỏa sáng giữa ngục tù của cái xấu cái ác, của nơi mà khi nhắc đến người ta đã nghĩ đến roi vọt, bạo tàn. Lại một lần nữa, cái tài hoa, khí phách hiên ngang và thiên lương trong sáng đã hợp lại thành một khối thống nhất, làm nên sức mạnh kì diệu khiến cho mọi uy quyền của nhà tù phải khuất phục, sụp đổ. Giờ đây ta không còn thấy khoảng cách giữa tử tù và quản ngục cũng như không còn cái xấu cái đẹp mà chỉ còn những con người cùng chung lí tưởng, những tâm hồn biết yêu, biết trân trọng và thưởng thức giá trị của cái đẹp; cái xấu đã nhường chỗ cho cái đẹp bất tử cùng thời gian.

Cảnh cho chữ là tiền đề mở ra ý nghĩa nhân sinh. Đó là sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối; sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, nhơ bẩn; sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Lời khuyên nhủ của Huấn Cao với quản ngục hay còn được coi là một chúc thư về lẽ sống gắn liền với giá trị của cái đẹp. Chiến thắng đã được trỗi dậy ngay trong khoảnh khắc viên quản ngục nghẹn ngào xúc động: kẻ mê muội này xin bái lĩnh.

Gấp lại trang sách chắn chắn bạn đọc sẽ chẳng thể nào quên được một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có cùng ngòi bút của người nghệ sĩ tài hoa: Nguyễn Tuân.

Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) 33

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Người ta thấy dưới ngòi bút của ông lời văn hiện lên đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ. Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ người tử tù. Hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã được tác giả xuyên suốt trong đoạn trích.


Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in năm 1938 trên tạp chí Tao Đàn, sau đó được tuyển in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Nhân vật chính trong Chữ người tử tù là Huấn Cao, một nhân vật điển hình trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Đó là những người tài hoa, bất đắc chí. Họ không chỉ có tài mà còn có cái tâm trong sáng, mặc dù chí không thành nhưng tư thế vẫn hiên ngang, bất khuất.

Đoạn trích Chữ người tử tù là một câu chuyện về một viên quản ngục mến mộ tài năng, nhất là tài viết chữ Hán đẹp, nhưng éo le thay cho số phận lại là một người bị án tử hình (chém), trước cái tài, cái đẹp viên quản ngục đã bí mật đối đãi trân trọng bởi tử tù với mong ước xin được chữ quý. Làm mọi cách để xin chữ nhưng do Huấn Cao – tử tù tưởng viên quản ngục là người xấu nên đã không cho, cao trào đoạn trích dâng cao khi tử tù bị mang ra pháp trường thì ông lại được tử tù cho chữ và những lời khuyên đáng trân trọng trong cuộc sống.

Tình huống truyện là tình thế xảy ra trong truyện, tạo ra cho câu chuyện thêm đặc sắc. Nguyễn Tuân đã xây dựng nên một tình huống truyện tưởng như éo le nhưng chính cái eo le ấy lại mang lại tính kịch tính của câu chuyện giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh để làm hiện lên những nét đẹp của con người tài đức.

Bằng ngòi bút văn học lãng mạn tức là mô phỏng theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà văn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Trong đoạn trích này, Nguyễn Tuân đã xây dựng hình ảnh nhân vật Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Tác giả để nhân vật chính hiện lên gián tiếp thông qua cuộc đối thoại giữa viên thơ lại và quản ngục. Tuy hiện lên gián tiếp nhưng có thể thấy được vẻ đẹp của Huấn Cao là một vẻ đẹp của người văn võ toàn tài, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài của Huấn Cao được tô đậm bằng việc viết chữ đẹp, mà người ta thường có câu “nét chữ nết người”. Nét chữ của ông “đẹp lắm, vuông lắm” khiến nhiều người mơ ước có được. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Nó là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình.

Ngoài tài cao, ông còn là một người có tấm lòng trong sáng, cao quý. Mặc dù có tài, và nhiều người sẵn sàng mua chữ của ông, nhưng ông cũng không bán. Ông chỉ cho chữ, khi người đó thực sự đáng kính, đáng tôn và cũng phải có vẻ đẹp, biết trân trọng cái Thiện, cái Mỹ.

Tính cách của Huấn Cao  như vậy, nên khi viên quản ngục có ý định xin chữ, và đối tốt với ông, ông luôn tỏ ra bất cần và không quan tâm. Tưởng như quản ngục là một người làm việc không tốt và là bè lũ tay sai của bọn quan lại tham ô, hối lộ, k xứng đáng làm quan. Thế nhưng, ngược lại quản ngục lại hiện lên trước mắt người đọc là một nhân vật lương thiện, biết phân biệt đẹp tốt, có thú chơi tao nhã: chơi chữ. Sở nguyện cả đời của ông là có được đôi câu đối do chính tay Huấn Cao viết để treo trang trọng trong nhà. Cái sở nguyện này mạnh mẽ vượt qua cả nỗi sợ hãi, bất chấp mọi nguy hiểm đến bản thân, làm đảo lộn trật tự trong tù, biến một phạm nhân có án tử hình thành một thần tượng để mình tôn thờ.

Thế nhưng, khi biết được sự lương thiện và ước mong chính đáng, biết quý trọng cái đẹp Huấn Cao liền cho quản ngục chữ. Cái hay ở đây là, người ta thường thấy cảnh cho chữ diễn ra ở khuê phòng, người cho chữ trong tâm trạng thoải mái. Nhưng ở đây, Huấn Cao lại là người tử rù, ngày mai bị mang ra pháp trường xử chém. Trong khi, không gian lại chật hẹp, toàn mùi phân gián, phân chuột, ngọn đuốc cháy phập phồng trong đêm. Bất chấp điều đấy, một cảnh tượng đẹp được hiện lên đó là cảnh cho chữ của những con người biết hướng về cái đẹp, quý trọng vẻ đẹp chân chính. Vẻ đẹp kết hợp giũa cái Tài với cái Tâm. Có thể nói, cảnh tượng cho chữ này xưa nay chưa từng có. Sau khi cho chữ, Huấn Cao còn khuyên quản ngục về quê sống, tránh xa những nơi bon chen, cuộc sống lấm lem, không hợp với những người thích chơi chữ như quản ngục. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẵn dắt quản ngục – một kẻ nhầm đường, lạc lối.
Cũng qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.

Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) 34

Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo sáng tạo lên một tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó là cảnh cho chữ trong nhà giam- là phần đặc sắc nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm, ở vị trí này tình huống truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý nghĩa cởi nút,giải tỏa những băn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, từ đó toát lên những giá trị lớn lao của tác phẩm.

Sau khi nhận được công văn, viên quản ngục đã rãi bày tâm sự của mình với thầy thơ lại. Nghe xong truyện, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để kể rõ nỗi lòng viên quản ngục. Và đêm hôm đó, trong một buồng tối chật hẹp với ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để sáng tạo nghệ thuật người ta thường tìm đến những nơi có không gian đẹp, thoáng đãng , yên tĩnh. Nhưng trong một không gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn chốn ngục tù thì việc sáng tạo nghệ thuật vẫn xảy ra. Thời gian ở đây cũng gợi cho ta tình cảnh của người tử tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ và cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh ấy thì “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trăng tinh”. Trong khi ấy, viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm lúm chuyển động.ở đây cho thấy dường như trật tự xã hội đang bị đảo lộn. Viên quản ngục đáng nhẽ phải hô hào, răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì tù nhân lại trở thành người răn dạy, ban phát cái đẹp.

Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao – người có tài viết chữ nhanh, đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại – những người thích chơi chữ. Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án tử hình (Huấn Cao) và một bên là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Vì thế mà thật là chua xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng ba con người ấy gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn thật của mình. Trong đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và những nét chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Vào lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn ngục tù tối tăm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương chiến thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.

Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể bền vững. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác( cho chữ trong tù) nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến thú chơi chữ là môn nghệ thuật đòi hỏi sự cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức chữ không mấy ai thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.

Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản nguc xúc động “ vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái thiện. Và trên con đường đến với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong khung cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là thường, vượt lên trên những cái dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một niềm tin vững chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân – thiện – mĩ.

Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “ Chữ người tử tù” mà đặc biệt là cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật trước cách mạng, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh đó, truyện còn ca ngời viên quản ngục và thầy thơ lại là những con người tuy sống trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.

“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân cách cao cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dong chữ cuối cung của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau. Nếu không có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai một. Đó cũng là tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.

Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng tạo không khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật.( văn học cổ nói chung không tả thực và phân tích tâm lí nhân vật)

Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đáo bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân bản: dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong ‘Chữ người tử tù’ 35

Nguyễn Tuân, một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam; có những sang tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “chiếc ấm đất”, “chén trà sương”… và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phầm Chữ người tử tù”.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng của Cao Bá Quát vớI văn chương “vô tiền Hán”, còn nhân cách thì “một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai” làm nguồn cảm hứng sang tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sang ngời và rất đỗI tài hoa.

Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cái cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu đến tấm long trong sang của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp.

Huấn Cao với tư cách là người nho sĩ viết chữ đẹp thể hiện ở cái tài viết chữ. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách của con người. Chữ của Huấn Cao “vuông lắm” cho thấy ông có khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một báu vật trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn là chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.

Huấn Cao trong cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, lầm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”.

Nếu như Huấn Cao phục tùng cho bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác : con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khoá, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiếm có trên đời.

Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lí của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang,kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỵch một cái” và “lãnh đạm” khong thèm chấp sự đe doạ của tên lính áp giải.

Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu goong, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dùng cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục!

Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời: “Người hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây nữa thôi”.

Cách trả lời ngang tàn, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là…” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội.

“Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương” , bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý.

Thế nhưng khi biết được nỗi lòng viên quản ngục, Húan Cao không nhữg vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt ra rằng :
“Ta cảm tấm lòng biệt nhãn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.

Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay quyền uy mà ép cho chữ bao giờ”.

Hành động cho chữ viên quản ngụ chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang tàng với mình.

Quay cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử từ “cổ đeo gông, chân vướng xích” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, tác giả Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa của con người.

Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu trách nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người ca khuyên bảo con:
“Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành lắm rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện”.

Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi.

Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi’ Huấn Cao , người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xoá tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.

Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.

Sức mạnh của cái đẹp trong truyện Chữ người tử tù 36

        Nhà văn thiên tài người Pháp thế kỉ XIX Vích-to Huy-gô đã từng cho rằng: Tác phẩm nghệ thuật ưu tú là tác phẩm đạt đến tính tuyệt đối. Nghĩa là nghệ thuật không chấp nhận cái bình thường, tầm thường mà phải luôn tìm kiếm và vươn tới cái hoàn mĩ, cái cao cả. Có lẽ khi viết Chữ người tử tù, một truyện ngắn mang đầy đủ những yếu tố đặc trưng của văn học lãng mạn, nhà văn Nguyễn Tuân cũng đã từng nghĩ tới nhận định ấy. Nếu Vích-to Huy-gô xem cái tầm thường giết chết nghệ thuật thì suốt đời Nguyễn Tuân theo đuổi và tôn thờ cái đẹp, đưa nó lên như một thứ tôn giáo, một thứ tín ngưỡng và niềm tin. Là nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ, thích cái đẹp, cái độc đáo, thích sự cầu kì, Nguyễn Tuân đã tạo cho mình một thế giới những nhân vật đặc biệt, những hoàn cảnh đặc biệt và những cá tính không lặp lại. Dẫu nhiều độc giả có đôi lúc cũng tỏ ra khó chịu vì sự quá mức cầu kì trong câu chữ, trong những hình ảnh và hoàn cảnh được chọn lựa, song hiếm có ai không trân trọng sự lao động nghệ thuật một cách nghiêm túc, đầy công phu của nhà văn họ Nguyễn. Đọc Chữ người tử tù, ta như được phiêu lưu trong một thế giới chứa đầy và đan xen những xúc cảm đặc biệt: Từ hồi hộp theo dõi cuộc gặp gỡ của những con người đặc biệt đến lo lắng cho sự chạm trán của những địa vị trái ngược, những thân phận không thể dung hòa và vỡ òa trong cảm xúc vui sướng trước sự lên ngôi của cái đẹp, cái thiện, cái văn hóa, dẫu đâu đây còn có nỗi niềm bâng khuâng, tiếc thương cho sự ra đi của một kiếp người tài hoa. Cái đẹp quả thực có sức mạnh phi thường, giúp con người ta vươn tới, hướng về, níu giữ tính người cho con người, giữ mãi trong ta cái cốt lõi của tính nhân bản. Hình tượng Huấn Cao, viên quản ngục quả thực đã để lại trong ta những dư vị khó quên về sức mạnh của cái đẹp, cái văn hóa!

1) Cái đẹp vươn tới, hướng về, níu giữ bản tính tốt đẹp cho con người

Hình tượng ngôi sao chính vị của tác phẩm – Huấn Cao quả thực đã được Nguyễn Tuân xây dựng như là biểu tượng cho sự hoàn mĩ. Con người ấy không chỉ đẹp từ lí tưởng sống, tài năng, khí phách, bản lĩnh mà còn ở tấm lòng và sự tài hoa. Sự xuất hiện của Huấn Cao ở trại tù tỉnh Sơn quả thực là một sự kiện được mong đợi. Người ta trông chờ sẽ gặp ở đây một kẻ chọc trời quấy nước, một kẻ văn võ song toàn, mang vẻ đẹp từ lí tưởng, hoài bão đến hành động. Và hơn hết, trong cuộc gặp gỡ này, người ta mong chờ được thấy Huấn Cao – một con người tài hoa, nức danh trong nghệ thuật viết chữ đẹp, bởi cả vùng tỉnh Sơn vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp. Sự xuất hiện của ông Huấn ở nhà ngục tỉnh Sơn quả thực đã đáp ứng được những nỗi niềm mong mỏi ấy. Cái hành động dỗ gông ở cửa nhà lao mà không thèm đếm xỉa gì đến lời nói của bọn lính, cái thái độ thản nhiên, ngạo nghễ nhận rượu thịt trong nhà lao xem như đó là những việc vẫn thường làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm và đặc biệt là lời nói khinh bạc với viên quản ngục khi ông ta có ý định giúp đỡ: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Quả thực tất cả đều toát lên khí phách của một bậc trượng phu, quân tử. Đó là con người của chí khí, lí tưởng và hành động. Tất cả là dáng dấp của con hổ chốn rừng xanh. Dẫu cho bây giờ, vị chúa tể sơn lâm ấy đang bị giam cầm thì có lẽ cái chốn nhà ngục tỉnh Sơn ấy cũng không mang nhiều ý nghĩa hơn một chốn dừng chân thông thường. Cái đẹp của sự tài hoa chưa xuất hiện như những lời đồn đại trước đó, song sự hiện diện của Huấn Cao đã làm thức dậy ở viên quản ngục những ấp ủ về khát vọng vươn tới cái đẹp. Đêm hôm ấy, tại nhà tù tỉnh Sơn, người ta thấy những xao động kín đáo, êm nhẹ đã bắt đầu xuất hiện trên khuôn mặt như mặt nước ao thu bằng lặng của viên quản ngục. Cái ao ước sở hữu dòng chữ Huấn Cao vốn lâu nay ở viên quản ngục chỉ là dòng suối âm thầm, róc rách chảy thì giờ đây, sự xuất hiện của ông Huấn đã khơi thông dòng chảy ấy để nó trở nên tuôn trào mãnh liệt. Cái đẹp của nghệ thuật có thể khiến cho con người trở nên bất tử và cũng có thể giúp cho con người vươn tới, hướng về, níu giữ mãi mãi tính người. Hình tượng Huấn Cao không chỉ thức dậy ở viên quản ngục khao khát cái đẹp đã được ấp ủ từ lâu, nó còn đưa lại cho ông ta sức mạnh, lòng can đảm để theo đuổi khát vọng và đam mê. Cái đêm cho chữ ở trại tù tỉnh Sơn quả thực là một sự nổi loạn. Tất cả cái tối tăm, nhơ bẩn, hôi hám đã hoàn toàn biến mất, nhường chỗ lại cho ánh sáng, cho cái đẹp, cái văn hóa sinh thành. Nhờ cái đẹp từ con người và dòng chữ của Huấn Cao, viên quản ngục đã có đủ dũng khí để dám làm một việc đảo lộn trật tự nhà giam nhằm theo đuổi và tôn thờ cái đẹp. Khí chất, bản lĩnh con người và cái đẹp của nghệ thuật quả là có sức mạnh kì diệu làm thay đổi con người. Không những thế, nghệ thuật đích thực góp phần níu giữ tính nhân bản cho con người. Cái đẹp toát lên từ dòng chữ, từ khí phách và tấm lòng của Huấn Cao quả thực đã giúp viên quản ngục dám thay đổi hoàn cảnh sống, tìm lại bản tính thiên lương và đam mê cái đẹp, thức tỉnh cái khát vọng đổi thay bởi ông không thuộc về nơi ấy. Cái đẹp của nghệ thuật, của khí phách, của tình người đã góp phần vươn tới, hướng về, níu giữ những phẩm chất đáng quý của con người, trả lại cho viên quản ngục những nét đẹp cao quý trong khát vọng, mơ ước và tính cách của một con người biết giá người, biết trọng người ngay với một tâm điền tốt để thực sự trở thành một thanh âm trong trẻo vút bay cao giữa hoàn cảnh tột cùng của cái xấu, cái ác, cái nhơ bẩn và xấu xa!

2) Cái đẹp thức tỉnh có giá trị thức tỉnh

Đề cao cái đẹp, hướng con người tới những giá trị nhân văn cao quý là sứ mệnh thiêng liêng của những tác phẩm văn chương đích thực. Xuyên suốt Chữ người tử tù, người ta thấy sự hiện diện của cái đẹp để thức tỉnh con người. Khí phách, nhân cách và sự tài hoa của Huấn Cao đã làm viên quản ngục thức tỉnh, ý thức rõ hơn về cái thân phận bị cầm tù trong cái lồng cũi của tội ác, cường quyền đầy hỗn loạn, xô bồ. Không những thế, nó còn giúp ông có thêm dũng khí để chọn lựa bước đường lương thiện tiếp theo. Nhưng nếu chỉ thấy được sự tác động một chiều từ Huấn Cao tới viên quản ngục thì đó quả thực là một thiếu sót lớn. Thế giới nhân vật được xây dựng bởi bàn tay tài hoa của nhà văn họ Nguyễn không phải sinh ra để nói những điều đơn giản. Nếu Huấn Cao là ngôi sao chính vị đang muốn từ biệt vũ trụ thì viên quản ngục và thậm chí là cả thầy thơ lại cũng là những ngôi sao sáng cùng châu tuần và nâng đỡ cho ngôi sao chính vị ấy. Những ngôi sao ấy cùng tỏa sáng và cùng soi sáng cho nhau để làm rực rỡ lên cho cái đêm tối tăm ở trại tù tỉnh Sơn. Tấm lòng biệt nhỡn liên tài, biết giá người, biết trọng người ngay và sở thích cao quý hướng về cái đẹp của viên quản ngục quả thực đã làm cho Huấn Cao thức tỉnh và thực sự xúc động. Sự chân thành của một tấm lòng đã đánh thức một tấm lòng khác. Vật chất, uy quyền hoàn toàn trở nên vô nghĩa, vô giá trị, chỉ còn lại tấm lòng và vẻ đẹp của nghệ thuật, của tình người lên ngôi. Trong cái đêm tối tăm ở trại tù tỉnh Sơn, vào đúng cái khoảnh khắc cuối cùng của một đời người ngang dọc, Huấn Cao hiên ngang cho chữ lồng lộng giữa trời đêm trong ánh sáng rực rỡ của bó đuốc tẩm dầu. Cả ba con người cùng chụm vào nhau, hồi hộp đón nhận khoảnh khắc cái đẹp sinh thành. Cường quyền, địa vị đã hoàn toàn biến mất, chỉ còn lại nơi đây cuộc gặp gỡ của những tấm lòng trong thiên hạ. Cái đẹp của nghệ thuật đã rút ngắn khoảng cách xa vời vợi trước đó để đưa Huấn Cao, viên quản ngục và thầy thơ lại xích lại gần nhau, hòa điệu để thực sự trở thành những kẻ tri âm, tri kỉ. Quả thực, vẻ đẹp của những con chữ vuông, tươi tắn, nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người đã đánh thức thiên lương, thức dậy cái khát vọng được sống trong sạch để theo đuổi thú chơi chữ ở viên quản ngục. Và cũng chính tấm lòng của ông đã lại thức tỉnh ở Huấn Cao niềm trân quý những con người biết trân trọng, say mê và giữ gìn cái đẹp trong vốn văn hóa cổ truyền của cha ông. Dòng chữ cuối cùng của ông Huấn chính là của một kẻ tri âm trao lại cho một người tri kỉ. Nó nhắc nhở viên quản ngục hãy đi tiếp con đường gìn giữ vốn quý ông cha. Và như vậy, cái đẹp thực sự đã có sức mạnh ghê gớm thức tỉnh những khao khát, ước mơ, đánh thức khát vọng, tấm lòng và quan trọng hơn nó giúp cho con người có thêm sức mạnh, có đủ dũng khí để thay đổi hoàn cảnh sống, vươn tới một cuộc sống tốt đẹp và lương thiện hơn. Cái đẹp quả thực đã góp phần níu giữ những giá trị tốt đẹp nhất của mỗi con người, hối thúc con người ta vươn tới cái cao cả, cái thánh thiện, cái chân – thiện – mĩ và những giá trị tinh thần cao quý!

3) Cái đẹp níu giữ hồn văn hóa ông cha

Hình tượng Huấn Cao được xây dựng để vươn tới cái hoàn mĩ. Ở nhân vật ấy, người ta cảm nhận được những thông điệp và thái độ đáng quý trọng của nhà văn Nguyễn Tuân dành cho vốn văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Nức danh trong nghệ thuật viết chữ đẹp; không vì tiền tài, danh vọng, thế lực mà khom lưng luồn cúi để bẻ cong ngòi bút; cả một đời sống với lí tưởng, hoài bão lớn lao, cao cả; khí khái, hiên ngang trước cường quyền và trước cả cái chết, Huấn Cao mang đầy đủ trong mình những tố chất xứng đáng để Nguyễn Tuân lựa chọn làm người đóng vai trò lưu giữ những nét đẹp trong văn hóa của cha ông ta xưa. Và cũng như vậy, bằng tấm lòng trân trọng, bằng niềm say mê, bằng dũng khí dám từ bỏ tiền tài, địa vị để theo đuổi niềm đam mê chơi chữ, viên quản ngục đóng vai trò là người tiếp lửa cho những giá trị văn hóa ấy mãi mãi trường tồn cùng dân tộc. Văn hóa là một dòng chảy liên tục mà kể cả người sáng tạo hay người say mê lưu giữ đều có vai trò quan trọng như nhau để làm cho dòng chảy ấy chảy xa hơn, lâu hơn trong những bước thăng trầm của lịch sử. Có thể vào buổi sáng tinh sương ngày mai, người nghệ sĩ tài hoa, kẻ chọc trời khuấy nước dám chống lại cả triều đình phong kiến –  Huấn Cao sẽ bị giải về kinh chịu án chém nhưng những dòng chữ vuông, tươi tắn, nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người trong cái đêm cuối cùng Huấn Cao để lại cho viên quản ngục sẽ vẫn mãi bất tử trong tấm lòng và tâm hồn của những người đồng điệu. Viết Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã gửi gắm cả cái khát vọng bất tử hóa, lưu giữ mãi mãi cái đẹp trong vốn văn hóa truyền thống cha ông. Cái đẹp, cái văn hóa thực sự vững bền bởi nó là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người, nhắc nhở mỗi chúng ta về sự quý trọng, gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp của vốn văn hóa cổ truyền. Chữ người tử tù, như vậy có thể xem là một nghĩa cử, một sự trân trọng, thể hiện tình yêu và sự gắn bó tha thiết của nhà văn Nguyễn Tuân với văn hóa – con thuyền chuyên chở hồn cốt và điệu hồn dân tộc!

Chiếc đồng hồ thời gian lại vẫn tiếp tục thực hiện những vòng quay miên viễn. Đất nước đang tiếp tục bước tiếp hành trình vạn dặm sang thế kỉ XXI với những bước chân nhiều vận hội nhưng cũng lắm chông gai. Sự lên ngôi của những giá trị vật chất, sự xuống cấp trầm trọng của những nền tảng luân lí và đạo đức con người đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về sự cần thiết của những nền tảng văn hóa trong nếp sống, suy nghĩ và hành động của mỗi con người. Thế mới biết, trong bất cứ thời đại nào và ở hình thái xã hội nào đi chăng nữa, sự am hiểu, tri thức và ý thức về văn hóa đều cần thiết biết bao. Ở những năm 40 của thế kỉ XX, với Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã nói lên tiếng lòng và tình yêu tha thiết ông dành cho cái đẹp, cho những giá trị văn hóa cốt lõi trong tình thần dân tộc. Người ta nói, văn hóa chính là những cái còn lại khi tất cả mọi cái đã mất đi. Hồn cốt tạo nên nền tảng văn hóa dân tộc Việt có lẽ không có gì khác ngoài truyền thống yêu nước, yêu hòa bình và trọng sự học. Trân trọng và đưa chữ viết lên thành một thứ nghệ thuật đầy đam mê cái cốt lõi không là gì khác ngoài tình yêu dành cho tri thức, trí tuệ. Hình tượng Huấn Cao, viên quản ngục trở nên lồng lộng và có sức sống lâu bền trong lòng độc giả nhiều thế hệ bởi nó chuyển tải những thông điệp văn hóa có tính chất trường tồn như thế. Bởi xét đến cùng, khi con người ta có tri thức, trọng chữ viết, trọng sự học là lúc ta hiểu rõ đạo lí và biết cách làm một con người chân chính. Một đất nước, một dân tộc giữ vững được những điều căn cơ như vậy chính là nền tảng tạo nên một thiết chế văn hóa lành mạnh, tốt đẹp giữa người với người. Trân trọng văn hóa là trân trọng quá khứ, trân trọng nguồn cội. Đất nước nào gìn giữ và làm được điều ấy là một đất nước may mắn, bởi “một dân tộc không có quá khứ là một dân tộc bất hạnh” và còn bởi vì “nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”. Viết Chữ người tử tù, nhà văn Nguyễn Tuân thực sự đang hướng về, đang níu giữ những giá trị văn hóa tốt đẹp của cha ông. Đó thực sự là tiếng lòng khẩn thiết của ông về việc gìn giữ những vốn quý trong văn hóa cổ truyền, đừng để nó dần dần bị lãng quên trong lớp bụi mờ của thời gian để còn lại đâu đây “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” như tiếng kêu thương đầy sầu muộn của Vũ Đình Liên trong bài thơ Ông đồ của một thời tàn tạ:

Năm nay đào lại nở

Chẳng thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân 37

Nguyễn Tuân sinh năm 1910 ở làng Nhân Mục, tục gọi là làng Mọc, thuộc Hà Nội. Ông là người có bản lĩnh cứng cỏi trong đời sống và trong sáng tác văn học; hiểu biết rộng, quý trọng tài năng, coi trọng nghề nghiệp, có những sáng tạo độc đáo trong lời văn cũng như trong cảm nghĩ. Sự nghiệp văn học của ông gồm hai giai đoạn. Các tác phẩm tiêu biểu trước 1945: Vang bóng một thời (1940), Tuỳ bút 7 (1941), Tuỳ bút II (1943). Sau 1945: Tình chiến dịch (1950), Tuỳ bút kháng chiến (1955), Sông Đà (1960), một số bài phê bình và giới thiệu chân dung văn học. Nguyễn Tuân có những đóng góp đáng kể cho nền văn xuôi hiện đại, nhất là ở thể loại tuỳ bút, ở cảm thụ sâu sắc và ở văn phong cầu kì, đa dạng như một ống kính trăm màu.

Chữ người tử tù rút từ tập truyện Vang bóng một thời. Như tựa đề, đó là cuốn sách ghi chép về một thời và một lớp người đã tàn trong quá khứ, mà bóng dáng hãy còn in đậm trong trí nhớ, trong sự kính phục, tôn sùng của tác giả. Chữ người tử tù là câu chuyện về một viên quản ngục mến mộ tài năng, nhất là tài viết chữ Hán đẹp nổi tiếng của một người tù án chém. Ông ta đã bí mật đối đãi trân trọng người tù với mong ước xin được chữ quý. Cuối cùng, tưởng đã hết hi vọng xin chữ thì ông lại được người tù vui vẻ cho chữ, kèm theo lời khuyên hãy bỏ nghề coi ngục, về quê sống thanh bần để giữ được tâm hồn trong sạch, xứng với thú chơi chữ đẹp. Thông qua câu chuyện ấy, đặc biệt là cảnh cho chữ ban đêm trong ánh đuốc đỏ rực, tác giả muốn nêu bật giá trị cao quý của Cái Đẹp: đẹp chữ viết, đẹp đức cao, đẹp nhân cách. Đồng thời ca ngợi người biết quý trọng gìn giữ Cái Đẹp ấy như một báu vật ở đời mà ngọc vàng, quyền thế cũng không sao đổi được.

Người đọc ngày nay tìm hiểu văn chương xưa bao giờ cũng phải vượt qua một cửa ải khó khăn. Đó là vốn văn hoá, lịch sử làm nền cho tác phẩm. Nói về phong kiến là nhắc tới vua quan và dân đen, địa chủ và nông dân. Nói về đạo Nho là nhắc tới cương thường, trên trí quân, dưới trạch dân. Nói về đạo Phật là nhắc tới luân hồi, từ bi... thì có thể cũng hiểu được sơ sơ đôi chút, nhưng trước những sản phẩm vật chất và tinh thần của văn hoá phong kiến cách đây trên một thế kỉ được đề cập tới trong truyện ngắn này thì quả thật không dễ hiểu chút nào. Nguyễn Tuân có dụng ý rõ ràng khi dựng lại một không khí xưa cũ như thế trong truyện Chữ người tử tù. Cảnh vật, con người, sự việc hiện ra cũng đậm màu sắc ấy, đưa chúng ta trở lại quá khứ cách đây hơn trăm năm.

Mở đầu, nội dòng chữ : phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, muốn hiểu cho thấy ngọn ngành, e đến bạc tóc. Bình thường, người ta viết là tờ trát, lá trát, nhưng tác giả vẫn để nguyên cách gọi của thời đó với nghĩa nghiêm trọng là phiến trát. Còn tại sao ông không viết: của quan tổng đốc Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường theo kết cấu Hán văn y như trong phiến trát để cho nó giữ nguyên cái tính chất quan yếu, dậy mùi quyền lực ngay trong từng chữ... Đốc bộ đường là chữ dùng để chỉ chức vụ Tổng đốc. Lại thêm tên gọi tắt của ba tỉnh Sơn (Sơn Tây), Hưng (Hưng Hoá), Tuyên (Tuyên Quang) vì hồi ấy, tỉnh nhỏ đứng đầu chỉ là chức Tuần vũ, hai hay ba tỉnh nhỏ hợp lại mới có chức Tổng đốc trùm lên trên – ba tỉnh này đặt chung dưới quyền cai trị của một Tổng đốc. Mệnh lệnh từ dinh quan Tổng đốc phát ra cho cấp phủ, cấp huyện là rất uy nghi.

Người cầm bút mượn chữ xưa mà khơi dậy cái không khí, khung cảnh của một thời. Tả cảnh vật thì vọng canh (vọng canh là chiếc chòi canh được dựng khá cao để có thể trông xa), chiếc hào hoa, giá gươm, án thư, con song, giấy bản, ty Niết, tàn đèn, chiếc gông, chậu mực, bức châm... Tả người thì thấy bát, ngục tốt, thằng thập, thủ xướng... Tả việc thì cho chữ, thay bút con, đề xong lạc khoản, lĩnh ý, bái lĩnh... Đằng sau chữ nghĩa ấy là cả một nền văn hoá xưa mà truyện này chỉ xén ra có một mảnh, đủ đưa người đọc vào không khí của một cửa ngục tiêu biểu cho triều đình thời ấy, đầy quyền lực mà ngu xuẩn, hùa nhau huỷ diệt nhân cách và đức tài. May mà trong đó còn nổi lên dè dặt mà sâu thiết một tấm lòng biết quý trọng, tôn kính cái đẹp của đức độ, tài ba. Những điều chứa chất bên trong nội dung của truyện đã chinh phục được người đọc. Đó là điều đáng chú ý trước tiên.

Cốt truyện Chữ người tử tù xoay quanh tài viết chữ đẹp của người tù án chém. Ý nghĩa dĩ nhiên có thể mở rộng ra nhiều, nhưng đó là cái cốt lõi. Có ba hạng người và ba thái độ trước cái đẹp ấy. Thái độ thứ nhất là huỷ diệt; thái độ thứ hai là kính trọng, mến phục ; thái độ thứ ba là đại lượng, trọng mình, trọng người của một bậc chính nhân quân tử. Đan dệt trong truyện là ba thái độ đối với cái đẹp.

Nói chủ đề của truyện là tôn vinh cái đẹp e hồ đồ chăng ? Cái đẹp ấy ở chữ viết của người tử tù là điều khỏi bàn cãi. Viên quản ngục đã nghe cả vùng tỉnh Sơn vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp của người tù này. Cố nhiên tài viết chữ ấy gắn liền với một cái tên cụ thể là Huấn Cao. Ông quan họ Cao có thời làm huấn đạo ở tỉnh Sơn Tây, nơi mà viên quản ngục gọi thân mật là tỉnh Sơn La. Ông Huấn Cao ấy bây giờ tên tuổi lại đứng đầu trong danh sách sáu tử tù phạm tội phản nghịch, dám cầm gươm chống lại triều đình. Lời văn chỉ kể có thế, còn nhân vật Huấn Cao có phải là Cao Bá Quát nổi tiếng thơ hay chữ đẹp, lại có thời gian bị triều đình đẩy đi giữ chức giáo thụ ở phủ Quốc Oai tỉnh Sơn và đã cùng nông dân nổi lên chống vua quan hay không, thì chẳng biết. Đó là chỗ kín nhiệm của ngòi bút, chỗ để trăng ẩn vào mây như cách nói của người xưa. Nếu có gì trùng hợp thì cũng coi như là ngẫu nhiên vậy.

Lẽ thường, ở đời cái gì đẹp cũng quý bởi nó làm cho cuộc sống thêm tươi vui, ý nghĩa. Chữ đẹp cũng thế. Chữ đây là chữ Hán ngày xưa, một loại chữ tượng hình, các nét được cách điệu hoá qua nhiều đời thành một nghệ thuật viết chữ có phép tắc hẳn hoi (thư pháp). Sách xưa của ta và của Trung Quốc đều nhắc đến thiếp Lan Đình của Vương Hi Chi là nhắc đến mẫu chữ đẹp nổi tiếng, đồng thời cũng ghi chép sự xuất hiện của nhiều trường phải viết chữ Hán. Thuở xưa, trong những nhà giàu sang, nhất là nhà có học, thường treo nhiều hoành phi, câu đối, bức châm, bức trướng... bằng lụa bạch, bằng giấy dày in hoa, bằng gỗ sơn son thiếp vàng hoặc khảm xà cừ. Nhất là bức châm, bộ tứ bình lụa bồi thành tranh có chữ viết kiểu đội thảo chép những lời răn, những bài thơ Đường của bạn bè trị kỉ treo trong nhà là điều hãnh diện, vinh dự, là bảo vật còn quý hơn vàng ngọc.

Chữ đẹp là một cái đẹp hiếm có trên đời nhưng éo le thay, nó lại là của người tù mang án tử hình, nghĩa là người ấy chết thì nó cũng mất theo. Nguy cơ mất một báu vật trong thiên hạ đã rõ ràng. Châu ngọc còn tìm ra, chứ nét chữ rồng bay phượng múa ấy, nét chữ mà cả một tỉnh đều ca ngợi thì tìm ở đâu ra? Điều đó khiến cho vẻ đẹp của nó bỗng như lấp lánh thêm. Cái hoa tay viết chữ đẹp ấy còn đi kèm với phẩm cách cao thượng lạ kì. Nhà văn có nhắc tới cái tài bẻ khoá vượt ngục của người tù chắc là để tô đậm tài võ bên cạnh tài văn. Xin đừng vội cho đó là hạ cấp. Bẻ khoá vượt ngục, dám làm giặc chống vua quan tàn bạo, cứu khổ dân lành thì ai dám bảo đó là điều đáng chê ? Viên quản ngục lễ phép nói lời kính phục người tù là người có nghĩa khí; một gọi ngài, hai gọi ngài, ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết... nhất định không phải chỉ vì nghe cái tên Huấn Cao và nhớ tới tiếng đồn chữ đẹp, mà đã từng nghe, từng nghĩ nhiều điều khác nữa về con người ấy: Những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng còn biết có ai nữa... Ở nhân vật Huấn Cao, tâm hồn cũng đẹp, nhân cách cũng đẹp, hành động cũng đẹp, nhưng tất cả đều ẩn kín sau nét chữ đẹp. Những nét đẹp kia là đẹp đạo đức, còn đẹp chữ viết mới là nghệ thuật. Nghệ thuật hay và đẹp, không ai không say mê, ngưỡng mộ. Nguyễn Tuân lấy nó làm cốt truyện là vậy.

Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân đề cập đến ba thái độ đối với Cái Đẹp. Thái độ thứ nhất là huỷ diệt. Một số kẻ được miêu tả trong truyện nhưng đó là hạng thiên lôi chỉ đâu đánh đó, sống lâu ở chốn tù ngục nên nhiễm thói đầu trâu mặt ngựa. Đó là bọn lính tráng, những thằng thập, thằng cửu, lính canh, lính coi tù. Lối sống của chúng là sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc. Chúng là một đống cặn bã, một lũ quay quắt. Thấy đám tử tù bảo nhau quỳ xuống đất để thúc mạnh chiếc gông vào thềm đá cho rệp rơi bớt ra, một tên trong lũ lính áp giải đùa một câu cửa miệng: Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sỏi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Nó nói tiếp, giọng hách dịch : Đứng dậy không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ. Cũng giọng ấy, hắn nhắc viên quản ngục khi thấy ông này lộ vẻ kiêng nể và có biệt nhỡn đối với Huấn Cao: Tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn. Thói sai nha nó vậy. Chốn ấy tất nhiên đẻ ra giống người ấy. Giả ai có tấm lòng trong sạch thì cũng khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả cái đời lương thiện đi. Lời ông Huấn Cao khuyên viên quản ngục ở cuối truyện chỉ nhắc lại một sự thật vĩnh hằng ở cửa ngục của giai cấp thống trị thời suy thoái. Nhà thơ Cao Bá Quát có bài thơ nói về cái gông: Mày chỉ biết gông người chứ mày biết gì phải trái, biết gì tốt xấu trên đời, đúng là để ám chỉ bọn đầu trâu mặt ngựa này. Những người tù kia, dù là Huấn Cao hay là quan gì đi nữa, dù chỉ cao tài cả đến đâu chăng nữa, đối với chúng chỉ là những tên tù, lại là tử tù, thì chúng chỉ nói bằng hèo, bằng tay thước, bằng thanh quất, bằng gươm. Chúng chỉ tuân thủ một mệnh lệnh là tiêu diệt. Một loại người nữa tuy không có mặt trong truyện nhưng lại là những tên tại to mặt lớn, ra lệnh từ xa. Đó là Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, là Hình bộ Thượng thư trong kinh, là ty Niết, hoặc trừu tượng hơn nhưng kinh khủng hơn, là triều đình quốc gia... Vô hình, nhưng chính nó mới là bộ máy huỷ diệt. Tài năng, đức hạnh, tiết tháo, khí phách, lo nước, lo dân, văn tài, nghệ thuật... nó không cần. Nó chỉ cần những tên nô tì càng ngu xuẩn càng tốt để giúp nó giữ thật chặt cái ngai vàng bẩn thỉu, mục ruỗng.

Thái độ thứ hai là thái độ quý trọng, kính phục tài năng, nghĩa khí. Đó là thái độ của viên quản ngục và thầy thơ lại. Cái Đẹp ai cũng quý, nhưng phải biết là đẹp thì mới biết quý. Thầy thơ lại biết Huấn Cao có cả tài văn lẫn võ, nhưng là biết qua lời viên quản ngục và ông này cũng chỉ nghe người ta đồn. Vậy mà, khi hay tin một con người như vậy sẽ bị chém đầu thì lại thấy tiếng tiếc. Cái tính lành trời sinh, thấy tài giỏi thì mến, khổ cực thì thương ở thầy thơ lại thuần phác này đáng quý biết bao nhiêu! Viện quản ngục thì chữ nghĩa thành hiện có lẽ không nhiều, nhưng trình độ học vấn thể hiện ở câu cửa miệng: Có học thì như lúa như nếp, không học thì như rơm như cỏ. Quý hơn cả là con mắt biết nhìn Cải Đẹp, coi việc thưởng thức Cái Đẹp như là một thú chơi thanh nhã ở đời. Nhân cách của ông ta là một nhân cách trên mức bình thường. Biết quý trọng Cải Đẹp chữ viết, Cái Đẹp khí phách, biết trân trọng hoài bão của con người có tài viết chữ đẹp, thì lại càng đáng quý ! Yêu Cái Đẹp, quý Cải Đẹp, kính phục Cải Đẹp cũng làm cho con người đẹp lên, phẩm chất lớn hơn, cao hơn, thơm ngát. Viên quản ngục đã bắt mạch được tấm lòng thuần hậu của thầy thơ lại, trước hết là từ cái cảm tưởng tiêng tiếc hồn nhiên, rồi từ đó khẳng định có căn cử rằng: người đã biết kính mến khí phách, biết tiếc, biết trong người có tài hẳn không phải là kẻ xấu. Không đơn thuần suy luận, mà từ bụng ta suy ra bụng người. Đó là nhận xét người, còn bản thân mình thì không giấu được sự kiêng nể, ý biệt nhờn đối với Huấn Cao và lấy quyền lực của phép nước mà át tụi lính tráng quen thói lên mặt. Đắn đo mãi ông ta mới dám bước vào buồng giam, khép nép thưa bày, một phiền ngài hai xin ngài, để rồi phải nhận một câu cao ngạo như đuổi thẳng của Huấn Cao: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà người đừng đặt chân vào đây. Rồi ông ta lại lễ phép lui ra với một câu: Xin lĩnh ý! chứ không giở trò tiểu nhân thị oai và vẫn dâng cơm rượu hậu hơn trước. Như vậy là hạ mình, hạ mình quá mức. Thông thường, lũ quan quyền từ trên tột đỉnh xuống tận lính quèn, cứ việc ra oai, nói bằng tử hình, bằng gông, bằng hèo chứ đâu nói bằng đạo lí, phải trái. Nhưng viên quản ngục này đã đến với người tử tù bằng từ cách của kẻ bề dưới, theo bảng giá trị đích thực của lẽ phải: người tài sơ đức thiểu kính trọng người tài cao đức cả... Huống chi ông ta lại muốn xin của người tử tù ấy những nét chữ tài hoa có một không hai, mà người ấy chết thì nó cũng chết theo. Chơi chữ đẹp, một mặt đã là thú chơi tao nhã, còn giữ cho được nét chữ đẹp ấy lưu lại với đời lại là một ý thức bảo tàng còn quá hiếm hoi ở cái xã hội trong chức tước và tiền bạc hơn học vấn và văn hoá thuở bấy giờ. Thú chơi ấy, ý thức ấy, viên quản ngục mong ước biến nó thành hiện thực. Việc chuẩn bị ngày càng chu đáo và sự chờ đợi mỗi ngày mỗi thiết tha. Ông đã mua sẵn chục vuông lụa trắng và can lại thật phẳng phiu. Chao ôi! Xin hiểu giùm cho lòng ông: Từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan cai ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết... Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời. Một con người có tâm nguyện như vậy, trong nhân cách lại không có chỗ đáng nể hay sao? Chưa kể ông ta lại ở vào cái nơi toàn là cảnh của Diêm Vương, Âm phủ: không vạc dầu thì ngục tối, không cưa xẻ thì gông xiềng, hành hạ, kể cả biến người tù thành mà không đầu... Nơi ấy chỉ có tàn nhẫn và quay quắt, nơi ấy người ta vui khi thấy máu tù nhân đổ, người ta cười khi thấy tù nhân quần quại. Nơi đó không có chỗ cho lẽ phải, tình thương, đạo lí, dù là một chút. Ấy vậy mà lại còn sót được hai tâm hồn, một thuần hậu, một cao quý, thì cái thuần hậu cao quý ấy càng đáng kính trọng biết bao! Trong bùn mà sen vẫn ngát thơm. Tính cách của thầy thơ lại và viên quản ngục bổ sung cho nhau để thể hiện trọn vẹn cái trật tự của bảng giá trị lẽ phải và đạo lí ở truyện này. Cảnh viết chữ trong buồng giam ban đêm dưới ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc và niềm vui giây lát của ông Huấn, sự thoả nguyện của viên quản ngục cùng với lời bái lĩnh kính cẩn sau lời khuyên của ông Huấn là sự hoà hợp bừng nở viên mãn ba vẻ đẹp của ba con người xứng đáng là Con Người.

Thái độ thứ ba là thái độ cao rộng của bậc chính nhân quân tử. Đầu tiên, nhân vật Huấn Cao xuất hiện qua tiếng đồn. Mà đã là tiếng đồn thì không phải cái gì cũng chính xác. Phần khuếch đại theo quy luật di bản của truyền miệng hẳn không tránh được, như tài bẻ khoá vượt ngục chẳng hạn, nhưng tài viết chữ rất nhanh, rất đẹp, cả tỉnh đều khen chắc là sự thật. Còn phạm tội phản nghịch, làm giặc thì trong giấy tờ quan trên đã ghi rõ. Mà đã dám làm việc ấy thì đương nhiên phải là người có nghĩa khí, tài giỏi, nay bị giết đi thì thấy tiếng tiếc. Việc người ấy làm là việc quốc gia triều đình, những kẻ cai ngục biết gì mà nói. Như vậy là con người Huấn Cao tuy chưa thấy mặt mà uy tín, danh tiếng đã lẫy lừng. Trong suy nghĩ của hai viên chức nhà ngục cũng có điều tô đậm thêm tính cách Huấn Cao, kể cả lời bình có tính chất cảnh cáo của tên lính áp giải. Ba nhân vật có ba từ chứa đựng ý nghĩa đánh giá khá rõ: người thợ lại thì buồn. (Có tài thế mà đi làm giặc thì buồn lắm). Viên quản ngục thì bảo ông Huấn là khoảnh (tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ). Tên lính áp giải thì xếch mé bảo ông tù này là ngạo ngược: Tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn. Tại sao thầy thơ lại thấy buồn? Ấy là do thầy nhận ra rằng người tử tù kia có tài. Có tài thì phải được sống để đem tài giúp đời, đó là mong ước của người xưa. Có tài có đức, khổ mấy rồi cũng làm nên. Từng đọc tích xưa nên thầy thơ lại nghĩ: Có tài thế mà làm giặc thì đáng buồn lắm vì làm giặc chẳng biết đúng sai, nhưng bị khép vào tội chết. Tài ấy không được vua quan sử dụng, lại đem tiêu diệt đi, thiệt cho đời biết bao nhiêu ?! Đáng buồn cho đời bao nhiêu! Đây là một cách đánh giá cái tài mà cũng là Cái Đẹp ở đời.

Còn khoảnh là thế nào ? Khoảnh về cái gì ? Khoảnh với ai ? Chữ ông Huấn Cao đẹp, nhưng ông chỉ viết cho những bạn tri kỉ. Ông tiếc công hay ông thiên vị ? Không phải! Mà ông nghĩ rằng chữ đẹp chẳng phải ai cũng biết thưởng thức và quý trọng. Bạn tri kỉ là bạn hiểu Cái Đẹp, quý Cái Đẹp ấy và những Cái Đẹp khác của con người mình. Viết cho tri kỉ là san sẻ tâm hồn, tài năng và Cái Đẹp của mình cho bạn. Khoảnh như vậy là trọng mình, trong bạn, coi Cái Đẹp là báu vật trên đời, không dễ gì phung phí, Viết chữ cũng như viết văn, làm thơ. Cụ Tam Nguyên Yên Đổ thoáng liên hệ mình với ông Đào (nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng Đào Tiềm) đã thấy thẹn phải ngừng bút. Bao bậc tài hoa trước khi chết đã đốt tất cả chữ nghĩa của mình vì cho là không xứng đáng để đời. Đâu phải chỗ nào cũng dễ dàng hạ bút để vẽ vời?! Ta sẽ thấy tự miệng ông Huấn nói ra cũng cùng một ý như trên. Biết nhận ra Cái Đẹp thì tất nhiên cũng biết quý trọng nó. Đào tiên Tây Vương Mẫu năm trăm năm mới ra được một trải, đó là thần thoại nhưng ý nghĩa vẫn là đề cao Cải Đẹp. Còn tên lính áp giải bảo Huấn Cao là ngạo ngược thì chẳng cần bàn. Con mắt ếch ngồi đáy giếng của hắn thì thấy trời chỉ to bằng cái vung. Sự tự trọng của Huấn Cao nó cho là ngạo ngược. Theo nó, đã là tù nhân thì chỉ biết cúi đầu, chết cũng phải chịu, huống gì giữ phẩm giả làm người. Lũ tay sai ở thời đó chẳng khác những cái gông, chỉ biết gông người chứ biết gì phải trái, đạo lí và danh dự. Nhưng đánh giá Huấn Cao như vậy, tên lính gián tiếp đã coi Huấn Cao là hạng người trên, dám khinh thường bọn hắn ra mặt.

Trên đây mới là tiếng tăm Huấn Cao qua lời đồn, trong ý nghĩ hai con người đáng quý ở nhà ngục và cả trong lời nói của tên sai nha. Còn ông Huấn tự nghĩ về mình, về người và nói năng, hành động ra sao? Trước sự biệt đãi của viên quản ngục mà người trực tiếp săn sóc là thầy thơ lại, ban đầu Huấn Cao tiếp nhận rượu thịt thản nhiên, coi như là việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh. Đến khi viên quản ngục đích thân vào buồng giam, lễ độ, cung kính tôn xưng ông là người có nghĩa khí, xin ông cho biết cần gì thêm thì ông đáp một cách trịch thượng: Nhà người đừng đặt chân vào đây. Đẩy người ta ra và chờ sự đáp trả bằng uy lực, nhưng người ta chỉ một mực lễ phép lui ra với một câu bất ngờ : Xin lĩnh ý, tức là xịn tuân lệnh, hỏi làm sao ông Huấn không nghi ngờ ? Cái trò dụ dỗ mua chuộc nơi giam cầm là mảnh khoé quá bình thường. Ông Huấn càng bực vì tưởng viên quản ngục có mưu đồ thâm hiểm gì đây. Suy xét mọi lẽ, ông thấy hoá ra không phải. Mãi đến khi thầy thơ lại hớt hải đem nguyện ước sâu xa của viên quản ngục bày tỏ với ông, cùng cái tin khẩn cấp là sáng hôm sau ông Huấn và các bạn sẽ bị đưa vào tận trong Kinh để chịu tội, thì Huấn Cao mới vỡ lẽ vì sao có những hành động đối xử lạ lùng của thầy trò ông quản và nhận ra viên quản ngục này chính là hạng người biết quý Cái Đẹp. Ông mỉm cười dạy thầy thơ lại chuẩn bị chu đáo để ông có cơ hội đáp lại tấm thịnh tình của viên quản ngục ngay đêm nay. Giọng Huấn Cao trở nên từ tốn: Về bảo với chủ ngươi, tối nay... đem lụa, mực, bút và cả một bó đuốc xuống đây ta cho chữ. Cho chữ chứ không phải viết chữ. Nghe như lời của bề trên, của thần tiên phán bảo. Huấn Cao khẳng định: Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đài ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi.

Lần này là lần thứ tư ông Huấn cho chữ. Ông tự giữ giả chữ đẹp của mình đến mức ấy, vậy thì cái gì đã khiến ông hạ bút lần này ? Chính là do lòng thành, biết quý trọng, biết lưu giữ Cái Đẹp hiếm hơn vàng ngọc của viên quản ngục: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhờn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Lòng tự trọng của ông Huấn đã gặp lòng trân trọng của viên quản ngục. Không phải chỉ là sự hiểu biết mà còn là sự thông cảm, cao hơn nữa là sự kính trọng đã nâng ông quản lên vị trí của một bậc tri kỉ, một tấm lòng liên tài hiếm có trong thiên hạ. Lời khuyên sau đó của Huấn Cao thốt ra một cách tự nhiên. Phải xa cuộc sống nơi tù ngục này, tắm gội mình trong cuộc sống trong sạch chốn quê nhà thì mới giữ gìn được cái tính lành trời sinh và mới đeo đuổi được thú chơi chữ đẹp.

Quang cảnh buổi ông Huấn cho chữ vừa lạ vừa đẹp, vừa như một ảo ảnh, một ánh hào quang không phải của thế giới này mà của cõi nào trong thần thoại, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Buồng gian hẹp, bẩn, ẩm ướt, tối mịt, ánh đuốc đỏ rực như một đám cháy nhà. Ba bóng người hoạt động. Một người ngồi dưới đất, hai tay nâng tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Một người khác run run bưng chậu mực. Người thứ ba cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang cầm bút viết thoăn thoắt trên mặt lụa. Đó là viên quản ngục, thầy thơ lại và Huấn Cao. Viết xong, ông Huấn đỡ viên quản đứng dậy, rồi nhìn lại chữ mình viết đẹp tươi, nó nói lên những hoài bão của một đời người. Ông định đạc có lời khuyên cuối cùng cho viên quản ngục: muốn treo chơi trong nhà bức chữ đẹp ấy thì phải thay đổi môi trường sống. Lần này, viên quản ngục lùi ra mà nói gần như muốn khóc: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh !Ở cuộc giáp mặt lần trước, sau câu sắng giọng của Huấn Cao, viên quản lễ phép lui ra và lắp bắp: Xin lĩnh ý ! Lần này, câu nói của ông ta ấp úng trong nghẹn ngào cảm động. Trên kia là chưa hiểu nhau, đến đây cả ba người đồng cảm trong một tấm lòng chung: tha thiết yêu Cái Đẹp, Cái Đẹp chữ viết đi liền với Cái Đẹp tâm hồn. Truyện chấm dứt với lời nghẹn ngào nhiều ý nghĩa ấy. Thái độ Huấn Cao trước sau có khác nhưng vẫn là thái độ của một bậc chính nhân quân tử, Đối với thầy trò viên quản ngục, ông Huấn vẫn giữ một khoảng cách trên dưới nhất định, trước lạnh nhạt sau thân mật, ân cần; vẫn phong thái đĩnh đạc, ung dung, độ lượng, cao rộng đối với cái đẹp dù là nhỏ nhất, dù ở bất kì hoàn cảnh nào.

Viết truyện này, Nguyễn Tuân có ngụ ý gì nữa không? Điều chắc chắn là tác giả muốn nói lên nỗi tiếc nuối đối với một con người tài giỏi, nghĩa khí, một nhân cách lớn lao ở cái thời đất nước suy vong, đồng thời cũng kín đáo lồng vào đó một nỗi đau chung cho đất nước và cho tất cả những gì tốt đẹp, tài ba trong đời mà lũ thống trị thực dân phong kiến đã vùi dập một cách bạo tàn. Đồng thời, tác giả khẳng định: cuộc đời dù đen tối đến đâu, trong nhân dân vẫn có những tấm lòng ngời sáng.

Phân tích cảnh cho chữ trong truyện ngắn “Chữ Người Tử Tù” 38

Giữa những bộn bề phức tạp của buổi chợ phiên văn chương, giữa những náo nhiệt đông đúc của gian hàng lãng mạng. Nguyễn Tuân được nhận ra là một chủ cửa hàng cá đặc biệt với chất ngông đầy mới mẻ và cá tính, độc đáo của mình Nguyễn Tuân đã đưa người đọc phiêu du vào cuộc hành trình đi tìm cái đẹp ở một thời vang bóng. Tiêu biểu cho cuộc hành trình gian truân, vất vả đó là tác phẩm “Chữ người tử tù”. Đi sâu vào khám phá tác phẩm người đọc sẽ không khỏi ấn tượng trước cảnh cho chữ ở cuối truyện, nhận xét về tình huống này có ý kiến cho rằng cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ Người Tử Tù là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Quả không sai khi nói rằng sản phẩm văn học chỉ được khai sinh ra khi nó là kết quả nhào nặn từ đời sống, nếu sáng tác của văn học chỉ hoàn toàn là sản phẩm của sự hư cấu và tưởng tượng mà không mong hơi thở đời sống thì sẽ không truyền được cảm xúc đến với bạn đọc. Văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời, mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật Nguyễn Tuân đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo và ông đã khẳng định được vị thế của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đồng thời tìm ra cho mình một phong cách hoàn toàn khác so với những nhà văn cùng thời. Ông luôn khát khao đi tìm cái đẹp với một niềm tin bất diệt, cái đẹp bao giờ cũng có sức cảm hóa đối với cái xấu và cái ác. Đọc Chữ Người Tử Tù ta sẽ thấy rõ được điều đó, đây là một trong 11 chuyện in trong tập “vang bóng một thời”, lúc đầu tác phẩm có tên là “dòng chữ cuối cùng” in trong tạp chí Tao Đàn năm 1938, sau đó đổi thành “Chữ Người Tử Tù” in trong tập “vang bóng một thời” xuất bản năm 1940.

Chữ Người Tử Tù, xoay quanh cuộc gặp gỡ éo le giữa Huấn Cao và viện quản ngục. Tuy xét trên bình diện xã hội, họ hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là những chi ân, tri kỷ, giữa họ có những mối liên hệ khăng khít, một bên là say mê cái đẹp viên quản ngục và một bên là người ban cái đẹp. Đặc biệt tình huống cho chữ ở cuối truyện đã trở thành một tình huống độc đáo, đặc sắc để đưa cái tài, cái đẹp lên ngôi đồng thời làm sáng ngời vẻ đẹp của Huấn Cao.

Nhận xét về cảnh cho chữ ở cuối truyện có ý kiến cho rằng “đây là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” tiếc là cảnh tượng hiếm gặp hiếm xảy ra và trong truyện ngắn này cảnh cho chữ thực sự là một cảnh tượng như vậy. Ý kiến trên đã một lần nữa khẳng định được sự khéo léo của nghệ thuật, trong việc tạo dựng tình huống truyện và khẳng định được sự hấp dẫn không bị thời gian vùi lấp của Chữ Người Tử Tù nói chung và cảnh cho chữ nói riêng.


Cảnh tượng cho chữ được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả đầy đủ, chi tiết từ không gian, thời gian, đến địa điểm vào lúc nửa đêm khi trại giam tỉnh sơn chỉ còn đọng lại tiếng mõ trên võng canh, tại một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất đầy phân dán đang diễn ra cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có. Người cho chữ là kẻ tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, con người nhận chứ là viên quản ngục, người đại diện cho chính quyền phong kiến. Gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có, với việc cho chữ là một việc làm thanh cao thường diễn ra ở nơi trang trọng như thư phòng sạch sẽ, người cho chữ phải là nghệ nhân ở trong tâm thế ung dung thoải mái. Nhưng trong truyện ngắn này thì hoàn toàn đối lập, vì cảm động trước tấm lòng của viên quản ngục mà Huấn Cao đã bằng lòng dành đêm cuối cùng của cuộc đời để viết những dòng chữ cuối cùng cho một tấm lòng tri kỷ, trong thiên hạ. Dù biết mình sắp chết, nhưng Huấn Cao vẫn cho ra đời những nét chữ vuông vắn, tươi tắn, trong tư thế thoải mái, tự tại, còn viên quản ngục thì khúm núm, run run, sợ sệt cất những đồng kẽm đánh dấu ô. Đến đây trật tự kỷ cương đã bị đảo ngược, tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp và răn dạy quản ngục, quản ngục thì khúm núm với lạy tù nhân.

Cảnh cho chữ ở cuối truyện chắc hẳn đã để lại trong lòng bạn đọc ít nhiều những suy ngẫm, Huấn Cao trong lúc cận kề cái chết, vẫn cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật, đó là những nét chữ mềm mại, cứng cáp thể hiện hoài bão tung hoành của một đời người. Đó cũng chính là sự ký thác của ông dành cho hậu thế, cảnh cho chữ ở cuối truyện đã một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiện luôn chiến thắng cái xấu, cái ác, mà ta thấy rằng dù có những người phải sống trong cái xấu, cái ác vẫn luôn hướng về cái thiên lương. Đó là niềm tin sắt đá của Nguyễn Tuân vào con người, với cảnh cho chữ ở cuối truyện Nguyễn Tuân không làm Huấn Cao chết đi mà đã đưa nhân vật vào cõi bất tử.

Bằng sự sáng tạo độc đáo, đặt nhân vật vào tình huống éo le, Nguyễn Tuân đã đưa hai con người, ở hai địa vị trái ngược nhau vào một điểm chung đó là sự say mê cái đẹp. Cảnh cho chữ ở cuối truyện thực sự là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đi sâu vào tình huống này ta thấy được rằng, đến đây viên quản ngục và Huấn Cao đã hòa làm một, để cho cái đẹp lên ngôi. Cảnh cho chữ thật sự là ngọn đuốc rực rỡ, thắp sáng cả thiên truyện “Chữ người tử tù”.

Với nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, ngôn từ sắc sảo, góc cạnh, câu văn giàu hình ảnh, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên cảnh tượng cho chữ “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Để khẳng định sức mạnh, có thể chiến thắng cái xấu, cái ác, cảm hóa con người của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương.

Tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn còn đó những nét chữ vuông vắn, tươi tắn hội tụ sự tài hoa, bất khuất của Huấn Cao. Đó là những nỗi niềm kí thác dành cho hậu thế, thông qua cảnh tượng cho chữ Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên vẻ đẹp của Huấn Cao và viện quản ngục. Có lẽ đây chính là lý do “Chữ Người Tử Tù” trở thành mốc son chói lọi trên nền vàng úa của vang bóng một thời./.

Đề bài: Phân tích vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù 39

Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách mạng. Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn… sau cách mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc qua một số tùy bút: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Sông Đà… Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trích trong tập Vang bóng một thời. Nổi bật trong tác phẩm Chữ người tử tù đó chính là hình tượng người anh hùng Huấn Cao mang vẻ đẹp tài hoa và khí phách anh hùng lẫm liệt khiến mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.

Là nhà văn “duy mỹ”, suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào những trang viết mang đến cho người đọc bao hình tượng đẹp. Tập truyện Vang bóng một thời có lẽ là nơi hội tụ những nét đẹp cao quý: thú uống trà đạo, thú chơi thư pháp, thả thơ, đánh thơ…Gắn liền với những thú chơi tao nhã ấy là những con người tài hoa bất đắc chí. Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân trích trong tập truyện ấy và Huấn Cao là nhân vật được ông miêu tả đặc sắc nhất. Đó là anh hùng thời loạn hội tụ những phẩm chất tài năng: khí phách hiên ngang – thiên lương trong sáng – tài hoa uyên bác. Huấn Cao là một nguyên mẫu lịch sử có thật của thế kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng – người anh hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, một nhà thơ, nhà thư pháp Cao Bá Quát lững lẫy một thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên đi vào trang văn và hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng con chữ.

Sinh thời Cao Bá Quát có hai câu thơ sáng ngời nghĩa khí:

Thập cổ luân giao cầu cổ kiếm

Nhất sinh đê thủ bái mai hoa

(Mười năm lặn lội tìm gươm báu

Chỉ biết cúi đầu trước cành hoa mai) 

Ngay từ đầu tác phẩm, Huấn Cao đã hiện lên như ánh hào quang phủ kín cả bầu trời tỉnh Sơn. Qua lời trò chuyện của quản ngục và thơ lại ta thấy tiếng tăm của Huấn Cao đã nổi như cồn. Điều làm cho bọn ngục quan phải kiêng nể không chỉ là tài viết chữ đẹp mà còn là “tài bẻ khóa, vượt ngục” của ông Huấn. Tuy nhiên, đây không phải là trò của bọn tiểu nhân vô lại đục tường khoét vách tầm thường mà là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ.

Huấn Cao mang cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Những kẻ theo học đạo Nho thường thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng trung quân để rồi “dân luống chịu lầm than muôn phần” thì hóa ra là tội đồ của đất nước. Ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Bị triều đình phán xét là kẻ tử tù phản nghịch, tội xử chém, là “giặc cỏ” nhưng trong lòng nhân dân lao động chân chính ông lại là một anh hùng bất khuất, một kẻ ngang tàng “chọc trời khuấy nước” sống ngoài vòng cương tỏa, lững lẫy chẳng khác gì 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc ở Trung Hoa năm xưa. Tuy chí lớn của ông không thành nhưng ông vẫn hiên ngang bất khuất, lung linh sáng tỏa giữa cuộc đời. 

Trước uy quyền của nhà lao, con người ấy càng sáng tỏa. Trò tiểu nhân thị oai, dọa dẫm của bọn tiểu lại giữ tù càng làm cho ông thêm phần ngang ngạo. Ông vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường, dỗ gông, phủi rệp, hóm hỉnh đùa vui. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh đầu thang gông xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Đó là thái độ ngang tàng, bất chấp luật pháp của một xã hội dơ bẩn.

Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt và ăn uống no say coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Chứng tỏ ông nào xem nhà tù là chốn ngục tăm tối mà chỉ xem nhà tù như một chốn dừng chân để nghỉ ngơi “Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù”.

Đối với quản ngục, Huấn Cao rất: lạnh lùng, khinh bạc xưng hô "ta – ngươi", miệt thị hạ nhục“Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là…” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý.Có lẽ chính vì vậy mà khi nghe tin xử trảm: ông vẫn thản nhiên, không sợ hãi, chỉ khẽ mỉm cười, bất chấp cái chết, coi thường cái chết. 

Bên cạnh dũng khí ngất trời của một bậc hảo hán, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của con người tài hoa. Ông có tài viết chữ đẹp. Trong thị hiếu thẩm mĩ của người xưa, ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý (Thư pháp). Chơi chữ đẹp là một thú chơi thanh tao. Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao do đó là biểu hiện của nét đẹp của văn hoá một thời. "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm". Đẹp đến mức người ta khát khao, ngưỡng vọng "có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời". Tuy nhiên, ông lại là người có ý thức giữ gìn cái đẹp, có lòng tự trọng: “ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Nỗi khổ của quản ngục là có Huấn Cao trong tay, dưới quyền mình nhưng lại không thể nào có được chữ ông Huấn. Quản ngục và Huấn Cao là hai con người ở hai thế giới cách biệt, đối lập nhau: Quản ngục đại diện cho thế lực nhà tù, nắm giữ pháp luật; Huấn Cao là kẻ tử tù. Huấn Cao là người sáng tạo cái đẹp; quản ngục là người yêu quý cái đẹp lại là người bị ông trời “chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”. Trên bình diện xã hội họ là hai kẻ đối lập nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỷ. Tình huống truyện là ở chỗ ấy, cả hai kẻ lại gặp nhau trong cảnh éo le này. 

Lúc hiểu được tấm lòng viên quản ngục: Ông Huấn “lặng nghĩ”, “mỉm cười”, ngạc nhiên “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài… thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Lời nói rất chân tình, xúc động. Điều này cho thấy Huấn Cao là một người hiên ngang, khí phách nhưng cũng rất có nghĩa khí. Không thể phụ một “thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

Hai con người đồng nhất tỏa sáng trong đêm cho chữ “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân đã dồn hết bút lực của mình vào cảnh này. Nhà văn đã huy động vốn ngôn ngữ, tâm huyết và tài năng của mình dồn tụ lại trong một không khí cổ xưa hoành tráng của nghệ thuật thanh cao:VIẾT THƯ PHÁP. 

Nhà văn dựng cảnh thật tài tình và đầy dụng ý nghệ thuật. Thủ pháp tương phản làm nên cảnh cho chữ bi tráng chưa từng thấy. Đó là sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng; giữa sự dơ bẩn của xã hội nhà tù và thiên lương trong sáng, khí phách rạng ngời. Tương phản giữa bó đuốc sáng rực trên vách nhà với đêm đen thăm thẳm; tương phản giữa vuông lụa trắng, thoi mực thơm và tường nhà, đất đầy mạng nhện, đầy phân chuột, phân gián. “Ở đây sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cứ giằng co nhau quyết liệt. Bóng tối quánh đặc như muốn nuốt tươi ánh sáng. Nhưng không, ánh sáng ở đây vẫn ngời chói vẫn ngời tỏ, sáng rực, chứ không như ánh sáng leo lét, buồn rầu của ngọn đèn con chị Tý và ánh sáng rực tỏa, chói lọi như đoàn tàu rồi lại chìm vào hư không của bóng đêm trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Song xét sâu xa hơn thì ánh sáng đó không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa sắc màu vật lý mà ánh sáng đó mang sắc màu ý nghĩa nhân sinh đậm nét: ánh sáng của sự lương tri, của nhân tâm, của thiên lương trong sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng đó là điều tất yếu sẽ xảy ra, bởi vì mọi cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa cuối cùng sẽ chiến thắng. Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ những con người có đức, mến mộ cái tài, nhưng yếu ớt trở về cuộc sống lương thiện… Sự chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người thiên lương” (Lưu Thế Quyền)

Viết thư pháp là nơi thư phòng thư sảnh sạch sẽ thoáng mát, có hoa có nguyệt, có men rượu cay nồng. Nhưng khung cảnh thường thấy ấy lại không hiện diện nơi đây. Ở đây, sự dơ bẩn, phàm tục được hiện hữu rất rõ: “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Sự nhem nhuốc, phàm tục lên đỉnh điểm. Nhưng sự xuất hiện của phiến lụa, của thoi mực thơm đã xua tan đi mùi ô uế. Nhưng sự ô uế dần dần biến mất, bởi “Cái đẹp là địa hạt của sự sống, cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”. Vì thế dù “Cổ đeo gông chân vướng xiềng” nhưng ông Huấn vẫn tung hoành ngang dọc cái khát khao của đời mình lên từng vuông lụa trắng. Đó là thái độ uy nghi, đường hoàng, một thái độ của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ”mà chẳng hèn chút nào. Thái độ ấy, đúng là “Thân thể ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc uy nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản lý nhà ngục phải khiếp sợ, kính nể: “viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu mực”. Nét chữ của ông như rồng bay phượng múa, thiên lương của ông tỏa sáng lồng lộng chốn ngục tù. Tài hoa và thiên lương và khí phách đã hợp nhất thành Huấn Cao. Dũng và Mỹ hợp thể làm nên bức tranh cho chữ sáng ngời. Kỳ lạ thay, trong cảnh cho chữ này, pháp luật và uy quyền của nhà tù đã bị sụp đổ. Uy quyền và bạo lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên lương. Ở đó không còn tử tù và quản ngục, thơ lại. Ở đó chỉ còn những con người yêu quý và biết thưởng thức cái đẹp. Cái xấu xa, cái ác, cái chết chóc nhường chỗ cho cái đẹp, cái bất tử. “Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử”. 

Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương của con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: – Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đã cho thấy rằng: cái đẹp, cái thiện, cái tài hoa đã chiến thắng tuyệt đối. Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.

Thành công của Chữ người tử tù là ở cách tạo tình huống truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: "… văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức".

Phân tích viên quản ngục trong Chữ người tử tù 40

Chữ người tử tù là một trong những tác phẩm cùng tên của Nguyễn Tuân, được sáng tác và trích trong tập vang bóng một thời, là những trang viết về những danh nhân nổi tiếng, có tầm ảnh hưởng trong nhiều lĩnh vựa cho nước nhà. Hình ảnh Huấn Cao, người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất là hình tượng chính xuất hiện trong suốt tác phẩm, song song với hình ảnh đó chính là nhân vật viên quản ngục. Hình ảnh đẹp, bình dị và gửi gắm nhiều thông điệp tốt đẹp của tác giả đối với đông đảo người đọc

Thông thường khi nhắc đến quản ngục người ta thường nghĩ tới những người với khuôn mặt dữ dằn, dáng vẻ thô kệch và vô cùng táo bạo. Những người bước chân tới cửa lao tù phải là những người táo bạo có máu mặt, bởi những người ở tử tù này, đều là những nhân vật có tiếng nguy hiểm. Nhưng trái ngược với những suy nghĩ của chúng ta về một người quản ngục, viên quản ngục trong Chữ người tử tù lại hiện ra với một vẻ đẹp tư cách và có hơi hướng thẩm mỹ cao, là người yêu cái đẹp.

Viên quản ngục là một người biết phân biệt đúng sai, biết quý trọng nhân tài, biết được nên làm gì cho đúng với lương thường đạo lý. Khi nghe rằng chiều nay sẽ có những tên tử tù nguy hiểm số một tới trại giam, và biết được người này chính là Huấn Cao, cầm đầu trong nhóm đội trời đạp đất, đứng về công lý nhưng lại phản lại triều đình cho nên bị đẩy đến mức bước đường này cho nên ông cũng không hề có ý khinh bỉ hay tỏ khinh khi, đánh đập tra tấn mà ngược lại vô cùng tôn kính. Hơn thế nữa, Huấn Cao lại là người viết chữ rất đẹp, người trong nhân gian rất muốn có được chữ của ông treo trong nhà thì quý biết bao nhiêu. Nhưng khó là ở chỗ, chỉ chỗ thân cận, Huấn Cao mới cho chữ, và cũng cho rất ít cho nên nó trở nên quý hiếm và được trân trọng biết bao nhiêu. Đối với Huấn Cao, viên quản ngục sắp xếp phòng giam, quét dọn sạch sẽ lại cho dọn rượu thịt và đối đãi rất tốt. Ông biết được rằng Huấn Cao là tử tù nhưng lại là người đứng lên vì chính nghĩa. Suy cho cùng, Huấn Cao là người tài giỏi, văn võ song toàn, là người có tài thao lược nhưng cốt cách ngời ngời. Biết được những điều đó, cho dù bị Huấn Cao đuổi và tỏ ra khinh bỉ nhưng viên quản ngục vẫn cúi đầu nghe theo, lẳng lặng chú ý và quan sát.

Phân tích viên quản ngục trong Chữ người tử tù 41

Chữ người tử tù là một trong những tác phẩm cùng tên của Nguyễn Tuân, được sáng tác và trích trong tập vang bóng một thời, là những trang viết về những danh nhân nổi tiếng, có tầm ảnh hưởng trong nhiều lĩnh vựa cho nước nhà. Hình ảnh Huấn Cao, người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất là hình tượng chính xuất hiện trong suốt tác phẩm, song song với hình ảnh đó chính là nhân vật viên quản ngục. Hình ảnh đẹp, bình dị và gửi gắm nhiều thông điệp tốt đẹp của tác giả đối với đông đảo người đọc.

Thông thường khi nhắc đến quản ngục người ta thường nghĩ tới những người với khuôn mặt dữ dằn, dáng vẻ thô kệch và vô cùng táo bạo. Những người bước chân tới cửa lao tù phải là những người táo bạo có máu mặt, bởi những người ở tử tù này, đều là những nhân vật có tiếng nguy hiểm. Nhưng trái ngược với những suy nghĩ của chúng ta về một người quản ngục, viên quản ngục trong Chữ người tử tù lại hiện ra với một vẻ đẹp tư cách và có hơi hướng thẩm mỹ cao, là người yêu cái đẹp.

Viên quản ngục là một người biết phân biệt đúng sai, biết quý trọng nhân tài, biết được nên làm gì cho đúng với lương thường đạo lý. Khi nghe rằng chiều nay sẽ có những tên tử tù nguy hiểm số một tới trại giam, và biết được người này chính là Huấn Cao, cầm đầu trong nhóm đội trời đạp đất, đứng về công lý nhưng lại phản lại triều đình cho nên bị đẩy đến mức bước đường này cho nên ông cũng không hề có ý khinh bỉ hay tỏ khinh khi, đánh đập tra tấn mà ngược lại vô cùng tôn kính. Hơn thế nữa, Huấn Cao lại là người viết chữ rất đẹp, người trong nhân gian rất muốn có được chữ của ông treo trong nhà thì quý biết bao nhiêu. Nhưng khó là ở chỗ, chỉ chỗ thân cận, Huấn Cao mới cho chữ, và cũng cho rất ít cho nên nó trở nên quý hiếm và được trân trọng biết bao nhiêu. Đối với Huấn Cao, viên quản ngục sắp xếp phòng giam, quét dọn sạch sẽ lại cho dọn rượu thịt và đối đãi rất tốt. Ông biết được rằng Huấn Cao là tử tù nhưng lại là người đứng lên vì chính nghĩa. Suy cho cùng, Huấn Cao là người tài giỏi, văn võ song toàn, là người có tài thao lược nhưng cốt cách ngời ngời. Biết được những điều đó, cho dù bị Huấn Cao đuổi và tỏ ra khinh bỉ nhưng viên quản ngục vẫn cúi đầu nghe theo, lẳng lặng chú ý và quan sát.

Viên quản ngục còn là một con người yêu cái đẹp và cốt cách cũng rất đáng quý trọng. Như chúng ta đã biết, ông rất muốn xin chữ Huấn Cao nhưng chưa có cơ hội để bày tỏ những điều đó. Mong mỏi của ông chính là có chữ của Huấn Cao mang về đeo trong nhà cũng là ước nguyện của ông khi một người nghĩa hiệp và có chữ quý hơn châu báu trước khi bị tử tù. Biết được tâm niệm của viên quản ngục, Huấn Cao cho chữ và còn đưa ra lời khuyên cho ông. Quản ngục dù chân đứng chốn lao tù nhưng lương tâm lại vô cùng sáng và lương thiện. Ông được ví như âm thanh trong trẻo nhất của bản giao hưởng xô bồ. Cúi đầu vái lạy Huấn Cao khi được cho chữ và nhận lời khuyên cho thấy ông đã hướng và có ý định bắt đầu cuộc đời mình với một cuộc sống mới.

Xuất hiện trong Chữ người tử tù, Viên quản ngục lại trở thành một tâm điểm khác mà tác giả muốn hướng độc giả đến. Những con người này khi thấm nhuần được những tư tưởng, những đạo lý và nhân nghĩa đều có ý phục theo. Con người muốn sống lương thiện, yêu cái đẹp nhưng cũng như ông cha xưa đã nói, tâm sáng thì đứng trong chỗ bùn lầy cũng không thể giữ mãi nhân cách của bản thân mình được. CHính vì vậy nghe theo lời răn dạy của Huấn Cao, cái kết của CHữ người tử tù là một hồi kết mở, độc giả cũng có thể lờ mờ đoán ra được viên quản ngục sẽ làm gì, cuộc đời sẽ tới đâu và con người này sẽ nghe lời khuyên của Huấn Cao để về quê sống cuộc đời lương thiện.

Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân 42

Chữ người tử tù là một trong những thiên truyện xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân và tiêu biểu nhất cho tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của ông trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Tác phẩm ra mắt lần đầu trên tạp chí Tao đàn, số 1 (1938) lấy tên Giòng chữ cuối cung, với lời đề từ: ""Ngày xưa có một tử tù viết chữ đại tự rất đẹp" – Truyện cổ nước Nam".

Năm 1940, tác phẩm được in lại trong tập Vang bóng một thời và đổi tên là Chữ người tử tù.

1.Nguyễn Tuân là một cây bút có phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc. Ông luôn luôn tiếp cận thế giới, tiếp cận sự vật nghiêng về phương diện văn hoá nghệ thuật, phương diện thẩm mĩ, và tiếp cận con người nghiêng về phương diện tài hoa nghệ sĩ. Thế giới nhân vật của ông cũng có hai hạng chính diện và phản diện, nhưng có tiêu chí phân loại riêng (cũng nghiêng về phương diện thẩm mĩ): đấy là những con người, hoặc tạo ra cái đẹp và say mê cái đẹp, hoặc đối lập với cái đẹp, chà đạp lên cái đẹp. Đặc điểm này thấy rất rõ trong Chữ người tử tù.

Nhân vật chính diện ở đây là Huấn Cao, quán ngục và viên thơ lại. Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp: "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm […] có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời". Quản ngục và viên thơ lại không tạo ra được cái đẹp, nhưng say mê cái đẹp đến mức "lo mai mốt đây, ông Huấn Cao bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời”. Còn nhân vật phản diện là tất cả đám nhân sự còn lại của nhà ngục "sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc”.

2.Một trong những khâu quan trọng nhất của nghệ thuật truyện ngắn là sáng tạo tình huống truyện độc đáo. Mỗi truyện ngắn thường dược kết cấu xoay quanh một tình huống. Đặt vào tình huống ấy, tâm lí, tính cách nhân vật tự bộc lô rõ nét, đồng thời chủ đề tác phẩm cũng thể hiện sâu sắc. Ngoài ra, tình huống truyện còn có tác động tới kịch tính của tác phẩm, tạo thêm sức hấp dẫn cho thiên truyện.

Tình huống truyện của Chử người tử tù là gì? Ấy là một tình huống khá éo le: những nhân vật sau này sẽ là tri âm tri kỉ (ông Huấn Cao, quản ngục và viên thơ lại) lại bị đặt vào hai vị thế đối địch: tử tù và cai ngục.

Nhưng phải có tình huống này thì tính cách các nhân vật mới bộc lộ rõ.

Không có tình huống đó thì làm sao biết được tinh thần hiên ngang, bất khuất của Huấn Cao. Khi coi viên quản ngục chỉ như mọi tên cai ngục khác, nghĩa là kẻ đại diện trực tiếp cho chính quyền phi nghĩa, bất lương, ông đã cố tình tỏ thái độ khinh bạc: đối lại thái độ mềm mỏng của quản ngục, ông đã ném ra những lời lẽ rất khó chịu:

" – Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây".

Khi ném ra câu nói đầy tính chất gây sự ấy, ông Huấn sẵn sàng "đợi một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục". Nhưng chính do thái độ ấy mà quản ngục vốn đã kính nể ông Huấn, lại càng cảm phục tinh thần bất khuất của vị thủ lĩnh nghĩa quân: "những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù".

Nhưng đứng về phía viên quản ngục cũng vậy. Không có tình huống kia, làm sao ta biết được nhân vật này say mê nghệ thuật, yêu quý người tài, kính trọng người có nghĩa khí như thế nào. Chỉ vì mong mỏi xin được chữ ông Huấn, Quản ngục đã vứt bỏ trách nhiệm cai ngục của mình khi đối xử với tù nhân. Mà sự biệt đãi một tên tù trọng tội như Huấn Cao đâu phải không có thể bị trả giá rất đắt, nếu sự việc bị bại lộ ; đã thế lại còn phải chịu đựng nỗi oan ức bị ông Huấn khinh bỉ và sỉ nhục. Vì làm sao một người như Huấn Cao lại có thể dễ dàng hiểu được "thiên lương" ở một viên quản ngục!

3.Tình huống truyện nói trên còn tạo ra cho tác phẩm một mâu thuẫn có tính kịch khá hấp dẫn, và thiên truyện diễn ra tựa như cách trình bày, khai đoan, đĩnh điểm, thắt nút, mở nút của một vở kịch vậy.

Căn cứ vào mạch truyện, có thể phân chia tác phẩm làm ba đoạn. Từ đoạn đầu đến đoạn cuối, tính cách nhân vật ngày càng bộc lộ rõ hơn, sâu hơn, trong khi mâu thuẫn kịch cũng ngày càng phát triển mạnh để di đến đỉnh điểm và mở nút.

Mâu thuẫn "kịch" ở đây là gì? Ấy là sự đối lập giữa niềm khát khao của viên quản ngục nóng lòng muốn xin dược chữ của ông Huấn Cao, với thái độ khinh bỉ của ông Huấn đối với ngục quan.

a)Đoạn một: Quản ngục được lệnh tiếp nhận sáu tử tù, trong đó có Huấn Cao và tính cách hai nhân vật chính bước dầu được giới thiệu: Huấn Cao chẳng những "viết chữ rất nhanh rất đẹp" mà "văn võ đều có tài cả". Còn quản ngục là một người "biết kính mến khí phách […] biết trọng người có tài" nhưng bị đày ải vào "một đống cặn bã" ví như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ".

Ở đoạn thứ nhất này, mâu thuẫn "kịch" bắt đầu phát tín hiệu khi quản ngục tỏ ý sửa soạn tiếp đón Huấn Cao một cách khác thường: Ông ta lệnh cho viên thơ lại: "Thầy bảo ngục tốt nó quét dọn lại cái buồng trong cùng. Có việc dùng đến".

b)Đoạn hai: Huấn Cao nhập ngục. Sự biệt đãi của quản ngục đối với ông Huấn trước sự ngạc nhiên của bọn lính giải tù. Tính cách hiên ngang, bất khuất của vị thủ lĩnh nghĩa quân bộc lộ đậm nét. Mâu thuẫn "kịch" càng trở nên căng thẳng khi ông Huấn cố tình sỉ nhục viên quản ngục. Còn quản ngục thì vừa khổ tâm, vừa nóng lòng sốt ruột: "có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền minh mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời".

c)Đoạn ba: Mâu thuẫn "kịch" đạt tới đỉnh điểm: Lệnh trên truyền xuống giải Huấn Cao vào kinh chịu tội khiến quản ngục "tái nhợt người”. Nhưng liền đó, kịch mở nút và mâu thuẫn triệt tiêu: Huấn Cao hiểu rõ lòng quản ngục và quyết định cho chữ: "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". 

Ở đoạn kết thúc này, tính cách các nhân vật cũng bộc lộ đầy đủ, toàn vẹn. Té ra, trái tim Huấn Cao không phải chỉ đúc bằng sắt thép. Đúng là con người này, không vàng ngọc hay quyền thế nào có được, thậm chí đến "chết chém ông còn chẳng sợ", thế mà hoá ra cũng dễ mềm lòng trước những tâm hồn tri kỉ, nghĩa là cũng như ông, biết quý trọng cái tài, cái đẹp và chất thiên lương của con người. Ôi, trên đi mà không biết quý trọng ba cái đó thì là loài quỷ sứ chứ đâu phải giống người. Đánh giá vẻ đẹp của Huấn Cao mà chỉ thấy cái phía sắt thép, cái phía "vô uý" không biết sợ của ông, là một cách đánh giá phiến diện. Đây là một nhân cách toàn diện, là con người của một chủ nghĩa nhân văn cao quý.

Nhân vật quản ngục cũng vậy – rất xứng đáng là tri âm tri kỉ của Huấn Cao: dám biệt đãi một thù lĩnh phiến loạn, thì quả là cũng không thiếu chất thép ; nhưng đồng thời lại sẵn sàng cúi đầu vái lạy Huấn Cao, có nghĩa là biết kính trọng cái tài, cái đẹp và chất thiên lương cao đẹp ớ người tử tù: Sau khi cúi đầu lắng nghe mấy lời khuyên răn của người tù "Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt ri vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh"".

Đúng là có những cái cúi đầu làm cho con người trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho con người đê tiện. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm cho con người bỗng trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang trọng hơn. Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương.

Chính Cao Chu Thần, nguyên mẫu của nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù từng có một câu thơ thật đẹp, thật sang:

Nhất sinh đê thủ bái mai hoa.

(Một đời chỉ biết cúi đầu vái lạy hoa mai).

Cái cúi đầu của thầy quản ngục vái lạy Huấn Cao chính là cái cúi đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai vậy.

4.Chữ người tử tù kết thúc bằng một bức tranh đầy ấn tương. Người ta thường đặt cho Nguyễn Tuân danh hiệu: "Người đi tìm cải đẹp". Nhưng thế nào là đẹp? Đối với Nguyễn Tuân, cái đẹp phải là những gì đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ. Bức tranh kết thúc Chữ người tử tù quả là đã gây được ấn tượng mãnh liệt đúng như yêu cầu thẩm mĩ của Nguyễn Tuân. Thủ pháp đối lập được nhà văn khai thác triệt để đã tạo ra ấn tượng đó: đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, đối lập giữa cái đẹp và sự nhơ bẩn, nhem nhuốc, đối lập giữa thiên lương và tội ác.

Ba con người ở vị trí đối địch được cái đẹp của nghệ thuật tập hợp lại, tạo nên một cảnh tượng thật cảm động: "Trong một không khí khói toả như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hổ".

Tác giả gọi đây là "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có". Đúng là một cảnh tượng hết sức kì lạ ở một trại tù, trong đó mọi trật tự thông thường đều bị đảo ngược: nơi ngục thất tăm tối bỗng rực rỡ lửa hồng, chốn trại giam bẩn thỉu "tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phản gián" bỗng trở thành nơi sáng tạo nghệ thuật ; lạ hơn nữa là nhà tù lại là nơi tù nhân làm chủ: một tử tù, tư thế hiên ngang lồng lộng, đường hoàng dõng dạc răn dạy ngục quan. Còn ngục quan thì cúi đầu khúm núm: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh",…

Đây là cảnh tượng thể hiện sâu sắc tư tưởng của tác phẩm: ca ngợi ánh sáng chiến thắng bổng tối, cái đẹp chiến thắng sự thô bỉ, thiên lương chiên thắng tội ác.

Cảnh tượng này cũng minh chứng cho tư tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân: ông đâu phải là cây bút duy mĩ, chủ trương đặt nghệ thuật lên trên mọi thiện ác ở đời. Nguyễn Tuân quả đã có lúc phát biểu như vậy, nhưng xét ra đó chẳng qua chỉ là cách nói ngông, nói phẫn ném vào cái xã hội mà ông cho là thù địch với cái đẹp, chà đạp lên cái đẹp. Qua hình tượng Huấn Cao, ai dám bảo Nguyễn Tuân đối lập tài với tâm, cái đẹp với thiên lương! Đấy là chưa nói, ông còn đường hoàng ca ngợi Huấn Cao mà ai cũng biết nguyên mẫu là Cao Bá Quát, một thủ lĩnh nông dân nổi loạn chống lại triều đình.

5.Chữ người tử tù rút từ tập truyện Vang bóng một thời, ra đời trước Cách mạng tháng Tám 1945. Hồi ấy, ông quan niệm cái đẹp, sự tài hoa chỉ có thể có ở thời xưa, nay còn vương sót lại ở một số ít người ông gọi là "sinh lầm thế kỉ". Ông cho rằng, thời hiện đại là thời của văn minh vật chất, văn minh cơ khí, làm cho đầu óc con người trở nên máy móc, thời của đồng tiền phàm tục, vì thế cái đẹp không thể tồn tại được. Ông phải tìm về quá khứ, cố gắng dựng lại vẻ đẹp của cảnh cũ, người xưa. Mọi sự vật ông đều gọi bằng cái tên của thời ấy. Mọi nhân vật đều được ông mô tả theo tính cách, tâm lí, theo tập quán, cách ăn nói của người xưa. Ông cố dựng lại cả cái không khí trầm lặng, yên tĩnh và cái nhịp sống từ tốn khoan thai của con người thời ấy,…

Ông đã làm được như vậy nhờ am hiểu sâu sắc xã hội, văn hoá và con người thời ấy ; và quan trọng hơn nữa, nhờ yêu mến thật sự những điều mình thuật kể, khiến cho mỗi nét vẽ, mỗi câu văn đều có linh hồn ông gửi lại.

Nhưng cần chú ý điều này: tất cả từ cảnh vật, con người đến nhịp sống nói trên, sở dĩ Nguyễn Tuân "phục chế" được thành công chính là nhờ ông đã sử dụng thành thạo kĩ thuật của văn chương hiện đại. Đó là cách thuật kể gắn liền với bút pháp tá thực ; đó là con mắt quan sát tinh tường, kết hợp với óc phân tích sắc sảo,…

"Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh, ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và mõ đều đặn thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng từ một làng xa đưa lại mấy tiếng chó sủa ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân giời không định".

"Sáu người đều quỳ cả xuống đất, hai tay ôm lấy thành gông đầu cúi cả về phía trước […].

"Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt. Một trận mưa rộp đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen".

Không có kĩ thuật hiện đại làm sao có thể viết được những câu văn nổi hình nổi khối lên như thế!

Phân tích Chữ người tử tù 43

Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập Vang bóng một thời chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến Chữ người tử tù với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.

    Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời xuất bản năm 1940, tác phẩm khi xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên Dòng chữ cuối cùng, sau in thành sách đổi thành Chữ người tử tù. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng những mâu thuẫn gợi ra tình huống truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua đó làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc đời.

    Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn: Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.

    Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.

    Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.

    Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.

    Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ra tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.

    Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắc sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không phải ai cũng cho chữ. Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khúm lúm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sùng kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

    Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.

    Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng chân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đắc sặc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Phân tích Chữ người tử tù 44

Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ tài hoa uyên bác với vốn tri thức phong phú cùng tài năng nghệ thuật vậc thầy. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, mỗi lời văn đều hiện lên trác tuyệt như những nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ. Một trong những tác phẩm đặc sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân là “Chữ người tử tù”, tác phẩm  nói về cốt cách thanh cao, khinh bạc của Huấn Cao, đồng thời xây dựng khung cảnh cho chữ đầy ấn tượng.

    Sáng tác của Nguyễn Tuân trước cách mạng mạng tháng Tám thường hướng đến xây dựng những nhân vật tài hoa bất đắc chí, đó là những con người có tâm, có tài với tâm lòng trong sáng, tuy chí lớn không thành nhưng vẫn nổi bật với vẻ hiên ngang, bất khuất. Huấn Cao là nhân vật điển hình cho phong cách sáng tác đó.

    Truyện ngắn “Chữ người tử tù”, nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng nhân vật Huấn Cao theo bút pháp lãng mạn, một người anh hùng với những vẻ đẹp đầy lí tưởng. Tác giả không miêu tả trực tiếp vẻ đẹp của Huấn Cao mà hiện lên gián tiếp qua cuộc đối thoại giữa viên quản ngục và thơ lại. Đó là một con người hoàn hảo, văn tài võ lược lại mang chí lớn cứu nước, cứu dân, uy danh của Huấn Cao vang xa khắp cõi Tỉnh Sơn.

    Cái tài của của Huấn Cao còn được thể hiện thông qua tài viết chữ đẹp, nét chữ của ông đẹp đẽ, vuông vắn. Với tài năng này đã có rất nhiều người ngưỡng mộ và mong muốn xin được nét chữ của ông để treo trong nhà, trong đó có viên quản ngục. Nét chữ của Huấn Cao là sự kết hợp tài tình giữa tài năng, vẻ đẹp tâm hồn của người nghệ sĩ nên mỗi nét chữ viết ra như hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa hơn người.

    Nét chữ của Huấn Cao trở nên quý giá không chỉ bởi nó “đẹp lắm, vuông lắm” mà mỗi con chữ còn thể hiện được sự tài hoa cũng như khát vọng tung hoành của một con người. Xin được chữ của Huấn Cao cũng là tâm nguyện lớn nhất của người biệt nhỡn liên tài như viên quản ngục.

    Huấn Cao là con người có bản lĩnh hơn người, hiên ngang không chịu khuất phục trước quyền lực và danh lợi. Ông không dùng tài năng của mình để đổi trác lấy danh lợi, có rất nhiều người sẵn sàng mua chữ của ông nhưng ông không bán, theo tâm sự của Huấn Cao thì trong cuộc đời ông, ông chỉ cho chữ những người tri kỉ, đáng kính và những người biết trân trọng, thưởng thức cái đẹp. Đây cũng là lí do vì sao Huấn Cao đã đồng ý cho chữ viên quản ngục trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt – trong ngục tù vì ông cảm động trước tấm lòng trong sáng của viên quản ngục.

    Trong không gian ngục tù u ám, đen tối toàn mùi phân gián, phân chuột, dưới ánh sáng không rõ ràng của ngọn đuốc, Huấn Cao đã viết chữ tặng cho viên quản ngục. Không chỉ cho chữ, Huấn Cao còn tặng viên quản ngục những lời khuyên chân thành nhất, rằng hãy rời xa môi trường đen tối đầy tội ác của ngục tù trở về quê sinh sống để giữ gìn cho thiên lương được trong sáng. Ngay cả trong hoàn cảnh éo le nhất, tấm lòng trong sáng, thiên lương tốt đẹp của Huấn Cao vẫn có thể tỏa sáng và soi đường cho viên quản ngục để trở về với cuộc sống tốt đẹp, trong sạch hơn.

    Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, nhà văn Nguyễn Tuân đã mang đến cho người đọc niềm tin sâu sắc về sức mạnh của cái đẹp, cái thiện, nó có thể tỏa rạng trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngay cả trong không gian ngục tù đầy tối tăm nhất.

Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù 45

Hình tượng nhân vật Huấn Cao được hiện lên qua sự miêu tả của tác giả là người có tài, có tâm và có khí phách phi thường. Là anh hùng trong thời loạn lạc, muốn thực hiện chí lớn để giúp dân giúp nước nhưng Huấn Cao đã bị bắt, sắp phải chịu án tử nhưng người chiến sĩ dũng cảm ấy vẫn thể hiện một ý chí sôi sục, một tinh thần quả cảm khiến người đọc phải trầm trồ thán phục.

Rất nhiều người đã đánh giá rằng Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất của đời văn Nguyễn Tuân. Bởi bằng ngòi bút của Nguyễn Tuân, Huấn Cao hiện lên là một đấng tài hoa nghệ sĩ, một bậc anh hùng nghĩa khí và một con người ngời sáng thiên lương. 

Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút sắc sảo nhưng hết sức chân thật để miêu tả cái tìa của Huấn Cao. Trong truyện, nhà văn tô đậm cái tài viết chữ đẹp của ông Huấn. Như ta đã từng biết: chữ Hán là một chữ hội ý, hội hình, nét chữ đẹp, nghĩa chữ sâu. Cho nên viết chữ đẹp là một bộ môn nghệ thuật có từ cổ xưa và rất cao siêu (gọi là thư pháp). Tài năng hội họa thì nhiều, nhưng họa sĩ có tài thư pháp thì rất hiếm hoi. Chữ trong những tác phẩm thư pháp không phải là sản phẩm của sự khéo tay, quen việc, thạo nghề của môt người thợ. Trái lại, mỗi lần đặt bút đối với nhà thư pháp là một lần sáng tạo. Mỗi nét bút là sự tập trung cao độ, kết tụ tinh hoa và tinh huyết của người nghệ sĩ. Mỗi nét chữ đều là sự hiện hình của những khát khao thầm kín mà lãnh liệt chất chứa trong thẳm sâu tâm hồn, trong nhân cách của người viết. Chữ Huấn Cao là nhân cách cao khiết phi thường của Huấn Cao. Nó quý giá không chị vì được "viết rất nhanh và rất đẹp", không chỉ vì "đẹp lắm, vuông lắm" mà quan trọng hơn là những nét vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Hiểu như thế ta mới thấy được tại sao Nguyễn Tuân lại để cho viên quản ngục khao khát "có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời". Chữ của Huấn Cao đã trở thành mơ ước suốt cả cuộc đời quản ngục. Và để đạt được ước mơ ấy quản ngục đã dám coi thường cả quyền lợi của một viên quản ngục và cả sự an nguy đến sinh mệnh mình.

Ngoài tài năng hiếm có, Huấn Cao còn là một con người có ý chí kiên cường bất khuất. Trong thời buổi loạn lạc, Huấn Cao đã cầm gươm chống lại triều đình, để cứu dân cứu nước. Mặc dù chỉ lớn không thành nhưng ông vẫn giữ được tư thế đường hoàng, oai phong, lẫm liệt. Là một tử tù đợi ngày ra pháp trường nhưng Huấn Cao vẫn hoàn toàn tự do về tinh thần. Ông làm những gì mình muốn và không làm bất cứ việc gì mà mình không thích. Trước mặt ngục quan và đám lính giữ tù bắng nhắng, Huấn Cao lạnh lùng cùng sáu bạn đồng chí "khom mình thúc mạnh đầu thanh gông xuống nền đá tảng đánh thình một cái" để đuổi rệp, cũng là để khẳng định cái oai phong của mình. Quản ngục vào buồng giam "khép nép hỏi ông Huấn: ngài có cần gì thêm nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất". Ông trả lời: "Người hỏi ta muốn? Tả chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây". Đúng là Huấn Cao đã "cố ý làm ra kinh  ngạc đến điều". Thật ngang tàng và kiêu dũng. Rồi nữa, trong cảnh ngộ "một ngày tù nghìn thu ở ngoài", thế mà "Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhân rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm". Đặc biệt, khi thấu hiểu quản ngục là "một tấm lòng trong thiên hạ", Huấn Cao đã bằng lòng cho chữ trong tư thế "một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván". Không có một ý chí ngang thép thì không thể có được cái phong thái ung dung nghệ sĩ trong cảnh cho chữ này. Thế đó, xích xiềng, cường quền và bảo lực không thể làm cho Huấn Cao nao núng tinh thần. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, hình tượng Huấn Cao là hiện thân sinh động của một đại trượng phu với phương châm sống: "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất" (phú quý không thể cám dỗ, nghèo khó không thể lay chuyển, uy vũ không thể khuất phục).

Là người có tài và muốn đem tài năng ấy để giúp ích cho dân, cho nước, nhưng ông Huấn đã thất bại, phải biệt giam chờ ngày xử tội, nhưng Huấn Cao vẫn ung dung tự tại, sẵn sàng đón nhận cái chết đến với mình một cách bình thản. Tuy sống trong nhà tù tối tăm của chế độ phong kiến bẩn thỉu, nhưng ông vẫn được thiên lương trong sáng của mình. Cả một đời, Huấn Cao luôn có ý thức giữ gìn bản tính tốt của con người do trời phú cho. Tiền tài, danh vọng và cường quyền không thể làm cho lương tâm của ông thay đổi. Ông Huấn ngẩng đầu kiêu hãnh trước điều này: "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Tôn thờ chữ "tâm", sống một đời thanh sạch, cho nên ông Huấn thực sự cảm kích trước những người "sống giữa một đống cặn bã" mà còn giữ được "thiên lương". Khi biết quản ngục là một người "có sở thích cao quý" và có "tấm lòng biệt nhỡn liên tài", ông đã ân hận chân thành: "Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ". Và người anh hùng "chọc trời quấy nước", khí phách ngang tàng, giờ đây chí lớn không thành, ngày đếm bị gông xiềng trong ngục tối để chờ ngày bị đem ra pháp trường chặt đầu nhưng tư thế ung dung, hiên ngang bất khuất đó, đã để cái đêm cuối cùng dành những "dòng chữ cuối cùng" của đời mình cho viên quản ngục nọ. Đó không phải là sự dâng nộp báu vật của một người nghệ sĩ đối với kẻ liên tài, người tri kỉ; là sự đáp lại của một tấm lòng trước một tấm lòng... Danh sĩ Cao Bá Quát là nguyên mẫu lịch sử để Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật Huấn Cao. Ông Huấn Cao không cúi đầu bái lạy quản ngục vì quản ngục hứa phải là hiện thân của nhân cách cao khiết tuyệt vời; nhưng ông vẫn nâng niu trân trọng chút "thiên lương", "một tấm lòng" ở con người phải sống trong cái ác, cái xấu nhưng vẫn hướng về cái thiện, cái đẹp đó. Cảm kích trước tấm lòng của quản ngục, ông Huấn không chỉ bằng lòng cho chữ mà còn "đỡ viên quản ngục đứng dậy và đĩnh đạc bảo": "...Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". Có thể coi đây là lời cuối cùng của Huấn Cao trước khi ông đi vào cõi vĩnh hằng. Nó giống như, trong đời thường trước lúc lâm chung, có người ông căn dặn các cháu, người cha dặn dò các con: sống ở đời phải biết theo cái "đói cho sạch rách cho thơm". Như vậy là, ở đâu vào lúc nào, đối với mình cùng như đối với người, Huấn Cao luôn luôn tâm niệm về cái điều cốt lõi trong đạo làm người: hãy biết "giữ thiên lương cho lành vững".

Hình tượng Huấn Cao thật phi thường, con người ấy với tài năng, khí phách và thiên lương đã chiến thắng tất cả, dẹp bỏ tất cả để một mình mình ung dung tự tại tận hưởng cuộc sống tươi đẹp mà mình tự tạo ra.

Mượn hình ảnh nhân vật lịch sử có thật là Cao Bá Quát, Nguyễn Tuân đã xây dựng lên Huấn Cao với sự hội tụ của hai nhân cách, nhân cách Cao Bá Quát và nhân cách Nguyễn Tuân mang đầy đủ những phẩm chất mà Nguyễn Tuân cho rằng cần phải có ở một con người chân chính. Khi ca ngợi nét tài hoa nghệ sĩ ở nhân vật yêu quý của mình, nhà văn như muốn nói: con người lí tưởng trước hết phải là con người có tài, có tầm cao văn hóa và biết làm đẹp cho đời bằng cái tài đó của mình. Thật tự nhiên, tài phải đi song với bản lĩnh, khí phách, với ý thức giữ gìn bản ngã, thậm chí khi cần kẻ có tài phải biết chống lại môi trường phi nhân tính vốn thù địch với tài năng. Nhưng con người chỉ có tài, có khí phách vẫn là chưa đủ, mà phải có tâm nữa. Tuy Nguyễn Tuân không khẳng định như thiên tài Nguyễn Du: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài", nhưng qua sự vận động của hình tượng Huấn Cao ta vẫn thấy nhà văn rất coi trọng chữ tâm, coi trọng"thiên lương". Với Nguyễn Tuân, cái tâm vẫn là gốc rễ của nhân cách, là điểm xuất phát cũng là nơi đi đến của tài năng và khí phách.

Thật là một nhân vật tài năng, phi thường, thật là một nhà văn tài năng, hai sự tai năng đó đã tạo nên một tác phẩm, một nhân vật đáng trân trọng trong làng văn học Việt Nam. Hình tượng Huấn Cao thật đẹp, thật đáng trân trọng, là biểu tượng của những con người anh hùng, khí phách của dân tộc Việt.

 Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân 46

Nhắc đến Nguyễn Tuân, ta nhớ đến một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, nói đến ông là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Lời văn của Nguyễn Tuân giống như những nét bút trác tuyệt như nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý ngôn ngữ. Tác phẩm “Chữ người tử tù” là một trong những tác phẩm điển hình cho nét bút trác ấy. Nổi bật trong tác phẩm là nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ trong tù – một cảnh xưa nay chưa từng có.

Nhân vật Huấn Cao là một nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn, văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng, nhà văn được thả trí tưởng tượng của mình theo đuổi theo những hình tượng hoàn hảo, vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi vậy mà các nhân vật được viết theo bút pháp này thường có tầm vóc phi thường, thể hiện cho những ước mơ và khao khát của chính người tác giả.

Nguyễn Tuân xây dựng nên hình tượng Huấn Cao là thế, một người phi thường, từ tài hoa đến thiên lương, phí khách, nhất nhất đều mang một tầm vóc phi thường. Nhân vật này chính là giấc mơ đầy tính nhân văn của tác giả Nguyễn Tuân. Mở đầu thiên truyện là cuộc đối thoại giữa hai nhân vật quản ngục và thơ lại, Huấn Cao tuy chỉ được hiện lên gián tiếp nhưng đã đủ để thấy ông là người văn võ song toàn, uy danh vang khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài nổi bật nhất chính là viết chữ đẹp, chữ thư pháp – một bộ môn nghệ thuật cao siêu của dân tộc, mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa, là sự kết tinh tâm hồn người viết.

Chữ của Huấn Cao thể hiện cho nhân cách Huấn Cao, cái quý giá của chữ Huấn Cao không chỉ vì viết nhanh, rất đẹp, đẹp mà vuông lắm mà còn vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một con người. Chính vì vậy mà nét chữ của Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất của cuộc đời viên quản ngục, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sinh mệnh của mình. Đối lại với tâm nguyện của viên quản ngục, Huấn Cao còn là một người mang trong mình tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người.


Vốn trong mắt Huấn Cao, viên quản ngục chỉ là kẻ tầm thường, tỏ vẻ khinh bỉ không giấu diếm, nhưng đến khi nhận ra kẻ ấy chính là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản nhạc đang hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao lại hết sức ân hận, bằng tất cả sự xúc động, Huấn Cao đã nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi… Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn cao còn được Nguyễn Tuân tô đậm cho một khí phách siêu Việt, ông cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình nhưng không thành, bị lãnh án tử hình. Dù có tù đày hay gông cùm, ngay cả cái chết cũng không khuất phục được ông, ông không hề run sợ, quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể thấy Huấn Cao sừng sững suốt cả thiên truyện với khí phách kiên cường bất khuất.

Tất cả những phẩm chất tuyệt vời ấy của Huấn Cao đã được bừng sáng trong một cảnh tượng xưa nay có – chính là cảnh cho chữ. Đây là một cảnh khá ngặt nghèo, và oái ăm, bởi thân phận của hai nhân vật về bình diện xã hội là những kẻ đối địch nhau, một bên là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại đế chế đương thời, ngược lại, một bên là viên quan đại diện cho đế chế ấy. Tuy nhiên về bình diện nghệ thuật họ lại là những người tri âm với nhau, một người có tài viết chữ đẹp nổi danh thiên hạ, một người lại vô cùng ngưỡng mộ cái tài đó.

Mối tương quan như vậy khiến cho quan hệ giữa họ lúc ban đầu rất căng thẳng, viên quản ngục chỉ có một tâm nguyện lớn nhất là có được chữ của Huấn Cao, mà đây đã là cơ hội cuối cùng. Còn Huấn Cao, tuy ông có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho chữ với những ai ông cho là tri kỉ. Ấy vậy mà trong mắt Huấn Cao, ông chỉ xem quan ngục là kẻ tiểu nhân, quan ngục thì dường như không thể trở thành tỉ kỉ của Huấn Cao trong vài ngày.

Nhưng may sao ở viên quan ngục lại có một tấm lòng biệt nhỡn liên tài, và chính tấm lòng đó đã làm cho Huấn Cao cảm động và cho chữ. Cảnh cho chữ đáng lẽ phải diễn ra nơi trang trọng, đàng hoàng thì lại diễn ra nơi buồng giam chật hẹp, hôi hám và bẩn thỉu. Người đem cho đi cái đẹp đáng lẽ phải thuộc tự do nhưng đây lại là tử tù sắp bị hành hình, tuy nhiên, kẻ cầm trong tay quyền hành thì đã bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao – một kẻ đã mất hết quyền sống. Quản ngục đã vái lạy Huấn Cao như một thánh nhân “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.  Cảnh cho chữ đã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, của thiên lương trước cái xấu, cái ác. Cái đẹp dù có bị vùi dập cũng sẽ không mất đi, đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.

Tác giả Nguyễn Tuân đã làm nổi bật thành công hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Bên cạnh đó nhà văn còn sử dụng một hệ thống ngôn ngữ cổ như: biệt lỡn liên tài, thiên lương, bãi lĩnh,… đã có tác dụng mang lại bầu không khí phong kiến xa xưa, giúp cho nhà văn tái hiện câu chuyện của môt thời vang bóng.

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân 47

Nguyễn Tuân là một trong những tác giả có đóng góp lớn nhất đối với sự phát triển của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Có thể nói, Nguyễn Tuân đã khám phá ra một vẻ đẹp có sức quyến rũ mạnh mẽ của tiếng Việt vốn tiềm ẩn trong đời sống thường ngày. Ông lại có cái thú tiềm kiếm vẻ đẹp xưa cũ và khoát lên cho nó bộ áo mới, có sức mạnh làm lay động lòng người. Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc thể hiện rõ phong cách ấy của ông. Nhân vật Huấn Cao là một thành công rực rỡ của Nguyễn Tuân

Người đọc Việt Nam không lạ gì với tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Bởi nó quá đẹp, quá xuất sắc. Một tác phẩm được trau chuốt bởi tình yêu cái đẹp, tình yêu sự sống và sự cảm phục trước tấm lòng cao cả của con người, Chữ người tử tù đứng giữa nền văn học thế kỉ 20 như một tuyệt phẩm quyến rũ đến ngất ngây. Vũ Ngọc Phan nhận xét đó là “một văn phẩm đạt gần tới sự toàn thiện, toàn mĩ”.

Tác phẩm lựa chọn một bối cảnh chứa đựng nhiều xung đột dữ dội. Đó là thời đại của các nhà Nho cuối mùa. Họ vốn tài hoa nhưng không gặp thời. Giữa buổi Tây – Tàu nhố nhăng, đạo học bị phỉ báng, lễ nghi xuống cấp, những con người này, mặc dù buông xuôi bất lực nhưng vẫn mâu thuẫn sâu sắc với xã hội đương thời. Dù đã thấy rõ sự vận động tất yếu của thời đại nhưng ở họ vẫn khát khao gìn giữ những giá trị tốt đẹp.

Họ không chạy theo vòng danh lợi mà vẫn cố giữ “thiên lương” và sự trong sạch của tâm hồn. Sự xung đột dữ dội giữa cái mới và cái cũ, giữa cái thanh cao và cái phàm tục, giữa cái bất biến và cái thường biến đã đẩy họ vào tình thế sống còn, gây cấn. Họ dùng hết sức lực cuối cùng để chống lại, quyết không khuất phục.

Trong số những con người tài hoa ấy, nổi bật lên hình tượng ông Huấn Cao trong Chữ người tử tù. Huấn Cao là một con người tài hoa, xuất chúng. Không chỉ có tài mà, ông còn có cái tâm trong sáng. Mặc dù chí lớn không thành những tư thế vẫn hiên ngang, bất khuất.

Huấn Cao là một nhân vật rất thành công của Nguyễn Tuân. Có lẽ, trong các nhân vật trong trang văn của Nguyễn tuân, Huấn Cao là nhân vật được ông để tâm nhiều nhất. Một mặt, khí phách của Huấn Cao có nhiểu tương đồng với ông: tài hoa và ngạo mạn. Mặt khác, tính cách của Huấn Cao cũng là niềm khát khao mà ông mong có được.

Nguyễn Tuân đã cho nhân vật Huấn Cao xuất hiện có trình tự. Trước hết, Huấn Cao sơ lược hiện ra qua lời bàn luận của viên quản ngục và thầy thơ lại. Cuộc trò chuyện làm rộ rõ danh tính và tính cách lẫn tài năng của Huấn Cao. Sự xuất hiện của Huấn Cao được báo trước và đón nhận một cách long trọng, nghiêm ngặt. Nó giống như là sự xuất hiện đặc biệt của một nhân vật anh hùng. Một con người vừa có uy quyền lẫm liệt vừa có sức đe dọa ghê gớm đối với cương pháp nhà tù.

Từ cuộc trò chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại, tính cách của Huấn Cao cũng được hiện rõ. Trước hết, Huấn Cao là một con người tài hoa xuất chúng. Ông nổi tiếng khắp thiên hạ là người viết chữ đẹp. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Ông lại có tài “viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Cái đẹp của chữ thánh hiền dưới bàn tay tài hoa của ông trở thành một nghệ thuật trác việt. Có được chữ Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đời.

Tài năng ấy được viên quản ngục thấu cảm một cách sâu sắc, vừa trân trọng vừa hối tiếc. Trân trọng bởi đó làm một người hiếm có ở trên đời. Hối hận vì, ngôi sao ấy sắp phải ra đi. Tình yêu cái đẹp khiến cho viên quản ngục cảm thấy đau lòng. Trong khi, chính ông lại đang có trong tay Huấn Cao. Bằng quyền lực, ông có thể cưỡng ép Huấn Cao cho chữ, cách mà nhiều kẻ hèn kém khác đã làm. Nhưng viên quản ngục cũng nhìn rõ Huấn Cao không phải là người có thể dùng quyền lực hay nhục hình mà khuất phục được.

Không chỉ tài hoa, Huấn Cao còn là người có võ nghệ cao cường. Ông có thể bẻ khóa vượt ngục một cách dễ dàng. Nhà tù đối với ông là nơi ra vào dễ như đến chỗ không người. Đó thực sự là một nỗi lo lắng của viên quản ngục khi nhận được lệnh tiếp quản Huấn Cao.

Hội tụ đủ tài năng, Huấn cao lại còn là người khí phách hiên ngang, luôn biết giữ đạo nghĩa, khí tiết, không khuất phục trước uy quyền bạo lực. Bởi bất mãn với triều đình phong kiến thối nát mà chiêu binh khởi nghĩa. Tuy thất bại, trở thành tử tù nhưng rất ung dung, bình thản. Đối với Huấn Cao, cái chết nhẹ như lông hồng. Người anh hùng vì đại nghĩa chỉ sợ sự nghiệp không thành, nào màng đến bản thân sống chết. Nhà tù phong kiến và chiếc gông tàn bạo kia có thể giam cầm được thân thể Huấn Cao nhưng không thể nào giam giữ nổi cái chí lớn của ông. Bởi thế, mỗi bước chân của Huấn Cao đều toát lên niềm kiêu hãnh khiến cho mọi cái nhìn đều phải khiếp sợ.

Hành động rỗ gông trước lời dọa và giễu cợt của tên lính toát lên khí phách phi thường ấy. Huấn Cao lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thanh gông xuống thềm đá tảng đáng thuỳnh một cái.  Một đống rệp ào ào rơi xuống xanh cả nền đất. Đó cũng là lời cảnh báo đối với cái thế lực xấu xa đang đẩy ông vào chỗ khốn cùng, tận tuyệt. Nó cảnh tỉnh những kẻ đang thực thi luật pháp rằng chúng có thể giết chết ông nhưng không thể xúc phạm ông.

Đến thái độ đầy cao ngạo, khi trả lời quản ngục, người đại diện cho chính quyền phong kiến, cũng hết sức khinh bạc: “Ngươi hỏi ta muốn gì ? Ta chỉ muốn một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Huấn Cao không chấp nhận bất cứ một lòng thương hèn yếu nào. Ông không cần lòng thương hại của người khác. Ông không cần nhận lấy một ân huệ bỉ ổi nào. Ông khinh thị tất cả. Trong bước đường cùng này, ông dũng cảm bước đến cái chết với tư thé lẫm liệt, uy nghi. Ông không muốn để cám dỗ đời thường làm mất đi cái cao cả của bậc anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất. Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là cái trò tiểu nhân oái thị này.

Huấn Cao ung dung, bình thản đón nhận, chờ đợi cái chết. Ông thản nhiên nhận rượu thịt, coi đó như việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm. Rượu để làm tâm hồn thêm say men khí tiết. Cơm để an lòng, đủ sức mà lẫm liệt đi vào vĩnh hằng thiên thu. Mọi sự dơ bẩn của nhà tù và cuộc đời giờ đây đối với Huấn Cao như phù du cõi người. Sự đời nhân gian như gió thổi mây bay, đến rồi đi, không lưu luyến gì. Ông đã thực sự rũ bỏ lòng mình, rũ bỏ cái tầm thường, chỉ giữ lại cái tinh túy của linh hồn và bước tới.

Vượt lên trên tất cả, Huấn Cao là người có thiên lương trong sáng, nhân cách cao đẹp. Ông không tham quyền hám lợi mà bán rẻ giá trị của bản thân mình. Ông không vì vàng ngọc hay quyền thế mà bắt mình phải viết câu đối bao giờ. Đó là cái mà viên quản ngục và thầy thơ lại cảm nhận được. Ông thực sự có tài. Ông có thể dùng nó để mưu lợi hoặc giải thoát mình.

Nhưng không. Huấn Cao sẽ không bao giờ làm thế. Bởi ông là người trọng nghĩa khí. Ông không muốn lợi dụng tấm lòng ân sủng của viên quản ngục đối với ông mà làm điều bất nghĩa ấy. Vốn khinh bạc nhưng khi biết phẩm chất tốt đẹp và sở thích cao quý của quản ngục, Huấn Cao rất trân trọng. Huấn Cao cảm được cái tấm lòng “biệt nhỡ nhân tài” của viên quản ngục. Vì thế, ông đã sẵn sàng cho chữ. Không những thế, ông còn tỏ bày lòng mình: “thiếu chút nữa phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Đó là lời cảm khái vừa thể hiện cái khí phách của Huấn Cao vừa tôn vinh phẩm chất cao quý của viên quản ngục.

Không chỉ giữ gìn, quý trọng thiên lương của mình, Huấn Cao còn chân thành khuyến thiện con người. Không chỉ cho chữ, Huấn Cao còn cho quản ngục những lời khuyên hết sức chân thành và ý nghĩa. Huấn Cao khuyên quản ngục thoát khỏi cái nghề đao thương bất luận này đã rồi mới nghĩ đến việc chơi chữ. Chốn ngục tù tăm tối, luật pháp bất minh thé này khó mà giữ được thiên lương.

Lời khuyên ấy cũng là lời ông muốn gửi đến cuộc đời đó thôi. Đôi khi giữa đời và đạo có nhiều điểm không tương khớp với nhau. Thôi thì chọn lấy một hướng đi tốt đẹp, tuy nghèo mà sống một cuộc đời thanh cao. Đó cũng là lựa chọn của những con người biết trọng bản thân, trọng cái đẹp và đạo lí ở đời.

Huấn Cao quả thật là một nhân vật toát lên một vẻ đẹp khá toàn diện. Ông vừa là một con người rất mực tài hoa vừa là một con người hiên ngang khí phách, sống với một mục đích, lý tưởng cao đẹp bất chấp cả uy quyền và bạo lực. Ông luôn luôn đặt chữ “tâm” trên chữ “tài” và có quan niệm thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện. Cái đẹp và cái thiện phải luôn luôn đi đôi với nhau, gắn bó mật thiết với nhau, không thể tách rời nhau được. Huấn Cao quả là một nhân vật thật lý tưởng, đại diện cho thiên lương cao cả, bất biến của con người.

Phân tích cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân 48

Khi nhắc tới bút pháp lãng mạn, lối văn chương khao khát hướng tới chân – thiện – mĩ, không thể không nhắc tới Nguyễn Tuân – một nghệ sĩ dành cả cuộc đời để đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân được đánh giá là một cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tác của ông, các nhân vật thường được mang một tầm vóc phi thường, chính tác phẩm “Chữ người tử tù” đã được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Trong tác phẩm, phần đặc sắc nhất chính là cảnh cho chữ – một cảnh xưa nay chưa từng có.

Cảnh cho chữ được sắp ở cuối tác phẩm, ở đây tình huống truyện đã được đẩy lên đỉnh điểm khi viên quan ngục nhận được công văn về việc xử lí những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Chính vì vậy, cảnh cho chữ dã có ý nghĩa cởi nút, gải tỏa những bằn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, qua đó toát lên giá trị lớn lao của tác phẩm. Sau khi nhận được công văn ấy, viên quản ngục đã giãi bày tâm sự, mong mỏi của mình với thầy thơ lại, nghe xong thầy thơ lại chạy xuống buồng giam để kể rõ nỗi lòng của viên quản ngục với Huấn Cao.

Trong đêm hôm đó, tròng giam chật hẹp, bẩn thỉu, tối tăm, chỉ có ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, đã diễn ra “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Có nhiều chi tiết và sự đối lập, trái ngược nhau trong tình huống này. Đáng lẽ ra việc cho chữ – việc sáng tạo nghệ thuật phải được thực hiện ở những nơi đàng hoàng, đẹp đẽ, thoáng đãng và yên tĩnh, thế nhưng cảnh cho chữ này lại ở một không gian chứa đầy bóng tối, chốn ngục tù. Đáng lẽ ra người cho đi cái đẹp phải được sống trong tự do thì đây lại là đêm cuối cùng, những giờ phút cuối cùng của một kẻ tử tù sắp thi hành án.

Trong hoàn cảnh ấy “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” lại ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”, còn người cầm quyền hành trong tay là viên quản ngục lại khúm núm, cầu xin Huấn Cao. Trong hoàn cảnh này, người tù tội chính là người răn dạy và ban phát cái đẹp. Trên bình diện xã hội họ là hai kẻ thù của nhau, nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm với nhau, thật chua xót khi đây là lần đầy tiên cững như lần cuối cùng họ được gặp nhau, họ đã được gặp nhau với con người thật và ước muốn thật của mình. Trong đoạn văn, tác giả sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối và câu chuyện cũng được vân động theo đó.

Sự u tối, bẩn thỉu của buồng giam với tấm lụa trắng tinh và nét chữ đẹp đẽ, qua hình đó đã làm nổi bật lên hình tượng của Huấn Cao, sự vươn lên chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của cái đẹp – thiện với cái xấu – ác. Sau khi cho chữ, Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục nên từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn, bởi tuy cái đẹp có thể sinh ra ở nơi tối tăm, nhơ bẩn, môi trường của cái ác nhưng không thể để chung sống với cái ác. Hãy biết tìm trong nét chữ mùi mực hương vị của thiên lương. Trước lời khuyên đó của Huấn Cao, viên quản ngục đã xúc động, vái lạy Huấn Cao và nói mà “dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Như vậy có thể thấy, bằng chính tài năng xuất chúng và nhân cách cao cả mà người tử tù Huấn Cao đã hướng cho viên quản ngục đến một cuộc sống thiên lương, ông đã gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường trong khi ông đang trên đường đi tới cái chết. Cảnh tượng ấy còn một lần nữa tô đẹp hình tượng Huấn Cao, cao lớn và phi thường, vượt lên trên những dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh, đồng thời cũng khẳng định rằng, con người vẫn luôn khao khát hướng đến chân – thiện – mĩ trong mọi hoàn cảnh. Bên cạnh đó, ta cảm nhận được vẻ đẹp của viên quản ngục và thầy thơ lại, họ là những người tuy sống trong môi trường độc ác, xấu xa nhưng vẫn giữ được chính mình, là “những thanh âm trong trẻo” của một bản nhạc hỗn độn. Qua đó tác phẩm đã ca ngợi lòng yêu nước, thái độ căm ghét bọn cường quyền thống trị đương thời và trân trọng những người có “thiên lương”.

“Chữ người tử tù” đã trở thành một bài ca bi tráng và bất diệt về thiên lương về tài năng và nhân cách của con người. Những dòng chữ cuối đời của Huấn Cao mang ý nghĩa truyền lại cái tài hoa và nhân cách cho những kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau, đó là một tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho muôn đời.

Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù 49

“Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân Truyện ngắn “Chữ người tử tù” trong tập truyện “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân là một tác phẩm tiêu biểu và có nhiều thành công lớn về mặt nội dung lẫn nghệ thuật. Bên cạnh bút pháp lãng mạn, thủ pháp nghệ thuật đối lập,…nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng tạo một ấn tượng khó phai mờ, góp phần vào sự thành công của truyện. Điều đó, thể hiện rõ nét quá tâm lí nhân vật Huấn Cao, đặ biệt là diễn biến tâm lí, thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục.

Nhân vật Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm “Chữ người tử tù” là một anh hung, đầu đội trời, chân đạp đất; có tài viết chữ đẹp; văn võ song toàn. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội, nghèo khổ, lầm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo nên cùng nhân dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Nhưng cuộc khởi nghĩa không thành công, ông bị triều đình bắt giam vào chốn tù với án tử chờ ngày ra pháp trường.  

Chính chốn ngục tù tăm tối ấy là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ khác thường giữa hai nhân vật khác thường : một bên là viên quản ngục - kẻ đạị diện cho chính quyền phong kiến thối nát, bảo thủ đương thời; một bên là người tử tù Huấn Cao – một kẻ “nổi loạn”; một anh hung vì bất mãn với cường quyền mak đứng lên khởi nghĩa. Xét về phương diện xã hội, họ là hai thế lực thù địch, đối lập nhau.  

Hiểu rõ điều này hơn ai hết là Huấn Cao. Ông tỏ vẻ coi thường, khinh miệt viên quản ngụ. Nhưng sự đời nào ai biết trước chuyện gì, tưởng chừng viên quản ngục là kẻ xấu xa, bảo thủ; ai ngờ rằng con người ấy lại có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”, có sở thích cao quý, rất mến và yêu cái tài viết chữ của ông Huấn. Sau khi hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, Huấn Cao đã thay đổi thái độ: từ khinh miệt, coi thường đến trân trọng yêu quý và vì thế, ông đã đồng ý cho chữ. Chẳng những vậy, Huấn Cao còn dành những lời nói cuối cùng vọng lên từ tâm hồn của một nhà nho chân chính khuyên giải viên quản ngục, nhắc ông quay về với thiên lương.  

Nguyễn Tuân thật sự rất thành công trong việc khắc họa diễn biến tâm trạn phức tạp của Huấn Cao.  

Lần đầu tiên “ra mắt” những quản ngục tính Sơn, trước uy quyền của nhà lao, Huấn Cao vẫ tỏ ran gang ngạo. Ông vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường bằng việc làm đầy thách thức : “rõ mạnh gông”. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh dầu thang xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Vào trong nhà giam rồi nhưng ông vẫn ngang tàn, ko hề nhún nhường. “Suốt nửa tháng”, trong khi viên quản ngục vì mến tài viết chữ mà hết lòng ưu ái, “biệt đãi” ông và các đồng chí thì Huấn Cao tỏ vẻ : “khinh miệt đến điều”. Khi viên quản ngục “mở khóa cửa buồng kín, khép nép hỏi ông Huấn” : “Ngài muốn gì xin cho tôi biết tôi sẽ cố gắng chu cấp” thì ông khinh bạc, lạnh lung trả lời : “ Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàn, ngạo mạn. Huấn Cao không thèm  đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ mà ông xúc phạm. Ông rất ung dung, bình thản.  

Thái độ trên của Huấn Cao đối với viên quản ngục là một điều tất yếu. Bởi vì, Huấn Cao chưa hiểu được tấm lòng của một người giữ tù. Trong suy nghĩ của ông Huấn, hắn chỉ là một con người xấu xa, tàn bạo; đại diện cho chính quyền phong kiến thối nát ông thù hận : hắn là kẻ thù của ông. Huấn Cao đâu chỉ tài năng xuất chúng, ông còn có nhân cách và khí phách của một người anh hung. Với nhân cách cao đẹp, trong mắt Huấn Cao, ông chỉ coi viên quản ngục là kẻ tiểu nhân, ăn bám theo cái chính quyền phong kiến tàn lụi mà ông căm ghét : tất cả bọn chúng chỉ là những kẻ đáng khinh, đáng coi thường mà thôi !  

Nếu mạch truyện đi theo chiều hướng này thì cũng rất hay. Nhưng Nguyễn Tuân lại không muốn đi theo con đường tầm thường ấy. Mỗi tác phẩm của ông đều phải xuất sắc, đạt đến trình độ hoàn mỹ toàn diện. Như ta đã biết, Nguyễn Tuân là một nhà văn lãng mạn, ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Nhân vật hiện lên trong các tác phẩm của ông phải là hiện thân của cái đẹp. Nhân vật viên quản ngục không phải là ngoại lệ. Tìm ẩn trong con người ấy là cả một tâm hồn trong sáng với thiên lương cao quý. Để cho người đọc thấy rõ điều đó, Nguyễn Tuân đã mượn thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục- một thái độ khác hẳn, hoàn toàn ngược lại ban đầu. 
 
Huấn Cao cẩm thấy ân hận, ông “lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười”: “Ta cảm thấy tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Do đó, dù là một người “vốn khoảnh”, “trừ chỗ tri kỉ”, “ông ít cho chữ” thì nay, những dòng chữ cuối đời của mình, ông dành tặng người quản ngục. Có phải lúc bấy giờ, viên quản ngục đã trở thành “người tri kỉ” của Huấn Cao ?. Một người mà Huấn Cao tin tưởng trao “những nét chữ cuối cùng của mình”. Chẳng những vậy, ông còn coi viên quản ngục như chỗ tri âm mà khuyên giải: “Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi…tìm về quê mà ở…rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ơ đây khó giữ cho thiên lương lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Huấn Cao đã thay đổi hoàn toàn thái độ với viên quản ngục. Đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ đã gây nhiều rung cảm cho người đọc, xứng đáng là “cảnh tưởng” đẹp nhất trong văn học Việt Nam.  

Đó quả thật là “cảnh tưởng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân chắc đã tập trung toàn bộ tài năng và sự lãng mạn, bay bổng vào cảnh này. Viết chữ hay cho chữ thường diễn ra ở nơi trang nhã thanh cao như thư phòng. Còn ở đây, lại diễn ra ở chốn ngục tù tăm tối. Lúc nửa đêm, trong nhà tù, vài canh giờ trước lúc ra pháp trường. Trong không gian trật hẹp, nơi mịt mù, tăm tối kia. Một người tù “cổ mang gông, chân vướng xiềng” đang tô dậm những nét chữ bay bổng “cuối cùng”. Cạnh bên là viên quản ngục đang khúm núm, sợ sệt. 
 
Không gian im lìm, tĩnh lặng, nếu có âm thanh vang lên thì đó là tiếng nói của Huấn Cao, tiếng nói của cái đẹp,…tiếng nói khuyên con người về với cái thiện “ở đây lẫn lộn, ta khuyên thầy…về quê, không ở đây nhem nhuốc” cả tâm hồn lẫn nhân phẩm. Và người quản ngục chỉ có thế nghẹn ngào một tiếng “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Vậy là cái Đẹp đã cảm hóa cái xấu, cái ác. Lời khuyên chân tình của Huấn Cao : “ Ở đây không phải chốn treo tấm lụa” còn khẳng định một điều : cái Đẹp không thể sống chung, sống cùng, sống lẫn lộn với cái ác, cái xấu.   Sau câu nói của Huấn Cao, không gian tĩnh lặng để cho cái Đẹp, cái Thiện bồi hồi nhân vang….Và khi ấy, Huấn Cao và người quản ngục từ thế đối lập đã hòa vào nhau chỉ còn niềm tôn kính vô bờ, trân trọng cái Đẹp, cái Thiện của cuộc đời này.  

Sự thay đổi thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục thực ra không có điều gì bất ngờ và phi lí. Bởi thực tế, Huấn Cao là người khí phách nhưng viên quản ngục không phải hoàn toàn xấu xa. Huống hồ họ gặp nhau nơi lòng yêu mến, tong sung cái đẹp. Vì vậy, ta có thể hiểu con đường họ đi từ thế đối lập sàn hòa hợp trong sự tỏa hương của con chữ thiên lương. Không chỉ vậy, trong nhân cách Huấn Cao, ông còn là con người đầy tinh tế, độ lượng, biết trọng người có thiên lương. Ông vì cảm tấm lòng mà cho chữ kẻ tội đồ của cái Thiện. Nơi ngục tù, lúc cuối đời, ông đâu ngờ lại gặp được một tâm hồn tri âm, tri kỉ!  

Miêu tả thành công diễn biến tâm trạng, thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã tô đậm nhân cách cho nhân vật Huấn Cao-một con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang, bất khuất. Đó là hình tượng cho một con người có nhân cách cao đẹp-một biểu tượng hoàn mĩ cho cái Đẹp, cái Thiện. Qua diễn biến tâm lí nhân vật Huấn Cao, nhà văn đã khẳng định hai điều : cái thiện  có thể sinh ra từ cái ác nhưng không thể sống chung, sống lẫn lộn cùng với cái ác và cái thiện, cái đẹp có thể cảm hóa được con người.
  
Huấn Cao là một hình thượng văn học hoàn mĩ, đẹp đẽ nhất trong nền văn học nước nhà. Nhưng hình tượng ấy không hề cứng nhắc, khô khan. Ngược lại, nó vô cùng sinh động dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân. Với bút pháp xây dựng nhân vật độc đáo, Nguyễn Tuân đã vẽ nên một hình ảnh Huấn Cao vừa cao ngạo, bất khuất, vừa chân tình, tài hoa, biết yêu quý nghệ thuật, trân trọng những tấm lòng trong thiên hạ, biết đề cao thiên lương con người. Điều đó cũng khẳng định sự thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và thêm một lần nữa ngợi ca phong cách nghệ thuật tài hoa độc đáo của Nguyễn Tuân trong nền văn học Việt Nam.   

Phân tích một cảnh tượng xưa nay chưa từng có trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân 50

Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông, mĩ (cái đẹp) là đỉnh cao của nhân cách con người, ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường, ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Cái đẹp của ông bao gồm chân và thiện; ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn Chữ người tử tù (1939) trong tập Vang bóng một thời là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.

Ông Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.
Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nữa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để xin chữ treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.

Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên đại nghịch cầm đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách hai nhân vật được bộc lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.

Huấn Cao nói: Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa: Ta cảm cái tẩm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị xua đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì bị Huấn Cao cự tuyệt: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ.

Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được thièn lương, ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi bởi ở đây khó giữ được thiên hướng cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
Huấn Cao còn đẹp ở khí phách, ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của anh hùng Cao Bá Quát. Đểm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quý của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.

Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một người tù, cổ đeo gông, chân vưởng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Bóng dáng người tử tù trở nên cao lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.
Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có?

Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám.

Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nối bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.

Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái đẹp, cái dũng, cái thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái đẹp gắn liền với cái thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy làm rực sáng cả chốn lao tù.

Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng gây xúc động. Đó là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ kính trọng chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.

Đoạn ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.

Chữ người tử tù không còn là chữ nữa, không chỉ là mĩ mà thôi, mà những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời người. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa mĩ và dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí duy mĩ của Nguyễn Tuân.

Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ Người Tử Tù 51

Nguyễn Tuân được mệnh danh là một cây bút tài hoa và xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Nhân vật của Nguyễn Tuân được xây dựng lên là một người tài hoa nghệ sĩ. Trong tác phẩm “Chữ người tử tù” thì nhân vật Huấn Cao cũng không nằm ngoài khuôn mẫu này. Xây dựng lên một nhân vật anh hùng Huấn Cao vừa phí phách vừa có thiên lương là một thành công lớn của Nguyễn Tuân.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết về cái đẹp và luôn để cho nhân vật của mình ngời sáng lên những vẻ đẹp đa dạng nhất. Xây dựng lên vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài hoa. Tài hoa thể hiện ở cái tài viết chữ Hán – loại văn tự giàu chất tạo hình. Thời xưa thì các nhà nho viết chữ để có thể bộc lộ cái tâm, cái chí của con người cho nên nó đã trở thành một bộ môn nghệ thuật gọi là thư phát. Có người viết chữ thì sẽ có người chơi chữ, treo chữ trong nhà cũng thường chọn ở vị trí đẹp nhất, trang trọng nhất. Chơi chữ cũng là một thú vui tao nhã.

Nhân vật Huấn Cao lại có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp, tài năng của ông nổi tiếng khắp một vùng tỉnh sơn. Quản ngục cũng biết đến tài của Huấn Cao và ông có một cái sở nguyện có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết cho. Thông qua đây độc giả có thể nhận thấy được Huấn Cao có một vẻ đẹp tài hoa khó ai có được. Việc trân trọng tài năng – sở nguyện của quản ngục cũng đã cho thấy được ông luôn bày tỏ thái độ trân trọng người tài.

Huấn Cao không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa thôi đâu mà ông còn là người anh hùng có khí phách hiên ngang bất khuất. Có thể dễ dàng nhận thấy được hình ảnh người anh hùng ấy dám tố cáo sự trắng trợn của triều đình. Người anh hùng đó cũng đã đứng lên đấu tranh chống lại triều đình phong kiến mục nát, thối rữa. Nhân vật Huấn Cao lúc này cũng không chấp nhận sự giam cầm của bè lũ khốn kiếp cho nên ông đã từng bẻ khóa vượt ngục, hay cũng lại vào sinh ra tử nhiều lần. Huấn Cao trong con mắt của bọn lính gác, Huấn Cao chính là một kẻ vô cùng ngạo ngược và nguy hiểm nhất cho nên luôn phải đề phòng. Huấn Cao đối với thầy thơ lại thì ông lại hiện lên lại là một người văn võ đều có tài cả. Còn với quản ngục thì Huấn Cao là một người anh hùng, coi thường tiền bạc cũng như quyền thế. Nhân vật Huấn Cao chính là một người tài ba trong mắt của mọi người, đồng thời ông cũng là một kẻ tử tù nhưng lại có tấm lòng kiên trung và lại toát lên sự thanh cao giữa chốn xiềng xích nhơ bẩn.

Huấn Cao là một người tử tù nhưng lại không tỏ vẻ gì sợ hãi, khúm núm khi đứng trước sự thúc giục hay những roi vọt của sai nha. Đặc biệt ông cũng lại thản nhiên nhân sự biệt đãi của quản ngục. Với phong thái thật ung dung và bất khuất như vậy, độc giả nhận thấy rằng Huấn Cao chính là một định nghĩa hoàn chỉnh hoàn mĩ về những con người tài năng, nhân cách và uy vũ.

Nhân vật Huấn Cao không những là một anh hùng mà ông còn là một con người có vẻ đẹp thiên lương trong sáng, có một tâm hồn cao đẹp. Tử tù Huấn Cao có tài viết chữ đẹp nhưng không phải ai ông cũng dễ dàng cho chữ. Nguyên do không phải vì Huấn Cao kiêu ngạo mà là vì Huấn Cao cũng chỉ tặng chữ cho những ai biết trân trọng yêu quý cái đẹp, cái tài mà thôi. Cho nên suốt đời ông cũng chỉ viết có hai bộ tứ bình và thêm với đó là một bức trung đường cho ba người bạn thân của ông. Với ông chơi chữ phải là một con tài đức vẹn toàn. Khi nhận ra được viên quản ngục biệt đãi mình như thế thì ông cảm phục cái tài của Huấn Cao. Khi biết được sự tình thì Huấn Cao đã nói: “suýt chút nữa thì ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.

Huấn Cao đã quyết định cho chữ quản ngục và đây cũng là một cảnh tượng xưa nay chưa từng quá. Bởi trong cảnh cho chữ này thì vẻ đẹp thiêng lương, vẻ đẹp của cái thiện lương như đã soi rọi làm cho cái đẹp của cái tài, phí phách anh hùng như bừng sáng lên chính giữa chốn tù ngục tối tăm. Chính sự thống nhất giữa cái tài, cái tâm cũng như cái khí phách anh hùng đã làm toát lên nhân cách cao đẹp của Huấn Cao. Xây dựng nhân vật Huấn Cao mang vẻ đẹp của người anh hùng lý tưởng, đó chính là một cái đẹp mà Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm. Thêm với đó là lý tưởng thẩm mĩ ấy chi phối mạch vận động của truyện, tất cả như đã tạo thành cuộc đổi ngôi bất ngờ khi kẻ tử tù trở thành người bậc trên để ban phát cái đẹp, để có thể dạy dỗ cách sống. Nhân vật quản lục lại còn khúm núm sợ hãi của mình. Hình tượng nhân vật Huấn Cao cũng vì thế mà trở thành một biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng và bóng tối, của cái tốt với cái xấu, của cái đẹp với cái phàm tục dơ bẩn.

Thông qua từng nét bút phác họa của Nguyễn Tuân thì nhân vật Huấn Cao hiện lên rõ nét, oai phong và vô cùng đĩnh đạc cũng lại khiến cho người đọc không khỏi khâm phục và thêm phần quý trọng. Nguyễn Tuân làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật thông quan ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân cũng rất giàu chất tạo hình. Nhà văn đã cũng đã sử dụng nhiều từ Hán Việt để nói lên được khẩu khí của bậc trượng phu để làm tăng lên vẻ đẹp của một thời vang bóng ở hình tượng nhân vật Huấn Cao.

Thành công trong tác phẩm “Chữ người tử tù” chính là việc xây dựng nhân vật Huấn Cao hiện lên là một nhân vật tài năng, nhân cách trong sáng và khí phách hơn người. Chính sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp cũng như cái tâm trước cái phàm tục, dơ bẩn của sự khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ cũng đã lại cho thấy lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn Nguyễn Tuân và ý nghĩa tư tưởng nhân sinh sâu sắc của ông được gửi gắm.

Phân tích nhân vật viên quản ngục trong truyện Chữ người tử tù 52

Viên quản ngục là người làm nghề coi ngục, một công cụ của bộ máy thống trị lúc bấy giờ. Cuộc sống trong nhà tù thường gắn liền với tội ác, gắn liền với sự nhem nhuốc, xấu xa. Vậy tại sao tác giả lại ví viên quản ngục là một thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ? Để hiểu được điều đó, trước hết ta phải biết thế nào là “âm thanh trong trẻo”, thế nào là “bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Về nghĩa đen, ta thấy “thanh âm trong tréo” là thanh âm eao, trong, vút lên trong bản đàn mà người ta dễ nhận biết. “Bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ” là âm sắc phát ra từ tiếng đàn không hòa hợp với nhau để tạo nên vần điệu cho bản nhạc. Về nghĩa bóng thì “âm thanh trong trèo” chỉ cái tâm trong sáng, thiên lương của viên quản ngục. Viên quản ngục biết quý trọng người tài, biết yêu cái đẹp, biết trân trọng và giữ gìn cái đẹp. Còn “bản đàn mà nhạc luật hỗn loạn, xô bồ” ý muốn nói đến nhà tù mà viên quản ngục đang canh giữ. Là nơi thường diễn ra những đòn roi tra tấn, những hành vi chà đạp lên đạo đức xã hội. Tóm lại nơi đây làm cho tâm hồn con người trở nên mục ruỗng đi.

Giữa môi trường xấu xa như vậy nhưng viên quản ngục lại là người có những phẩm chất đáng quý. Trước hết, viên quản ngục là người biết yêu cái đẹp, biết trân trọng và giữ gìn cái đẹp. Viết chữ đẹp và thưởng thức chữ đẹp là thú chơi thanh tao của người xưa. Ngay từ thời còn trẻ, viên quản ngục đã có thú chơi thanh tao đó. “Biết đọc vở nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Rõ ràng phải là người biết yêu cái đẹp, biết trân trọng cái đẹp, viên quản ngục mới ưức muốn có được chữ của ông Huấn Cao để treo trong nhà. Trong những ngày Huấn Cao ở trong nhà ngục do mình trông coi, viên quản ngục luôn nhẫn nhục để xin cho bằng được chữ của Huấn Cao. Khi Huấn Cao trả lời câu hỏi của mình với thái độ khinh bạc: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”, viên quản ngục không nổi trận lôi đình mà lại còn lễ phép lui ra với một câu “Xin lĩnh ý!”. Một điều đáng nói nữa là “Viên quản ngục mong mỏi một ngày gần đây ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết, thì y sẽ nhờ ông viết cho… mấy chữ trên chục vuông lụa trắng đã mua sẵn và can lại kia. Thế là y mãn nguyện”. Việc mua sẵn mấy vuông lụa trắng cũng đã đủ chứng minh viên quản ngục rất mong có được chữ của ông Huấn Cao. Viên quản ngục rất lo lắng. “Y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn Cao bị hành hình mà. không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất”. Khi có công văn, ngày mai tinh mơ, ông Huấn Cao và các bạn tù của ông phải giải về kinh chịu án tử hình thì “viên quản ngục tái nhợt người đi”, cho gọi viên thơ lại lên và kể rõ tâm sự của mình cho thầy thơ lại biết. Sự trân trọng cái đẹp còn thể hiện qua thái độ của viên quản ngục khi nhận được chữ của ông Huấn Cao cho. “Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trển phiến lụa óng”. Việc giữ lại những vuông lụa trắng có chữ viết của Huấn Cao chính là ý thức muốn lưu.giữ cái đẹp, bảo vệ cái đẹp.

Không chỉ là người biết yêu cái đẹp, trân trọng cái đẹp và giữ gìn cái đẹp, viên quản ngục còn là người biết quý trọng người tài. Mới nghe tin trong những người tử tù ngày mai đến ở có Huấn Cao, viên quản ngục đã cho người lo chu đáo chỗ ở cho những người tù. Điều đó được thể hiện qua ý nghĩ của viên quản ngục khi chuẩn bị đón tù. Viên quản ngục nghĩ về thầy thơ lại “Có lẽ hắn củng như mình, chọn nhầm ngliể mất rồi. Một kể biết kính mến khí phách, một kể biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn là không phải kể xấu hay là người vô tình. Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao. Ta muốn cho Ông ta đỡ cơ cực trong những ngày cuối cùng còn lại”. Trong những ngày Huấn Cao ở tù, bao giờ viên quản ngục cũng cho viên thơ lại đem rượu đến và lễ phép dâng rượu với đồ nhắm cho Huấn Cao. Không những vậy, “năm bạn đồng chí” của ông Huấn Cao “cũng đều được biệt đãi như thế cả”. Đặc biệt khi nhận được công văn ngày mai, vào sáng sớm những người tử tù phải giải về kinh thì viên quản ngục “tái nhợt người đi”. Thái độ đó thể hiện sự tiếc thương của viên quản ngục đối với người tài đức như Huấn Cao.

Biết yêu cái đẹp, biết trân trọng giữ gìn cái đẹp, viên quản ngục còn là người có thiên lương trong sáng. Thiên lương chính là bản tính tốt của con người do trời phú cho. Vậy viên quản ngục là người có bản tính tốt. Sống giữa chốn lao tù, đầy rẫy tội ác mà tâm hồn viên quản ngục không hề bị nhuốm bẩn. Ông biết nhận rõ đâu là đúng, đâu là sai, đâu là tốt và đâu là xấu. Quả thực “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Tự mình ông cũng đã biết mình chọn “nhầm nghề”. Vì vậy, khi Huấn Cao có lời khuyên “Ở đây lẫn lộn cả. Ta khuyên thầy quản nên thạy đổi chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người (…) Thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái ngliể này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững rồi củng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi” thì viên quản ngục đã kính cẩn tiếp nhận lời khuyên “Kể mè muội này xin bái lĩnh”. Qua phân tích, ta thấy viên quản ngục đúng là một thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mằ nhạc luật đều xô bồ.

Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng được nhân vật viên quản ngục. Lấy cái nền là nhà tù, Nguyễn Tuân muốn gửi đến độc giả một thông điệp quý giá: con người phải luôn vượt lên trên hoàn cảnh sống, vượt lên chính mình. Nguyễn Tuân thành công khi xâv dựng nhân vật này còn bởi ông am hiểu thấu đáo về hiện thực cuộc sống, về diễn biến tâm trạng của con người. Qua nhân vật viên quản ngục, người đọc rút ra rằng: muốn yêu cái đẹp, muốn thưởng thức cái đẹp, muốn lưu giữ bảo vệ cái đẹp trước hết phải biết sống đẹp, sông tốt.

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm chữ người tử tù 53

 Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi tác phẩm cửa ông là đều là những trang văn tài hoa và hấp dẫn, Trọng số đó, ngoài những tùy bút, truyện ngắn Chữ người tử tù cũng là một thành công lớn của ông. Đặc biệt tác phẩm thành công nhất ở nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao.

Huấn Cao là một con người tự trọng, sống hiên ngang bất khuất, không có sức mạnh quyền thế, bạc vàng nào có thể khuất phục Huấn Cao… Những con người chọc trời khuấy nước, đếm trên đầu ngón tay, người ta cũng chẳng còn biết nữa.. Một con người khẳng khái như vậy còn sợ gì cường quyền hay tham gì tiền bạc? Là một kẻ tù nhưng ông vẫn hiệ lên với khí chất cao ngạo , anh hùng. Huấn Cao bị bắt giam sở dĩ là do dấy quan khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến mục nát. Do đó trong mắt người đọc, Huấn Cao vẫn là một vị anh hùng cứu giúp nhân dân, là một đấng nam nhi được nể phục, kính trọng.

      Giữa chốn lao tù Huấn Cao còn được biết đến với danh “ cái người mà ở tỉnh Sơn  đã khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Những kẻ sĩ có chữ đẹp luôn được sùng bái và ngưỡng mộ như vậy, huống gì một anh hùng nhân dân lại mang trên mình vẻ đẹp cao quý được người quý trọng như Huân Cao. Con chữ của Huấn Cao còn thể hiện cả một hoài bão đời người chính bản thân ông. Chữ của ông xin được cũng khó bởi cả đời ông mới chỉ viết hai bức tứ bình tặng người bạn thân. Chữ đã đẹp, xin khó do tính Huấn Cao rất khoảnh, ông muốn cho chữ những người thực sự am hiểu về con chữ, về nghệ thuật chứ không cần sự ngưỡng mộ phù phiếm, danh vọng mua bằng tiền của bao kẻ thầm mong có được con chữ của ông. Bởi ông ý thức được giá trị chữ của mình, ý thức được giá trị của cái đẹp, của nghệ thuật chân chính.

       Ngay từ lúc bước chân vào chốn lao tù, Huấn Cao đã thể hiện rõ nét tính cách hiên ngang, không sợ chết của mình. Khi nơi ở chốn lao tù sinh ra chấy rận bám trên gong cổ, tay Huân Cao đã đứng lên nói muốn dỗ gong, mây tên lính tưởng ông định làm gì liền ra vẻ khinh thường nói ông “ Các người chả phải làm trò nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sỏi dẫn các người ra làm trò cười ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Đứng dậy không ông phết cho mấy hèo bây giờ”. Lời dọa nạt như một lẽ thường tình nơi ngục tù chẳng thể tác động đến nỗi sợ trong con người tử tù này, Hay nỗi sợ vốn chẳng còn trong người ông mà thay vào đó là khí phách hiên ngang? “Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thanh gông xuống thềm đá đánh thuỳnh mộ cái”- hành động Huấn Cao dỗ gông trước mặt lính canh ngục cho thấy sự khinh thường coi rẻ những lời dọa dẫm kia của chúng. Còn viên quản ngục lại đối đãi với Huấn Cao rất nhiệt tình thân thiện, hắn nhìn ông bằng ánh nhìn biệt nhưỡng nhân tài. Bởi lẽ quản ngục cũng là một người biết đến cái tài của Huấn Cao, yêu con chữ, yêu cái đẹp và khao khát có được chữ ông Huân như có vật báu treo trong nhà. Mặc cho viên quan ngục có chăm soc mình ân cần, đặc biệt đến đâu thì Huấn Cao vẫn chi điềm nhiên hưởng thụ rượu thịt như thú vui lúc bình sinh bên ngoài ngục tù. Thậm chí Huấn Cao còn thẳng thắn xua đuổi mắng viên quản ngục khi quản ngục vào thăm ông. Khi mà quản ngục có ý tốt tới thăm và ngỏ ý muốn giúp đỡ Huấn Cao trong những ngày cuối đời thì ông vẫn nhìn những kẻ cai trị ngục tù nơi này với con mắt khinh thường, thơ ơ. Bởi lẽ trong tù ngục luôn lấy quyền hành để chèn ép tù nhân, đánh đạp hành hạ, những thủ đoạn tiểu nhân không lường trước được do đó Huấn Cao không tin tưởng một ai ngoài những người bạn tù của mình. Ông đã trả lời viên quản ngục rằng : Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một diều. Là nhà người đừng bao giờ đặt chân vào đây. Khi nói những lời lẽ đầy ý  mỉa mai, khinh thường ấy, Huấn Cao đã nghĩ ngay đến sự tức giận rồi đòn roi vọt giáng xuống người ông khi giám đắc tội với người cầm quyền chốn lao tù này. Thế nhưng mọi chuyện lại xảy ra nằm ngoài dự đoán của ông. Những ngày sau dó rượu thịt vẫn được đưa đến phòng giam của ông đều đặn và viên quản ngục cũng không xuất hiện nữa. Huấn Cao quả thực là anh hùng đầu đội tròi chân đạp đất chẳng sợ hiểm nguy rình rập, quyết giữ danh tiết trong sạch cho bản thân mình, thẳng thắn mắng kẻ làm quan cho triều đình mục nát lúc bấy giờ.

      Không chỉ có vẻ đẹp tài năng, tính khí anh hùng mà Huấn Cao còn khiến người đọc cảm phục hơn ở tấm thiên lương trong sáng của ông. Khi biết con người thật của viên quản ngục qua lời thuật lại của thầy thơ lại, Huấn cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười nói với thầy thơ lại :” Về nói với chủ của ngươi, tối nay, lúc nào lính canh về trại nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây ta cho chữ… Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Điều đó cho thấy Huấn Cao trân trọng con người yêu cái đẹp, cảm nhận được giá trị của cả quá trình sáng taho cái đẹp chứ không phải riêng kết quả của việc sáng tác cái đẹp. Vốn quý chữ là thế, vốn chẳng bao giờ ép mình cho chữ vì quyền thế bao giờ nhưng ông lại cho chữ Viên quản ngục. Đấy là ông thấy được “thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Ông quý trọng cái đẹp, trân trọng, nâng niu cái đẹp cái tài của người. Huấn Cao còn khuyên nhủ thầy Quản nên đổi chỗ ở, bỏ nghề đang làm đi để về sống với sự thiện lương vốn có. Tất cả những suy nghĩ và hành động của Huấn Cao đủ để cho thấy sự nghĩa khí trong cái hiên ngang của một bậc anh hùng.


Đọc tác phẩm Chữ người tử tù, phải chăng bạn cũng sẽ cảm thấy được sư rực rỡ của khung cảnh cho chữ “xưa nay chưa từng có”. Đó là khoảnh khắc hợp nhất của thiên lương, khí phách và tài hoa. Nguyễn Tuân đã xây dựng một khung cảnh đầy dụng ý nghệ thuật. Với thủ pháp đối lập, Nguyễn Tuân đã vẽ nên hình ảnh tương phản giữa bóng tối và ánh sáng, giữa sự bẩn thỉu, nhơ nhớp của nhà tù với sự thiện lương, trong sáng và khí phách của con người; giữa chậu mực thơm, khuôn lụa trắng với bức tường đây mạng nhện… Trong cảnh cho chữ ấy, có thể thấy rằng, pháp luật và uy quyền của nhà tù đã bị khuất phục trước cái đẹp, cái thiện. Huân Cao cao ngạo cầm bút viết những con chữ vuông vắn mang trong mình hoài bão cả một kiếp người quân tử quang minh chính đại, hiên ngang. Còn viên quản ngục lại yên lặng, có lẽ là phải nín thở , thầm phục trong lòng Huấn Cao dích thực là người hắn mong muốn được gặp, được xin con chữ quý giá. Trong phòng giam Huấn Cao không còn là người tử tù, thầy Quản không còn là Viên quản ngục nữa mà họ đã trở thành những con người cùng hướng về cái đẹp và biết trân trọng cái đẹp. Ở nơi ấy, cái ác, cái xấu đã phải nhường bước cho cái đẹp, cái thiện.

       Huấn Cao là một đứa con tinh thần đẹp và đầy tinh xảo trong tổng thể bức tranh về những “đấng tài hoa” của Nguyễn Tuân. Bởi Nguyễn Tuân là nhà văn đi tìm cái đẹp và viết về cái đẹp. Huấn Cao và chữ của Huấn Cao chính là nét đẹp đặc sắc mà nhà văn muốn truyền tải đến người đọc.

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân 54

Tác phẩm “Chữ người tử tù” được đánh giá là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà văn tài năng Nguyễn Tuân. Ngoài ngôn ngữ hay, chính xác, bố cục truyện mạch lạc,…thì làm lên thành công của tác phẩm phải nói đến nhân vật Huấn Cao.

Huấn Cao chính là nhân vật được biết đến là một kẻ sĩ dám xả thân vì đại nghĩa, dũng cảm đứng về phía nhân dân để chống lại triều đình phong kiến mục nát đựơng thời, trở thành "người đứng đầu bọn phản nghịch". Có thể thấy được chính trong tâm hồn quản ngục thì Huấn Cao là một çon người "chọc trời quấy nước" coi thường cường quyền bạo lực, "chẳng biết có ai nữa" trên đầu mình. Đối với chính thày thơ lại thì ở Huấn Cao ta như thấy được ông là người "văn võ đều có tài cả, chà chà!". Còn khi đối với bọn lính thì Huấn Cao là "thủ xướng", và dường như " hắn ngang ngược và nguy hiểm nhất trong bọn". Chính với những cách nhìn nhận ấy của ngục quan, của viên thư lại, của bọn lính dường như cũng đã đều cho thấy Huấn Cao là một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân, có mốt tiếng tăm lừng lẫy. Đặc biệt hơn đó chính là khi trở thành tử tù vẫn được,người đời khâm phục hoặc kinh sợ! Nguyễn Tuân quả thật là nhà văn bậc thầy, ông đã miêu tả chiếc gông bằng gỗ lim dài đến tám thước, nặng đến bảy tám tạ "đóng khung lấy sáu cái cổ phiến loạn", chỉ với việc miêu tả cái "dỗ gông" cùng với đó chính là "một trận mưa rệp" trước cửa ngục và trước mũi bọn lính, điều đó càng như cho thấy Huấn Cao và các đồng chí của mình vô cùng hiên ngang, vô cùng bất khuất coi thường mọi nhục hình, đày đọa. Hơn nữa tinh thần đó còn thể hiện qua việc trước cái chết vẫn ngẩng cao đầu. Chính cái câu nói của Huấn Cao với quản ngục cũng thể hiện một khí phách ngang tàng trựớc cường quyền bạo lực đó chính là "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều đó “Là nhà ngươi dừng tới quấy rầy ta". Có lẽ rằng cũng chỉ bằng một vài chi tiết nghệ thuật rất chọn lọc về nhân vật đó là về hành động, cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật, một vài lời nhận xét bình phẩm. Nguyễn Tuân tài tình đã khéo khắc họa thành công tinh thần "đại vô úy" của Huấn Cao. Và ta như thấy được những nét vẽ chân dung của Nguyễn Tuân rất độc đáo và có thần thái đến lạ.


Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm đó chính là kẻ sĩ tài tử, tài hoa được nhiều người mến mộ bậc nhất đó là "cái người mà vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viêt chữ rất nhanh và rất đẹp"… Còn về chữ của ông Huấn là "một báu vật trên đời", tượng trưng cho cái đẹp, cái cao quý trong thiên hạ lúc bấy giờ mà tác giả muốn gửi gắm.

Nhân vật quản ngục cũng là một người có học đã "biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền". Có thể nói cũng đã từ rất lâu, "từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết cho. Bởi vì chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Huấn Cao quả chính là một khách tài tử, không chỉ tài hoa sáng tạo ra cái đẹp mà còn có một tâm hồn thanh cao, trong sạch. Lúc này đây ông cũng như đã tự biết "chữ thì quý thật", nhưng không bao giờ "vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết bao giờ”. Điều đó càng như khẳng định cho thấy rằng nhân vật Huấn Cao đi "làm giặc” không phải để mưu bá đồ vương mà chính là để "cứu vớt dân đen đang đói khổ" kia. Và con chữ là một thứ "vật báu" nhưng ông ta không bán văn bán chữ để được phú quý giàu sang. Và đây cũng đúng với “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ". Huấn Cao vừa có tài vừa có cái tâm đẹp thiên lương sáng. 

Được mệnh danh là một khách tài lử, Huấn Cao dường như cũng luôn luôn coi trọng tình bạn tri âm tri kỉ. Ông như luôn có sự mến mộ những con người có tinh thần biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ. Ông đã nhận ra một tấm lòng thiên lương của quản ngục rồi đã quyết định cho chữ với câu nói “Thiếu chút nữa, tu phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.

Có lẽ trong tác phẩm thì cảnh cho chữ là mội cảnh tượng "xưa nay chưa từng có " chính cảnh tượng này cũng đã làm cho tất cả những bức chân dung nhân vật Huấn Cao, ngục quan, thầy thơ lại trong cảnh tượng ấy vô cùng đẹp đẽ. Có thể thấy được cái ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, mùi mực thơm, màu trắng của tấm lụa bạch dường như có thể xua tan đi bóng tối ngục đày đầy mạng nhện, tổ rệp, phân gián, phân chuột. Người tử tù Huấn Cao thêm ngạo nghễ, uy nghi, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, tử tù vung bút viết "những nét chữ vuông vắn rõ ràng" thật đẹp. Như có một sự đổi ngôi trong cảnh cho chữ này, người tử từ như người chiếm lĩnh và là tâm điểm sáng ngời, còn những kể cầm quyền kia như khúm lúm hơn

Qủa thật nghệ thuật xây dựng nhân vật Huấn Cao rất đặc sắc. Người đọc khó có thể tìm ra được những chi tiết nghệ thuật nào thừa. Tất cả như đã xây dựng lên được một Huấn Cao hiên ngang bất khuất, tài tử tài hoa, quý trọng bằng hữu và trân trọng những tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ. Qủa thực từ một nhân vật lịch sử trong thế kỉ XIX, nhân vật như lại được gắn liền với những giai thoại, những câu đối đó là "Một chiếc cùm lim chân có đế – Ba vòng xích sắt bước thì vương"…, Nguyễn Tuân tài tình và khéo léo cũng như đã sáng tạo nên một hình tượng văn học Huấn Cao cho chữ trước lúc ra pháp trường. Có thể thấy được văn học lãng mạn Việt Nam thời tiền chiến chỉ có một hình tượng Huấn Cao đẹp bi tráng như vậy mà thôi

Việc xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao – kẻ sĩ tài tử, anh hùng – nhà văn Nguyễn Tuân dường như cũng đã vừa biểu lộ một tấm lòng kính phục, ưu ái đặc hiệt, vừa thể hiện một bút pháp tài hoa cyar mình. Ngay chính việc ca ngợi một con người tài tử, bất khuất, anh hùng, truyện "Chữ người tử tù" còn như đã hàm chứa một ý tưởng sâu sắc làm sao để giữ được thiên lương. Tóm lại "Chữ người tử tù" là một truyện ngắn kiệt tác lung linh vẻ đẹp thiên lương của Nguyễn Tuân thông qua nhân vật Huấn Cao.

Hãy phân tích giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn truyện tả cánh Huấn Cao cho chữ trong buồng giam (truyện ngắn Chữ người tủ tù của Nguyễn Tuân), vì sao nói được rằng đó là ’một cánh tượng xưa nay chưa từng có’? 55

Chữ người tử tù là một truyện ngắn đẹp và hay hơn cả trong tập truyện Vang bóng một thời '1940) được Nguyễn Tuân viết trước Cách mạng tháng Tám. Đoạn cuối truyện tả nhân vật Huấn Cao cho chữ trong buồng giam là giai đoạn giàu giá trị tư tưởng và nghệ thuật.

Truyện Chữ người tử tù kể về một người chống đôi triều đình - người tử tù Huấn Cao đang bị giam trong ngục - chờ ngày đi nhận án chết. Viên quản ngục biết đó là người tài, đặc biệt viết chữ vuông vức, rất đẹp nôn đã ngầm trọng đãi để cố xin lấy vài chữ. Hiếu tâm lòng trọng tài của quản ngục, Huấn Cao đã thuận cho mấy chữ cuối cùng.

Tư tưởng ca ngợi, tôn vinh cái đẹp trong cảnh đen tôi, tội lỗi ấy, nếu không gặp ngòi bút uyên bác, tài hoa của Nguyễn Tuân thì cũng khó bộc lộ một cách sinh động và thuyết phục. Chỉ riêng đoạn “cho chữ”, nhà văn ham săn tìm cái đẹp Nguyễn Tuân đã tạo thành một đoạn kết truyện đầy xúc động, trang trọng, cồ kính, hấp dẫn. Trước hết, người viết truyện đà dựng một màn kịch với sự đối lập, tương phản gay gắt. Buồng giam chật chội, hôi hám đầy phân chuột, phân gián đối lập với cảnh cho chữ tài hoa, đẹp đẽ. Ánh đỏ ngọn đuốc, màu trắng tinh của lụa bạch át đi cái tăm tối của phòng giam ban đêm. Mùi thơm của chậu mực bốc lên át đi mùi hôi phân chuột, phân gián. Người tù đĩnh đạc, đàng hoàng với cây bút trong tay đôi lập và át đi, vượt lên gông xiềng nặng nề kìm kẹp. Cái cao cả tương phản với cái thấp hòn và chiến thắng tù ngục trói buộc. Cái đẹp tỏa sáng, chiến thắng cái xâu, cái ác. Một màn kịch thật hay, giàu ý nghĩa!

Hơn nữa, Nguyễn Tuân còn khắc họa kết truyện với những chi tiết, hình tượng sinh động, đầy ấn tượng tạo không khí, khung cảnh cần thiết cho việc cho chữ. Người đọc thấy biểu hiện ra âm vang, hình bóng một thời xa xưa. Tiếng mõ vắng lại, bó đuốc cháy sáng rực, phiến lụa trắng óng ả được đánh dấu bằng những đồng tiền kẽm... Trong “vang bóng” ấy lồng lộng hình tượng Huấn Cao cố deo gông, chân vướng xiềng đang hoa tay thảo những nét chữ đẹp. Hình tượng quản ngục trân trọng, cảm động chắp tay vái người tù và tuôn nước mắt để “lời vàng vâng lĩnh ý cao” thật xúc động. Nhà vãn phải am hiểu tinh tường mới có thể miêu tả như vậy. Ngôn ngữ nghệ thuật ở đây thật chắt lọc, chuẩn xác và tinh tế tạo hồn cho cả đoạn văn. Những từ Hán - Việt dùng thật đắc, thích hợp với việc nói chuyện cũ, góp phần làm sông lại một thời vang bóng. Đó là những từ như lạc khoản, thiên lương, bái lĩnh... Đồng thời Nguyễn Tuân còn có cách viết, đặt câu vừa tạo hình vừa gợi cảm rất riêng. Thí dụ lời khuyên của Huấn Cao với quản ngục: “ở dây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện...”. Kết hợp “lành” với “vững” tạo thành từ mới lạ “lành vững” thật độc đáo.

Những giá trị nghệ thuật vừa nêu trên đã làm sáng rõ giá trị tư tưởng của doạn văn. Thứ nhất là sự trân trọng, ca ngợi cái đẹp. Cái đẹp của nét chữ vuông vức, tươi tắn. Cái đẹp của người cho chữ với chí lớn, khí mạnh, tài hoa và lòng sáng. Cái đẹp còn ở nơi những người như ngục quan, thầy thơ lại biết quý trọng, tôn sùng cái đẹp. Thứ hai, đoạn kết thúc truyện còn toát lên tinh thần yêu nước của tác giả. Qua hình tượng đẹp của người tử tù cao cả, hiên ngang đầy sức hấp dẫn và lời khuyên hướng thiện, ta thấy thái độ và tấm lòng Nguyễn Tuân đôi với cuộc sống, với nước nhà. Có thể nói nhân vật Huấn Cao ít nhiều mang hình bóng của Cao Bá Quát ngẩng đầu trước cường quyền và “cúi đầu trước hoa mai”. Đồng thời Huấn Cao còn “vang bóng” trong cuộc đời nhem nhuốc, tù hãm lúc bây giờ, một con người khí khái, ngang tàng và yêu xứ sở.

Cảnh cho chữ đúng là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân đúng là nhà văn tài hoa làm sang trọng cho vàn chương, đốt cháy lên ngọn đuôc của cái đẹp. Nói rằng cảnh cho chữ là “Cảnh tượng xưa nay chưa từng có” vì cô kim làm gì có chuyện người cho chư đẹp trong tù khi bán án tử hình đã kề sát cố. Cũng chưa hề có việc người tử tù lại khuyên bảo người quản ngục, người tử tù lại đĩnh đạc cao giọng nói đến những chữ “thiên lương”, “lương thiện” để mỞ cho kẻ coi ngục hướng đi, cách sống. Độc đáo hơn nừa là viên quản ngục trong thời phong kiến tàn lụi, thôi nát lại biết trọng cái đẹp, cái cao cả và cúi đầu xin làm theo điều tốt đẹp.

Phân tích nhân vật Huấn cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân 56

Nguyễn Tuân (1910- 1987) – một bậc phù thủy ngôn ngữ, một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp với phong cách viết tài hoa, uyên bác, độc đáo. Mỗi trang văn của ông đều có thể là một tờ hoa, nhiều tác phẩm gần đạt đến sự toàn thiện toàn mĩ. Tiêu biểu trong những sáng tác ấy chúng ta phải kể đến truyện ngắn chữ người tử tù trích trong tập Vang bóng một thời (1940). Đặc biệt trong tác phẩm ấy nổi bật lên nhân vật Huấn Cao một người tử tù rất tài hoa, uyên bác và anh hùng.

Huấn Cao là một nhân vật trung tâm trong tác phẩm này. Nhân vật này được ví như là: “ chấm son đỏ rực trên cái nền vàng vọt u ám”. Con người ấy vừa là một người nghệ sĩ tài danh vừa là một trang hùng dũng liệt. Có thể nói Huấn Cao hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp của tài năng phi thương, khí phách phi phàm, thiên lương trong sáng.

Nói tới nghệ thuật truyện ngắn thì người ta hay nhắc đến tình huống truyện, giọng điệu trần thuật, nghệ thuật xây dựng nhân vật. Trong đó nhân vật được coi là hệ xương sống vận hành cốt truyện. Đặc biệt những nhân vật trung tâm thường phát ngôn cho những quan điểm tư tưởng của nhà văn. Trong tác phẩm này Huấn Cao là một người như thế.

Trước khi đi vào tìm hiểu người tài hoa uyên bác này đã nên đi tìm hiểu về những nghệ thuật của viết bút lông mực tau hay chính là viết chữ Hán. Thứ chữ này hay còn gọi là chữ nho là thứ chữ tượng hình khối chữ vuông, được viết bằng bút lông mực tàu, nét thanh nét đậm cân đối hài hòa. Chữ này có bốn cách viết đó là chân, thảo, triện, lệ. Chữ thường được viết trong những ô vuông trên lụa hay trên gỗ và được treo ở một trung tâm nhất trong nhà để thể hiện

Tại sao phải tìm hiểu lối viết chữ kia bởi vì nó chính là cái để thể hiện lên một vẻ đẹp của Huấn Cao. Đó chính là vẻ đẹp của một con người tài hoa uyên bác. Huấn Cao một người tử tù có tài viết chữ rất đẹp. Đôi tay tài hoa và tài năng ấy của ông được bàn dân thiên hạ hay những người hay chữ biết đến. Thế nhưng tại sao ông lại là một người tử tù?. Bởi vì ông đã dũng cảm đứng lên chống lại triều đình mục nát lạc hậu chính vì thế mà ông bị triều đình bắt và trở thành tử tù. Người nghệ sĩ tài hoa uyên bác ấy được người đọc biết đên qua những lời nói của viên quan coi ngục – người mà sẽ trông giữ Huấn Cao và thấy thơ lại. “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm”. Chính vì thế mà ta thấy được tài năng của Huấn Cao. Chữ Huấn Cao không chỉ đẹp về mặt chữ nghĩa mà chữ Huấn Cao còn thể hiện được cái đẹp nhân cách của Huấn Cao. Nó thể hiện khát vọng ngông hành và cái ngông của người tài hoa nghệ sĩ. Đặc biệt chữ viết của Huấn Cao đẹp còn được thể hiện ở sở nguyện cao quý của viên quan ngục.

Không những thế Huấn Cao còn là một con người có vẻ đẹp thiên lương trong sáng và tâm hồn cao đẹp. Huấn Cao có tài nhưng không bao giờ ông bán chữ mình một cách linh tinh. Nhà văn Nguyễn Tuân đã dành cho ông một chữ “khoảnh” để chỉ sự quý chữ mình của ông. Cả đời Huấn Cao mới viết cho những người bạn thân của mình mà cụ thể là hai người ngoài ra chưa một ai cả. thế nhưng đó không phải là sự tự kiêu về chữ và tài năng của mình mà Huấn Cao muốn nói đến sự quý trọng hay chính là những thái độ trân trọng của mình đối với ai, người đó có xứng thì ông mới cho chữ của ông được. Viên quản ngục cũng có sở nguyện xin chữ Huấn Cao để treo trong nhà những chính bình diện xã hội đã cản trở sở nguyện ấy. Huấn Cao khinh thường viên quản ngục. thế nhưng khi được thầy thơ lại nói hết về sở nguyện cao quý ấy thì Huân Cao đã nói suýt chút nữa “ thì ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Như thế có thể nói phải là người có thiên lương trong sáng thì mới nhận ra và trân trọng thiên lương trong thiên hạ kia. Cũng phải là người có tâm hồn cao đẹp lắm thì Huấn Cao mới có quyết định trao cái đẹp cho những người thật sự xứng đáng. Ở đây nhà văn đã đề cao vẻ đẹp thiên lương của Huấn Cao nhằm thể hiện ý đồ nghệ thuật của mình. Đó chính là nhấn mạnh trân trọng những cái thiện cái đẹp.

Không chỉ thế Huấn cao còn là một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất. ông có tư tưởng tiến bộ và dám đầu tranh để chống lại triều đình đã mục nát. Chính vì thế mà ông bị bắt và tử tù. Thế nhưng Huấn Cao đã bị bắt rất nhiều lần nhưng ông lại có cái tài bẻ khóa vượt ngục. Khi đến nhà giam bị rệt cắn đầy người trước sự thúc giục và những roi vọt của bọn sai nha Huấn Cao vẫn thể hiện sự ngông nghênh của mình qua hành động dỗ gông. Ông thản nhiên trước sự biệt đãi của quản ngục và còn dám mắng lại chính vị quan coi ngục ấy mà không hề sợ sẽ bị trả thù. Nghĩ đến những hành động trả thù đáng khinh của những bọn quan cai sai nha mà Huấn Cao chỉ thấy khinh chứ không thấy sợ. Không những thế vẻ đẹp anh hùng của Huấn Cao còn được thể hiện qua hành vi của viên quan ngục. Dẫu bị mắng như thế nhưng viên quan coi ngục vẫn không hề tức giận mà khúm núm trước mặt Huấn cao. Viên quan ngục cho rằng những kẻ chọc trời khuấy nước thì thường chẳng biết đến ai huống chi cái thứ như mình. Qua đây ta thấy được Huấn Cao là một định nghĩa hoàn chỉnh hoàn mĩ về con người tài năng, nhân cách, uy vũ.

Huấn Cao chính là nguyên mẫu của chu thần Cao Bá Quát, một người từng đứng lên chống lại triều đình phong kiến, một nhà nho, một anh hùng, có tài văn thơ viết chữ đẹp. Qua hình ảnh Huấn Cao nhà văn đã kết án xã hội đã vùi dập cái đẹp, đi ngược lại cái thiện, sát hại cái tài. Nói tóm lại nhân vật Huấn Cao đã được xây dựng lên mọt cách thành công nhất 

Phân tích cảnh cho chữ của Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” 57

Nguyễn Tuân được sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn, thơ văn của ông luôn viết về cái đẹp, ông dành cả cuộc đời của mình để đi săn tìm cái đẹp. Ông có những đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời đánh dấu tài năng của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám và được coi như là một văn phẩm đạt gần đến độ hoàn mĩ. Ở cuối truyện, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung miêu tả, tô đâm vẻ đẹp lãng mạn của người anh hùng Huấn Cao, qua đó khẳng định được sự chiến thắng của thiên lương, của ánh sáng trước bóng tối và cái xấu. Có thể nói, cảnh cho chữ là cảnh tượng đắt giá nhất, cảnh mà xưa này chưa từng có.

Truyện ngắn được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục, cả hai đều là nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn, vượt lên hoàn cảnh, không chịu sự chi phối của hoàn cảnh. Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, với nghệ thuật viết thư pháp, nét chữ ông trở thành niềm khao khát của biết bao nhiêu con người có thú chơi chữ. Và quản ngục là một trong số đó, sở nguyện lớn nhất của quản ngục là có được đôi câu chữ của Huấn Cao treo trong nhà, Ở đây, người nghệ sĩ gặp kẻ tri âm trong một hoàn cảnh bất thường: Người có nét chữ huyền thoại kia lại là người tử tù, còn người có thú chơi chữ tao nhã kia lại là một viên quản ngục. Chuyện xin chữ tưởng như khó có thể xảy ra bởi cả cuộc đời ông mới chỉ cho chữ có ba người. Liệu Huấn Cao có thể cho chữ cho kẻ tiểu lại như quan nhục chăng? Nhưng điều bất ngờ đã xảy ra, điều không thể đã trở thành có thể, chính nhờ sở thích cao quý, tấm lòng quý trọng người tài của quản ngục đã khiến Huấn Cao phải xúc động. Ông đã dành đêm cuối cùng của mình tại nhà giam tỉnh Sơn để cho chữ quản ngục, ông cho chữ không phải là dể phô trương tài năng mà là để tạ một tấm lòng.

Cảnh ông Huấn cho chữ trong nhà giam được khắc hoạ bằng chi tiết gây ấn tượng, cảm hứng mãnh liệt trước cảnh tượng cho chữ xưa nay khó có đã khiến Nguyễn Tuân say sưa sáng tạo bằng các ngôn từ sắc xảo, bút pháp dựng người, dựng cảnh đạt tới độ điêu luyện. Cảnh cho chữ được diễn ra vào buổi đêm, đêm cuối cùng của ông Huấn tại nhà ngục. Địa điểm cho chữ là ngay trong buồng giam chật hẹp với mạng nhện đầy tường, trên đất bừa bãi phân chuột phân gián Trong không khí trang nghiêm 3 nhân vật hiện lên trong 3 tư thế khác nhau: Huấn Cao thì cổ đeo gông, còn chân vướng xiềng nhưng vẫn ung dung vẽ dậm to từng nét chữ, viên quản ngục thì đang khúm núm cất những đồng tiền kẽm để đánh dấu từng ô chữ, còn thầy thơ lại thì đang run run bê lấy chậu mực. Tuy là khác nhau về tư thế, về địa vị về con người nhưng họ đều có điểm chung là biết thưởng thức và trân trọng cái đẹp. Những nét chứ của con người chuẩn bị đi vào cõi chết mà không hề ngả nghiêng siêu vẹo mà “vuông, tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người”. Những nét chữ như phượng múa rồng bay thể hiện được tài năng của ông Huấn. Không chỉ vậy, với thái độ ung dung, tràn trề cảm hứng sáng tạo, ông còn tinh tế cảm nhận được mùi mực thơm ngát thể hiện được khí phách hiên ngang, không sợ cái chết của ông Huấn. Nếu không có tinh thần tự do, không có sức mạnh thì chắc chắn sẽ không có được phong độ ấy. Khi viết chữ xong, ông buồn bã đỡ quản ngục đứng thẳng dậy, ông buồn không phải vì ngày mai mình sẽ bị giải ra pháp trường mà ông buồn vì người như quản ngục lại phải... Ông còn khuyên quản ngục thật chân thành hãy tìm về nhà quê mà ở, xong rồi hãy nghĩ tới chuyện chơi chữ, ở đây khó lòng giữ được thiên lương cho lành vững. Lời khuyên đặt ra yêu cầu đối với người thưởng thức: Phải có tâm hồn đẹp mới có thể cảm nhận được hết cái đẹp, phải có một môi trường tốt để cái đẹp được bảo vệ và giữ gìn. Như vậy, Huấn cao chuẩn bị đi vào cõi chết mà vẫn nghĩ tới sự sống của cái đẹp, cái đẹp không thể ở chung với cái xấu. Ông cho chữ quản ngục là để tạ một tấm lòng, để chia sẻ với một tri kỉ và để nâng đỡ một thiên lương.

Có thể nói, cảnh cho chữ diễn ra nơi tù ngục nhưng cũng rất xúc động và thiêng liêng. Quản ngục nghe xong lời khuyên của ông Huấn, ông chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Qua thái độ kính cẩn của quản ngục, người đọc có thể thấy được thái độ trân trọng đặc biệt đối với người tài và cái đẹp, cái đẹp có khả năng cảm hoá con người, đưa những con người đang lầm đường lạc lối trở về con đường trong sáng. Trong đoạn văn tác giả sử dụng thành công thủ pháp đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa mùi thơm với mùi ô uế, bẩn thỉu, Ánh sáng ở đây không chỉ là ánh sáng của bó đuốc mà còn là ánh sáng của cái đẹp, mùi thơm ở đây không chỉ là mùi thơm của chậu mực mà còn là mùi thơm toả ra từ nhân cách con người. Bóng tối không thể che lấp được màu trắng của tấm vải, không thể che được ngọn đuốc đang cháy rừng rực và mùi mực tàu thơm ngát.

Có thể khẳng định cảnh ông Huấn cho chữ là cảnh “xưa nay chưa từng có” vì thú chơi chữ là một thú chơi tao nhã thanh cao, người có tài viết chữ đẹp mà đạt tới trình độ viết thư pháo không có nhiều, người thưởng thức cũng phải là người có vốn văn hoá nhất định. Bình thường cảnh cho chữ thường được diễn ra nơi sảnh đường thoáng mát, thanh cao để người nghệ sĩ có thể thoải mái mà sáng tạo nhưng Huấn Cao lại cho chữ trong nhà ngục, nơi bóng tối ngự trị, nơi cái ác lên ngôi. Nhưng có lẽ, vì ánh sáng kia qua đẹp nên đã che lấp bóng tối, bóng tối ở đây càng làm tô đậm hơn nét đẹp của ánh sáng. Bình thường quản ngục là đại diện cho pháp luật ở chốn lao tù, là người của triều đình ở thế bề trên vậy mà trong cảnh này Huấn Cao lại ung dung trong tư thế làm chủ, kẻ có chức năng đi giáo dục người khác lại bị giáo dục lại. Như vậy, Nguyễn Tuân đã làm một cuộc đảo lộn trất tự xã hội để cho thấy, ở cảnh này, không con người tử tù, cũng không còn quản ngục, gông xiềng bị vô hiệu hoá, chỉ còn người nghệ sĩ đang sáng tạo cái đẹp và người thưởng thức, sủng kính cái đẹp.

Qua truyện ngắn Chữ người tử tù người đọc có thể dễ dàng thấy được quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân: cái đẹp gắn với cái thiện và cái tài phải đi liền với cái tâm. Cảnh cho chữ cũng khơi gợi cho con người phải biết trân trọng các giá trị của văn hoá truyền thống, phải biết giữ gìn các truyền thống đang bị mai một dần kia

Suy tưởng về cái đẹp là nét nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Qua tác phẩm “Chữ người tử tù” anh (chị) hãy phát biểu suy nghĩ về ý kiến trên 58

Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân là một nhà văn có vị trí đặc biệt quan trọng. Với vốn ngôn ngữ phong phú và sự cảm nhận tinh tế về cuộc sống, con người, nhà văn đã thể hiện qua tác phẩm của mình những suy tưởng sâu sắc về con người và cuộc sống. Bao trùm lên tất cả, có thể nói, suy tưởng về cái đẹp là nét nổi bật trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Tuân. Có thể thấy sự thể hiện của điều này qua “Chữ người tử tù”, tác phẩm được rút ra từ tập truyện miêu tả về những cái đẹp của một thời vang bóng.

Cái đẹp là cái người nghệ sĩ xưa nay muôn đời hướng tới. Sứ mệnh của người nghệ sĩ xét cho cùng là đi tìm cái đẹp trong cuộc đời để kết tinh thành cái đẹp trong nghệ thuật. Phát hiện, ngợi ca và tôn vinh cái đẹp, Nguyễn Tuân đã đi theo con đường của riêng mình khi nâng nó lên thành một tôn giáo. Có người nói Nguyễn Tuân là người “suốt đời đi tìm sự thật và cái đẹp”, ông viết: “Nguyễn sinh ra để phụng thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa”. Cái đẹp trong sáng tác của Nguyễn Tuân làm nên nét riêng cho tính nhân văn trong các tác phẩm của ông, nó thể hiện phong cách riêng, ngang tàng của một người nghệ sĩ dám lựa chọn cho mình một con đường riêng và lấy nó đối lại với toàn bộ xã hội “ối a ba phèng”, nhố nhăng tây, tàu lẫn lộn thời bấy giờ làm sai lạc đi biết bao giá trị cũ. Tất cả những gì muốn trở thành đề tài của Nguyễn Tuân đều phải là cái đẹp. Thiên nhiên trong thơ ông là cả một bức tranh kì thú. Đó là con sống Đà ở đoạn thượng nguồn thì hung dữ như một tử thần, “sẵn sàng đòi nợ suýt” bất kì người lái đò nào đi qua đó. sống Đà đẹp hùng vĩ và có phần hoang dại. Hết đoạn thượng nguồn, sống Đà khiến người ta phải ngỡ ngàng bởi vẻ dịu dàng như một thiếu nữ. “sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng Hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân (…). Bờ sống hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”, uống trà thì phải là chén trà sương, nước được múc vào buổi sáng sớm từ một giếng nước tinh khiết trong chùa; Ngắm hoa thì phải là những bông hoa thủy tiên được chăm sóc cầu kì cho nở đúng vụ; Uống trà cùng với “hương cuội” được làm từ mạch nha bọc lên những viên sỏi được chọn lựa kĩ càng, ướp trong gió hoa thủy tiên;… Nhân vật của ông dù là người hành khất, kẻ tử tù đến những người lao động bình thường đều là những người nghệ sĩ tài hoa. Ông hành khất không xin gì chỉ xin được uống một tách trà, pha trà mà có phong thái đạo mạo như một tiên ông, tinh tế đến mức nhận ra được cả trong ấm trà đó có lẫn duy nhất một vỏ trấu. Đó không phải là người hành khất nữa mà trở thành một người nghệ sĩ đích thực. Người lái đò ngày ngày chở khách đi qua đoạn thượng nguồn sống Đà dữ dằn trở thành một vị tướng, một người nghệ sĩ tài hoa. ông bài binh bố trận, chống đỡ lại con sống với những thế võ nhà nghề và để rồi cuối cùng khuất phục nó, chiến thắng nó một cách vẻ vang nhưng điều đáng nói là vẻ đẹp trong cuộc sống lao động đó lại trở thành nhịp sống lao động bình thường của ông lái đò. Điều đó khiến cho hình ảnh ông lái đò trở thành một ấn tượng không thể nào phai trong lòng người đọc…

Trong những sáng tác giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, là một nhà văn khuynh hướng lãng mạn, Nguyễn Tuân đã chối bỏ thực tại bằng cách trở về với quá khứ vàng son đã qua mà nay chỉ còn một thời vang bóng. Ông nâng niu, trân trọng những giá trị văn hóa, văn hiến cổ truyền của dân tộc thời xưa cũ nay chỉ còn xót lại trong kí ức của những người có thiên lương. Có lẽ chính vì lẽ đó mà trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân, những nhân vật mà ông yêu thích nhất và cũng kính trọng nhất là những người tài hoa, tài tử. Đó là những người sống đẹp, những người sáng tạo ra cái đẹp hay những người tôn thờ cái đẹp. Nguyễn Tuân tìm thấy cái đẹp ở lớp nhà nho tài hoa, tài tử tuy đã bất lực trước thời thế nhưng lại không chịu làm lành với xã hội kim tiền ô trọc mà dung lối sống tài hoa, tài tử của mình để phủ nhận xã hội thực tại đương thời. Có thể nói kết tinh cao nhất tài hoa, khí phách và thiên lương là “Chữ người tử tù”. Ngay từ tên truyện đã mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. “Chữ người tử tù” ở đây là chữ Hán gắn với nghệ thuật thư pháp. Với người Trung Quốc, thi pháp là một nghệ thuật cao câp, thanh cao bậc nhất. Đây là một trong những nghệ thuật tinh túy thể hiện khí phách thiên lương tài hoa của con người. Nghịch lí ở đây là chữ thuộc về nghệ thuật, cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp lại là người tử tù – người mà xưa nay khi nhắc đến người ta vẫn có rất nhiều định kiến. Tình huống oái oăm nhưng nhờ đó mà cái đẹp được thăng hoa để tỏa sáng. Suy tưởng về cái đẹp của tác phẩm được thể hiện qua việc ca ngợi tài hoa, nhân cách của hai nhân vật chính trong truyện: Huấn Cao và viên quản ngục, đặc biệt là ở hình tượng người tử tù Huấn Cao.

Huấn Cao là hình tượng tiêu biểu cho cái tài hoa, khí phách, cho cái đẹp mà Nguyễn Tuân tôn thờ. Đó là vẻ đẹp lãng mạn, một vẻ đẹp được lí tưởng hóa, và được thể hiện một cách khác thường trong một hoàn cảnh tưởng chừng như không thể xảy ra. vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết được thể hiện ở tài hoa, nghệ sĩ của ông. Huấn cao là người có tài viết chữ đẹp. Cái tài đó nổi tiếng cả một vùng tỉnh Sơn. Ông viết “rất nhanh và đẹp”, “những nét chữ vuông vắn lắm”. Những nét chữ ấy đẹp không chỉ bởi tài hoa của người viết mà còn bởi nó chứa đựng trong đó "hoài bão tung hoành của cả một đời người". Tất cả tinh hoa, khí phách, tất cả tâm hồn, tình cảm và nhân cách của con người, cả những niềm mơ ước và ý chí khát vọng cũng đều được gửi gắm vào trong từng nét chữ. Không chỉ có tài viết chữ đẹp, Huấn Cao còn khiến người ta phải cảm phục bởi khí phách hiên ngang, bất khuất. Ngay từ khi chưa xuất hiện, Nguyễn Tuân đã để cho tiếng tăm của nhân vật bay vào tận trong nhà tù làm chồ bản thân viên quản cũng phải lây làm tò mò. Đó là một nhà nho không chịu chấp nhận tình cảnh xã hội bất công mà đứng lên cầm đầu cuộc nổi loạn để trở thành kẻ đại nghịch. Bước vào trong tù, ông vẫn hiên ngang như chỗ không người, không hề bị quyền thế và địa vị làm cho run sợ. Hành động dỗ gông không phải là một hành động thông thường, nó thể hiện khí phách hiên ngang thẳng thắn của Huấn Cao, dù bị xiềng xích nhưng ông vẫn hoàn toàn tự do về mặt tinh thần. Những ngày tháng trong tù chờ chết, ông vẫn “thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”. Đó là một phong thái ung dung, tự do, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Dưới con mắt Huấn Cao, những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị chỉ là những “trò tiểu nhân thị oai”. Chính vì lẽ đó mà ông không ngần ngại trả lời quản ngục một cách khinh bạc đến điều. Bên cạnh đó, nhân vật còn được nhà văn ngợi ca ở vẻ đẹp của thiên lương, vẻ đẹp của một con người có nhân cách trong sáng. Huấn Cao ngay từ lúc sinh thời đã “không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình cho chữ bao giờ”. Bởi vậy nên chữ ông đẹp nổi tiếng nhưng cả cuộc đời mình ông mới chỉ cho chữ ba người bạn thân và sau này quản ngục nữa là người cuối cùng. Đó là sự khẳng khái của một người trọng nghĩa khí, khinh thường tiền bạc, danh lợi. Huấn cao chấp nhận cho chữ quản ngục đo cảm một “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” hiểu ra “sở thích cao quý” của quản ngục. Suốt cả đời mình, ông chỉ tôn thờ cái đẹp, ông chỉ trân trọng những người cũng có thiên lương giống mình, những người biết trân trọng cái tài và yêu quý cái đẹp.

Hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục trên bình diện xã hội là hoàn toàn đối lập nhau nhưng cả hai đều là những con người có tâm hồn nghệ sĩ, có thiên lương cao đẹp nên họ trở thành tri âm, tri kỉ với nhau. Quản ngục sống trong cảnh lừa lọc tàn nhẫn nhưng vẫn giữ được những phẩm cách cao quỷ của mình. Tuy không phải là người làm nghệ thuật nhưng ngục quan có một tâm hồn nghệ sĩ của một kẻ liên tài. Ông là người có tâm hồn nghệ sĩ, say mê và quý trọng cái đẹp. Một người như thế mới có thú chơi tao nhã: chơi chữ. Không chỉ thế, đó còn là một người có “tấm lòng biết giá người, biết trọng người ngay". Viên quản ngục say mê cái tài, cái đẹp và nhân cách của Huân Cao nên chân thành, cung kính và biệt đãi ông, mặc thái độ cao ngạo và khinh mạn của ông Huân. Trước Huấn Cao, quản ngục chỉ thấy mình là một “kẻ tiểu lại giữ tù” thấp hèn. ở đây, vẻ đẹp của quản ngục được thể hiện ở thái độ cung kính với Huấn Cao – hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái “thiên lương” cao cả. Thái độ khúm núm của ông ở cuối tác phẩm không những không khiến làm mất đi vẻ đẹp của một người có tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" mà còn làm cho nó trở nên sâu sắc, ấn tượng hơn.

Vẻ đẹp của cả hai hình tượng nhân vật đặc biệt là nhân vật Huấn Cao được thể hiện tập trung nhất trong cảnh cho chữ. Cái đẹp ra đời trong một “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”, “trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà”, “Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô từng nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn, thiên lương cao cả lại tỏa sáng ở ngay giữa nơi cái ác và bóng tối đang ngự trị. Có một sự đổi ngôi đã diễn ra: người nghệ sĩ tài hoa đang dậm tô từng nét chữ không phải là người được tự do mà là một kẻ tử tù đang trong cảnh cổ đeo gông, chân vướng xiềng và chỉ sớm tinh mơ ngày mai là sẽ bị giải vào kinh chịu án tử hình. Kẻ tù nhân vượt lên để trở thành người sáng tạo, ban phát cái đẹp, người răn dạy những điều phải trái còn ngục quan thì khúm núm, vái lạy người tù. Cái đẹp của thiên lương, cái đẹp của tài năng và nhân cách đã vượt lên tất cả để khẳng định mình và để chiến thắng.

Trong “Tờ hoa”, Nguyễn Tuân đã thể hiện những suy tưởng của mình về cội nguồn của cái đẹp: cũng giống như con ong làm mật, quá trình hoài thai đau đớn và nặng nhọc của con trai để có ngọc, của những cái rễ con âm thầm trong lòng đất kín giúp cho có được những bông hoa thơm, quá trình sáng tạo nên cái đẹp của người nghệ sĩ là không hề giản đơn. Cái đẹp của thiên lương và khí phách trong “Chữ người tử tù” cũng phải.trải qua những thử thách tương tự như thế để tự khẳng định được mình. Phải đến tận ngày cuối cùng trong cuộc đời Huấn Cao, hai thiên lương trong sáng ây mới có thực sự hiểu được nhau, gặp nhau để cùng nhau làm cho cái đẹp tỏa sáng. Từ những hình tượng nhân vật này, Nguyễn Tuân cũng đồng thời trình bày quan điểm thẩm mĩ của mình về cái đẹp: cái đẹp và cái thiện không thể tách rời nhau. Một nhân cách đẹp bao giờ cũng là sự thống nhất giữa cái tâm và cái tài. Đó trở thành nét nổi bật trong tác phẩm cũng như trong những suy tưởng của Nguyễn Tuân về cái đẹp.

Phân tích cảnh cho chữ trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân 59

Nguyễn Tuân được coi là một trong những tác giả lớn người đã có những đóng góp vô cùng tích cực cho nền văn học Việt Nam. Cả cuộc đời Nguyễn Tuân ông miệt mài đi tìm cái đẹp và khát khao cháy bỏng tạo nên những điều chưa từng có trong thực tế. Và đến đây người ta không thể nào quên cảnh cho chữ được tác giả tái hiện trong tác phẩm “Chữ người tử tù”. Nó đã đưa Nguyễn Tuân trở thành một bậc thầy trong việc xây dựng tình huống truyện.

Cảnh cho chữ được nhắc đến ở cuối tác phẩm khi mà tâm trạng của viên quản ngục thầy thơ lại đang vô cùng rối ren. Họ phải đối diện với sự thật là ông Huấn Cao sắp phải hành hình.  Và chính tình huống này được coi như việc cởi nút thắt tháo gỡ những băn khoăn của người đọc đồng thời nó đã bộc lộ một giá trị vô cùng lớn lao của tác phẩm.

Sau khi nhận được công văn về việc Huấn Cao cùng đồng bọn phản nghịch sẽ bị xử tử, viên quản ngục lấy làm xót xa ông mang chuyện kể lại với thầy thơ lại. Nghe xong, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam để tỏ rõ nỗi lòng với Huấn Cao. Và cũng chính đêm hôm ấy, dưới một khung cảnh chưa từng có trong lịch sử một việc chưa từng có đã diễn ra. Nơi ngục giam đầy u tối với lập lòe ngọn đèo dầu leo lét người ta thấy một người tử tù cổ đeo gông, chân mang xiềng ung dung đĩnh đạc thả hồn vào từng nét chữ trên dải lụa trắng. Trong sự khúm núm của những viên quản ngục, thầy thơ lại. Đến đây ta bắt gặp hai thứ vô cùng đối lập đó chính là sự thanh tao của nghệ thuật và sự đen tối dơ  bẩn của chế độ cũ. Tưởng chừng nó không thể xuất hiện cùng nhau nhưng lại hòa quyện trong một khung cảnh hết sức “bất ngờ” và đầy rẫy éo le.

Đêm hôm ấy có lẽ là đêm cuối cùng của người tử tù Huấn Cao và cảnh cho chữ cũng là những giây phút cuối cùng của cuộc đời ông. Hai con người ở hai thái cực khác nhau của xã hội một bên đại diện cho pháp luật, một bên là tử tù thế nhưng cuối cùng họ đã gặp nhau và đồng cảm với nhau trên bình diện nghệ thuật. Nhà văn vô cùng sáng tạo khi đã tạo nên một tình huống truyện đầy éo le, đầy rẫy sự tương phản. Mà dường như bóng tối, sự dơ bẩn của nhà tù phong kiến thực dân không thể làm làm lu bờ đi sự thiện lương trong con người. Nói cách khác thì cái đẹp nghệ thuật đã chiến thắng tất cả những xấu xa những định kiến của xã hội. Thế mới thấy, nghệ thuật có sức mạnh lớn lao đến nhường nào nó có thể xóa nhòa mọi ranh giới, mọi khoảng cách để người và người đến gần nhau hơn. Nghệ thuật chính là cảnh giới cao nhất của cuộc sống mà con người muốn hướng đến, ở đó không có thứ bậc, không có sang hèn chỉ có tâm hồn đồng cảm mà thôi.

Sau khi cho chữ xong Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục nên về quê để tránh xa chốn dơ bẩn này vì bởi lẽ “chỗ này không hợp với ông đâu”. Có lẽ Huấn Cao bằng cái tài của một bậc hiền triết cũng đủ hiểu được viên quản ngục là người thế nào. Vì thế ông mới bảo họ tránh xa nơi này ra. Muốn chơi chữ thì phải giữ được thiên lương. Ở trong một môi trường đầy rẫy sự cám dỗ và cái ác thì cái đẹp không thể bền vững và tồn tại được. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, từ những thứ trái nghịch nhưng nó không thể song song tồn tại với nhau. Thú chơi chữ cũng vậy nó không chỉ thể hiện qua nét mực mà còn phải cảm nhận bằng chính sự rung cảm sâu sắc bên trong của mỗi người. Cái gốc của việc chơi chữ chính là cái thiện và lối sống văn hóa.

Trước những lời khuyên của Huấn Cao, viên quản ngục chỉ biết chắp tay và chảy nước mắt nghẹn ngào “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng chính sức mạnh của tình người, của sự thiện lương của một con người xuất chúng tài ba Huấn Cao đã “cứu vớt” một linh hồn trong đóng bùn lầy của cái ác. Trên con đường đi tìm cái chết của mình Huấn Cao đã gieo mầm cđể những con người lạc lối như thầy thơ lại viên quản ngục trỗi dậy. Và cũng vì lẽ đó hình tượng của người anh hùng càng trở nên lớn lao hơn bao giờ hết. Nó khẳng định một điều bất diệt đó chính là dù ở bất cứ đâu, trong bất kì hoàn cảnh nào thì con người luôn khát khao đến sự chân thiện mĩ.

Bàn về nghệ thuật trước cách mạng có người cho rằng Nguyễn Tuân chính là một nhà văn theo tư tưởng duy mỹ tức là ông chỉ chăm chăm đi tìm kiếm cái đẹp. Thế nhưng đặt trong hoàn cảnh tác phẩm này thì quan điểm đó có vẻ sai lầm. Vì trong tác phẩm chữ người tử tù mà đặc biệt trong cảnh cho chữ này Nguyễn Tuân không chỉ tôn sùng cái đẹp mà còn nhấn mạnh cái đẹp bao giờ cũng đi liền với đạo đức với sự thiện lương. Và viên quản ngục thầy thơ lại chính là những thanh âm trong trẻo trong cái bản nhạc đầy xô bồ đó. Đồng thời cũng thể hiện một tình yêu nước bất diệt căm ghét bọn thống trị và ca ngợi những con người có tài có tâm như Huấn Cao và viên quản ngục.

Chữ người tử tù được xem như một bài ca bất diệt về tài năng nhân cách của con người và sức sống bền bỉ của nghệ thuật. Những dòng chữ của Huấn Cao như một sự gieo mầm của sự sống, gieo mầm cho nhân cách và nó sẽ được tiếp nối mãi cho đến sau này. Nguyễn Tuân đã sử dụng những câu văn, hình ảnh vô cùng chậm rãi giàu sức gợi như một đoạn phim quay chậm để tái hiện một tình huống truyện đầy bi đát. Ngôn ngữ điêu luyện nhưng chân thực, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật từ đó tái hiện lên một cảnh tượng khiến nhiều người suy ngẫm.

 Có thể nói cảnh cho chữ trong thiên phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyên Tuân chính là một tình huống vô cùng đắt giá. Nó chính là bài ca ca ngợi sự tài hoa của những con người nghĩa khí, cho sự bất diệt của nghệ thuật. Đồng thời cũng ngầm khẳng định cái đẹp nghệ thuật có sức mạnh lớn lao. Có thể cảm hóa được những điều xấu xa của cuộc đời.

Phân tích Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân 60

Một tác phẩm thơ hay không chỉ ở nội dung mà còn là nghệ thuật của tứ thơ ấy, một tác phẩm truyện hay không chỉ hấp dẫn người đọc ở cốt truyện đầy kịch tính li kì mà còn ở hình tượng nhân vật. Nếu như nhà văn Nam Cao xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo với hình hài quỷ dữ xong làm nổi bật lên bản chất tốt đẹp của người nông dân thì Nguyễn Tuân một nhà văn tài hoa uyên bác lại xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao là một người tử tù nhưng mang nét tài hoa của những bậc tao nhân mặc khách. Đúng vậy, Huấn Cao giống như một viên ngọc sáng lấp lánh trong trang văn của Nguyễn tuân.

Tình huống truyện của tác phẩm chữ người tử tù là một điều không thể không nhắc đến. Chính sự oái oăm của tình huống truyện đã khiến cho nhân vật Huấn Cao được thể hiện. Huấn Cao là một tội phạm của triều đình nhưng lại có tìa viết chữ rất giỏi, trong một lần làm nghiệp lớn chống lại triều đình ông bi bắt và chờ ngày tử hình. Tại nhà giam ẩm thấp và tối tăm nhưng Huấn Cao vẫn hiện lên là một viên ngọc sáng lấp lánh lấn át đi sự tối tăm ấy.

Nhà văn đã xây dựng nhân vật Huấn Cao là một người có thiên lương trong sáng, có tài năng viết chữ rất đẹp. Tài năng ấy được thể hiện qua lời khen ngợi của viên quản ngục và thầy thơ lại. Khi nhận được tráp báo rằng sẽ có tên tử tù nguy hiểm tên Huấn Cao sẽ bị giải về nơi đây chờ tử hình thì cả hai người đều tỏ ra buồn thay cho một người tài hoa uyên bác như thế. Đặc biệt là viên quản ngục luôn tỏ ra kính trọng người có tài. Có thể nói Huấn Cao phải viết chữ đẹp lắm thì mới khiến cho viên quản ngục ngày đêm tìm cách mong Huấn Cao có thể cho chữ. “Có chữ ông Huấn Cao mà treo trong nhà thì cứ như là vật báu”. Cảm phục trước tài năng nên quản ngục tỏ ra kính trọng và biệt đãi Huấn Cao. Là một tử tù nhưng Huấn Cao được biệt đãi được ăn rượu uống thịt. Về phần Huấn Cao thì ông là một người vốn khoảnh. Trừ những chỗ tri kỉ không bao giờ ông cho chữ ai một cách tùy tiện cả. Cả đời ông cũng mới viết có mấy bức cho mấy người bạn thân chứ ông chưa viết cho ai cả. Điều đó cho thấy Huấn Cao tôn trọng chính chữ viết của mình. Ông chỉ cho những ai biết thưởng thức nó và thực sự xứng đáng với nó mà thôi. Đó chính là thiên lương trong sáng trong ông. Không những thế khi được biệt đãi Huấn Cao còn quát mắng viên quản ngục nhưng đến khi được thầy thơ lại nói về tấm lòng của viên quản ngục thì Huấn Cao nhận ra được tấm chân tình và quyết định cho chữ. Đối với Huấn Cao chữ của ông chỉ cho những người có tấm lòng yêu nó. Và ông bật lên câu nói: “Suýt chút nữa thì ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Và thế là cảnh tương xưa nay chưa từng có” được diễn ra.

Không chỉ là người tài năng và có thiên lương trong sáng Huấn Cao còn là một anh hùng. Có thể nói Nguyễn Tuân đã sử dụng nguyên mẫu Cao Bá Quát để xây dựng lên hình ảnh nhân vật này. Huấn Cao được biết đến là một tử tù tội ác tày đình và có tài bẻ khóa vượt ngục. Không nhà lao nào có thể giam giữ nổi ông. Nghe đến đây thôi thì ta tưởng Huấn Cao là một người xấu thế nhưng lại không phải vậy. Khi ấy triều đình có những tư tưởng sai lệch, một người có chí lớn như Huấn Cao không thể dương mắt làm ngơ, trong khi dân chúng khổ cực. Chính vì thế mà Huấn Cao không ngần ngại đứng đầu đội quân để chống lại triều đình. Điều đó khẳng định ông quả là một anh hùng không sợ trời sợ đất chỉ biết làm việc nghĩa cho nhân dân mà thôi. Thế rồi ông bị bắt và giam giữ, khi đến nhà lao nơi quản ngục và thầy thơ lại trông coi. Huấn Cao không hề tỏ ra sợ hãi. Biết rằng mình sắp chết nhưng vẫn không ngần ngại có những hành động coi thường những kẻ chỉ biết lấy uy quyền ra dọa nạt. Đầu tiên là hành động giỗ gông khi một trận dệp làm cho Huấn Cao không thê chịu nổi. Mặc cho bọn lính thúc và đánh liên tục Huấn Cao cũng không sợ mà quyết định giỗ gông. Hay khi được biệt đãi Huấn Cao nghĩ rằng viên quản ngục có thể cho thuốc độc vào thức ăn nhưng ông đã không sợ cái chết và vẫn ăn ngon lành. Khi mắng lại quản ngục Huấn Cao cũng nghĩ đến mấy trò trả thù hèn hạ của bọn cai ngục thế nhưng ông cũng chẳng sợ gì. Qua đây ta thấy Huấn Cao quả thật là một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất

Điều thứ ba làm nên một Huấn Cao hoàn hảo đó là khí phách hơn người. Khí phách của ông được thể hiện rất rõ qua những hành động của một vị anh hùng của một người làm chí lớn. Khí phách lớn là khi dám một mình đứng lên chống lại triều đình. Không những thế khí phách của Huấn Cao còn được thể hiện ở suy nghĩ của viên quản ngục. Đó là một người chí lớn thì chỉ biết đứng ở trên đầu của người khác chứ làm sao có thể hiểu được những nhỏ nhặt.

Tóm lại ở Huấn Cao ta thấy toát lên một vẻ đẹp của một người có danh tiếng lớn. Đối với triều đình thì Huấn Cao là một tên tử tù nguy hiểm cần bắt gấp và đề phòng còn đối với nhân dân Huấn Cao là một người tài năng có thiên lương trong sáng, là một vị anh hùng có khí phách hơn người.

Phân tích diễn biến tâm lý của nhân vật viên cai ngục trong đêm đợi tù trong bài Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân 61

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, suốt đời tìm đi tìm cái đẹp. Ông có một vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học Việt Nam hiện đại: thúc đẩy thể tùy bút, bút ký văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc; đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách tài hoa và độc đáo. Trong những tác phẩm của ông luôn đề cao cái đẹp, đẹp một cách hoàn mỹ, đẹp từ sâu thẳm bên trong mỗi con người, mỗi sự việc. Điều ấy được thể hiện rất rõ qua truyện ngắn Chữ người tử tù với hai nhân vật chính là viên cai ngục và tử tù Huấn Cao. Xuyên suốt tác phẩm, dù có nhiều nghịch lý, song Nguyễn Tuân vẫn luôn để cái đẹp chiến thắng. Đôi khi, cái đẹp ẩn chứa bên trong cái vỏ ngoài tưởng chừng như xấu xa, ác độc. Bởi thế, Nguyễn Tuân đã khéo léo gửi gắm một tâm hồn trong sáng, lương thiện ẩn sâu trong nhân vật viên cai ngục đầy mánh khóe, dã tâm. Không những thế một mình ông cùng lúc phải đóng cả hai vai. Ban ngày là một tên cai ngục vô tình, gian sảo. Nhưng khi đêm về, ông lại là một “tấm lòng trong thiên hạ”. Nhất là khi ông băn khoăn, trăn trở thức trắng cả đêm đợi tử tù Huấn Cao.

Theo như lời dẫn dắt của tác giả, Huấn Cao là một người vừa có tài vừa có chí. Chẳng những thế ông còn có cái tài viết chữ rất vuông và rất đẹp, khiến cho cai ngục cũng cảm thấy mến mộ và nể trọng. Nhưng thật không may, người hùng ấy lại bị rơi vào cảnh tù đày, đợi đến ngày hành xử với mức án cao nhất là tử hình. Nhưng lẽ ra những điều ấy sẽ chẳng có nghĩa lý gì đối với một tên cai ngục đã làm cái “nghề” này lâu năm. Ngược lại, cai ngục còn băn khoăn, nghĩ suy suốt cả một đêm trước ngày Huấn Cao đến.

“Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn lại mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ…”. Những lời văn rất đẹp, rất thuần mỹ mà nhà văn của cái đẹp đã dành cho viên cai ngục trong đêm đợi tù. Thật không dễ gì để dấu mình trong cái bình phong ấy. Tác giả cũng không giải thích rõ tại sao cai ngục phải làm như vậy, nhưng trong từng câu, từng chữ luôn ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của một con người trong sáng, thiện lương. Bởi còn gì đẹp hơn và bình yên hơn “mặt nước áo xuân”? “Nơi góc án thư vàng đã nhợt, son đã mờ, đĩa dầu sở trên cây đèn nến vơi lần mực dầu. Hai ngọn bấc lép bép nổ, rụng tàn đèn xuống tập giấy bản đóng dấu son ti Niết. Viên quan ngục ngấc đầu, lấy que hương khêu thêm một con bấc. Ba cái tim bấc được chụm nhau lại, cháy bùng to lên, soi tỏ mặt người ngồi đấy”. Và ngọn lửa ấy cũng chính là ngọn lửa hi vọng mà cai ngục luôn nung nấu trong lòng. Nó sẽ bùng sáng lên khi có tay người vặn và khi gặp được một ngọn bấc khác cũng đang sẵn sàng bùng cháy. Phải chăng lúc này cai ngục đang rất hồi hộp và chờ mong người tử tù như sắp được tiếp đón một người thần tượng của cuộc đời mình?

 “Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”. “Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân giời không định. Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị từ biệt vũ trũ”. Có lẽ lúc này cai ngục đang thầm tiếc thương cho thân phận bi tráng của người tử tù sắp đến. Ngôi sao kia chẳng phải ai khác mà chính là Huấn Cao. Trong lòng người tử tù tội nghiệp ấy, ông Huấn chính là một ngôi sao sáng với những tài năng hơn người và ý chí mạnh mẽ không chịu khuất phục trước đòn roi, trước cái chết. Ngôi sao chính vị ấy sắp từ vũ trụ khiến cho lòng “người ngồi đấy” không khỏi xót xa. Nhưng chính bản thân ông cũng không thể làm gì khác được khi mà mình chỉ là một tên cai ngục thấp hèn chốn lao tù dơ bẩn. Chính ông còn phải núp mình trong cái bình phong của một kẻ tàn ác, mánh khóe.

Những tâm tư, tình cảm và nỗi băn khoăn của cai ngục trong đêm đợi tù đã càng làm cho cái đẹp mà Nguyễn Tuân hướng tới được ngời sáng, được ngợi ca. Dù ban ngày ông có là người như thế nào đi nữa, thì khi đêm về, ông lại trở về với chính mình – “một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Càng nghĩ đến người tử tù sắp đến, ngục quan lại càng hổ thẹn với bản thân mình. Ông nghĩ ngợi về câu nói ban chiều của thầy thơ lại: ”Có lẽ lão bát này, cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình”. Có lẽ ông đang tìm thấy sự đồng cảm ở nơi thầy thơ lại – người mà từ trước tới giờ ông không hề nghĩ rằng cũng biết trọng người tài, biết kính mến khí phách. Thì ra, đánh giá một con người không hẳn là nhìn vào hành động hay thái độ hàng ngày của họ, mà sâu thẳm bên trong tâm hồn họ còn có những điều giá trị vô cùng. Dòng suy nghĩ này của ngục quan cũng chính là quan niệm về cái đẹp, cái thiện của Nguyễn Tuân. Cái đẹp phải xuất phát từ bên trong suy nghĩ, trong tâm hồn, chứ không hẳn cứ hành động đẹp đã là đẹp. Nhưng như vậy cũng chưa đủ, cả ngục quan và thơ lại đều không thể cứ giấu mình mãi sau bức bình phong ấy. Bởi thế, những băn khoăn của ông lúc này chính là động lực để ông chuẩn bị rũ bỏ hết mọi thứ, tìm lại cuộc sống của chính mình, của một con người hiền lương, tốt đẹp

Ngục quan đã trở thành một ngọn bấc sáng trong đêm ở trong chính nơi nhơ bẩn, lọc lừa mà ông đang làm việc. Chỉ cần có một ngọn bấc nữa chụm vào và một bàn tay đủ mạnh để vặn lửa to lên, ngọn bấc ấy sẽ bùng cháy và xua tan đêm đen tối tăm của ngục tù. Bằng nghệ xây dựng tình huống và ngôn ngữ trau truốt, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, Huấn Cao đã giúp người đọc thấu hiểu con người của ngục quan đằng sau bức bình phong của một tên cai tù gian xảo. Qua đó, ta cũng cảm nhận được cái đẹp mà Nguyễn Tuân muốn hướng đến chính là cái đẹp của tâm hồn, của những điều mà ít ai đã thấu hiểu khi chỉ nhìn nhận, đánh giá người khác qua cái nhìn hời hợt bên ngoài. Cai ngục dù không phải là nhân vật trung tâm của tác phẩm, nhưng chính ông đã góp phần làm nên giá trị cho tác phẩm.

Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật Huấn Cao trong “chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân 62

Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân, thiện, mỹ người ta thường nghĩ tới Nguyên Tuân một con người luôn tìm kiếm cái đẹp, ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, ông cầm bút năm 1936 nhưng thật sự nổi tiếng vào năm 1938 với các thể loại khác nhau như bút kí, truyện ngắn,.. “vang bóng một thời”,”một chuyến đi”.

Điển hình “chữ người tử tù” là nơi nhân vật được miêu tả như các nghệ sĩ, mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp và các thú tao hưởng lành mạnh, tao nhã, tất cả được thể hiện qua lớp người nhà nho bất đắc dĩ tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân

Trong môi trường của các ác thì cái thiện khó có thể bền vững, muốn chơi chữ thì phải giữ thiên lương, cái đẹp có thể nảy sinh từ tâm, từ môi trường của ác ác như hành động chơi chữ trong tù của Huấn Cao nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc tới thú chơi chữ là môn nghệ thuật đòi hỏi cảm nhận không chỉ cảm nhận bằng thị giác mà còn cả bằng tâm hồn, người ta thưởng thức chứ không mấy thấy cảm nhận mùi thơm của mực, hãy tìm cho mình trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa, trước lời khuyên của người tử tù viên quản ngục xúc động vái lạy người tử tù một lạy, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rơi khẽ vào kẽ miệng nghẹn ngào “ kẻ si muội này xin bái lĩnh” bằng sức mạnh của một người cao cả và tài năng xuất chúng người tử tù đã hướng quản ngục đến cuộc sống đến cái thiện và trên con đường đến với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường.

Trong khung cảnh đen tối của tù ngục hình ảnh Huấn Cao bỗng trở nên cao lớn lạ thường, vượt lên trên những dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh đồng thời thể hiện niềm tin vững chắc của con người trong bất cứ hoàn cảnh nào con người vẫn khao khát hướng tới chân thiện mỹ. Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mỹ, tức là điều mà ông quan tâm chính là cái đẹp, nghệ thuật, nhưng qua truyện ngắn “chữ người tử tù” và đặc biệt là cảnh cho chữ, ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng cái đẹp thì lúc nào cũng gắn cái thiện, thiên lương con người. Qua điểm này để bác bỏ ý kiến của người trước cách mạng, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ thuật vì nghệ thuật.

Bên cạnh đó truyện cũng ca ngợi viên quan ngục và thơ lại là những con người tuy sống trong những điều kiện độc ác, xấu xa nhưng vẫn là “những thanh âm trong trẻo”, biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn cho thấy được tấm lòng yêu nước và căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ tôn trọng những người có thiên lương, trên cơ sở đó đạo lý truyền thống của nhà văn.

“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân cách cao cả của con người, hành động “cho chữ” của Huấn Cao là những dòng chữ cuối đời người, có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa cho kẻ tri ân, tri kỷ cho thế hệ hôm nay và mai sau. Nếu có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai một, đó là tấm lòng muốn giữ cho đời.

Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh, gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm, từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân, một buồng tối chật hẹp, hình ảnh ba con người, ba cái đầu đang chăm chú vào một tấm lụa trắng tinh, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân đi xiềng, đứng viết chữ. Hình tượng miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét, từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám, dơ bẩn đến cái đẹp, ngôn ngữ, hình ảnh cor kính cũng tạo không khí cho tác phẩm, ngôn ngữ sử dụng nhiều từ Hán Việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã phục chế cái cũ xưa bằng kỹ thuật hiện đại như phân tích tâm lý nhân vật, bút pháp tả thực.

Cảnh cho chữ trong “chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân, tác phẩm đã nói lên tấm lòng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng, đan xen vào đó tác giả cũng đã kín đáo bày tỏ đau xót chung cho cái đẹp chân chính đang bị phá hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân văn, nhân văn, dù cuộc đời có đen tối thì vẫn có những tấm lòng tỏa sáng.

Qua hình tượng Huấn Cao ta thấy một người tử tù lúc nào cũng trong tư thế hiên ngang, ung dung dù đã đến ngày đầu lìa khỏi cổ, từ giã cõi nhân gian này. Ông đúng là “một thanh âm trong trẻo giữa bản nhạc hỗn độn, xô bồ”. “Chữ người tử tù” là một truyện ngắn giàu tính kịch tính, cảnh Huấn Cao cho chữ trong buồng giam là cảnh xưa nay chưa từng có.

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù 63

Trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng 8, hình tượng người anh hùng xuất hiện thường là người tài hoa vẹn toàn, một con người vừa có khí phách vừa bản lĩnh lại rất tài năng, Huấn Cao chính là một người như vậy. Xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù, nhà văn Nguyễn Tuân đã ngợi ca cái đẹp và con người sáng tạo ra cái đẹp.

Huấn Cao trước hết là con người có khí phách đẹp, ông yêu nước thương dân, giàu bản lĩnh, có chí làm trai. Chính vì đau đáu trước thời cuộc, không chịu được sự thối nát của chế độ cho nên ông mới đứng lên khởi nghĩa, cầm đầu nghĩa quân làm việc lớn. Nhưng việc lớn không thành, ông và những người cộng sự đều bị bắt giam và bị kết án tử hình. Thế nhưng cường quyền và bối cảnh lao tù đều không thể đánh bại được Huấn Cao, ông vẫn vô cùng hiên ngang, chững chạc. Ông cùng cộng sự bước vào nhà lao một cách ngông nghênh ngạo nghễ, tỏ ý khinh khi nhà tù và bộ máy quan lại ở đây. Khi được viên quản ngục “mua chuộc” bằng những khoản đãi đặc biệt, rượu, thức ăn, Huấn Cao đều từ chối thẳng thừng. Ông cũng dứt khoát đuổi viên quản ngục ra ngoài mặc cho viên quản đã hết sức nhún nhường và nhẹ nhàng đích thân đến hỏi xem ông còn cần gì không. Tất cả những hành động trên đều cho thấy Huấn Cao là một người có lòng yêu đất nước, có tinh thần trượng nghĩa, không khuất phục trước cường quyền, không lung lay trước hành động, lời nói của người khác. Ở ông người ta nhìn thấy những phẩm chất và thái độ của một con người hiên ngang, phóng khoáng, thẳng thừng và rất rõ ràng.

Huấn Cao là con người có tài năng, cái tài của ông đặc biệt được nhắc đến là khả năng viết chữ nổi tiếng khắp cả tỉnh. Con chữ của ông viết vừa nhanh, vừa vuông vắn lại như có linh hồn, hoài bão ở trong. Rất nhiều người trong đó có cả viên quản là những người biết chơi chữ thì chỉ mong trong nhà có được một đôi câu do Huấn Cao viết. Đã vậy, bình sinh ông không bao giờ vì cường quyền hay tiền bạc mà ép mình cho chữ bao giờ. Điều đó đã được chứng minh qua việc viên quản luôn biệt đãi Huấn Cao, nhỏ nhẹ hỏi thăm nhưng Huấn Cao vẫn khinh thường từ chối thẳng thừng. Bình sinh ông từng nói chỉ cho chữ có hai lần, đó đều là tặng những người tri kỉ. Vậy mà khi nghe câu chuyện của viên quản ngục, Huấn Cao gần như ngay lập tức mà đồng ý, còn ăn năn hối hận mà nói rằng suýt chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Ông tự trách bản thân rằng không biết rằng viên quản ngục lại là người có thiên lương trong sáng mà đối xử tệ bạc. Huấn Cao đã cho chữ viên quản bằng cả những tâm tình, tài hoa của mình. Những con chữ cuối đời của ông còn đi kèm với lời nhắn nhủ dặn dò viên quản tìm về một chốn yên bình mà sống cuộc sống thanh cao, giữ lấy nhân cách của bản thân. Có thể thấy Huấn Cao đã coi viên quản là một người tri kỉ của mình để dốc những nỗi lòng của bản thân, cho viên quản những lời khuyên chân thành nhất.

Huấn Cao là một con người có tài năng, có khí phách lại biết trân trọng và yêu mến cái đẹp. Ông là một người anh hùng tài hoa, khí chất, vẹn toàn. Chính ông đã sáng tạo ra cái đẹp, gìn giữ cái đẹp và có những hành vi, cử chỉ rất thẳng thắn. Chính nhờ những tài năng và đức tính của Huấn Cao mà mới nảy sinh nên những tình huống truyện vô cùng độc đáo, có một không hai đó là tình huống viên quản xin chữ hay cảnh tượng cho chữ rất đặc biệt.

Huấn Cao là người tài nhiều năm mới có một, cái tài cái đức của ông đã khiến cho hình ảnh của ông còn đọng lại mãi. Người anh hùng này trở thành một tượng đài của cái đẹp trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân và trong nền văn học Việt Nam.

Phân Tích Cảnh Cho Chữ Trong Chữ Người Tử Tù 64

Qua tác phẩm “Chữ người tử tù” tác giả Nguyễn Tuân đã dựng nên hình tượng nhân vật Huấn Cao với cốt cách thanh cao, tài năng xuất chung và một tâm hồn cao đẹp. Nhân vật ấy là hình bóng của nhà thơ Cao Bá Quát – môt lãnh tụ nông dân đã đứng lên chống lại triều Nguyễn năm 1854. Và có lẽ cảnh Huấn Cao cho viên quản ngục chữ  trong ngục tối đã trở thành một cảnh quay đắt gía và để lại cho bạn đọc nhiều điều suy ngẫm.

Khung cảnh của buổi cho chữ không diễn ra tại nhà một thầy nhỏ với nghiêng mực, sách bút mà lại được diễn ra trong buồng giam chật hẹp, u tối , bẩn thỉu . Cho chữu là một việc làm thanh cao nhưng lại được diễn ra ở cái nơi đầy máu và tội ác phải chăng tác giả đã cố tình đặt cảnh cho chữ ấy vào một không gian đặc biệt và chính không gian ấy đã làm toát lên nhân cách thanh cao, trong sạch của nhà nho Huấn Cao.

Đêm hôm ấy “ trong một không khí khói tỏa nhà đám cháy nhà , ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt..” người tử tù “ cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván” còn viên quản ngục “lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng” và thầy thơ lại gầy gò “thì run run bưng chậu mực . Thay bút con đề xong lạc khoản..”.

Cảnh tượng thiêng liêng ấy diễn ra trong không gian yên tĩnh, chỉ thi thoảng văng vẳng lại tiếng mõ trên chòi canh. Không gian ấy không  chỉ là sự đối lập giữa sáng và tối mà nó đã vạch trần ranh giới giữa ánh sáng của lương tri với bóng tối của tội ác. Ánh sáng của tấm lòng lương thiện, của một vĩ nhân có nhân cách thanh cao đã dần dần đẩy lùi bóng tối – hiện thân của sự tàn bạo và độc ác đang ngự trị trong chính những buồng giam ngục tù này. Ánh sáng ấy dường như đã khai sáng , đã soi rọi cho những kẻ lầm đường lạc bước kia trở về với cuộc sống mang tên “người lương thiện”.

Liệu rằng giữa một nơi nhơ bẩn ấy lại có thể xảy ra một cảnh tượng “xưa nay hiếm” đến như vậy không? Cảnh tượng ấy xoay quanh hai nhân vật là Huấn Cao và viên quản ngục. Huấn Cao là một tử tù bị khép vào tội chết và ông đang chờ ngày ra pháp trường. Người tử tù ấy có tài năng xuất chúng đặc biệt là viết chữ rất đẹp “ chữ đẹp lắm, vuông lắm”. Còn viên quản ngục kia là kẻ có quyền , nhưng rất mê vẻ đẹp của những nét chữ thanh cao của Huấn Cao và hắn đêm ngày ao ước được sỏ hữu những nét chữ ấy.

Nếu chỉ xét trên phương diện tại ngục tù tối tăm kia thì Huấn Cao và viên quản ngục là hai người đứng đầu hai chiến tuyến. Một người đại diện cho sự lương thiện, cho nhân cách thanh cao và tài năng xuất chúng còn kẻ kia là hiện thân của tội ác, của bạo hành nhưng xét về phương diện nghệ thuật thì họ là tri kỉ của nhau, họ đều yêu và say mê cái đẹp. Bằng những  ngôn từ  đặc sắc và tài năng xây dựng tình huống độc đáo tác giả Nguyễn tuân đã dựng nên một tình huống oái oăm, đầy kịch tính làm nổi bật tính cách mỗi nhân vật.

Chính vì hiểu được sở thích cao quí , lòng yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp của viên quản ngục kia mà Huấn Cao mới quyết định cho hắn chữ, bởi lẽ ông nghĩ dù tàn ác đến đâu thì sâu thẳm trong tâm hồn hắn vẫn còn một chút lương tri của con người , hắn vẫn còn biết yêu cái gọi là “nghệ thuật chân chính”. Các cụ xưa có câu “nét chữ nết người”. Chữ đẹp chứng tỏ được viết từ ngườ có tâm , có nhân cách và ông cũng hi vọng rằng nét chữ ấy như những nét chữ khai sáng cho kẻ u tối kia tìm được đường về với lương thiện.

Phân tích Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân 65

Thế giới không chỉ được tạo lập một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ chân chính xuất hiện là mỗi lần thế giới được tạo lập. Mỗi tác phẩm là mỗi sự dâng hiến, một cuộc đời, một cảm xúc, một chân lý, một ý vị, không một tác phẩm nào viết ra mà không mang đến cho người, cho đời một chân lý, một thông điệp mới .Nhà phê bình người Nga bêlinxki từng viết “tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả. Nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan. Nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi”. Điều này được thể hiện rất rõ qua tác phẩm  “ Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.

Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, sự miêu tả trong văn chương bắt nguồn từ cuộc sống của con người. Mỗi khía cạnh của văn chương là một góc nhìn về cuộc sống hiện tại hoặc quá khứ nó là một thực trạng một hình thức của cuộc sống và nếu nhà văn chỉ dùng tài năng của mình mà tái hiện lại chúng trên những trang văn đẩy chữ mà không nhằm mục đích gì thì chỉ là một tác phẩm không có ý nghĩa, một tác phẩm chết. Phải chăng đó cũng là căn nguyên để tạo lập một tác phẩm văn học mang lại sự sống mãnh liệt, một tác phẩm sống và dâng hiến cho đời những hương sắc và ý nghĩa, là một tác phẩm mang những tiếng thét đau khổ, hay lời ca tụng hân hoan, là một tác phẩm đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó. Những đặc điểm giữa một tác phẩm chết so với những đặc điểm của một tác phẩm sống dường như có một hình thức đối lập giữa chúng, cái thông điệp là những tiếng kêu thét và những lời hân hoan, hay những câu hỏi và lời giải đáp chính là nguồn gốc tạo nên một tác phẩm đúng nghĩa, là lưu giữ cho đời những hương sắc lan tỏa.

Một tác phẩm khi được viết ra là sự kết tinh độc đáo giữa cảm xúc và lý trí của nhà văn, nhà văn đã phải giao thoa với đời bằng chính cái tâm hồn, cốt cách, dùng cái tài trong văn bản mà làm nên những trang văn đầy nhiệt huyết và năng động, mang lại những ý nghĩa, thông điệp nơi bể đời đầy đau khổ. Một nhà văn thực thụ sẽ làm như vậy chứ không phải chỉ tạo lập cho mình những văn bản đầy chữ mà không còn mục đích gì ngoài việc miêu tả, có lẽ cốt cách để làm nên một nhà văn chân chính không chỉ là những cảm xúc sâu thẳm, mà còn là ánh mắt nhân đạo nhìn đời, thấu hiểu đời và diễn đạt chúng trên những tài năng thiên bẩm. Không ít những nhà văn chân chính đã để lại cho đời những dấu ấn và thông điệp đáng quý của một sức sống mãnh liệt trong tác phẩm và cũng không ít những tác giả đã dùng văn chương để nhìn cuộc sống trong những khía cạnh riêng biệt. Nguyễn Tuân cũng không ngoại lệ, trong tư cách là một nhà văn Ông đã làm sáng tỏ tài năng và những thông điệp muốn gửi gắm đến cho đời qua tác phẩm “Chữ Người Tử Tù”.

Là một trong những nhà văn uyên bác, là một trong những cây bút sắc sảo tác phẩm “Chữ Người Tử Tù”, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân đã để lại cho đời những thông điệp, những dư vị của một cuộc sống, những cốt cách và phẩm chất của một con người trong một hoàn cảnh với cách xây dựng hình tượng truyện và cách xây dựng quá trình tâm lý con người đã giúp cho Nguyễn Tuân thể hiện rõ tài năng và phong cách của mình.

“Chữ Người Tử Tù” là tác phẩm viết đến trong hoàn cảnh lao tù giữa Huấn Cao và Viên quản cai ngục và thầy thơ lại trong một hoàn cảnh. Cho một hoàn cảnh trái ngang với những nhân cách cao đẹp đã làm nên một áng văn chương sáng rọi, xua tan mọi tối tăm, dơ bẩn chốn lao tù. Nguyễn Tuân không chỉ thành công ở việc xây dựng tình huống và càng xuất sắc trong cách xây dựng tình thế giữa hai nhân vật Huấn Cao người tử tù, viên quan coi ngục và hoán đổi chúng trong tài năng và làm nên thông điệp chân chính tác phẩm. “Chữ Người Tử Tù” không phải là một tác phẩm chết, bởi những dư vị và dấu ấn nó để lại cho đời lớn hơn là việc miêu tả chỉ để miêu tả.

Đến với nhân vật Huấn Cao của “Chữ Người Tử Tù” là ta đang tìm đến một bậc thiên tài cái thế được biết đến với cái tài viết nhanh và đẹp. Người đời ngưỡng mộ ông và coi ông như một anh hùng cái thế, kính trọng và nể ông. cái tài của ông được người ta ví như vật báu có được, chữ của Huấn Cao mà treo là như có một vật báu trong nhà. Thật ra cái hoàn cảnh để huấn cao được giới thiệu cũng chính là lúc ông trong tư cách là một người tử tù, một người đang bị bắt và một ngông, ấy thế mà khí phách hiên ngang của ông vẫn không bị lay động. Khi bước chân tới nhà lao cách mà ông vứt bỏ cái gông trên cổ xuống đã phần nào chứng minh cho khí phách hiên ngang, trong quá trình ở lao tù viên quan coi ngục đã không ít lần có ý giúp Huấn Cao nhưng ông đều thẳng thừng từ chối và khinh miệt viên quan coi ngục bằng hành động và lời nói rất ngang ngược “ta không muốn nhà ngươi bước chân vào đây nữa”,  thái độ hống hách của người tử tù dường như đang giúp phần thể hiện cho cái ngông của Nguyễn Tuân. Phải chăng những thái độ ngang ngược chỉ là đang góp phần thể hiện cho một khí phách hiên ngang của Huấn Cao, một người tử tù. Bên cạnh đó Huấn cao được biết đến với một cái tâm trong sáng và đầy ngưỡng mộ “ta nhất sinh không vì tiền bạc, Xưa nay ta chỉ cho chữ đúng 3 người”, mặc dù là một thiên tài viết chữ đẹp nhưng Huấn Cao không vì tiền hay bất cứ thứ gì, mà cho chữ có lẽ cái tâm ấy cũng làm sáng tỏ cho cái cách mà Huấn Cao đối xử với viên quản, có chủ vì sợ bị lợi dụng để cho chữ, đồng thời cái tâm ấy cũng thể hiện ở cách khinh miệt, coi thường những con người sống trong dơ bẩn và tội lỗi. những định kiến của huấn cao đối với viên quân cai ngục cũng góp phần làm nên cái tâm trong sáng của Huấn Cao, nhân vật Huấn Cao dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân được hiện lên với ba nhận định, một tài năng thiên bẩm, một khí phách hiên ngang và một cái tâm trong sáng. Qua nhân vật này Nguyễn Tuân dường như muốn hướng con người ta đến chân, thiện, mỹ và những thứ tốt đẹp nhất, đồng thời đó là sự khẳng định một người nghệ sĩ thực thụ luôn là sự kết hợp giữa cái tâm và cái tài.

Bên cạnh đó Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ tư tưởng và thông điệp của mình qua viên quản ngục vẫn là một con người mang những trọng trách dơ bẩn đứng trong địa vị ghê sợ nhất xã hội thời bấy giờ. ấy thế mà viên quản cai ngục lại trở thành một viên ngọc lấp lánh giữa vũng bùn lầy dơ bẩn, một người chuyên làm những công việc xấu xa nhưng với sự đam mê và trân trọng cái đẹp là chữ của Huấn Cao đã trở thành một con người hướng đến lương thiện. Chi tiết miêu tả viên quản ngục “ngồi suy nghĩ mặt lặng như hồ nước áo xuân” đã thể hiện sự hình thành dần dần những lương thiện trong cốt cách nghệ thuật. Thật vậy viên quản ngục dường như bị đánh thức nhân cách bởi chữ của Huấn Cao, trong quá trình thức tỉnh ông đã chịu mọi sinh nhật của Huấn Cao, đến giờ phút cuối cùng đã cúi đầu lí nhí. Quá trình biến đổi từ một nhân cách dơ bẩn đến một tâm hồn lương thiện chính là mục đích và thông điệp mà Nguyễn Tuân muốn gửi đến cho đời “nghệ thuật có chức năng tái tạo và cảm hóa con người”.

Huấn Cao và viên quản ngục coi tù như một viên kim cương lấp lánh trong cõi tối tăm, u ám. Tỏa sáng một cách rạng ngời, đồng thời đó còn là minh chứng cho sự tỏa sáng sẽ không bị bùn lầy che dấu, cái thiện sẽ luôn chiến thắng nhân cách lương thiện, con người dù cho bị vùi dập thế nào nhưng chỉ cần tâm luôn có ý hướng thiện thì sẽ chiến thắng. Viên quan coi ngục chính là một điển hình sáng ở nhất cho hình tượng con người hướng thiên lương trong chốn tối tăm. Đó cũng chính là tài năng của Nguyễn Tuân trong cách xây dựng tình huống và đảo ngược tình thế, qua đó thấy được “lời ca tụng hân hoan” mà Nguyễn Tuân dành cho hai nhân vật tâm huyết, đồng thời Nguyễn Tuân còn thể hiện cái tài văn chương của mình một cách rõ nét nhất, qua cảnh cho chữ cuối cùng của câu chuyện.

Cảnh cho chữ được bắt nguồn từ những tấm lòng của viên quan coi ngục và sự đáp trả nghĩa tình của huấn cao trước tấm lòng biệt nhỡn hiền tài, nguyên nhân làm nên cảnh cho chữ đã trang trọng đầy ý nghĩa và cảnh cho chữ diễn ra lại càng đặc biệt và thấm thía hơn. Cảnh cho chữ được miêu tả là một “cảnh tượng Xưa nay chưa từng có” cả trong văn học lẫn ngoài đời. Người ta thường cho chữ tặng những bản sách, những giảng đường, những nơi trang trọng nhưng với Huấn Cao vị anh hùng cái thế hơn người lại cho chữ tại một nơi ẩm thấp, hôi hám và đầy phân gián. nhưng đó không làm nên tính chất của cảnh cho chữ thiêng liêng này, nhân cách và vẻ đẹp tâm hồn Huấn cao lúc này cao sáng và thăng hoa hơn bao giờ hết. Trước những giây phút cuối đời và tại cái nơi đầy u ám này Huấn cao vẫn thể hiện niềm đam mê nghệ thuật của mình “mực mua ở đâu mà thơm thế”? và huấn cao cho chữ trong bầu khí trang trọng và đầy thiêng liêng, có lẽ cảnh cho chữ còn lắng đọng vào tâm hồn người hơn ở những giây phút cuối cùng mà Huấn Cao dùng để khuyên viên quản ngục. Chi tiết ấy có lẽ đã chiếm đi bao nhiêu tình cảm và nước mắt của người đọc, bởi tình người trong giờ phút ấy và tại thời điểm ấy vô cùng giàu đẹp và thiêng liêng, một lời khuyên chân tình của một người được coi là thiên tài với một con người trông coi dơ bẩn, tối tăm mới lay động lòng người thật hiếm có.

Cảnh tượng cho chữ cuối cùng đã nói lên phong cách và tài năng của Nguyễn Tuân, ông đã xây dựng một cảnh tượng chưa bao giờ có, một cảnh tượng tầm thường nhưng là một chân lý phi thường. Nguyễn Tuân đã miêu tả cảnh cho chữ nhưng không chỉ để miêu tả mà qua đó thể hiện một hình ảnh, một chân lý về cái đẹp trong chốn tối tăm, không phải chỉ những nơi trang trọng ra hoa mới lạ, nơi cái đẹp lên ngôi kể cả trong chốn những nơi dơ bẩn cũng là nơi cái đẹp có thể hiện diện. Ngoài ra cái hệ quả tốt đẹp cuối cùng trong cảnh cho chữ là sự cúi đầu xin lĩnh ý của viên quan Cai ngục và sự cảm kích không ngừng ấy lại là một điểm nhấn cho hình tượng nhân vật. Đó là những câu hỏi vang vọng giữa đời về sự tiếp diễn cuộc sống của viên quan coi ngục, sẽ là những suy nghĩ về sự bỏ lại quyển tước để về quê sinh sống, hay tiếp tục tồn tại nơi chốn dơ bẩn ấy, đó còn là những câu hỏi, những trang chuyện cuối cùng của “Chữ Người Tử Tù”.

Nghệ thuật là một quá trình khổ hạnh Nguyễn Tuân. Thật vậy nghệ thuật cũng là quá trình đi tìm cái đẹp mà người nghệ sĩ sẽ là cây bút tìm và vẽ lại cái đẹp ấy, “Chữ Người Tử Tù” là một điệp khúc, là lời ca tụng hân hoan về con người trong chốn tối tăm bùn lầy, là sự hướng đến cái chân, thiện, mỹ và ca ngợi chúng, là một sự miêu tả nhưng không chỉ để miêu tả về cảnh cho chữ và là một những câu hỏi vang vọng giữa biển đời.

Một tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ không khép lại ở những trang cuối, mà nó kết thúc để mở đầu một cuộc sống mới “Chữ người tử tù” đã làm được điều đó qua những thông điệp ý nghĩa mà nó gửi đến cho cuộc đời, đó là một tác phẩm không chỉ để miêu tả và thực thi sứ mệnh chỉ miêu tả, nhưng đó là một lời ca hân hoan và là những câu hỏi sẽ tồn tại với đời.

Có lẽ một tác phẩm sống mãnh liệt với đời sẽ là một tác phẩm để lại cho đời những thông điệp, những ý vị của một cuộc sống, đó chính là một tiếng thét đau khổ hay lời ca tụng hân hoan, nó luôn đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó.

Phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ Người Tử Tù của tác giả Nguyễn Tuân 66

Nhà văn Nguyễn Tuân với những trang anh hùng dũng liệt hiện lên dưới một 1 lớp ngôn ngữ dân tộc thuần khiết, cùng với đó là một sự chuẩn mực, luôn cố gắng hết sức mình để làm sống dậy một thời quá khứ rực rỡ. Trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân là một tác phẩm như thế. Bên cạnh hình tượng cao đẹp của nhân vật Huấn Cao thì nhân vật viên quản ngục cũng đóng góp một phần không nhỏ vào sự thành công của tác phẩm.

Nhân vật viên quản ngục được xây dựng lên không phải là một anh hùng cao đẹp như Huấn Cao. Không có một đoạn văn nào mà nhà văn Nguyễn Tuân lại tả quản ngục giống như một tên phủ khát máu (Bữa rượu máu) hay với những hành động xấu xa cả. Với tác phẩm thì quản ngục hiện lên là một con người đó là một hình ảnh trung gian giữa cái đẹp và cái không đẹp. Cũng chính dưới ngòi bút tài hoa của một bậc thầy về ngôn ngữ cũng như chúng hình ảnh trung gian ấy cũng mập mờ, không có ranh giới rõ rệt một chút nào.

Thoạt nhiên, người đọc sẽ có cảm nhận về một nhân vật viên quản ngục có vẻ như là một con người cam chịu, ông luôn yên phận và cũng chẳng có gì khác những kẻ cùng địa vị đương thời cả. Đó chính là câu: “Chuyện triều đình quốc gia chúng ta biết gì mà bàn bạc cho thêm lời”. Có lẽ rằng, chính cái khuôn khổ phong kiến, thêm với đó là cái “phép nước” dường như cũng đã khiến quản ngục quen với việc nhận tù, giao tù và có biết bao nhiêu mánh khóe hành hạ thường lệ.

Thế nhưng có ai ngờ đâu, bên trong con người đó vẫn luôn tồn tại một mầm sống tươi xanh của cái đẹp. Có thể nói rằng chính cái mầm ấy bị đè bẹp nhưng vần khắc khoải sống cũng như đã chờ đợi một lúc nào đó được vươn lên. Và rồi khi thời điểm đó cũng đến, nhân vật Huấn Cao – được nhà văn Nguyễn Tuân xây dựng lên là một con người văn võ song toàn xuất hiện có cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp ai ai cũng thích. Viên quản ngục lúc này đây cũng lại bắt đầu rơi vào một tâm trạng hết sức khó xử. Thêm với đó là một sự đấu tranh âm thầm trở thành nét tiêu biểu cho quản ngục trpng suốt câu truyện mà cũng chính là biểu hiện tiêu biểu cho quản ngục suốt truyện “Chữ người tử tù” mà cùng chính là biểu hiện tiêu biểu cho tính “hướng nội” trong con người mỗi chúng ta thường bắt gặp trong tác phầm của Nguyễn Tuân.

Cho đến tận cuối cùng thì niềm đam mê cái đẹp cũng đã chiến thắng. Chính cái chiến thắng đó dường như cũng chưa phải là tuyệt đối nhưng vẫn đủ biến viên quản ngục thành một con người khác hoàn toàn với bị trí mà ông có. Viên quản ngục là một người luôn mong muốn nâng niu cái đẹp nhưng lại sợ sệt. Tác giả Nguyễn Tuân đã để cho nhân vật này như đã hóa thân thành một cái gì đó vô hình, hư ảo. Chỉ với chi tiết đó vừa bộc lộ nét mạnh mẽ của “Vang bóng một thời” có một sự lãng mạn và khao khát đánh thức cái đẹp. Tất cả điều này dường như cũng lại vừa để lộ thấp thoáng điểm yếu và sự yếu đuối của Nguyễn Tuân chính trong cái nhìn hoài vọng xa xôi.

Việc viên quản ngục miễn những mánh khóe hành hạ, biệt đãi những người tử tù, rồi ông cũng lại bạo dạn xin chữ, một cách khéo léo từng chút từng chút một chứ không chèn ép, sỗ sàng. Bởi chính quản ngục còn “Biết người tài, không phải là kẻ xấu”. Mặc dù khi đã biệt đãi, đã toan tính cách xin chữ rồi mà viên quản ngục vẫn còn sợ, vẫn dặn viên thơ lại nói với Huấn Cao câu rằng: “Miễn là ngài giữ kín cho”. Qủa thực với một chi tiết nhỏ nhưng chắc là không thể thiếu được trong tác phẩm vừa thể hiện được cái tài, cái tâm của một người yêu thích các đẹp. Và khi Huấn Cao phát hiện ra thì ông rất cảm phục quản ngục, biết quản ngục là một người yêu thích nghệ thuật, cái đẹp.

Khi mà tình yêu cái đẹp đến đam mê đã đánh thức khí phách tiềm tàng nằm im suốt bao nhiêu năm của quản ngục. Huấn Cao cảm phục viên quản ngục và đồng ý cho chữ, ở trong cảnh cho chữ thì người đọc sẽ thấy được có một chi tiết đáng nhớ đó là: “Người tù viết xong một chữ viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền xèng đánh dấu ô chữ đặt lên phiến lục ông”, quản ngục cứ “khúm núm” không phải chỉ vì nịnh bợ mà là vì cảm phục. Khi mà chính sự cảm phục của quản ngục lên đến đỉnh điểm cũng là lúc kết thúc truyện với câu: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Đọc tác phẩm ta nhận thấy được đây là một nghệ thuật tài hoa, kết thúc truyện ở cao trào khiến cho tác phẩm đặc sắc và hoàn mỹ hơn.

Tóm lại theo suốt chiều dài của truyện, nhân vật quản ngục luôn luôn tồn tại với một ý nghĩa nhất định. Nhân vật quản ngục được xây dựng lên không chỉ là một hình tượng độc đáo mà đồng thời cũng còn là nhân vật hội đủ những đặc điểm chung nhất của tác phẩm “Vang bóng một thời” với quan niệm cũng như phong cách của tác giả Nguyễn Tuân. Vô cùng hào hoa, lãng mạn đồng thời cũng đã thể hiện nên được tiếng nói của thiên lương, của tinh thần dân tộc. 

Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù 67

Hình tượng nhân vật Huấn Cao hiện lên là con người vô cùng tài hoa nghệ sĩ, là người anh hùng có khí phách hiên ngang bất khuất, đồng thời cũng là con người có thiên lương trong sáng…

* Hình tượng nhân vật Huấn Cao là con người tài hoa nghệ sĩ

Hình tượng nhân vật Huấn Cao được Nguyễn Tuân tạo dựng trong hoàn cảnh của một người anh hùng thất thế. Ông đảm nhiệm vai trò là một người thủ lĩnh lãnh đạo đội quân bị cho là “phản nghịch” vì đã chống lại triều đình. Ông bị buộc tội và bị kết án tử, sau đó ông phải chịu cảnh giam cầm và chờ ngày thi hành phán quyết. Trong hoàn cảnh ngục tù ấy, Huấn Cao đã tỏ rõ chất tài hoa nghệ sĩ của mình.

Theo lời của viên quan coi ngục, trong cuộc đối thoại với thầy thơ lại, khi nhận được tin sẽ quản một tù nhân có tên là Huấn Cao, viên quan đã nhận ra ngay đó là người mà “vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Và sau khi nghe viên quản ngục nói về tài bẻ khóa và vượt ngục của Huấn Cao, thầy thơ lại cũng thắng thắn cho rằng Huấn Cao đúng là người “văn võ đều có tài”.

Thầy thơ còn bày tỏ niềm tiếc nuối rất đỗi chân thành: “giả thử tôi là đao phủ, phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy tiêng tiếc”. Có thể thấy, ngay từ khi nghe danh, cả viên quan coi ngục và thầy thơ lại đều đã thể hiện sự trân trọng với tài năng Huấn Cao vì lẽ thường, những người cai quản ngục tù như họ sẽ suy xét đến tội lỗi, án phạt của tù nhân thay vì công nhận và bận tâm đến tài năng của người đó.

Chính sự coi trọng này đã khiến người giữ ngục rất cẩn trọng khi giam giữ Huấn Cao, thậm chí còn dặn ngục tốt “quét dọn lại cái buồng trong cùng”. Cách đối xử của ông với Huấn Cao rõ ràng rất khác với những tù nhân thông thường và trong tác phẩm, đã có lúc Nguyễn Tuân đã nói lên cái sở nguyện của viên quan coi ngục là “một ngày kia được treo ở nhà riêng mình đôi câu đối do ông Huấn Cao viết”.

Ông còn hết lời ngợi ca: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm” và “có được chữ ông Huấn làm treo là có một báu vật trên đời”. Khi sở nguyện của viên quan coi ngục được Huấn Cao chấp thuận, trong cảnh Huấn Cao cho chữ, cách ông “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng” còn thầy thơ lại thì “run run bưng chậu mực” đã làm toát lên thái độ trân trọng cái đẹp của họ và cho thấy sự công nhận của họ đối với chất tài hoa nghệ sĩ của Huấn Cao.

* Phân tích nhân vật Huấn Cao là con người có khí phách hiên ngang, bất khuất

Không chỉ là một người tài hoa nghệ sĩ, Huấn Cao còn là hiện thân của một con người có khí phách hiên ngang, bất khuất và không chịu khuất phục trước uy quyền. Khí phách ấy đã được thể hiện qua sự gan góc của con người Huấn Cao trong vai trò là người đứng đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến thối nát.

Tuy nhiên bước vào nhà giam với trọng tội phản nghịch và bị kết án tử hình, người tử tù ấy vẫn giữ thái độ bình thản và ung dung. Chẳng những không tỏ ra một chút sợ sệt nào khi phải bước vào cửa ngục, ông còn thản nhiên nói với các bạn đồng chí: “Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải dỗ gông đi”.

Khi phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao, ta thấy trước lời giễu cợt của tên lính khi hắn cho là Huấn Cao và những người tù khác đang tập làm trò và dọa nạt rằng: “đứng dậy không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ”, Huấn Cao không hề e ngại mà còn tỏ thái độ cao ngạo và xem thường. Thái độ đó đã được thể hiện trong chi tiết: “Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”.

Huấn Cao cũng không hề dè chừng trước viên quản ngục khi rõ ràng trong hoàn cảnh chốn ngục tù, viên quản ngục là người đứng ở vị thế cao hơn. Khi ngục quan bày tỏ thiện ý, Huấn Cao “vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, và coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm”. Đến khi trực tiếp gặp ngục quan, dù ngục quan chỉ muốn dặn dò ông giữ kín chuyện được biệt đãi và cần gì thì cứ nói rõ để lo chu toàn hơn.

Ông đã thẳng thừng tỏ ý khinh bạc, miệt thị: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Biểu hiện đó rất phù hợp với một con người có tính cách “chọc trời quấy nước” như Huấn Cao bởi đến cảnh chết chém, ông còn không sợ thì uy quyền của viên quản ngục, ông cũng chẳng màng.

Phút thi hành án cận kề, tính cách hiên ngang nơi Huấn Cao vẫn không hề suy chuyển. Trong khi ngày mai đã lãnh án, trong khi “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” nhưng ông vẫn bình thản “dậm tô nét chữ” và còn chân thành giáo huấn ngục quan. Rõ ràng, đó là khí phách không thể lẫn vào đâu của một trang anh hùng mạnh mẽ và có tinh thần sắt đá, vững vàng chứ không hề nao núng trước án tử mà mình đang mang.

* Hình tượng nhân vật Huấn Cao với thiên lương trong sáng

Khi cảm nhận hình tượng nhân vật Huấn Cao, ta nhận thấy nổi bật hơn cả ở con người tử tù ấy là một thiên lương trong sáng. Ông không bao giờ vì tiền bạc hay uy quyền mà cho chữ, mà bán rẻ giá trị của mình, ông chỉ cho chữ những người tri kỉ. Điều đó đã được ông nói rất rõ ràng, rành mạch: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình đi viết câu đối bao giờ” hay “Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta mà thôi”.

Thế nên, khi cảm nhận được tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và sở thích cao quý của thầy Quản, Huấn Cao đã nhận về mình sự thiếu sót: “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Không chỉ có ý thức rất cao trong việc giữ gìn, quý trọng thiên lương, phẩm chất của mình, Huấn Cao còn ân cần khuyến thiện viên quản ngục với những lời rất chân tình:

“Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”.

Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao, người đọc cũng nhận thấy ông rất cảm kích việc viên quản ngục trân trọng nghệ thuật viết chữ, có lẽ Huấn Cao nghĩ rằng phải là một con người có sẵn sự nhạy cảm trong tâm hồn thì mới rung động trước cái đẹp như vậy. Do đó, Huấn Cao mong viên quản ngục tìm được một môi trường phù hợp để gìn giữ nét đẹp đó của mình:

“Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện cho chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.

Cảnh cho chữ với những lời nói của Huấn Cao là cảnh có ý nghĩa vô cùng sâu sắc vì Huấn Cao không chỉ tặng chữ, để lại cái đẹp về nghệ thuật cho đời mà còn trao truyền lí tưởng và khuyến khích sự lương thiện của con người. Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao thì mới thấy đó thật là đáng trân trọng và cần được nêu gương muôn đời.

* Nhận xét tác phẩm khi phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao

Thông qua “Chữ người tử tù”, nổi bật lên là hình tượng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã gửi gắm những quan niệm về cái đẹp, đồng thời cũng khẳng định sức mạnh và sự bất tử của cái đẹp ấy dù có ở trong hoàn cảnh tối tăm, nghiệt ngã. Tất cả những quan niệm đó của nhà văn đã được chuyển tải thành công chính là nhờ vào tài năng của tác giả trong việc xây dựng nhân vật Huấn Cao đầy tâm huyết. Cùng với đó, cách tạo dựng tình huống truyện độc đáo, vận dụng khéo léo thủ pháp đối lập tương phản và cách sử dụng ngôn ngữ mang sắc thái cổ kính tạo được không khí cổ xưa đã mang lại sức hấp dẫn và ấn tượng cho người đọc khi được tiếp cận tác phẩm này.

“… văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức” (Vũ Ngọc Phan). Có thể thấy, khi tìm hiểu hình tượng nhân vật Huấn Cao cũng như phân tích tác phẩm Chữ người tử tù, ta nhận ra một người anh hùng có thiên lương trong sáng, một tài năng khí phách mang trọn vẹn cả cái tâm và cái tài. Qua từng nét bút phác họa của Nguyễn Tuân, hình tượng nhân vật Huấn Cao hiện lên vô cùng oai phong và đĩnh đạc với những phẩm chất đáng quý.

Kết bài: Tóm lại, với “Chữ người tử tù” và nhất là thông qua cách xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của khí phách, tài hoa và thiên lương của một đấng anh hùng. Đồng thời, nhân vật này cũng chính là phương tiện giúp tác giả chuyển tải quan điểm thẩm mĩ tiến bộ, đó là: tài và tâm, cái đẹp và cái thiện lúc nào cũng cần được song hành để tạo nên ý nghĩa cho cuộc đời.

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” 68

Là một nhà văn luôn đi tìm tòi cái đẹp, Nguyễn Tuân đã dành một niềm đam mê, một tình yêu đặc biệt để viết nên những tác phẩm văn học mà ở đó có hàm chứa tất cả những điều tốt đẹp nhất trên đời. Viết hay về cả thảy những thú chơi đẹp, nhắm đẹp, uống đẹp, Nguyễn Tuân chưa bao giờ bỏ quên việc viết về nhân cách ngời sáng của con người. Người ta đã từng nhận định rằng, nếu thiếu đi “Vang bóng một thời”, cuộc đời của Nguyễn Tuân sẽ không bao giờ trọn vẹn được. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” đã góp mặt vào sự thành công của tập Vang bóng một thời. Nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm chính là điểm sáng về nhân cách con người mà Nguyễn Tuân đã đề cập đến bằng cả tài năng của mình, bằng niềm trân trọng, tác giả gửi vào đó cái đẹp nhân sinh một cách sâu sắc.

Người đọc trước hết sẽ được cảm nhận vẻ đẹp của tài mọt tài năng tài ba, siêu việt. Bằng cách diễn đạt rất tinh tế, mang đậm cái riêng của Nguyễn Tuân, nhà văn đã không để nhân vật Huấn Cao xuất hiện một cách trực tiếp, mà lại xuất hiện qua cuộc trò chuyện của thầy thơ lại và viên quản ngục. Nhưng dẫu Nguyễn Tuân có ý muốn nhân vật Huấn Cao xuất hiện qua lời kể của những người có hoàn cảnh đối nghịch thì tài năng của Huấn Cao vẫn thật xuất chúng, không hề bị bóp méo. Người xưa thường có câu “Văn kì thanh bất kiến kì hình”, Huấn Cao qua trang văn của Nguyễn Tuân xuất hiện là một con người tuyệt mỹ.

Tài năng của Huấn Cao là tài năng về thư pháp, như được nói đến ông là người “viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, khắp vùng tỉnh Sơn danh tiếng của ông không ai là không biết đến, nổi tiếng đến nỗi cả quan ngục và thầy thơ lại đều biết, khiến những người như họ không khỏi dè dặt và trầm trồ. Quả thực, tài năng của Huấn Cao có thể nói là tiếng lành đồn xa, danh bất hư truyền. Thú chơi chữ mà Huấn Cao say mê và có tài năng đó chính là một thú chơi tao nhã, thanh cao đối với tất cả các bậc cổ nhân thời bấy giờ. Đây cũng chính là một tượng trung của nét văn hóa độc đáo của dân tộc ta. Mỗi nét chữ thư pháp được viết ra đều nói lên chí khí, phẩm giá, nhân cách của người viết. Và rồi chính viên quản ngục cũng phải thốt lên “Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm, có được chữ ông treo trong nhà là một báu vật ở đời”. Trong xã hội mà đang dần bị cảm hóa bởi những văn hóa phương Tây, cái cũ không được phát huy hết, cái mới không được tiếp thu toàn diện tất cả đều chỉ nửa vời, Nguyễn Tuân chính là một nhà văn mang tâm thế bất lực với hiện tại, chính vì vậy việc ông xây dựng hình tượng Huấn Cao với một tài năng đặc biệt về một nét văn hóa cổ truyền như một thông điệp để nhà văn bày tỏ tâm trạng tiếc nuối của mình về một quá khứ vàng son của dân tộc, nay chỉ còn lại như một chiếc bóng.

Khi hình ảnh Huấn Cao được xuất hiện trực tiếp thì người đọc đã được nhìn thấy người anh hùng mang một khí phách hiên ngang, nghĩa liệt. Bên cạnh tài thư pháp được lan truyền bấy lâu, Huấn Cao còn là người có tài “bẻ khóa, vượt ngục”, Huấn Cao là nhân vật khiến cho những người cai ngục phải dè chừng, đây chính là bản chất của con người văn võ song toàn đầy nghĩa khí, dám đứng lên đấu tranh chống lại triều đình, đứng về lẽ phải, mặc dù trong mắt các triều thần ông chính là một kẻ phản nghịch. Ông chính là hiện thân của anh hùng cái thế, con người kinh bang tế thế.

Khi bị đặt vào hoàn cảnh lao tù, hình ảnh nhân vật Huấn Cao vẫn hiện lên đầy khí phách hiên ngang, ông điềm tĩnh bước vào nhà lao, ông không hề mảy may đến vương quyền trên đầu, việc đầu tiên ông thực hiện đó chính là dỗ gông: “Huấn Cao khom mình, chúc mũi gông nặng, thúc mạnh vào đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Đó chính là hình ảnh của một nam tử hán, người anh hùng ngang tàn, muốn phá ỏ ách xiềng xích thoát khỏi cảnh nô lệ.

 Những ngày bị giam trong tù ngục, chưa một lần Huấn Cao khiếp sợ, lo lắng. Thay vì chán nản, buồn rầu, lo sợ, oán hận cuộc đời thì ông lại vẫn hết sức bình tĩnh, sống một cuộc sống tù ngục với một tâm thái không khác gì lúc đời thường. Trước cường bạo, Huấn Cao vẫn luôn thể hiện khí phách ngang tàn, hiên ngang: “Ngươi hỏi ta muốn gì?” Huấn Cao đã muốn viên quản ngục đừng bao giờ bước chân đến gần ông. Lời nói dứt khoát, dõng dạc đủ cho người đọc có thể thấy được Huấn Cao đã bỏ qua hết những sợ hãi, lo âu, không bận tâm đến việc người mình đang đối đầu là ai, là người nắm giữ mạng sống của mình hay có quyền lực thế nào đi nữa. Uy quyền, thế lực áp bức cũng không thể nào làm cho con người ấy gục ngã. Dẫu ngay ngày mai thôi đã bị giải ra pháp trường và đối mặt với cái chết nhưng ông vẫn luôn vững vàng, khí chất anh hùng luôn ngút cao.

Nổi bật hơn tất cả chính là nhân cách thiên lương, trong sáng của người tử tù, một nhân cách vững lành, có sức mạnh mãnh liệt giúp cứu rỗi những tâm hồn đang bị vấy bẩn. Đó chính là phẩm chất, nhân cách của bậc đại dũng, đại trí, không bao giờ bị thay đổi, bị lung chuyển trước những áp bức phi nghĩa, những thứ phàm tục: “Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền quý mà ép mình phải viết chữ bao giờ”. Ông chính là con người luôn ý thức được thiên chức sâu sắc, phẩm giá cao quý của nghệ thuật.

Điều đáng quý hơn, Huấn Cao là người có thiên lương trong sáng, ông coi trọng phẩm chất đó của mình và luôn tôn trọng thiên lương của người khác. Điều này được thể hiện rõ nét qua cách mà  Huấn Cao đối với viên quản ngục. Khi ông chưa hiểu được tấm lòng của người quản ngục, ông luôn có thái độ coi thường, khinh bỉ, ông coi viên quản ngục là kẻ suốt đời chỉ sống bám vào thứ dơ bẩn, phi nghĩa. Nhưng khi biết được tấm lòng cao đẹp của viên quản ngục, ông lại vô cùng trân trọng và cảm mến, ông đã dãi bày với viên quản ngục rằng thiếu chút nữa ông đã không nhận ra được một tấm chân tình. Cũng chính bởi sự thấu hiểu đó mà hai con người từ đối đầu lại có thể trở thành tri kỉ.

Nhưng có lẽ nhân cách cao đẹp, tài năng khí phách của ông Huấn thể hiện với nhau tập trung nhất, rõ ràng nhất, hài hòa nhất trong cảnh cho chữ - cảnh tượng mà nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận định là: “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Màn đêm đã buông xuống, chỉ qua đêm nay thôi là người tử tù ấy sẽ bị giải về kinh chịu chém, nhưng Huấn cao vẫn đặt hết tâm huyết của mình vào ngòi bút và viết ra những chữ vuông vắn như muốn nói lên “Chí khí tung hoành của đời một con người”. Bó đuốc cháy sáng đỏ rực, mùi mực thơm phảng phất, cùng với màu trắng của tấm lụa bạch, tất cả đều xua tan đi sự tăm tối nơi tù ngục đầy tổ rệp, màng nhện, phân chuột, phân gián. Là do ánh sáng của bó đuốc hay là do ánh sáng từ tấm lòng thiên lương của Huấn Cao đã làm cho hình ảnh của người tử tù càng thêm uy nghi, ngạo nghễ. Dù cho chân vướng xiềng, cổ đeo gông, cái chết đang đến gần kề, Huấn Cao vẫn bình tĩnh “dậm tô nét chữ” với tư thế của một người nghệ sĩ tài năng, chân chính, đang làm chủ nhà lao. Bản lĩnh ý chí phi thường và sự tài hoa hoa của tài năng xuất chúng cả hai đồng hiện sáng lên trong cảnh người tử tù cho chữ.

Người tử tù Huấn cao trong khoảnh khắc thiêng liêng đó còn đóng vai trò là người hướng đạo, hướng thiện cho những kẻ còn đang mê muội. Ông đã dành lời khuyên chân thành cho người bạn tri âm của mình: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi”. Ông nói tiếp “Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời người”. Chính từ lời khuyên của Huấn Cao đã cho ta thấy được: cái thiện lương, cái đẹp không khi nào và không bao giờ có thể đặt chung cùng với cái xấu và cái ác, Huấn Cao cũng đã nói: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi nhem nhuốc mất cả cái đời lương thiện đi”, lời khuyên đầy thiện ý và chân tình ấy đã làm cho viên quản ngục xúc động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào – Kẻ mê muội xin bái lĩnh”. Cái đẹp của tâm hồn và nghệ thuật đã phá bỏ đi khoảng cách và ranh giới giữa hai con người đó.

Vẫn là cái riêng rất Nguyễn Tuân, tài hoa và uyên bác, trong cả cách biểu hiện lẫn tư tưởng. Nhà văn đã thành công khi xây dựng nhân vật Huấn Cao rất độc đáo, và đặc biệt là ở tình huống truyện lạ lẫm, đặc sắc. Từ hai người đối lập trong cả địa vị và hoàn cảnh, sau đó lại hài hòa, thống nhất, cùng nhau tỏa sáng. Với nghệ thuật kể chuyện tài tình, từ các tình tiết, lời độc thoại, lời đối thoại giữa hai nhân vật là đều làm nổi bật tính cách nhân vật một cách sâu sắc. Nguyễn Tuân đã vận dụng linh hoạt một loạt các từ Hán Việt (Nhất sinh, pháp trường, tử tù, thiên lương, lạc khoản, thiên hạ...) tạo nên một nét đặc trưng của lịch sử, bi tráng, cổ kính. Điều này càng thể hiện Nguyễn Tuân chính là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ, rất am hiểu về xã hội, về lịch sử.

Em hãy phân tích “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân 69

Nguyễn Tuân được biết đến là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến nhà văn tài hoa Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân dường như đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ (Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác tuyệt đó thì không thể không nhắc đến là tác phẩm Chữ người tử tù. Nối bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.

Huấn Cao được xây dựng lên là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều đã biết văn học lãng mạn thường được mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà văn thường thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Huấn Cao là thế. Từ đầu đến cuối, ông hiện ra như một con người phi thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.

Là nhân vật tài hoa nghệ sĩ, phẩm chất đầu tiên của Huấn Cao là tài hoa. Thiên truyện đã được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thơ lại. Ở đây tuynhân vật  Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài dường như đã được tô đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó chính là nghệ thuật thư pháp – một bộ môn nghệ thuật truyền thống và cao siêu của dân tộc. Ở đây có thể nói chính sự gửi gắm, kí thác toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Bởi thế mà dường như mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ như chính là một hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Có thể nói nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà nếu như có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của viên quản ngục. Để có được chữ của người tử tù Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình. Nhưng trái lại Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa hơn, ông còn có một tấm lòng – đó là tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người.

Một nhà văn nước ngoài đã có những nhận xét qua câu nói về chân lí sâu xa là “Hãy đập vào trái tim mình thiên tài là ở đó”. Thì ra không đâu khác cái gốc của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Dường như tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của nhân cách Huấn Cao. Trong con mắt của người tử tù Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường không làm nghề thất đức. Bởi lí Huấn Cao đã như thể hiện sự khinh bỉ không cần giấu giếm, đến khi nhận ra viên ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật điều hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao rất ân hận. Bằng tất cả sự nhạt bén, sự xúc động, Huấn Cao đã nói ra câu “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi… Thiếu chút nữa ta phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Qua đây ta có thể thấy câu nói ấy đã hé mở cho chúng ta thấy phương châm của một nhân cách sống là phải xứng đáng với những tấm lòng.

Với một cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những hình tượng sao cho hoàn hảo thậm chí đến mức phi thường. Nhân vật Huấn Cao cũng thế mà thôi, nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng này trở thành một con người siêu phàm với việc tô đậm một khí phách siêu việt. Huấn Cao là người luôn luôn căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp không thành, ông lĩnh án tử hình. Nhưng sống trong cảnh  tù đày, gông cùm và cái chết cùng không khuất lạc được ông. Ông dường như luôn luôn tìm thấy ở những nơi mà tự do bị tước bỏ. Đối với nhân vật Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa mà thôi. Và khi quản ngục hỏi ông muốn gì để giúp, thì ông đã trả lời bằng một sự khinh bạc đến điều… Và chính những lời nói của ông có thể là nguyên cớ để ông phải rước lấy những trận trả đũa. Nhưng một khi đã nói được ra thì có nghĩa là ông không hề run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể thấy được ở Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một khí phách kiên cường bất khuất, uy vũ bất năng khuất.

Dường như những phẩm chất tuyệt vời đó của Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng cuối cùng mà Nguyễn Tuân đã gọi là ‘cảnh tượng xưa nay chưa từng có” – cảnh cho chữ. Có thể nói cảnh cho chữ là sự biểu hiện sống động rực rỡ của tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn Cao.

Và nếu như muốn hiểu được giá trị sâu sắc của cảnh cho chữ cho chúng ta không thể không nói tới quá trình dẫn đến cảnh cho chữ ấy. Người tinh ý thì thật sẽ dễ nhận thấy rằng câu chuyện có hai phần rõ rệt. Nếu như ở phần đầu giới thiệu các nhân vật và dẫn dắt câu chuyện chuẩn bị cho phần sau. Còn phần sau khắc họa cảnh cho chữ. Nếu như không có phần hai thì ta sẽ thấy phần đầu chỉ là những mẩu vụn vặt, thiếu sức sống. Có lẽ chính bởi thế phần hai tuy ngắn nhưng lại là kết tinh của toàn bộ câu chuyện. Và dường như bút lực của Nguyễn Tuân càng dồn vào phần này đậm nhất. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh một tình huống đặc biệt. Đó cũng chính là cuộc gặp hết sức éo le của Huấn Cao và quản ngục – Nơi gặp gỡ là nhà tù, thời gian là những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao. Những điều này dường như đã làm cho tình thế trở nên ngặt nghèo, bức xúc, khó xoay sở. Nhưng oái ăm hơn cả đó vẫn chính là thân phận của hai nhân vật, về bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch. Một người là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại thể chế đương thời,đối lập lại người kia lại là một viên quan đại diện cho chính thể ấy. Nhưng về bình diện nghệ thuật, họ lại là hai người tri âm vớinh au. Đó là một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại vô cùng ngưỡng mộ cái tài đó. Sự trái ngược nhau đến hoàn toàn này đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc là muốn làm tròn bổn phận cua một viên quan thi phải chà đạp lên tấm lòng tri kỉ hoặc muốn trọn đạo tri kỉ phải phản bội lại chức phận của một viên quan. Và chúng ta đềi có thắc mắc quản ngục sẽ hành độn như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thì tư tưởng tác phẩm sẽ nghiêng về hướng đó.

Với một sự tương quan khác xa nhau như vậy, quan hệ giữa họ ban đầu rất căng thẳng. Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của ông Huấn Cao nhưng đây là cơ hội cuối cùng. Còn nhân vật Huấn Cao tuy có tài viết chữ thật đó nhưng lại chỉ cho chữ những ai ông cho là tri kỉ. Và vậy muốn có chữ của Huấn Cao thì quản ngục phải được ông thừa nhận là tri kỉ trong vòng mấy ngày tới. Điều đó lại dường như không thể đạt được. Dường như trong con mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là kẻ tiểu nhân, giữa họ là một vực sâu ngăn cách. Thực ra quản ngục cũng có những ưu thế để đối xử với những người tù thông thường. Đó là ông ta có thừa quyền lực và tiền bạc. Nhưng Huấn Cao không phải hạng tiểu nhân cho nên dù cho quyền lực không ép được ông cho chữ, tiền bạc không mua được chữ ông. May thay ở viên quản ngục lại có một tấm lòng trong trẻo, khác với những gì mà Huấn Cao nghĩ – tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Và chính tấm lòng biệt nhỡn này đã khiến cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao là cội nguồn dẫn đến cảnh cho chữ.

Chính vì vậy là việc Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm thường, không giống việc một kẻ sắp bị tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng mà để Huấn Cao trình diễn tài năng, về bản chất việc cho chữ là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng.

Và có thể nói cảnh cho chữ được tác giả Nguyễn Tuân gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có. Bởi trước hết lẽ ra nó phải diễn ra ở nơi sang trọng, đàng hoàng thì nó lại diễn ra trong căn buồng giam chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu. Và người đem cho cái đẹp lẽ ra phải thuộc thế giới tự do thì ở đây lại là tử tù sắp bị hành hình. Đặc biệt ở đây đã diễn ra một sự đổi ngôi cũng được xem là xưa nay chưa từng có. Dường như kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng bị mất hết quyền sống là ông Huấn Cao trở nên đầy quyền uy khi chăm chú tô đậm những nét chữ và cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như một bậc thánh nhân “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cảnh cho chữ lã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, thiên lương trước cái xấu, cái ác. Trong căn phòng giam ẩm tháp đó, dường như ánh sáng rực rờ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột, phân gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này có thể nói cái đẹp đang lên ngôi, cái đẹp đang đăng quang, chiến thắng hoàn toàn cái xấu. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẵn dắt quản ngục – một kẻ nhầm đường, lạc lối. Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.

Chính với bút pháp nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân dường như đã làm nổi bật hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Đồng thời nhà văn còn sử dụng hệ thống ngôn ngữ cổ: biệt nhỡn liên tài, thiên lương, bái lĩnh, sở nguyện… mang lại cho truyện bầu không khí và nhịp điệu của thời phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của một thời vang bóng.

Phân tích Tình huống truyện Chữ Người Tử Tù của Nguyễn Tuân 70

Giữa những bộn bề phồn tạp của buổi chợ phiên văn chương, giữa những náo nhiệt, đông đúc của gian hàng lãng mạn. Nguyễn Tuân được nhận ra là một chủ cửa hàng khá đặc biệt với chất ngông đầy mới mẻ, cá tính, độc đáo cùng những tình huống truyện kịch tính, éo le Nguyễn Tuân đã đưa người đọc phiêu du vào cuộc hành trình đi tìm cái đẹp ở một thời vang bóng tiêu biểu cho cuộc hành trình gian truân vất vả đó là tác phẩm Chữ Người Tử Tù đặc biệt thông qua những tình huống truyện đầy cá tính sáng tạo mang đậm dấu ấn Nguyễn Tuân nhà văn đã cho người đọc thấy rõ được quan điểm nghệ thuật của mình.

Quả không sai khi nói rằng sản phẩm văn học chỉ được khai sinh khi nó là kết quả nhào nặn từ đời sống. Nếu sáng tác của văn học chỉ hoàn toàn là sản phẩm của hư cấu và tưởng tượng mà không mang hơi thở đời sống thì sẽ không truyền được cảm xúc đến với bạn đọc, văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời. Mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo và ông đã khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đồng thời tìm ra cho mình một phong cách hoàn toàn khác so với những nhà văn cùng thời. Ông luôn khao khát đi tìm cái đẹp với một niềm tin bất diệt, cái đẹp bao giờ cũng có sức cảm hóa đối với cái xấu và cái ác. Đọc “Chữ Người Tử Tù” ta sẽ thấy rõ được điều đó, đây là một trong những 11 truyện ngắn in trong tập “vang bóng một thời” lúc đầu tác phẩm có tên “dòng chữ cuối cùng” in trên tạp chí Tao Đàn xuất bản năm 1938, sau đó đổi thành “Chữ Người Tử Tù” in trong tập “vang bóng một thời” xuất bản năm 1940

Tình huống truyện là những lát cắt mà thông qua đó tính cách nhân vật, mối liên hệ của các nhân vật được thể hiện rõ nét. Vốn là một nhà văn có chất ngông độc đáo, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên những tình huống kịch tính, đầy éo le, đẩy nhân vật vào những khoảng thời gian, không gian, những hành động khó xử thông qua những tình huống như vậy các nhân vật của ông có cơ hội được thể hiện tính cách vốn có một cách tự nhiên nhất.

Có người từng nói “tình huống truyện là thứ nước lửa ảnh giúp các nhân vật được nổi hình, nổi sắc”. Cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và viện quản ngục là một tình huống như thế, thông qua cuộc gặp gỡ này nét đẹp tài hoa, hiên ngang của Huấn Cao và vẻ đẹp biệt nhỡn hiền tài của viên quản ngục được Nguyễn Tuân thể hiện tài tình, tinh tế. Có thể nói rằng đây là một tình huống truyện đầy éo le, bởi đó là sự đối lập giữa một bên là kẻ phản nghịch dám đứng lên chống lại triều đình, một bên lại là viên quản ngục người đại diện cho quyền uy. Xét trên phương diện xã hội họ hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng về phương diện nghệ thuật thì họ lại là tri ân, tri kỷ, bởi Huấn Cao là người nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp, còn viên quản ngục lại là người say mê cái đẹp. Chính cuộc gặp gỡ này đã vẽ nên trước mắt người đọc một huấn cao tài hoa, anh dũng không chịu cúi đầu trước vàng bạc, quyền thế để ép mình viết câu đối bao giờ. Dù không được tận mắt chứng kiến những nét chữ của Huấn Cao, nhưng qua sự ngưỡng mộ của nhân dân viên quản ngục ta có thể hình dung ra được dưới đôi bàn tay tài hoa của Huấn Cao là những nét chữ vuông vắn, tươi tắn như rồng múa, phượng bay.

Những nét chữ ấy là những hoài bão tung hoành của cả một đời người, cùng với Huấn Cao, viên quản ngục lại là người biết trọng người ngay ông dám biệt đãi Huấn Cao, đứng trước thái độ hiên ngang, bất khuất của Huấn Cao viên quản ngục chỉ biết cúi đầu lí nhí, bởi ý thức được mình chỉ là một tên giữ tủ.

Đặc biệt qua hình tình huống cho chữ ở cuối truyện, nét đẹp của cả hai nhân vật một lần nữa được tôn vinh. Đã có ý kiến cho rằng, cảnh cho chữ ở cuối truyện là cảnh tượng xưa nay chưa từng có, bởi đây là cảnh tượng rất hiếm gặp ở đời. Khi đêm đã khuya trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vọng lại tiếng mõ trên vọng canh, tại một buồng giam chật hẹp tường đầy mạng nhện, mặt đất đầy phân chuột, diễn ra cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có. Người cho chữ là kẻ đeo gông, chân vướng xiềng, còn người nhận chữ là viên quản ngục đang run run khúm núm, đang cắt từng đồng kẽm đánh dấu ô. Trong lúc cận kề cái chết Huấn Cao đã cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật, đó không phải là sự quỵ lụy, đê hèn, cúi đầu trước quyền thế của Huấn Cao, mà đó chính là sự đền đáp của huấn cao đối với một tấm lòng trong thiên hạ. Cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục “thay đổi trốn ở để giữ thiên lương cho lành, vững, viên quản ngục xúc động, kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Hành động này của viên quản ngục không hề hạ thấp đi vẻ đẹp của ông, ngược lại càng đề cao nhân cách của ông. Một lần nữa khẳng định viên quản ngục là một thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn xô bồ, lệch nhịp. Tình huống cho chữ ở cuối truyện đã thắp sáng cả thiên truyện “Chữ Người Tử Tù” và thể hiện niềm tin bất diệt của Nguyễn Tuân cái tài, cái đẹp, cái thiện lương bao giờ cũng chiến thắng cái xấu, cái ác và có sức cảm hóa con người đến với sự thiên lương.

Với nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, ngôn từ sắc sảo, góc cạnh, câu văn giàu hình ảnh, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và viện quản ngục cùng cảnh cho chữ để khẳng định sức mạnh cảm hóa của con người, của cái tài, cái đẹp.

Tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn còn đó những nét chữ vuông vắn, tươi tắn của Huấn Cao, hội tụ tài hoa thiên lương trong sáng. Thông qua những tình huống truyện kịch tính, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao và viên quản ngục. Có lẽ đây là lý do để “Chữ Người Tử Tù” trở thành mốc son chói lọi trên nền vàng úa của vang bóng một thời.